Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 1/57 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 04/2018 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU Trung Quốc tìm ra phương pháp chữa bệnh mù từ vàng và titanium Một phương pháp điều trị mới đầy hứa hẹn đối với tổn thương tủy sống Công cụ quang học phát hiện những thay đổi về chuyển hóa do bệnh tật Quy trình sản xuất mới giúp loại bỏ tình trạng tử vong do sốt rét Hệ thống hydrogel mới giúp xương mau lành Thử nghiệm thành công nanorobot tiêu diệt ung thư Sử dụng phương pháp tạo ảnh tế bào đơn và mô hình toán học để xác định các đặc tính hữu hiệu của thuốc Bộ cảm biến gắn trên răng giúp theo dõi chế độ ăn uống Keo hydrogel mới gắn kết các mô thậm chí khi có máu Bộ lọc mới cải thiện chất lượng nước uống Khám phá mới giúp kéo dài tuổi thọ pin và tăng độ an toàn khi sử dụng Tấm nano oxit graphene có thể giúp đưa pin litinum-metal ra thị trường Nghiên cứu các chất xúc tác graphene phát hiện thấy kim loại trong các chất xúc tác “phi kim” Viên nang graphene sẽ bón phân cho cây theo giờ Kỹ thuật biến đổi gen có thể giúp tiết kiệm 25% lượng nước cho cây trồng Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các rễ cây thực vật có thể chống lại sự ấm lên toàn cầu Lớp phủ siêu mỏng tạo ra kính thông minh Phễu thu ánh nắng mặt trời từ mọi hướng Kỹ thuật khâu nối mạng lưới nguyên tử Phát triển thành công thiết bị chuyển đổi nhiệt cho các thiết bị điện tử Khai thác chất thải điện tử dư thừa để thu hồi polyme chất lượng cao Tái sử dụng nhựa để xử lý chất thải Gỗ nano có thể giảm phát thải cacbon B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM 1-0018305 Dược phẩm chứa corticosteroit giải phóng có kiểm soát để điều trị rối loạn liên quan đến tai 1-0018317 Hợp chất catecholamin và dược phẩm chứa nó 1-0018324 Hợp chất quinoxalin vòng lớn dùng làm chất ức chế NS3 proteaza của virut viêm gan C và dược phẩm chứa hợp chất này 1-0018327 Hợp chất ức chế protein kinaza và dược phẩm chứa hợp chất này
57
Embed
BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 1/57
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 04/2018
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Trung Quốc tìm ra phương pháp chữa
bệnh mù từ vàng và titanium
Một phương pháp điều trị mới đầy hứa
hẹn đối với tổn thương tủy sống
Công cụ quang học phát hiện những thay
đổi về chuyển hóa do bệnh tật
Quy trình sản xuất mới giúp loại bỏ tình
trạng tử vong do sốt rét
Hệ thống hydrogel mới giúp xương mau
lành
Thử nghiệm thành công nanorobot tiêu
diệt ung thư
Sử dụng phương pháp tạo ảnh tế bào đơn
và mô hình toán học để xác định các đặc
tính hữu hiệu của thuốc
Bộ cảm biến gắn trên răng giúp theo dõi
chế độ ăn uống
Keo hydrogel mới gắn kết các mô thậm
chí khi có máu
Bộ lọc mới cải thiện chất lượng nước
uống
Khám phá mới giúp kéo dài tuổi thọ pin
và tăng độ an toàn khi sử dụng
Tấm nano oxit graphene có thể giúp đưa
pin litinum-metal ra thị trường
Nghiên cứu các chất xúc tác graphene
phát hiện thấy kim loại trong các chất xúc
tác “phi kim”
Viên nang graphene sẽ bón phân cho cây
theo giờ
Kỹ thuật biến đổi gen có thể giúp tiết
kiệm 25% lượng nước cho cây trồng
Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn
gốc từ các rễ cây thực vật có thể chống lại
sự ấm lên toàn cầu
Lớp phủ siêu mỏng tạo ra kính thông
minh
Phễu thu ánh nắng mặt trời từ mọi hướng
Kỹ thuật khâu nối mạng lưới nguyên tử
Phát triển thành công thiết bị chuyển đổi
nhiệt cho các thiết bị điện tử
Khai thác chất thải điện tử dư thừa để thu
hồi polyme chất lượng cao
Tái sử dụng nhựa để xử lý chất thải
Gỗ nano có thể giảm phát thải cacbon
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0018305 Dược phẩm chứa corticosteroit
giải phóng có kiểm soát để
điều trị rối loạn liên quan đến tai
1-0018317 Hợp chất catecholamin và
dược phẩm chứa nó
1-0018324 Hợp chất quinoxalin vòng lớn
dùng làm chất ức chế NS3 proteaza của
virut viêm gan C và dược phẩm chứa hợp
chất này
1-0018327 Hợp chất ức chế protein kinaza
và dược phẩm chứa hợp chất này
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 2/57
1-0018368 Hợp chất có bốn vòng và dược
phẩm chứa hợp chất này
1-0018370 Hợp chất 4-(4-xyano-2-
thioaryl)dihydropyrimidinon, quy trình
điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này
1-0018371 Hợp chất 5,6-đihyđro-
imiđazo[1,2-a]pyrazin-8-ylamin hữu dụng
làm chất ức chế beta-secretaza (BACE),
dược phẩm chứa hợp chất này và
quy trình bào chế dược phẩm này
1-0018284 Dược phẩm chứa prasugrel và
quy trình bào chế dược phẩm này
1-0018278 Phương pháp sản xuất viên
nén nền sáp chứa kali xitrat
giải phóng kéo dài
1-0018417 Hợp chất indazol được thế
bằng amit dùng làm chất ức chế
poly(ADP-riboza)polymeraza (PARP) và
dược phẩm chứa hợp chất này
1-0018422 Hợp chất uraxil hoặc thymin
và dược phẩm chứa hợp chất này
1-0018456 Hợp chất etynyl dùng làm chất
điều biến biến cấu dương của thụ thể
glutamat hướng chuyển hóa kiểu phụ 5
(mGluR5), quy trình điều chế và dược
phẩm chứa chúng
1-0018457 Hợp chất betulin và dược
