CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MARKETING “Marketing là một trận chiến của các nhận thức, chứ không phải các sản phẩm.” Al Ries và Jack Trout, những học giả tiên phong về định vị. “Mục đích của Marketing không phải là đẩy mạnh tiêu thụ. Mục đích của Marketing là nhận biết và hiểu kỹ khách hàng đến mức hàng hóa hay dịch vụ sẽ đáp ứng đúng thị hiếu của khách hàng và tự nó được tiêu thụ.” Peter Drucker (1909-2005), cha đẻ của ngành Quản trị kinh doanh hiện đại “Kinh doanh là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội, bằng cách dùng sản phẩm hay dịch vụ như là phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.” Khuyết danh “Marketing là công việc quá quan trọng không thể chỉ có phòng Marketing làm.” David Packerd, người sáng lập hãng Hewlet Packerd. Mục tiêu chương 1: Sau khi học xong chương 1, sinh viên có khả năng: - Hiểu quá trình phát triển ngành Marketing và định hướng Marketing hiện đại. 1
494
Embed
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MARKETING · Web viewCHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MARKETING “Marketing là một trận chiến của các nhận thức, chứ.....
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MARKETING
“Marketing là một trận chiến của các nhận thức, chứ không phải các sản phẩm.”
Al Ries và Jack Trout, những học giả tiên phong về định vị.
“Mục đích của Marketing không phải là đẩy mạnh tiêu thụ. Mục đích của Marketing là
nhận biết và hiểu kỹ khách hàng đến mức hàng hóa hay dịch vụ sẽ đáp ứng đúng thị
hiếu của khách hàng và tự nó được tiêu thụ.”
Peter Drucker (1909-2005), cha đẻ của ngành Quản trị kinh doanh hiện đại
“Kinh doanh là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội, bằng cách dùng sản phẩm hay
dịch vụ như là phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm cho cuộc
sống tốt đẹp hơn.”
Khuyết danh
“Marketing là công việc quá quan trọng không thể chỉ có phòng Marketing làm.”
David Packerd, người sáng lập hãng Hewlet Packerd.
Mục tiêu chương 1:Sau khi học xong chương 1, sinh viên có khả năng:
- Hiểu quá trình phát triển ngành Marketing và định hướng Marketing hiện đại.
- Nhận biết khái niệm Marketing và cách thức tiếp cận tư tưởng Marketing.
- Hiểu được chức năng, vai trò quan trọng của Marketing.
- Giải thích được vì sao Marketing là quan trọng đối với nhà sản xuất, người tiêu
dùng và xã hội.
- Xác định đúng mục tiêu hướng đến của hoạt động Marketing.
- Hiểu các vấn đề cơ bản của quy trình Marketing.
1
1.1. Khái niệm Marketing1.1.1. Khái niệm nền tảng
Trước khi tiếp cận một số khái niệm Marketing thì chúng ta cần hiểu rõ một vài
khái niệm nền tảng. Tư duy Marketing bắt đầu từ việc thỏa mãn những nhu cầu và ước
muốn thực tế của con người. Cần phân biệt rõ các khái niệm: nhu cầu (needs), ước
muốn (wants), nhu cầu có khả năng thanh toán (demands) và trao đổi (exchanges).
1.1.1.1. Nhu cầu (needs)
“Nhu cầu” là trạng thái cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận
được và cần được thỏa mãn. Là sự khác biệt giữa tình trạng hiện thực và tình trạng
đang ước muốn. Nhu cầu của con người rất đa dạng và phức tạp. Nhu cầu có thể là
những yêu cầu sinh lý thiết yếu của con người để họ có thể sống như ăn, uống, ngủ…
tới những nhu cầu về an toàn tính mạng, những nhu cầu về tinh thần và xã hội, thậm
chí cao hơn cả là những nhu cầu về tri thức và thể hiện mình.
Khi nhu cầu không được thỏa mãn, người ta sẽ thấy khó chịu, thậm chí khổ sở
và bất hạnh. Người ta sẽ thường có hai xu hướng giải quyết các nhu cầu sau:
- Tìm cách giải quyết. Ví dụ một người A đang đi trên đường và cảm thấy khô
họng, anh ta sẽ có nhu cầu được uống nước và tìm cách kiếm nước uống cho đã khát.
- Giảm mức độ nhu cầu hiện tại. Ví dụ người A trong một số trường hợp bất khả
kháng (như bị rơi vào sa mạc, không thể tìm ra nước), anh ta sẽ cố gắng kiềm chế nó.
Trong điều kiện xã hội phát triển, con người trong xã hội đó có nhiều khả năng
tìm kiếm, cũng như phát triển những cách thức giúp họ giải quyết nhu cầu hiện tại. Với
những xã hội kém phát triển hơn, thì con người sẽ tự hạn chế nhu cầu của mình, chỉ
giải quyết với những gì nằm trong khả năng.
Nhu cầu là khái niệm nền tảng của Marketing. Tư tưởng chủ đạo của Marketing
là “tìm ra nhu cầu và đáp ứng”. Theo quan điểm truyền thống, không ai tạo ra nhu cầu,
nhu cầu tự sinh và là một phần bản chất con người. Do vậy, có ý kiến cho rằng các nhà
Marketing tạo ra nhu cầu hay thúc ép con người thỏa mãn các nhu cầu không cần thiết
là hoàn toàn sai lầm. Như vậy, theo quan điểm truyền thống, các nhà Marketing không
tạo ra nhu cầu, mà chỉ là người khám phá và kích thích nhu cầu. Đến lượt các nhà sản
2
xuất, họ có nhiệm vụ cung cấp những sản phẩm hoặc dịch vụ để giải quyết nhu cầu đó.
Ví dụ: Phở 24 đã phát hiện ra sự thay đổi trong nhu cầu của người ăn phở nên đã tổ
chức để đáp ứng những nhu cầu mới này, qua đó sở hữu một thương hiệu mạnh trong
thị trường ẩm thực tiện lợi. Nếu có nhu cầu ăn phở tiện nghi, vệ sinh và dễ tìm kiếm
bạn sẽ nghĩ đến nhãn hiệu phở nào trước? Dĩ nhiên là Phở 24.
Quan điểm hiện đại có cách tư duy mở rộng hơn. Chúng ta nhận ra rằng, ngày
nay có rất ít nhu cầu mà những người kinh doanh không biết hoặc không chú tâm đến.
Pieto Guido, một nhà tư vấn Marketing đã viết cuốn sách Xã hội không nhu cầu (No-
need society) để chỉ ra vấn đề này. Có một hướng tư duy mới trả lời cho “xã hội không
nhu cầu”-đó là tạo ra nhu cầu mới. Theo ông Akio của tập đoàn Sony: “Chúng ta
không phục vụ thị trường, chúng ta tạo ra các thị trường.” Còn Greg Carpenter và
Kent Nakamoto đã bác bỏ quan niệm cốt lõi của các nhà tiếp thị là khách hàng từ đầu
đã biết họ muốn gì. Trái lại họ sẽ học được họ muốn gì. Và nhà kinh doanh đóng vai
trò quan trọng trong việc dạy cho người mua biết họ muốn gì. Những doanh nghiệp
như thế không phải thuộc loại hướng về thị trường (đáp ứng nhu cầu khách hàng) mà là
dẫn dắt thị trường (bằng sự sáng tạo). Theo ý nghĩa này, cạnh tranh sẽ bớt đi việc chạy
đua để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng mà là cuộc đua thật sự để nhận diện ra những
nhu cầu đó. [11]51-52
Theo Maslow nhu cầu có 5 loại: nhu cầu về sinh lý, nhu cầu về an toàn, nhu cầu
có tính chất xã hội, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu tự thể hiện bản thân. Lý thuyết của
Maslow là lý thuyết phổ biến nhất khi nói về nhu cầu của con người, các cấp độ nhu
cầu cũng đã được đề cập nhiều trong các môn học về quản trị học hay giao tiếp, tâm lý
học. (Xem thêm chương 2 mục 4.2.4. Các yếu tố tâm lý)
1.1.1.2. Ước muốn (wants)
Ước muốn (wants) là cụ thể hóa của nhu cầu (needs). Theo Philip Kotler, khi
một cá nhân gắn nhu cầu với một vật cụ thể thì đã cho thấy là mình có một ước muốn.
Ước muốn là sự ao ước có được những thứ cụ thể để thỏa mãn những nhu cầu sâu xa,
nó là một nhu cầu được cụ thể hóa ở mức độ sâu hơn, cao hơn và mang đặc thù, tương
ứng với trình độ văn hóa và nhân cách cụ thể. Nhu cầu con người thì khá giống nhau
3
nhưng ước muốn lại vô cùng khác biệt và điều đó tạo nên sự đa dạng cho cuộc sống.
Dựa trên tính cách, lối sống, kinh nghiệm của từng người và nền văn hóa người đó chịu
ảnh hưởng mà ước muốn của từng người sẽ có sự khác nhau.
Khi nhu cầu phát sinh, ước muốn sẽ xuất hiện và chính ước muốn sẽ kéo theo
động cơ làm một việc gì đó để thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, bất cứ ai, khi làm bất cứ
việc gì cũng đều có động cơ của mình.
1.1.1.3. Nhu cầu có khả năng thanh toán (demands)
Nhu cầu có khả năng thanh toán (hay còn được gọi là cầu, yêu cầu, số cầu,
lượng cầu) là ước muốn có được các sản phẩm cụ thể được hậu thuẫn bởi khả năng
thanh toán và thái độ sẵn sàng mua chúng.
Ước muốn con người là vô cùng nhưng nguồn lực thì lại có giới hạn. Cầu xuất
hiện khi có ước muốn và có đủ khả năng chi trả cho ước muốn đó (cụ thể là tiền).
Người tiêu dùng khi lựa chọn hàng hóa còn cân nhắc tới khả năng mua (thanh toán), họ
sẽ lựa chọn những sản phẩm nào thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của họ dựa trên khả năng
thanh toán. Như vậy, số cầu là sức mua cụ thể của hàng hóa, dịch vụ, là biểu hiện cụ
thể của việc thỏa mãn nhu cầu thông qua việc tiêu thụ sản phẩm đó. Khác với nhu cầu
chỉ mang tính chất tâm sinh lý tự nhiên, cầu là khái niệm kinh tế và có thể lượng hóa
được. Nghiên cứu nhu cầu có khả năng thanh toán được coi là vấn đề cơ bản, quan
trọng của hoạt động Marketing. Điều này cũng phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp
là lợi nhuận.
Nhu cầu không được thỏa mãn Nhu cầu được thỏa mãn một phần
Nhu cầu được thỏa mãn hoàn toàn
Hàng hóa C được gọi là “hàng hóa lý tưởng”
Hình 1.1: Ba mức độ thỏa mãn nhu cầu [9]12
4
Hàng hóa
A
Hàng hóa CNhu cầu X
Hàng hóa B
Nhu cầuX
Nhu cầuX
1.1.1.4. Trao đổi (exchanges)
Trao đổi là hành vi nhận một vật ước muốn từ người khác bằng cách đưa lại
những thứ mà họ muốn. “Vật trao đổi” ở đây mang nghĩa bao hàm rộng lớn, không chỉ
là sản phẩm vật chất mà còn là các ý tưởng, dịch vụ, giải pháp, địa điểm…
Trên thực tế, trao đổi chỉ là một trong bốn phương thức theo đó các cá nhân
riêng biệt có thể nhận được những vật mà mình mong muốn (bao gồm: tự bảo đảm,
chiếm đoạt, cầu xin và trao đổi), nhưng lại là phương thức có nhiều ưu điểm nhất nên
được sử dụng phổ biến nhất. Marketing tồn tại trong trường hợp mà con người quyết
định việc đáp ứng nhu cầu và ước muốn thông qua trao đổi.
Để một trao đổi diễn ra thì có các điều kiện sau:
Thứ nhất: Có hai hay nhiều bên tham gia, các bên tham gia có thể là cá nhân hay
tổ chức.
Thứ hai: Mỗi bên phải có một thứ gì đó có giá trị đối với bên kia. Muốn vậy,
mỗi bên có ước muốn và khả năng đáp ứng những nhu cầu.
Thứ ba: Các bên có phương tiện để truyền thông với nhau, phải có khả năng
thực hiện việc lưu thông và cung cấp hàng hóa của mình.
Thứ tư: Mỗi bên phải hoàn toàn tự do trong việc chấp nhận hay khước từ lời đề
nghị phía bên kia.
Thứ năm: Mỗi bên phải tin tưởng vào tính hợp lý hay ý muốn trong việc mua
bán với phía bên kia.
Khi có đủ các điều kiện này thì có tiềm năng cho sự trao đổi, còn sự trao đổi có
diễn ra hay không tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên về các giá trị họ trao đổi.
Thường thì khi các bên đều thấy có lợi thì trao đổi sẽ được thực hiện. Nghĩa là trao đổi
phải là một quá trình tạo ra giá trị.
1.1.2. Khái niệm về Marketing
Có một số quan điểm cho rằng nên Việt hóa từ Marketing là “tiếp thị”, trong
một số cuốn sách tại Việt Nam vẫn sử dụng từ tiếp thị khi nói về Marketing ví dụ môn
học “Quản trị tiếp thị”; “Tiếp thị căn bản”... Cách tiếp cận như vậy không sai nhưng
theo xu hướng hiện nay thì từ Maketing được giữ nguyên gốc của nó. Marketing là một
5
thuật ngữ có nội dung đặc biệt rộng nên khó có thể dễ dàng diễn giải nghĩa của nó một
cách trọn vẹn. Marketing có nguồn gốc từ chữ “Market” có nghĩa tiếng Anh là cái chợ,
thị trường, bán hàng ra thị trường. Vậy nôm na Marketing có nghĩa là “làm thị trường”.
Sau này khi chúng ta tiếp cận khái niệm thị trường thì dễ thấy thị trường là khách hàng
và cốt lõi khái niệm Marketing là dựa trên khách hàng. Đuôi “ing” mang nghĩa tiếp
cận, vì vậy Marketing thường bị hiểu nhầm là tiếp thị. Để tránh nhầm lẫn, thuật ngữ
Marketing thường để nguyên, không dịch. Do đó, hầu hết các nước không nói tiếng
Anh đều để nguyên mà không dịch sang tiếng của họ.
Cùng với sự phát triển của Marketing cũng có nhiều khái niệm Marketing khác
nhau do cách tiếp cận khác nhau như theo tiếp cận chức năng, tiếp cận theo hệ thống,
tiếp cận theo quan điểm quản lý vi mô, vĩ mô. Và cũng chưa có khái niệm nào được coi
là duy nhất đúng, bởi lẽ các tác giả đều có quan điểm riêng của mình [6] 5. Sau đây là
một vài khái niệm mà chúng ta thường gặp:
- Khái niệm của Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (America Marketing
Associate-AMA)
+ Năm 1960: “Marketing là toàn bộ hoạt động kinh doanh nhằm hướng các
luồng hàng hóa và dịch vụ mà người cung ứng đưa ra về phía người tiêu dùng và
người sử dụng”.
Khái niệm này chịu ảnh hưởng của tư tưởng Marketing truyền thống, nhấn mạnh
khâu phân phối, lưu thông hàng hóa. Tức là nỗ lực nhằm bán cái đã sản xuất ra, chưa
thể hiện được tư tưởng làm sau có thể sản xuất ra một sản phẩm có thể bán được.
+ Năm 1985: “Marketing là một quá trình hoạch định và quản lý thực hiện việc
định giá, chiêu thị và phân phối các ý tưởng, hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích tạo ra
các giao dịch để thoả mãn những mục tiêu của cá nhân, tổ chức và xã hội”.
Nhìn chung đây là một khái niệm khá hoàn hảo với các ưu điểm: Nêu rõ sản
phẩm được trao đổi không giới han là hàng hóa hữu hình mà còn cả ý tưởng và dịch
vụ; trình bày rõ Marketing không chỉ áp dụng cho các hoạt động kinh doanh nhằm mục
đích lợi nhuận; xác định rõ chức năng của Marketing không chỉ là bán hàng hay phân
phối. Khái niệm này tiếp cận theo quan điểm chức năng Marketing, khi nói đến
6
Marketing là nói đến 4P, đây cũng là cách tiếp cận của một số giáo trình về Marketing
tại Việt Nam vì nó mang ưu điểm là đơn giản và hướng dẫn thực hiện cao. Cách tiếp
cận lại phù hợp với quy trình quản trị Marketing mà Philip Korler đưa ra. (Xem thêm
chương 1 mục 5. Quy trình Marketing).
- Khái niệm của Viện Marketing Anh quốc-UK Chartered Institute of
Marketing: “Marketing là quá trình tổ chức và quản lý toàn bộ các hoạt động sản xuất
kinh doanh từ việc phát hiện ra nhu cầu thực sự của người tiêu dùng về một mặt hàng
cụ thể đến việc sản xuất và đưa hàng hóa đó đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm bảo
đảm cho công ty thu được lợi nhuận như dự kiến.”
Khái niệm này đề cập tương đối toàn diện về tìm nhu cầu, phát hiện và đánh giá
lượng cầu, xác định quy mô sản xuất rồi phân phối, bán hàng một các hiệu quả. Viện
Viện Marketing Anh quốc đả khái quát Marketing lên thành chiến lược từ nghiên cứu
thị trường đến khi thu lợi nhuận như dự kiến.
- Khái niệm của Philip Kotler: “Marketing là tiến trình qua đó cá nhân và tổ
chức có thể đạt được nhu cầu và ước muốn thông qua việc sáng tạo và trao đổi sản
phẩm và giá trị giữa các bên.”
Khái niệm này được trình bày dưới dạng triết lý, phương châm của con người.
ông xác định rõ ý tưởng cội nguồn của Marketing là nhu cầu và ước muốn và nội dung
cơ bản của Marketing là sự trao đổi giá trị. Vì vậy, Marketing cần cho tất cả mọi người.
- Khái niệm của GS. Vũ Thế Phú: “Marketing là toàn bộ những hoạt động của
doanh nghiệp nhằm xác định nhu cầu chưa được thỏa mãn của người tiêu dùng, để tìm
kiếm các sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp có thể sản xuất được, tìm cách phân phối
chúng đến những địa điểm thuận lợi với giá cả và thời điểm thích hợp nhất cho người
tiêu thụ.”
Khái niệm này có ưu điểm là rõ ràng, dễ tiếp cận, nhấn mạnh tầm quan trọng
của công tác nghiên cứu nhu cầu thị trường và chỉ rõ các hoạt động chính của
Marketing.
Ngoài ra, trong quá trình phát triển ngành khoa học Marketing, còn có một số
khía niệm tiêu biểu sau:
7
“Marketing là quá trình quản trị nhằm nhận biết, dự đoán và đáp ứng những
yêu cầu của khách hàng một cách hiệu quả và có lợi.” (Viện Marketing Anh quốc-UK
Chartered Institute of Marketing).
“Marketing là toàn bộ hệ thống các hoạt động kinh doanh từ việc thiết kế, định
giá, xúc tiến đến phân phối những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của thị trường mục tiêu
nhằm đạt được những mục tiêu đã định.” (Bruce J.W. William, Michel J.Etzel, Những
nguyên tắc cơ bản của Marketing-Fundamental of Marketing).
“Marketing là khoa học điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh kể từ khâu sản
xuất đến khâu tiêu thụ, nó căn cứ vào nhu cầu biến động của thị trường hay nói khác đi
là lấy thị trường làm định hướng.” (I. Ansoff, một chuyên gia nghiên cứu về
Marketing của Liên Hiệp Quốc)
“Marketing là thiết lập, duy trì và cũng cố các mối quan hệ với khách hàng và
các đối tác có liên quan để làm thỏa mãn mục tiêu của các thành viên này.” (Gronroos,
dựa trên mô hình Marketing mối quan hệ)
“Marketing là hoạt động kinh tế trong đó hàng hóa được đưa từ người sản xuất
đến người tiêu dùng.” (Học viện Hamilton, Hoa Kỳ)
“Marketing là một triết lý kinh doanh mà tiêu điểm là người tiêu dùng và lợi
nhuận.” (Công ty General Electric, Hoa Kỳ) [6] 6
Qua các khái niệm trên, có thể rút ra tư tưởng chính của Marketing như sau:
- Khâu tiêu thụ được coi trọng nghĩa là phải bán được hàng.
- Doanh nghiệp chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái mình có.
- Marketing là hoạt động hướng tới thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày một tốt
hơn. Muốn biết thị trường và người tiêu dùng cần gì thì nhà sản xuất phải nghiên cứu
thị trường cẩn thận và có phản ứng linh hoạt.
- Marketing không phải là một hiện tượng mà là một quá trình xuất phát từ khâu
nghiên cứu thị trường, tìm kiếm nhu cầu đến khi tìm ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu đó
và sau đó quá trình này được lặp lại.
- Marketing gắn liền với tổ chức và quản lý, đòi hỏi đưa nhanh tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
8
Như vậy, Marketing được hiểu là tổng hòa nhiều hoạt động, với mục đích rõ
ràng. Trong tài liệu này chúng ta sử dụng khái niệm chính thức khái niệm năm 1985
của hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (America Marketing Associate-AMA) dựa trên mô
hình 4P. Để hiểu được khái niệm này quả không đơn giản chút nào. Để tiếp cận rõ hơn
ở các phần sau, chúng ta hãy tìm hiểu lịch sử Marketing.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Marketing1.2.1. Từ hiện tượng đến ngành khoa học
Ngành khoa học Marketing ra đời là sự tổng kết kinh nghiệm của con người từ
hoạt động thực tiễn. Trong các ngành khoa học xã hội thì ngành Marketing có lẽ là một
trong những ngành non trẻ nhất. Sự xuất hiện của lý thuyết Marketing chỉ bắt đầu từ
những năm 1900. Thế nhưng các hoạt động thực tiễn Marketing đã có rất lâu trước khi
lý luận về Marketing ra đời.
Mầm mống hoạt động thực tiễn Marketing đã có từ thời cổ đại ở Hy Lạp, La
Mã, Trung Quốc, Ai Cập... gắn liền với sự trao đổi hàng hóa trong điều kiện cạnh
tranh. Có thể chứng minh bằng những hoạt động thực tiễn Marketing từ thời cổ đại:
- Khi loài người biết đúc kim loại thành những công cụ lao động như búa, liềm,
cuốc... và đem đi trao đổi, nhiều thợ rèn đã khắc tên họ của mình lên sản phẩm để dễ
bán hơn.
- Tại Trung Hoa thời cổ đại đã có câu danh ngôn: “Không biết cười thì đừng mở
cửa hàng buôn bán.” [11]246
- Tại Việt Nam thời vua Hùng: Mai An Tiêm khi bị đày trên hoang đảo đã phát
hiện ra quả dưa hấu. Ông gieo trồng giống trái quý này và giới thiệu với người dân ở
đất liền biết bằng cách khắc chữ lên trái dưa và thả xuống biển.
Thoạt đầu Marketing xuất hiện qua những hành vi rời rạc gắn với những tình
huống trao đổi nhất định. Như vậy có thể nói Marketing xuất hiện gắn liền với trao đổi
hàng hoá. Nhưng điều đó không có nghĩa là Marketing xuất hiện đồng thời với sự xuất
hiện trao đổi. Marketing chỉ xuất hiện khi trao đổi ở trong một trạng thái hay tình
huống nhất định: hoặc là người bán phải cố gắng để bán được hàng, hoặc là khi người
mua phải cố gắng để mua được hàng. Có nghĩa là tình huống trao đổi làm xuất hiện
9
Marketing là khi người ta phải cạnh tranh để bán hoặc cạnh tranh để mua. Như vậy
nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện Marketing là cạnh tranh. Đặc biệt là với người kinh
doanh, khi thị trường có quá nhiều người bán, sản xuất dư thừa thì các doanh nghiệp
phải nghĩ đến chuyện làm sao thuyết phục khách hàng chọn sản phẩm của mình thay vì
sản phẩm của đối thủ.
Dần dần, những hoạt động kinh doanh thực tiễn được đúc kết thành kinh nghiệm
tại một số nước. Năm 1650, một chuyên gia Nhật Bản tên là Mitsui lập ra cửa hàng
bách hóa đầu tiên trên thế giới với phương châm như sau:
- Sẵn sàng chấp nhận trả lại tiền, đổi lại hàng khi khách hàng mua sản phẩm về
không thích.
- Hãy sản xuất ra những sản phẩm mà khách hàng thích
- Hãy bán cho khách hàng những sản phẩm mà khách hàng thích
Như vậy vào những năm giữa thế kỷ XVII ở Nhật Bản đã hình thành những
sáng kiến mới về cách giao tiếp nhằm làm hài lòng khách hàng như: theo dõi khách
hàng, lắng nghe ý kiến đánh giá của khách hàng để cải tiến sản phẩm và bán hàng, cho
khách hàng có quyền lựa chọn khi mua hàng, có quyền đổi lại hàng nếu họ muốn…
Đây có thể coi là mầm mống sơ khai của Marketing trong mua bán hàng hóa. [3]7
Vào năm 1776 trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”, Adam Smith đã viết
rằng nhu cầu của người sản xuất chỉ là thoả mãn được nhu cầu của khách hàng. Trong
khi triết lý này là phù hợp với triết lý Marketing nhưng nó đã không được áp dụng rộng
rãi cho đến gần 200 năm sau đó.
Đến thế kỷ XIX ở phương Tây người ta đã bắt đầu có những nghiên cứu có hệ
thống về Marketing, xem Marketing là chức năng của các doanh nghiệp nhằm tìm ra
các giải pháp thu hút khách hàng để có thể bán hàng với số lượng nhiều và đạt lợi
nhuận cao. Từ đây người ta cũng đưa ra các phương pháp nghiên cứu và phân biệt thị
trường, chính sách giá cả, chính sách phân phối, chính sách xúc tiến… Cụ thể, tại Hoa
Kỳ vào năm 1842, một thanh niên nêu ra quy tắc bán hàng như sau:
- Khách hàng rất thích được sờ vào sản phẩm và họ chỉ mua khi nào họ được sờ
vào sản phẩm mà thôi.
10
- Vấn đề bày hàng: Cái gì cần bán thì phải bày như thật.
Cũng tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ XX, một nhà kinh doanh nổi tiếng tên là Mc
Shall đã nêu lên triết lý sau: “Khách hàng là luôn luôn hợp lý.”
Đầu những năm 60 của thế kỷ XX, McDonald’s đã phát triển triết lý kinh doanh
của Mc Shall thành một lời cam kết với khách hàng thể hiện qua 2 điều:
Điều 1: “Khách hàng luôn luôn đúng.”
Điều 2: “Nếu khách hàng sai, hãy đọc lại điều 1 lần nữa.”
Trong thực tế Marketing xuất hiện rõ nét từ khi nền đại công nghiệp phát triển,
thúc đẩy sản xuất tăng nhanh và làm cho cung hàng hóa có xu hướng vượt cầu. Khi đó
buộc các nhà kinh doanh phải tìm các biện pháp tốt hơn để tiêu thụ hàng hoá. Đặc biệt
sau những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào những năm 1929-1933, 1937-1938,
1953-1954, 1957-1958... và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2008-2009 với những biến động: khủng hoảng thừa, cạnh tranh khốc liệt và một xã hội
tiêu thụ dần hình thành. Từ thực tiễn đó, Marketing từng bước được nghiên cứu rộng
rãi và ứng dụng trong sản xuất kinh doanh. Quá trình tìm kiếm các giải pháp tốt hơn để
thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa làm cho hoạt động Marketing ngày càng phát triển và là cơ
sở để hình thành một ngành khoa học hoàn chỉnh-ngành khoa học Marketing.
Thuật ngữ Marketing ra đời lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào những năm đầu thế kỷ
XX. Bài giảng đầu tiên về Marketing xuất hiện ở Hoa Kỳ vào năm 1902 tại Đại học
tổng hợp Michigan và đến năm 1910 tất cả các trường đại học quan trọng ở nước này
bắt đầu giảng dạy môn Marketing. Năm 1908, tổ chức Marketing Thương Mại đầu tiên
được thành lập ở Hoa Kỳ, nhiều công ty lúc đó cũng đã thành lập phòng Marketing
riêng. Năm 1926, Hiệp hội Marketing và Quảng cáo được thành lập ở Hoa Kỳ, trên nền
tảng đó về sau thành lập Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (America Marketing Associate-
AMA) năm 1973. Suốt trong gần đầu thế kỷ XX (từ 1914 -1938), Marketing chỉ giảng
dạy trong phạm vi các nước nói tiếng Anh. Sau năm 1945 nó được truyền bá sang Tây
Âu và Nhật Bản…
Các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung (các
nước trong hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa trước đây) tiếp cận với khoa học Marketing
11
chậm hơn. Vào thập niên 1960 của thế kỷ XX, Marketing được phổ cập vào các nước
Xã Hội Chủ Nghĩa. Mãi đến năm 1975 ở Liên Xô (cũ) mới thành lập tiểu ban
Marketing của Liên Xô. Vào những năm 1970, sự phát triển của thương mại quốc tế
được coi như một trong những nhân tố của hòa bình và tiến bộ xã hội. Điều đó thúc đẩy
nhận thức đúng về tầm quan trọng của Marketing ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. [6]13
Quá trình quốc tế hóa của Marketing phát triển rất nhanh. Ngày nay hầu như tất
cả các nước tại Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Á, Châu Úc, Châu Phi đều đã giảng dạy
Marketing và Marketing còn được ứng dụng trong mọi lĩnh vực.
Lịch sử phát triển ngành khoa học Marketing tại Việt Nam cũng đã trải qua
nhiều giai đoạn:
- Tại miền Nam Việt Nam từ trước 1975, đã có việc nghiên cứu và ứng dụng
Marketing trong các doanh nghiệp.
- Sau ngày thống nhất từ 1975-1985, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế
chỉ huy tập trung, sự độc quyền Nhà nước diễn ra trên mọi lĩnh vực, cạnh tranh không
tồn tại. Cơ chế này làm cho các hoạt động Marketing hầu như không được nhắc đến
trong cuộc sống. Thời kỳ này, ngành thương nghiệp đã có khẩu hiệu: “Vui lòng khách
đến, vừa lòng khách đi”. Nhưng khẩu hiệu vẫn chỉ là khẩu hiệu. Tuy nhiên, khái niệm
Marketing vẫn được các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu vào những năm này.
- Đến tháng 12/1986, Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tổ
chức với chủ trương chuyển đổi cơ chế quản lý sang cơ chế thị trường định hướng Xã
Hội Chủ Nghĩa-tức cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Từ sự kiện này, các
hoạt động và quy luật liên quan kinh tế thị trường (trong đó có Marketing) được chính
thức nghiên cứu vận dụng.
- Từ khi Luật Đầu Tư nước ngoài được ban hành năm 1987, Việt Nam đã thu
hút được rất nhiều nhà đầu tư trên thế giới, đặc biệt là các nhà đầu tư của một số quốc
gia kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Singapore… Cùng với công
nghệ, vốn là những kỹ thuật quản lý mới của các nhà đầu tư du nhập vào Việt Nam.
- Từ đầu những năm 1990 đến nay, Marketing dần dần được đưa vào giảng dạy
tại tất cả các trường có chuyên ngành kinh tế và ứng dụng ngày càng rộng rãi trong mọi
12
lĩnh vực ở nước ta. Nếu khoảng một vài thập niên trước đây, chữ Marketing gần như xa
lạ thì nay nó lại trở nên quen thuộc, được sử dụng phổ biến trong cả môi trường học
thuật lẫn môi trường kinh doanh thực tế ở các doanh nghiệp.
1.2.2. Từ truyền thống đến hiện đại
1.2.2.1. Marketing truyền thống (Traditional Marketing)
(Từ đầu thế kỷ XX đến 1945)
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm với mục đích để
bán và do đó luôn coi trọng khâu tiêu thụ. Thị trường giữ vai trò quan trọng trong quá
trình kinh doanh, thời điểm này doanh nghiệp quan niệm là phải tìm những giải pháp
tiêu thụ nhanh hàng hóa của mình bằng cách tập trung vào sản xuất và giảm chi phí sau
đó là sản xuất hàng loạt. Đó chính là cơ sở khoa học và điểm xuất phát của sự hình
thành các hoạt động Marketing. Người ta gọi Marketing trong giai đoạn này là
Marketing truyền thống (Traditional Marketing) hay Marketing thụ động
(Marketing Pasif). Đặc trưng của thị trường trong thời kỳ này:
- Sản xuất chưa phát triển, phạm vi thị trường, số lượng nhà cung cấp còn hạn
chế, thị trường do người bán kiểm soát.
- “Hữu xạ tự nhiên hương” quan điểm của Marketer là nếu sản phẩm mình tốt và
giá rẻ thì khách hàng sẽ chọn lựa sản phẩm của mình.
- Phạm vi hoạt động của Marketing chỉ bó hẹp trong lĩnh vực thương mại nhằm
tìm kiếm thị trường để tiêu thụ những hàng hóa hoặc dịch vụ sẵn có.
- Triết lý bán hàng: “Bán cái mà nhà xuất có nhằm mục tiêu thu lợi nhuận tối
đa cho người bán.”
Marketing gắn liền với hoạt động bán hàng và giới hạn trong lĩnh vực lưu thông
nhằm tìm thị trường để tiêu thụ sản phẩm đã sản xuất, để đạt lợi nhuận nhiều nhất. Ở
giai đoạn này “Marketing” và “Trade (thương mại)” được xem như hai từ đồng nghĩa.
Marketing truyền thống ra đời với quan điểm bán những hàng hóa có sẵn. Vì
vậy, doanh nghiệp tập trung vào khâu bán hàng, tức là “bán cái gì mình có” bằng nghệ
thuật bán hàng khôn khéo với mục đích bán được nhiều hàng hóa và thu lợi nhuận tối
đa. Nghĩa là doanh nghiệp chỉ dựa vào năng lực sẵn có, tay nghề sẵn có,... để làm ra
13
sản phẩm rồi tốn rất nhiều công sức, thời gian, kể cả mưu mẹo,... để bán hết những sản
phẩm đã làm ra. Quan niệm này có một vài nhược điểm:
- Các doanh nghiệp tập trung vào sản xuất hàng loạt dẫn đến hàng hóa dư thừa.
- Các khách hàng khác nhau thì có những nhu cầu khác nhau và khi đời sống
nâng cao thì sở thích của họ không thay đổi.
- Khách hàng không phân biệt được các sản phẩm của các doanh nghiệp khác
nhau trên thị trường.
- Dẫn đến căn bệnh “Marketing thiển cận (Marketing myopia)”. Người bán
quá ưa thích hàng hóa của mình đến nỗi bỏ qua những nhu cầu của khách hàng.
Nhà kinh tế Anh C.Walker trong tác phẩm The Economisc of Marketing (1967)
đã đưa ra nhận định về vấn đề này như sau: “Trong quá khứ, khi các nhà sản xuất hàng
hóa chủ yếu là lo vấn đề sản xuất hàng và cố gắng bằng mọi cách bán cho người tiêu
dùng những hàng hóa mà họ không có nhu cầu.” [6] 14
Như vậy, Marketing truyền thống được duy trì và phát triển đến trước chiến
tranh thế giới thứ hai gắn liền với những đặc trưng nhất định: hoạt động Marketing diễn
ra trên thị trường, trong khâu lưu thông nhằm đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
thụ. Điều kiện cho doanh nghiệp thành công chỉ cần có kỹ năng bán hàng giỏi, quảng
cáo tốt và may mắn có sản phẩm mà thị trường cần.
1.2.2.2. Marketing hiện đại (Modern Marketing) (Sau 1945 đến nay)
Đặc trưng của thị trường sau đại chiến thế giới thứ hai:
- Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, cạnh tranh diễn ra gay gắt, càng nhiều
doanh nghiệp xuất hiện trên thị trường, với công nghệ sản xuất hiện đại làm giá cả
hàng hóa biến động, khủng hoảng thừa liên tiếp xảy ra.
- Tiến bộ khoa học-công nghệ diễn ra nhanh chóng, nhiều phát minh mới và việc
ứng dụng kĩ thuật tiên tiến trong sản xuất.
- Vai trò người mua trở nên quan trọng hơn, người mua bắt đầu khó tính trong
việc lựa chọn các sản phẩm. Nhu cầu con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Những tác động trên đã buộc các nhà kinh doanh phải có những phương pháp
mới để ứng xử hợp lý và kịp thời với thị trường. Các hoạt động của “Marketing truyền
14
thống” không giải quyết được những mâu thuẫn trên. Vì vậy “Marketing hiện đại”
(Modern Marketing) hay còn gọi là “Marketing năng động” (Marketing Dynamique)
đã ra đời. “Marketing hiện đại” đã được mở rộng hơn, toàn diện hơn so với “Marketing
truyền thống”. Thay vì bán hàng hóa có sẵn, coi trọng người sản xuất Marketing hiện
đại coi trọng thị trường trong đó người mua đóng vai trò quyết định, nhu cầu của người
mua là mục tiêu của sản xuất. Doanh nghiệp từ bán hàng thụ động trở nên nhạy cảm,
linh hoạt và năng động hơn với thị trường. Lý thuyết Marketing hiện đại là “Bán cái gì
mà thị trường cần chứ không phải bán cái mình có.”
Người đặt nền móng đầu tiên cho những lý thuyết Marketing hiện đại là Phillip
Kotler. Marketing hiện đại khẳng định rằng điều kiện ban đầu để đạt được những mục
tiêu của doanh nghiệp là xác định được nhu cầu và ước muốn của các thị trường mục
tiêu và đảm bảo mức độ thỏa mãn ước muốn bằng những phương thức có hiệu quả
mạnh mẽ hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Có thể tóm lược sự khác nhau giữa Marketing cổ điển và Marketing hiện đại qua
bảng 1.1. sau:
Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa Marketing cổ điển và Marketing hiện đại
Marketing truyền thống Marketing hiện đạiĐiểm xuất phát Doanh nghiệp Thị trường mục tiêu Đối tượng quan tâm Hàng hóa (Doanh số bán) Nhu cầu khách hàng
Định hướng nỗ lực - Doanh số- Kế hoạch ngắn hạn- Chú trọng nhu cầu người bán
- Khả năng thu lợi- Kế hoạch dài hạn- Chú trọng nhu cầu người mua
Phương tiện đạt mục đích
Nỗ lực bán và các biện pháp kích thích
Nỗ lực tổng hợp Marketing
Mục tiêu cuối cùng Lợi nhuận thông qua doanh số bán
Lợi nhuận thông qua thỏa mãn khách hàng
(Nguồn: [9]23 và một số bổ sung của nhóm biên soạn)
1.2.3. Từ quan điểm sản xuất đến quan điểm Marketing xã hội
Trong suốt lịch sử phát triển của mình, Marketing cũng trải qua những bước
thay đổi trong quan điểm nền tảng cho hoạt động này. Có thể tóm lược 5 quan điểm cơ
bản dẫn dắt các doanh nghiệp tiến hành hoạt động Marketing như sau:
15
- Quan điểm tập trung vào sản xuất (Production concept): Quan điểm hoàn
thiện sản xuất thịnh hành từ thời kỳ cách mạng công nghiệp cho đến cuối những năm
1920. Quan điểm này cho rằng người tiêu dùng sẽ ưa thích những sản phẩm được bán
rộng rãi với giá phải chăng. Vì vậy, những nhà quản trị các doanh nghiệp cần phải tập
trung vào việc tăng quy mô sản xuất và mở rộng phạm vi tiêu thụ sản phẩm. Quan điểm
hoàn thiện sản xuất đã một thời giúp các doanh nghiệp thành đạt trên thị trường. Nhưng
do nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng liên tục thay đổi mà doanh nghiệp không tính
đến điều này, đến một lúc nào đó mặc dù sản phẩm được bán ra với giá hạ nhưng người
tiêu dùng vẫn không ngó tới.
