TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ -------***------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Sinh viên thực hiện : Vũ Thị Nhƣ Quỳnh Lớp : Anh 3 Khoá : 45 Giáo viên hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung Hà Nội, Tháng 5 Năm 2010
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
-------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Sinh viên thực hiện : Vũ Thị Nhƣ Quỳnh
Lớp : Anh 3
Khoá : 45
Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Hà Nội, Tháng 5 Năm 2010
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ………………………………………………………………………
Chương 1: Tổng quan về kinh tế tư nhân……………………………………
1.1. Một số vấn đề lý luận về kinh tế tư nhân……………………………..
1.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân…………………………………………….
1.1.1.1. Sở hữu tư nhân…………………………………………………….
1.1.1.2. Kinh tế tư nhân…………………………………………………….
1.1.2. Tính tất yếu khách quan và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam
về sự tồn tại, phát triển kinh tế tư nhân……………………………….
1.1.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư
nhân………………………………………………………………..
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát triển của kinh
tế tư nhân…………………………………………………………..
1.1.3. Đặc điểm và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay……………………………..
1.1.3.1. Đặc điểm của kinh tế tư nhân……………………………………...
1.1.3.2. Vai trò của kinh tế tư nhân………………………………………...
1.1.4. Điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân……………………………….
1.1.4.1. Kinh tế tư nhân phải được tự do phát triển………………………..
1.1.4.2. Nhà nước tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho thành phần
kinh tế tư nhân phát triển…………………………………………..
1.1.4.3. Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân…………………..
1.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của các nước trong khu vực
1
4
4
4
4
5
8
8
10
11
11
11
12
12
12
14
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam………………………………..
1.2.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản…………………………………………...
1.2.2. Kinh nghiệm của Singapore…………………………………………..
1.2.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc………………………………………...
1.2.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam…………………………………..
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay……..
2.1. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân qua các thời kỳ……….
2.1.1. Giai đoạn trước đổi mới năm 1986……………………………………
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1986 – 1999………………………………………..
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2000 – nay…………………………………………
2.1.3.1. Số lượng doanh nghiệp…………………………………………….
2.1.3.2. Quy mô vốn………………………………………………………..
2.1.3.3. Cơ cấu theo ngành, địa bàn………………………………………..
2.2. Đánh giá về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam…..
2.2.1. Thành tựu……………………………………………………………...
2.2.1.1. Đóng góp vào GDP ngày càng lớn………………………………...
2.2.1.2. Tạo nguồn bổ sung vào ngân sách nhà nước………………………
2.2.1.3. Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động……………………..
2.2.1.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu…
2.2.1.5. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh…………………………….
2.2.2. Hạn chế………………………………………………………………..
2.2.2.1. Về nguồn vốn……………………………………………………...
2.2.2.2. Chất lượng lao động thấp………………………………………….
2.2.2.3. Thiếu các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực kinh tế quan
15
15
17
20
23
26
26
26
28
31
31
36
39
44
44
44
45
48
51
52
54
54
56
trọng………………………………………………………………..
2.2.2.4. Khả năng tiếp cận thị trường yếu………………………………….
2.2.2.5. Hiệu quả kinh doanh nhìn chung còn thấp………………………...
2.2.3. Những nguyên nhân hạn chế sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở
Việt Nam……………………………………………………………...
2.2.3.1. Về nhận thức chung………………………………………………..
2.2.3.2. Về cơ chế chính sách của nhà nước……………………………….
2.2.3.2.1. Trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực…………………...
2.2.3.2.2. Thiếu sự hỗ trợ từ phía nhà nước………………………………….
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay………………………………………………………………………
3.1. Dự báo xu hướng phát triển kinh tế tư nhân…………………………..
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay……………………………………………………………….
3.2.1. Đổi mới nhận thức, hoàn thiện môi trường pháp lý đối với kinh tế tư
nhân…………………………………………………………………..
3.2.2. Giải quyết những khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh
doanh đối với kinh tế tư nhân…………………………………………
3.2.3. Đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn đầu tư, tín dụng đối với kinh
tế tư nhân……………………………………………………………...
3.2.4. Hoàn thiện chính sách thuế đối với kinh tế tư nhân ………………….
3.2.5. Tăng cường công tác hỗ trợ thông tin và xúc tiến thương mại đối với
kinh tế tư nhân………………………………………………………...
3.2.6. Thúc đẩy, hỗ trợ kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế……………
59
60
60
62
62
65
65
68
70
70
74
74
76
77
80
82
84
3.2.7. Phát huy nội lực của kinh tế tư nhân………………………………….
Kết luận………………………………………………………………………
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………...
87
91
92
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
1. DANH MỤC BẢNG
- Bảng 1: Tốc độ tăng các loại hình doanh nghiệp tư nhân từ năm 1994 –
1998
- Bảng 2: Đóng góp GDP của khu vực kinh tế tư nhân
- Bảng 3: Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời
điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp
- Bảng 4: Tổng vốn đăng ký và vốn đăng ký bình quân của doanh nghiệp
- Bảng 5: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh
nghiệp phân theo địa phương
- Bảng 6: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo thành phần
kinh tế
- Bảng 7: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo
giá thực tế
- Bảng 8: Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm
phân theo vùng kinh tế
- Bảng 9: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành phần
kinh tế
- Bảng 10: Doanh thu thuần của doanh nghiệp phân theo loại hình doanh
nghiệp
- Bảng 11: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp hàng năm phân theo
loại hình doanh nghiệp
- Bảng 12: Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam
2. DANH MỤC BIỂU ĐỒ
- Biểu đồ 1: Số lượng doanh nghiệp đăng ký hàng năm
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu
cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế tư nhân là một bộ phận trong
cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị coi là đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa, vì vậy
phải nằm trong diện cải tạo xóa bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như
vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của kinh tế tư nhân đã góp phần không
nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ
trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích sự
phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Trong
bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế, xây dựng một
nền kinh tế nhiều thành phần, còn kinh tế tư nhân như một động lực phát triển cơ
bản là một bước đi hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa qua, mặc dù đã có
bước phát triển tốt, kinh tế tư nhân Việt Nam vẫn chưa thực sự có được một vai
trò tương xứng với tiềm năng của nó. Đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt
Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp” đã được chọn và triển khai trong bối
cảnh đó.
2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận
- Xây dựng khung lý luận của khóa luận bao gồm: làm rõ các vấn đề về
kinh tế tư nhân (khái niệm, đặc điểm, vai trò…)
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
2
- Dự báo xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân và đề xuất một số giải
pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tình hình, xu hướng và một số giải pháp chủ yếu
phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
- Thời gian: sau khi đất nước thực hiện chính sách đổi mới (năm 1986) đến
thời điểm hiện nay (nửa đầu năm 2010).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp logic kết hợp duy vật lịch sử, phương pháp dự báo,
phương pháp so sánh đối chiếu. Bên cạnh đó chú trọng sử dụng phương pháp
thống kê nhằm phân tích số liệu thông qua các bảng số liệu…
5. Tên và kết cấu của khóa luận
- Tên khóa luận: Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay - thực trạng
và giải pháp.
- Kết cấu của khóa luận: Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục các
bảng và biểu đồ thì nội dung khóa luận tốt nghiệp được kết cấu thành 3
chương:
Chương 1: Tổng quan về kinh tế tư nhân
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay
Do khả năng và điều kiện còn hạn chế về mặt thời gian cũng như trình độ
của người viết nên bài khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Người viết rất mong nhận được những đóng góp quý báu của thầy cô và bạn bè
có quan tâm đến vấn đề này để bài viết được hoàn thiện hơn.