phẩm chứa nó
1-0018473 Hợp chất anamorelin
hyđroclorua tách được ở dạng rắn, dược
phẩm chứa hợp chất này và phương pháp
bào chế dược phẩm dạng liều
1-0018496 Hợp chất pyridin dạng vòng
đơn và dược phẩm chứa nó
1-0018310 Hợp chất lipit, chế phẩm và
dược phẩm chứa hợp chất lipit này và
phương pháp điều chế hợp chất lipit này
1-0018449 Hợp chất Nalmefene
hydroclorua dihydrat, phương pháp điều
chế hợp chất này và dược phẩm chứa hợp
chất này
1-0018481 Hợp chất chứa mesogen,
polyme, chế phẩm tinh thể lỏng và vật
phẩm chứa hợp chất này và phương pháp
chế tạo bộ phận dùng cho mắt
1-0018468 Chế phẩm diệt khuẩn
1-0018469 Hợp chất diệt nấm và dược
phẩm chứa hợp chất này
1-0018517 Chế phẩm bảo quản hồng cầu
1-0018192 Thiết bị cầm tay sử dụng điện
để điều trị da
1-0018133 Chỉ khâu không thắt nút
1-0018493 Kháng thể đặc hiệu kép, hoá
trị hai và phương pháp sản xuất kháng thể
này
1-0018319 Kháng thể đặc hiệu kép liên
kết với IL-4 và IL-13 và dược phẩm chứa
kháng thể này
1-0018369 Kháng thể kháng CD79b, thể
tiếp hợp miễn dịch và dược phẩm chứa
kháng thể này
1-0018421 Kháng thể của người liên kết
với phối tử giống delta 4 của người, phân
tử axit nucleic mã hóa kháng thể này và
dược phẩm chứa kháng thể này
1-0018419 Phương pháp tổng hợp và tinh
chế hợp chất heteroaryl
1-0018454 Chất ức chế Janus kinaza 2
(JAK2) và dược phẩm chứa nó để điều
trị bệnh tăng sinh tủy xương và bệnh ung
thư
1-0018466 Dược phẩm dạng liều rắn chứa
olmesartan medoxomil và amlodipin
1-0018535 Polypeptit được phân lập và
dược phẩm chứa polypeptit này để điều trị
tình trạng rối loạn trao đổi chất
1-0018396 Quy trình điều chế canxi
cacbonat đã được xử lý bề mặt
1-0018122 Sản phẩm sữa có hàm lượng
calo thấp và phương pháp sản xuất sản
phẩm sữa này
1-0018292 Chế phẩm chất xơ ăn được có
nguồn gốc từ bột sắn và thực phẩm chứa
chế phẩm này
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 3/57
1-0018267 Chế phẩm sacaroza chịu nén
dạng bột và quy trình sản xuất chế phẩm
này
1-0018423 Chế phẩm tăng vị umami,
phân đoạn có hoạt tính umami,
phương pháp điều chế phân đoạn này và
thực phẩm chứa chúng
1-0018215 Chế phẩm thơm, sản phẩm tiêu
dùng chứa chế phẩm thơm và phương
pháp tăng tuổi thọ của sản phẩm chứa chế
phẩm thơm này
1-0018407 Chế phẩm trừ dịch hại
1-0018409 Chế phẩm trừ dịch hại và
phương pháp phòng trừ dịch hại
1-0018424 Chế phẩm diệt nấm và/hoặc
diệt côn trùng, phương pháp phòng
trừ mầm bệnh ở cây và/hoặc loài gây hại
và phương pháp xử lý hạt giống
1-0018145 Quy trình xử lý nước thải
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Trung Quốc tìm ra phương pháp chữa bệnh mù từ vàng và titanium
Mới đây, các nhà nghiên cứu thuộc
trường Đại học Fudan và Đại học Khoa học
và Công nghệ Trung Quốc đã tìm ra phương
pháp chữa mù bằng vàng và titanium.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 4/57
Trong nhiều năm qua, các nhà khoa
học đã nổ lực tìm cách khôi phục thị lực về
trạng thái ban đầu cho những bệnh nhân mắt.
Nhờ vào công nghệ phát triển nên đã đạt được
một số thành tựu nhất định như phương pháp
đảo ngược quá trình thoái hóa võng mạc được
thực hiện thành công hay phát minh ra mắt
điện tử sinh học Bionic. Bên cạnh đó, Cục
quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ
(FDA) đã chấp thuận liệu pháp chữa mù bằng
tế bào gốc cho người. Và mới đây nhất, các
nhà nghiên cứu của trường Đại học Fudan và
Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc
đã tìm ra phương pháp chữa mù bằng vàng và
titanium.
Được công bố trên tạp chí Nature
Communications, nhóm nghiên cứu cho biết
phương pháp này có thể khôi phục thành công
thị lực của chuột. Cụ thể, các nhà khoa học đã
thay thế các tế bào thụ cảm bị hỏng bằng bộ
phận nhận ánh sáng nhân tạo được làm từ
titanium dioxide và các dây nano vàng.
Để có thể kiểm tra tính hiệu quả của
thụ thể nhân tạo, các nhà khoa học đã biến
đổi tế bào gốc của những chú chuột tham gia
thí nghiệm để các thụ thể tự nhiên thoái hóa
đi. Sau đó, họ tiến hành cấy ghép và quan sát
kỹ lưỡng phản ứng của chuột khi gặp ánh
sáng màu xanh lá, xanh dương và tia cực tím.
Lúc này, đồng tử chuột giãn ra, xác nhận các
thụ cảm quang học mới đang hoạt động và
phản hồi lại với ánh sáng đang chiếu. Sau tám
tuần hậu phẫu thuật, không có bất kỳ con
chuột nào có những biểu hiện tiêu cực hay tổn
thương do không tương thích với cơ quan mới
được ghép.
Hiện kết quả đang rất khả quan tuy
nhiên vẫn chưa mang lại cho các nhà nghiên
cứu những gì họ muốn biết. Bởi khó có thể
xác định được tầm nhìn mà chuột có được sau
khi được cấy ghép là ra sao. Hơn nữa, các cơ
quan thay thế vẫn chưa chắc khôi phục được
hoàn toàn khả năng nhìn thấy đầy đủ các màu
mà mắt tự nhiên có thể nhìn thấy được. Có lẽ
đây không phải là mối quan tâm lớn đối với
một số người khiếm thị vì với họ thấy được
ánh sáng đã là hạnh phúc rồi, nhưng đồng
thời là dấu hiệu cho thấy nhóm nghiên cứu
cần phải làm nhiều việc hơn nữa để cải thiện
nó nhằm có thể ứng dụng vào điều trị nhiều
căn bệnh mắt khác như viêm võng mạc sắc tố
(RP) và thái hóa điểm vàng.