- Quan điểm tập trung vào hoàn thiện sản phẩm (Product concept): Vào đầu
những năm 1930, sản xuất hàng loạt trở nên phổ biến, sự cạnh tranh gia tăng và có rất
ít nhu cầu không được thoả mãn. Quan điểm tập trung vào hoàn thiện sản phẩm ra đời.
Quan điểm này cho rằng người tiêu dùng luôn ưa thích những sản phẩm có chất lượng
cao nhất, nhiều công dụng và tính năng mới. Vì vậy, các nhà quản trị các doanh nghiệp
muốn thành công phải luôn tập trung mọi nguồn lực vào việc tạo ra các sản phẩm có
chất lượng hoàn hảo nhất và thường xuyên cải tiến chúng.
- Quan điểm tập trung vào nỗ lực thương mại (Selling concept): Quan điểm
này cho rằng người tiêu dùng thường bảo thủ và do đó có sức ỳ hay thái độ ngần ngại
trong việc mua sắm hàng hóa. Vì vây, để thành công, doanh nghiệp cần tập trung mọi
nguồn lực và sự cố gắng vào việc thúc đẩy tiêu thụ và khuyến mãi. Quan điểm này
cũng đã đem lại thành công đáng kể cho các doanh nghiệp, vì thế nhiều người vẫn cho
rằng bản chất của Marketing chính là các hoạt động bán hàng và quảng cáo và người ta
rất kinh ngạc khi biết rằng chức năng quan trọng nhất của Marketing không phải là tiêu
thụ. (Xem thêm chương 1 nục 3.1. Chức năng của Marketing)
- Quan điểm Marketing tập trung vào khách hàng (Marketing concept): Xuất
hiện sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi nhiều chủng loại sản phẩm ra đời và sự bán
hàng có những quảng cáo rầm rộ để tuyên truyền về sản phẩm không còn được sử dụng
để tạo ra số lượng hàng bán nhiều nữa. Quan điểm này cho rằng chìa khóa để đạt được
những mục tiêu trong kinh doanh của doanh nghiệp là doanh nghiệp phải xác định
16
đúng những nhu cầu và mong muốn của khách hàng, từ đó tìm mọi cách đảm bảo sự
thỏa mãn nhu cầu và mong muốn đó bằng những phương thức có ưu thế hơn so với đối
thủ cạnh tranh.
Như vậy, quan điểm tập trung vào nỗ lực thương mại là tập trung vào nhu cầu
người bán nhằm biến hàng hóa thành tiền còn quan điểm Marketing tập trung vào
khách hàng là tập trung vào nhu cầu của người mua bằng cách chăm lo đến việc thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng bằng những sản phẩm chất lượng và cả một loạt các yếu
tố có liên quan đến việc sản xuất cung ứng và tiêu thụ sản phẩm đó.
- Quan điểm Marketing tập trung vào đạo đức xã hội (Societal Marketing
concept): Đây là một quan điểm được hình thành vào những năm 1970 và gây được
nhiều sự chú ý, quan tâm của các tầng lớp xã hội. Quan điểm này cho rằng hoạt động
của doanh nghiệp là nhằm xác định nhu cầu, mong muốn và lợi ích của cả thị trường
mục tiêu và thỏa mãn chúng bằng những phương thức hiệu quả hơn so với đối thủ cạnh
tranh đồng thời duy trì và phát triển lợi ích cho người tiêu dùng và toàn xã hội.
Quan điểm Marketing tập trung vào đạo đức xã hội đòi hỏi cân bằng ba yếu tố:
(1) lợi nhuận của doanh nghiệp, (2) nhu cầu của người tiêu dùng, (3) lợi ích của xã hội.
Các giai đoạn phát triển quan điểm Marketing được tóm tắt trong bảng 1.2. sau:
Bảng 1.2: Các giai đoạn phát triển của quan điểm Marketing [2]10
Định hướng Marketing
Tập trung Những đặc trưng và mục đích
Sản xuất Chế tạo - Tăng sản lượng- Kiểm soát và giảm chi phí- Thu lợi nhuận qua bán hàng
Sản phẩm Hàng hóa - Chú trọng chất lượng- Cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng
Bán hàng - Bán những sản phẩm đã sản xuất.- Yêu cầu của người bán
- Xúc tiến và bán hàng tích cực- Thu lợi nhuận nhờ quay vòng vốn nhanh và mức bán cao
Marketing - Xác định những điều khách hàng mong muốn- Yêu cầu của người mua
- Marketing liên kết các hoạt động- Định rõ nhu cầu trước khi sản xuất- Lợi nhuận thu được thông qua sự thỏa mãn và trung thành của khách hàng
Xã hội - Yêu cầu của khách hàng- Lợi ích cộng đồng
Cân đối giữa thỏa mãn khách hàng, lợi nhuận doanh nghiệp và lợi ích lâu dài của xã hội
17
1.2.4. Một số hướng nghiên cứu mới trong Marketing
1.2.4.1. Hướng nghiên cứu 1
Hướng này được nhiều nhà nghiên cứu xây dựng khá hoàn chỉnh theo nguyên
tắc: Thay “mô hình Marketing hỗn hợp (Marketing-Mix)”bằng “mô hình Marketing
mối quan hệ (Relationship Marketing)”.
Mô hình Marketing hỗn hợp (Marketing-Mix):
Mô hình Marketing hỗn hợp do Borden, dựa theo khái niệm “hỗn hợp của các
thành phần (a mixer of ingredients)” của Culliton (1948), đưa ra bao gồm 12 thành
phần. Khái niệm Marketing-Mix bắt đầu trở nên phổ biến sau khi vào năm 1964 Neil
H.Borden xuất bản bài báo “Các khái niệm Marketing-Mix”. Những nguyên liệu trong
Marketing-Mix của Borden bao gồm 12 thành phần: (1) Hoạch định sản phẩm (Product
Planning), (2) Định giá (Pricing), (3) Xây dựng thương hiệu (Branding), (4) Các kênh
phân phối (Channels of Distribution), (5) Bán hàng cá nhân (Personal Selling), (6)
Hình 2.5: Mô hình hành vi mua của người tiêu dùng [9]121
Theo hình trên, các yếu tố kích thích được liệt kê trong ô hình chữ nhật bên trái
và được chia thành 2 nhóm. Nhóm 1: các yếu tố kích thích của Marketing bao gồm 4
58
Các kích thích marketing Các kích thích khácSản phẩm Giá cả Phân phốiChiêu thịKinh tếKỹ thuậtVăn hóaChính trị
Hộp đen của người muaCác đặc tính của người muaTiến trình quyết định của người mua
Phản ứng của khách hàng Chọn sản phẩm Chọn hiệuChọn nơi muaSố lượng mua
Kích tố Marketing:Thương hiệuGiá cảPhân phốiChiêu thị
ĐẦ
U V
ÀO
Kích tố phi Marketing:Kinh tếChính trịVăn hoáXã hội
Nhận dạng nhu cầu Tìm kiếm thông tin:
- Từ nhóm- Từ hoạt động Marketing- Từ công chúng- Từ kinh nghiệm
Đánh giá thay thế
Tâm lý:Động cơKiến thứcNhận thứcNhân cáchThái độ
QU
Á T
RÌN
H
Mua hàng:Thử
Lặp lại
Đánh giá sau khi mua
ĐẦ
U R
A
Kinh nghiệm
Hành vi hậu quyết định
phần tử: sản phẩm, giá cả, phân phối, chiêu thị. Nhóm 2: Các tác nhân kích thích khác
bao gồm những lực lượng thuộc môi trường của người mua như: môi trường kinh tế, kỹ
thuật, chính trị, văn hóa. Những phản ứng của người mua có thể quan sát được, được
liệt kê ở ô chữ nhật bên phải, nó bao gồm những hành vi mà người mua bộc lộ trong
việc: Lựa chọn sản phẩm, lựa chọn nhãn hiệu, lựa chọn người cung ứng, lựa chọn thời
gian và khối lượng mua.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của Marketer là hiểu được cái gì đang xảy ra trong
“hộp đen” ý thức của người tiêu dùng (Consumer Black Box) khi tiếp nhận những tác
nhân kích thích của thị trường. Hộp đen ý thức của người mua được chia thành hai
phần, phần thứ nhất là những đặc tính của người mua, phần thứ hai là quá trình quyết
định mua của người tiêu dùng. Kết quả của việc mua sắm hàng hóa sẽ phụ thuộc vào
những quyết định này. Đây cũng là hai nội dung cơ bản của việc nghiên cứu hành vi
mua của người tiêu dùng.
2.4.2. Những yếu tố tác động đến hành vi mua của người tiêu dùng
Hành vi mua của người tiêu dùng là một bộ phận của hành vi con người, các
quyết định mua sắm và tiêu dùng hàng hóa của họ chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố
khác nhau. Đặc tính của người mua sẽ được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều yếu
tố khác nhau. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng được phân
chia thành bốn nhóm chính theo hình 2.6:
Hình 2.6: Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng hành vi mua của người tiêu dùng [12]264
59
Văn hóa
Văn hóa
Tiểu văn hóa
Giai tầng xã hội
Xã hội
Nhóm vàGia đình
Vai trò và địa vị xã hội
Cá nhân
Độ tuổi Chu kỳ sống gia đìnhNghề nghiệpHoàn cảnh kinh tế Cá tínhSự nhận thức
Tâm lý
Động cơTri giácKiến thứcNiềm tin và quan điểm
Người mua
Phần lớn các yếu tố không chịu sự kiểm soát của Marketer, nhiệm vụ của
Marketer là phải nghiên cứu theo dõi các yếu tố để hiểu về hành vi của người tiêu
dùng.
2.4.2.1. Các yếu tố văn hóa
- Văn hóa: Là một hệ thống những giá trị, đức tin, truyền thống và các chuẩn
mực hành vi. Văn hóa được hình thành và tiến triển qua nhiều thế hệ, được truyền từ
đời này qua đời khác và thường được hấp thu ngay từ buổi đầu trong đời sống mỗi con
người, từ gia đình, trường học, tôn giáo, trong công việc và bằng giao tiếp xã hội với
các thành viên khác của cộng đồng. Ví dụ: một người lớn lên ở Mỹ sẽ tiếp xúc với các
giá trị: thành tựu và thành công, cái tôi cá nhân, tự do, tiện nghi vật chất… Một người
lớn lên ở Việt Nam sẽ tiếp xúc với các giá trị: tính cộng đồng, gia đình, sự tiết kiệm, sự
ràng buộc của huyết thống và dòng họ…
Văn hóa là nguyên nhân đầu tiên, cơ bản quyết định nhu cầu và hành vi của con
người mạnh hơn bất kỳ một lập luận logic nào khác. Những điều cơ bản về giá trị, sự
cảm thụ, sự ưa thích, tác phong, thói quen, hành vi ứng xử mà chúng ta quan sát được
qua việc mua sắm hàng hóa, đều chứa đựng bản sắc văn hóa.
- Tiểu văn hóa (nhánh văn hóa): Nguồn gốc dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, tín
ngưỡng, môi trường tự nhiên, cách kiếm sống của con người gắn bó với tiểu văn hóa,
một bộ phận nhỏ của văn hóa luôn có ảnh hưởng sâu sắc tới sự quan tâm, cách đánh giá
về giá trị hàng hóa và sở thích. Cách thức lựa chọn, mua sắm và sử dụng hàng hóa của
những người thuộc tiểu văn hóa khác nhau là khác nhau. Ví dụ: Một người sinh ra
trong gia đình có gốc miền Trung có thể bị ảnh hưởng bởi tính ăn chắc mặc bền, chịu
khó và tiết kiệm của người miền Trung. Khi chọn mua một chiếc xe máy, người mày
có thể sẽ chọn một chiếc xe không quá đắt tiền, nhưng phải chạy bền, ít hao xăng…
- Tầng lớp xã hội: Là những nhóm tương đối ổn định, trong khuôn khổ xã hội
được sắp xếp theo thứ bậc đẳng cấp và được đặt trưng bởi những quan điểm giá trị, lợi
ích và hành vi đạo đức giống nhau ở các thành viên. Marketer cần quan tâm là những
người không cùng một tầng lớp xã hội sẽ có khuynh hướng xử sự khác nhau. Họ có
những sở thích về hàng hóa, nhãn hiệu sản phẩm, lựa chọn địa điểm mua hàng, phương
60
thức phục vụ khác nhau… Sự khác biệt này bộc lộ rõ nét đối với hàng hóa như quần
áo, đồ nội thất, xe hơi, hoạt động vui chơi, giải trí.
2.4.2.2. Các yếu tố xã hội
Hành vi mua của người tiêu dùng được quy định bởi những yếu tố mang tính
chất xã hội như: các nhóm tham khảo, gia đình, vai trò và địa vị xã hội.
- Các nhóm tham khảo: Là một nhóm có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến
thái độ và hành vi mua của con người. Như bạn thân, láng giềng, đồng nghiệp… có ảnh
hưởng trực tiếp đến thái độ hay hành vi của những thành viên của nhóm. Ngoài ra còn
có những nhóm mang tính chất hiệp hội như: Tôn giáo, hiệp hội ngành nghề, công
đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ,… nhóm vui chơi giải trí (câu lạc bộ thể dục thể
thao, hội những người chơi cây cảnh,…)
Ảnh hưởng của nhóm xã hội tới hành vi mua của một cá nhân thường thông qua
dư luận xã hội của nhóm. Những ý kiến, quan niệm của những người trong nhóm đánh
giá về các sự kiện, hàng hóa, dịch vụ luôn là những thông tin tham khảo đối với quyết
định của một cá nhân. Cá nhân nào càng muốn hòa đồng với cộng đồng của mình thì
ảnh hưởng của dư luận nhóm càng lớn.
Đối với những Marketer, nhiệm vụ là phải cố gắng phát hiện tất cả những nhóm
tiêu biểu ở khúc thị trường mục tiêu và phân chia họ thành 3 nhóm tùy thuộc vào mức
độ ảnh hưởng tới hành vi của một cá nhân, 3 nhóm đó là: Nhóm 1, bao gồm những cá
nhân gây ảnh hưởng đến hành vi và phong cách sống của cá nhân. Nhóm 2, những cá
nhân ảnh hưởng trực tiếp đến quan niệm và ý thích tạo ra khuynh hướng muốn “giống
hệt” như các thành viên khác trong nhóm. Nhóm 3, bao gồm những cá nhân tạo ra
những ảnh hưởng có tính chất áp lực buộc cá nhân thành viên phải tuân theo, họ
thường là những bậc đáng kính.
- Gia đình: Gia đình của người mua được coi là yếu tố ảnh hưởng mạnh, thậm
chí được coi trọng hơn các yếu tố khác tới hành vi mua vì hai lý do: Thứ nhất, sự biến
động của nhu cầu hàng hóa luôn gắn với những sự hình thành và biến động của gia
đình. Thứ hai, những quyết định mua sắm của những cá nhân luôn chịu ảnh hưởng của
các cá nhân khác trong gia đình.
61
Điều mà các Marketer quan tâm nhất khi nghiên cứu gia đình là vai trò và ảnh
hưởng tương đối của người vợ, người chồng, con cái trong việc mua sắm các loại hàng
hóa và dịch vụ cụ thể. Vai trò và ảnh hưởng của chồng vợ thay đổi tùy thuộc vào loại
sản phẩm, vai trò và địa vị họ nắm giữ trong gia đình, trình độ hiểu biết và kinh nghiệm
về các lĩnh vực hàng hóa khác nhau.
- Vai trò và địa vị xã hội: Vai trò, địa vị xã hội là vị trí của một cá nhân trong
các nhóm ảnh hưởng của họ. Vai trò của một cá nhân là các hành động mà mọi người
mong đợi người đó thực hiện. Địa vị là thước đo tầm quan trọng người ta gắn cho một
vai trò. Người ta thường chọn các sản phẩm và dịch vụ có thể chuyển tải được thông
điệp về vai trò và địa vị xã hội của mình.
2.4.2.3. Các yếu tố cá nhân
Các quyết định mua sắm hàng hóa của người mua luôn chịu ảnh hưởng lớn của
những yếu tố thuộc về cá nhân người ấy như tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế,
lối sống, cá tính và những quan niệm về chính bản thân mình.
- Tuổi tác và đường đời: Ở những mức tuổi khác nhau, người tiêu dùng sẽ có
những nhu cầu và mong muốn khác biệt. Tính chất tiêu dùng cũng phụ thuộc vào giai
đoạn của chu kỳ sống gia đình, ở từng thời điểm của trạng thái gia đình mà người tiêu
dùng có những nhu cầu khác nhau, sở thích khác nhau, do đó có những hành vi và sự
lựa chọn khác nhau trong mua sắm.
- Hoàn cảnh kinh tế: Thể hiện mức thu nhập và chi tiêu của người đó và điều
này có ảnh hưởng rất lớn đến cách lựa chọn sản phẩm và dịch vụ của cá nhân đó.
- Nghề nghiệp: Nghề nghiệp có ảnh hưởng nhất định đến tính chất sản phẩm
được chọn. Do tính chất công việc khác nhau, con người sẽ có những nhu cầu khác biệt
về quần áo, phương tiện vận chuyển, lựa chọn nơi giải trí, ăn uống,… Công việc cũng
ảnh hưởng đến cách thức tiến hành việc mua sắm, thói quen mua hàng. Sự khác biệt về
nghề nghiệp cũng tạo ra nhu cầu rất khác nhau về sản phẩm, chất lượng, giá cả và tính
cấp thiết của sản phẩm đó.
- Phong cách sống: Lối sống tồn tại như một sự đáp ứng của cá nhân đối với
một hệ thống nhu cầu có liên quan. Lối sống của một người được thể hiện qua hành
62
động, sự quan tâm và quan điểm của người đó về những gì thuộc môi trường xung
quanh. Lối sống gắn rất chặt với nguồn gốc xã hội, tiểu văn hóa và nghề nghiệp song
lối sống còn chứa đựng nhiều hơn thế. Lối sống phát họa một cách đầy đủ nhất chân
dung của con người. Sự lựa chọn hàng hóa của người tiêu dùng thể hiện lối sống của
họ. Với Marketer, khi soạn thảo những chiến lược Marketing, đặc biệt là chiến lược
quảng cáo cần phải khám phá được mối liên quan giữa hàng hóa và lối sống
- Cá tính và quan niệm bản thân: Cá tính là đặc điểm tâm lý nổi bật của con
người tạo ra thế ứng xử có tính ổn định nhất quán đối với môi trường xung quanh. Cá
tính thường được mô tả bằng những đặc tính vốn có của con người như: tính tự tin, tính
thận trọng, tính tự lập, tính khiêm nhường, tính hiếu thắng, tính ngăn nắp, tính năng
động, tính bảo thủ, tính cởi mở, tính cẩn trọng… Cá tính và thói quen bộc lộ hành vi
mua sắm hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ.
2.4.2.4. Các yếu tố tâm lý
Ý thức là một dạng phản ánh tâm lý cao nhất của riêng con người. Tùy theo mức
độ chín mùi của ý thức, mà mỗi khách hàng có những hành vi mua khác nhau trong quá
trình lựa chọn hàng hóa, giao tiếp mua bán... Ý thức của con người được kết cấu bởi
các yếu tố cơ bản gồm: Động cơ, nhận thức, niềm tin và thái độ.
- Động cơ: Động cơ là nhu cầu đã trở nên bức thiết đến mức buộc con người
phải hành động để thoả mãn nó.
Động cơ thúc đẩy là xu hướng và sự cố gắng để thoả mãn một mong muốn hoặc
một mục tiêu nhất định. Động cơ thúc đẩy là một phản ứng nối tiếp như sau:
Nhu cầu mong muốn thôi thúc hành động sự thoả mãn
Khoa học Marketing ứng dụng rất nhiều lý thuyết của khoa học hành vi và tâm
lý để phân tích hành vi người tiêu dùng. Một trong những lý thuyết về tâm lý đó là lý
thuyết về động cơ của Maslow.
63
NHU CẦU TỰ THỂ HIỆN (SELF-ACTUALISATION NEEDS)
(nhu cầu tự phát triển và thể hiện mọi tiềm năng)
NHU CẦU ĐƯỢC TÔN TRỌNG (EGO NEEDS)(nhu cầu được nổi tiếng, có địa vị xã hội…)
NHU CẦU XÃ HỘI (PHYSIOLOGICAL NEEDS)(nhu cầu tình cảm, tình yêu…)
NHU CẦU AN TOÀN (SAFETY AND SECURITY NEEDS)(nhu cầu ổn định, an toàn, được bảo vệ…)
NHU CẦU SINH LÝ (PHYSIOLOGICAL NEEDS)(nhu cầu về thực phẩm, nhà ở, không khí…)
Hình 2.7: Sơ đồ phân cấp nhu cầu con người của Maslow [9]135
Các nhu cầu bậc thấp: gồm nhu cầu sinh lý và nhu cầu an toàn. Nhu cầu bậc
thấp là có giới hạn và được thoả mãn chủ yếu từ bên ngoài (việc thoả mãn thường dễ
hơn). Các nhu cầu bậc cao: gồm các nhu cầu xã hội, tự trọng và tự thể hiện, được thoả
mãn chủ yếu từ bên trong (việc thoả mãn thường khó hơn)
Trình tự thoả mãn nhu cầu là đi từ thấp đến cao (trước tiên là các nhu cầu bậc
thấp), khi các nhu cầu bậc thấp được thoả mãn thì nó không còn tính chất động viên
nữa, lúc đó nhu cầu bậc cao sẽ xuất hiện.
- Nhận thức: Động cơ thúc đẩy con người hành động song hành động của con
người lại phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của họ vào môi trường xung quanh. Hai
khách hàng có cùng động cơ, cùng vào một siêu thị nhưng sự lựa chọn nhãn hiệu hàng
hóa, số lượng hàng hóa mà họ mua sắm hoàn toàn khác nhau. Thái độ của họ về mẫu
mã, giá cả, chất lượng mặt hàng, hệ thống dịch vụ, thái độ nhân viên bán hàng có thể
không giống nhau. Đó là kết quả của nhận thức về những kích thích Marketing của họ
không giống nhau.
Tại sao con người lại nhận thức về một tình huống cụ thể một cách khác biệt?
Chúng ta luôn tiếp nhận thông tin theo 5 giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, xúc
giác và vị giác. Tuy nhiên mỗi người trong chúng ta đều tiếp nhận, tổ chức và diễn đạt
những thông tin đó theo một cách thức riêng biệt có sử dụng những kiến thức, kinh
nghiệm, trí nhớ của riêng mình. Vậy có thể định nghĩa nhận thức là một quá trình con
người lựa chọn. Một ngày chúng ta tiếp xúc với vô vàn kích thích. Hiển nhiên chúng ta
không thể phản ứng với tất cả những tác nhân đó. Quan trọng là các nhà Marketing cần
biết người ta sẽ chọn lọc như thế nào để chọn những tác nhân mà con người sẽ chọn lọc
64
nhiều nhất. Các nhà làm Marketing phải luôn sáng tạo và vận dụng nhiều hình thức
khác nhau để đánh vào nhận thức người tiêu dùng.
- Sự hiểu biết và kinh nghiệm: Sự hiểu biết diễn tả những thay đổi trong hành
vi của con người phát sinh từ kinh nghiệm. Kinh nghiệm trong ý thức của con người là
trình độ của họ về cuộc sống, về hàng hóa, về đối nhân xử thế, đó là kết quả của những
tương tác của động cơ (mục đích mua hàng), các tác nhân kích thích (những hàng hóa
cụ thể), những gợi ý (ý kiến gợi ý của các thành viên khác như bạn bè, nguồn gốc gia
đình, các chương trình truyền thông quảng cáo), sự đáp lại và củng cố (những điều xảy
ra khi người mua sử dụng hàng hóa so với những mong đợi của họ về hàng hóa đó). Ý
nghĩa thực tiễn của lý thuyết này đối với Marketer có thể nêu ra 2 trường hợp áp dụng
cụ thể như sau:
+ Đối với các doanh nghiệp mà sản phẩm của họ đã có những ghi nhận tốt trong
hiểu biết của khách hàng, cần phải duy trì và củng cố những cặp nhu cầu, sản phẩm sao
cho phù hợp với động cơ của người mua, đồng thời với việc tổ chức các hoạt động
Marketing khác để hỗ trợ và phát triển những hiểu biết của khách hàng theo xu hướng
tích cực.
+ Một ứng dụng khác của lý thuyết sự hiểu biết là dành cho những doanh nghiệp
mới, họ có thể thâm nhập thị trường bằng cách cung ứng những sản phẩm, gợi nên sự
ưa chuộng giống như đối thủ cạnh tranh. Người mua dường như sẽ dễ dàng dịch
chuyển lòng trung thành sang những nhãn hiệu tương tự hơn là sang những nhãn hiệu
họ chưa biết đến. Song cũng có thể doanh nghiệp sẽ thành công khi họ thiết kế ra
những hàng hóa gợi được sự thôi thúc khác bằng cách cống hiến những lợi ích mạnh
mẽ cho khách hàng khiến cho họ phải thay đổi sự hiểu biết của mình.
- Niềm tin và quan điểm: Thông qua kinh nghiệm và sự hiểu biết người ta có
được niềm tin và thái độ, đến lượt chúng lại ảnh hưởng đến hành vi mua của khách
hàng.
Niềm tin là sự nhận định, chứa đựng một ý nghĩa cụ thể mà người ta có được
một cái gì đó. Chẳng hạn, nhiều người mua vẫn tin rằng giá cả và chất lượng có mối
65
quan hệ với nhau, giá thấp sẽ là hàng không tốt. Sự hình thành niềm tin về cơ bản xuất
phát từ sự hiểu biết nên ảnh hưởng khá quan trọng đến hành vi mua.
Các nhà kinh doanh cần quan tâm đặc biệt đến niềm tin của khách hàng đối với
những hàng hóa và dịch vụ cụ thể để thiết kế ra những sản phẩm hoặc hình ảnh của
nhãn hiệu đáp ứng được niềm tin của khách hàng. Một niềm tin của khách hàng bị sai
lệch sẽ gây rất nhiều trở ngại cho quyết định mua, đòi hỏi Marketer phải bỏ ra những
nỗ lực đáng kể để sữa lại niềm tin ấy.
Quan điểm hay thái độ là sự đánh giá có ý thức những tình cảm và những xu
hướng hành động có tính chất tốt hay xấu về một vấn đề nào đó. Thái độ đặt con người
vào một khung suy nghĩ, thích hay không thích, cảm thấy gần gũi hay xa lánh một đối
tượng hay một ý tưởng cụ thể nào đó. Người mua sẽ tìm đến nhãn hiệu mà họ có thái
độ tốt khi động cơ xuất hiện.
Quan điểm hay thái độ rất khó thay đổi vì nó dẫn dắt con người hành động theo
một thói quen khá bền vững mà người ta có thể tiết kiệm được công sức và suy nghĩ
khi hành động. Thái độ có một cấu trúc logic bởi nhiều yếu tố nên việc điều chỉnh nó
rất phức tạp. Thay đổi một quan điểm đòi hỏi phải thay đổi về nhận thức, phương thức
ứng xử và cần có thời gian. Vì vậy theo quan niệm của Marketing, cách thức tốt nhất
mà một doanh nghiệp cần làm là định vị sản phẩm của họ theo quan điểm của người
mua hơn là cố gắng tìm cách sửa đổi quan điểm đó. Dĩ nhiên không loại trừ trường hợp
ngoại lệ, người ta có thể làm thay đổi một quan điểm khi đưa ra một thiết kế mới. Nếu
làm được điều đó lại là một cơ hội tốt cho kinh doanh.
Tóm lại: Quyết định mua sắm hàng hóa của mỗi con người là kết quả tác động
qua lại phức tạp của các yếu tố văn hóa, xã hội, tâm lý. Trong đó có nhiều yếu tố, việc
gây ảnh hưởng của các nỗ lực Marketing là có hạn, song nó rất hữu ích trong việc giúp
cho các Marketer có thể nhận dạng chính xác được người mua ở các khúc thị trường
khác nhau.
2.4.3. Quá trình thông qua quyết định mua hàng của người tiêu dùng
Chúng ta hãy tìm hiểu qui trình dẫn dắt người tiêu dùng, qua những trình tự nào
để ra quyết định và thực hiện việc mua hàng.
66
Hình 2.8: Quá trình thông qua quyết định mua hàng của người tiêu dùng [19]82
Từ mô hình trên, ta rút ra những kết luận và lưu ý:
-Tiến trình mua đã bắt đầu rất sớm trước khi hành động mua xảy ra và còn kéo
dài khá lâu sau đó.
- Hành vi mua gồm nhiều bước và trong mỗi bước người tiêu dùng phải có
những quyết định cụ thể. Nó được ví von như những bậc thang đi lên về nhận thức của
người tiêu dùng trong việc mua sắm.
- Trong mua sắm thông thường, người tiêu dùng có thể bỏ qua hay đảo lộn một
số bước trong tiến trình trên.
- Mô hình này trình bày tất cả các cân nhắc nảy sinh chỉ khi người tiêu dùng
đứng trước một tình huống mua mới và phức tạp.
- Mặc dù đa số các trường hợp việc mua sắm thường được khách hàng cân nhắc
trước, nhưng cũng có trường hợp việc mua sắm thường xuất hiện hoàn toàn tình cờ,
ngẫu nhiên mà không có cân nhắc từ trước. Ví dụ việc mua quà lưu niệm của du khách.
Trong trường hợp này, yếu tố hoàn cảnh và cách trưng bày đóng vai trò quan trọng
trong quyết định của khách hàng. [3]56
67
Sự hiểu biết về nhu cầu của khách hàng và quá trình mua hàng của họ là cơ sở
đảm bảo cho các hoạt động Marketing đạt được thành công. Công việc của Marketer là
tìm hiểu những ảnh hưởng đang tác động đến người tiêu dùng và cách xử sự của họ tại
mỗi giai đoạn. Qua việc phân tích quá trình tâm lý của khách hàng từ lúc ý thức nhu
cầu, khảo sát thông tin, đánh giá phương án lựa chọn đến khi đi đến quyết định mua
sắm, Marketer có thể thu lượm được nhiều thông tin để xác định chương trình
Marketing hữu hiệu đáp ứng nhu cầu khách hàng đối với thị trường mục tiêu của doanh
nghiệp. Từ đó, triển khai các chương trình Marketing có ý nghĩa và hiệu quả cho thị
trường trọng điểm của mình.
2.4.4. Những phương án thông qua quyết định mua sản phẩm mới
2.4.4.1. Quy trình mua hàng đối với sản phẩm mới (05 giai đoạn)
Nhận biết: đã biết nhưng chưa có thông tin đầy đủ
Quan tâm: bị kích thích tìm kiếm thông tin
Đánh giá: quyết định có nên dùng thử sản phẩm mới hay không?
Dùng thử: dùng thử ở số lượng ít để có ý niệm đầy đủ hơn giá trị của nó
Chấp nhận: quyết định sử dụng thường xuyên và đầy đủ sản phẩm mới
Nhà sản xuất phải dẫn dắt khách hàng đi từ giai đoạn này sang giai đoạn kia
bằng các công cụ Marketing.
2.4.4.2. Các dạng khách hàng của sản phẩm mới
Rogers đưa ra 05 dạng khách hàng như sau:
- Người khai phá (innovators): Là những người ưa thích cái mới, khi dùng thử
họ có phiêu lưu đôi chút
- Người tiên phong sớm (early adopters): Là những người dẫn dắt dư luận,
chấp nhận những ý tưởng sản phẩm mới rất sớm mặc dù có một thái độ thận trọng
- Số đông chấp nhận sớm (early majority): Là những người dè dặt, họ chấp
nhận cái mới sớm hơn người trung bình
- Số đông chấp nhận muộn (late majority): Là những người có tính hoài nghi,
họ chỉ chấp nhận cái mới sau khi sản phẩm mới đã được sử dụng thử
68
- Người chấp nhận trễ (laggards): Là người bị trói buộc bởi các tập tục truyền
thống, thường hoài nghi và chỉ chấp nhận cái mới trong chừng mực nào đó.
Hình 2.9: Các loại khách hàng phân theo thời gian chấp nhận sản phẩm mới
(Nguồn: [15]131 trích nguồn từ Rogers, E.M., Diffusion of Innovations, 1995)
2.5. Phân tích thị trường tổ chức và hành vi mua của tổ chức
(B2B-Bussiness to Bussiness)2.5.1. Khái niệm
Theo Webster và Wind: “Việc mua của tổ chức là một tiến trình quyết định,
theo đó các tổ chức chính thức thiết lập nên các nhu cầu với những sản phẩm và dịch
vụ được mua và định dạng, đánh giá, lựa chọn, trong số các hiệu hàng và các nhà
cung cấp khác nhau.”
Hình 2.10: Mô hình hành vi mua hàng của tổ chức [7]122
2.5.2. Đặc điểm của thị trường B2B
- Đặc điểm về khách hàng: Các tổ chức sử dụng sản phẩm để vận hành tổ chức
69
Các kích thích Marketing Các kích thích khácSản phẩm Giá cả Phân phốiChiêu thịKinh tếKỹ thuậtVăn hóaChính trị
Phản ứng của người muaChọn sản phẩm Chọn nhà cung cấpĐiều kiện thanh toánSố lượng mua
Tổ chức
Trung tâm mua
Tiến trình quyết định
mua
Khai phá Tiên phong sớm Số đông sớm Số đông muộn Chấp nhận trễ
- Đặc điểm về địa lý: Mật độ tập trung theo vùng địa lý của thị trường các doanh
nghiệp rất cao
- Đặc điểm về tập trung: Số lượng người mua ít, nhưng số lượng sản phẩm/lần
mua lớn
- Đặc điểm về cầu: cầu của sản phẩm là cầu đầu vào phát sinh từ cầu đầu ra. Vì
vậy cầu kém co giãn, dao động theo cầu đầu ra và có tính liên kết-bổ sung trong sử
dụng
- Đặc điểm mua bán: Quan hệ người mua-người bán chặt chẽ, người mua là các
nhà chuyên môn, quyết định mua hàng mang tính tập thể, thường là mua trực tiếp,
người mua-người bán có thể là khách hàng lẫn nhau.
2.5.3. Hình thức và quy trình mua hàng trong thị trường B2B
2.5.3.1. Hình thức mua hàng trong thị trường B2B
Trong thị trường sản phẩm công nghiệp có 3 hình thức mua hàng. Đó là: (1)
Mua hàng mang tính chất lặp lại hoàn toàn, (2) Mua hàng lặp lại nhưng có điều chỉnh,
(3) Mua mới hoàn toàn.
- Mua hàng lặp lại: Là dạng mua hàng trong đó khách hàng đã mua hàng của
doanh nghiệp, đã chấp nhận và thoả mãn với các điều kiện mua bán. Vì vậy, khách
hàng chỉ cần lặp lại khi tiếp tục mua hàng.
- Mua hàng lặp lại nhưng có điều chỉnh: Xảy ra trong trường hợp khách hàng
đã mua hàng của doanh nghiệp nhưng điều chỉnh một số chi tiết trong lần lặp lại. Điều
chỉnh này có thể do khách hàng chưa thỏa mãn một số điểm trong lần mua trước, hoặc
do chính khách hàng muốn thay đổi cho phù hợp với điều kiện kinh doanh của họ như
số lượng, thời gian giao hàng…
- Hình thức mua hàng mới: xảy ra trong trường hợp khách hàng lần đầu ra
quyết định mua hàng của doanh nghiệp. Trong trường hợp này quá trình ra quyết định
mua hàng của khách hàng sẽ trải qua một quy trình gồm 8 bước: (1) Nhận dạng nhu
cầu, (2) Mô tả nhu cầu, (3) Xác định đặc điểm, số lượng sản phẩm, (4) Tìm các nhà
cung tiềm năng, (5) Phân tích những đề nghị của nhà cung cấp, (6) Lựa chọn nhà cung
cấp, (7) Xác định phương thức mua, (8) Đánh giá việc thực hiện của nhà cung cấp.
70
2.5.3.2. Quy trình mua hàng trong thị trường B2B
Quy trình mua hàng công nghiệp trong các hình thức mua hàng được trình bày
trong bảng 2.2 dưới đây:
Bảng 2.2: Quy trình mua hàng và các hình thức mua hàng trong thị trường B2B
Các bước quy trìnhHình thức mua hàng
Lần đầu Lặp lại Lặp lại có điều chỉnh
1. Nhận dạng nhu cầu Cần thiết Không cần thiết Có thể2. Mô tả nhu cầu Cần thiết Không cần thiết Có thể3. Xác định đặc điểm, số lượng sản phẩm
Cần thiết Không cần thiết Cần thiết
4. Tìm các nhà cung tiềm năng Cần thiết Không cần thiết Có thể5. Phân tích những đề nghị của nhà cung cấp
Cần thiết Không cần thiết Có thể
6. Lựa chọn nhà cung cấp Cần thiết Không cần thiết Có thể7. Xác định phương thức mua Cần thiết Không cần thiết Có thể8. Đánh giá việc thực hiện của nhà cung cấp
Cần thiết Cần thiết Cần thiết
(Nguồn: [15]135 trích nguồn từ Robinson, Faris & Wind, Industrial Buying and
Creative Marketing, Boston: Allyn & Bacon, 1967)
Tóm lại, hành vi mua hàng công nghiệp vẫn chịu chi phối bới các yếu tố môi
trường, yếu tố tổ chức và các yếu tố cá nhân của người mua hàng.
71
Tóm tắt chương 2 Thông tin Marketing là một yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo Marketing có
hiệu quả. Các quyết định của nhà quản trị nếu có căn cứ vào hệ thống thông tin
Marketing sẽ đúng đắn hơn. Môi trường Marketing bao gồm những yếu tố thuộc các
lĩnh vực mà doanh nghiệp cần phải tìm cho mình các khả năng mới để khai thác thị
trường hay phát hiện ra các nguy cơ tiềm ẩn để có các biện pháp hạn chế.
Cần chú ý qui trình mua hàng và các nhóm yếu tố ảnh hưởng tới hành vi mua
hàng của khách hàng. Có bốn nhóm yếu tố ảnh hưởng tới hành vi mua hàng của người
tiêu dùng là: văn hóa, xã hội, cá nhân và tâm lý. Trong qui trình mua hàng của người
tiêu dùng thì người làm Marketing cần có những hành động khác nhau cho từng bước.