3
Nhân đây người viết xin bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả các thầy cô vì
những chỉ bảo giúp đỡ trong suốt những năm tháng học đại học và nhất là cô
giáo, ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung – người đã giúp đỡ, chỉ bảo hướng dẫn tận
tình trong suốt quá trình người viết thực hiện khoá luận tốt nghiệp này.
4
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TƢ NHÂN
1.3. Một số vấn đề lý luận về kinh tế tƣ nhân
1.3.1. Khái niệm kinh tế tư nhân
1.3.1.1. Sở hữu tư nhân
Thuật ngữ “kinh tế tư nhân” luôn gắn liền với vấn đề sở hữu. Vì vậy,
muốn tìm hiểu về thuật ngữ này, trước hết cần tìm hiểu về sở hữu mà đặc biệt là
sở hữu tư nhân.
Sở hữu là một phạm trù kinh tế vừa có tính chất xuất phát điểm vừa có bản
chất của kinh tế chính trị học. Nếu chiếm hữu là hoạt động có tính tự nhiên của
con người nhằm khai phá và chinh phục thiên nhiên để tạo ra của cải, thì sở hữu
là hình thức xã hội của chiếm hữu. Có thể hiểu phạm trù sở hữu qua cách diễn
đạt sau:
Sở hữu là quan hệ giữa người và người trong việc chiếm hữu của cải, sự
phát triển của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất
quy định. Nội dung của sở hữu luôn được xét trên hai mối quan hệ: quan hệ giữa
chủ sở hữu và đối tượng sở hữu và quan hệ người với người trong quá trình sản
xuất.
Về mối quan hệ thứ nhất, chủ thể sở hữu chủ yếu tồn tại trên hai loại hình:
một cá nhân (tư hữu) hoặc nhiều người (công hữu); còn đối tượng sở hữu bao
gồm những sản phẩm vật chất, phi vật chất, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng…
trong đó sở hữu tư liệu sản xuất là có ý nghĩa hơn cả. Mối quan hệ này được thể
hiện thông qua quyền lực của chủ thể đối với đối tượng sở hữu và được luật hóa
thành quyền sở hữu. Ở đây chủ sở hữu thường phải có các quyền căn bản như:
5
quyền sử dụng, quyền hưởng lợi, quyền định đoạt, quyền thừa kế… những mối
quan hệ này cũng chính là nội dung pháp lý của vấn đề sở hữu.
Về mối quan hệ thứ hai, đó là mối quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn
người trong hệ thống sản xuất xã hội. Mối quan hệ này khẳng định đối tượng sở
hữu, đặc biệt là tư liệu sản xuất, thuộc về ai, từ mối quan hệ đó quy định các hình
thức phân phối và quản lý tài sản, sản phẩm, thu nhập, giá trị giữa họ, mối quan
hệ này được biểu hiện thành nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu.
Theo điều 211 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 thì sở hữu tư nhân là sở hữu
cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm: sở hữu cá
thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân. Theo khái niệm trên thì sở hữu tư
nhân được hiểu là: sở hữu các tư liệu tiêu dùng cá nhân thường được coi là sở
hữu cá nhân và sở hữu tư liệu sản xuất thường được hiểu là sở hữu tư nhân.
Như vậy, sở hữu tư nhân là quan hệ sở hữu xác nhận quyền hợp pháp của
tư nhân trong việc chiếm hữu, quyết định cách thức tổ chức sản xuất – kinh
doanh, chi phối và hưởng lợi từ kết quả của quá trình sản xuất – kinh doanh đó.
Sở hữu tư nhân về quá trình sản xuất là cơ sở ra đời kinh tế tư nhân.
1.3.1.2. Kinh tế tư nhân
Trên thực tế, tùy thuộc vào cách tiếp cận mà có những cách hiểu dẫn đến
những khái niệm khác nhau về kinh tế tư nhân.
Ở các nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới hiện nay, mọi hoạt
động không thuộc khu vực công đều được coi là khu vực kinh tế tư nhân.
Ở một số nước khái niệm về khu vực kinh tế tư nhân cũng rất phức tạp.
Như ở Trung Quốc, khu vực tư nhân cùng lúc được hiểu là:
- Khu vực phi Nhà nước: bao gồm tất cả các đối tượng không thuộc sở hữu
Nhà nước, cả trong công nghiệp lẫn nông nghiệp.
6
- Khu vực phi Nhà nước, phi nông nghiệp: gồm các đối tượng không thuộc
sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ lĩnh vực nông nghiệp.
- Khu vực tư nhân: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước
nhưng loại trừ các doanh nghiệp tập thể.
- Khu vực tư nhân trong nước: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu
Nhà nước nhưng loại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Doanh nghiệp tư nhân: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà
nước nhưng loại trừ các hộ kinh doanh cá thể (có ít hơn 8 công nhân).
Trong những trường hợp cụ thể khi sử dụng những khái niệm trên, số liệu
thống kê thường chênh lệch nhau rất lớn. Và cho tới ngày nay tại Trung Quốc
vẫn có sự phân biệt hộ cá thể và doanh nghiệp tư nhân với ranh giới được ấn
định là 8 công nhân.
Ở Việt Nam cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế tư nhân:
- Theo nghĩa rộng, khu vực kinh tế tư nhân là khu vực dân doanh bao gồm
các doanh nghiệp của tư nhân trong nước, kể cả các hợp tác xã nông
nghiệp, các doanh nghiệp phi nông nghiệp và các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn. Cách hiểu
trên sẽ đánh giá tương đối chính xác tiềm năng của khu vực kinh tế tư
nhân, tuy nhiên thường gặp khó khăn trong thống kê, khi không phân biệt
được phần vốn góp của Nhà nước trong các liên doanh cũng như các công
ty cổ phần mà Nhà nước góp vốn.
- Theo nghĩa hẹp: khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh, nhưng không bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (số liệu
thông kê thường theo cách phân loại này khi phân chia nền kinh tế thành 3
khu vực: kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài).
7
Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng kinh tế tư nhân là kinh tế ngoài quốc
doanh nhưng không bao gồm kinh tế tập thể.
Từ những cách hiểu trên ta có thể đi đến một nhận thức về kinh tế tư nhân
như sau: kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động
dước hình thức hộ kinh doanh các thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân.
Các loại hình kinh doanh của kinh tế tư nhân đều có điểm chung là dựa
trên sở hữu tư nhân, nhưng có sự khác nhau về trình độ sản xuất kinh doanh.
Theo quan điểm hiện hành ở nước ta, kinh tế tư nhân có hai loại hình như sau:
- Một là, kinh tế cá thể, tiểu chủ: bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt động
trên cở sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, với quy mô nhỏ hơn các loại
hình doanh nghiệp của tư nhân, chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình,
là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về
kết quả tài chính của mình.
- Hai là, kinh tế tư bản tư nhân gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên cơ
sở tư hữu về tư liệu sản xuất với quy mô lớn hơn cá thể, tiểu chủ, có thuê
mướn lao động. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các loại hình doanh
nghiệp như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, công ty hợp danh.
Trên thực tế, việc phân định ranh giới giữa kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện nay là không đơn giản, bởi sự vận động biến đổi
và phát triển không ngừng của chúng. Theo Luật Doanh nghiệp 2005, các loại
hình doanh nghiệp được quy định như sau:
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp.
8
- Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó thành viên chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia nhỏ thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, cổ đông góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên hợp
danh. Ngoài hai thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành
viên hợp danh là cá nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công
ty.