Viện mắt Hoa Kỳ thống kể cứ 4000
người trên toàn thế giới sẽ có 1 người bị ảnh
hưởng bởi chứng RP trong khi nhiều người
60 tuổi trở lên có nguy cơ cao bị thái hóa
điểm vàng, và nếu hút thuốc thường xuyên
nguy cơ ấy sẽ tăng lên gấp đôi. Dường như
tương lai đang hứa hẹn hơn với sự phát triển
không ngừng trên con đường tìm lại ánh sáng
cho người khiếm thị.
Theo vnreview.vn, 10/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Một phương pháp điều trị mới đầy hứa hẹn đối với tổn thương tủy sống
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 5/57
Các nhà nghiên cứu tại Viện
Karolinska, Thụy Điển, đã có thể cải thiện
phục hồi chức năng sau thương tích tủy sống
ở chuột, mở đường cho các phương pháp điều
trị mới.
Khả năng chữa bệnh của hệ thống thần
kinh trung ương là rất hạn chế, và tổn thương
não hoặc tủy sống thường dẫn đến thâm hụt
chức năng vĩnh viễn.
Giờ đây, các nhà khoa học từ Viện
Karolinska đã báo cáo rằng họ đã tìm ra một
cơ chế quan trọng giải thích tại sao điều này
xảy ra.
Điều gì xảy ra với hệ thần kinh? Sau
một chấn thương hệ thần kinh trung ương,
một loại mô sẹo đặc biệt được hình thành
ngăn cản sự tái sinh. Do đó, chấn thương não
và tủy sống nên thường dẫn đến mất khả năng
hoạt động vĩnh viễn.
Hơn một thế kỷ trước, người ta nhận ra
rằng các sợi thần kinh của hệ thần kinh trung
ương không phát triển qua các mô sẹo tạo
thành tổn thương.
Mô sẹo này là một lưới phức tạp của
các loại tế bào và các phân tử khác nhau, và
không rõ chính xác các mô sẹo phong bế việc
tái phát triển sợi thần kinh như thế nào.
Sau khi nghiên cứu chuột bị tổn
thương tủy sống, các nhà nghiên cứu đã xác
định được một cơ chế quan trọng đằng sau sự
ức chế tái tạo sợi thần kinh.
Christian Goritz, phó giáo sư ở Khoa
Sinh học Phân tử và Tế bào, cho biết: "Những
phát hiện của chúng tôi đưa ra một giải thích
quan trọng là tại sao sự phục hồi chức năng
do tổn thương hệ thống thần kinh trung ương
lại quá hạn chế”.
Các nhà nghiên cứu ở Karolinska tìm
thấy lời giải thích nằm trong một số lượng
nhỏ các tế bào lót các mạch máu dẫn đến một
phần lớn mô sẹo.
Ngăn chặn sự hình thành sẹo bằng các
tế bào liên quan đến mạch máu này cho phép
một số sợi thần kinh phát triển qua tổn thương
và kết nối lại với các tế bào thần kinh khác.
Điều này dẫn đến việc phục hồi chức năng
được cải thiện sau tổn thương tủy sống ở
chuột.
Theo vista.gov.vn, 14/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Công cụ quang học phát hiện những thay đổi về chuyển hóa do bệnh tật
Những thay đổi về chuyển hóa trong tế
bào có thể xuất hiện ở những giai đoạn sớm
của bệnh. Trong hầu hết các trường hợp, khả
năng xác định những tín hiệu đó còn hạn chế,
bởi con người thường phát hiện bệnh chỉ sau
khi bệnh đã gây hậu quả nghiêm trọng. Giờ
đây, một nhóm nghiên cứu do các kỹ sư tại
Trường Kỹ thuật, Đại học Tufts dẫn đầu, đã
phát hiện ra công cụ quang học có thể xác
định quá trình trao đổi chất với độ phân giải
dưới cấp độ tế bào, nhưng không gây xáo trộn
tế bào do chất cản quang hoặc phá hủy chúng
để làm thí nghiệm. Phương pháp này đã được
áp dụng để xác định các tín hiệu chuyển hóa
đặc trưng cho bệnh tiểu đường, ung thư, tim
mạch và bệnh thoái hóa thần kinh. Nghiên
cứu đã được công bố trên tạp chí Science
Advances.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 6/57
Phương pháp mới dựa vào khả năng
phát quang của 2 loại coenzyme chính (phân
tử sinh học hoạt động cùng với các enzyme)
khi có sự kích thích của chùm tia laser. Hai
loại coenzyme này bao gồm nicotinamide
adenine dinucleotide (NADH) và flavin
adenine dinucleotide (FAD), có liên quan đến
số lượng lớn các con đường trao đổi chất
trong mỗi tế bào. Để tìm ra các con đường
trao đổi chất đặc thù do ảnh hưởng của bệnh
tật hoặc áp lực, nhóm nghiên cứu đã xem xét
3 thông số: tỷ lệ FAD/NADH, sự “mờ dần”
mức độ phát quang của NADH và sự sắp xếp
của các ty thể thể hiện sự phân bố của NADH
trong không gian tế bào (năng lượng cấp cho
tế bào).
Thông số đầu tiên (tỷ lệ FAD/NADH)
thể hiện cách tế bào tiêu thụ oxy, chuyển hóa
đường hay sản sinh hoặc phá vỡ các phân tử
chất béo. Thông số thứ hai (sự “mờ dần” mức
độ phát quang của NADH) tiết lộ chi tiết về
môi trường cục bộ của NADH. Thông số thứ
ba (sự phân bố của NADH trong không gian
tế bào) cho thấy cách các ty thể phân tách và
hợp nhất để phản ứng với sự phát triển của tế
bào và áp lực.
Irene Georgakoudi, Giáo sư kỹ thuật y
sinh và là đồng tác giả nghiên cứu cho rằng:
“Cả ba thông số này được kết hợp, sẽ cung
cấp các tín hiệu chuyển hóa đặc thù và duy
nhất về sức khỏe của tế bào hoặc hiện tượng
rối loạn chức năng. Sức mạnh của phương
pháp này là khả năng thu thập thông tin về
các tế bào sống mà không cần dùng chất cản
quang hoặc nhãn dán có thể ảnh hưởng đến
kết quả”.