Khách hàng trong thị trường tổ chức có hành vi mua phức tạp hơn hành vi mua
của người tiêu dùng bởi vì có nhiều người liên quan đến quá trình quyết định hơn,
những đề xuất mua khác nhau luôn được đòi hỏi và so sánh, các yếu tố khách quan như
giá thành và tiện nghi của dịch vụ có thể có giá trị hơn những yếu tố cảm xúc.
Câu hỏi ôn tập chương 21. Khái niệm và các bộ phận cấu thành của một hệ thống thông tin Marketing
2. Phân tích quy trình nghiên cứu Marketing.
3. Hãy tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản ảnh hưởng hành vi mua quần áo
thời trang tại Việt Nam.
4. Phân tích mô hình hành vi mua của người tiêu dùng và hành vi mua của tổ chức.
Tài liệu tham khảo chương 2[19] ThS. Đỗ Thị Đức (2000), Hành vi người tiêu dùng, NXB Thống kê.
[20] Philip Kotler (Nhóm biên dịch: TS. Vũ Thị Phương Anh, ThS. Nguyễn Minh Đức,
PGS.TS. Hồ Đức Hùng, TS. Nguyễn Đông Phong, TS. Phan Đình Quyền, hiệu đính:
TS.Phan Thăng) (2008), Những phương thức sáng tạo, chiến thắng và khống chế thị
trường, NXB Tổng hợp TP.HCM.
[21] “KFC _ đơn giản là Fingers licking good”, www.kfcvietnam.com.vn
[22] “Marketing Research: bắt mạch thị trường”, Tạp chí Marketing, 03/02/2009
72
CHƯƠNG 3: CHIẾN LƯỢC THỊ TRƯỜNG
“Nếu bạn cho rằng tất cả mọi người đều trở thành khách hàng của mình thì bạn sẽ
chẳng có nổi một khách hàng nào.”
Donald E.Sexton, giảng viên trường Đại Học Columbia
“Mô hình kiểu cũ, hệ thống sản xuất hàng loạt, truyền thông đại chúng và Marketing
đại chúng đang được thay thế bởi một mô hình hoàn toàn mới, hệ thống kinh tế một đối
một. Hệ thống 1:1 sẽ được mô tả bởi việc sản xuất theo yêu cầu, phương tiện truyền
thông nhắm đến từng cá nhân và Marketing một đối một, tất cả sẽ thay đổi hoàn toàn
các thông lệ cạnh tranh và phát triển kinh doanh. Thay vì cổ phiếu trên thị trường, mục
tiêu cạnh tranh trong kinh doanh sẽ là sự phân chia khách hàng-một khách hàng trong
cùng một lúc.”
Don Peppers và Rogers, The One to One Future, 1993
“Định vị: cuộc chiến trong tâm trí khách hàng.
(Positioning: The battle for your mind)”
Al Ries và Jack Trout, những học giả tiên phong về định vị.
Mục tiêu chương 3:Sau khi học xong chương 3, sinh viên có khả năng:
- Hiểu những khái niệm cơ bản và các phương pháp đo lường và dự báo nhu cầu
thị trường theo cách nhìn của các nhà Marketing.
- Phân biệt các dạng chiến lược thị trường.
- Mô tả được ba bước cơ bản để thực hiện việc lựa chọn và thâm nhập thị trường
mục tiêu theo quan điểm chiến lược Marketing mục tiêu: Phân khúc thị trường, nhận
dạng các tiêu thức để phân khúc thị trường. Khái niệm về thị trường mục tiêu, quy trình
chọn thị trường mục tiêu và những hoạt động Marketing hướng đến thị trường mục
tiêu. Khái niệm định vị trên thị trường và các cách thức để thực hiện chiến lược định vị
sản phẩm, nhãn hiệu, doanh nghiệp trên thị trường.
73
3.1. Đo lường và dự báo nhu cầu thị trường 3.1.1. Những khái niệm cơ bản
3.1.1.1. Thị trường
Theo các nhà kinh tế học: “Thị trường là tập hợp những người mua và người
bán tác động qua lại lẫn nhau, dẫn đến khả năng trao đổi.” (Định nghĩa của giáo sư
Robert S. Pindyck và Daniel L .Rubinfeld) [23]23
Theo quan điểm này, thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hóa,
gắn liền với hoạt động trao đổi hàng hóa diễn ra trong điều kiện thời gian và không
gian nhất định. Thị trường được thể hiện cụ thể nhất là chợ.
Nhà kinh tế đứng ở bên ngoài thị trường để phân tích thị trường nên họ nhìn thị
trường bao gồm cả người bán và người mua. Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, ở đó
hàng hóa thực hiện được giá trị đã được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
Quan điểm Marketing không chấp nhận quan điểm cho rằng thị trường là nơi
diễn ra sự mua bán hàng hóa hay sự gặp gỡ giữa cung và cầu bởi vì hiểu như vậy là quá
máy móc và không thể nào xác định được dung lượng của thị trường.
Theo quan điểm Marketing: “Thị trường bao gồm cả khách hàng hiện tại và
khách hàng tiềm năng mong muốn và cần một sản phẩm nào đó, họ sẵn sàng và có thể
trao đổi để có sản phẩm đó.” (Định nghĩa của M. J. Houston, giáo sư trường đại học
Minnesota)
Nhà Marketing đứng ở vị trí người bán nên họ nhìn thị trường là tập hợp các
người mua, còn những người bán hợp lại thành ngành sản xuất-cung ứng. Thị trường là
mục tiêu của quá trình sản xuất hàng hóa và là khâu quan trọng nhất của quá trình tái
sản xuất hàng hóa.
Chú ý: Trong hoạt động Marketing, các doanh nghiệp không quan tâm đến thị
trường nói chung mà là thị trường của một sản phẩm cụ thể.
3.1.1.2. Phân loại thị trường
Phân loại thị trường nhằm mục đích giúp doanh nghiệp nhận biết, phân tích
thông tin, đặc điểm của từng loại thị trường làm cơ sở cho doanh nghiệp nghiên cứu
khả năng khai thác, chiếm lĩnh thị trường trong khả năng và điều kiện cụ thể của mình.
74
Có rất nhiều cách phân loại thị trường dựa theo những căn cứ khác nhau. Có thể liệt kê
nhưng cách phân loại cơ bản sau:
- Căn cứ vào phạm vi lưu thông: Thị trường địa phương (thị trường miền Bắc,
Trung, Nam, thành thị, nông thôn,...), thị trường trong nước (thị trường dân tộc), thị
trường khu vực (thị trường Châu Á, Nam Mỹ...), thị trường thế giới.
- Căn cứ vào vai trò của người tham gia thị trường: Thị trường người bán (khi
cung hàng hóa nhỏ hơn nhu cầu, diễn ra cuộc cạnh tranh giữa những người mua) và thị
trường người mua (khi cung hàng hóa lớn hơn nhu cầu, lúc này diễn ra cuộc cạnh tranh
giữa những người bán để giành khách hàng).
- Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường: Thị trường độc quyền, thị
trường cạnh tranh.
- Căn cứ vào vị trí của sản phẩm trong quá trình tái sản xuất (tức hành vi và
mục đích sử dụng sản phẩm của người mua):
Thị trường hàng tiêu dùng (B2C Markets: Business to Customer Markets):
Khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng, mua sản phẩm để phục vụ cho tiêu dùng cá
nhân hoặc gia đình họ.
Thị trường hàng công nghiệp (B2B Markets: Business to Business Markets):
Khách hàng là các tổ chức, tiêu dùng sản phẩm cho việc vận hành tổ chức của mình
một cách trực tiếp (tiếp tục quá trình sản xuất) hay gián tiếp (phân phối lại sản phẩm).
- Căn cứ vào đặc tính tiếp xúc giữa người bán và người mua: Thị trường thực
và thị trường ảo (giao dịch thực hiện qua mạng Internet).
- Căn cứ vào đối tượng lưu thông: Thị trường từng mặt hàng cụ thể (thị trường
du lịch, thị trường bia, thị trường xe hơi, thị trường chứng khoán, thị trường lao
động...), thị trường từng nhóm hàng (thị trường hàng nông sản, thị trường điện máy…).
Ngoài ra, trong quá trình tiến hành hoạt động Marketing, doanh nghiệp phải
phân biệt rõ một số dạng thị trường quan trọng sau:
- Thị trường tiềm năng: Thị trường mà doanh nghiệp có thể khai thác trong
tương lai bao gồm những khách hàng chưa mua hàng của doanh nghiệp và khách hàng
đang mua hàng của đối thủ.
75
- Thị trường hiện tại (Thị trường thực tế): Thị trường mà doanh nghiệp đang
khai thác (thường thể hiện bằng thị phần doanh nghiệp đang nắm giữ trong tổng dung
lượng của thị trường một sản phẩm).
- Thị trường lý thuyết: Bao gồm thị trường hiện tại và thị trường tiềm năng.
- Thị trường mục tiêu: Tập hợp các đoạn thị trường hấp dẫn và phù hợp với khả
năng của doanh nghiệp. [6]40
3.1.1.3. Nhu cầu của thị trường
“Nhu cầu của thị trường đối với một sản phẩm là tổng khối lượng sản phẩm mà
nhóm khách hàng nhất định sẽ mua tại một địa bàn nhất định và trong một thời kỳ nhất
định với một môi trường Marketing nhất định và chương trình Marketing nhất định.”
[10]281. Ta có thể thấy rằng tổng nhu cầu của thị trường không phải là con số cố định,
mà là một hàm của các điều kiệu trên, gọi là hàm nhu cầu của thị trường. Có thể biểu
diễn qua sơ đồ 3.1:
Hình 3.1: Nhu cầu của thị trường [10]281
Trục tung biểu diễn mức nhu cầu thu được. Đường cong biểu diễn nhu cầu ước
tính của thị trường tương ứng với các mức chi phí Marketing của ngành khác nhau.
Một số mức tiêu thụ cơ bản (gọi là tối thiểu của thị trường) vẫn xuất hiện khi không có
bất kỳ một chi phí kích thích nhu cầu nào. Mức chi phí của ngành càng cao thì sẽ đạt
76
Chi phí maketing của ngành Chi phí maketing của ngành
mức cầu càng cao, với nhịp độ tăng lớn vào lúc đầu sau đó chậm lại. Chi phí Marketing
vượt quá một mức độ nhất định sẽ không kích thích tiếp được nhu cầu nữa. Vì thế mà
có một giới hạn trên của nhu cầu thị trường gọi là tiềm năng của thị trường. Khoảng
cách giữa mức cực tiểu của thị trường và tiềm năng của thị trường cho thấy toàn bộ
mức độ nhạy cảm Marketing của nhu cầu. Có thể nghĩ đến hai thái cực của thị trường,
có thể mở rộng được và không thể mở rộng được. Một thị trường có thể mở rộng được
có tổng quy mô chịu tác động rất mạnh của mức chi phí Marketing ngành. Một thị
trường không thể mở rộng được không chịu tác động nhiều của mức chi phí Marketing.
Một điều quan trọng cần nhấn mạnh là hàm nhu cầu của thị trường không phải
là hình ảnh nhu cầu của thị trường theo thời gian. Thực ra đường cong đó biểu diễn các
dự báo hiện tại khác nhau về nhu cầu của thị trường tương ứng với những mức khác
nhau của nỗ lực Marketing ngành trong thời kỳ hiện tại.
3.1.1.4. Tiềm năng của thị trường
“Tiềm năng của thị trường là giới hạn tiệm cận của nhu cầu thị trường khi chi
phí Marketing ngành tiến đến vô hạn, trong một môi trường nhất định.” [10]282. Yếu tố
“trong một môi trường nhất định” rất quan trọng đối với khái niệm tiềm năng của thị
trường. Ví dụ tiềm năng của thị trường đối với ôtô trong thời kỳ suy thoái so với thời
kỳ phồn thịnh. Trong thời kỳ phồn thịnh tiềm năng của thị trường cao hơn. Nói cách
khác nhu cầu của thị trường co giãn theo thu nhập. Nhà phân tích thị trường phân biệt
vị trí của hàm nhu cầu của thị trường với sự dịch chuyển dọc theo nó. Các doanh
nghiệp không thể làm được gì đối với vị trí của hàm nhu cầu của thị trường vì nó là
môi trường Marketing quyết định. Tuy nhiên có ảnh hưởng đến vị trí của mình trên
hàm đó, khi họ quyết định chi phí bao nhiêu cho Marketing.
3.1.1.5. Nhu cầu doanh nghiệp
Nhu cầu doanh nghiệp là phần nhu cầu của thị trường thuộc về doanh nghiệp:
Qi = SiQ
Trong đó: Qi: nhu cầu của doanh nghiệp i
Si: thị phần của doanh nghiệp i
Q: tổng nhu cầu của thị trường
77
Phần nhu cầu của thị trường thuộc về doanh nghiệp phụ thuộc vào chỗ sản
phẩm, dịch vụ, giá cả, thông tin của doanh nghiệp được nhận thức như thế nào so với
các đối thủ cạnh tranh. Những người xây dựng mô hình Marketing đã phát triển và đo
lường hàm mức tiêu thụ đáp ứng để thể hiện mức tiêu thụ của doanh nghiệp chịu tác
động như thế nào của mức chi phí Marketing, Marketing-Mix và hiệu quả của
Marketing.
3.1.1.6. Dự báo của doanh nghiệp
Nhu cầu doanh nghiệp mô tả mức tiêu thụ dự kiến của mình ứng với các mức
khác nhau của nỗ lực Marketing. Ban lãnh đạo chỉ còn phải lựa chọn một trong những
mức đó. Mức nỗ lực Marketing được chọn sẽ tạo ra mức tiêu thụ dự kiến, gọi là dự báo
tiêu thụ của doanh nghiệp.
“Dự báo tiêu thụ của doanh nghiệp là mức tiêu thụ doanh nghiệp dự kiến căn
cứ vào kế hoạch Marketing đã được chọn và môi trường Marketing giả định.” [10]283.
Mối quan hệ nhân quả giữa dự báo Marketing và kế hoạch Marketing của doanh nghiệp
rất hay bị rối loạn. Người ta thường nghe nói rằng doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch
Marketing của mình trên cơ sở dự báo mức tiêu thụ của doanh nghiệp. Chuỗi dự báo kế
hoạch chỉ đúng khi dự báo có nghĩa là một ước tính về hoạt động kinh tế quốc gia hay
nhu cầu của doanh nghiệp không thể mở rộng được. Tuy nhiên, chuỗi đó sẽ không còn
đúng khi nhu cầu của thị trường là có thể mở rộng được. Dự bó mức tiêu thụ của doanh
nghiệp không tạo ra cơ sở để quyết định phải chi phí bao nhiêu cho Marketing, nhưng
hoàn toàn ngược lại, dự báo mức tiêu thụ là kết quả của một kế hoạch chi tiêu cho
Marketing. Còn hai khái niệm nữa cần nhắc đến đối với dự báo của doanh nghiệp là
hạn mức tiêu thụ và ngân sách bán hàng:
“Hạn mức tiêu thụ là chỉ tiêu tiêu thụ đề ra cho một chủng loại sản phẩm, một
chi nhánh của doanh nghiệp hay đại diện bán hàng. Nó chỉ là một công cụ quản trị để
xác định và kích thích nỗ lực tiêu thụ.” [10]283.
Ban lãnh đạo đề ra các hạn mức tiêu thụ trên cơ sở dự báo của doanh nghiệp và
tâm lý của việc kích thích đạt cho được chi tiêu đó. Nói chung, hạn mức tiêu thụ được
đề ra cao hơn mức tiêu thụ ước tính để cho lực lượng bán hàng phải cố gắng.
78
“Ngân sách bán hàng là con số ước tính thận trọng khối lượng tiêu thụ dự kiến
và được sử dụng chủ yếu để thông qua những quyết định cung ứng hiện tại, sản xuất và
lưu trữ.” [10]283.
Ngân sách bán hàng phải tính đến dự báo tiêu thụ và nhu cầu để tránh rủi ro qua
mức. Ngân sách bán hàng nói chung được đề ra hơi thấp hơn so với dự báo mức tiêu
thụ.
3.1.2. Đo lường thị trường
3.1.2.1. Ước lượng tổng tiềm năng thị trường
Tổng tiềm năng thị trường là số lượng tiêu thụ cực đại mà tất cả các doanh
nghiệp có thể có được trong một ngành và trong một thời kỳ nhất định, với một nỗ lực
Marketing của ngành đã định và môi trường nhất định. Các ước tính phổ biến như sau:
Q = nqp
Trong đó:
Q: tổng tiềm năng của thị trường
n: số người mua đối với một sản phẩm/thị trường nhất định với những giả thiết
nhất định.
q: số lượng một người mua trung bình đã mua
p: giá của một đơn vị trung bình
Chẳng hạn có 100 triệu người mua sách mỗi năm và người mua sách trung bình
đã mua 3 cuốn sách mỗi năm, giá trung bình là 10USD. Thì tổng tiềm năng của thị
trường là 3 tỷ USD (100.000.000 x 3 x 10 USD).
3.1.2.2. Ước lượng nhu cầu khu vực
Nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với vấn đề lựa chọn khu vực tốt nhất và việc
phân chia có hiệu quả ngân sách Marketing vào những khu vực đó. Do vậy, họ cần ước
lượng tiềm năng thị trường của nhiều khu vực địa lý. Có hai phương pháp ước lượng
tiềm năng thị trường trong trường hợp này: phương pháp tạo dựng thị trường (the
Market-building method), thường được sử dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp để ước
lượng nhu cầu thị trường tư liệu sản xuất và phương pháp chỉ đa số yếu tố thị trường
79
(the Market-factor index method) được sử dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp để ước
lượng nhu cầu thị trường tiêu dùng.
Phương pháp tạo dựng thị trường đòi hỏi phải phát hiện tất cả những khách
hàng tiềm năng về một sản phẩm nhất định trên từng thị trường và ước tính khả năng
mua hàng của họ. Việc này sẽ đơn giản nếu như chúng ta có được danh sách tất cả
khách hàng tiềm năng về danh sách đó và ước tính số sản phẩm mà từng người đó sẽ
mua. Trên thực tế thì thị trường người ta không có những tư liệu này. Vì thế người ta
phải dựa vào căn cứ nào đó được coi là quan trọng có sức thuyết phục để lập ra mức
nhu cầu mà người ta tin là gần với nhu cầu thực tế của thị trường.
Ví dụ, một hãng máy tính cần ước tính tiềm năng thị trường của các doanh
nghiệp ở một thành phố về máy tính. Trước hết là họ phải phát hiện tất cả những khách
hàng tiềm năng tại thành phố này có khả năng mua máy tính. Hãng máy tính này có thể
có nhiều số liệu bằng nhiều cách khác nhau, như dựa trên kết quả điều tra chọn mẫu
theo từng nhóm khách hàng, sử dụng hệ thống phân loại ngành của Tổng cục thống kê
(các ngành, nhóm ngành, phân ngành…) để ước tính số lượng khác hàng và nhóm
khách hàng có nhu cầu sử dụng máy vi tính. Tiếp theo, sử dụng các phương pháp khác
nhau để ước tính số lượng máy vi tính cần dùng bình quân cho mỗi hách hàng và số
máy tính trên 100 triệu đồng doanh thu cho mỗi khách hàng doanh nghiệp theo từng
ngành hay nhóm ngành. Sau đó đem nhân số khách hàng doanh nghiệp có ở mỗi nhóm
với mức cầu bình quân tương ứng để có được tổng nhu cầu của mỗi nhóm khách hàng.
Cuối cùng là cộng toàn bộ tổng nhu cầu của tất cả nhóm khách hàng lại để có tổng tiềm
năng thị trường khu vực
Phương pháp chỉ số đa yếu tố thị trường được sử dụng trong việc ước lượng
tiềm năng thị trường khu vực về sản phẩm tiêu dùng. Do số lượng khách hàng quá lớn
nên không thể thống kê danh sách khách hàng được. Phương pháp được dùng phổ biến
nhất là phương pháp chỉ số đơn giản. Ví dụ, một nhà sản xuất dược phẩm có thể giả
định rằng tiềm năng của thị trường thuốc chữa bệnh tỉ lệ thuận với dân số. Nếu số dân
thành phố Đà Nẵng chiếm 1% dân số Việt Nam thì doanh nghiệp có thể giả thuyết Đà
Nẵng sẽ là thị trường tiêu thụ 1% tổng số thuốc chữa bệnh bán ra.
80
Tuy nhiên, trên thực tế có thể số thuốc bán ra lại phụ thuộc vào yếu tố quan
trọng, như thu nhập bình quân của người dân, số bác sĩ tính trên 100.000 dân, tình
trạng sức khỏe và nhiều yếu tố khác nữa. Do vậy, cần xây dựng một chỉ số đa yêu tố,
trong đó mỗi yếu tố có một hệ số quan trọng riêng. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần
điều chỉnh tiềm năng của thi trường theo các yếu tố bổ xung khác như sự có mặt của
đối thủ cạnh tranh trên thị trường, chi phí khuyến mãi của khu vực, yếu tố thời vụ và
đặc điểm riêng của khu vực.
3.1.2.3. Ước lượng doanh số và thị phần
Ngoài việc ước lượng nhu cầu khu vưc và tổng nhu cầu thị trường, các doanh
nghiệp còn muốn biết doanh số hiện nay của ngành trên thị trường. Việc này có nghĩa
là phải xác định các đối thủ cạnh tranh và ước tính doanh số của họ. Các hiệp hội
thương mại thường sẽ thu thập và cho xuất bản số liệu và tổng doanh số của ngành, tuy
không liệt kê doanh số của từng doanh nghiệp. Bằng những số liệu này, mỗi doanh
nghiệp có thể đánh giá hoạt động của mình trong từng ngành. Giả sử, doanh số của
doanh nghiệp tăng 5% mỗi năm trong khi mức toàn ngành là 10%, thì doanh nghiệp đó
thực sự mất dần vị trí tương đối của mình trong ngành đó.
3.1.3. Dự báo thị trường
Chỉ có một mức chi phí Marketing ngành trên thực tế. Nhu cầu của thị trường
tương ứng với mức đó gọi là dự báo thị trường. Dự báo của thị trường thể hiện nhu cầu
dự kiến của thị trường, chứ không phải nhu cầu cực đại của thị trường.
Rất ít sản phẩm, dịch vụ có thể dự báo dễ dàng. Nói chung, những trường hợp
dễ dự báo đều liên quan đến những sản phẩm có mức cầu tuyệt đối hay xu hướng khá
ổn định và ở những nơi không có cạnh tranh (tiện ích công cộng) hay cạnh tranh ở thế
ổn định (nhóm độc quyền hoàn toàn). Trên hầu hết các thị trường, tổng nhu cầu và nhu
cầu của doanh nghiệp đều không ổn và việc dự báo tốt trở thành yếu tố then chốt đảm
bảo sự thành công của doanh nghiệp. Dự báo tồi có thể dẫn đến chỗ dự trữ quá mức,
giảm giá sẽ rất tốn kém hay giảm mức tiêu thụ do hết hàng dự trữ. Nhu cầu càng không
ổn định thì độ chính xác của dự báo càng quan trọng và quy trình dự báo càng phức
tạp.
81
Các doanh nghiệp thường hay sử dụng quy trình ba giai đoạn để dự báo mức
tiêu thụ. Chuẩn bị dự báo kinh tế vi mô, dự báo ngành và dự báo tiêu thụ của doanh
nghiệp. Dự báo kinh tế vi mô đòi hỏi phải dự báo tình hình lạm phát, tình hình thất
nghiệp, lãi suất, chỉ tiêu của người tiêu dùng, đầu tư kinh doanh, chi phí của Nhà nước,
mức xuất khẩu ròng và nhiều đại lượng khác. Kết quả cuối cùng là dự báo tổng sản
phẩm quốc gia, số liệu sau này sẽ được sử dụng cùng với các chi tiêu môi trường khác
để dự báo mức tiêu thụ của ngành. Sau đó, doanh nghiệp sẽ suy ra tiêu thụ của mình
với giả thiết là doanh nghiệp sẽ giành được thị phần nhất định.
Tất cả các dự báo đều được xây dựng dựa vào một trong ba thông tin cơ bản:
Người ta nói gì? Người ta hay làm gì? Người ta đã làm được gì?
Cơ sở thứ nhất “Người ta nói gì?” Đòi hỏi phải điều tra dư luận của người mua
hay người gần gũi với họ, như nhân viên bán hàng hay các nhân viên ở bên ngoài. Có
ba phương pháp: thăm dò ý kiến người mua, tổng hợp ý kiến của lực lượng bán hàng
và ý kiến chuyên gia.
Thăm dò ý kiến người mua: Dự báo là nghệ thuật dự đoán người mua sẽ làm gì
trong những điều kiện nhất định. Điều này có ý nghĩa là cần phải quan sát khách hàng.
Những quan sát này đặc biệt có giá trị nếu người mua có ý định khác rõ ràng, sẽ thực
hiện nó và sẽ trình bày cho người phỏng vấn biết. Thông thường doanh nghệp sẽ tổ
chức điều tra để tổng hợp ý định mua của khách hàng qua các bảng điều tra, rồi tập hợp
những câu trả lời của khách hàng để đưa ra dự đoán.
Tổng hợp ý kiến của lực lượng bán hàng: Nếu không thể thực hiện phỏng vấn
khách hàng, doanh nghiệp có thể yêu cầu lực lượng bán hàng của mình đánh giá. Mỗi
đại diện bán hàng sẽ ước tính xem mỗi khách hàng hiện có và tiềm năng sẽ mua bao
nhiêu sản phẩm của doanh nghiệp theo từng chủng loại. Ít có doanh nghiệp nào sử
dụng lực lượng bán hàng để dự báo mà không điều chỉnh ít nhiều. Những đại diện bán
hàng có thể có những ý kiến thiên lệch, hoặc rất lạc quan hoặc rất bi quan về triển vọng
tiêu thụ sản phẩm tùy thuộc vào công việc bán hàng của chính họ. Mặc khác họ ít am
hiểu về những vấn đề kinh tế lớn hơn, như tốc độ phát triển kinh tế, tỉ lệ lạm phát, thất
nghiệp… và không biết được kế hoạch Marketing của doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng
82
đến doanh số trong tương lai tại khu vực thị trường của họ hay không. Họ có thể đánh
giá thấp nhu cầu của thị trường để doanh nghiệp sẽ đưa ra một hạn mức tiêu thụ thấp.
Cũng có thể họ không có đủ thời gian để chủng bị đầy đủ công việc đánh giá, thậm chí
không coi đó là vấn đề quan trọng.
Giả sử những sai lệch đó có thể khắc phục được, thì việc nhân viên bán hàng
tham gia dự đoán sẽ có một số lợi ích. Các đại diện bán hàng có thể hiểu rõ hơn các xu
hướng phát triển so với bất kỳ một nhóm nào khác. Thông qua việc tham gia vào quá
trình dự đoán, các nhân viên bán hàng có thể tin tưởng hơn các hạn mức tiêu thụ của
mình và nỗ lực hơn để hoàn thành hạn mức đó.
Ý kiến của chuyên gia: Các doanh nghiệp cũng có thể tham khảo dự đoán của
các chuyên môn. Các nhà chuyên môn bao gồm: nhà phân phối, nhà cung cấp, các cơ
sở tư vấn Marketing và các hiệp hội thương mại. Ví dụ như các doanh nghiệp sản xuất
xe máy sẽ định kỳ tham khảo ý kiến của các đại lý dự đoán của họ về nhu cầu ngắn
hạn. Tuy nhiên các ước lượng của các đại lý cũng có điểm mạnh và điểm yếu tương tự
như đánh giá của các nhân viên bán hàng.
Các doanh nghiệp cũng có thể mời một nhóm chuyên gia đặc biệt để dự báo
nhất định nào đó. Các chuyên gia này trao đổi quan điểm, ý kiến với nhau để đi đến
một đánh giá tập thể nào đó. Hoặc doanh nghiệp có thể yêu cầu họ đưa ra những đánh
giá riêng của từng người, rồi một chuyên gia phân tích sẽ tổng hợp thành đánh giá
chung. Hoặc có thể cung cấp những dự đoán cá nhân, chúng sẽ được chuyên gia phân
tích của doanh nghiệp xem xét lại, hiệu chỉnh và sau đó tiếp tục lại bằng những vòng
đánh giá sâu rộng hơn nữa
Việc xây dựng dự báo dựa vào cơ sở “Người ta làm gì?” đòi hỏi một phương
pháp khác, phải tung ra sản phẩm thị trường thử nghiệm, để đo lường phản ứng của
người mua.
Cơ sở cuối cùng “Người ta đã làm được gì?” đòi hỏi phải phân tích những số
liệu về hành vi mua sắm trong quá khứ hay sử dụng chuỗi phân tích thời gian hay phân
tích thống kê nhu cầu.
83
3.2. Giới thiệu các dạng chiến lược thị trường
Mọi doanh nghiệp đều nhận thức được rằng hàng hóa của mình không thể làm
cho tất cả người mua ưa thích ngay được. Người mua có số lượng quá đông, phân bố
trên một phạm vi rộng và có những nhu cầu, khả năng tài chính và thói quen tiêu dùng
khác nhau. Với nguồn lực có hạn doanh nghiệp không thể thỏa mãn tất cả các nhu cầu
thị trường. Tuy nhiên các doanh nghiệp không phải bao giờ cũng theo đúng nguyên tắc
này. Trong suốt lịch sử phát triển của Marketing, tương ứng với các quan điểm khác
nhau đã có các dạng chiến lược thị trường như sau:
Hình 3.2: Các dạng chiến lược thị trường [15]141
3.2.1. Chiến lược Marketing đại trà (Mass Marketing)
Chiến lược này còn được gọi là chiến lược Marketing tổng thể không phân
biệt (Undifferentiated Marketing). Doanh nghiệp có thể bỏ qua những khác biệt của
thị trường và theo dõi thị trường toàn bộ bằng một bảng chào hàng. Doanh nghiệp tập
trung vào những gì mà người mua thường hay có nhu cầu chứ không phải là vào những
gì khác nhau. Doanh nghiệp thiết kế một sản phẩm và một chương trình Marketing nào
thu hút được đông đảo người mua nhất. Doanh nghiệp tiến hành sản xuất đại trà, phân
84
Marketing đại trà (Mass Marketing)
Marketing đa dạng sản phẩm (Product Variety Marketing)
Marketing mục tiêu (Target Marketing)
Marketing đa phân khúc(Multi-Segment Marketing)
Marketing đơn phân khúc(Single-Segment Marketing)
Marketing thị trường ngách(Niche Marketing)
Marketing từng cá nhân khách hàng (One to One Marketing)
phối đại trà và kích thích đại trà cùng một mặt hàng cho tất cả người mua. Bằng cách
này doanh nghiệp đưa ra cho một sản phẩm hay dịch vụ chuẩn cho toàn bộ thị trường.
Mục đích là nhằm tạo cho sản phẩm một hình ảnh tuyệt hảo trong tâm trí mọi người.
Ví dụ: Trong thời kỳ đầu công ty Coca-Cola chỉ sản xuất một loại nước giải khát
với một mùi vị được đóng chai chỉ một kiểu dáng với dung tích 300 ml cho toàn bộ thị
trường với hy vọng nó sẽ phù hợp với khẩu vị của tất cả mọi người.
Từ năm 1908 đến năm 1927 với Model T, sản phẩm xe hơi chất lượng tốt với
giá rẻ, Ford Motor đã chinh phục thị trường xe hơi thế giới với 15 triệu chiếc xe đã
được bán. Từ khi ra đời đến khi ngừng sản xuất, những chiếc Model T có rất ít sự thay
đổi về kiểu dáng, màu sắc. Theo Henry Ford: “Màu bất kỳ nào cũng như màu đen”.
Ngược lại, giá thành chiếc xe này luôn được hạ thấp. Bằng chiến lược này, Henry Ford
được tôn vinh là người đặt thế giới lên 4 bánh xe, biến xe hơi từ đồ trang sức xa xỉ
dành cho giới thượng lưu thành một sản phẩm gần gũi và hữu ích cho tất cả mọi người.
Cơ sở để chọn Marketing không phân biệt là tiết kiệm chi phí. Nó được xem là
Marketing tương ứng với việc tiêu chuẩn hóa và sản xuất hàng loạt trong công nghiệp.
Chủng loại sản phẩm hẹp đảm bảo sản xuất dự trữ chi phí vận chuyển ở mức thấp,
Chương trình quảng cáo không phân biệt đảm bảo chi phí quảng cáo thấp. Không
nghiên cứu và lập kế hoạch theo khúc thị trường sẽ giảm bớt được các chi phí nghiên
cứu Marketing và quản lý sản phẩm. Chắc chắn là nhờ chi phí thấp hơn doanh nghiệp
có thể tính giá thấp hơn để giành lấy khúc thị trường nhạy cảm với giá cả. Chiến lược
này sẽ hình thành được một thị trường tiềm năng lớn tối đa nhưng lại không đáp ứng
nhu cầu đa dạng của thị trường.
3.2.2. Chiến lược Marketing đa dạng sản phẩm (Product Variety Marketing)
Chiến lược này còn được gọi là chiến lược Marketing tổng thể có phân biệt
(Differentiated Marketing). Doanh nghiệp sản xuất nhiều sản phẩm với những tính
chất khác nhau, bao gói khác nhau, chất lượng khác nhau... để phục vụ nhu cầu đa dạng
của toàn bộ thị trường. Trong trường hợp này, doanh nghiệp hoạt động trên mọi khúc
thị trường và thiết kế những chương trình khác nhau cho từng khúc thị trường.
85
Chỉ những doanh nghiệp lớn sở hữu những thương hiệu quốc tế mới có khả
năng theo đuổi chiến lược này. Ví dụ: Ngày nay, công ty Coca-Cola sản xuất rất nhiều
loại nước giải khát không cồn với đa dạng các kiểu bao bì dung tích khác nhau để giữ
vững vị trí hàng đầu trên toàn thế giới trong ngành kinh doanh nước giải khát không
cồn. Công ty General Motors tuyên bố rằng sẽ sản xuất ô tô cho "Mọi túi tiền, mọi mục
đích và mọi nhân cách". Còn công ty IBM thì đã chào hàng nhiều kiểu trọn gói phần
cứng và phần mềm cho các khúc thị trường máy tính khác nhau.
Marketing tổng thể có phân biệt thường tạo ra được tổng mức tiêu thụ lớn hơn
so với Marketing tổng thể không phân biệt. Điều đó nói lên một lẽ đơn giản là có thể
tăng tổng mức tiêu thụ bằng cách bán chủng loại sản phẩm đa dạng hơn thông qua
những kênh đa dạng hơn. Tuy nhiên nó cũng làm tăng chi phí kinh doanh. Sau đây là
những chi phí có thể cao hơn:
+ Chi phí cải biến sản phẩm: Việc cải biến một sản phẩm để đáp ứng những yêu
cầu của các khúc thị trường khác nhau thường đòi hỏi có những chi phí nghiên cứu
phát triển, thiết kế kỹ thuật và dụng cụ chuyên dùng.
+ Chi phí sản xuất: Thông thường chỉ để sản xuất 10 đơn vị sản phẩm khác
nhau phải tốn kém nhiều hơn là sản xuất 100 đơn vị sản phẩm giống nhau. Thời gian
chuẩn bị để sản xuất mỗi kiểu sản phẩm càng nhỏ thì càng tốn kém hơn. Mặt khác, nếu
mỗi kiểu được bán ra với khối lượng đủ lớn, thì chi phí cho thời gian chuẩn bị cao hơn
đó có thể rất nhỏ khi tính trên một đơn vị sản phẩm.
+ Chi phí quản trị hành chính: Doanh nghiệp phải xây dựng những kế hoạch
Marketing riêng biệt cho từng khúc thị trường. Điều này đòi hỏi phải tăng thêm các
công việc nghiên cứu Marketing, dự báo, phân tích mức tiêu thụ, lập kế hoạch và quản
trị kênh phân phối.
+ Chi phí khuyến mãi: Doanh nghiệp phải vươn tới những khúc thị trường khác
nhau với những chương trình khuyến mãi khác nhau. Điều này làm tăng chi phí lập kế
hoạch khuyến mãi và chi phí cho các phương tiện truyền thông.
+ Chi phí dự trữ: Việc quản trị dữ liệu nhiều kiểu sản phẩm sẽ tốn kém hơn so
với quản lý dự trữ ít sản phẩm.
86
Vì Marketing tổng thể phân biệt làm tăng cả mức tiêu thụ lẫn chi phí, nên không
thể nói gì khái quát về khả năng sinh lời của chiến lược này.
3.2.3. Chiến lược Marketing mục tiêu (Target Marketing)
Thay vì phục vụ toàn bộ thị trường, một số doanh nghiệp tập trung vào phục vụ
những bộ phận nhất định của thị trường. Họ xác định ranh giới các khúc thị trường, tiến
hành phân khúc thị trường và lựa chọn một hay một vài khúc làm thị trường mục tiêu
để phục vụ rồi nghiên cứu sản xuất các sản phẩm và soạn thảo các hệ thống Marketing-
Mix cho từng khúc thị trường đã chọn. Chiến lược này còn được gọi là chiến lược
Marketing trọng điểm, Marketing tập trung hay Marketing hướng về phân khúc
(Concentrated Marketing). Có các dạng chiến lược Marketing mục tiêu:
(1) Chiến lược đa phân khúc (Multi-Sement Marketing): Doanh nghiệp tập trung
vào nhiều phân khúc thị trường cùng một lúc và thiết kế, thực hiện chương trình
Marketing tập trung cho từng khúc thị trường một.
(2) Chiến lược đơn phân khúc (Single-Sement Marketing): Là chiến lược mà
doanh nghiệp chỉ dồn nguồn lực của mình vào một phân khúc thị trường duy nhất.
(3) Chiến lược thị trường ngách (Niche Marketing): Chiến lược doanh nghiệp
tìm kiếm một khúc thị trường mà đối thủ cạnh tranh (đặc biệt là các đối thủ mạnh) bỏ
quên, khúc này tuy nhỏ nhưng tốc độ phát triển và khả năng sinh lợi cao. Thường ta
chia một phân khúc thành nhiều khúc thị trường con để nhận dạng thị trường ngách. Ví
dụ: USAA, một công ty bảo hiểm khổng lồ, thoạt tiên chỉ bán bảo hiểm xe hơi cho các
sĩ quan quân đội. Sau đó dần dần đưa thêm bảo hiểm nhân thọ, thẻ tín dụng, quỹ đầu
tư, các sản phẩm tài chính khác cho đối tượng này. [11]103
(4) Chiến lược Marketing cho từng cá nhân khách hàng (One to One
Marketing): Là tạo ra sản phẩm, dịch vụ và nội dung quảng cáo phù hợp với nhu cầu cá
nhân của khách hàng. Doanh nghiệp thay vì sản xuất đại trà cho thị trường (Build-to-
market) sẽ sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng (Build-to-order). Ví dụ: Thợ
may may quần áo theo đúng kích thước, loại vải, kiểu dáng cho từng khách hàng cá
nhân. Hình thức này về sau sẽ ngày càng phát triển hơn do hỗ trợ của mạng Internet.