1.3.2. Tính tất yếu khách quan và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
sự tồn tại, phát triển kinh tế tư nhân
1.3.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân
Sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, là một tất
yếu khách quan, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan; xuất phát từ những
luận cứ sau đây:
- Một là: Do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện nay trình
độ lực lượng sản xuất còn lạc hậu, kém phát triển, không đồng đều giữa
các ngành, các vùng trong nội bộ từng vùng. Vì vậy, không thể ngay từ
đầu xây dựng được một kiểu quan hệ sản xuất thống trị, thuần nhất trên cơ
sở công hữu. Do đó, việc duy trì một hệ thống sở hữu đa dạng trong đó có
sở hữu tư nhân để từ đó hình thành kinh tế tư nhân là một tất yếu, phù hợp
9
với quy luật kinh tế khách quan, với trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta
hiện nay.
- Hai là: Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay là có sự
đan xen tồn tại giữa các thành phần kinh tế cũ và mới. Các thành phần
kinh tế do xã hội cũ để lại như kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, các
thành phần kinh tế này vẫn có những vai trò quan trọng để phát triển kinh
tế, có lợi cho đất nước trong giải quyết việc làm, tăng sản phẩm, huy động
các nguồn vốn… Và một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá
trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế tập thể, kinh tế nhà
nước, kinh tế tư bản nhà nước.
- Ba là: Thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa cho thấy: kinh tế thị trường sẽ và chỉ phát triển lành
mạnh trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội, thừa nhận và tạo
điều kiện môi tường phát triển kinh tế tư nhân, qua đó tạo ra khả năng to
lớn trong việc huy động tiềm lực vật chất và tinh thần cho phát triển kinh
tế. Các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân sẽ cung cấp ngày
càng nhiều các sản phẩm phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã,
nâng cao về chất lượng, giá cả phù hợp với khả năng người tiêu dùng, tạo
động lực cho các doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm đối với sản phẩm
của mình khi đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Bốn là: Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường gắn với bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, kinh tế tư nhân là lực lượng quan trọng góp phần
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại. Phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, đồng thời khắc phục tình
10
trạng độc quyền trong một số ngành, lĩnh vực chỉ có kinh tế nhà nước
tham gia, có lợi cho công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
1.3.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát triển của kinh tế tư
nhân
Trong các Văn kiện của Đảng, việc xác định các thành phần kinh tế trong
nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi, trong đó thành phần kinh tế tư nhân
từ chỗ bị phủ nhận đã được thừa nhận là một thành phần kinh tế tồn tại song
song với nhiều thành phần kinh tế khác. Hơn nữa, hiện nay kinh tế tư nhân được
khẳng định là có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Đại hội VI và VII của Đảng
khẳng định các thành phần kinh tế của Việt Nam bao gồm: kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân; trong đó kinh tế tư nhân được
coi là: “sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các
tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động” và được phát triển chủ yếu
trong “lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước” (trích văn
kiện Đại hội VI). Đại hội VIII của Đảng xác định: các thành phần kinh tế của
Việt Nam gồm kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh
tế các thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX xác định: các thành phần
kinh tế của Việt Nam gồm kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, và kinh tế có vồn đầu tư
nước ngoài. Sự khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển được thể hiện khá rõ
trong Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ V khóa IX: “kinh tế tư nhân là một
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng
cao năng lực đất nước trong hội nhập quốc tế” (trích văn kiện hội nghị Trung
11
ương V khóa IX). Như vậy cho đến nay, về mặt quan điểm, Đảng và Chính phủ
Việt Nam đã khẳng định sự có mặt của khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là một
sự tồn tại khách quan mà còn là sự cần thiết để huy động mọi nguồn lực cho sự
phát triển, đi đúng hướng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước
ta.
1.3.3. Đặc điểm và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
1.3.3.1. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
- Quy mô và hình thức sở hữu đa dạng;
- Bộ máy và đội ngũ quản lý gọn nhẹ, hiệu quả và năng động. Hoạt động
của bộ máy gắn chặt với những biến động cung – cầu trên thị trường,
trước áp lực của cạnh tranh, họ buộc phải tính toán tìm ra cách sử dụng
một cách có hiệu quả yếu tố đầu vào;
- Sử dụng lao động và công nghệ rất linh hoạt và hiệu quả;
- Lĩnh vực đầu tư thường tập trung vào khu vực thương mại và dịch vụ;
- Mục đích kinh doanh là rõ ràng với tôn chỉ bất biến: tối đa hóa lợi nhuận;
- Phương thức huy động vốn của kinh tế tư nhân cũng rất linh hoạt, nguồn
vốn đa dạng.
1.3.3.2. Vai trò của kinh tế tư nhân
- Đóng góp vào thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
- Đóng góp ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển;
- Đóng góp đáng kể vào nguồn thu Ngân sách Nhà nước;
- Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc
đẩy dân chủ hóa đời sống kinh tế;
12
- Giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và đào tạo nguồn nhân
lực mới cho thị trường lao động;
- Góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3.4. Điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân
Trước hết đó là những vấn đề liên quan đến môi trường kinh doanh. Kinh
tế tư nhân chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có môi trường kinh doanh thích
hợp. Môi trường kinh doanh của kinh tế tư nhân là nền kinh tế thị trường. Vì
vậy, tạo môi trường thực sự cho kinh tế tư nhân phát triển cũng đồng nghĩa với
phát triển kinh tế thị trường. Cụ thể:
1.3.4.1. Kinh tế tư nhân phải được tự do phát triển
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có điều kiện để
phát huy tính năng động, độc lập tự chịu trách nhiệm và có khả năng khai thác
tối đa mọi nguồn lực trong nền kinh tế. Một môi trường kinh doanh không đảm
bảo tự do cho doanh nghiệp sẽ là môi trường méo mó, biến dạng, dễ nảy sinh
tiêu cực, bất công. Một thực tế khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay là những
doanh nghiệp nào có quan hệ cá nhân thân mật với cơ quan quản lý nhà nước thì
làm ăn thuận lợi. Trái lại, những doanh nghiệp chỉ biết làm ăn chân chính, theo
đúng luật lại thường gặp khó khăn, bị kìm hãm, rất khó hoạt động. Như vậy, nhà
nước cần tạo điều kiện cho tất cả các doanh nghiệp có thể tham gia vào hoạt
động sản xuất - kinh doanh một cách bình đẳng. Đây thực chất là tạo cơ chế tự
do nhập ngành của các nhà cung ứng hàng hoá. Sự bình đẳng cho các chủ thể
tham gia thị trường sẽ góp phần loại bỏ được những ưu thế giả tạo cho các chủ
thể khác.
1.3.4.2. Nhà nước tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho thành phần kinh
tế tư nhân phát triển
Cạnh tranh lành mạnh thể hiện:
13
Thứ nhất, cạnh tranh không loại trừ hợp tác, cạnh tranh tạo điều kiện hợp
tác. Cạnh tranh là cơ chế để doanh nghiệp tồn tại được trong cơ chế thị trường.
Hợp tác là để cho hệ thống doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường mạnh hơn.
Thứ hai, kết quả cạnh tranh là sự thắng lợi của một cách thức sản xuất tối
ưu, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Những doanh nghiệp mạnh đã
loại bỏ được những doanh nghiệp yếu hơn trên thị trường. Doanh nghiệp mạnh là
doanh nghiệp có phương thức tổ chức sản xuất hiệu quả hơn. Như vậy, nguyên
tắc “mạnh thắng yếu”, vốn là quy luật khắt khe của kinh tế thị trường vẫn hoàn
toàn đúng. Doanh nghiệp nào hoạt động kém hiệu quả phải bị loại bỏ, cho dù đó
là doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu nào, thuộc quy mô gì. Những doanh
nghiệp làm ăn hiệu quả phải được xã hội tôn vinh, kính trọng. Nhà nước cần tạo
điều kiện cho những doanh nghiệp như vậy phát triển. Ngược lại, bất kỳ doanh
nghiệp nào kinh doanh thua lỗ, kém hiệu quả cũng cần phải bị xoá bỏ một cách
kiên quyết.