Những phương pháp hiện có để theo
dõi theo phương thức không xâm lấn các tín
hiệu chuyển hóa do tác động của bệnh tật như
quét PET, thường được sử dụng trong nghiên
cứu. Tuy nhiên, dù kỹ thuật quét PET cung
cấp thông tin có độ phân giải thấp với khả
năng thâm nhập sâu tuyệt vời vào bên trong
các mô sống, nhưng phương pháp quang học
mới phát hiện hoạt động trao đổi chất ở cấp
độ phân giải của các tế bào đơn lẻ và chủ yếu
gần bề mặt.
Điều đó tất nhiên không phải là một
hạn chế. Nhiều bệnh có thể được phát hiện ở
bề mặt của mô như bệnh ung thư, trong khi
nhiều nghiên cứu tiền lâm sàng được thực
hiện trên các mô hình chuột và mô 3 chiều đã
điều chỉnh cũng sẽ được hưởng lợi từ việc
theo dõi một cách không phá hủy. Phương
pháp mới được chứng minh là công cụ nghiên
cứu mạnh mẽ để hiểu những tín hiệu chuyển
hóa của tế bào.
Theo vista.gov.vn, 15/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Quy trình sản xuất mới giúp loại bỏ tình trạng tử vong do sốt rét
Thành phần hoạt tính quan trọng nhất
để bào chế thuốc chống sốt rét hiện có thể
được sản xuất theo cách hiệu quả và thân
thiện hơn với môi trường. Các nhà nghiên
cứu tại Viện Động lực và Hệ thống kỹ thuật
phức tạp Max Planck và Viện Colloid và
Giao diện Max Planck đã đưa ra một phương
pháp mới sử dụng các chất từ chất thải thực
vật để tạo ra artemisinin. Artemisinin là thành
phần chính của loại thuốc sốt rét hiệu quả
nhất và nghiên cứu cũng được thực hiện về
tiềm năng sử dụng loại thuốc này trong điều
trị ung thư. Quy trình mới có thể được công
nghiệp hóa trên quy mô lớn, hứa hẹn thúc đẩy
hoạt động sản xuất chi phí thấp.
Mỗi năm, 650.000 người chết vì sốt
rét, trong số đó có gần 600.000 trẻ dưới 5
tuổi, dù trên thực tế bệnh đã được điều trị
bằng thuốc. Tuy nhiên, thuốc chống sốt rét
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 7/57
hiệu quả này cho đến nay vẫn chưa phù hợp
với nhiều người, nhưng mọi thứ đang bắt đầu
thay đổi. Peter H. Seeberger, Giám đốc Ban
Hệ thống vi phân tử tại Viện Colloid và Giao
diện Max Planck và là đồng tác giả nghiên
cứu cho biết: “Đột phá của chúng tôi trong
việc sản xuất artemisinin có tiềm năng cứu
sống hàng triệu người nhờ giảm giá thành
của thuốc sốt rét và tăng khả năng tiếp cận
trên toàn cầu”.
Thời gian chuyển đổi từ các thành
phần thực vật thành artemisinin chỉ mất 15
phút
Năm 2012, các nhà nghiên cứu tại
Viện Colloid và Giao diện Max Planck đã thu
hút sự quan tâm của quốc tế khi đưa ra một
phương pháp đơn giản để sản xuất
artemisinin. Thành phần hoạt tính này trước
đây được tách từ cây ngải (Artemisia annua).
Vào thời điểm đó, các nhà nghiên cứu tại
Viện Max Planck đã sản xuất thành công hoạt
tính từ tiền chất sinh học axit
dihydroartemisinic, được xem là sản phẩm
thải loại. Hơn nữa, quy trình được các nhà
khoa học áp dụng là liên tục và có thể được
thực hiện trên quy mô công nghiệp.
Nhóm nghiên cứu đứng đầu là Kerry
Gilmore, nhà khoa học thuộc Viện Colloid và
Giao diện Max Planck hiện đã cải tiến mạnh
mẽ quy trình. Vật liệu thực vật không cần
được xử lý bằng quy trình làm sạch phức tạp.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn sử dụng
chất diệp lục riêng của thực vật làm chất xúc
tác để tổng hợp artemisinin, trong khi đó,
trước đây cần phải có các chất kích hoạt
quang học giá cao và gây hại cho môi trường.
Các nhà khoa học hiện cung cấp một dung
dịch bao gồm các thành phần được chiết tách
trực tiếp từ thực vật, cho quy trình sản xuất
liên tục. Vì thế, quy trình diễn ra chưa đầy 15
phút, mà trong các điều kiện tự nhiên, thực
vật phải mất khoảng 3 tuần mới làm được
điều đó. Phương pháp này hiệu quả đến mức
có thể xử lý 50-100 lần nồng độ tự nhiên của
axit dihydroartemisinic.
Triển vọng mới cho thuốc được bào
chế theo cách tương tự
Quy trình sản xuất hóa học mới là ví
dụ đầu tiên của phương pháp, qua đó, nguyên
liệu để sản xuất thuốc hoặc hợp chất thiên
nhiên không phải là thứ duy nhất được chiết
xuất từ thực vật. Chất xúc tác, cụ thể là công
cụ thúc đẩy phản ứng hóa học diễn ra, cũng
trực tiếp bắt nguồn từ thực vật. Peter
H.Seeberger cho biết: “Quy trình tổng hợp
sản phẩm tự nhiên của chúng tôi là bước đột
phá về chi phí thấp, hiệu quả và thân thiện
với môi trường. Quy trình này không chỉ mở
ra triển vọng bào chế các loại thuốc khác
theo phương thức tương tự, mà còn tạo cơ hội
để làm biến đổi ngành công nghiệp chống sốt
rét”.
Quy trình sản xuất artemisinin hiện
đang được triển khai trên quy mô công nghiệp
bởi công ty phái sinh ArtemiFlow do các nhà
nghiên cứu Peter H. Seeberger and Kerry
Gilmore tại Viện Max Planck sáng lập. Bên
cạnh đó, nhóm nghiên cứu đang thương thảo
với nhiều đối tác tiềm năng như Quỹ Bill &
Melinda Gates để nhiều bệnh nhân sốt rét sẽ
sớm được điều trị bệnh bằng loại thuốc hiệu
quả.