Trên thị trường B2B, các doanh nghiệp có thể làm Marketing cho từng khách hàng một
87
trong tổng thể thị trường (Marketing khách hàng hóa đại trà-Mass customize
marketing). Khách hàng công nghiệp và nhà sản xuất có thể kết hợp với nhau trong
một phạm vi rất rộng. Ví dụ: Hãng máy tính Dell ở Mỹ có thể giao hàng cho một siêu
thị điện máy ở Việt Nam một lô máy tính chuyên dụng bao gồm phần cứng và phần
mềm chuyên biệt theo ý riêng của khách hàng được mô tả như trong đơn đặt hàng được
gửi qua mạng Internet.
Chiến lược Marketing mục tiêu đòi hỏi phải tiến hành ba biện pháp cơ bản sau:
(1) Phân khúc thị trường (Segmentation)
(2) Chọn thị trường mục tiêu (Targeting)
(3) Định vị thương hiệu cho thị trường mục tiêu (Positioning)
Hình 3.3: Các biện pháp của Marketing mục tiêu [9]181
Phần còn lại của chương này, chúng ta sẽ lần lược nghiên cứu những nguyên tắc
cơ bản các thành phần của chiến lược Marketing mục tiêu như trên.
3.3. Phân khúc thị trường (Segmentation)3.3.1. Khái quát về phân khúc thị trường
3.3.1.1. Khái niệm phân khúc thị trường
“Phân khúc thị trường là quá trình phân chia khách hàng (thị trường tổng thể)
của một loại hàng hóa nào đó thành một số nhóm thị trường nhỏ hơn, khác biệt nhau
nhưng trong mỗi nhóm thị trường có những đặc tính chung như nhu cầu, mong muốn,
88
ÑÒNH VÒ TREÂN THÒ TRÖÔØNG MUÏC TIEÂU5. Phaân tích caïnh tranh vaø löïa choïn vò theá treân
cách ứng xử.” Nhóm thị trường nêu trên gọi là khúc thị trường. “Khúc thị trường là
một nhóm khách hàng có phản ứng như nhau đối với cùng một tập hợp những kích
thích Marketing của một doanh nghiệp.” Những đặc tính giống nhau nêu trên được gọi
là những tiêu thức để phân khúc thị trường.
Thực chất của phân khúc thị trường là phân chia thị trường quy mô lớn, không
đồng nhất theo những tiêu thức nhất định thành các khúc thị trường mà trong mỗi khúc
thị trường có tính đồng nhất về đặc điểm, nhu cầu, thị hiếu, hành vi.
3.3.1.2. Mục đích của phân khúc thị trường
- Phân khúc thị trường của một sản phẩm làm cho thị trường từ chỗ không đồng
nhất trở thành từng khúc đồng nhất. Giúp doanh nghiệp nhận rõ nhu cầu của khách
hàng trong từng khúc thông qua việc nghiên cứu, phân tích các khúc thị trường.
- Từ đó doanh nghiệp có thể lựa chọn một hoặc một vài khúc thị trường phù hợp
với khả năng của mình làm thị trường mục tiêu và trên những cơ sở đó giúp doanh
nghiệp tập trung tiềm lực để đề ra và thực hiện các hoạt động Marketing hỗn hợp phù
hợp nhằm khai thác và phục vụ tối đa nhu cầu của khúc thị trường đã chọn.
- Sự hiểu biết về khúc thị trường mục tiêu được nâng cao sẽ giúp thỏa mãn
khách hàng cao hơn thông qua những chiến lược thị trường của doanh nghiệp có mục
tiêu rõ ràng hơn. Điều này thúc đẩy việc thiết kế sản phẩm, chương trình quảng cáo,…
có trọng tâm hơn.
- Phân khúc thị trường còn có thể giúp cho tối đa hóa lợi nhuận trên một đơn vị
sản phẩm chứ không chỉ là tối đa hóa doanh số vì lúc này doanh nghiệp không cần đầu
tư dàn trải vì chỉ hướng tới một hay một số phân khúc. Một doanh nghiệp với nguồn
lực không lớn cũng có thể cạnh tranh có hiệu quả với những đối thủ mạnh trên những
khúc thị trường chuyên môn hóa.
Tóm lại, việc phân khúc thị trường sẽ giúp doanh nghiệp tìm ra những “khe hở”
của thị trường và tận dụng hiệu quả được những lợi thế cạnh tranh của mình. Sự kết
hợp giữa việc thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày càng cao hơn với việc phân bổ nguồn
lực hiệu quả hơn tạo nên lợi thế cạnh tranh và khả năng sinh lợi cao hơn. [6] 66
3.3.1.3. Những yêu cầu đối với việc phân khúc thị trường
89
Có nhiều cách để phân khúc thị trường. Tuy nhiên không phải tất cả các cách
phân khúc thị trường đều có hiệu quả. Ví dụ, những người mua muối ăn có thể được
phân thành những khách hàng tóc nhạt màu và thẫm màu. Nhưng màu tóc thì không
liên quan gì đến chuyện mua muối cả. Hơn nữa, nếu tất cả những người mua muối đều
mua mỗi tháng một lượng muối như nhau, đều tin rằng các loại muối đều giống nhau
và muốn trả cùng một giá, thì thị trường đó, theo quan điểm Marketing, là thị trường có
thể phân khúc ở mức tối thiểu.
Để đạt lợi ích tối đa, các khúc thị trường phải có năm đặc điểm sau:
+ Nhận dạng được (identifiability): Nhà Marketing có thể nhận dạng các nhóm
khách hàng một cách rõ ràng. Quy mô, sức mua và các đặc điểm của khúc thị trường
đều đo được. Các biến phân khúc thị trường nhất định rất khó đo lường. Ví dụ như
muốn đo lường quy mô của khúc thị trường thanh thiếu niên hút thuốc là điều không
dễ. Lý do, những người hút thuốc chủ yếu để chống đối lại bố mẹ và không sẵn sàng
hợp tác với việc các nhà Marketer nghiên cứu hành vi hút thuốc của họ.
+ Đủ quy mô (substantiability): Những khúc thị trường này phải đủ lớn và sinh
lời xứng đáng để phục vụ. Khúc thị trường phải là một nhóm lớn nhất và đông nhất,
xứng đáng để thực hiện một chương trình Marketing riêng. Ví dụ, một hãng sản xuất ô
tô không để ý lắm đến phân khúc những người thuận tay trái. Mặc dù trên thị trường có
nhu cầu về một loại xe phù hợp với cách lái xe thuận tay trái nhưng số lượng những
người này không đủ lớn đề hình thành một phân khúc riêng biệt.
+ Có thể tiếp cận được (accessibility): Các khúc thị trường phải tiếp cận được
và phục vụ có hiệu quả. Giả sử công ty dầu thơm phát hiện thấy những người dùng
nhiều nhãn hiệu của mình là những phụ nữ độc thân, những người đến quán bar vào
ban đêm và thường xuyên. Những người phụ nữ này rất khó tiếp cận trừ khi họ sống và
làm việc tại những nơi nhất định và tiếp xúc với những phương tiện truyền thông nhất
định.
+ Có thể phân biệt được (differentiability): Các khúc thị trường này khác biệt
nhau về quan niệm và đáp ứng khác nhau đối với các yếu tố Marketing-Mix và chương
trình Marketing khác nhau. Nếu như những người phụ nữ có gia đình và không có gia
90
đình đều phản ứng tương tự như nhau với muối ăn và áo lông thú, thì họ không thể
thuộc những khúc thị trường riêng biệt được.
+ Ổn định và khả thi (stability and actionability): Các khúc thị trường phải ổn
định và Marketer có thể xây dựng những chương trình có hiệu quả để thu hút và phục
vụ những thị trường đó. Ví dụ, một hãng hàng không nhỏ phát hiện ra bảy khúc thị
trường, nhưng biên chế của họ quá nhỏ không thể xây dựng những chương trình
Marketing riêng biệt cho từng khúc thị trường được. Vì vậy, phục vụ cả bảy khúc thị
trường này không khả thi.
3.3.2. Các tiêu thức để phân khúc thị trường
3.3.2.1. Các tiêu thức phân khúc thị trường tiêu dùng (B2C)
Tùy thuộc vào đặc tính của thị trường, đặc điểm của sản phẩm, khả năng của
doanh nghiệp mà có thể lựa chọn các tiêu thức sau để phân khúc thị trường:
(1) Các tiêu thức theo yếu tố địa lý
Phân tích thị trường theo yếu tố địa lý đòi hỏi phải chia thị trường thành những
đơn vị địa lý khác nhau như quốc gia, bang, vùng, tỉnh, thành phố,... Doanh nghiệp có
thể quyết định hoạt động trong một hay một vài vùng địa lý hay hoạt động trong tất cả
các vùng, nhưng chú ý đến những sự khác biệt về các nhu cầu và sở thích của từng
vùng địa lý.
Đây là các tiêu thức được các doanh nghiệp xem xét đầu tiên, được áp dụng phổ
biến vì sự khác biệt về nhu cầu thường gắn với yếu tố địa lý (do sự khác biệt về đặc
điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội trong từng vùng địa lý).
(2) Các tiêu thức về nhân khẩu học
Gồm các yếu tố dân số, kinh tế, xã hội cho biết đặc tính khách quan của khách
hàng như: tuổi tác, giới tính, quy mô gia đình, chu kỳ sống của gia đình, thu nhập, tình
trạng hôn nhân, giai tầng xã hội, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tôn giáo, chủng tộc và
nguồn gốc dân tộc...
Các tiêu thức này thường được sử dụng phổ biến trong phân khúc thị trường vì
hai nguyên nhân sau:
91
+ Lý do thứ nhất là những mong muốn, sở thích và mức độ sử dụng của người
tiêu dùng thường gắn bó chặt chẽ với các biến nhân khẩu học. Các tiêu thức này là cơ
sở chính tạo ra sự khác biệt về nhu cầu và hành vi mua hàng của khách hàng.
+ Thứ hai là các biến nhân khẩu học dễ đo lường hơn hầu hết các biến khác. Số
liệu cho các tiêu thức này cũng dễ tìm vì có sẵn tài liệu (từ niên giám thống kê, từ các
công ty nghiên cứu thị trường hoặc doanh nghiệp có thể tự làm). Ngay cả khi thị trường
mục tiêu được xem xét không phải theo yếu tố nhân khẩu học (chẳng hạn như theo kiểu
nhân cách) thì vẫn cần thiết phải suy trở lại các đặc điểm nhân khẩu học để biết quy mô
của thị trường mục tiêu, phương tiện truyền thông tiếp cận nó có hiệu quả.
(3) Các tiêu thức về tâm lý
Gồm các yếu tố thể hiện cá tính gắn liền với từng cá nhân như: tầng lớp xã hội,
nhân cách, thái độ, động cơ, phong cách sống, quan điểm, cá tính, giá trị văn hóa... Các
tiêu thức này ảnh hưởng lớn đến hành vi lựa chọn và động cơ mua hàng của khách
hàng. Tiêu thức này dùng để bổ sung cho các tiêu thức trên vì những người cùng một
nhóm địa lý, một nhóm nhân khẩu học có thể có những đặc điểm tâm lý rất khác nhau.
(4) Các tiêu thức về hành vi tiêu dùng
Gồm các yếu tố thể hiện thái độ, hành vi tiêu dùng của khách hàng như: lý do
mua hàng, lợi ích tìm kiếm từ sản phẩm, tính trung thành đối với nhãn hiệu sản phẩm,
với cửa hàng, với doanh nghiệp, số lượng và cường độ sử dụng, tình trạng người sử
dụng (đã sử dụng, chưa sử dụng, sử dụng lần đầu, xử dụng thường xuyên, sử dụng tiềm
năng)... Tóm lại, người mua được chia thành nhiều nhóm căn cứ vào trình độ hiểu biết,
thái độ, cách sử dụng và phản ứng đối với sản phẩm. Nhiều Marketer tin chắc rằng các
đặc tính về hành vi ứng xử là điểm khởi đầu tốt nhất hình thành các khúc thị trường vì
khúc thị trường có hành vi tiêu dùng tương tự nhau về một loại sản phẩm sẽ là khúc thị
trường mục tiêu chính xác nhất của sản phẩm đó. Chúng ta có thể tóm lược các nhóm
tiêu thức phân khúc thị trường tiêu dùng qua bảng 3.1. bên dưới.
Để phân khúc thị trường người tiêu dùng người ta sử dụng những biến khác
nhau. Những biến này thuộc hai nhóm lớn. Một số người nghiên cứu cố gắng hình
thành các khúc thị trường, bằng cách xem xét những đặc điểm của người tiêu dùng. Họ
92
sử dụng phổ biến những đặc điểm nhân khẩu học, địa lý và tâm lý. Sau đó họ nghiên
cứu xem những nhóm khách hàng đó có những nhu cầu hay phản ứng với sản phẩm
khác nhau không. Ví dụ, họ có thể nghiên cứu và những thái độ khác nhau của người
hành nghề chuyên nghiệp, những công nhân cổ xanh và những nhóm người khác đối
với sự an toàn chẳng hạn với tính cách là một ích lợi của xe ô tô.
Có những người nghiên cứu lại cố gắng hình thành các khúc thị trường bằng
cách xem xét phản ứng của người tiêu dùng đối với những ích lợi đã tìm kiếm, những
dịp sử dụng hay nhãn hiệu. Sau khi đã hình thành các khúc thị trường, người nghiên
cứu đó xem xét xem những đặc điểm khác nhau của người tiêu dùng có gắn liền với
từng khúc thị trường theo phản ứng của người tiêu dùng. Ví dụ, người nghiên cứu có
thể nghiên cứu xem những người muốn chất lượng và những người muốn giá thấp, khi
mua ô tô có khác nhau về các đặc điểm địa lý, nhân khẩu và tâm lý không.
Bảng 3.1: Các tiêu thức chính để phân khúc thị trường tiêu dùng
Tiêu thức Những cách chia tiêu biểuĐịa lý Miền Miền Bắc, Trung, Nam, miền núi, trung du, đồng bằng…Quy mô đô thị, tỉnh, thành phố (người)
<5.000, 5.000-20.000, 20.000- 50.000, 50.000-100.000, 100.000-250.000…, >= 4 triệu, trên 4 triệu người
Mật độ Khu thành thị, ngoại ô, nông thôn.Khí hậu Ôn đới, nhiệt đới, hàn đới…Dân số Độ tuổi < 6, 6-11, 12-19, 20-34, 35-49, 50-64, > 65Giới tính Nam, nữ.Quy mô gia đình 1- 2, 3-4, >= 5 ngườiThu nhập (đồng/tháng) < 500.000, 500.000-1.000.000, 1triệu-2triệu, >= 4triệu
Quốc tịch Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Anh…Tâm lý Tầng lớp xã hội Hạ lưu, trung lưu, thượng lưu.Lối sống Còn lệ thuộc, đã được chấp nhận, thành đạt.Cá tính Dễ lôi kéo, ưa bắt chước, độc đoán, tham vọng.Cách ứng xửHoàn cảnh mua sắm Thường xuyên vào những dịp đặc biệt.Mức sử dụng Ít dùng, dùng vừa phải, dùng nhiều.Thái độ với món hàng Nồng nhiệt, tích cực, thờ ơ, tiêu cực, thù ghét.
93
(Nguồn: [9]185 và một số điều chỉnh của nhóm biên soạn)
3.3.2.2. Các tiêu thức phân khúc thị trường công nghiệp (B2B)
Các thị trường tư liệu sản xuất có thể được phân khúc theo rất nhiều những biến
đã sử dụng để phân khúc thị trường người tiêu dùng, như các biến địa lý, ích lợi tìm
kiếm và mức độ sử dụng. Tuy vậy, cũng có thêm những biến mới.
Bonoma và Shapiro đã đề nghị phân khúc thị trường tư liệu sản xuất theo các
biến nêu trong bảng 3.2. Bảng này liệt kê những câu hỏi chủ yếu mà những người hoạt
động trên thị trường tư liệu sản xuất cần đặt ra để xác định xem nên phục vụ khúc thị
trường và khách hàng nào. Các biến nhân khẩu học là quan trọng nhất, sau đó đến các
biến khai thác, rồi cuối cùng là đặc điểm cá nhân của người mua.
Chẳng hạn như, công ty vỏ xe cao su trước tiên cần quyết định xem mình muốn
phục vụ ngành nào, đồng thời lưu ý đến những điểm khác biệt sau: Những hãng sản
xuất ô tô có những yêu cầu khác nhau, những hãng sản xuất xe sang trọng muốn có vỏ
xe cao cấp hơn nhiều so với những hãng sản xuất xe tiêu chuẩn. Và những vỏ xe mà
các hãng sản xuất máy bay cần phải đáp ứng những tiêu chuẩn an toàn cao hơn nhiều
so với những vỏ xe mà những hàng sản xuất máy kéo nông nghiệp cần.
Trong phạm vi mục tiêu đã chọn, doanh nghiệp có thể phân khúc tiếp theo quy
mô của khách hàng. Doanh nghiệp có thể xây dựng những công trình riêng biệt để làm
ăn với những khách hàng lớn và nhỏ. Những người hoạt động trên thị trường tư liệu
sản xuất nói chung, phát hiện các khúc thị trường thông qua một quá trình phân khúc
liên tiếp.
Hãy xét trường hợp một công ty nhôm: Công ty sản xuất nhôm trước tiên tiến
hành phân khúc thị trường gồm ba bước. Họ suy tính xem sẽ phục vụ thị trường sử
dụng cuối cùng nào. Ô tô, nhà ở hay lon nước giải khát. Khi lựa chọn thị trường nhà ở,
công ty cần xác định ứng dụng hấp dẫn nhất của sản phẩm. Vật liệu bán thành phẩm,
các phụ liệu xây dựng hay nhà lưu động bằng nhôm. Khi quyết định tập trung vào các
phụ liệu xây dựng công ty cần xem xét quy mô khách hàng tốt nhất và lựa chọn những
khách hàng lớn. Bước thứ hai là phân khúc vi mô. Công ty phân biệt giữa những khách
94
hàng mua theo giá, theo dịch vụ hay theo chất lượng. Vì công ty nhôm có sở trường về
dịch vụ, nên quyết định tập trung vào khúc thị trường có động cơ là dịch vụ.
Bảng 3.2. Các tiêu thức chủ yếu để phân khúc thị trường công nghiệp [10]306
Nhân khẩu học+ Ngành Nên tập trung vào ngành nào?+ Quy mô doanh nghiệp Nên tập trung vào những doanh nghiệp có quy mô như thế nào?+ Địa điểm Nên tập trung vào những vùng địa lý nào?
Các biến khai thác+ Công nghệ Nên tập trung vào những công nghệ nào của khách hàng?+ Tình trạng người sử dụng/không sử dụng
Nên tập trung vào người sử dụng nhiều, trung bình, ít hay, những người không sử dụng?
+ Năng lực khách hàng Nên tập trung vào những khách hàng cần nhiều hay ít dịch vụ?Phương thức cung ứng
+ Tổ chức chức năng cung ứng
Nên tập trung vào những doanh nghiệp tổ chức cung ứng tập trung cao hay phân cấp?
+ Cơ cấu quyền lực Nên tập trung vào những doanh nghiệp do kỹ thụât chi phối, tài chính chi phối, v.v...
+ Tính chất của những mối quan hệ hiện có
Nên tập trung vào những doanh nghiệp đã có quan hệ chặt chẽ hay chỉ theo đuổi những doanh nghiệp mong muốn nhất?
+ Chính sách mua sắm chung
Nên tập trung vào những doanh nghiệp thích thuê mua, hợp đồng dịch vụ, mua sắm qua hệ thống hay đầu thầu?
+ Tiêu chuẩn mua sắm Nên tập trung vào những doanh nghiệp tìm kiếm chất lượng, dịch vụ hay giá cả?
Những yếu tố tình huống
+ Khẩn cấp Có nên tập trung vào những doanh nghiệp cần gia hàng hay dịch vụ nhanh và đột xuất không?
+ Ứng dụng đặc biệt Có thể tập trung vào những ứng dụng nhất định của sản phẩm của mình hay là vào tất cả các ứng dụng?
+ Quy mô đơn đặt hàng Có thể nên tập trung vào những đơn hàng lớn hay nhỏ không?Đặc điểm cá nhân
+ Người mua, người bán tương tự như nhau
Có nên tập trung vào những doanh nghiệp có con người và giá trị tương tự như ta không?
+ Thái độ đối với rủi ro Có nên tập trung vào những khách hàng chấp nhận rủi ro hay né tránh rủi ro không?
95
+ Lòng trung thành Có nên tập trung vào những doanh nghiệp tỏ ra rất trung thành với những người cung ứng của mình không?
3.3.3. Các bước phân khúc thị trường
Chưa có một quy trình chính thức được dùng làm chuẩn để phát hiện những
khúc thị trường chủ yếu. Xin giới thiệu một phương pháp phổ biến mà các công ty
nghiên cứu Marketing sử dụng để phân khúc thị trường. Quy trình này gồm ba bước:
Bước 1. Giai đoạn khảo sát: Nhà nghiên cứu tiến hành phỏng vấn thăm dò và
tập trung vào các nhóm để hiểu sâu hơn những động cơ, thái độ và hành vi của người
tiêu dùng, Sử dụng những kết quả thu được, người nghiên cứu soạn thảo một mẫu
phiếu câu hỏi để thu nhập những số liệu về:
+ Những tính chất và xếp hạng tầm quan trọng của chúng
+ Mức độ biết đến nhãn hiệu và xếp hạng nhãn hiệu
+ Các dạng sử dụng sản phẩm
+ Thái độ đối với những loại sản phẩm
+ Những số liệu về nhân khẩu học, tâm lý và phương tiện truyền thông ưa thích
của những người trả lời.
Doanh nghiệp cần dựa vào kết quả của quá trình nghiên cứu, khảo sát thị trường
này mà xác định những đặc tính và yêu cầu của người tiêu dùng.
Bước 2. Giai đoạn phân tích: Người nghiên cứu áp dụng các cách phân tích
yếu tố đối với các số liệu để loại bỏ những biến có liên quan chặt chẽ. Phân tích những
điểm giống nhau và khác nhau của những người tiêu dùng. Sau đó người nghiên cứu sẽ
áp dụng cách phân tích cụm để tạo ra một số nhất định những khúc thị trường khác
nhau nhiều nhất.
Bước 3. Thái độ xác định đặc điểm: Bây giờ mỗi cụm được xác định đặc điểm
phân biệt về thái độ, hành vi, nhân khẩu học, tâm lý và thói quen sử dụng phương tiện
truyền thông. Có thể phân khúc theo một tiêu thức hoặc có thể kết hợp một vài tiêu
thức, trong đó có tiêu thức chính và các tiêu thức phụ. Mỗi khúc thị trường có thể được
đặt tên dựa theo đặc điểm khác biệt nổi bật nhất. [10]304
96
Một cách để phát hiện ra khúc thị trường mới là nghiên cứu thứ bậc của các tính
chất mà người tiêu dùng căn cứ vào đó để lựa chọn một nhãn hiệu. Doanh nghiệp phải
theo dõi những thay đổi trong thứ bậc các tính chất mà người tiêu dùng sắp xếp và điều
chỉnh theo những ưu tiên luôn thay đổi của người tiêu dùng. Thứ bậc các tính chất cũng
thể hiện các khúc thị trường khách hàng. Những người mua quyết định trước tiên về
giá thuộc nhóm chi phối, những người quyết định trước tiên về kiểu dáng thuộc nhóm
kiểu dáng chi phối, những người quyết định trước tiên về nhãn hiệu thuộc nhóm nhãn
hiệu chi phối... Ta có thể tiếp tục và phát hiện những ai là thuộc nhóm kiểu hoặc giá
nhãn hiệu chi phối, theo thứ tự đó để hợp thành khúc thị trường khác,... Mỗi khúc có
thể có những đặc điểm khác biệt về nhân khẩu học, tâm lý và sở thích đối với phương
tiện truyền thông.
Kết thúc quá trình phân khúc thị trường cần kiển tra lại trước khi quyết định thử
nghiệm. Chú ý sự tương thích giữa các tiêu thức lựa chọn và sản phẩm doanh nghiệp
kinh doanh. [6] 70
3.3.4. Những lưu ý về phân khúc
- Phân khúc thành những phần quá nhỏ sẽ dẫn đến việc trùng lắp (những khúc
khác nhau có thể có yêu cầu tương tự) đồng thời thu hẹp thị trường, giới hạn doanh thu
tiềm năng. Doanh nghiệp cần thận trọng để tránh phân khúc quá mức thị trường của
mình. Nếu đã xảy ra tình trạng này thì có thể ghép bớt chúng lại hay mở rộng cơ sở
khách hàng. Ví dụ, Công ty Johnson & Johnson đã mở rộng thị trường mục tiêu của
mình đối với dầu gội đầu cho trẻ sơ sinh bằng cách gộp thêm cả người lớn vào đó nữa.
- Ngược lại, phân khúc thị trường quá đơn giản sẽ không phản ánh chính xác
nhu cầu tiềm năng và không thể đưa ra được một thị trường mục tiêu nào. Ngày nay,
nhiều doanh nghiệp phạm lỗi phân khúc thị trường quá to (undersegmentation) nhiều
hơn là phân khúc thị trường quá nhỏ (oversegmentation). Doanh nghiệp tưởng tượng ra
nhiều khách hàng tiềm năng sẽ mua sản phẩm của họ hơn so với thực tế [11]258. Hãy
phân khúc chi tiết đến một mức độ mà khách hàng cho là phù hợp. Ví dụ: Hãng giày
thể thao Nike thấy rằng thị trường giày cho bóng rổ có thể phân chia nhỏ hơn thành
giày cho cầu thủ tấn công, cầu thủ nhảy cao và các loại khác nữa. [11]114
97
- Các phân khúc thị trường biến đổi không ngừng vì người tiêu dùng biến đổi
không ngừng, những cái gì đúng hôm nay chưa chắc sẽ còn đúng cho ngày mai. Hoạt
động phân khúc thị trường phải được tiến hành thường xuyên vì nhu cầu của người tiêu
dùng sẽ thay đổi theo thời gian.
- Khi sức mua hãy còn yếu thì có thể không cần thiết phải phân chia thị trường
thành nhiều nhóm có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, nếu trên thị trường hàng hóa càng phong
phú đa dạng thì việc phân khúc càng có ý nghĩa. Cạnh tranh càng mạnh thì việc phân
khúc càng khó.
- Nhà Marketing không tạo ra được phân khúc mà họ chỉ nhận dạng phân khúc
và chọn những phân khúc phù hợp cho đơn vị mình.
3.4. Chọn thị trường mục tiêu (Targeting)3.4.1. Khái niệm
Sau bước phân khúc thị trường doanh nghiệp phải quyết định về khúc thị trường
được lựa chọn. Để có quyết định xác đáng về các khúc thị trường được lựa chọn cần
phải đánh giá các khúc thị trường. Sau khi đánh giá các khúc thị trường, doanh nghiệp
phải lựa chọn một hay nhiều khúc hấp dẫn, thích hợp nhất để tiến hành kinh doanh.
Khúc hấp dẫn và thích hợp nhất là khúc thị trường gồm các khách hàng có cùng nhu
cầu mà doanh nghiệp có khả năng đáp ứng, đồng thời doanh nghiệp có lợi thế cạnh
tranh nhất. Đó là quá trình lựa chọn thị trường mục tiêu và khúc thị trường được chọn
chính là khúc thị trường mục tiêu của doanh nghiệp.
Như vậy, “Chọn thị trường mục tiêu là đánh giá và lựa chọn một hay nhiều
khúc thị trường hấp dẫn và thích hợp cho doanh nghiệp.” Chọn thị trường mục tiêu
thực chất là quyết định phân bổ nguồn lực Marketing của doanh nghiệp hợp lý để tập
trung vào thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. “Thị trường mục tiêu là thị trường bao
gồm các khách hàng có cùng nhu cầu hoặc mong muốn mà doanh nghiệp có khả năng
đáp ứng, đồng thời có thể tạo ra ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh và đạt được các
mục tiêu Marketing đã định.”
Tóm lại, thị trường mục tiêu là thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn và hướng
tới để cung cấp sản phẩm, dịch vụ nhằm thực hiện các mục tiêu Marketing của mình,
98
đó là thị trường thích hợp nhất đối với tiềm năng của doanh nghiệp và hy vọng sẽ đem
lại hiệu quả kinh doanh cao.
3.4.2. Yêu cầu đối với thị trường mục tiêu
Từ khái niệm trên chúng ta có thể rút ra những yêu cầu cơ bản của một thị
trường mục tiêu hiệu quả:
- Là khu vực thị trường tập trung những người tiêu dùng có cùng nhu cầu, ước
muốn (need and want) chưa được thỏa mãn về loại hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp
có khả năng đáp ứng.
- Lượng cầu (demand) của thị trường mục tiêu tương đối phù hợp với khối
lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có khả năng cung cấp.
- Thị trường đó có tiềm năng và có triển vọng phát triển.
- Đảm bảo được các mục tiêu doanh số, lợi nhuận.
- Việc thâm nhập và rút lui thị trường đó không quá khó khăn.
- Không phải là nơi quá tập trung cạnh tranh.
- Doanh nghiệp có ưu thế cạnh tranh trên khu vực thị trường đó. [6] 71
3.4.3. Đánh giá các phân khúc thị trường
Để làm cơ sở cho việc lựa chọn thị trường mục tiêu đạt yêu cầu, các doanh
nghiệp phải tiến đánh giá các khúc thị trường khác nhau. Lúc này doanh nghiệp phải
xem xét ba yếu tố cụ thể là quy mô và mức tăng trưởng của khúc thị trường, mức độ
hấp dẫn của khúc thị trường, những mục tiêu và nguồn tài nguyên của doanh nghiệp.
3.4.3.1. Quy mô và mức tăng trưởng của khúc thị trường
Câu hỏi đầu tiên là khúc thị trường tiềm ẩn có những đặc điểm về quy mô và
mức tăng trưởng vừa sức không? "Quy mô vừa sức" là một yếu tố có tính tương đối.
Những doanh nghiệp lớn ưa thích những khúc thị trường có khối lượng tiêu thụ lớn và
thường coi nhẹ hay bỏ qua những khúc thị trường nhỏ. Những doanh nghiệp nhỏ thì lại
tránh những khúc thị trường lớn, bởi vì chúng đòi hỏi quá nhiều nguồn tài nguyên.
Qui mô thể hiện ở số khách hàng hoặc doanh số hiện tại tại thị trường đó và
mức tăng trưởng thể hiện ở tốc độ tăng của số khách hàng hoặc doanh số trong tương
lai. Mức tăng trưởng thường là một đặc điểm mong muốn, vì các doanh nghiệp, nói
99
chung, đều muốn có mức tiêu thụ và lợi nhuận ngày càng tăng. Song các đối thủ cạnh
tranh sẽ nhanh chóng xâm nhập những khúc thị trường đang tăng trưởng và làm giảm
đi khả năng sinh lời của chúng.
3.4.3.2. Mức độ hấp dẫn của khúc thị trường
Một khúc thị trường có thể có quy mô và mức tăng trưởng mong muốn, nhưng
lại thiếu tiềm năng sinh lời. Michael E. Porter đã phát hiện ra năm lực lượng quyết định
mức độ hấp dẫn nội tại về lợi nhuận lâu dài của một thị trường hay khúc thị trường. Mô
hình năm lực lượng cạnh tranh của ông cho hay doanh nghiệp phải đánh giá những ảnh
hưởng của năm nhóm đến khả năng sinh lời lâu dài: Các đối thủ cạnh tranh trong
ngành, những kẻ xâm nhập tiềm ẩn, những sản phẩm thay thế, người mua và người
cung ứng. Sau đây là năm mối đe dọa do các lực lượng này gây ra:
Hình 3.4: Năm lực lượng quyết định hấp dẫn về cơ cấu của khúc thị trường [10]319
Mối đe dọa của các đối thủ cạnh tranh trong ngành hiện có trên thị trường:
Khúc thị trường sẽ không hấp dẫn, nếu nó có quá nhiều những đối thủ cạnh tranh
mạnh hay tấn công. Bức tranh sẽ càng tồi tệ hơn, nếu khúc thị trường đó đã ổn định hay
đang suy thoái, nếu tăng thêm năng lực sản xuất lên quá nhiều, nếu chi phí cố định cao,
nếu rào cản xuất cao hay nếu các đối thủ cạnh tranh đều đã đầu tư quá nhiều để bám trụ
tại khúc thị trường đó. Tình hình này sẽ dẫn đến những cuộc chiến tranh.
Mối đe dọa của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn:
100
Những sản phẩm thay thế
Quyền lực của người cung ứng
Quyền lực của người
mua
Các đối thủ cạnh tranh
trong ngành
Những kẻ xâm nhập tiềm ẩn
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ mang theo vào năng lực sản xuất mới, những nguồn
tài nguyên đáng kể và phấn đấu để tăng thị phần. Vấn đề là liệu những kẻ xâm nhập
tiềm ẩn có thể dễ dàng nhảy vào không. Mức độ hấp dẫn của khúc thị trường thay đổi
theo chiều cao của các rào cản nhập và xuất. Khúc thị trường hấp dẫn nhất sẽ là khúc
thị trường có rào càn nhập cao và rào cảm xuất thấp. Chỉ có vài doanh nghiệp mới có
thể xâm nhập vào ngành và những daonh nghiệp yếu kém có thể dễ dàng ra khỏi
ngành. Nếu các rào cản nhập và xuất đều cao, thị trường sẽ có tiềm năng sinh lời cao
nhưng thường kèm theo nhiều rủi ro hơn, bởi vì những doanh nghiệp yếu kém còn ở lại
sẽ đấu tranh để giành giật thêm thị phần. Khi cả hai rào cản nhập và xuất đều thấp, thì
các doanh nghiệp đều dễ dàng xâm nhập và rời bỏ ngành đó, khi đó lợi nhuận sẽ ổn
định và thấp. Trường hợp xấu nhất là khi rào cản nhập thấp và rào cản xuất lại cao: ở
đây dễ dàng xâm nhập vào những thời kỳ thuận lợi, nhưng lại rất khó rời bỏ vào những
thời kỳ khó khăn. Kết quả là tình trạng dư thừa năng lực sản xuất triền miên và khả
năng kiếm tiền ngày càng giảm sút.
Hình 3.5: Rào cản và khả năng sinh lời [10]319
Mối đe dọa của những sản phẩm thay thế:
Một khúc thị trường sẽ không hấp dẫn khi có những sản phẩm thay thế thực tế
hay tiềm ẩn. Các sản phẩm thay thế sẽ tạo ra giới hạn đối với giá cả và lợi nhuận mà
một khúc thị trường có thể kiếm được. Doanh nghiệp phải theo dõi chặt chẽ xu hướng
giá cả của những sản phẩm thay thế. Nếu tiến bộ công nghiệp hay tình hình cạnh tranh
tăng lên trong những ngành của sản phẩm thay thế, thì giá cả và lợi nhuận trong khúc,
thị trường đó có thể giảm sút.
Mối đe dọa của quyền thương lượng ngày càng lớn của người mua:
101
Một khúc thị trường sẽ không hấp dẫn, nếu những người mua có quyền thương
lượng lớn hay ngày càng tăng. Người mua sẽ cố gắng buộc người bán phải giảm giá,
đòi hỏi chất lượng và dịch vụ cao hơn và đặt các đối thủ cạnh tranh vào thế đối lập
nhau, tất cả đều bằng cái giá của khả năng sinh lời của người bán. Quyền thương lượng
của người mua tăng lên khi họ càng tập trung và có tổ chức hơn, khi sản phẩm là một
phần đáng kể trong chi phí của người mua, khi sản phẩm không có những đặc điểm
khác biệt, khi chi phí chuyển đổi của người mua không lớn, khi người mua nhạy cảm
với giá, bởi vì lợi nhuận thấp, hay khi người mua có thể nhất thể hóa ngược. Để phòng
thủ, người bán có thể lựa chọn người mua nào có quyền lực thấp nhất để thương lượng
hay chuyển đổi người cung ứng. Cách phòng thủ tốt nhất là phát triển những sản phẩm
tốt hơn để những người mua mạnh không thể từ chối.
Mối đe dọa về quyền thương lượng ngày càng tăng của người cung ứng:
Một khúc thị trường sẽ không hấp dẫn nếu những người cung ứng của doanh
nghiệp có thể nâng giá hay giảm chất lượng. Những người cung ứng có xu hướng trở
nên có quyền lực mạnh hơn khi họ tập trung và có tổ chức. Khi có ít sản phẩm thay thế,
khi sản phẩm nhận được cung ứng là một đầu vào quan trọng, khi chi phí chuyển đổi
cao và khi người cung ứng có thể nhất thể hóa thuận. Cách phòng thủ tốt nhất là xây
dựng những quan hệ bình đẳng với những người cung ứng hay sử dụng nhiều nguồn
cung ứng.
3.4.3.3. Mục tiêu và nguồn lực của doanh nghiệp
Ngay cả khi một khúc thị trường lớn đang tăng cường và hấp dẫn về cơ cấu,
doanh nghiệp vẫn cần xem xét những mục tiêu và nguồn tài nguyên của bản thân mình
so với khúc thị trường đó. Một số khúc thị trường hấp dẫn có thể vẫn bị loại bỏ, bởi vì
chúng không phù hợp với mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp. Ngay cả khi khúc thị
trường phù hợp với những mục tiêu của mình, doanh nghiệp vẫn phải xem xét xem có
đủ những kỹ năng và nguồn tài nguyên để thành công trong khúc thị trường đó không.
Mỗi khúc thị trường đều có những yêu cầu nhất định để thành công. Cần loại bỏ khúc
thị trường đó nếu doanh nghiệp thiếu một hay nhiều năng lực cần thiết và không có
điều kiện để tạo được những khả năng cần thiết. Dù doanh nghiệp có đủ những năng
102
lực cần thiết, thì vẫn phải phát triển một số ưu thế trội hơn. Doanh nghiệp chỉ nên xâm
nhập những khúc thị trường nào mà mình có thể cung ứng giá trị lớn hơn.
3.4.4. Lựa chọn thị trường mục tiêu
Sau khi đã đánh giá khúc thị trường khác nhau, doanh nghiệp phải quyết định
nên phục vụ những khúc thị trường mục tiêu nào. Doanh nghiệp có thể xem xét năm
“Uy tín của nhãn hiệu phải được phản ánh không chỉ qua giá trị lợi nhuận tăng thêm
đã đạt được từ việc sử dụng nhãn hiệu hiện tại, mà còn qua giá trị của những khả năng
mở rộng đối với các sản phẩm khác.”