Quan hệ giữa nhà nước và nền kinh tế được phản ánh thông qua quan hệ
giữa nhà nước và doanh nghiệp. Quan hệ này về thực chất là quan hệ giữa cơ
quan quản lý điều tiết và đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn cần có sự quản lý của nhà nước,
sự điều tiết nền kinh tế của nhà nước là cần thiết khách quan. Vì thế, quan hệ này
luôn xuất hiện và cần được giải quyết hợp lý. Song, trong lịch sử phát triển kinh
tế, quan hệ này rất dễ bị vi phạm, do đó có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
chung của nền kinh tế.
Để có quan hệ hợp lý giữa nhà nước và doanh nghiệp cần phải xác định
đúng vị trí và nhiệm vụ của từng chủ thể trong quan hệ này. Nhiệm vụ của Nhà
nước là quản lý, điều tiết nền kinh tế, nhằm duy trì trật tự trong nền kinh tế. Các
doanh nghiệp là những đơn vị kinh doanh, nhiệm vụ của họ là tổ chức sản xuất -
14
kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng thông qua tín hiệu
của thị trường. Đây là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh
nghiệp và cũng là nhiệm vụ mà nền kinh tế trao cho họ.
Một vấn đề cũng rất quan trọng, mà các doanh nghiệp trông đợi từ phía
nhà nước là sự bình đẳng. Nhà nước cần phải đối xử bình đẳng với các doanh
nghiệp trên mọi phương diện. Vì sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế,
Nhà nước phải đóng vai trò “trọng tài” chứ không phải là một chủ thể đứng về
một doanh nghiệp nào, dù đó là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.
Do đó, không được đồng nhất nhà nước với doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình doanh nghiệp khác
nhau cùng tồn tại. Song dù là doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu nào thì doanh
nghiệp vẫn có nhiệm vụ hoàn toàn khác với nhiệm vụ của Nhà nước và đều bình
đẳng với nhau trước pháp luật.
1.3.4.3. Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế rất cần có sự hỗ trợ, điều
tiết của Nhà nước. Kinh tế tư nhân cũng vậy, trong quá trình phát triển, nhà nước
giữ vai trò định hướng, vạch ra chiến lược, chính sách cho kinh tế tư nhân phát
triển. Song, nếu điều đó là đương nhiên đối với các doanh nghiệp nhà nước, thì
đối với kinh tế tư nhân vấn đề này thường bị xem nhẹ. Thái độ này đối với kinh
tế tư nhân cũng lại xuất phát từ nhận thức không đúng về vai trò của kinh tế tư
nhân trong phát triển kinh tế. Doanh nghiệp và chỉ có các doanh nghiệp cụ thể,
không phụ thuộc vào hình thức sở hữu, luôn là những chủ thể thực hiện những
mục tiêu mà chính phủ luôn theo đuổi. Đó là sự tăng trưởng ổn định của nền
kinh tế. Chính vì vậy, giữa nhà nước và doanh nghiệp cần có mối quan hệ đồng
thuận vì mục tiêu chung. Các chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp tư
15
nhân và đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, phải được
xây dựng trên nguyên tắc trước hết là đảm bảo cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp tư nhân rất cần đến sự hỗ trợ
của nhà nước về các mặt như vốn, công nghệ, đào tạo lao động, tìm kiếm thị
trường và nhất là một môi trường xã hội, ở đó có sự thừa nhận, tôn vinh khu vực
kinh tế tư nhân. Đây là một vấn đề không đơn giản ở những quốc gia đã từng có
những nhận thức chưa đúng về vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế. Để
đạt được điều này, vai trò hỗ trợ của nhà nước là hết sức quan trọng, thậm chí
đóng vai trò quyết định.
1.4. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tƣ nhân của các nƣớc trong khu vực
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản,
trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh
tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh
tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954), phát triển cao độ (1955-
1973) khiến cho cả thế giới hết sức kinh ngạc và khâm phục.
Từ năm 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp
tục là một nước có nền kinh tế, công nghiệp-tài chính thương mại-dịch vụ-khoa
học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ), GDP trên đầu
người là 42.480 USD (2008). Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng
đứng hàng đầu thế giới. Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng
hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều. Nhật Bản được
đánh giá là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới.
Để khuyến khích kinh tế tư nhân, trước hết chính phủ Nhật Bản đã tiến
hành hỗ trợ các công ty tư nhân chọn lựa phát triển các ngành, sản phẩm chủ lực,
16
hướng về xuất khẩu, phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới và lợi thế so sánh
của Nhật Bản. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp và sản
phẩm xuất khẩu là sự ưu tiên hàng đầu của chính sách hỗ trợ.
Chìa khóa cho sự thành công của Nhật Bản trong suốt quá trình hoàn thiện
sự hỗ trợ và tăng cường quản lý Nhà nước đối với khu vực tư nhân chính là xúc
tiến thương mại, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu. Chính phủ Nhật Bản đã giữ vai
trò quan trọng trong việc khơi thông thị trường quốc tế. Để thực hiện tốt xúc tiến
thương mại – xuất khẩu, Nhật Bản cho phép thành lập các cơ quan phi chính
phủ, được phân thành hai nhóm chính:
- Nhóm thứ nhất gồm các liên minh doanh nghiệp và các tổ chức kinh
tế Nhật Bản, hoạt động phi lợi nhuận trên cơ sở hội phí của các thành viên.
Đây là những tổ chức có quy mô lớn, bao gồm cả viện nghiên cứu, các
quỹ hợp tác phát triển. Hoạt động của các cơ quan này mang tính “trung
gian”, vừa vận động hành lang cho chính phủ vừa đấu tranh gây ảnh
hưởng với chính phủ trong việc định hướng chính sách nhằm bảo vệ
quyền lợi cho các doanh nghiệp.
- Nhóm thứ hai gồm các phòng thương mại và công nghiệp, các hiệp
hội ngành. Các cơ quan thuộc nhóm này hoạt động chủ yếu thiên về dịch
vụ trên cơ sở hội phí, lệ phí dịch vụ và về đại diện quyền lợi cho các
doanh nghiệp.
Nhìn chung, các cơ quan xúc tiến thương mại của chính phủ Nhật Bản là
đơn vị phi lợi nhuận, là cơ quan sự nghiệp phúc lợi công cộng, trực thuộc chính
phủ và không phải là bộ máy quản lý. Các cơ quan này nhận được tài trợ từ
nhiều nguồn vốn khác nhau gồm: ngân sách nhà nước cấp theo các dự án phát
triển kinh tế và nguồn thu khác (phí hội viên, lệ phí dịch vụ và các hoạt động có
thu khác…). Các cơ quan xúc tiến thương mại có mạng lưới rộng khắp trong và
17
ngoài nước. Chẳng hạn như JETRO (tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản) có
37 văn phòng trong nước và 75 văn phòng ở nước ngoài. Nhiệm vụ của các văn
phòng này là theo dõi những thay đổi về chính sách thuế quan, thị hiếu tiêu
dùng, sức cạnh tranh, thăm dò, tìm kiếm đối tác tiềm năng ở thị trường nước
ngoài, rồi chuyển về nước phục vụ cho các doanh nghiệp có nhu cầu, và nhằm
thành lập các phòng trưng bày, triển lãm ở nước ngoài cho các sản phẩm xuất
khẩu.