Theo vista.gov.vn, 20/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Hệ thống hydrogel mới giúp xương mau lành
Nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Y tế
thuộc trường Đại học Connecticut đã thiết kế
được một hệ thống hydrogel hybrid mới giúp
giải quyết một số thách thức trong việc phục
hồi xương bị tổn thương. Kết quả nghiên cứu
đã được công bố trên Tạp chí Biomedical
Materials Research-Part B.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 8/57
Bộ xương người trưởng thành bao gồm
200 xương, dài từ vài milimét đến hơn 30cm.
Cách xương hình thành và lành lại sau tổn
thương, đặt ra thách thức cho các nhà nghiên
cứu trong lĩnh vực y học tái tạo. Hai quá trình
liên quan đến sự phát triển của xương người
giúp tất cả các loại xương trong cơ thể hình
thành và phát triển, bao gồm quá trình tạo
xương trong nội màng (IO) và cốt hóa nội sụn
(EO). Dù cả hai quá trình này đều quan trọng,
nhưng IO là quá trình chịu trách nhiệm tạo
thành xương phẳng và EO là quá trình tạo nên
xương dài như xương sống và xương cánh
tay.
Trong hai quá trình này cần có các tế
bào gốc trung mô để kích thích sự phát triển
của xương mới. Dù giống nhau, nhưng quá
trình IO rất dễ mô phỏng trong phòng thí
nghiệm vì các tế bào gốc trung mô có thể trực
tiếp chuyển đổi thành các tế bào tạo xương
mà không cần các bước bổ sung. Tuy nhiên,
sự đơn giản này lại có những hạn chế nhất
định. Để giải quyết vấn đề liên quan đến quá
trình IO, nhóm nghiên cứu đã phát triển chất
nền ngoại bào sử dụng hydrogel để định
hướng và hỗ trợ sự hình thành của xương
thông qua quá trình EO.
Syam Nukavarapu, Phó giáo sư phẫu
thuật chỉnh hình cho biết: “Cho đến nay, rất ít
nghiên cứu tập trung thiết kế chất nền cho
quá trình cốt hóa nội sụn để tái tạo và phục
hồi xương dài. Bằng cách kết hợp phát triển
hydrogel hybrid, chúng tôi có thể tạo nên
chất nền ngoại bào hỗ trợ sự hình thành của
mẫu sụn”.
Trong khi tính đơn giản của quá trình
IO là hạn chế, thì lợi ích của EO lại mang đến
sự cân bằng. EO đòi hỏi sự phối hợp theo
không gian và thời gian của các yếu tố khác
nhau như các tế bào, yếu tố tăng trưởng và
chất nền ngoại bào hoặc khung trên đó các tế
bào gốc trung mô gắn kết, phát triển và biệt
hóa.
Để tạo sự cân bằng, nhóm nghiên cứu
đã kết hợp 2 chất: fibrin và hyaluronan để
kích thích tái tạo mô và tạo nên chất ngoại
bào có tác dụng hình thành xương dài. Gel
fibrin mô phỏng tế bào gốc trung mô ở người
và thúc đẩy sự kết hợp giữa các tế bào, đòi
hỏi phải có sự biệt hóa tế bào gốc trung mô
thành tế bào tạo sụn. Hyaluronan là loại
polymer sinh học tự nhiên, mô phỏng các giai
đoạn sau của quá trình, qua đó, các tế bào tạo
sụn biệt hóa sinh trưởng và phát triển.
Theo dự báo, các mẫu sụn chứa tế bào
sụn phì đại sẽ giải phóng các yếu tố tạo thành
xương và mạch, cũng như sẽ thúc đẩy sự phát
triển của xương. PGS. Nukavarapu cho rằng
sử dụng chất nền của mẫu sụn sẽ dẫn đến khả
năng phát triển các chiến lược phục hồi
xương mới không liên quan đến các yếu tố
tăng trưởng gây hại.
Nhóm nghiên cứu dự kiến sẽ kết hợp
chất ngoại bào hybrid có khung chịu lực để
phát triển các mẫu sụn phù hợp phục vụ việc
điều chỉnh khiếm khuyến xương dài. Các nhà
nghiên cứu hy vọng đây là bước tiến đầu tiên
hướng tới cho ra đời những mẫu sụn phì đại
với các thành phần phù hợp để kích thích sự
hình thành của mô xương, tạo mạch, sửa đổi
và cuối cùng thiết lập chức năng của tủy
xương để sửa chữa các khiếm khuyết của
xương dài nhờ có quá trình EO.
Theo vista.gov.vn, 20/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 9/57
Lập mô hình mô 3D về sự phát triển của tim người
Các nhà khoa học tại trường Đại học
Syracuse, Hoa Kỳ đã nghiên cứu tế bào gốc
đa năng ở người để tìm hiểu khả năng tái tạo
mô, thuốc tái tạo mô và kỹ thuật tế bào gốc.
Các tế bào gốc đa năng có thể được sử dụng
để tạo ra mô tim, nhưng nhóm nghiên cứu tin
rằng sẽ còn có nhiều ứng dụng khác nữa.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí
Nature Protocols vào tháng 3/2018.
Zhen Ma, Giáo sư kỹ thuật Y sinh và
là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Chúng
tôi có thể tái định hình tim phát triển ở giai
đoạn đầu trong phòng thí nghiệm. Đó là sự
mô phỏng giai đoạn sớm của quá trình hình
thành phôi thai - cách tim được hình thành”.
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng được
quy trình kết hợp tạo mẫu tế bào từ vật liệu
sinh học và công nghệ tế bào gốc để lập mô
hình mô 3D mô phỏng sự phát triển của tim
người ở giai đoạn đầu. Nhờ có một lớp
polymer trong đĩa nuôi cấy mô và thao tác
khắc các mẫu nhỏ trong polymer, các tế bào
gốc sẽ chỉ gắn kết bên trong những mô hình
đó. Vì các tế bào gốc không liên kết với
polymer, nên chúng phát triển trong các mô
hình và cuối cùng tạo nên cấu trúc 3D gồm có
ba loại mô khác biệt. Quy trình này tập trung
vào mô tim nhưng cũng có thể áp dụng cho
các loại mô khác. Nền tảng này cho phép mô
hình thành trong quá trình biệt hóa tế bào mà
không phải từ các tế bào tim có sẵn. Mô tạo
thành gồm có nhiều lớp và thể hiện cụ thể
hơn cách mô phát triển theo cách tự nhiên ở
người.
Plansky Hoang, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: “Chúng tôi sử dụng các dòng tế
bào của người, nên biết chúng sẽ ảnh hưởng
đến mô người theo cách nhất định trái ngược
với sự bất ổn xuất hiện khi sử dụng mô hình
động vật”.