Patrick Barwise-Giáo sư danh dự tại trường Kinh doanh London
“Sản phẩm là những gì được sản xuất trong nhà máy, thương hiệu là những gì
khách hàng mua. Sản phẩm có thể bị bắt chước bởi đối thủ cạnh tranh nhưng thương
hiệu là tài sản riêng của công ty. Sản phẩm có thể nhanh chóng bị lạc hậu, nhưng
thương hiệu, nếu thành công sẽ không bao giờ lạc hậu.”
Stephen King, tập đoàn WPP
“Toàn bộ nhà máy và cơ sở của chúng tôi ngày mai có thể cháy trụi, nhưng không có gì
có thể chạm đến được giá trị của công ty chúng tôi vốn thật sự nằm trong danh tiếng
của thương hiệu và tri thức tập thể trong công ty chúng tôi.”
Roberto Goizueta, cố tổng giám đốc điều hành Coca-Cola [11]14
“Thương hiệu là chỗ chứa đựng niềm tin và nó ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn vì
có quá nhiều sự lựa chọn. Khách hàng muốn đơn giản hóa cuộc sống của mình.”
Niall Fitzgerald, chủ tịch công ty Unilever [11]15
Mục tiêu chương 4:Sau khi học xong chương 4, sinh viên có khả năng:
- Hiểu biết về thương hiệu và các thành phần của thương hiệu. Định nghĩa được
giá trị thương hiệu.
- Giải thích tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu, được xem như là
một công cụ Marketing quan trọng. - Đề ra các chiến lược xây dựng và quản trị thương hiệu.
117
- Mô tả các phương pháp đo lường giá trị thương hiệu.
- Hiểu về khái niệm nhượng quyền thương hiệu (franchise).
4.1. Tổng quan về thương hiệuTrước đây, vấn đề thương hiệu chưa được chú trọng, không được các nhà kinh
doanh tập trung đầu tư xây dựng đúng mức. Người tiêu dùng khi mua sản phẩm có tên
hoặc không có tên chỉ để phân biệt sản phẩm của nhà sản xuất này với nhà sản xuất
khác, còn vị trí các thương hiệu trong tâm trí của họ rất mờ nhạt và lẫn lộn. Nhờ sự
định vị và quảng bá các thương hiệu quốc tế của các công ty đa quốc gia (Multi-
national companies-MNCs) một cách bài bản trên quy mô lớn, vị trí các thương hiệu
trên thị trường Việt Nam đã dần dần hình thành. Lúc này, người tiêu dùng chuyển hành
vi mua sắm từ sản phẩm sang thương hiệu. Và hiện nay rất nhiều doanh nghiệp Việt
Nam đã xây dựng cho mình được những thương hiệu nổi tiếng như: Phở 24, cà phê
Trung Nguyên, cà phê HighLand, dầu gội X-Men, nước tăng lực Number One…
Vậy thương hiệu là gì? Mối quan hệ giữa thương hiệu và sản phẩm như thế nào?
Các thành phần giá trị của thương hiệu là gì? Để trả lời cho các câu hỏi này, chương
này sẽ trình bày một vài góc tiếp cận hiện nay về thương hiệu.
4.1.1. Khái niệm thương hiệu
Có nhiều quan điểm về thương hiệu, nhưng cơ bản có thể chia thành hai quan
điểm chính: Quan điểm truyền thống và quan điểm tổng hợp.
4.1.1.1. Quan điểm truyền thống về thương hiệu
Quan điểm truyền thống cơ bản lấy theo quan điểm của Hiệp Hội Marketing
Hoa Kỳ (American Marketing Association), theo đó “Thương hiệu là một cái tên, biểu
tượng, ký hiệu, kiểu dáng hay một sự phối hợp của các yếu tố này nhằm mục đích để
nhận dạng sản phẩm, dịch vụ của một nhà sản xuất và phân biệt với các thương hiệu
của đối thủ cạnh tranh.” [15]44
Như vậy, theo quan điểm truyền thống:
- Thương hiệu được hiểu như là một thành phần của sản phẩm, dịch vụ. Khách
hàng mua một sản phẩm và thương hiệu là một phần nhỏ trong đó.
118
- Chức năng chính của thương hiệu chỉ là để phân biệt sản phẩm, dịch vụ của
mình với sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh cùng loại mà thôi.
Quan điểm truyền thống về thương hiệu tồn tại trong một thời gian khá dài cùng
với sự ra đời và phát triển của ngành Marketing. Theo quan điểm này, khi kinh doanh
doanh nghiệp sẽ lựa chọn và thiết kế cho sản phẩm của mình một nhãn hiệu với một tên
gọi, một biểu trưng và đi đăng ký nó với cơ quan có thẩm quyền. Tại đây nhãn hiệu sẽ
được xem xét và cấp giấy chứng nhận sở hữu độc quyền, khi đó nhãn hiệu trở thành
thương hiệu của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng quan điểm
truyền thống không còn phù hợp vì không thể giải thích được vai trò của thương hiệu
trong nền kinh tế thế giới chuyển sang nền kinh tế toàn cầu và cạnh tranh quyết liệt. Từ
đó các học giả tiên phong về tài sản thương hiệu Aaker, Amber và Styles (1996) đưa ra
một quan điểm mới về thương hiệu gọi là quan điểm tổng hợp về thương hiệu.
4.1.1.2. Quan điểm tổng hợp về thương hiệu
Trước hết chúng ta cần phân biệt hai khái niệm hiện nay hay được sử dụng lầm
lẫn là: nhãn hiệu (trademark) và thương hiệu (brand). Nhãn hiệu là dấu hiệu của
thương hiệu đã được đăng ký chính thức, vượt qua các thử thách do yêu cầu đăng ký về
chất lượng, mẫu mã, tiêu chuẩn công nghiệp và tính riêng biệt đưa ra. Nhãn hiệu có thể
trao đổi, đăng ký bảo vệ và xử lý khi có xảy ra tranh chấp. Do đó, chỉ khi nào hàng hóa
có nhãn hiệu đàng hoàng thì nó mới là nhãn hiệu thương phẩm. Nói nhãn hiệu là nói
cái cụ thể đã đi qua quy trình công nhận giá trị sở hữu công nghiệp, chứ không chỉ
nhằm vào “tính chất nhãn hàng” nói chung. Tại Việt Nam Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu hàng hóa do Cục Sở hữu trí tuệ cấp. Có thể thấy được điểm khác biệt giữa
hai khái niệm thương hiệu (brand) và nhãn hiệu (trademark) như sau:
Bảng 4.1: Phân biệt giữa thương hiệu (brand) và nhãn hiệu (trademark)
Thương hiệu (brand) Nhãn hiệu (trademark)1. Khái niệm về thương mại, tài sản vô hình2. Hiện diện trong tâm trí người tiêu dùng3. Doanh nghiệp xây dựng, người tiêu dùng chấp nhận
1. Khái niệm về luật pháp, tài sản hữu hình2. Hiện diện trên văn bản pháp lý3. Doanh nghiệp đăng ký, cơ quan chức năng công nhận
119
4. Xây dựng trên hệ thống tổ chức của doanh nghiệp
4. Xây dựng trên hệ thống luật pháp quốc gia
(Nguồn: [28]13 và một số bổ sung của nhóm biên soạn)
Có thể nói, thương hiệu là hình thức thể hiện bên ngoài, tạo ra ấn tượng, thể hiện
cái bên trong (cho sản phẩm hoặc doanh nghiệp). Thương hiệu tạo ra nhận thức và
niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng.
Theo quan điểm tổng hợp “Thương hiệu là một tập hợp các thuộc tính cung cấp
cho khách hàng mục tiêu các giá trị mà họ đòi hỏi. Còn sản phẩm chỉ là một thành
phần của thương hiệu, chủ yếu cung cấp lợi ích chức năng cho khách hàng. Như vậy,
các thành phần Marketing hỗn hợp (sản phẩm, giá cả, phân phối và chiêu thị) cũng chỉ
là các thành phần của một thương hiệu.” [15]45
Quan điểm này ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu và thực tiễn chấp nhận
xuất phát từ lý do là người tiêu dùng có hai nhu cầu: nhu cầu về chức năng (functional
needs) và nhu cầu về tâm lý (psychological needs). Sản phẩm chỉ cung cấp cho người
tiêu dùng nhu cầu về chức năng, còn thương hiệu mới cung cấp cho người tiêu dùng
nhu cầu về tâm lý. [15]46
Chính vì thế, ngày nay thương hiệu đã dần thay thế cho sản phẩm trong các hoạt
động Marketing của doanh nghiệp. Bản chất của việc xây dựng thương hiệu là xây
dựng tình cảm của khách hàng đối với sản phẩm, khách hàng nghĩ gì về sản phẩm đó
mới chính là điều các nhà Marketing nên tập trung vào. Nói một cách dễ hiểu, xây
dựng thương hiệu chính là xây dựng “sản phẩm nằm trong tâm trí của khách hàng”.
Hình 4.1: Hai mô hình về mối quan hệ giữa sản phẩm và thương hiệu [15]46
120
Thương hiệu là một thành phần của sản phẩm
SẢN PHẨM
THƯƠNG HIỆU
Sản phẩm là một thành phần của thương hiệu
THƯƠNG HIỆU
SẢN PHẨM
Như vậy, theo quan điểm mới, sản phẩm chỉ là một thành phần của thương hiệu.
Sản phẩm là những gì sản xuất trong nhà máy, thương hiệu là những gì khách hàng
mua. Sản phẩm có thể bị bắt chước nhưng thương hiệu là tài sản riêng của doanh
nghiệp. Sản phẩm có thể nhanh chóng bị lạc hậu, nhưng tạo dựng thương hiệu thành
công sẽ không bao giờ bị tụt hậu. Quan điểm mới về thương hiệu ngày càng được
nhiều nhà nghiên cứu và thực tiễn chấp nhận. Các nhà quản trị Marketing phải nỗ lực
xây dựng, quảng bá và phát triển được các thương hiệu mạnh trên thị trường mục tiêu
thì doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh và phát triển.
4.1.2. Đặc điểm của thương hiệu
- Là loại tài sản vô hình, có giá trị ban đầu bằng không. Giá trị của nó được hình
thành dần do sự đầu tư vào chất lượng sản phẩm và các phương tiện quảng bá.
- Thương hiệu là tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp, nhưng lại nằm ngoài
phạm vi doanh nghiệp và tồn tại trong tâm trí người tiêu dùng.
- Thương hiệu được hình thành dần qua thời gian nhờ nhận thức của người tiêu
dùng khi họ sử dụng sản phẩm của những nhãn hiệu được yêu thích, tiếp xúc với hệ
thống các nhà phân phối và qua quá trình tiếp nhận những thông tin về sản phẩm.
- Thương hiệu là tài sản có giá trị tiềm năng, không bị mất đi cùng với sự thua lỗ
của các doanh nghiệp.
4.1.3. Thành phần của thương hiệu
4.1.3.1. Thành phần chức năng
Thành phần này có mục đích cung cấp lợi ích chức năng của thương hiệu cho
khách hàng mục tiêu và nó chính là sản phẩm. Nó bao gồm các thuộc tính mang tính
chức năng (functional attributes) như:
- Công dụng của sản phẩm
- Các đặc trưng bổ sung (features)
- Chất lượng của sản phẩm mang lại
4.1.3.2. Thành phần cảm xúc (tâm lý)
121
Thành phần này bao gồm các yếu tố giá trị mang tính biểu tượng nhằm tạo cho
khách hàng mục tiêu những lợi ích tâm lý. Gồm các yếu tố giá trị mang tính biểu tượng
(symbolic values). Các yếu tố này có thể là:
- Nhân cách thương hiệu (brand personality). Đây là thành phần quan trọng
nhất.
- Biểu tượng (symbols)
- Luận cứ bán hàng độc đáo (gọi tắt là USP: unique selling proposition) hay còn
gọi là luận cứ giá trị
- Vị trí thương hiệu đồng hành với doanh nghiệp như quốc gia xuất xứ, doanh
nghiệp nội địa hay quốc tế…
Trong đó, yếu tố quan trọng nhất tạo nên lợi ích tâm lý cho khách hàng mục tiêu
là nhân cách thương hiệu. Aaker định nghĩa: “Nhân cách thương hiệu là một tập thuộc
tính của con người gắn liền với một thương hiệu”. Nó cũng gồm: giới tính, tuổi tác,
tầng lớp xã hội và các cảm xúc.
Dựa vào thành phần nhân cách con người, Aaker đưa ra năm thành phần của
nhân cách thương hiệu thường được gọi là “the big five” (5 cá tính chính) đó là:
Chân thật (sincerity) ví dụ như Kodak.
Hứng khởi (excitement) ví dụ như Beneton.
Năng lực (competence) ví dụ như IBM.
Tinh tế (sophistication) ví dụ như Mercedes
Phong trần hoặc mạnh mẽ (ruggedness) ví dụ như Nike
122
Hình 4.2: Các thành phần của nhân cách thương hiệu
(Nguồn: [15]50 trích nguồn từ Aaker, Dimensions of Brand Personnality, 1997)
4.1.4. Giá trị thương hiệu (Brand value)
Có nhiều quan điểm về thương hiệu, do đó giá trị về thương hiệu cũng có nhiều
quan điểm và cách đánh giá.
Giá trị thương hiệu đánh giá theo quan điểm tài chính (đầu tư):
Ưu: Góp phần vào việc đánh giá tài sản của một doanh nghiệp.
Nhược: Không giúp cho nhà Marketing trong việc xây dựng và phát triển
thương hiệu (vì đứng trên góc độ Marketing thì giá trị về mặt tài chính của một thương
hiệu là kết quả đánh giá của khách hàng về giá trị thương hiệu đó- nghĩa là khi khách
hàng đánh giá cao về một thương hiệu thì họ có xu hướng tiêu dùng thương hiệu đó).
Giá trị thương hiệu đánh giá theo quan điểm khách hàng (customer-based
brand equity):
Theo quan điểm này, giá trị thương hiệu nên xem xét theo quan điểm khách
hàng. Một thương hiệu có giá trị cao khi khách hàng nhận biết nhiều về nó, có ấn tượng
tốt về các thuộc tính mà thương hiệu cung cấp lợi ích cho họ và có sự đam mê thương
hiệu thể hiện ở sự yêu thích đối với thương hiệu, xu hướng tiêu dùng thương hiệu,
trung thành với thương hiệu.
Lassar-W.B.Mittal và A.Sharma (1995) đưa ra năm thành phần giá trị thương
hiệu:
- Chất lượng cảm nhận về thương hiệu (Perceived quality)
- Giá trị cảm nhận (Perceived value)
- Ấn tượng về thương hiệu (Brand image)
- Lòng tin về thương hiệu của khách hàng (Trustworthiness)
- Cảm tưởng khách hàng về thương hiệu (Commitment)
Keller cho rằng giá trị thương hiệu chính là kiến thức của khách hàng (Brand
knowledge) về thương hiệu đó. Kiến thức khách hàng ở đây gồm hai thành phần chính:
- Sự nhận biết thương hiệu (Brand awareness)
- Ấn tượng về thương hiệu (Brand image)
123
Aaker (1991) thì đưa ra bốn thành phần gồm:
- Lòng trung thành của khách hàng (Brand loyalty)
- Sự nhận biết thương hiệu (Brand awareness)
- Chất lượng cảm nhận về thương hiệu (Perceived quality)
- Các thuộc tính đồng hành của thương hiệu (Brand associations): Chẳng hạn
như tên một nhân vật, địa phương nổi tiếng gắn liền với thương hiệu; bằng sáng chế
(Patents); mối quan hệ với kênh phân phối, nhãn hiệu (Trademarks)…
Theo PGS. TS.Nguyễn Đình Thọ và TS. Nguyễn Thị Mai Trang, giá trị
thương hiệu tại thị trường Việt Nam gồm bốn thành phần:
- Nhận biết thương hiệu (Brand awareness)
- Lòng ham muốn về thương hiệu (lòng đam mê về thương hiệu- Brand passion)
- Chất lượng cảm nhận về thương hiệu (Perceived quality)
- Lòng trung thành thương hiệu (Brand loyalty)
Sau đây xin được khái quát nội dung bốn thành phần của giá trị thương hiệu
theo quan điểm của PGS. TS.Nguyễn Đình Thọ và TS.Nguyễn Thị Mai Trang:
4.1.4.1. Nhận biết thương hiệu (Brand awareness)
Nhận biết thương hiệu là số phần trăm của dân số hay thị trường mục tiêu biết
đến sự hiện diện của một thương hiệu hay doanh nghiệp. Mức độ nhận biết thương hiệu
có thể chia ra làm 3 cấp độ khác nhau. Cấp độ cao nhất chính là thương hiệu được nhận
biết đầu tiên (Top of mind). Cấp độ kế tiếp là không nhắc mà nhớ (Spontaneous). Cấp
độ thấp nhất là nhắc để nhớ (Promt). Khi cộng gộp 3 cấp độ nhận biết thương hiệu thì
ta sẽ biết tổng số nhận biết thương hiệu.
Mức độ nhận biết về thương hiệu nói lên khả năng một người tiêu dùng có thể
nhận dạng và phân biệt những đặc điểm của một thương hiệu trong một tập các thương
hiệu có trên thị trường. Khi người tiêu dùng quyết định tiêu dùng một thương hiệu nào
đó, họ cần phải nhận biết thương hiệu đó. Như vậy nhận biết thương hiệu là yếu tố đầu
tiên để người tiêu dùng phân loại một thương hiệu trong một tập các thương hiệu cạnh
tranh. Đồng thời nhận biết thương hiệu là yếu tố cần có để tạo lòng ham muốn về
thương hiệu, nghĩa là người tiêu dùng không thể có thái độ ham muốn một thương hiệu
124
khi họ không nhận biết các thuộc tính của thương hiệu đó và so sánh nó với thương
hiệu còn lại.
Ví dụ một người muốn sử dụng mạng điện thoại di động (ĐTDĐ) nào tại Việt
Nam, họ cần phải nhận biết tại thị trường Việt Nam hiện có các mạng ĐTDĐ như:
mạng ĐTDĐ Vinaphone, mạng ĐTDĐ Mobiphone và mạng ĐTDĐ nội vùng
Cityphone (thuộc Tổng Cty Bưu chính-Viễn thông Việt Nam), mạng ĐTDĐ S-Fone
(thuộc Cty CP dịch vụ Bưu chính-Viễn thông Sài Gòn-gọi tắt là Saigon Postel hay Cty
SPT), mạng ĐTDĐ Viettel (thuộc Cty Bưu chính-Viễn thông Quân đội)… và sau đó
anh ta sẽ so sánh thuộc tính của từng mạng với nhau để đưa ra quyết định tiêu dùng
cuối cùng.
4.1.4.2. Lòng ham muốn về thương hiệu (brand passion)
Lòng ham muốn về thương hiệu của người tiêu dùng nói lên mức độ thích thú và
xu hướng tiêu dùng của họ đối với thương hiệu đó.
Sự thích thú của người tiêu dùng đối với một thương hiệu thể hiện qua cảm xúc
như thích thú, cảm mến… Khi ra quyết định tiêu dùng, khách hàng nhận biết nhiều
thương hiệu khác nhau, so sánh các thương hiệu với nhau và thường có xu hướng tiêu
dùng những thương hiệu mà mình thích thú. Thương hiệu nào nhận được cảm xúc tích
cực của người tiêu dùng sẽ có được lợi thế trong cạnh tranh.
Xu hướng tiêu dùng được thể hiện qua xu hướng hành vi của người tiêu dùng
(xu hướng tiêu dùng hay không tiêu dùng một thương hiệu nào đó). Xu hướng tiêu
dùng thương hiệu quyết định hành vi tiêu dùng thương hiệu.
Chẳng hạn với mạng ĐTDĐ, mặc dù tham gia thị trường viễn thông Việt Nam
sau hai mạng ĐTDĐ Vinaphone và Mobiphone, nhưng với chiến lược Marketing bài
bản và chất lượng ngày càng nâng cao, Viettel đã tạo nên sự cảm xúc mãnh liệt đối với
người tiêu dùng. Chính điều đó mạng ĐTDĐ Viettel đã gặt hái được nhiều thành công,
thương hiệu Viettel đứng vững trong lòng khách hàng và chiếm vị trí số một trên thị
trường Việt Nam. Không chỉ phát triển thị trường trong nước mà mạng ĐTDĐ Viettel
còn tập trung phát triển ra thị trường nước ngoài.
4.1.4.3. Chất lượng cảm nhận (Perceived quality)
125
Yếu tố chính để người tiêu dùng so sánh các thương hiệu với nhau chính là chất
lượng của nó. Cần nhận thức rằng chất lượng thật sự của một thương hiệu do nhà sản
xuất cung cấp và chất lượng khách hàng cảm nhận được thường không trùng nhau. Tuy
nhiên chất lượng mà khách hàng cảm nhận được mới là yếu tố mà khách hàng làm căn
cứ để ra quyết định tiêu dùng.
Một thương hiệu được người tiêu dùng cảm nhận có chất lượng cao thì họ sẽ
biểu hiện cảm xúc của mình đối với nó, vì họ thấy rằng thương hiệu đó có những thuộc
tính làm cho họ thích thú và muốn sở hữu nó hơn các thương hiệu khác. Chẳng hạn,
trong các thương hiệu về điện tử, ta thấy Sony tạo cho người tiêu dùng một cảm nhận
về chất lượng cao hơn các thương hiệu khác và người tiêu dùng luôn luôn muốn sở hữu
thương hiệu Sony hơn các thương hiệu điện tử khác.
4.1.4.4. Lòng trung thành thương hiệu (Brand loyalty)
Theo Chaudhuri (1999), lòng trung thành của người tiêu dùng đối với một
thương hiệu nói lên xu hướng của người tiêu dùng mua và sử dụng một thương hiệu
nào đó trong một họ sản phẩm và lặp lại hành vi này. Lòng trung thành của thương
hiệu đóng vai trò trong sự thành công của thương hiệu đó, thương hiệu nào tạo được
lòng trung thành của người tiêu dùng càng cao thì thương hiệu đó càng có giá trị càng
cao.
Qua các quan điểm ở trên ta thấy có nhiều điểm tương đồng và cũng có nhiều
điểm khác biệt, như vậy giá trị thương hiệu là một khái niệm phức tạp mà hiện nay
chưa có sự thống nhất cao về các thành phần của nó. Tuy nhiên, rõ ràng là giá trị
thương hiệu là một khái niệm đa thành phần (multidimensional concept) và mỗi thành
phần lại bao gồm nhiều thành phần con khác, chính vì thế có rất nhiều cách để xây
dựng khái niệm về giá trị một thương hiệu. Giá trị thương hiệu quả là một khái niệm
rộng và phức tạp, đây cũng là đề tài cho nhiều nhà khoa học nghiên cứu khám phá và
để xác định “giá trị thương hiệu” ngày càng hoàn thiện hơn trước hết đối với nhà sản
xuất và người tiêu dùng.
Có thể nói thương hiệu là tài sản vô hình nhưng chứa đựng một sức mạnh hữu
hình-quyết định sự lựa chọn của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ, tác động đến sự
126
thành bại của hoạt động kinh doanh. Giá trị thương hiệu là cơ sở cho việc định giá
thương hiệu ở phần sau.
4.2. Định giá thương hiệuThương hiệu có thể định giá được khi mà ngày nay việc mua bán và sát nhập
(Merger and Acquisition-M&A) trở nên phổ biến. Định giá thương hiệu là một quá
trình tổng hợp và đo lường giá trị kinh tế của thương hiệu trong hiện tại và tương lai.
4.2.1. Các yếu tố cần thiết cho việc định giá thương hiệu
Để xây dựng và phát triển công tác định giá, các doanh nghiệp có rất nhiều vấn
đề tồn tại cần phải giải quyết:
- Nhà quản trị phải có nhận thức đúng đắn về công tác định giá thương hiệu, xây
dựng chiến lược định giá thương hiệu phù hợp với doanh nghiệp.
- Xây dựng bộ phận định giá thương hiệu: là trách nhiệm chung của cả doanh
nghiệp. Doanh nghiệp cần quan tâm đến công tác đào tạo, đãi ngộ và trọng dụng nhân
tài; các nhà quản trị cần có kiến thức về thương hiệu và định giá thương hiệu bằng cách
đào tạo hay tự đào tạo.
- Phối hợp với các doanh nghiệp trong và ngoài ngành để trao đổi thông tin và
kinh nghiệm định giá thương hiệu; kế thừa các nghiên cứu của các bộ phận khác như
bộ phận Marketing, nghiên cứu và phát triển, tài chính để có thể sử dụng định giá
thương hiệu.
- Phải thực hiện hoàn chỉnh các báo cáo tài chính kế toán hàng tháng minh bạch
và chính xác để phục vụ công việc định giá.
- Tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Khi công bố thông
tin, doanh nghiệp cần đưa ra báo cáo riêng về giá trị thương hiệu (gồm những doanh
nghiệp mua vào), nhằm cung cấp thêm thông tin về tài sản vô hình của doanh nghiệp
(các nội dung về phân khúc thị trường, phân tích về công tác Marketing, đánh giá giá
trị của thương hiệu, nhãn hiệu, dự báo về tương lai của doanh nghiệp).
- Liên tục cập nhật các kỹ thuật định giá thương hiệu trong và ngoài nước, căn
cứ và điều kiện của doanh nghiệp để định giá thương hiệu. Phối hợp với cơ quan Nhà
127
nước đưa ra những phương pháp định giá tối ưu nhất, đáp ứng yêu cầu của bản thân
doanh nghiệp và Nhà nước.
- Doanh nghiệp cần quan tâm đến việc sử dụng dịch vụ bên ngoài định giá
thương hiệu (các công ty tư vấn về định giá thương hiệu có nhiều kinh nghiệm và
thường là tổ chức độc lập nên kết quả nghiên cứu và định giá được đánh giá cao)
4.2.2. Phương pháp định giá thương hiệu
Khi định giá doanh nghiệp cần gộp tất cả tài sản của doanh nghiệp đó, kể cả
thương hiệu. Song chỉ đến cuối thập kỉ 1980, người ta mới đưa ra những phương pháp
định giá giúp giá trị đặc biệt của thương hiệu có quyền được hiểu và đánh giá một cách
đúng đắn. Nếu như trước đây, ý tưởng tách biệt thương hiệu để đo lường, đánh giá
khiến nhiều người nghi ngờ, không đồng tình thì nay việc đề ra một phương pháp
chứng thực nhận được sự ủng hộ và hưởng ứng rộng rãi, nhiệt tình của cả hai phía:
Marketing và Tài chính. Để bảo đảm một loạt yêu cầu của các tiêu chuẩn kế toán, các
vấn đề chuyển giá và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng giấy phép (Licensing); tiến
hành mua bán (Merger) và sát nhập (Acquisition), nhượng quyền thương hiệu
(Franchising)… đã khiến định giá thương hiệu trở thành một công việc vô cùng quan
trọng trong các hoạt động kinh doanh ngày nay.
Theo TS. Lý Quý Trung hiện nay có 5 phương pháp để định giá trị của một
thương hiệu. Tùy từng trường hợp mà doanh nghiệp có thể áp dụng cụ thể các phương
pháp định giá cho thương hiệu của mình. Dưới đây là từng phương pháp định giá
thương hiệu theo quan điểm này:
4.2.2.1. Dựa vào khả năng bán giá cao hơn bình thường
Khi khách hàng cảm thấy an tâm, tin tưởng vào uy tín và chất lượng của một
thương hiệu nào đó họ sẵn sàng trả giá cao hơn bình thường. Đó là khả năng, giá trị
cộng thêm của thương hiệu mang lại cho một sản phẩm. Có thể đo “khả năng bán giá
cao hơn bình thường” của một thương hiệu thông qua việc nghiên cứu khách hàng.
Khách hàng sẽ được hỏi nhiều câu hỏi để đánh giá được sự khác biệt giữa sản phẩm
cùng loại có thương hiệu và không có thương hiệu
4.2.2.2. Dựa vào khả năng bán hàng dễ hơn bình thường
128
Khả năng bán hàng dễ hơn bình thường chính là dựa vào sự ưa chuộng của
khách hàng. Cách tính này, giá trị thương hiệu là khoản chênh lệch thị phần (market
share) thay vì lợi nhuận. Phương pháp này chỉ dựa vào con số thống kê liên quan đến
sức mạnh hiện tại của thương hiệu mà chưa cân nhắc nhiều đến yếu tố tương lai (khi có
những thay đổi, cải tiến chất lượng...)
4.2.2.3. Dựa vào chi phí để xây dựng một thương hiệu thành công
Dựa trên các chi phí thực sự mà doanh nghiệp đã phải bỏ ra để phát triển thương
hiệu đến tình trạng hiện tại. Là sự tổng hợp các khoản chi, như chi phí nghiên cứu thị
trường, quảng cáo, truyền thông… Chi phí đầu tư hoàn toàn không tỉ lệ thuận với giá
trị gia tăng của thương hiệu nên cách tiếp cận này không chính xác. Cách khác là tính
giá trị đầu tư tương đương. Cách này lấy chi phí thị trường hiện tại để ước tính tổng số
tiền bỏ ra để xây dựng một thương hiệu tương đương với thương hiệu hiện tại. Số tiền
này bao gồm các chi phí: xây dựng đề án, nghiên cứu thị trường, sản xuất mẫu thử,
quảng cáo, khuyến mãi… Cách tính này thường được các chuyên gia tính nhẩm nhanh
trị giá của một thương hiệu.
4.2.2.4. Dựa vào giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Đó là phần chênh lệch giữa tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp, tính trên
giá cổ phiếu, trừ đi toàn bộ giá trị trong sổ sách của doanh nghiệp. Giá trị này chỉ là
tương đối vì giá cổ phiếu có thể thay đổi từng ngày, nhưng giá trị thực sự của thương
hiệu phụ thuộc nhiều vào chiến lược kinh doanh, chiến lược Marketing của doanh
nghiệp và khả năng thực hiện các chiến lược đó. Mặt khác, các tài sản cố định thể hiện
trong sổ sách kế toán được tính toán dựa trên giá mua, trừ đi khấu hao hàng năm. Giá
trị này có thể cao hơn so với giá trị còn lại thực tế của tài sản trên thị trường (do tốc độ
đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị). Ngược lại, giá trị tài sản như đất đai, lợi thế
thương mại đôi khi được định giá thấp hơn thị trường.
4.2.2.5. Dựa vào khả năng tạo ra lợi nhuận nhiều hơn bình thường
Phương pháp này là phương pháp tốt nhất để đánh giá thương hiệu. Có 2 cách:
129
- Cách 1: Dựa vào kế hoạch dài hạn của thương hiệu: lấy con số luồng lợi
nhuận dự tính trừ giảm đi (phải cân nhắc yếu tố sức mạnh của thương hiệu và ảnh
hưởng của nó với môi trường cạnh tranh).
- Cách 2: Tính thu nhập hiện tại rồi áp dụng cấp số nhân (nếu thu nhập hiện tại
không phản ánh trung thực tình hình kinh doanh của thương hiệu, có thể lấy con số
bình quân của những năm trước. Nếu con số này bị âm hoặc quá thấp thì có thể lấy con
số của toàn ngành để làm suy chuẩn ra doanh nghiệp). [28]19-29
4.3. Quy trình xây dựng thương hiệu (Brand building)Xây dựng thương hiệu (Brand building) là xây dựng về các thành phần của
thương hiệu bao gồm thành phần chức năng đó là sản phẩm và thành phần cảm xúc đó
là các yếu tố giá trị nhằm tạo cho khách hàng mục tiêu những lợi ích tâm lý. Hay nói
các khác, xây dựng thương hiệu là quá trình trực tiếp hoặc gián tiếp làm gia tăng vốn
thương hiệu của tổ chức.
Quy trình xây dựng thương hiệu phải được bắt đầu từ việc xác lập tầm nhìn
(brand vision) và sứ mạng thương hiệu (brand mission). Các nhà quản trị thương hiệu
cho rằng tầm nhìn và sứ mạng thương hiệu quan trọng như bản hiến pháp của một quốc
gia. Tầm nhìn thương hiệu gợi ra một định hướng cho tương lai, một khát vọng của
một thương hiệu về những điều mà nó muốn đạt tới. Sứ mạng của một thương hiệu là
khái niệm dùng để chỉ mục đích của thương hiệu đó, lý do và ý nghĩa của sự ra đời và
tồn tại của nó. Mọi hoạt động, định hướng phát triển của thương hiệu đều tuân theo tầm
nhìn và sứ mạng định hướng này. Trước hết, nó tạo cơ sở quan trọng cho việc lựa chọn
đúng đắn các mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp, mặt khác nó có tác dụng tạo
lập và củng cố hình ảnh của thương hiệu trước công chúng xã hội, cũng như tạo ra sự
hấp dấn đến các đối tượng liên quan (khách hàng, cổ đông, trung gian phân phối, nhà
cung cấp, ngân hàng, chính phủ…). Tầm nhìn và sứ mạng thương hiệu còn định hướng
cho nhân viên biết và giúp họ hiểu được giá trị chung và phải biết cách làm tròn trách
nhiệm của mình như thế nào.
Khi có một tầm nhìn thương hiệu các tổ chức sẽ tập trung mọi nguồn lực của
mình vào một định hướng lâu dài, từ việc tuyển người cho đến việc tạo dựng một môi
130
trường làm việc thích hợp. Khi đã có một tầm nhìn cho tương lai của một thương hiệu,
trách nhiệm của nhà lãnh đạo là phải truyền tải tầm nhìn này đến mọi thành viên của tổ
chức, biến nó thành một tầm nhìn chung được chia sẻ bởi tất cả mọi người. Tầm nhìn
thương hiệu phải đạt được các tiêu chuẩn:
Thống nhất một mục tiêu xuyên suốt của doanh nghiệp ở mọi cấp
Tạo sự nhất quán trong việc lãnh đạo
Động viên tinh thần nhân viên và quản lý
Định hướng sử dụng nguồn tài nguyên
Tạo tiền đề cho việc xây dựng mục tiêu và chỉ tiêu trong cùng một định hướng
Theo kinh nghiệm của các giám đốc thương hiệu, một bản tuyên bố sứ mạng tốt
thường phải thể hiện được các nội dung sau:
Sản phẩm hay dịch vụ: Sản phẩm hay dịch vụ chính của doanh nghiệp là gì?
Thị trường: Thị trường chính của doanh nghiệp ở đâu? Doanh nghiệp cạnh tranh
ở đâu?
Khách hàng: Đối tượng khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp là ai?
Công nghệ: Công nghệ có phải là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp hay
không ?
Quan tâm đến sự sống còn, phát triển và khả năng sinh lời: Doanh nghiệp có
ràng buộc với các mục tiêu kinh tế không?
Triết lý: Niềm tin cơ bản, giá trị, nguyện vọng và các triết lý của doanh nghiệp?
Tự đánh giá: Điểm mạnh và ưu thế cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp?
Quan tâm đến nhân viên: Thái độ của doanh nghiệp đối với nhân viên như thế
nào?
Hình ảnh cộng đồng: Hình ảnh cộng đồng có phải là quan tâm chủ yếu của doanh
nghiệp hay không?
Theo Philip Kotler, từ tầm nhìn đã được xác định để xây dựng thương hiệu cần
thực hiện các bước sau:
- Phát triển sự định vị giá trị
- Chọn ra một định vị rộng cho sản phẩm
131
- Chọn ra một định vị cụ thể cho sản phẩm
- Chọn ra một định vị giá trị cho sản phẩm
- Phát triển sự định vị giá trị toàn diện cho sản phẩm
- Xây dựng thương hiệu
- Chọn ra một tên thương hiệu
- Xây dựng các gắn kết và hứa hẹn phong phú đối với tên thương hiệu
- Quản lý tất cả các tiếp xúc thương mại với khách hàng để nó đáp ứng hay vượt
quá mong đợi của khách hàng có liên quan đến thương hiệu.
Xây dựng thương hiệu là một phương pháp khác để tạo ra sự khác biệt. Có ý
kiến cho rằng xây dựng thương hiệu là một nỗ lực bậc cao để làm cho sản phẩm hoặc
dịch vụ trở nên khác biệt. Bằng cách xây dựng một hình ảnh tích cực và quen thuộc
cho những gì mà bạn muốn cung cấp cho khách hàng, bạn có khả năng trở thành lựa
chọn đầu tiên của khách hàng trong vô vàn đối thủ cạnh tranh.
Ở đây, chúng ta không đánh giá liệu sản phẩm hay dịch vụ nào đó có tương
xứng với thương hiệu nó tạo ra không. Nhưng rõ ràng các sản phẩm tên tuổi có ưu
điểm nhất định về chất lượng hay tiện ích mà các sản phẩm của đối thủ trong cùng lĩnh
vực không có. Ưu điểm này dẫn đến việc sản phẩm có thương hiệu sẽ được định giá
cao hơn so với các sản phẩm cùng nhóm. Sức mạnh của thương hiệu sẽ làm tăng doanh
số vì khách hàng sẽ không còn phải cân nhắc nhiều về việc có nên mua chúng hay
không. Như Patrick Barwise và Sean Meehan đã viết: “Các thương hiệu quen thuộc
làm giảm rủi ro theo một cách thuận tiện, đủ khả năng và đáng tin cậy”. Một thương
hiệu nổi tiếng là một bằng chứng về sự tin cậy, uy tín khiến khách hàng chọn lựa dễ
dàng. Cuộc sống hiện đại ngày nay làm con người không có nhiều thời gian như trước,
do đó, nếu cần mua kem đánh răng hay bột giặt, khách hàng chỉ việc chọn P/S và Omo
mà không cần phải suy nghĩ, đắn đo bất cứ điều gì, cũng như không màng đến việc so
sánh chúng với các sản phẩm khác. Đó chính là sức mạnh của thương hiệu.
Tuy nhiên, sức mạnh của một số thương hiệu có thể giảm bớt khi khách hàng
nhận ra rằng ưu điểm vượt trội đó chẳng qua chỉ là quảng cáo và những sản phẩm
không có thương hiệu có thể vẫn đem lại cùng tiện ích đó với chi phí thấp hơn đáng kể.
132
Điều này có thể dễ dàng nhận thấy ở những nơi như siêu thị hay nhà thuốc-nơi các sản
phẩm giá thấp được trưng bày bên cạnh các sản phẩm đắt tiền. Chẳng hạn, tại CVS-một
chuỗi hiệu thuốc lớn của Mỹ, thuốc giảm đau và hạ sốt của hiệu thuốc này nằm cạnh
Tylenol của Johnson & Johnson-một trong những nhãn thuốc không kê toa nổi tiếng.
Cả hai đều có chứa hoạt chất acetaminophen. Với cùng loại và kích thước, nhãn hiệu
CVS có giá 8,68 đô la, trong khi đó của Tylenol là 15,99 đô la. Sự chênh lệch này đủ
để khách hàng suy nghĩ trước khi quyết định mua.