Để tăng cường sức cạnh tranh cho doanh nghiệp, chính phủ Nhật Bản rất
quan tâm đến thành lập các Hiệp hội và tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thông qua các chương trình: bảo lãnh tín dụng, tư vấn, tạo thị trường cho các
doanh nghiệp (thông qua các hợp đồng gia công giữa các công ty lớn với các
doanh nghiệp nhỏ, tăng cường viện trợ và ký kết các Hiệp định kinh tế - thương
mại với các chính phủ nước ngoài để mở đường cho doanh nghiệp Nhật Bản
thâm nhập thị trường thế giới); linh hoạt hóa thị trường lao động, đổi mới giáo
dục nhận thức và đào tạo nghề cho công nhân, cải thiện môi trường pháp lý văn
hóa và kinh doanh phù hợp với những cam kết, tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Có thể nói phương thức quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân
của Nhật Bản là: “Chính phủ ít can thiệp thô bạo vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, quan hệ giữa chính phủ và khu vực tư nhân phải minh bạch”.
Thành công của các công ty tư nhân Nhật Bản trên khắp thế giới là một điển
hình về hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia này.
1.4.2. Kinh nghiệm của Singapore
Là quốc gia đầu tiên thuộc nhóm nước NICs, nằm trong khối ASEAN, sự
phát triển của đảo quốc nhỏ bé này được xem là hình mẫu cho các nước trong
khu vực. Chính phủ Singapore coi kinh tế tư nhân là động lực chính thúc đẩy
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy, chính phủ Singapore đã tiến
18
hành nhiều chính sách khuyến khích tư nhân trong nước cũng như các nhà đầu tư
nước ngoài như:
- Miễn thuế 5 năm đối với các công ty kinh doanh ở những ngành
mũi nhọn khi có vốn đầu tư từ 1 triệu USD Singapore.
- Chính phủ liên doanh hoặc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp tư nhân
đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn, khi có lãi cho phép nhà kinh
doanh tư nhân mua lại một phần hoặc toàn bộ cổ phần của doanh nghiệp.
- Miễn, giảm thuế khi mở rộng sản xuất hoặc khi có nhiều hàng xuất
khẩu, vay vốn nước ngoài, mới đầu tư và nghiên cứu khoa học.
- Các doanh nghiệp nước ngoài được tự do chuyển lợi nhuận về nước
không hạn chế số lượng cũng như không hạn chế về quy mô đầu tư.
- Ưu đãi về tài chính cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất theo
hướng hiện đại hóa bằng cách giảm 40% thuế thu nhập trong 10 năm.
Cũng như mô hình của Nhật Bản, Chính phủ Singapore đặc biệt coi trọng
phát triển hệ thống xúc tiến thương mại. Ở Singapore, cơ quan quản lý nhà nước
cao nhất về xúc tiến thương mại là Cục Phát triển Thương mại thuộc Bộ Thương
mại và Công nghiệp. Ngoài ra, các Hiệp hội ngành nghề, Phòng Thương mại và
Công nghiệp người Hoa, Phòng Thương mại và Công nghiệp người Malaysia,
Phòng Thương mại và Công nghiệp người Ấn Độ… đều tiến hành công việc xúc
tiến thương mại. Các cơ quan xúc tiến thương mại bán thông tin cho doanh
nghiệp với giá rẻ, chỉ khoảng 30-50% chi phí (Singapore cho rằng cần bán thông
tin, vì khi bỏ tiền ra mua thì doanh nghiệp mới biết quý trọng thông tin, nhưng
phải bán “lỗ” vì doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa rất cần thông tin
để điều chỉnh và mở rộng sản xuất).
Phát triển cơ sở dịch vụ kỹ thuật phục vụ sự phát triển của khu vực kinh tế
tư nhân cũng được chính phủ Singapore hết sức coi trọng, đặc biệt là thuận tiện
19
hóa thủ tục hải quan. Từ năm 1989, Singapore đã xây dựng và vận hành hiệu quả
hệ thống Tradenet để làm thủ tục xuất – nhập khẩu hàng hóa. Đây là một mạng
máy tính nối liền giữa các cơ quan quản lý thủ tục Nhà nước về xuất – nhập khẩu
với các doanh nghiệp và được nối mạng với một số nước khác, cho phép các
doanh nghiệp hoàn tất toàn bộ thủ tục xin giấy phép xuất – nhập khẩu qua mạng
trong vòng 30 phút mà không cần đem chứng từ đến tận các cơ quan hải quan để
xin phép (một số trường hợp đặc biệt vẫn xử lý theo mẫu in sẵn có bán rộng rãi
trên thị trường, với toàn bộ quá trình, trung bình mất khoảng 4 tiếng). Nhờ vậy,
một container đi qua cổng cảng Singapre chỉ mất 45 giây. Mỗi năm mạng
Tradenet này tiết kiệm cho Singapore khoảng 1 tỷ USD Singapore chi phí thủ tục
hành chính và những lợi ích không thể đo lường khác liên quan đến cung cấp
thông tin thương mại giữa các đối tác tham gia trong mạng này.
Trong quá trình tăng cường quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư
nhân, chính phủ Singapore rất coi trọng vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm xuất
– nhập khẩu, thông qua việc thực hiện chế độ bắt buộc áp dụng các tiêu chuẩn
chất lượng quốc gia và tự nguyện áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế. Tham gia vào
quản lý chất lượng hàng hóa, ngoài các cơ quan Nhà nước còn có hàng loạt công
ty giám định chất lượng thế giới. Khi ký họp đồng ngoại thương, các doanh
nghiệp có thể quy định việc sử dụng dịch vụ của các công ty giám định này trong
hợp đồng.
Khi hỗ trợ phát triển cho kinh tế tư nhân, Chính phủ Singapore cũng tiến
hành xây dựng nhiều xí nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, Singapore xác định rằng
kinh tế Nhà nước cũng chỉ nhằm bổ trợ và tạo điều kiện cho sự phát triển của
khu vực tư nhân. Vì vậy, chính phủ sẵn sàng chuyển sang khu vực tư nhân khi có
điều kiện bằng những chương trình tư nhân hóa khu vực quốc doanh.
20
1.4.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Trung Quốc được xem là tiêu
biểu cho những nước có nền kinh tế chuyển đổi. Kinh tế tư nhân ở Trung Quốc
so với các nền kinh tế thị trường truyền thống còn có những bước thăng trầm
nhất định, sự nhìn nhận và các chính sách đối với kinh tế tư nhân đang còn nhiều
vấn đề phải tiếp tục hoàn thiện.
Sau khi thành lập năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
nhanh chóng hình thành một khu vực kinh tế nhà nước thông qua biện pháp quốc
hữu hóa. Nếu năm 1949 doanh nghiệp tư nhân chiếm 63% sản lượng công
nghiệp thì năm 1952 chỉ còn 39% và 56% sản phẩm đầu ra của khu vực kinh tế
tư nhân là theo đơn đặt hàng của Nhà nước.
Ở Trung Quốc, trong giai đoạn từ khi cách mạng văn hóa 1966 bùng nổ
cho đến năm 1979 khởi đầu cải cách do Đặng Tiểu Bình khởi xướng không có sự
tồn tại của kinh tế tư nhân. Sự phát triển của hộ cá thể đầu những năm 1980 đã
đặt nền móng vững chắc cho sự xuất hiện chính thức của doanh nghiệp tư nhân.
Ước tính cuối năm 1988 có khoảng 500.000 hộ cá thể có thể coi là doanh nghiệp
tư nhân. Bên cạnh đó còn có rất nhiều doanh nghiệp tập thể nhưng thực chất là
doanh nghiệp sở hữu tư nhân. Đó là những “doanh nghiệp mũ đỏ”, với mục đích
núp dưới danh nghĩa tập thể để tránh những ngăn cấm từ phía Chính phủ và
những phân biệt về mặt tư tưởng.