Một số phụ nữ mang thai tránh không
dùng loại thuốc họ cần uống để kiểm soát
bệnh mãn tính, nhưng nếu sức khỏe của bà
bầu không tốt cũng sẽ ảnh hưởng đến em bé.
Các kết quả thử nghiệm xác thực sẽ tạo lòng
tin cho bệnh nhân và bác sỹ.
Xác định độc tính gây ra cho phôi thai
chỉ là một ứng dụng tiềm năng của mô hình
do nhóm nghiên cứu tại trường Đại học
Syracuse phát triển. Vô số các mô khác ở
người cũng có thể được nuôi cấy bằng quy
trình này. Quy trình cũng cho phép xét
nghiệm độc tính thuốc trên người. Người
bệnh có những phản ứng khác nhau với cùng
một loại thuốc nhưng xét nghiệm riêng biệt
sử dụng các tế bào gốc ở người có thể xác
định mức độ an toàn của thuốc trước khi
người bệnh sử dụng.
Hoang cho rằng: “Đối với phương
pháp sàng lọc truyền thống, các bác sỹ sẽ
xem xét tiểu sử của bệnh nhân và sau đó, cho
người bệnh dùng thử thuốc trong vòng 1 hoặc
2 tháng và đánh giá phản ứng. Tuy nhiên, khi
sử dụng mô hình mới, có thể thử nghiệm cùng
lúc nhiều loại thuốc để xác định tác dụng của
thuốc đối với người bệnh mà không phải thực
hiện những xét nghiệm riêng rẽ mất nhiều
thời gian”.
Theo vista.gov.vn, 28/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Thử nghiệm thành công nanorobot tiêu diệt ung thư
Mỗi nanorobot đều rất nhỏ, không thể
nhìn thấy bằng mắt thường và có thể đi xuyên
qua máu để tìm các khối u.
Theo một công bố được đăng trên tạp
chí Nature Biotechnology vừa qua, các nhà
khoa học ở Trung tâm Khoa học và công
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 10/57
nghệ nano quốc gia Trung Quốc đã phát triển
và thử nghiệm thành công loại nanorobot
ADN đầu tiên trên thế giới để chống lại các
khối u ác tính.
Các nanorobot có kích thước rất nhỏ, nhỏ hơn 5.000 lần đầu mũi kim
Các nhà nghiên cứu của Trung tâm cho
biết, nanorobot có kích thước nhỏ hơn 5.000
lần đầu mũi kim và không thể nhìn thấy được
bằng mắt thường.
Các nhà khoa học đã thử nghiệm
nanorobot trong ống nghiệm và mới đây nhất
đã lần đầu tiên thực hiện trên cơ thể sống -
một chú chuột.
Các thử nghiệm cho thấy các
nanorobot có thể đi qua máu để tìm các khối
u. Khi phát hiện ra khối u, chúng sẽ giải
phóng lượng thrombin vào khối u để cắt đứt
nguồn cung cấp máu nhằm “bỏ đói” khối u
cho đến chết. Sau đó, khối u sẽ tự hủy sau
một vài tuần, thậm chí một vài ngày.
Ngoài ra, để kiểm tra độ an toàn của
nanorobot, các nhà khoa học còn cẩn thận thử
nghiệm chúng trên cả loài lợn nhỏ có có cấu
tạo sinh lý và giải phẫu giống với người.
Khác với hóa trị và xạ trị, nanorobot ADN có
thể tiêu diệt khối u ác tính mà không gây tổn
thương các mô khoẻ xung quanh, không tích
tụ lại trong não và như vậy không gây nguy
cơ đột quỵ.
Nhờ được làm bằng vật liệu tự nhiên
nên nanorobot sẽ được thải ra khỏi cơ thể sau
khi đã hoàn thành nhiệm vụ.
Hiện các nhà khoa học đang nghiên
cứu tiền lâm sàng và hy vọng sớm áp dụng
công nghệ này.
Theo baochinhphu.vn, 13/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Các hạt nano oxit vonfram có tác dụng diệt tế bào ung thư
Các hạt nano oxit vonfram có tính sát khuẩn, đồng thời độc hại đối với các tế bào ung thư -
Ảnh: Global Look Press
Các nhà nghiên cứu Nga cùng với các
đồng nghiệp Ukraine đã tạo được các hạt
nano oxit vonfram và nhận thấy các hạt đó có
nhiều ứng dụng, đặc biệt có thể dùng để điều
trị ung thư.
Theo bài báo khoa học được công bố
trên tạp chí Journal of Photochemistry and
Photobiology, các nhà nghiên cứu Nga cùng
với các đồng nghiệp Ukraine đã tạo được các
hạt nano oxit vonfram và nhận thấy các hạt
đó có nhiều ứng dụng, đặc biệt có thể dùng để
điều trị ung thư. Oxit vonfram có nhiều đặc
tính thú vị. Đặc biệt, đó là một chất khử trùng
tốt, nhất là khi tiếp xúc với ánh sáng. Thậm
chí ngày nay nó vẫn được sử dụng để khử
trùng nước thải.
Các hạt oxit vonfram càng có diện tích
bề mặt lớn thì càng kháng khuẩn mạnh. Do
đó, điều quan trọng là để có được các hạt
nano có diện tích bề mặt tối đa với trọng
lượng được xác định.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu đặc
tính vật lý và hóa học của các hạt oxit
vonfram. Đặc biệt, họ đã chứng minh rằng
các hạt đó có thuộc tính xúc tác quang học
khi được chiếu sáng và đặc biệt khi chiếu với
ánh sáng cực tím. Họ đã nghiên cứu ảnh
hưởng của các hạt nano oxit vonfram tới vi
khuẩn, nấm và các tế bào động vật có vú .
Trong các thử nghiệm, các nhà khoa
học đã xử lý các tế bào bằng các hạt nano oxit
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 11/57
vonfram ở nồng độ khác nhau và sau đó thay
đổi thời gian chiếu xạ bằng ánh sáng cực tím.
Sau đó, họ được đánh giá các chỉ số sống sót
của các tế bào, kể cả tỷ lệ sinh sôi nảy nở.
Hóa ra, oxit vonfram độc hại đối với tất cả
các loại tế bào, nhưng khác nhau về nồng độ
nguy hiểm. Liều gây tử vong cho vi khuẩn lại
an toàn với các tế bào chuột thử nghiệm.