4.4. Phát triển thương hiệu (Brand Extension) Khi thương hiệu đã thành công, doanh nghiệp sẽ muốn gắn tên thương hiệu lên thêm
các sản phẩm bổ sung. Phát triển thương hiệu hay mở rộng thương hiệu (Open brand) là
gia tăng nhận diện thương hiệu bằng việc tạo thương hiệu phụ, tạo hình ảnh mới cho người
sử dụng, gia tăng lợi ích xúc cảm. Cụ thể phát triển thương hiệu là việc tận dụng sức
mạnh của thương hiệu trong việc mở rộng những sản phẩm cùng chủng loại (mở rộng
dòng sản phẩm), mở rộng một chủng loại sản phẩm mới (mở rộng thương hiệu) hoặc
mở rộng sang ngành sản xuất khác (bành trướng thương hiệu) [11]19. Bằng những
cách này, doanh nghiệp có thể thúc đẩy sản phẩm của thương hiệu mình tới những thị
trường mới để tăng doanh số bán hàng, tăng lợi nhuận sản xuất và nâng cao danh tiếng
cho mình. Để mở rộng thành công thương hiệu thì yếu tố quan trọng nhất đó là sự phù
hợp hoặc đồng dạng với thương hiệu chính. Khi mở rộng thương hiệu, cần chú ý bốn
đặc điểm chính:
- Sự phù hợp là phạm vi những thuộc tính của thương hiệu chính có liên quan
hoặc ảnh hưởng đến thương hiệu mở rộng.
- Sự thừa nhận là sự mở rộng thương hiệu mà khách hàng có thể hiểu được một
cách logic vì sao thương hiệu này cần được mở rộng dưới sự kiểm soát của thương hiệu
chính.
- Sự tin cậy là những thuộc tính đáng tin cậy của thương hiệu chính được áp
dụng trên các sản phẩm của thương hiệu mở rộng
- Tính chuyển đổi là khả năng truyền đạt những kỹ năng và kinh nghiệm của
thương hiệu chính sang thương hiệu mở rộng.
133
Như vậy, mở rộng dòng sản phẩm (Line extension) là hợp lý khi doanh nghiệp
khai thác danh tiếng của chủng loại sản phẩm sẵn có và tiết kiệm được chi phí để tạo ra
sự chú ý cho một tên thương hiệu mới và một sản phẩm mới. Theo cách đó, chúng ta
thấy dầu gội Dove giới thiệu một loại dầu gội mới tăng cường chất phục hồi tóc cũng
mang nhãn hiệu Dove quen thuộc. Tuy nhiên, có một nguyên tắc đòi hỏi là đưa thêm
loại dầu gội này thì đồng thời phải loại bỏ những loại dầu gội Dove khác bán không
chạy. Loại dầu gội mới có thể làm hại doanh số các mặt hàng chủ lực mà chẳng làm
tăng thêm bao nhiêu doanh thu để bù đáp phần chi phí gia tăng. Chúng có thể làm giảm
hiệu quả hoạt động, tăng chi phí phân phối, làm người mua nhầm lẫn và giảm sút lợi
nhuận cuối cùng. Mở rộng một số dòng sản phẩm là thích đáng, nhưng không nên lạm
dụng nó. Nguy cơ lớn hơn khi mở rộng thương hiệu (Brand Extension): Người tiêu
dùng thích uống trà xanh 02 nhưng không thích uống sữa đậu nành đóng chai cùng
thương hiệu 02. Bành trướng thương hiệu (Brand Stretch) thì lại càng nguy hiểm hơn.
Có khách hàng nào muốn mua chiếc xe hơi mang nhãn hiệu Coca-Cola không?
Hai tác giả Jack Trout và Al Ries cực lực phản đối việc này. Theo hai ông, sức
mạnh thương hiệu tỷ lệ nghịch với sự mở rộng thương hiệu và những thương hiệu hàng
đầu chỉ tập trung vào một thế “định vị” duy nhất trong đầu óc người tiêu dùng: Coca
Cola chỉ có nghĩa là “nước ngọt giải khát có gas”, Nokia chỉ có nghĩa là “điện thoại di
động”, Mercedes chỉ có nghĩa là “xe hơi hạng sang, cao cấp”… Nếu Coca Cola cũng
nhảy vào lĩnh vực điện ảnh, Nokia tham gia bán thức ăn nhanh hay Mercedes “mở
rộng” sang lĩnh vực kinh doanh may mặc, chắc chắn không sớm thì muộn họ cũng phải
rút khỏi thị trường thứ hai này. Nhiều doanh nghiệp danh tiếng cho rằng tên tuổi của họ
có thể giúp bành trướng sang lĩnh vực khác một cách thành công. Nhưng rất nhiều
trường hợp phổ biến cho thấy các doanh nghiệp giới thiệu thêm một sản phẩm ăn theo
(me-too) để rồi cuối cùng chịu thất bại trước các đối thủ đang dẫn đầu chủng loại sản
phẩm đó trên thị trường.
Cách lựa chọn tốt hơn là đặt ra một cái tên mới cho một sản phẩm mới thay vì
lấy tên sẵn có của doanh nghiệp cùng với toàn bộ hành trang của nó. Ví dụ: Toyota
134
không đặt tên xe hơi loại mới nâng cấp của mình là Toyota Upscale mà là Lexus, Sony
không đặt tên máy chơi video game của mình là Sony Videogame mà là PlayStation…
Tuy vậy, mỗi nguyên tắc đều có những ngoại lệ. Điển hình cho loại công ty ôm
đồm nhất thế giới là Unilever, trên 1.600 sản phẩm, kinh doanh từ bột giặt (thương hiệu
Omo khá nổi tiếng tại Việt Nam), kem đánh răng, xà bông (thương hiệu Dove), cho
đến mỹ phẩm, trà (thương hiệu Lipton). Mặc dù đã cẩn thận không dùng tên Unilever
cho các sản phẩm của mình mà cẩn thận sử dụng những thương hiệu hoàn toàn độc lập
với nhau nhưng công ty này vẫn gặp khó khăn trong những giai đoạn nền kinh tế trì trệ.
Có giai đoạn, Univeler đã quyết định rút bớt 1.600 nhãn hiệu của mình và tập trung
ngân sách lớn để quảng cáo và khuyến mãi cho 400 nhãn hiệu mạnh còn lại của mình
[11]224. Vì vậy, doanh nghiệp phải tự hỏi: “Thương hiệu có thể được bành trướng đến
đâu trước khi nó mất đi ý nghĩa?”
4.5. Quảng bá thương hiệuQuảng bá thương hiệu là loại hoạt động đưa thông tin nhưng lại quảng cáo nhấn
mạnh đến thương hiệu doanh nghiệp (các dấu hiệu cả vô hình và hữu hình) đến công
chúng hay khách hàng cũng được biết như là thị trường truyền thông tích hợp
(Intergrateted Marketing Communication-IMC).
Quảng bá thương hiệu tức là làm sao cho thị trường biết đến, chấp nhận và ghi
nhớ thương hiệu của mình. Làm cách nào để quảng bá thương hiệu? Thật sai lầm nếu
cho rằng quảng cáo sẽ làm được nhiệm vụ này. Quảng cáo chỉ kêu gọi sự chú ý vào
thương hiệu, chỉ có thể tạo dựng được sự quan tâm và sự đề cập đến thương hiệu mà
thôi. Thương hiệu được quảng bá thông qua sự phối hợp của nhiều công cụ. Quảng bá
thương hiệu bao gồm cả quảng bá thương hiệu vào trong và ra ngoài. Chúng ta đều biết
về các hoạt động quảng bá thương hiệu như các chương trình quảng cáo, quảng bá sản
phẩm, Marketing và PR... Đây là các hoạt động nhằm quảng bá sản phẩm ra bên ngoài.
Quảng bá thương hiệu không đơn thuần chỉ là quảng cáo, dù quảng cáo là một
bộ phận không thể thiếu được trong quá trình phát triển thương hiệu. Cái gốc của
thương hiệu là uy tín của sản phẩm và dịch vụ, sự bền vững của chất lượng. Những
thương hiệu lớn trên thế giới như Nokia, Coca-Cola, Shell,Toyota... đều đặt chất lượng
135
lên hàng đầu. Thậm chí, những thương hiệu dù đã có được uy tín lâu dài cũng sẽ tự
đánh mất mình nếu để chất lượng sản phẩm giảm sút. Vì vậy, một chiếc xe máy Honda
từ đời 67 đến Honda @ luôn là những bước tiến thể hiện cố gắng tự làm mới liên tục
của công ty.
Theo hướng dẫn của Cục xúc tiến thương mại Việt Nam, có chín phương pháp
chủ yếu trong quảng bá thương hiệu như sau:
Quảng cáo trên các phương tiện truyền thông (Media advertising)
Khuyến mãi người mua (Consumer Promotion)
Khuyến mại kênh phân phối (Trade promotion)
Quảng cáo nơi công cộng (Place advertising)
Bán hàng cá nhân (Personal Selling)
Quảng cáo trực tiếp (Direct response advertising)
Quảng cáo tại điểm bán (Point-of-purchase advertising)
Quan hệ công cộng (Public Relation)
Marketing sự kiện và tài trợ (Event marketing and sponsorship)
Tùy thuộc tính chất sản phẩm, thị trường mục tiêu và khả năng tài chính, doanh
nghiệp có thể áp dụng riêng lẻ hoặc tổng hợp các phương pháp quảng bá này. [30]
4.6. Bảo vệ thương hiệu (Brand Protection)Xây dựng thương hiệu luôn đi kèm với bảo vệ thương hiệu. Để bảo vệ thương
hiệu trước hết phải tìm hiểu các căn cứ pháp lý để bảo vệ thương hiệu và xác định các
nguy cơ từ môi trường bên ngoài và bên trong, các thành phần thương hiệu, các địa bàn
có thể bị chiếm dụng... và để có thể đưa ra phương án hành động cụ thể.
4.6.1. Các căn cứ pháp lý để bảo vệ thương hiệu
Trên phương diện pháp lý, bảo vệ thương hiệu là việc luật pháp nghiêm cấm các
doanh nghiệp khác sử dụng tên hiệu, hình hiệu đã đǎng ký của một doanh nghiệp mà
không được phép. Việc bảo vệ thương hiệu bao gồm khía cạnh xác lập quyền sở hữu trí
tuệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng
hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại
sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh
Chúng ta đã biết Phở 24 được định vị là thỏa mãn các nhu cầu cấp cao của
khách hàng nên giá bán rất đắt. Vậy nếu ăn một tô phở chỉ để giải quyết nhu cầu đói ở
quán Phở 24 liệu bạn có thấy ngon như ở một quán phở bình thường không. Mặc dù
phở ngon hơn nhưng chắc bạn sẽ không hài lòng vì giá cao quá. Điều đó cho thấy giá
ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng. Định giá là một nhiệm vụ quan trọng trong
hoạt động Marketing. Theo kết quả các cuộc khảo sát gần đây, nhiều giám đốc
Marketing thường coi định giá là phần khó quản lý nhất trong Marketing-Mix [14]405.
Để hiểu khái niệm về giá chúng ta cần hiểu các khái niệm nền tảng theo quan
điểm Marketing sau đây:
- Chi phí của nhà sản xuất cho một sản phẩm: Là số tiền mà nhà sản xuất phải
bỏ ra để tạo ra sản phẩm. Bao gồm nhiều loại chi phí.
- Chi phí của người tiêu dùng cho một sản phẩm: Là toàn bộ công sức, thời
gian, tiền bạc, tâm lý, chi phí cơ hội… mà họ bỏ ra để có được giá trị tiêu dùng từ sản
phẩm đó.
- Sự hài lòng: Là trạng thái cảm giác của khách hàng khi khách hàng nhận được
nhiều hơn hoặc ngang bằng những lợi ích mà họ kỳ vọng khi mua sản phẩm đó. Mức
độ hài lòng của khách hàng (customer satiscfaction) là tỷ lệ giữa “chất lượng sản phẩm
nhận được” và “chất lượng sản phẩm mong đợi” của khách hàng (product’s received
performance relative to customer’s expectations)
- Giá trị của một sản phẩm: Là những đánh giá của khách hàng về khả năng lắp
đầy cảm giác thiếu hụt mà họ cảm nhận được. Giá trị là những gì khách hàng cảm nhận
được, thể hiện sự hài lòng khi khách hàng sử dụng một sản phẩm nào đó. Khái niệm
giá trị được hiểu dựa trên quan điểm là sự cảm nhận khách hàng. Tùy khách hàng khác
nhau sẽ cảm nhận giá trị khác nhau ở từng thời điểm khác nhau và trong những hoàn
cảnh khác nhau.
- Giá trị khách hàng nhận được: Là tạo ra được một tập hợp đúng các yếu tố
chất lượng, dịch vụ và giá cả (QSP-quality, service, price) cho thị trường mục tiêu.
185
Louis J. De Rose, người đứng đầu De Rose & Associaties Inc. đã nói: “Giá trị là sự
thỏa mãn đòi hỏi của khách hàng với mức giá thấp nhất có thể có của việc mua, sở hữu
và sử dụng.” [11]291
Như vậy dưới góc độ khách hàng khi mua sản phẩm họ quan tâm đến liệu tôi sẽ
trả giá như thế nào tương ứng với giá trị nhận được. Còn nhà sản xuất thì quan tâm liệu
tôi có lời không với giá bán như vậy. Quan điểm Marketing tập trung vào sự thỏa mãn
khách hàng, làm thế nào mà mức giá khách hàng chấp nhận được mà vẫn có lợi nhuận,
thậm chí là lợi nhuận càng cao càng tốt.
Từ những khái niệm trên có thể rút ra khái niệm về giá theo quan điểm
Marketing: “Giá là số lượng đơn vị tiền tệ cần thiết mà khách hàng chấp nhận bỏ ra
để có được một sản phẩm với một chất lượng nhất định và ở một nơi nhất định và trong
hoàn cảnh nhất định.”
Nói cách khác, giá cả là những gì mang lại doanh thu và lợi nhuận cho doanh
nghiệp và dồng thời tạo ra chi phí cho khách hàng, nhưng cũng là những gì họ hy sinh
để có được sản phẩm. Giá được biểu hiện dưới nhiều dạng (mang nhiều tên gọi khác
nhau): tiền mua hàng hóa, học phí, tiền vé cước, tiền lương, tiền lợi tức, nhuận bút...
6.1.2. Tầm quan trọng của giá
Mặc dù hiện nay cạnh tranh về giá đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh về
chất lượng và dịch vụ hậu mãi. Nhưng giá vẫn có một vai trò rất quan trọng đối với
công việc kinh doanh, đối với người tiêu dùng và cả đối với nền kinh tế vĩ mô. Cụ thể:
- Đối với doanh nghiệp:
+ Giá là yếu tố cơ bản của chiến lược Marketing-Mix. Có vai trò thúc đẩy hoặc
kìm hãm tác dụng của các chiến lược Marketing.
+ Giá là một trong những yếu tố linh hoạt nhất trong 4P, gây ảnh hưởng trực
tiếp và tạo nên những phản ứng tức thì đối với người tiêu dùng cũng như đối với đối
thủ cạnh tranh. Vì vậy, đối với doanh nghiệp giá vẫn đóng vai trò là vũ khí cạnh tranh
sắc bén trên thị trường.
+ Giá là biến số duy nhất trong 4P mang lại thu nhập trong khi những yếu tố
khác chỉ sinh ra đầu tư và chi phí.
186
+ Giá có ảnh hưởng lớn đến doanh số và do đó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
nhuận của doanh nghiệp. Việc định giá có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp.
+ Giá là một công cụ hữu hiệu trong cạnh tranh, thâm nhập thị trường và giữ
khách hàng.
- Đối với người tiêu dùng:
+ Giá là một trong những đặc trưng cơ bản của sản phẩm mà người tiêu dùng
nhận thấy một cách trực tiếp nhất. Thể hiện 3 đặc trưng:
Về mặt kinh tế, giá cả thể hiện số tiền cần phải trả để có được sản phẩm đó.
Về mặt tâm lý xã hội, giá thể hiện giá trị thu được khi tiêu dùng sản phẩm.
Về mối quan hệ với chất lượng, giá thể hiện chất lượng giả định của sản phẩm.
+ Giá có tác động mạnh mẽ đến chi tiêu, do đó, nó thường là tiêu chuẩn quan
trọng của việc mua và lựa chọn của họ. Giá đóng vai trò quyết định trong việc họ mua
hàng này hay hàng khác.
- Đối với nền kinh tế vĩ mô:
Giá cả chỉ đạo hệ thống kinh tế, có ảnh hưởng đến sự phân phối các yếu tố sản
xuất; lạm phát, lãi suất ngân hàng…
6.1.3. Chiến lược giá
Chiến lược giá là công việc xác định mức giá cơ bản và sự thay đổi giá có tính
toán nhằm để đạt được các mục tiêu Marketing trên thị trường trọng điểm. Chiến lược
giá bao gồm bốn nội dung cơ bản sau:
- Nắm bắt, dự báo một cách chính xác mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác
động đến các quyết định về giá.
- Xác định mức giá chào hàng, giá bán, giá sản phẩm mới, giá giới hạn, thời hạn
thanh toán,… Đó là việc xác định khác mức giá cụ thể cho từng mặt hàng, kiểu kênh
phân phối, thời gian và địa điểm tiêu thụ, phương thức thanh toán. Việc tìm kiếm các
phương pháp định giá khoa học là vấn đề quan trọng nhất của nội dung này.
- Ra các quyết định về điều chỉnh và thay đổi giá theo môi trường kinh doanh
luôn biến đổi.
- Lựa chọn những ứng xử thích hợp trước các hoạt động cạnh tranh qua giá cả.
187
6.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới định giáDựa vào khả năng kiểm soát, chi phối của doanh nghiệp, có thể chia các yếu tố
ảnh hưởng tới công tác định giá của doanh nghiệp thành hai nhóm chính:
- Nhóm yếu tố bên trong: là những yếu tố doanh nghiệp có thể kiểm soát được
- Nhóm yếu tố bên ngoài: là những yếu tố doanh nghiệp không thể kiểm soát
được
Chúng ta có thể tóm tắt các yếu tố này qua mô hình 6.1 bên dưới:
6.2.1. Yếu tố bên trong
(Các yếu tố doanh nghiệp có thể kiểm soát được)
6.2.1.1. Mục tiêu Marketing của doanh nghiệp
Trước khi định giá, doanh nghiệp phải quyết định xem với sản phẩm đó cần phải
đạt được điều gì. Nếu doanh nghiệp chọn thị trường mục tiêu và định vị thị trường cẩn
thận, thì chiến lược phối hợp Marketing bao gồm cả giá cả, sẽ thực hiện khá dễ dàng.
Đồng thời, doanh nghiệp còn có các mục tiêu khác nữa. Khi mục tiêu được xác định rõ
ràng, việc định giá càng dễ dàng hơn. Các mục tiêu phổ biến ảnh hưởng đến giá là:
- Mục tiêu “tồn tại”: Tồn tại sẽ trở thành mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp
trong những trường hợp trên thị trường có quá nhiều người sản xuất hay cung cấp dịch
vụ cùng loại. Với sự cạnh tranh gay gắt, để đảm bảo việc làm cho các doanh nghiệp,
buộc họ phải định một mức giá thấp với hy vọng sẽ có một phản ứng đáp lại một cách
thuận lợi từ phía người tiêu dùng. Trong trường hợp này, tồn tại quan trọng hơn lợi
188
Yếu tố bên trong:- Mục tiêu Marketing của doanh nghiệp - Chiến lược Marketing-mix- Đặc tính và vòng đời sản phẩm - Chi phí- Các yếu tố bên trong khác
Yếu tố bên ngoài:- Cạnh tranh của thị trường - Mối liên hệ giữa giá cả và lượng cầu - Giá cả và giá trị sản phẩm của đối thủ - Chế độ quản lý giá cả của Nhà nước - Các yếu tố bên ngoài khác
CAÙC
QUYEÁT
ÑÒNH
VEÀ
GIAÙ
Hình 6.1: Các yếu tố ảnh hưởng tới định giá
nhuận. Doanh nghiệp cần đặt ra mức giá thấp nhất có thể, miễn là giữ được khách hàng
trong một thời gian nhất định để chờ cơ hội mới.
- Mục tiêu “Tối đa hóa lợi nhuận trước mắt”: Nhiều doanh nghiệp đôi khi ra
sức tăng tối đa lợi nhuận trước mắt. Họ tiến hành ước lượng số cầu sản phẩm trên thị
trường và các chi phí ứng với các mức giá khác nhau. Sau đó, họ lựa chọn mức giá đảm
bảo thu được lợi nhuận trước mắt cao nhất để đủ bù đắp các loại chi phí. Để thực hiện
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận hiện hành của mình, doanh nghiệp sẽ định giá sao cho có
lợi nhất trước mắt. Trong trường hợp như vậy, đối với doanh nghiệp, sự thành công về
tài chính trước mắt quan trọng hơn sự thành công lâu dài.
- Mục tiêu “Tối đa hóa doanh thu”: Đây là mục tiêu quan trọng của hầu hết các
doanh nghiệp. Mục tiêu này có thể được áp dụng trong những trường hợp như cần tận
dụng một cách tối đa công suất thiết bị, cần giải quyết việc làm cho công nhân viên hay
khi doanh nghiệp có thị phần lớn thì khả năng giảm chi phí sẽ cao và lợi nhuận lâu dài
sẽ tăng và cuối cùng để giành được vị trí hàng đầu về thị phần để có lợi thế cạnh tranh.
Muốn đạt mục tiêu này, họ bắt buộc phải chấp nhận một giá tương đối thấp.
- Mục tiêu “Dẫn đầu về thị phần”: Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp cần
phải đặt giá thấp nhất có thể để thu hút khách hàng nhằm đạt được quy mô thị trường
lớn nhất có thể (và do vậy, sẽ đạt được hiệu quả theo quy mô). Căn cứ vào mục tiêu thị
phần tăng lên bao nhiêu phần trăm để doanh nghiệp định giá tương ứng.
- Mục tiêu “Dẫn đầu về chất lượng sản phẩm”: Doanh nghiệp có thể đặt cho
mình một mục tiêu phấn đấu để sản phẩm sản xuất ra các chỉ tiêu về chất lượng tốt
nhất. Thông thường điều đó đòi hỏi phải định giá cao cho sản phẩm để đủ bù đắp các
chi phí và tiến hành các công tác nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm đắt tiền. Để thực
hiện mục tiêu dẫn đầu về chất lượng, doanh nghiệp thường định ra một mức giá cao để
đủ trang trải chi phí đầu tư cho nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra một ấn tượng
về chất lượng cao đối với khách hàng.
- Mục tiêu “Giữ thế ổn định, tránh những phản ứng bất lợi từ đối thủ cạnh
tranh”: Trong trường hợp này, các doanh nghiệp thường né tránh cạnh tranh về giá,
189
chấp nhận giá hiện có trên thị trường. Họ chú ý nhiều đến các chỉ tiêu về chất lượng và
những dịch vụ sau khi bán.
-Các mục tiêu khác: Ngoài ra giá còn bị ảnh hưởng bởi các mục tiêu khác của
doanh nghiệp. Họ có thể định giá thấp để ngăn chặn không cho các đối thủ tham gia
vào thị trường hoặc định giá ngang đối thủ để ổn định thị trường. Giá có thể đưa ra để
duy trì sự trung thành và ủng hộ của giới bán lại hoặc để tránh sự can thiệp của chính
phủ. Giá có thể tạm thời giảm để tạo sự đáp ứng nồng nhiệt của khách hàng đối với
một sản phẩm hoặc để lôi kéo thêm nhiều khách hàng đến các cửa hiệu bán lẻ. Một sản
phẩm có thể định giá hấp dẫn để giúp cho việc tạo doanh số của những sản phẩm khác
của doanh nghiệp. Như thế, việc định giá có thể đóng vai trò quan trọng trong việc
hoàn thành các mục tiêu của doanh nghiệp ở nhiều mức độ khác nhau.
6.2.1.2. Chiến lược Marketing-Mix
Các quyết định về giá cần phải liên kết một cách chặt chẽ với việc thiết kế sản
phẩm, vấn đề phân phối và các chương trình chiêu thị nhằm mục đích hình thành một
chương trình Marketing-Mix thống nhất và có hiệu quả. Đồng thời mọi quyết định có
liên quan đến Marketing-Mix đều ảnh hưởng đến các quyết định về giá. Cụ thể:
- Chiến lược sản phẩm: Chiến lược giá của doanh nghiệp phải luôn được kết
hợp với sản phẩm “tiền nào của nấy”.
- Chiến lược phân phối: Cung cấp sản phẩm ở kênh khác nhau thì giá bán khác
nhau. Ví dụ các nhà sản xuất đang sử dụng nhiều nhà bán lẻ và mong rằng những người
này sẽ ủng hộ và cổ động cho các sản phẩm của họ thì khi đó họ có thể đưa vào giá
phần lãi lớn hơn cho nhà bán lẻ.
- Chiến lược chiêu thị: Nhiệm vụ và hình thức chiêu thị sẽ ảnh hưởng lớn đến
giá sản phẩm.
Các doanh nghiệp thường quyết định giá sản phẩm trước, từ đó mới đưa ra
những quyết định Marketing khác cho sản phẩm tương ứng với giá đó. Chẳng hạn,
thông qua cuộc nghiên cứu, hãng xe hơi Ford thấy rằng hiện nay có một khúc thị
trường chuộng xe thể thao. Họ quyết định thiết kế xe Mustang để bán với mức giá mà
khúc thị trường này sẵn sàng mua. Tương tự, hãng xe Honda đã thiết kế xe gắn máy
190
Wave α để bán với mức giá cạnh tranh được với các loại xe khác có giá trung bình tại
thị trường Việt Nam. Trong cả hai trường hợp, giá cả là yếu tố định vị chính cho sản
phẩm, xác định thị trường cho sản phẩm và quyết định cho phí tổn của sản phẩm.
Như thế, doanh nghiệp phải xem xét tổng thể trương trình Marketing khi định
giá. Nếu sản phẩm được định vị dựa trên những yếu tố phi giá, thì các quyết định về
chất lượng, quảng cáo và phân phối sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá cả. Nếu giá là yếu tố
định vị chính yếu, thì giá sẽ ảnh hưởng mạnh lên những quyết định của các khâu khác.
6.2.1.3. Đặc tính và vòng đời của sản phẩm
Mỗi sản phẩm có một chu kỳ sống khác nhau tùy vào đặc tính của nó. Vị trí trên
được biểu diễn chu kỳ sống một sản phẩm là cơ sở quan trọng đối với việc định giá.
Mỗi giai đoạn khác nhau của đường biểu diễn này sẽ kèm theo những thay đổi của
lượng cầu gây ra những hậu quả trên chính sách về giá.
6.2.1.4. Chi phí
Chi phí là cơ sở cho việc định giá một sản phẩm. Chi phí tạo nên giá tối thiểu
cho việc định giá một sản phẩm. Doanh nghiệp dựa vào đó để đề ra một mức giá mà nó
có thể trang trải chi phí về sản xuất, phân phối, bán sản phẩm và bao gồm cả một khoản
lời hợp lý cho những nỗ lực và rủi ro của mình. Nếu chi phí của doanh nghiệp cao hơn
chi phí của những đối thủ khi sản xuất và bán một sản phẩm tương đương thì doanh
nghiệp sẽ phải đề ra một mức giá cao hơn và sẽ ở vào một thế bất lợi trong cạnh tranh.
Chúng ta có thể hình dung giá bán một sản phẩm theo hình 6.2 sau đây:
Hình 6.2: Các thành phần tạo nên giá bán sản phẩm
191
Qua mô hình trên ta thấy trong cơ cấu giá bán ra có hai bộ phận chi phí. Đó là:
- Chi phí cố định (định phí-Fixed costs): Là những chi phí không thay đổi theo
sản lượng sản xuất. Ví dụ: Tiền thuê mặt bằng, khấu hao tài sản cố định tính theo
phương pháp đường thẳng, chi phí quản lý… Chú ý: Xét trên tổng chi phí thì định phí
không thay đổi nhưng xét trên 1 đơn vị mức độ hoạt động (1 sản phẩm, 1 giờ máy
chạy…) thì định phí tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động. Vì vậy, càng sản xuất càng
nhiều thì chi phí cố định trên đơn vị sản phẩm lại thấp hơn.
- Chi phí biến đổi (biến phí-Variable costs): Là những chi phí thay đổi theo sự
thay đổi của số lượng sản xuất. Ví dụ: Nguyên vật liệu, bao bì, chi phí lao động trực
tiếp. Chú ý: Xét về tổng số biến phí thay đổi tỷ lệ thuận nhưng xét trên 1 đơn vị mức độ
hoạt động thì biến phí là một hằng số.
- Tổng chi phí (Total costs): Là tổng số của định phí và biến phí cho bất kỳ mức
độ sản xuất nhất định nào đó. Khi nghiên cứu định phí và biến phí người ta đi đến việc
xác định điểm hòa vốn.
- Điểm hòa vốn (Breakeven Point): Là giao điểm giữa đường tổng doanh thu và
tổng chi phí, là điểm mà tại đó tiền bán hàng chỉ đủ bù đắp các chi phí, lãi bằng không.
Hình 6.3 trình bày một biểu đồ hòa vốn (Breakeven Chart) có tính chất giả
thuyết. Định phí là 6 triệu USD, bất kể số bán ra là bao nhiêu. Chi phí khả biến được
đưa thêm vào với chi phí cố định và tăng theo khối lượng. Đường biểu diễn tổng doanh
thu bắt đầu từ không và tăng lên theo mỗi đơn vị được bán ra. Độ dốc của đường biểu
diễn tổng doanh thu phản ánh giá cả. Ở đây mức giá bán cho một đơn vị sản phẩm là
15 USD.
Với giá bán một đơn vị sản phẩm là P thì khối lượng sản phẩm cần sản xuất và
bán để đảm bảo hòa vốn được tính theo công thức: [6] 111
192
F: tổng định phíV: biến phí một đơn vị sản phẩmP: giá bán một đơn vị sản phẩmq0: sản lượng hoà vốn
P-V
Fq0 =
Hình 6.3: Biểu đồ xác định điểm hòa vốn [40]179
6.2.1.5. Yếu tố bên trong khác
- Thẩm quyền quyết định giá trong mỗi doanh nghiệp: Cấp lãnh đạo doanh
nghiệp phải xem ai là người chịu trách nhiệm định giá.
+ Ở các doanh nghiệp nhỏ giá cả thường do giới quản trị cao cấp định ra hơn là
do phòng Marketing hay phòng kinh doanh.
+ Ở các doanh nghiệp lớn việc định giá thường do các quản trị viên sản phẩm
hay nhóm sản phẩm xử lý.
+ Ở các thị trường công nghiệp, nhân viên bán hàng được phép thương lượng
với khách hàng trong phạm vi giá cả nào đó trên cơ sở chính sách và mục tiêu về giá do
ban quản trị cao cấp đề ra.
+ Trong một số ngành mà việc định giá là yếu tố then chốt (hàng không, đường
sắt, dầu khí…) các doanh nghiệp thường lập thành ban định giá. Ban này thường đặt
dưới sự chỉ đạo của cấp quản trị cao nhất.
- Uy tín của doanh nghiệp: Một doanh nghiệp lớn có uy tín trên thị trường,
đang sở hữu những thương hiệu nổi tiếng chất lượng cao chắc chắn sẽ có cơ hội định
giá cao.
193
Lỗ
Lãi
2
4
6
8
10
12
200 400 1000600 800
Doanh Thuvà Chi phí
(Triệu. USD)
Định phí (Fixed Cost)
Tổng chi phí(Total Cost)
Tổng doanh thu (Total Revenue)
ĐHV
Khối lượng đơn vị bán ra (1.000 Đvsp)
P
q0
Chi phí biến đổi (Variable Cost)
6.2.2. Yếu tố bên ngoài
(Các yếu tố doanh nghiệp không thể kiểm soát được)
6.2.2.1. Tính chất cạnh tranh của thị trường
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường bao gồm nhiều người mua và
nhiều người bán trao đổi với nhau một thứ hàng hóa đồng nhất như gạo, bánh mì…
Trên thị trường này, người bán và người mua phải chấp nhận giá chứ không phải là
người ấn định giá. Người bán không thể bán giá cao hơn hoặc không cần bán giá thấp
hơn giá hiện hành.
- Thị trường cạnh tranh độc quyền: Thị trường bao gồm nhiều người mua và
người bán giao dịch với nhau trong một khoảng giá rộng chứ không phải là một giá thị
trường thống nhất. Lý do khiến có cả một khoảng giá rộng như vậy là vì người bán có
thể đa dạng hóa những cống hiến của họ đối với sản phẩm như sự khác nhau về chất
lượng, đặc điểm, mẫu mã hay các dịch vụ đi kèm. Do có nhiều đối thủ cạnh tranh nên
chiến lược Marketing của họ ít ảnh hưởng đến từng doanh nghiệp hơn là so với thị
trường độc quyền cạnh tranh (độc quyền của nhóm người bán). Ví dụ: thị trường thuốc
tây là thị trường cạnh tranh độc quyền.
- Thị trường độc quyền cạnh tranh: Thị trường gồm một số ít người bán, rất
nhạy cảm với chiến lược Marketing của nhau. Mỗi người bán đều cảm giác trước
những chiến lược và thay đổi của đối thủ cạnh tranh cũng như thái độ của khách hàng.
- Thị trường độc quyền hoàn toàn: Trong trường hợp này thị trường chỉ có một
người bán, người bán đó có thể là một doanh nghiệp độc quyền Nhà nước, một doanh
nghiệp độc quyền tư nhân có điều tiết của Nhà nước hay tổ chức độc quyền tư nhân
không có điều tiết của Nhà nước. Một độc quyền tư nhân có điều tiết của Nhà nước thì
Nhà nước thường cho phép doanh nghiệp có định giá tạo nên một mức lời công bằng.
Mức lời đó cho phép doanh nghiệp duy trì cũng như mở rộng được quy mô khi cần.
Trong trường hợp tổ chức độc quyền tư nhân không có sự điều tiết của Nhà nước thì
doanh nghiệp tự do định ra mức giá thị trường chấp nhận. Tuy nhiên không phải lúc
nào các doanh nghiệp này cũng định giá sản phẩm cao vì điều đó có thể dẫn đến hiệu
quả xấu như thu hút sự cạnh tranh và thu hút sự điều tiết của chính quyền.
194
6.2.2.2. Mối liên hệ giữa giá cả và lượng cầu
Cầu sản phẩm ảnh hưởng lớn đối với việc định giá. Khi khách hàng có nhu cầu
càng cao đối với sản phẩm thì họ sẵn sàng mua sản phẩm với giá càng cao và ngược
lại. Nhưng sự sẵn sàng này vẫn có giới hạn nhất định (Giới hạn về giá-Price limits).
Mối liên hệ này thể hiện cụ thể qua hệ số co dãn của cầu theo giá cả (eD). Hệ số
co giãn của cầu theo giá cả là tỷ lệ so sánh giữa % thay đổi của cầu tương ứng với %
thay đổi của giá. Công thức tính:
Trong đó: eD:
hệ số co giãn của cầu theo giá cả, Qo: Lượng
bán ra với giá Po,
ΔQ: Lượng thay đổi của cầu, ΔP: Lượng thay đổi của giá
Các trường hợp diển hình về hệ số co giãn của cầu theo giá cả:
eD< -1: Cầu co giãn mạnh theo giá (giá giảm 1% thì cầu tăng lớn hơn 1%)
eD = -1: Cầu co giãn đơn vị (giá giảm bao nhiêu % thì cầu tăng bấy nhiêu %)
-1<eD<0: Cầu co giãn không đáng kể (giá giảm 1% thì cầu tăng ít hơn 1%)
eD = 0: Cầu không co giãn theo giá (Dù giá tăng hay giảm cầu vẫn đứng yên)
eD>0: Cầu co giãn ngược (Trường hợp đặc biệt: giá tăng cầu tăng và ngược lại
giá giảm cầu giảm)
Hình 6.4: Mối liên hệ giữa giá cả và lượng cầu thể hiện qua hệ số co dãn của cầu
theo giá cả (Nguồn: [6] 114 và một số bổ sung của nhóm biên soạn)
195
(ΔP/Po)% thay đổi của giá
(ΔQ/Qo)% thay đổi của cầu= [6] 113eD =
Qua hình 6.4, có thể nhận thấy: Nếu cầu co giãn ít, người bán dễ tăng giá. Nếu
cầu co giãn nhiều, người bán sẽ nghĩ đến chuyện hạ giá. Một mức giá thấp hơn sẽ dẫn
đến tổng doanh thu cao hơn.
6.2.2.3. Giá cả và giá trị sản phẩm của đối thủ cạnh tranh
Giá cả của đối thủ cạnh tranh và phản ứng của họ về giá ảnh hưởng không nhỏ
đến việc định giá của doanh nghiệp. Người tiêu dùng đánh giá về giá trị và giá cả của
một sản phẩm dựa trên những giá cả và giá trị của sản phẩm tương đương. Chiến lược
định giá của doanh nghiệp cũng có thể ảnh hưởng đến sự cạnh tranh. Một chiến lược
giá cao, mức lời cao, có thể thu hút sự cạnh tranh, trong khi một chiến lược giá thấp,
mức lời thấp có thể làm nản các đối thủ cạnh tranh hay làm họ rút lui khỏi thị trường.
Doanh nghiệp cần biết giá cả và chất lượng của đối thủ.
Khi phân tích mức giá cạnh tranh, cần phân tích mức giá tiêu biểu của các đối
thủ chính sau: phân tích mức giá thấp điển hình, phân tích mức giá cao điển hình, phân
tích mức giá trung bình điển hình. Khi phân tích từng loại mức giá, doanh nghiệp phải
xem xét cụ thể:
+ Giá đó đối với loại sản phẩm nào và đặc điểm của loại sản phẩm đó.
+ Phân tích chi phí và giá thành của sản phẩm đó.
+ Mức thị phần của sản phẩn đó.
+ Phân tích nội dung phối hợp các hoạt động của Marketing-Mix: Giá đó áp
dụng cho kênh phân phối nào, điều kiện thanh toán, nội dung quảng cáo, chiêu thị như
thế nào?... [6] 115
6.2.2.4. Chế độ quản lý giá cả của Nhà nước
Đây là những bắt buộc của luật pháp mà doanh nghiệp cần phải chấp hành khi
định giá cho sản phẩm của mình. Một doanh nghiệp không phải lúc nào cũng được tự
do trong việc định giá. Nhà nước bằng nhiều cách khác nhau can thiệp vào cơ chế giá
của doanh nghiệp. Có ba lý do chính là:
- Thứ nhất, Nhà nước muốn kiểm soát sự tiến triển của giá cả (kìm chế chỉ số
giá, hạn chế lạm phát). Một nền kinh tế có phát triển hay không một phần phụ thuộc
vào việc Nhà nước có chi phối được giá cả hay không. Do đó với một số mặt hàng
196
thuộc nhu cầu thiết yếu Nhà nước sẽ quy định giá. Đối với một số mặt hàng khác Nhà
nước sẽ đưa ra khung giá để có cơ sở vận dụng. Còn đối với những mặt hàng Nhà nước
không quy định giá và không đưa ra khung giá chuẩn thì doanh nghiệp được toàn
quyền quyết định giá.