Thay đổi quan trọng nhất đối với khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc là
việc tư nhân hóa doanh nghiệp Nhà nước vào những năm 1990. Các chương
trình tư nhân hóa đều do chính quyền địa phương khởi xướng với lý do quan
trọng nhất là số nợ của khu vực nhà nước đang lớn dần lên. Năm 1995, chính
quyền trung ương sau nhiều lần khảo sát điều tra đã đưa ra chính sách “nắm lớn
21
thả nhỏ”, theo đó Nhà nước chỉ chú trọng vào từ 500 đến 1000 doanh nghiệp lớn
và cho thuê hoặc bán các doanh nghiệp nhỏ hơn.
Từ chính sách “thả nhỏ”, xuất hiện chính sách “thay đổi sở hữu” với nội
dung bao gồm: giao, khoán, bán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Khu vực kinh
tế tư nhân có vai trò ngày càng quan trọng cho nền khinh tế Trung Quốc. Số liệu
thống kê cho thấy 71% GDP là của khu vực phi nhà nước, trong đó doanh
nghiệp tập thể chiếm 30%, phần còn lại do khu vực tư nhân trong nước và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp. Dù đạt được con số như trên, nhưng
khu vực tư nhân chỉ sử dụng một lượng tài nguyên ít ỏi, hạn chế trong việc tiếp
cận nguồn vốn tín dụng, đó là một đặc điểm nổi bật của kinh tế tư nhân Trung
Quốc.
Sau hơn 20 năm cải cách, kinh tế tư nhân Trung Quốc đã có được sự đối
xử công bằng và được đặt đúng vị trí. Chính phủ Trung Quốc đã có những nỗ lực
thực hiện môi trường kinh doanh khá bình đẳng, cùng với những chính sách
khuyến khích phát triển. Có thể tóm tắt những điểm chủ yếu như sau:
- Ưu đãi đầu tư nước ngoài và từng bước xóa bỏ độc quyền kinh
doanh của Nhà nước.
Trung Quốc đã đưa ra nhiều ưu đãi hấp dẫn để khuyến khích đầu tư nước
ngoài: quyết định giảm mức thuế thu nhập từ 30% xuống còn 15% và cho các
doanh nghiệp ở đặc khu kinh tế chỉ còn 10%, miễn thuế 5 năm đầu cho các
doanh nghiệp mới thành lập ở các đặc khu, miễn thuế thu nhập khi chuyển lãi ra
nước ngoài – trước đó nộp 10% - và hoàn thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng
để tái đầu tư. Việc thu hẹp và từng bước xóa bỏ độc quyền trong kinh doanh và
can thiệp trực tiếp của Nhà nước cũng được chú trọng. Đến đầu những năm
1990, Chính phủ chỉ còn độc quyền 7 mặt hàng nhập khẩu và 30 mặt hàng xuất
khẩu quan trọng nhất, liên quan đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.
22
- Hỗ trợ xuất khẩu và đổi mới cơ chế quản lý ngoại thương.
Để hỗ trợ xuất khẩu, ngay từ năm 1982, chính phủ Trung Quốc đã thực
hiện hoàn thuế công thương ở khâu sản xuất cuối cùng, áp dụng thuế VAT đối
với 17 mặt hàng xuất khẩu cơ điện, năm 1985 mở rộng phạm vi hoàn trả thuế
đến tất cả các mặt hàng trữ dầu thô và dầu thành phẩm. Năm 1988, hoàn trả toàn
bộ thuế gián tiếp lũy tiến ở các khâu từ sản xuất đến lưu thông đối với các sản
phẩm xuất khẩu.
Để khuyến khích xuất khẩu, Trung Quốc lập ra các quỹ tín dụng xuất
khẩu, quỹ hỗ trợ sản xuất chuyên ngành nhằm cấp tín dụng xuất khẩu, tín dụng
cải tiến kỹ thuật, tăng cường khả năng sản xuất sản phẩm gia công xuất khẩu và
thường xuất khẩu cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Cơ chế quản lý ngoại thương không ngừng cải cách theo hướng cởi mở
hơn, tình trạng độc quyền của Nhà nước ngày càng bị thu hẹp, trước hết là trong
ngoại thương. Các công ty tư nhân dược phép xuất khẩu trực tiếp. Chính sách
hoàn thuế và điều chỉnh linh hoạt, tỷ giá được sử dụng thích hợp như một công
cụ trợ giúp doanh nghiệp xuất khẩu (từ năm 1979-1990, Trung Quốc đã 6 lần
điều chỉnh tỷ giá, trong năm 1994 đã phá giá tới trên 30% đồng NDT).
- Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, lành mạnh.
Ưu tiên hàng đầu về điều chỉnh môi trường đầu tư là thống nhất và tạo môi
trường thuế bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, từng bước hạ
thấp thuế quan theo yêu cầu của hội nhập. Chuyển từ ưu đãi thuế lâu dài và theo
khu vực sang ưu đãi thuế có thời hạn và lĩnh vực, dự án cần hỗ trợ phát triển.
Điểm đặc biệt là Trung Quốc chỉ quan tâm duy trì mức thuế quan cao đối với
những sản phẩm nhập khẩu mà Trung Quốc đã tự sản xuất được.
Để cải thiện cơ bản môi trường kinh doanh, Trung Quốc không chỉ phát
triển cơ sở hạ tầng mà còn từng bước áp dụng mức giá dịch vụ thống nhất cho
23
các doanh nghiệp và thương nhân nước ngoài theo giá dành cho trong nước, các
thủ tục phê duyệt dự án được đơn giản hóa, những hạn chế đối với các thủ tục
đầu tư được giảm tới mức tối thiểu.
- Cho phép tư nhân mua lại hoặc tham gia cổ phần hóa các doanh
nghiệp Nhà nước, tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính phủ Trung Quốc chủ trương chỉ giữ lại khoảng 500 doanh nghiệp
Nhà nước và 110 tập đoàn công ty. Các công ty tư nhân được phép vay vốn ưu
đãi từ nguồn vốn Nhà nước, được tham gia phát hành cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán.
Trung Quốc tích cực hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (phần lớn ở khu vực
tư nhân, chiếm khoảng 99% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động ở Trung
Quốc, tạo ra 75% việc làm), bao gồm các biện pháp: đẩy mạnh điều chỉnh cơ
cấu, khuyến khích và bồi dưỡng năng lực sáng tạo kỹ thuật, tăng cường hỗ trợ
thuế và tài chính – tiền tệ, hoàn thiện hệ thống dịch vụ xã hội để tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng. Định kỳ Nhà nước công bố “danh mục ngành nghề thích
hợp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ”, đồng thời xây dựng “luật thúc đẩy phát triển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, giảm dần các điều kiện để doanh nghiệp vừa và
nhỏ được quyền chủ động xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế.
1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ những kinh nghiệm về phát triển kinh tế tư nhân của một số quốc gia
trên thế giới có thể thấy rằng: ở các nước kinh tế tư nhân tuy có sự khác nhau về
những đặc điểm riêng về lộ trình, nội dung và hình thức trong quá trình phát
triển kinh tế tư nhân, nhưng đều có điểm chung là việc khẳng định tầm quan
trọng của kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân được coi là động lực quan trọng trong
phát triển nền kinh tế quốc dân, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà phát triển
khu vực này một cách phù hợp nhằm khai thác tối đa mọi tiềm năng của nó. Vì
24
vậy, muốn phát triển kinh tế tư nhân như mong đợi thì bài học kinh nghiệm rút ra
cho Việt Nam là:
- Thứ nhất, bảo đảm sự ổn định, minh bạch và thuận lợi về môi trường đầu
tư. Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro cho vốn đầu
tư tư nhân. Nhà nước cần xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống
nhất, thông suốt và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, tạo ra môi
trường xã hội thuận lợi, ủng hộ các nhà đầu tư tư nhân sẽ kích thích họ mở
rộng đầu tư. Hệ thống pháp luật đầu tư phải đảm bảo sự an toàn về vốn và
tài sản tư nhân, môi trường cạnh tranh lành mạnh, không có phân biệt đối
xử giữa các thành phần kinh tế, hệ thống pháp luật được xây dựng càng
chặt chẽ, cởi mở, càng hấp hẫn cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
- Thứ hai, hệ thống chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân phải
mềm dẻo và hấp dẫn. Nhìn chung các quốc gia đều sử dụng một hệ thống
chính sách khuyến khích phát triển bao gồm nhiều chính sách bộ phận để
phát triển kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế thành công, nhưng
trọng tâm vẫn là chính sách thương mại và chính sách tài chính – tiền tệ.