Đáng chú ý, các hạt nano oxit vonfram
độc hại đối với các tế bào ung thư. Tuy nhiên
các hạt đó cũng có thể được sử dụng như một
tác nhân tương phản khi chụp cắt lớp vi tính.
Đặc biệt, có thể sử dụng các hạt đó trong chẩn
đoán trị liệu (theranostics) - một cách tiếp cận
y tế mới, khi công cụ chẩn đoán sớm đồng
thời cũng là một phương tiện điều trị.
Theo motthegioi.vn, 23/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Gel ngăn chặn ung thư tái phát
Nghiên cứu đột phá đã cho thấy một
chiến lược đầy hứa hẹn để ngăn chặn sự tái
phát của bệnh ung thư dưới dạng gel tự tiêu.
Các nhà nghiên cứu đã phát triển một loại gel có
thể giúp ngăn chặn ung thư tái phát và di căn
Được tạo ra bởi các nhà khoa học tại
Viện Ung thư Dana-Farber ở Boston, MA, gel
được thiết kế để đưa liệu pháp miễn dịch trực
tiếp tới vùng mà khối u ung thư đã được phẫu
thuật cắt bỏ.
Khi thử nghiệm gel trên chuột trong
quá trình phẫu thuật cắt bỏ khối u ung thư vú,
các nhà nghiên cứu thấy rằng nó không chỉ
giúp ngăn ngừa khối u tái phát ở vị trí ban
đầu, mà còn loại bỏ khối u thứ phát trong
phổi.
TS. Michael Goldberg, Phòng Miễn
dịch ung thư và Vi-rút tại Viện Ung thư
Dana-Farber - và các đồng nghiệp đã báo cáo
kết quả trên tạp chí Science Translational
Medicine.
Theo Hội Ung thư Mỹ (ACS), hơn 1,7
triệu trường hợp ung thư mới sẽ được chẩn
đoán ở nước này vào năm 2018, và hơn
600.000 người sẽ chết vì căn bệnh này.
Đối với khối u ung thư rắn - như ung
thư vú và ung thư phổi - phẫu thuật cắt bỏ
khối u thường là phương án điều trị đầu tiên.
Những vấn đề với liệu pháp miễn dịch
Tuy nhiên, như TS. Goldberg giải
thích, ngay cả khi khối u được loại bỏ, một số
tế bào ung thư có thể vẫn còn lại. Chúng có
thể hình thành các khối u mới, hoặc thậm chí
lan sang các vùng khác của cơ thể - một quá
trình được gọi là di căn.
"Trong khi một nửa số bệnh nhân ung
thư được phẫu thuật để điều trị bệnh, thì 40%
số bệnh nhân này sẽ bị tái phát bệnh trong
vòng 5 năm", TS. Goldberg lưu ý.
"Hơn nữa, quá trình chữa lành vết
thương tự nhiên của cơ thể mà phẫu thuật tạo
ra có thể thúc đẩy những tế bào ung thư còn
sót lại này di căn đến những nơi xa của cơ thể
và tạo thành những khối u mới".
Liệu pháp miễn dịch - bao gồm sử
dụng thuốc để kích thích hệ miễn dịch và tấn
công tế bào ung thư - có thể giúp ngăn ngừa
tái phát ung thư và di căn. Tuy nhiên, việc
điều trị có một số nhược điểm nghiêm trọng.
Một vấn đề chính với liệu pháp miễn
dịch là nó có thể tấn công các tế bào khỏe
mạnh cũng như các tế bào ung thư, làm tăng
sự nhạy cảm của bệnh nhân với các bệnh
khác.
TS. Goldberg cho biết: "Trong nghiên
cứu này, chúng tôi đã tìm cách xác định xem
liệu việc sử dụng các thuốc kích thích miễn
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 12/57
dịch ở đúng chỗ và đúng thời điểm - tại nơi
cắt bỏ khối u, trước khi đóng vết mổ - có thể
làm tăng kết quả liệu pháp miễn dịch ung thư
hay không".
Con đường đến “kích thích miễn dịch”
Các nhà nghiên cứu giải thích rằng khi
khối u ung thư được cắt bỏ, hệ thống miễn
dịch sẽ sử dụng hầu hết các nguồn lực để giúp
liên vết thương, thay vì chiến đấu với bất kỳ
tế bào ung thư nào còn sót lại.
Điều này có thể tạo ra tình trạng gọi là
vi môi trường "ức chế miễn dịch", trong đó
các tế bào ung thư có thể phát triển và lan
rộng.
Như TS. Goldberg giải thích, các nhà
khoa học đã biến đổi vi môi trường ức chế
miễn dịch này thành dạng gọi là "kích thích
miễn dịch " - nghĩa là có thể tấn công và phá
huỷ các tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu
thuật.
Để đạt được kết quả này, các nhà
nghiên cứu đã chế tạo một loại hydrogel chứa
thuốc kích thích các tế bào đuôi gai, những tế
bào miễn dịch tham gia trong đáp ứng miễn
dịch ban đầu. Chúng "trình diện" bất kỳ tác
nhân xâm nhập hoặc tế bào bệnh - như tế bào
ung thư - cho các tế bào T, phát động cuộc
tấn công.
Gel – chứa một loại đường tự nhiên có
trong cơ thể người, khiến nó tự tiêu - được đặt
vào vị trí khối u đã được phẫu thuật cắt bỏ.
Gel sau đó sẽ dần dần giải phóng các thuốc
trong một thời gian dài, làm tăng hiệu quả của
nó.
Kết quả “đáng phấn khởi”
Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm gel ở
những con chuột được phẫu thuật cắt bỏ các
khối u ung thư vú. Nhóm nghiên cứu đã quyết
định sử dụng gel ngay sau khi cắt bỏ khối u,
thay vì trước đó.
TS. Goldberg giải thích: "Chúng tôi đã
lý giải rằng sẽ dễ dàng hơn để loại bỏ một số
nhỏ các tế bào ung thư còn sót lại bằng cách
tạo ra một môi trường kích thích miễn dịch
hơn là điều trị khối u ban đầu còn nguyên
vẹn, có nhiều phương tiện để trốn tránh cuộc
tấn công của hệ miễn dịch".
Vài tháng sau khi phẫu thuật, những
con chuột được điều trị bằng gel ít tái phát
khối u hơn so với những con được điều trị
bằng liệu pháp miễn dịch thông thường.