- Thứ hai, khuyến khích tự do cạnh tranh. Đối với nhiều nước người ta còn có
những quy định nhằm xoá bỏ độc quyền, liên kết ngầm, lạm dụng địa vị thống trị để
hạn chế tự do cạnh tranh như là cấm bán lỗ nếu không có lý do chính đáng, cấm thực
hiện những giá tối thiểu áp đặt…
- Thứ ba, bảo vệ một số ngành: chính sách giá góp phần bảo vệ các ngành trong
nước chống lại hiện tượng bán phá giá và bảo hộ một số ngành trong nước.
Nhà nước bằng nhiều cách khác nhau can thiệp vào cơ chế giá của doanh
nghiệp. Giá được định ra phải tuân thủ mọi quy định của Nhà nước như: Luật chống
phá giá, luật cạnh tranh, luật chống độc quyền, luật chống đầu cơ nâng giá, hạn ngạch
nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu…
6.2.2.5. Các yếu tố bên ngoài khác
Ngoài ra, doanh nghiệp cần xem xét các yếu tố khác khi định giá sản phẩm như:
- Sự ổn định chính trị: một quốc gia có nền chính trị không ổn định tất yếu sẽ
dẫn đến sự biến động giá một số sản phẩm thiết yếu.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ và
thiết bị mới, hiện đại sẽ làm tăng năng suất lao động, đó sẽ là áp lực buộc doanh nghiệp
giảm giá sản phẩm.
- Các yếu tố kinh tế như: Điều kiện kinh tế, lạm phát, nạn thất nghiệp, lãi suất,
suy thóai kinh tế, phong tục tập quán, thu nhập, sức mua của dân cư...
- Những xu thế mới trong môi trường vĩ mô. Ví dụ: Toàn cầu hóa, sự cạnh tranh
quá mức và Internet là những xu thế gây áp lức giảm giá. Toàn cầu hóa làm cho các
doanh nghiệp chuyển khâu sản xuất đến khu vực có chi phí thấp hơn và đưa sản phẩm
đi bán ở các quốc gia khác với giá rẻ hơn so với giá bán của các nhà buôn nội địa. Cạnh
tranh quá mức làm cho nhiều doanh nghiệp cùng tranh giành một khách hàng, dẫn đến
việc phải giảm giá. Internet lại cho phép mọi người dễ dàng so sánh giá và chọn mua
197
hàng có giá thấp nhất. Vì vậy, thách thức trên thị trường ngày nay là phải tìm cách duy
trì giá bán và lợi nhuận trước những xu thế vĩ mô này. [11]220
6.3. Một số phương pháp định giáDoanh nghiệp giải quyết vấn đề giá cả thông qua việc lựa chọn các phương pháp
hình thành giá cả khác nhau. Khi quyết định chọn lựa một phương pháp hính thành giá
cả bất kỳ nào đó, doanh nghiệp phải chú ý đến việc nhận định một số yếu tố sau đây:
- Giá thấp để thu hút hách hàng nhưng không đạt về chỉ tiêu lợi nhuận
- Chất lượng và kiểu dáng của sản phẩm
- Tổng các chi phí để xác định liệu có lời không
- Giá cả của đối thủ cạnh tranh
- Khách hàng và sự cảm nhận của khách hàng
- Giá cao thì có lợi nhuận nhưng có thể không có khách hàng
Có rất nhiều phương pháp định giá. Dựa vào mô hình 3C (Cost, Competion,
Customer) -3 yếu tố cơ bản nhất chi phối sự hình thành và vận động giá cả-ta có những
cách định giá theo mô hình 3C (Xem hình 6.5).
Hình 6.5: Mô hình 3C trong sự hình thành giá cả
(Nguồn: [38]170 và một số bổ sung của nhóm biên soạn)
198
Mức giá mà doanh nghiệp đề ra sẽ nằm ở khoảng nào đó giữa một bên là giá quá
thấp không có một mức lời nào và một bên là giá quá cao để không thể có một mức cầu
nào. Chi phí sản xuất là cơ sở cho giá sàn (floor price) vì dưới mức này doanh nghiệp
sẽ lỗ. Như vậy, phí tổn của sản phẩm sẽ tạo thành cái nền cho giá cả. Những cảm nhận
của người tiêu dùng về giá trị sản phẩm lập thành độ cao của giá trần (ceiling price) vì
vượt quá giá này cầu sẽ bằng không và khách hàng sẽ tìm kiếm các sản phẩm thay thế.
Doanh nghiệp phải xem xét giá của đối thủ cạnh tranh, cùng những yếu tố bên trong và
bên ngoài khác để tìm ra mức giá tối ưu của hai cực ấy. Khoảng cách giữa giá sàn và
giá trần là khoảng giao động của giá. Các doanh nghiệp giải quyết việc định giá bằng
cách chọn một lối tiếp cận tổng quát giữa trên cơ sở cân nhắc trên ba yếu tố trên.
6.3.1 Định giá dựa theo chi phí (Cost-based pricing)
6.3.1.1. Giới thiệu phương pháp
Đây là phương pháp đơn giản nhất. Có 02 cách:
- Phương pháp cộng chi phí (Cost plus pricing):
Phương pháp định giá này hướng vào mục tiêu chi phí và lợi nhuận của doanh
nghiệp. Theo đó, người ta sẽ cộng thêm một mức lợi dự kiến vào chi phí của một sản
phẩm. Công thức được viết cụ thể như sau:
G = z + m
Trong đó: G: giá bán,
z: chi phí một đơn vị sản phẩm,
m: lãi dự kiến.
Ví dụ: Mức chênh lệch 20% với một áo sơ-mi giá thành 100.000 đồng sẽ là
20.000 đồng và sản phẩm sẽ được bán với giá 120.000 đồng.
- Phương pháp định giá theo lợi nhuận mục tiêu (Target profit pricing):
Là cách định giá dựa vào phân tích điểm hòa vốn (Break-even analysis). Để
định giá, nhà sản xuất phải xem xét các mức giá khác nhau, ước đoán sản lượng hòa
vốn, khả năng về lượng cầu, lợi nhuận đơn vị sản phẩm để từ đó xác định khả thi của
lợi nhuận mục tiêu. (Xem hình 6.3). Phương pháp định giá dựa theo chi phí này thích
199
hợp trong trường hợp mức giá dự kiến trên thực tế đảm bảo mức tiêu thụ dự kiến và
doanh nghiệp kinh doanh trong ngành ở trạng thái ổn định.
6.3.1.2. Nhận xét phương pháp
- Ưu điểm phương pháp này:
Đơn giản nhất, muốn hoàn tất việc định giá chỉ cần nắm vững chi phí tạo nên
sản phẩm và cộng thêm phần lãi theo dự kiến. Do vậy, phương pháp này ít tố kém và
dễ tính toán đối với cả các doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu giá cả.
Có thể tính giá cho sản phẩm, dịch vụ theo yêu cầu riêng của từng khách
hàng. Từ đó, giúp việc ủy quyền cho cấp dưới định giá dễ dàng, phản ứng linh hoạt với
nhu cầu thị trường.
Nếu tất cả các doanh nghiệp trên thị trường đều sử dụng phương pháp này thì
giá trên thị trường sẽ có xu hướng tương tự nhau. Từ đó, cạnh tranh về giá sẽ không
còn gay gắt.
An toàn cho nhà kinh doanh, vì giá đảm bào trang trải chi phí. Nếu doanh
nghiệp tiêu thụ được sản phẩm thì chắc chắn sẽ có lãi
Công bằng cho cả nhà kinh doanh lẫn người tiêu dùng. Nhà kinh doanh: Bù
đắp được chi phí và có lợi nhuận. Người tiêu dùng: Không bị ép giá khi cầu tăng lên.
Khi định giá theo phương pháp này, doanh nghiệp không cần bỏ ra công sức,
thời gian để thu thập thông tin từ bên ngoài thị trường.
Phương pháp định giá theo lợi nhuận mục tiêu còn thúc đẩy doanh nghiệp co
chiến lược đầu tư và nâng cao doanh thu tiêu thụ hàng hóa trong tương lai cũng như
thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi biện pháp giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ để từ đó rút
bớt được sản lượng hòa vốn.
- Nhược điểm phương pháp này:
Bỏ qua yếu tố cầu, sự biến động của cầu và cả độ co giãn của cầu đối với giá
khi tính giá. Các khách hàng khác nhau có thể chấp nhận mức giá khác nhau đối với
cùng một sản phẩm. Sự cứng nhắc trong công tác định giá sẽ làm doanh nghiệp bỏ qua
cơ hội nâng cao lợi nhuận khi thị trường cho phép. Đối với các đối tượng khác như: cơ
200
quan quản lý Nhà nước, chuyên gia nghiên cứu… nếu dùng phương pháp này định giá
có thể trong một thời điểm nhất định không phản ánh chính xác các quan hệ thị trường.
Do không tính đến yếu tố mối quan hệ tỷ giá và giá của đối thủ cạnh tranh
trên thị trường, nên phương pháp này không thể hiện sức mạnh cạnh tranh của giá cả.
Trong thực tế, không dễ theo dõi chi phí trong một doanh nghiệp.
Rất khó định chi phí chính xác cho tiền lương nhân viên trong những ngành
kinh doanh đặc biệt, đòi hỏi kỹ năng và chuyên môn nghiệp vụ cao như: dịch vụ pháp
lý, y tế, bảo hiểm, nghệ thuật, giải trí…
Chi phí có thể không tương xứng với giá trị sản phẩm theo nhận thức của
khách hàng.
Tóm lại, phương pháp này tuy đơn giản nhất so với các phương pháp định giá
khác nhưng nhìn chung không hợp lý, không dẫn đến mức giá tối ưu cho doanh nghiệp
vì nó bỏ qua yếu tố cầu và cạnh tranh trên thị trường. Quan điểm Marketing là dựa trên
khách hàng và thị trường nên việc xem xét chi phí chỉ được xem xét tham khảo.
6.3.2. Định giá dựa theo người mua (Buyer-based pricing)
6.3.2.1. Giới thiệu phương pháp
Ngày càng có nhiều doanh nghiệp định giá dựa trên giá trị được cảm nhận của
sản phẩm. Họ xem sự cảm nhận về giá trị của người mua, chứ không phải chi phí của
người bán, là chìa khóa để định giá. Họ sử dụng những yếu tố phi giá trong chương
trình Marketing để xây dựng giá trị được cảm nhận trong tâm trí của người mua. Ví dụ:
Người tiêu dùng chỉ trả 5.000đ khi uống cà phê ở lề đường, 15.000đ trong một quán cà
phê, 40.000đ trong một khách sạn sang trọng và 100.000đ trên toà nhà Prudential cao
nhất thành phố Hồ Chí Minh. Vì sao các mức giá lại chênh lệch đến vậy? Vì khách
hàng nhận thức được những giá trị không khí, khung cảnh khác nhau và cung cách
người phục vụ rất khác nhau tại những nơi này.
Phương pháp này dựa trên cơ sở khách hàng sẽ thay đổi thói quen tiêu dùng tùy
thuộc vào giá của sản phẩm và các khách hàng khác nhau có thể đặt các mức giá trần
khác nhau cho cùng một dịch vụ. Doanh nghiệp sử dụng lối định giá này phải thiết lập
được giá trị nơi ý nghĩa của người mua trong sự tương quan với những cống hiến cạnh
201
tranh khác. Trong ví dụ trên, có thể hỏi người tiêu thụ rằng họ sẽ chịu trả bao nhiêu cho
cùng tách cà phê trong những khung cảnh khác nhau. Đôi khi, có thể hỏi người tiêu thụ
rằng họ sẽ chịu trả thêm bao nhiêu cho mỗi lợi ích được thêm vào sản phẩm.
6.3.2.2. Nhận xét phương pháp
- Ưu điểm phương pháp này: Giá sẽ phù hợp nhu cầu và được chấp nhận của
đa số khách hàng trên thị trường mục tiêu.
- Nhược điểm phương pháp này:
Rất khó tìm được mức giá gắn liền với quyết định mua và hành vi mua của
người tiêu dùng.
Quá chú ý đến khách hàng dẫn đến: (1) Bỏ qua yếu tố chi phí. Điều này làm
cho giá cả có thể cao hoặc thấp so với giá trị thực của nó (thậm chí có thể thấp hơn chi
phí sản xuất), (2) Bỏ qua yếu tố cạnh tranh trên thị trường. Điều này sẽ làm ảnh hưởng
xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
6.3.2.3. So sánh phương pháp định giá dựa theo chi phí và định giá dựa theo người
mua
Như vậy, định giá dựa theo chi phí và định giá dựa theo người mua có quy trình
hoàn toàn trái ngược nhau theo như mô hình 6.6. bên dưới.
- Phương pháp định giá dựa theo chi phí lấy sản phẩm làm trung tâm. Doanh
nghiệp phải thiết kế sản phẩm và dự kiến mức chi phí để thiết kế và sản xuất ra sản
phẩm đó. Mức chi phí này cộng với một khoản lợi nhuận mong đợi nào đó sẽ hình
thành nên giá của sản phẩm. Sau khi có giá của sản phẩm rồi, doanh nghiệp sẽ dùng
nhiều biện pháp chiêu thị để chứng minh với người tiêu dùng rằng giá của sản phẩm
như vậy là phù hợp với giá trị của nó và như vậy mức giá này là hợp lý.
- Phương pháp định giá dựa theo người mua thì ngược lại. Trước hết doanh
nghiệp phải xác định cảm nhận của người tiêu dùng về giá trị của sản phẩm mà doanh
nghiệp sẽ sản xuất và phải định giá. Từ đó doanh nghiệp biết rằng mình có thể chi phí
trong khoản nào cho việc thiết kế và sản xuất ra sản phẩm đó để giá của nó phù hợp với
giá trị cảm nhận của người tiêu dùng.
202
Hình 6.6: Định giá dựa theo chi phí so với dựa theo người mua [5]204
6.3.3. Định giá dựa theo cạnh tranh (Competition-based pricing)
6.3.3.1. Giới thiệu phương pháp
Phương pháp này tập trung vào việc đối thủ cạnh tranh tính giá ra sao. Để định
giá theo phương pháp này, doanh nghiệp cần xác định họ đang ở trong phân khúc thị
trường nào và các đối thủ cạnh tranh trong phân khúc đó là ai. Từ đó, xác định được vị
trí giá của mình trong tương quan với giá các đối thủ cạnh tranh. Có 2 cách định giá
theo cạnh tranh phổ biến là:
(1) Định giá theo thời giá (Going-rate pricing)
Phương pháp này được áp dụng khá phổ biến trong những trường hợp độ co
giãn của cầu khó đo lường được. Theo phương pháp này, khi định giá, doanh nghiệp
chủ yếu dựa vào giá cả của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường mà ít chú ý vào chi
phí và số cầu của riêng mình. Các doanh nghiệp biết rằng người mua thường cân nhắc
mức giá của mình bằng cách so sánh với giá các sản phẩm cạnh tranh tương tự. Các
doanh nghiệp cũng có thể so sánh tương tự và định giá theo kết quả so sánh. Doanh
nghiệp có thể định giá bằng, thấp hơn, hoặc cao hơn đối thủ cạnh tranh chính:
- Thấp hơn giá đối thủ cạnh tranh:
Nếu sản phẩm không có những đặc tính hay ích lợi như của đối thủ cạnh tranh.
Đối với sản phẩm có cầu co giãn mạnh theo giá.
Khi doanh nghiệp muốn xâm nhập sâu hơn thị trường cũ hay phát triển thị
trường mới.
203
- Bằng với giá đối thủ cạnh tranh:
Đối với sản phẩm có tính chất đồng nhất trên thị trường và sản phẩm thỏa
đúng tiêu chuẩn chất lượng quy định. Các doanh nghiệp bán các mặt hàng nhu yếu
phẩm (như muối, gạo, dầu hỏa…) biết rằng sản phẩm của họ bán ra không có nhiều
khác biệt, nên nói chung họ đều định cùng một mức giá.
Các doanh nghiệp nhỏ cũng thường điều chỉnh theo giá của các đối thủ cạnh
tranh đang kiểm soát phần lớn thị trường.
- Cao hơn giá đối thủ cạnh tranh:
Đối với sản phẩm có tính độc đáo mà các sản phẩm khác không có được và sự
độc đáo này được khách hàng chấp nhận và đánh giá cao.
Đối với sản phẩm mới và sản phẩm thuộc thị trường độc quyền.
Đối với sản phẩm có cầu ít co giãn theo giá để tránh trường hợp mất khách
hàng.
(2) Định giá đấu thầu kín (Sealed-bid pricing)
Định giá dựa vào cạnh tranh cũng được sử dụng trong đấu thầu kín. Trong
trường hợp này, doanh nghiệp sẽ định giá dựa vào dự tính việc định giá của đối thủ
cạnh tranh hơn là chi phí và cầu trên thị trường. Có 2 hình thức:
- Đấu thầu theo giá cao: Trường hợp doanh nghiệp tham gia đấu thầu mua sản
phẩm dịch vụ trong các cuộc bán đấu giá. Người nào định giá cao nhất sẽ được mua
sản phẩm được bán đấu giá. Ví dụ: Bán đấu giá các tài sản thanh lý, tịch thu, bán đấu
giá các sản phẩm gây quỹ từ thiện...
- Đấu thầu theo giá thấp: Trường hợp doanh nghiệp tham gia đấu thầu nhận
cung cấp sản phẩm dịch vụ. Muốn giành được hợp đồng, doanh nghiệp phải định giá
thấp nhất trong những người tham gia đấu thầu. Ví dụ: Đấu thầu xây dựng, đấu thầu
cung cấp máy móc thiết bị...
6.3.3.2 Nhận xét phương pháp
- Ưu điểm phương pháp này:
Doanh nghiệp đã chú ý tới đối thủ cạnh tranh.
204
Giúp doanh nghiệp nắm được thông tin về đối thủ cạnh tranh về số lượng và
số loại sản phẩm sản xuất, hoạt động của đối thủ...
Không mất chi phí cho việc tính toán giá cả, chỉ cần quan sát thị trường.
Có thể quyết định về giá kịp thời phù hợp với thị trường.
- Nhược điểm phương pháp này:
Bỏ qua yếu tố chi phí và yếu tố cầu trên thị trường nên phần nào ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
Các nhà kinh doanh nhỏ thường tính phí cực thấp để tồn tại, không thể cạnh
tranh với họ về giá.
Khi có nhiều sự lựa chọn thì khách hàng thường so sánh về giá trước rồi mới
quan tâm các yếu tố khác. Điều này làm cho các sản phẩm chưa có tên tuổi trên thị
trường khó định giá cao dù sản phẩm có chất lượng cao.
Tốn kém thời gian và tiền bạc để nghiên cứu và cập nhật thông tin về đối thủ
cạnh tranh.
Tạo điều kiện cho đối thủ cạnh tranh có thể bắt chước các mức giá mà doanh
nghiệp lựa chọn.
Tóm lại, theo quan điểm Marketing có ba phương pháp giúp doanh nghiệp định
giá sản phẩm: định giá dựa theo chi phí, định giá dựa theo người mua và định giá dựa
theo đối thủ cạnh tranh. Không có phương pháp định giá nào đúng hoàn toàn trong mọi
tình huống. Thông thường một doanh nghiệp hiện nay thực hiện chiến lược định giá
của mình dựa trên sự phối hợp của cả ba phương pháp này.
6.4. Các chiến lược giá điển hình6.4.1 Chiến lược định giá cho sản phẩm mới
Thông thường một sản phẩm mới ra đời các doanh nghiệp đặt câu hỏi là nên
định giá cao hay thấp cho sản phẩm. Tùy vào loại sản phẩm mà doanh nghiệp có chiến
lược phù hợp. Có 2 chiến lược định giá cho sản phẩm mới:
6.4.1.1. Định giá hớt váng (Skimming pricing)
Từ hớt váng ở đây được hiểu là “hớt phần ngon”. Trong một ly sữa thì phần trên
cùng là chứa nhiều chất dinh dưỡng nhất. Định giá hớt váng là định giá cao khi sản
205
phẩm mới xuất hiện trên thị trường nhằm thu lợi ích một cách tốt nhất. Bằng cách này,
doanh nghiệp vớt được lượng doanh thu tối đa từ những khúc thị trường khác nhau.
Ví dụ: Intel khi mới bắt đầu tung ra bộ vi xử lý máy tính mới đã định mức giá
cao nhất để đổi lại ích lợi mà bộ vi xử lý mới đem lại so với bộ vi xử lý thế hệ cũ. Công
ty giảm giá khi doanh số đợt bán đầu tiên chững lại và khi có nguy cơ một đối thủ cạnh
tranh nhảy vào cung cấp bộ vi xử lý tương tự.
Chiến lược định giá hớt váng chỉ được sử dụng khi:
- Số lượng người mua với mức giá cao đó đủ lớn để có mức cầu hiện hành cao
- Chi phí trên mỗi đơn vị khi phải sản xuất với khối lượng nhỏ không quá cao
(biến phí chiểm tỷ lệ cao trong tổng phí)
- Giá ban đầu cao sẽ không thu hút thêm các đối thủ cạnh tranh, gây cho đối thủ
cạnh tranh khó khăn trong việc tham gia vào thị trường.
- Sản phẩm mới hoàn toàn, không có đối thủ cạnh tranh và có những tính năng
ưu việt mà khách hàng cảm nhận được. Khách hàng sẵn sàng trả tiền cao nếu hài lòng.
- Doanh nghiệp lựa chọn chiến lược Marketing “Người dẫn đầu thị trường”
(Pioneer).
- Khách hàng mục tiêu phải không nhạy cảm về giá. Có nghĩa là đối với họ
nhiều khi giá cả không là vấn đề quan trọng vì họ có rất nhiều tiền, khách hàng là phân
khúc cấp cao.
6.4.1.2. Định giá thẩm thấu (penetration pricing)
Định giá thấp để khách hàng có điều kiện sử dụng sản phẩm mới và thu hút
khách hàng dùng thử sản phẩm mới. Với chiến lược này, doanh nghiệp hi vọng sẽ thu
hút một lượng khách mua đủ lớn và đạt được một thị phần lớn.
Chiến lược định giá thẩm thấu chỉ được sử dụng khi:
- Khách hàng mục tiêu rất nhạy cảm với giá và với một giá thấp sẽ kích thích họ
mua hàng nhiều hơn.
- Tăng quy mô sản xuất sẽ làm giảm chi phí về sản xuất và phân phối (khi biến
phí chiếm tỷ lệ thấp trong tổng phí).
- Sản phẩm mới bắt chước, có nhiều đối thủ cạnh tranh.
206
- Doanh nghiệp lựa chọn chiến lược Marketing “Người theo sau thị trường”
(Follower).
- Một giá thấp sẽ không thu hút sự cạnh tranh thực tế và tiềm tàng (hoặc đối thủ
cạnh tranh không đủ nguồn lực để gây chiến về giá hoặc là doanh nghiệp quá nhỏ
không gây sự chú ý của đối thủ cạnh tranh).
6.4.2. Định giá cho danh mục sản phẩm (Product-mix pricing)
Đây là chiến thuật định giá để tối đa hóa lợi nhuận cho một danh mục sản phẩm
thay vì cho từng sản phẩm riêng lẻ. Thực hiện chiến lược này, doanh nghiệp cần phải
xây dựng một cơ cấu giá của toàn bộ danh mục sản phẩm. Đây là chiến lược rất phức
tạp. Do vậy, khi định giá cho danh mục sản phẩm cần xem xét mối quan hệ giữa các
sản phẩm, mức độ cạnh tranh và cả mục tiêu, định hướng chiến lược tổng thể để xác
định mức giá cho hợp lý. Chiến lược định giá cho danh mục sản phẩm bao gồm:
6.4.2.1. Định giá dòng sản phẩm (Product-line pricing)
Các doanh nghiệp thường triển khai đa dạng nhiều sản phẩm trong cùng một
dòng và sau đó họ quyết định các bậc giá cho những sản phẩm khác nhau ấy. Các bậc
giá đó cần tính đến những khác biệt của các sản phẩm trong cùng một dòng về chi phí,
những đánh giá của khách hàng về các đặc điểm khác nhau và giá cả của các đối thủ
cạnh tranh.
Ví dụ: hãng Panasonic đưa ra 5 loại máy quay video màu, từ cái đơn giản nặng
khoảng 2.8 kg gồm hệ thống điều chỉnh tự động ánh sáng, tiêu cự rộng và ống kính hai
tốc độ. Mỗi loại máy nối tiếp trong dòng mặt hàng ấy đều có những đặc điểm phụ thêm
nữa. Nếu sự sai lệch về giá giữa hai máy kế tiếp nhau nhỏ thì người mua sẽ mua máy
tân tiến hơn và điều này sẽ làm tăng lợi nhuận của công ty nếu sai biệt về phí tổn nhỏ
hơn sai biệt về giá cả. Nếu sự cách biệt về giá cao thì khách hàng sẽ mua những máy ít
tân tiến hơn. Nhiệm vụ của Marketer là phải thiết lập được sự khác biệt về chất lượng
được cảm nhận để góp phần hỗ trợ cho những khác biệt về giá cả.
6.4.2.2. Định giá cho sản phẩm tự chọn đi kèm (Optional product pricing)
Khi mua nếu chỉ nhìn vào giá sản phẩm chính khách hàng nghĩ là giá thấp
(khách hàng dễ dàng chấp nhận), nhưng thực sự họ sẽ trả giá cao hơn vì phải chọn
207
thêm các sản phẩm đi kèm. Doanh nghiệp phải xác định bộ phận nào là phần tự chọn
và quyết định giá cho nó.
Ví duï: Mua một máy vi tính có thể yêu cầu gắn và trả tiền thêm bộ CD-ROM
hay video card, sound card, phần mềm diệt virus,...
6.4.2.3. Định giá sản phẩm bổ trợ, bổ sung (Additional product pricing)
Sản phẩm bổ trợ là những sản phẩm phải được dùng với sản phẩm chính (không
có sản phẩm chính thì không thể dùng sản phẩm bổ trợ). Chẳng hạn: lưỡi dao lam dùng
với dao cạo râu Gilette, phim cho máy chụp ảnh Kodak, mực in kèm máy in...
Với doanh nghiệp sản xuất cả sản phẩm chính lẫn sản phẩm bổ trợ thì thường
giá sản phẩm chính sẽ được định ở mức thấp và sản phẩm bổ trợ được định ở mức cao,
nghĩa là lợi nhuận chủ yếu dồn cho sản phẩm bổ trợ. Ngược lại, nếu doanh nghiệp chỉ
sản xuất sản phẩm chính thì bắt buộc phải định giá sản phẩm chính cao.
Ví dụ: Các nhà sản xuất những sản phẩm dao cạo râu, máy ảnh thường định giá
chúng thấp và dồn mức lời cao cho những sản phẩm phụ bổ. Kodak định giá máy ảnh
của mình thấp là vì công ty kiếm lời từ việc bán phim.
Với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thì chiến lược định giá sản phẩm bổ trợ
còn được gọi là chiến lược định giá hai phần:
- Phần một, khách hàng chi trả để được quyền sử dụng sản phẩm ở mức tối
thiểu-sản phẩm chính.Ví dụ: cước thuê bao điện thoại, vé vào cổng khu giải trí... Phần
một giá thường cố định và rất thấp để lôi cuốn khách hàng dùng dịch vụ.
- Phần hai, khách hàng phải chi trả cho những tiêu dùng vượt quá mức tối
thiểu-sản phẩm bổ trợ. Ví dụ: cước tính cho cuộc gọi quá mức tối thiểu, tiền phí cho
những trò chơi trong khu giải trí… Phần hai giá biến đổi theo mức độ sử dụng dịch vụ
và là phần mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
6.4.2.4. Định giá sản phẩm phụ, thứ phẩm (By-product pricing)
Trong quá trình sản xuất, chế biến sản phẩm chính hình thành ra một số sản
phẩm phụ mà việc tiêu huỷ số sản phẩm phụ này gây nhiều tốn kém hoặc lãng phí.
Doanh nghiệp có thể định giá bất kỳ cho sản phẩm phụ miễn nó đủ bù đắp chi phí bảo
quản, vận chuyển, tiêu thụ…
208
Ví dụ: Lông, da, xương động vật,... là thứ phẩm của ngành chế biến thịt; vảy,
xương, đầu cá,… là thứ phẩm của ngành chế biến thủy sản; vải vụn là thứ phẩm ngành
công nghiệp may mặc…
Ngày nay một số doanh nghiệp đã nghiên cứu, ứng dụng những cách thức nâng
giá trị sử dụng và giá trị cho các sản phẩm phụ của mình như: xương cá, đầu cá bị loại
bỏ trong khâu sản xuất cá đông lạnh được nghiền nát, chế biến làm thức ăn cho cá, vải
vụn dùng làm nguyên liệu cho các sản phẩm thủ công...
Khi tìm kiếm được thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm phụ này, chúng cho
phép giảm được nhiều chi phí, do đó giảm được giá bán sản phẩm chính khiến nó có
sức cạnh tranh cao hơn.
6.4.2.5. Định giá sản phẩm trọn gói (Product-building pricing)
Giá trọn gói là giá một tập hợp các sản phẩm, dịch vụ đồng bộ và bổ sung cho
nhau. Về nguyên tắc, giá trọn gói phải thấp hơn tổng mức giá của những sản phẩm
riêng lẻ và chênh lệch này phải đủ lớn để khuyến khích khách hàng mua trọn gói. Ví
dụ: Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch thường chào các tour du lịch trọn gói, các
studio ảnh cưới thường chào trọn gói album, quay film, trang điểm, đồ cưới…
6.4.3. Chiến lược điều chỉnh giá
6.4.3.1. Định giá chiết khấu (discounts)
Doanh nghiệp điều chỉnh giá cơ bản (khấu trừ) để kích thích hay khen thưởng
cho khách hàng thỏa các yêu cầu do doanh nghiệp đề ra. Cụ thể là:
- Chiết khấu mua hàng (Trade discount): Điều chỉnh giảm giá cho thành viên
mạng phân phối hoặc người mua do đáp ứng được một số chức năng Marketing do
doanh nghiệp đề ra. Còn được gọi là chiết khấu theo chức năng.
- Chiết khấu tiền mặt (Cash discount): Điều chỉnh giảm giá cho khách mua
hàng thanh toán ngay hay hoặc thanh toán trước kỳ hạn. Ví dụ: Nếu người bán ghi là
“2/10 net 30” có nghĩa việc thanh toán được kéo dài trong vòng 30 ngày, nhưng người
mua có thể được lợi 2% trên giá nếu thanh toán hóa đơn trong vòng 10 ngày.
Việc chiết khấu phải được đảm bảo cho tất cả mọi khách hàng đáp ứng được
điều kiện này. Đây là việc làm đang được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành nhằm
209
mục đích cải thiện tài chính cho người bán và làm bớt chi phí thu nợ cũng như những
khoản nợ khó đòi.
- Chiết khấu số lượng (Quantity discount): Điều chỉnh giảm giá cho những
người mua hàng với khối lượng lớn. Chiết khấu này phải được áp dụng cho mọi khách
hàng nhằm khích lệ họ mua nhiều nhờ đó giảm được nhiều phí tổn và tăng được tổng
lợi nhuận của doanh nghiệp. Chiết khấu số lượng có thể áp dụng trên cơ sở cộng dồn
(cộng dồn lượng mua của khách hàng đó trong một khoảng thời gian nhất định), hoặc
trên cơ sở giảm giá ngay cho từng lần mua (mua lần nào giảm giá lần đó).
- Chiết khấu theo mùa (Seasonal discount): Điều chỉnh giảm giá cho khách
hàng mua hàng hóa hay dịch vụ vào mùa ế ẩm. Chiết khấu theo mùa cho phép người
bán duy trì sản xuất đều đặn suốt cả năm. Ví dụ: Các nhà sản xuất dụng cụ trượt tuyết
sẽ chiết khấu hấp dẫn cho các nhà bán lẻ vào mùa xuân và hè để khuyến khích đặt hàng
sớm. Các khách sạn vùng biển giảm giá phòng vào mùa đông lạnh.
6.4.3.2. Các khoản giảm giá-chước giảm (allowances)
Là những khoản tiền cổ động mà nhà sản xuất dành cho các trung gian để đổi
lấy một thỏa thuận làm nổi bật sản phẩm của nhà sản xuất theo cách nào đó. Bao gồm:
- Chước giảm đổi hàng (trade-in allowances): Là giảm khi đổi hàng cũ mua
hàng mới. Chước giảm đổi hàng nhằm khuyến khích khách hàng trung thành với nhãn
hiệu.
- Chước giảm cổ động (promotional allowances): Còn được gọi là hỗ trợ
khuếch trương bán hàng. Nhà sản xuất tài trợ hoạt động quảng cáo và khuếch trương
bán hàng cho các thành viên trong kênh phân phối nhằm phối hợp hiệu quả chiến lược
khuếch trương sản phẩm trong toàn bộ kênh bán hàng. Hình thức tài trợ thường là giảm
giá để thưởng cho trung gian tham gia chương trình quảng cáo và hổ trợ chiêu thị sản
phẩm của nhà sản xuất.
6.4.3.3. Định giá phân biệt (Discriminatory pricing)
Nhiều doanh nghiệp thường hay thay đổi giá căn bản cho phù hợp với từng đối
tượng khách hàng, phù hợp với từng sản phẩm, khu vực tiêu thụ… Đây là trường hợp
210
doanh nghiệp bán một sản phẩm với nhiều mức giá khác nhau không dựa trên cơ sở là
chi phí. Có các hình thức định giá phân biệt sau:
- Định giá phân biệt theo đối tượng khách hàng (Customer-segment pricing):
Từng đối tượng khách hàng thuộc các phân khúc khác nhau sẽ có giá khác nhau cho
cùng một sản phẩm, dịch vụ. Ví dụ: Vé xem phim, kịch dành cho sinh viên, vé trẻ em
khác người lớn, người địa phương khác người nước ngoài
- Định giá phân biệt theo hình thức sản phẩm (Product-form pricing): Đưa ra
nhiều hình thức khác nhau cho một sản phẩm và định giá khác nhau cho từng hình
thức. Ví dụ: Bột giặt đựng trong túi nylon có giá khác trong hộp.
- Định giá phân biệt theo khu vực, vị trí (Location pricing): Có nhiều giá khác
nhau cho những vị trí khác nhau khi cùng sử dụng một sản phẩm. Ví dụ: Trong cùng
một trong rạp hát, rạp chiếu bóng nhưng giá khác nhau ở từng khu vực.
- Định giá phân biệt theo thời điểm (Timing pricing): Giá được định khác nhau
cho cùng một sản phẩm ở những khoảng thời gian khác nhau trong năm, trong tháng,
trong ngày. Ví dụ: Giá dịch vụ Karaoke buổi tối sẽ đắt hơn ban ngày, thứ bảy, chủ nhật
và ngày lễ giá sẽ cao hơn ngày thường.
Khi thực hiện chính sách giá phân biệt, cần phải chú ý các điều kiện sau:
Phải hợp pháp, nhiều nơi có luật cấm áp dụng chính sách giá phân biệt nếu
không chứng minh được có sự khác nhau về chi phí. Ví dụ: đạo luật Robinson-
Patman năm 1936 quy định tất cả các việc phân biệt giá đều là phạm pháp nếu
nó phá vỡ tính cạnh tranh. [40]155
Thị trường có thể phân khúc được và phải thể hiện các mức nhu cầu khác nhau.
Khách hàng không có phản ứng về chính sách giá này
Khách hàng ở khu vực giá thấp không mua đi, bán lại.
Ñoái thuû caïnh tranh không tấn công bằng giá vào khu vực giá cao.
6.4.4. Định giá tâm lý
Ở đây người bán không chỉ lưu tâm đến vấn đề kinh tế mà còn để ý đến khía
cạnh tâm lý học của giá cả nữa. Giá tâm lý được thể hiện bằng giá có nhiều số lẻ, giá
có số đẹp, giá chỉ báo chất lượng...
211
Hãy xem một đầu máy video giá 300 đô la với một đầu máy cùng loại để giá
299,95 đô la. Chênh lệch thực tế có 5 xu nhưng sự cách biệt về tâm lý rất lớn. Khách
hàng cho máy bán với giá 299,95 đô la là rẻ, nó nằm trong phạm vi trên 200 đô la chứ
không phải phạm vi 300 đôla. Người mua có cảm giác được mua với giá rẻ hơn sẽ vui
hơi, hài lòng hơn.
Bên cạnh đó có những sản phẩm rất khó xác định chất lượng cho nên người mua
thường xác định chất lượng căn cứ vào giá bán của sản phẩm. Khách hàng thường cho
rằng mức giá cao gắn liền với hình ảnh của sản phẩm có chất lượng tốt. Mức giá thấp
lại gắn liền với sản phẩm có chất lượng không tốt, lỗi thời, lạc mốt. Họ nghĩ “Tiền nào
của ấy”. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp định giá cao. Ví dụ: Một người Việt Nam
có cơ hội sang Trung Quốc và mua một thang thuốc bổ Đông y với giá 1.000.000 đồng
tại một hiệu thuốc danh tiếng ở Bắc Kinh. Người ấy sẽ hết sức an tâm, tin tưởng khi
tiêu dùng sản phẩm này và chắc chắn rằng sẽ đánh giá chất lượng thang thuốc ấy cao
hơn nhiều so với các sản phẩm cùng loại được bán với giá vài chục hàng đồng tại các
tiệm thuốc Bắc ở Chợ Lớn.
6.4.5. Định giá khuyến mãi
Do những hoàn cảnh nào đó, các doanh nghiệp sẽ tạm thời định giá sản phẩm
thấp hơn giá niêm yết và thậm chí có lúc thấp hơn cả giá thành (được thực hiện trong
một thời gian nhất định) nhằm mục đích hỗ trợ cho việc xúc tiến bán. Việc định giá
khuyến mãi mang nhiều hình thức:
- Định giá quảng cáo bán giá vốn vào dịp đặc biệt nào đó. Ví dụ: định giá thấp
cho vở, bút, mực… vào dịp khai giảng để lôi kéo khách hàng là học sinh.
- Giá trả góp: Thực chất là hình thức tài trợ tài chính của người bán cho khách
hàng với lãi suất thấp.
- Bán hàng theo phiếu giảm giá (Coupon): Giảm giá cho khác khách hàng có
phiếu giảm giá (được tặng kèm với khác lần mua hàng trước).
- Trả lại một phần tiền hàng (Rebate): Nhà sản xuất hồi khấu tiền mặt gửi trực
tiếp đến khách hàng khi mua sản phẩm của doanh nghiệp. Đây là một công cụ linh hoạt
để giải quyết sản phẩm tồn đọng.
212
- Chiết khấu tâm lý: Người bán đề ra một mức giá cao giả tạo cho một sản
phẩm và rồi bán ra với giá thật thấp. Chẳng hạn trước đây giá bán 599 đôla nay còn
299 đôla nhưng giá vốn của sản phẩm chỉ là 250 đôla.