- Thứ ba, đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước đối với
khu vực tư nhân. Một trong những điều gây phiền lòng các nhà đầu tư là
thủ tục hành chính rườm rà, gây tốn kém thời gian và chi phí, làm mất cơ
hội cho các nhà đầu tư. Bộ máy hành chính mà trực tiếp là các cơ quan
quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân là phải thống nhất, gọn nhẹ, thủ
tục đơn giản, công khai. Những quy định pháp lý cần phải đơn giản dễ
hiểu nhất, đảm bảo tính nhất quán sẽ khuyến khích và củng cố niềm tin
cho các nhà đầu tư ở tất cả các quốc gia. Để phát triển kinh tế tư nhân thì
hoạt động xúc tiến thương mại luôn cần được chú trọng, hoạt động này
25
phần lớn có sự hỗ trợ của chính phủ. Sự thành công của Nhật Bản và
Singapore là những ví dụ điển hình.
- Thứ tư, phát triển đồng bộ, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và quan tâm phát
triển nguồn nhân lực, năng lực khoa học – công nghệ cho doanh nghiệp.
Hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại là điều kiện vật chất hàng đầu, giúp cho
các nhà đầu tư tư nhân nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai
trên thực tế các dự án của mình. Hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho
các chủ đầu tư sự thuận tiện, giảm chi phí về lưu thông.
- Thứ năm, các chính sách đối với kinh tế tư nhân phải phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể của đất nước và từng giai đoạn phát triển của kinh tế tư nhân.
Đối với các nền kinh tế “chuyển đổi” đặc biệt là Trung Quốc cho thấy
nhân tố chính sách luôn đóng vai trò quyết định đối với phát triển kinh tế
tư nhân. Trước hết cần xác định vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế. Nếu chính sách phát triển kinh tế tư nhân ở các nước tư bản chú trọng
vào hỗ trợ phát triển thì ở Trung Quốc kết hợp chính sách hỗ trợ với việc
tạo lập môi trường thể chế, tâm lý xã hội thích ứng với sự phát triển kinh
tế tư nhân trong từng giai đoạn cụ thể là: làm thế nào để thay đổi quan
niệm xã hội không đúng về kinh tế tư nhân, đẩy mạnh cải cách hành chính
để các cơ quan Chính phủ các cấp phục vụ có hiệu quả, không gây phiền
hà, sách nhiễu; có biện pháp hữu hiệu bảo vệ tài sản hợp pháp của tư nhân,
có biện pháp ngăn chặn hiện tượng các cơ quan quản lý coi kinh tế tư nhân
như “miếng mồi béo bở” tùy tiện thu lệ phí và xử phạt vô tội vạ.
Đây là những bài học kinh nghiệp rất có ý nghĩa đối với phát triển kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay.
26
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.3. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tƣ nhân qua các thời kỳ
2.3.1. Giai đoạn trước đổi mới năm 1986
Thực tế cho thấy sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung vẫn tồn tại và phát triển và thực sự đã có những đóng góp
quan trọng về hàng hóa cho sản xuất tiêu dùng trong đời sống xã hội. Bởi vì, nhu
cầu các loại hàng hóa, dịch vụ xã hội rất cần mà khu vực kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể không thỏa mãn được. Bởi vậy, kinh tế tư nhân ở đây vẫn còn nhu
cầu khách quan để tồn tại và phát triển cho dù trình độ sản xuất hàng hóa còn rất
sơ khai và phải tự điều chỉnh về hình thức tổ chức, quy mô và phương thức hoạt
động trong môi trường không được pháp luật thừa nhận.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân thời kỳ này gặp không
ít khó khăn trong việc giải quyết đầu vào, đầu ra của sản xuất. Họ không được
cung ứng các yếu tố sản xuất như: máy móc, thiết bị, năng lượng, nguyên liệu,
nhiên liệu, vốn… từ hệ thống cung ứng của nhà nước. Để khắc phục khó khăn
đó, họ phải tự điều chỉnh và hình thành cho mình một hệ thống thị trường mà lúc
đó được gọi là “thị trường tự do” hay “thị trường chợ đen” đối lập với thị trường
nhà nước. Đối tượng giao dịch của “thị trường tự do” là các cơ sở sản xuất kinh
doanh tư nhân. Quan hệ giao dịch dựa trên cơ sở giá cả thị trường “thuận mua
vừa bán”. Các luồng luân chuyển hàng hóa, tiền tệ song song tồn tại với hệ thống
thị trường có tổ chức của nhà nước. Nhờ hình thành hệ thống thị trường này, mặc
dù phải hoạt động trong môi trường kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao
cấp, không có những điều kiện cơ bản để tồn tại, nhưng kinh tế tư nhân đã vượt
27
qua được cơn lốc của giai đoạn “cải tạo xã hội chủ nghĩa” để tồn tại, phát triển
đáp ứng được một phần quan trọng sản phẩm cho nhu cầu của xã hội.
Thực tiễn trong những năm cải tạo xã hội chủ nghĩa cho thấy: sản xuất
ngày càng sa sút, tổng sản phẩm xã hội trong 5 năm 1976 – 1980 gần như dậm
chân tại chỗ, nhưng tỷ trọng khu vực kinh tế tư nhân trong tổng sản phẩm xã hội
là tăng lên từ 38,01% (1976) lên 42,77% (1980) và trong thời kỳ đó, tỷ trọng của
“thị trường tự do” trong tổng mức bán lẻ của xã hội từ 50,9% (1976) lên 60,9%
(1980). Trong công nghiệp, năm 1974, kinh tế tư nhân ở miền Bắc chỉ chiếm 7%
lao động, 0,3% tài sản cố định nhưng lại đóng góp 12% thu nhập quốc dân.
Trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, bán lẻ hàng hóa, kinh tế tư nhân
hoạt động có hiệu quả hơn doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Ở miền Nam
sau khi có Nghị quyết 06 (khóa IV) năm 1979, kinh tế tư nhân được nhen nhóm
trở lại, đến năm 1980, thành phố Hồ Chí Minh có 1.564 xí nghiệp tư nhân với số
công nhân 16.178 người. Điều đó cho thấy kinh tế tư nhân tuy là đối tượng cải
tạo, phải xóa bỏ bằng nhiều biện pháp, nhưng nó vẫn có sức sống mãnh liệt.
Do sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí muốn xác lập ngay quan hệ sản
xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ
thấp kém, thêm vào đó việc áp dụng cơ chế quản lý nền kinh tế theo mô hình tập
trung quan liêu, bao cấp, cho nên kinh tế của nước ta trong thời kỳ này gặp rất
nhiều khó khăn, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng.