6.4.6. Chiến lược thay đổi giá
Sau khi định giá sản phẩm xong, doanh nghiệp thường phải đối mặt với đòi hỏi
thay đổi giá. Chiến lược thay đổi giá có 2 trường hợp:
6.4.6.1. Chủ động thay đổi giá
- Chủ động giảm giá: Nhiều hoàn cảnh có thể làm cho một doanh nghiệp phải
xét đến chuyện giảm giá sản phẩm của mình xuống mặc dù điều này có thể gây nên
những trận chiến về giá cả. Một nguyên nhân là sự quá thừa năng lực, doanh nghiệp thì
cần thêm khách hàng nhưng không thể đạt được qua việc đã tăng cường nỗ lực bán, cải
tiến sản phẩm, cùng những biện pháp khác nữa. Từ cuối những năm 1970 nhiều doanh
nghiệp đã từ bỏ lối định giá theo hãng dẫn đầu và chuyển sang lối định giá linh hoạt.
Các doanh nghiệp cũng sẽ chủ động giảm giá trong một chiến dịch nhằm chi
phối thị trường thông qua phí tổn thấp. Hoặc doanh nghiệp khởi đầu với phí tổn thấp
hơn đối thủ, hoặc chủ động giảm giá với hy vọng đạt được thị phần là điều sẽ dẫn tới
phí tổn thấp khi khối lượng lớn. Một số ngành công nghiệp như xe hơi, điện tử gia
dụng, máy ảnh, đồng hồ và thép, đang mất dần thị phần vào các đối thủ cạnh tranh
Nhật, mà sản phẩm với chất lượng cao đang bán với giá rẻ so với Mỹ.
Khi quyết định giảm giá, doanh nghiệp cần tính toán, xem xét các vấn đề sau:
Có thể xảy ra cuộc chiến về giá hay không?
Khách hàng có thể nghi ngờ về chất lượng của sản phẩm hay không?
Có thể làm tăng được thị phần của doanh nghiệp hay không?
- Chủ động tăng giá: Nhiều doanh nghiệp đã chủ động tăng giá lên. Một sự tăng
giá thành công có thể làm tăng lợi nhuận. Nguyên nhân chính của sự tăng giá là do sự
lạm phát chi phí dai dẳng có tính toàn cầu. Mức tăng năng suất không sánh kịp với vật
giá gia tăng đã gặm dần biên tế lợi nhuận, khiến các doanh nghiệp cứ phải tăng giá lên
mãi. Nhiều doanh nghiệp thường nâng giá cao hơn mức vật giá gia tăng trong sự tiên
213
đoán rằng sự lạm phát còn cao hơn nữa. Một yếu tố khác dẫn đến chuyện tăng giá là
mức cầu quá độ.
Một số doanh nghiệp thực hiện tăng giá một cách khéo léo bằng cách:
- Giảm bớt trọng lượng hay kích thước sản phẩm
- Giảm bớt những đặc tính của sản phẩm.
- Loại bỏ những dịch vụ đi kèm sản phẩm như: giao hàng miễn phí, rút ngắn
thời hạn bảo hành…
- Sử dụng bao bì rẻ tiền hơn.
Để tăng giá thành công, doanh nghiệp nên tránh tạo ấn tượng mình là kẻ đục
nước béo cò. Phải hỗ trợ việc tăng giá bằng một chương trình truyền thống, nhằm nói
cho khách hàng biết lý do tăng giá. Các lực lượng bán hàng của doanh nghiệp nên giúp
đỡ khách hàng tìm các phương cách tiết kiệm.
6.4.6.2. Bị động đối phó với việc thay đổi giá của đối thủ cạnh tranh
Trước khi phản ứng doanh nghiệp cần xem xét các vấn đề sau:
- Tại sao đối thủ cạnh tranh thay đổi giá?
- Sự thay đổi giá này là là tạm thời hay lâu dài?
- Thị phần và lợi nhuận của doanh nghiệp bị ảnh hưởng ra sao nếu không phản
ứng?
- Có những cách đối phó nào có thể áp dụng? Phản ứng tiếp theo của đối thủ
cạnh tranh sẽ ra sao?
- Những phản ứng của đối thủ cạnh tranh khác?
Sau đó, tùy hoàn cảnh cụ thể doanh nghiệp lựa chọn phương án đối phó sau:
- Giảm giá bán sản phẩm với mức thấp hơn hoặc bằng giá đối thủ.
- Giữ nguyên giá, thúc đẩy các hoạt động Marketing-Mix khác để giữ khách
hàng.
- Nâng giá cùng với cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Tạo hình ảnh về chất
lượng sản phẩm để người tiêu dùng so sánh với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Để có cách đối phó tốt nhất, ngoài những nguyên tắc cơ bản trên, các doanh
nghiệp còn phải xem xét một cách cẩn thận các yếu tố: giai đoạn của chu kỳ sống sản
214
phẩm, tầm quan trọng của mặt hàng đang bị cạnh tranh trong danh mục sản phẩm của
mình, nguồn lực của đối thủ cạnh tranh, quan hệ giữa giá thành và khối lượng tiêu thụ,
những cơ hội khác của doanh nghiệp.
Cần lưu ý: nếu tăng giá thì nên tăng từ từ, không nên tăng đột ngột gây sốc trong
tâm lý khách hàng.
6.4.6.3 Phản ứng của người mua đối với việc thay đổi giá cả
Dù giá tăng hay giảm, việc này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới người mua, các nhà
cạnh tranh, các nhà phân phối và cũng có thể làm cho chính quyền quan tâm (như giá
nông sản). Đối với người mua, tùy theo thái độ nhận thức của mỗi người mà có những
phản ứng khác nhau như mua thêm nhiều hơn để tránh sự tăng giá tiếp tục hoặc chuyển
qua mua sản phẩm cùng loại khác.
Khách hàng cũng không luôn luôn hiểu đúng về sự thay đổi giá cả. Một sự giảm
giá có thể bị giải thích theo những cách sau đây:
- Món hàng sắp bị một kiểu khác thay thế.
- Món hàng có khuyết điểm và bán không chạy.
- Doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.
- Hoặc chất lượng hàng bị giảm xuống rồi.
Một sự tăng giá thường làm giảm khối lượng bán ra, nhưng cũng có thể có một
số ý nghĩa tích cực đối với người mua: món hàng bán rất chạy, nếu không mua ngay có
thể không mua được; món hàng có giá trị tốt khác thường hay lo ngại món hàng này sẽ
còn tăng giá nữa…
6.5. Tiến trình xác định giá bánTrong thực tế kinh doanh, doanh nghiệp phải linh hoạt trong công tác định giá.
Vì vậy, việc xác định giá bán sản phẩm theo một tiến trình chỉ nên áp dụng cho các
trường hợp sau:
- Doanh nghiệp tung sản phẩm mới vào thị trường
- Doanh nghiệp tung sản phẩm đang có vào một thị trường mới, một kênh phân
phối mới
- Doanh nghiệp tham gia đấu thầu
215
Tiến trình định giá trong những trường hợp trên cần tuân theo 6 bước sau:
Hình 6.7: Tiến trình xác định giá bán
Dưới đây, chúng ta cùng phân tích các bước trong quy trình định giá.
6.5.1. Xác định mục tiêu định giá
Các mục tiêu Marketing của doanh nghiệp đóng vai trò định hướng cho việc đặt
ra nhiệm vụ của giá cả. Muốn trở thành một công cụ Marketing hữu hiệu thì giá phải
phục vụ đắc lực cho chiến lược Marketing về thị trường mục tiêu và định vị sản phẩm
của doanh nghiệp. Do vậy, khi định giá doanh nghiệp phải căn cứ vào mục tiêu
Marketing của doanh nghiệp và chiến lược định vị sản phẩm mà doanh nghiệp đã chọn.
Thông thường, một doanh nghiệp có thể theo đuổi một trong các mục tiêu cơ bản sau:
- Tối đa hóa lợi nhuận hiện hành
- Dẫn đầu về thị phần
- Dẫn đầu về chất lượng sản phẩm trên thị trường
- Đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại trên thị trường
- Các mục tiêu khác
Để thực hiện mỗi một mục tiêu nêu trên thì doanh nghiệp phải đưa ra các quyết
định giá khác nhau.
6.5.2. Xác định nhu cầu của sản phẩm ở thị trường mục tiêu
Mỗi mức giá mà doanh nghiệp ấn định cho sản phẩm sẽ tương ứng với một mức
cầu nhất định của thị trường mục tiêu và do vậy sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến các
mục tiêu Marketing của doanh nghiệp. Đường cầu thể hiện mối tương quan chặt chẽ
216
1. Xác định mục tiêu định giá
3. Dự tính chi phí
2. Xác định nhu cầu của sản phẩm ở thị trường mục tiêu
5. Lựa chọn phương pháp định giá
4. Phân tích giá của sản phẩm cạnh tranh
6. Lựa chọn mức giá
giữa hai biến số giá và cầu. Thường thì mối quan hệ giữa cầu và giá là quan hệ tỷ lệ
nghịch. Nhưng đối với các hàng hóa có uy tín thì giá tăng lại kéo theo cầu tăng. Ví dụ
giá nước hoa tăng lại dẫn đến sức mua tăng.
6.5.3. Dự tính chi phí
Chi phí cho một đơn vị sản phẩm, hay giá thành một đơn vị sản phẩm là căn cứ
quan trọng trong định giá. Chi phí cho một đơn vị sản phẩm (chi phí bình quân) bằng
chi phí cố định cộng với chi phí biến đổi.
Ta có công thức tính như sau: TC =FC +VC
Trong đó: - TC là chi phí (trung bình) cho một đơn vị sản phẩm
- FC là chi phí cố định cho một đơn vị sản phẩm
- VC chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩm.
Để định giá một cách khoa học, doanh nghiệp cần biết sự biến động của chi phí
theo các mức sản lượng khác nhau. Về nguyên tắc, đường cong chi phí bình quân có
dạng chữ U, tức là chi phí bình quân (chi phí đơn vị) sẽ đạt cực tiểu ở một mức sản
lượng nào đó. Mặt khác, càng sản xuất, doanh nghiệp càng có kinh nghiệm, dẫn đến chi
phí đơn vị sẽ giảm dần. Khi chi phí giảm, doanh nghiệp lại có điều kiện để giảm giá,
tăng thị phần.
6.5.4. Phân tích giá của sản phẩm cạnh tranh
Phân tích chi phí, giá cả và sản phẩm cạnh tranh. Chi phí đơn vị là cận dưới của
giá bán. Cầu của thị trường xác định cận trên của giá. Bây giờ doanh nghiệp cần tìm
hiểu giá của các sản phẩm cạnh tranh để làm căn cứ xác định giá bán cho sản phẩm của
mình. Doanh nghiệp cũng cần so sánh cấu trúc chi phí của mình với cấu trúc chi phí
của các đối thủ để tìm ra các thế mạnh cũng như điểm yếu của mình. Ngoài ra, doanh
nghiệp cũng cần tìm hiểu chất lượng của sản phẩm cạnh tranh.
Để làm tốt bước này, doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp sau:
- Cử nhân viên của mình đóng vai khách hàng bí mật đến mua sản phẩm của các
đối thủ cạnh tranh để tìm hiểu sản phẩm của họ.
- Phỏng vấn khách hàng của các đối thủ cạnh tranh để biết đánh giá của họ về
chất lượng và giá cả của các đối thủ.
217
- Điều tra để tìm hiểu công nghệ, bí quyết của các đối thủ.
Khi doanh nghiệp đã có thông tin chi tiết về sản phẩm, chi phí, giá cả của các
sản phẩm cạnh tranh, doanh nghiệp đã có định hướng để đặt giá cho sản phẩm của
mình. Sẽ có thể có ba trường hợp sau đây:
- Nếu sản phẩm của doanh nghiệp tương đương với sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh, doanh nghiệp phải định giá tương đương với giá của họ (có thể thấp hơn
một chút).
- Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao hơn so với sản phẩm của
các đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có thể đặt giá cao hơn giá của họ
- Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng thấp hơn so với sản phẩm của
các đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có thể đặt giá thấp hơn giá của họ.
Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần biết dược sự phản ứng của các đối thủ trước
các mức giá của doanh nghiệp.
6.5.5. Lựa chọn phương pháp định giá
Có nhiều phương pháp định giá khác nhau. Thông thường doanh nghiệp kết hợp
và cân nhắc ba yếu tố dựa trên ba phương pháp định giá theo mô hình 3C (Cost-chi phí,
Competion-cạnh tranh, Customer-khách hàng) để ra quyết định về giá cho sản phẩm.
6.5.6. Lựa chọn mức giá
Các phương pháp xác định giá trên đây đã thu hẹp phạm vi của mức giá cần lựa
chọn cuối cùng. Khi quyết định mức giá cuối cùng, doanh nghiệp cần phải xem xét
thêm các yếu tố bổ sung sau đây:
- Yếu tố tâm lý của khách hàng khi chấp nhận giá
Ngoài các yếu tố về kinh tế nêu trên, yếu tố tâm lý của khách hàng lên quan đến
giá cả. Khách hàng thường gắn liền giá cả và chất lượng, uy tín của sản phẩm, đặc biệt
trong trường hợp khi thiếu thông tin về chất lượng. Nước hoa, ô tô... thuộc loại sản
phẩm như vậy. Đặc biệt, khách hàng Việt Nam thường đánh giá quá cao các thương
hiệu hàng hóa ngoại và sẵn sàng trả giá cao.
Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng phương pháp so sánh đối chứng để khách
hàng liên tưởng mức giá của sản phẩm chào bán. Khi trưng bày một loại sản phẩm mới
218
trong số các sản phẩm sang trọng đã được thừa nhận, khách hàng sẽ liên tưởng rằng sản
phẩm mới đó cũng là loại sang trọng, đắt tiền.
Cuối cùng, các mức giá lẻ dưới các con số chẵn làm cho khách hàng có cảm
giác giá rẻ. Do vậy, người ta thường ghi mức giá $299 thay vì $300, mặc dù chỉ rẻ hơn
có $1.
- Ảnh hưởng của các biến số Marketing
Khi chọn mức giá cuối cùng, doanh nghiệp cần phải xem xét đến uy tín của
thương hiệu và mục tiêu của quảng cáo. Qua nghiên cứu người ta thấy các quy luật sau
về mối quan hệ giữa giá cả, uy tín thương hiệu và mức độ quảng cáo:
+ Khách hàng sẵn sàng trả giá cao hơn đối với các sản phẩm được biết đến
nhiều so với các sản phẩm được biết đến ít. Như vậy, quảng cáo nhiều hơn sẽ hỗ trợ
tích cực cho các sản phẩm được đặt giá cao hơn.
+ Sản phẩm có chất lượng tốt, được quảng cáo mạnh mẽ sẽ có thể đặt giá cao
nhất. Ngược lại, sản phẩm có chất lượng thấp và quảng cáo ít thì nên đặt giá thấp nhất.
- Chính sách định giá của doanh nghiệp
Giá được lựa chọn phải tương thích với chính sách giá của doanh nghiệp. Chính
sách định giá của doanh nghiệp đảm bảo rằng các quyết định về định giá được phối hợp
với các quyết định của doanh nghiệp về thị trường mục tiêu, hình ảnh và các yếu tố
Marketing hỗn hợp khác. Nó cũng kết hợp các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong định
giá. Ví dụ: Giá cho sản phẩm nhằm vào phân đoạn thị trường thu nhập cao bán ở các
cửa hàng sang trọng sẽ phải là giá cao.
- Ảnh hưởng của giá đến các bên liên quan khác
Doanh nghiệp cần phải xem xét phản ứng của các bên khác đối với mức giá dự
kiến. Đó là phản ứng của các nhà phân phối, thái độ ửng hộ của lực lượng bán hàng, sự
phản ứng đáp lại của các đối thủ cạnh tranh, của các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào
và cuối cùng là những điều khoản luật lệ của chính phủ liên quan đến vấn đề quản lý
giá.
219
Tóm tắt chương 6- Giá là yếu tố duy nhất trong Marketing-Mix tạo ra thu nhập. Giá cả là vũ khí
cạnh tranh sắc bén trong thị trường. Xây dựng được chiến lược giá đúng là điều kiện
cực kỳ quan trọng đảm bảo doanh nghiệp có thể xâm nhập, chiếm lĩnh được thị trường
và hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao.
- Ra quyết định về giá là một việc luôn khó khăn bởi quá nhiều yếu tố chi phối.
Có hai nhóm yếu tố cần xem xét khi định giá: các yếu tố bên trong (như chi phí, mục
tiêu,…) và các yếu tố bên ngoài (như độ co dãn của cầu, giá của sản phẩm cạnh tranh,
…).
- Có 3 phương pháp tổng quát cho việc định giá: định giá dựa vào chi phí, định
giá dựa vào người mua, định giá dựa vào cạnh tranh. Doanh nghiệp cần linh động
phối hợp của cả ba phương pháp này.
- Các nhà quản trị Marketing phải hiểu ưu điểm và nhược điểm của các phương
pháp định giá và các chiến lược giá kinh điển, cùng với mọi yếu tố ảnh hưởng đến giá.
Từ đó, nhà quản trị Marketing thu thập, phân tích mọi thông tin có liên quan và xây
dựng giá bán hợp lý.
220
Câu hỏi ôn tập chương 61. Giá có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của doanh nghiệp? Có câu nói: “Giá
là yếu tố duy nhất trong 4P mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp”. Theo bạn, câu
nói này đúng hay sai? Tại sao?
2. Các yếu tố nào ảnh hưởng đến việc định giá sản phẩm của doanh nghiệp? Theo bạn
trong các yếu tố đó, yếu tố nào là quan trọng quyết định hoạt động Marketing của
doanh nghiệp.
3. Chi phí quảng cáo được xem là định phí hay biến phí?
4. Giá của các đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng như thế nào với hoạt động định giá
của doanh nghiệp. Cho ví dụ cụ thể.
5. Trình bày các phương pháp định giá. Nêu ưu nhược điểm của từng phương pháp.
Các sản phẩm sau được định giá theo phương pháp nào là chủ yếu: laptop Toshiba,
điện thoại Nokia, gạo, quần áo trong shop thời trang, tivi LCD.
Tài liệu tham khảo chương 66. [38] Học viện tài chính, PGS. TS. Ngô Trí Long và PGS. TS. Nguyễn Văn Dần
đồng chủ biên (2007), Giáo trình Cơ sở hình thành giá cả, NXB Tài Chính.
7. [39] TS. Nguyễn Thị Bích Loan, TS. Ngô Xuân Bình đồng chủ biên (2005), Bài tập
kinh tế và quản trị doanh nghiệp, NXB Giáo dục.
8. [40] Mạnh Tuấn, Minh Anh (2005), Marketing và nghệ thuật định giá, NXB Văn
hóa - Thông tin.
9. [41] Việt Báo (2001), Cà phê - internet: cạnh tranh quyết liệt về giá, VnExpress.net,
14/11/2001.
221
CHƯƠNG 7: CHIẾN LƯỢC PHÂN PHỐI
“Chính là kênh phân phối sẽ có sự thay đổi lớn nhất chứ không phải phương pháp sản
xuất hay sự tiêu dùng mới.”
Peter Drucker (1909-2005), Cha đẻ của ngành Quản trị kinh doanh hiện đại [11]84
“Người trung gian không phải là một khâu được thuê trong dây xích do người sản xuất
rèn ra, mà chính là một thị trường độc lập, nơi hội tụ của một nhóm đông khách hàng
mà người đó mua hàng cho.”
Phillip McVey- Chủ tịch tập đoàn Kroll [10]591
“Mục tiêu của chúng ta với tư cách một công ty là đảm bảo dịch vụ cho khách hàng
không chỉ tốt nhất mà còn là thần kỳ nhất. (Our goal as a company is to have customer
service that is not just the best, but legendary.)”
Sam Walton-Người sáng lập tập đoàn Wal-Mart [11]266
“Đơn giản là linh hồn của hiệu quả. (Simplicity is the soul of efficiency.)”
Nhà văn Richard Austin Freeman (1862-1943)
“Chúng tôi không kinh doanh bằng cách nắm giữ những những công ty truyền thông
hiện hữu. Chúng tôi kinh doanh bằng cách nắm giữ các kết nối với người tiêu dùng.
(We’re not in the business of keeping the media companies alive. We’re in the business
of connecting with consumers.)”
Trevor Edwards- Phó Chủ tịch tập đoàn Nike
Mục tiêu chương 7:Sau khi học xong chương 7, sinh viên có khả năng:
- Nhận biết về vai trò và bản chất của phân phối trong hoạt động Marketing.
- Phân biệt các kênh phân phối phổ biến.
- Trình bày các căn cứ lựa chọn và tổ chức quản lý kênh phân phối.
- Hiểu được cách thức một số hoạt động các doanh nghiệp tổ chức lưu thông sản
phẩm vật chất.
222
7.1. Giới thiệu về phân phối trong Marketing7.1.1. Khái niệm phân phối, chiến lược phân phối
Khi khách hàng quyết định mua một sản phẩm họ sẽ xem xét là sẽ mua ở đâu là
thuận tiện nhất. Ví dụ khách hàng muốn mua một chai Coca họ sẽ đến tiệm tạp hóa gần
nhất để mua, nếu không có họ sẽ mua sản phẩm khác thay thế. Phải làm sao khi khách
hàng muốn mua là họ dễ dàng mua được, đó chính là nhiệm vụ phân phối của các nhà
sản xuất. Nói một cách dễ hiểu hơn thì phân phối chính là làm cho khách hàng “mua
một cách tiện lợi và nhanh chóng”.
“Phân phối trong Marketing là một tiến trình đưa sản phẩm từ nhà sản xuất đến
người tiêu dùng cuối cùng, thể hiện qua nhiều phương thức và hoạt động khác nhau.”
Phân phối trong Marketing làm thay đổi sở hữu sản phẩm từ nhà sản xuất đến
người tiêu dùng thông qua các thành viên trung gian. Sự lựa chọn một hệ thống phân
phối là một trong những quyết định quan trọng nhất của doanh nghiệp. Những mối
quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các trung gian cần có thời gian để phát triển.
Ngày nay cuộc chiến giữa các doanh nghiệp không chỉ là việc đưa hàng vào các điểm
bán lẻ có chất lượng tốt mà còn phải làm thế nào để sản phẩm lọt vào tầm mắt của
khách hàng. Chiến lược phân phối là hệ thống các quyết định nhằm chuyển đưa sản
phẩm về mặt vật chất cũng như về quyền sở hữu hay quyền sử dụng sản phẩm từ nhà
sản xuất đến người tiêu dùng nhằm đạt hiệu quả cao.
7.1.2. Vai trò của chiến lược phân phối
7.1.2.1. Vai trò tiếp cận và khai thác hợp lý nhất nhu cầu thị trường
Vai trò của chiến lược phân phối trong chiến lược Marketing-Mix là đưa sản
phẩm đến thị trường mục tiêu. Những quyết định phân phối có ảnh hưởng lớn đến các
nỗ lực Marketing. Do các trung gian thực hiện một số chức năng phân phối nên kế
hoạch Marketing của doanh nghiệp cũng khác nhau khi lựa chọn những phương thức
phân phối khác nhau. Chiến lược phân phối đóng vai trò chính trong việc tiếp cận và
khai thác hợp lý nhất nhu cầu thị trường, để từ đó đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến
người tiêu dùng cuối cùng một cách hợp lý nhất, nhanh nhất, đạt lợi nhuận tối đa nhất.
223
Từ đó doanh nghiệp bán được nhiều sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, góp phần chiếm
lĩnh thị trường.
7.1.2.2. Vai trò tăng cường hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Những nhà phân phối mạnh sẽ tăng cường khả năng Marketing của doanh
nghiệp. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nhận ra giá trị của các mối quan hệ tốt thông qua
hệ thống phân phối. Do vậy, nhiều doanh nghiệp tìm cách duy trì những mối quan hệ
lâu dài với nhà cung cấp, trung gian phân phối và khách hàng.
Chi phí và lợi nhuận cũng bị ảnh hưởng bởi những quyết định lựa trọn kênh
phân phối. Một doanh nghiệp thực hiện tất cả các chức năng phân phối phải tự trang
trải hết các khoản chi phí và đổi lại sẽ thu hết phần lợi nhuận. Một doanh nghiệp sử
dụng trung gian để giảm chi phí phân phối thì lợi nhuận cũng giảm vì trung gian cũng
phải hưởng phần đóng góp của họ. Mặt khác, khi sử dụng trung gian, tổng lợi nhuận
của doanh nghiệp có thể tăng nếu mức bán của trung gian vượt cao hơn mức bán do
doanh nghiệp tự phân phối.
7.1.2.3. Vai trò thâm nhập thị trường
Phân phối là công cụ quan trọng để thâm nhập thị trường mới. Các doanh
nghiệp luôn coi kênh phân phối là yếu tố hàng đầu khi thâm nhập vào thị trường nào
đó, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Nếu giữa các thành viên phân phối có những ràng buộc
chặt chẽ, những doanh nghiệp mới sẽ gặp nhiều khó khăn khi xâm nhập. Một khi đã
xây dựng được những liên minh trong phân phối, sản phẩm mới sẽ dễ dàng tung ra thị
trường hơn. Vì vậy, những thành viên trong phân phối cần hoạt động trong sự hợp tác.
Mức độ chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm thường chịu ảnh hưởng bởi số lượng, vị trí,
khả năng thâm nhập thị trường, hình ảnh, dịch vụ và các kế hoạch Marketing khác của
các nhà bán sỉ, bán lẻ. Tuy nhiên, nếu sử dụng quá nhiều trung gian sẽ dẫn đến những
liên hệ với người tiêu dùng sẽ ít hơn, mức độ kiểm soát Marketing cũng thấp hơn.
7.1.2.4. Vai trò thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa-tiền tệ phát triển
Nếu chiến lược phân phối không hợp lý sẽ tốn kém nhiều chi phí, hàng hóa lưu
thông không thông suốt, có khi lỡ mất cơ hội bán hàng. Nếu chiến lược phân phối hiệu
quả, thuận tiện cho người mua sẽ góp phần cho sản phẩm lưu thông thông suốt, sản
224
phẩm sẽ dễ dàng nhanh chóng đến với người tiêu dùng và người tiêu dùng cảm thấy
tiện lợi khi mua sản phẩm.
7.1.3. Các bộ phận cấu thành phân phối
(1) Người làm ra sản phẩm và người tiêu dùng cuối cùng
(2) Hệ thống các thành viên trung gian phân phối
(3) Cơ sở vật chất, phương tiện vận chuyển và tồn trữ (như hệ thống kho hàng,
bến bãi, phương tiện vận chuyển, đường xá...)
(4) Hệ thống thông tin thị trường và các dịch vụ của hoạt động mua bán
Các bộ phận trên bao gồm cả vật chất (3), con người (1) (2) và những hoạt động
của con người (4). Những con người tham gia vào quá trình phân phối tạo thành khái
niệm “kênh phân phối” (Channel of distribution). Theo quan điểm Marketing, đối
tượng chính của chiến lược thiết lập và quản trị phân phối chính là các thành viên bao
gồm cả tổ chức và cá nhân, cả những người bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Trong đó, các trung gian thương mại giúp nhà sản xuất đưa hàng hóa từ nơi sản xuất
đến địa điểm thuận tiện nhất cho khách hàng là một đối tượng đáng chú ý nhất trong
kênh phân phối.
7.1.4. Trung gian trong hoạt động phân phối
7.1.4.1. Những rắc rối do trung gian gây ra
Việc sử dụng trung gian trong hoạt động phân phối đã ảnh hưởng đến sự kiểm
soát của doanh nghiệp trong việc bán hàng cho ai? Bán như thế nào?... Ngoài ra trung
gian còn là người thường gây những rắc rối sau:
- Trung gian thường đòi hỏi và yêu sách nhà sản xuất
- Có lúc trung gian chiếm dụng vốn nhà sản xuất (như khi trung gian bán hàng
ký gởi, thanh toán chậm,...).
- Trung gian không bán hàng theo quy định của nhà sản xuất: bán không đúng
giá niêm yết, bán hàng quá date...
- Thực hiện chương trình khuyến mãi không trung thực
- Trung gian không trung thành, thích làm đại lý cho nhiều nhà sản xuất (dù điều
này vi phạm hợp đồng)
225
7.1.4.2. Vai trò các trung gian
Tuy trong một số trường hợp, trung gian có gây ra những rắc rối cho nhà sản
xuất, nhưng giới trung gian Marketing, qua những tiếp xúc, kinh nghiệm, sự chuyên
môn hóa và quy mô hoạt động của họ đã đem lại cho nhà sản xuất nhiều điều lợi hơn so
với việc nhà sản xuất tự phân phối. Sử dụng giới trung gian phân phối có thể đem lại
những sự tiết kiệm khá lớn. Cụ thể trung gian giúp doanh nghiệp:
- Trung gian sẽ chịu phần chi phí trong việc bán hàng trực tiếp đến người tiêu
dùng
- Trung gian tạo điều kiện cung ứng sản phẩm bổ sung.
- Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tập trung vào công việc sản xuất
- Trung gian làm giảm số lượng các mối quan hệ, làm tăng hiệu quả phân phối.
Có thể minh họa qua hình 7.1 sau:
Hình 7.1: Sự tiết giảm số lượng mối quan hệ trực tiếp do trung gian đem lại [9]288
7.1.4.3. Tầm quan trọng của trung gian phân phối
- Hỗ trợ nghiên cứu Marketing: Các trung gian phân phối giữ vai trò rất quan
trọng trong nghiên cứu Marketing. Nhờ sự gần gũi với thị trường, họ có khả năng thấu
hiểu rất tốt những đặc trưng và nhu cầu của khách hàng.
- Hỗ trợ các hoạt động chiêu thị của doanh nghiệp: Các nhà sản xuất và nhà
cung cấp dịch vụ thường thực hiện những chiến dịch khuyến mãi trên toàn quốc hoặc
toàn cầu. Những nhà bán luôn hổ trợ những hoạt động khuyến mãi trong khu vực đến
226
các nhà bán lẻ. Hầu hết các nhà bán lẻ thực hiện quảng cáo, kích thích tiêu thụ, truyền
bá các thông tin về sản phẩm tại địa phương, bán hàng cá nhân và tổ chức các sự kiện.
- Ảnh hưởng đến các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp. Khi mua sản phẩm,
các nhà phân phối đôi khi chỉ trả một phần tiền hàng, phần còn lại gối đầu đến khi bán
hết. Những khoản tiền hàng chưa thanh toán hết sẽ ảnh hưởng đến khoản thu tiền mặt
của nhà sản xuất. Những vấn đề thanh toán tiền hàng, trả lại hàng tồn, lỗi thời, hư
hỏng... là những giao dịch phức tạp với trung gian sẽ ảnh hưởng đến mức bán của nhà
sản xuất đến khách hàng.
- Ảnh hưởng đến các quyết định về sản phẩm: Các trung gian phân phối có thể
góp phần hoạch định sản phẩm bằng nhiều cách. Họ thường cho những lời khuyên về
sản phẩm mới hoặc hiện có. Những thử nghiệm của Marketing cũng cần sự hợp tác của
họ. Những nhà trung gian cũng rất hữu dụng trong việc định vị sản phẩm so với cạnh
tranh và trong việc đề nghị những sản phẩm nên loại bỏ.
- Ảnh hưởng đến quyết định về giá: Những nhà bán buôn và bán lẻ thường có
ảnh hưởng lớn đến quyết định về giá. Họ yêu cầu những mức giá ưu đãi. Vì những lý
do tế nhị nên nhà sản xuất bị giới hạn trong việc kiểm soát giá cuối cùng. Trong trường
hợp đó, các trung gian có thể linh động quyết định giá.
- Hỗ trợ nhà sản xuất đáp ứng nhu cầu đa dạng, đơn lẻ của khách hàng: Nhà
sản xuất thường muốn bán một số lượng lớn sản phẩm hơn là giải quyết những đơn
hàng lẻ tẻ của khách hàng. Người tiêu dùng lại thích có nhiều nhãn hiệu, màu sắc, kích
cỡ… để lựa chọn. Nhà sản xuất thích bán sản phẩm tại nơi chế tạo, không sử dụng
nhiều trung gian, trong khi đó các nhà sử dụng công nghiệp lại thích nhân viên thương
mại đến văn phòng của họ, người tiêu dùng cuối cùng thích đến các cửa hàng gần nhà
hoặc những cửa hàng nổi tiếng vào những ngày nghỉ. Để giải quyết những khác biệt
này cần sử dụng trung gian trong tiến trình phân phối bao gồm các công việc như tập
hợp các nguồn hàng, phân chia, phân loại, sắp xếp đồng bộ…
- Cầu nối sản xuất với tiêu dùng: Các thành viên phân phối cần hợp tác trong
ba lĩnh vực chủ yếu là: vận chuyển, quản lý dự trữ và giao dịch với khách hàng. Trung
gian thực hiện dịch vụ chuyển đưa sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Do
227
sản xuất và tiêu dùng có sự cách biệt về không gian, thời gian nên cần quản lý dự trữ
tại các điểm bán. Những giao dịch với khách hàng cũng cần có cửa hàng hoặc điểm
bán, trưng bày, vật dụng trang trí… tại cửa hàng của các trung gian.
7.1.4.4. Chức năng các trung gian
Các trung gian phân phối thực hiện một số chức năng quan trọng như:
- Nghiên cứu Marketing (research): Thu thập thông tin cần thiết để lập kế
hoạch và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi.
- Chiêu thị (promotion): Kích thích tiêu thụ, truyền bá các thông tin về sản
phẩm tại địa phương, bán hàng cá nhân và tổ chức các sự kiện.
- Tiếp xúc (contact): Thiết lập các mối liên hệ, tạo dựng và duy trì mối liên hệ
với khách hàng tiềm năng.
- Làm thích ứng (matching): Trung gian giúp nhà sản xuất hoàn thiện sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu người mua qua các hoạt động: sản xuất, lắp ráp, đóng gói…
- Đàm phán (negotiation): Thương lượng về giá và những điều kiện khác để
thực hiện chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng.
- Tổ chức lưu thông hàng hóa (physical distribution): vận chuyển, bảo quản,
dự trữ hàng hóa.
- Đầu tư (financing): Tìm kiếm và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả.
- Chấp nhận rủi ro (risk taking): Chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh phân
phối.
Như vậy, trung gian giữ vai trò rất quan trọng trong phân phối nhằm thoả mãn
nhu cầu khách hàng bằng cách đưa đúng sản phẩm vào đúng lúc và đúng nơi họ cần.
7.1.4.5. Các loại trung gian
(1) Nhà bán lẻ (Retailers)
Bán lẻ bao gồm nhiều hoạt động kinh doanh liên quan đến bán sản phẩm cho
người tiêu dùng cuối cùng là cá nhân, hộ gia đình để sử dụng sản phẩm cho nhu cầu
của họ. Đây là giai đoạn cuối cùng trong kênh phân phối. Sau bán lẻ, hàng hóa thường
là chấm dứt quá trình lưu thông. Nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà bán buôn cũng có
228
thể tham gia bán lẻ khi họ bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Nhưng
phần lớn bán lẻ và chiếm lĩnh thị trường là do nhà bán lẻ chuyên nghiệp đảm nhận.
Sau khi nhận thông tin về sản phẩm, hầu hết khách hàng bắt đầu đến các cửa
hàng bán, chợ hoặc siêu thị. Do vậy, vị trí cửa hàng, giao hàng, dịch vụ khách hàng…
là những yếu tố quan trọng để hấp dẫn khách hàng đến điểm bán. Người tiêu dùng
thường có nhiều hành vi mua ngoài kế hoạch, do đó những điểm bán lẻ cần đặt ở giao
lộ, trung tâm thương mại, những nơi có nhiều người qua lại, sắp xếp trưng bày bắt mắt,
huấn luyện nhân viên bán về chào mời khách hàng, tài trợ cho các sự kiện… để kích
thích người tiêu dùng.
Các nhà bán lẻ có những chức năng chủ yếu sau:
- Tham gia tiến trình phân phối bằng cách tập hợp và phân loại sản phẩm từ
những nhà cung cấp khác nhau, đồng bộ, sắp xếp sản phẩm để phục vụ nhu cầu phong
phú và đa dạng của khách hàng.
- Cung cấp thông tin cho người tiêu thụ thông qua quảng cáo, trưng bày, nhân
viên bán hàng. Ngoài ra còn hỗ trợ nghiên cứu Marketing, cung cấp thông tin phản hồi
lại cho những thành viên phân phối khác trong kênh.
- Dự trữ sản phẩm, ghi giá, chất xếp và các công việc chăm sóc sản phẩm khác.
- Tạo thuận tiện và hoàn tất những giao dịch bằng cách cung cấp vị trí, giờ giấc
bán hàng, các chính sách tiện dụng và những dịch vụ khác cho khách hàng.
Đặc điểm chính của các nhà bán lẻ:
- Bán hàng với số lượng ít, nhỏ cho người tiêu dùng.
- Số lượng người bán lẻ là rất lớn.
- Người bán lẻ có khả năng giới thiệu và quảng cáo cho sản phẩm rất rộng rãi.
- Có khả năng thỏa mãn được nhu cầu phong phú, đa dạng của người mua về số
lượng, chủng loại, thời gian. Người bán lẻ nhanh chóng nắm bắt và dễ dàng đáp ứng
những thay đổi của nhu cầu thị trường.
- Việc bán lẻ có thể thực hiện qua nhân viên, đường bưu điện, điện thoại, máy
bán lẻ trong các cửa hiệu, hay bán tận nhà. Tại Việt Nam hiện nay kênh bán lẻ quan
229
trọng nhất là các siêu thị, xu hướng mua hàng tiêu dùng dịch chuyển từ chợ sang các
siêu thị vì mức sống người dân ngày càng cao.
Một số hình thức hoạt động của các cửa hàng bán lẻ:
Hoạt động bán lẻ rất đa dạng về quy mô và hình thức từ những người bán hàng
rong đến các cửa hàng và siêu thị và ngày càng xuất hiện nhiều cách bán hàng mới. Xin
giới thiệu một số hình thức của hàng bán lẻ phổ biến:
- Cửa hàng bán lẻ độc lập (Independent Retailer): là các cửa hàng bán lẻ hoạt
động không phụ thuộc nhau.
- Hệ thống bán lẻ (Retail Chain): có nhiều đầu mối bán lẻ có chung sở hữu và
được tiêu chuẩn hoá, chuyên môn hóa và chung hệ thống kiểm soát.
- Bán lẻ nhượng quyền (Retail Franchising): sự hợp tác giữa nhà nhượng
quyền (nhà sản xuất, nhà bán buôn, nhà cung cấp dịch vụ) và nhà bán lẻ để cho phép
nhà bán lẻ kinh doanh với tên hiệu và quy tắc riêng biệt. (xem thêm chương 4, mục 7.
Nhượng quyền thương hiệu-franchise)
- Hợp tác bán lẻ (Retail Cooperative): một số cửa hàng bán lẻ liên kết để chia