Tình trạng nền kinh tế khủng hoảng bộc lộ rõ nhất vào giai đoạn 1975 –
1985 khi đất nước đã thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội lấy phát
triển kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm, các nguồn viện trợ từ bên ngoài không còn,
đất nước lại bị bao vây, cấm vận. Những sai lầm, khuyết điểm đó đã cho chúng
ta những bài học quý giá để quyết tâm đi vào công cuộc đổi mới, chuyển nền
28
kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3.2. Giai đoạn từ năm 1986 – 1999
Nhìn lại quá trình hơn 20 năm phát triển của kinh tế tư nhân, có thể thấy
một số điểm mốc mang tính đột phá. Đột phá thứ nhất là chuyển từ “không”
thành “có”, từ sự phủ nhận sự tồn tại chuyển sang thừa nhận sự tồn tại đặc biệt
quan trọng của kinh tế tư nhân. Điều đó được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội
lần thứ VI của Đảng. Sự đổi mới tư duy có tính đột phá đó đã mở đường cho
phát triển của doanh nghiệp tư nhân nói riêng, và kinh tế nhiều thành phần nói
chung, ở nước ta xuất phát từ yêu cầu bức bách của đời sống xã hội thực tế vào
thời điểm đó. Mốc thay đổi có tính đột phá thứ 2 xảy ra vào năm 1990 – 1991
bằng việc ban hành Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) và Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 1991 – 2000. Luật Doanh nghiệp tư nhân
và Luật Công ty đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển
các doanh nghiệp tư nhân chính quy và hiện đại với các loại hình pháp lý bao
gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra, hộ kinh doanh cá thể đã được xác định rõ hơn về địa vị pháp lý và cách
thức tổ chức hoạt động.
Về quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, Đại hội lần thứ VII của
Đảng (tháng 6 năm 1991) đã chỉ rõ: “Mọi người được tự do kinh doanh theo
pháp luật, được bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”, “Mọi đơn vị kinh
tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều được hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh
doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật”, “Kinh tế tư
bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong
những ngành, nghề mà pháp luật không cấm”, “Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài
29
sản hợp pháp, không gò ép tập thể hóa tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức
kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh”.
Nhờ có Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân mà khu vực kinh tế tư
nhân đã có bước phát triển khá mạnh, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh
chóng. Nếu như năm 1991 chỉ có 414 doanh nghiệp, thì sau một năm (1992) con
số đó đã trở thành 5.189 doanh nghiệp, năm 1995 là 15.276 doanh nghiệp, năm
1998 có 39.180 doanh nghiệp và đến năm 1999 tổng số doanh nghiệp khu vực tư
nhân lên đến 45.601.
Bảng 1: Tốc độ tăng các loại hình
doanh nghiệp tƣ nhân từ năm 1994 – 1998
Đơn vị: %
Năm
Loại hình
1994 so
với 1993
1995 so
với 1994
1996 so
với 1995
1997 so
với 1996
1998 so
với 1997
Doanh nghiệp tư nhân 50 40 14 40 7
Công ty TNHH 84 43 49 17 3
Công ty cổ phần 526 1 8 20 13
(Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 262, tháng 3 – 2000)
Trong nông nghiệp, tính đến đầu năm 2000, cả nước có 11,4 triệu hộ sản
xuất nông nghiệp, chiếm 87,9% số hộ sống ở nông thôn, tập trung chủ yếu ở
vùng đồng bằng sông Hồng 27,1% và vùng đồng bằng sông Cửu Long 23,6%.
Trong đó có 37,3% số hộ đã tham gia các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và
62,7% số hộ sản xuất cá thể có tham gia các hình thức tổ kinh tế hợp tác giản
đơn.
30
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các ngành nghề phi nông nghiệp có
2.137.713 hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tăng 6,02% so với năm 1996 (bình
quân mỗi năm tăng 30.000 hộ), tốc độ tăng 4,47%/năm. Theo Tổng cục Thuế, số
hộ kinh doanh có môn bài là 1,5 triệu hộ (trong đó có 1,2 – 1,3 triệu hộ nộp thuế
thường xuyên).
Giá trị tài sản cố định trung bình của một doanh nghiệp tư nhân (doanh
nghiệp 1 chủ) năm 1991 là 0,1 tỷ đồng, mức thấp nhất, sau đó tăng lên và giữ ổn
định ở mức 0,2 tỷ đồng trong giai đoạn 1992 – 1996. Giá trị này của công ty
trách nhiệm hữu hạn cũng tăng nhưng không đều và có năm giảm: từ 0,6 tỷ đồng
năm 1991 tăng lên 0,7 tỷ đồng năm 1992 và giảm xuống 0,5 tỷ đồng năm 1996.
Số lượng lao động trong doanh nghiệp tư nhân, bình quân là 8 người năm 1991,
tăng lên 9 người năm 1996, 17 người năm 1997 và 19 người năm 1998.
Tốc độ tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân năm 1994
tăng 60% so với năm 1993 nhưng các năm tiếp theo giảm dần: năm 1995 là 41%,
năm 1996 là 24% và năm 1997 là 32%, đạt bình quân khoảng 37% thời kỳ 1994
– 1997.
Bảng 2: Đóng góp GDP của khu vực kinh tế tƣ nhân
Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000
Tổng GDP toàn quốc Tỷ đ 272.036 313.623 361.017 399.943 444.140
1. Khu vực tư nhân - 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337
% trong GDP toàn
quốc
% 28,48 27,89 27,32 26,51 26,87
2. Hộ kinh doanh cá
thể
Tỷ đ 57.879 65.555 73.321 78.054 87.604
Tỷ trọng hộ trong
GDP
% 21,28 20,9 20,31 19,52 19,72
31
Tỷ trọng hộ trong khu
vực kinh tế tư nhân
% 74,7 74,94 74,34 73,62 73,41
2.1. Công nghiệp Tỷ đ 9.261 10.658 11.804 12.662 15.491
Tỷ trọng trong hộ - 16,00 16,25 26,1 16,22 17,68
2.2. Thương mại dịch
vụ
- 17.381 19.728 22.878 24.865 27.393
Tỷ trọng trong hộ % 30,03 30,09 31,2 31,86 31,27
2.3. Các ngành khác Tỷ đ 31.237 35.169 38.639 40.527 44.720
Tỷ trọng trong hộ % 53,97 53,66 52,7 51,92 51,05
3. Doanh nghiệp của
tư nhân
tỷđ 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733
Tỷ trọng trong GDP % 7,21 6,99 7,01 6,99 7,14
Tỷ trọng trong khu
vực tư nhân
% 25,3 25,06 25,66 26,38 26,59
3.1. Công nghiệp Tỷ đ 4.609 5.278 6.367 7.179 8.626
Tỷ trọng trong doanh
nghiệp
% 23,51 24,08 25,16 25,66 27,18
3.2. Thương mại dịch
vụ
Tỷ đ 7.565 8.564 10.238 11.203 12.397
Tỷ trọng trong doanh
nghiệp
% 38,59 39,07 40,46 40,05 39,07
3.3. Các ngành khác Tỷ đ 7.428 8.078 8.699 9.593 10.710
Tỷ trọng trong doanh
nghiệp
% 37,9 36,85 34,38 34,29 33,75
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh
tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26/11/2001)
2.3.3. Giai đoạn từ năm 2000 – nay
2.3.3.1. Số lượng doanh nghiệp
Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân so với các khu
vực kinh tế khác có thể thấy rõ qua các con số, dẫu rằng sự lớn mạnh của một
thực thể đôi khi không chỉ là sự gia tăng về số lượng. Số liệu thống kê cho thấy,
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng mạnh cả về số lượng và tỷ trọng của nó
so với tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Số doanh nghiệp nhà nước giảm dần
32
từ 5.759 năm 2000 xuống còn 3.494 năm 2007, tức là giảm tỷ trọng từ 13,62%
năm 2001 xuống còn 2,24% năm 2007. Trong khi đó, số doanh nghiệp ngoài
Nhà nước tăng từ 35.004 năm 2000 đến 147.316 năm 2007, tức tăng tỷ trọng từ
82,78% năm 2000 lên 94,57% năm 2007. Xu hướng này sẽ còn rõ nét hơn nếu
tính cả bộ phận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 3: Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời điểm
31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Doanh nghiệp
TỔNG SỐ 42288 51680 62908 72012 91756 112950 131318 155771