Khi các nhà nghiên cứu tiêm các tế
bào ung thư vú vào một bên đối diện với nơi
mà khối u ban đầu được cắt bỏ, những chuột
được điều trị bằng gel không có dấu hiệu hình
thành khối u.
Nghiên cứu cũng cho thấy rằng gel
loại bỏ các khối u thứ phát trong phổi của
chuột - nghĩa là nó loại bỏ các khối u phổi
được hình thành từ các tế bào ung thư vú đã
di căn từ vị trí ban đầu.
Các nhà nghiên cứu cũng đã lặp lại
những phát hiện này trên chuột bị ung thư
phổi nguyên phát và u hắc tố ác tính, một
dạng ung thư da chết người.
Dựa trên kết quả nghiên cứu, TS.
Goldberg và các đồng nghiệp tin rằng liệu
pháp miễn dịch dựa trên gel có thể là một
chiến lược điều trị hiệu quả chống lại nhiều
loại ung thư khác nhau.
"Cách tiếp cận này có thể phân phối
liệu pháp miễn dịch theo cách thức tập trung
điều trị vào vị trí quan tâm trong khoảng thời
gian quyết định.
"Chúng tôi cực kỳ phấn khởi trước
những kết quả của nghiên cứu và hy vọng
công nghệ này sẽ được điều chỉnh phù hợp
cho bệnh nhân để thử nghiệm trong các thử
nghiệm lâm sàng trong tương lai không xa",
TS. Goldberg nói.
Theo dantri.com.vn, 27/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 13/57
Sử dụng phương pháp tạo ảnh tế bào đơn và mô hình toán học để xác định các đặc tính hữu hiệu của thuốc
Liệu pháp điều trị bằng thuốc nhắm
đích các phân tử đặc biệt đã làm thay đổi các
phương thức điều trị ung thư và cải thiện tỉ lệ
sống của bệnh nhân rõ rệt. Tuy nhiên, một số
bệnh nhân không đáp ứng với các liệu pháp
điều trị này do thuốc không thể tiếp cận hiệu
quả tới các tế bào ung thư.
Trong một nghiên cứu mới được công
bố trên tạp chí Scientific Reports, các nhà
nghiên cứu tại Trung tâm Ung thư Moffitt đã
kết hợp phương pháp tạo ảnh các tế bào đơn
thuộc các tế bào ung thư ở chuột kết hợp mô
hình toán học để xác định xem xét đặc tính
nào của thuốc là yếu tố quan trọng nhất giúp
hấp thụ thuốc hiệu quả.
Một trong những vấn đề tồn tại của
liệu pháp nhắm mục tiêu là khối u và môi
trường xung quanh của chúng rất phức tạp và
không đồng nhất. Không phải tất cả các tế
bào trong khối u là giống nhau vì vậy chúng
có thể có những biểu hiện khác nhau với các
thụ quan màng nhắm đích dẫn đến sự dung
nạp trở nên không thích nghi và phản ứng
không đồng đều với thuốc nhắm mục tiêu
này. Ngoài ra, môi trường xung quanh khối u
bao gồm nhiều loại tế bào khác nhau với các
tính chất và mật độ khác nhau do dó có thể
tác động đến hiệu quả của thuốc.
Những biến thể này gây khó khăn
trong việc phát triển các loại thuốc nhắm đích
hiệu quả tới tất cả các tế bào trong khối u.
Hơn nữa, sự khác nhau của các tế bào và căn
nguyên có thể khiến cho bệnh nhân không
đáp ứng được với các loại thuốc nhắm địch
này bởi vì một số tế bào khối u không tiếp
xúc hoàn toàn với thuốc và sự phơi nhiễm
không hoàn toàn này có thể làm cho những tế
bào này phát triển kháng thuốc.
Tiến sĩ Kasia A. Rejniak, thành viên
của nhóm nghiên cứu, cho biết: “Thành công
hay thất bại của liệu pháp nhắm đích trên
lâm sàng phụ thuộc lớn vào việc phân tử
thuốc có tiếp cận được tất các các tế bào ung
thư và kết hợp với các mục tiêu phân tử của
chúng để mang lại hiệu quả điệu trị mong
muốn hay không”.
Các phương pháp tiêu chuẩn mà các
nhà khoa học sử dụng để nghiên cứu sự hấp
thu thuốc là dựa trên ý tưởng khối u và môi
trường xung quanh có các đặc tính đồng nhất.
Tuy nhiên, giả định này là không chính xác
và có thể dẫn đến các cách tiếp cận điều trị
hoàn toàn giống nhau.
Nhóm nghiên cứu Moffitt mong muốn
đưa ra được cách tiếp cận khác để nghiên cứu
sự dụng nạp thuốc. Họ sử dụng các mô hình
toán học và công nghệ tạo ảnh để cho phép họ
theo dõi dấu vết và dự đoán khả năng dung
nạp thuốc của một tế bào đơn nào đó. Cùng
với mô hình này, họ so sánh sự khác nhau các
đặc tính của thuốc và đặc điểm khối u để xác
định các điều kiện sẽ dẫn đến một tế bào nào
đó hấp thu thuốc hiệu quả.
Họ khám phá ra rằng lượng thuốc gắn
kết với tế bào nào đó phụ thuộc vào mức độ
thuốc khuếch tán qua mô nhanh hơn là nồng
độ thuốc xâm nhập vào mô. Các thuốc mà
khuếch tán nhanh có khuynh hướng kết dích
hiệu quả với các tế bào nằm xa các mạch
máu. Mặt khác, các thuốc mà khuếch tán
chậm hơn có khuynh hướng gắn kết với các tế
bào ở gần các mạch máu hơn và hữu hiệu hơn
khi các tế bào này được đóng gói. Nhóm
nghiên cứu cũng nhận thấy những loại thuốc
mà được giải phóng ra nhanh có thể liên kết
hiệu quả hơn với các tế bào với các mức độ
phản ứng thuốc khác nhau.
Ngoài ra, các loại thuốc bị khuếch tán
từ từ có khuynh hướng gắn kết với các tế bào
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 14/57
gần với mạch máu và hiệu quả hơn khi các tế
bào được đóng gói chặt chẽ. Các nhà nghiên
cứu cũng cho thấy rằng các loại thuốc được
thải ra nhanh chóng có thể liên kết hiệu quả
hơn với các tế bào với các cấp độ thụ quan
thuốc khác nhau.
Khám phá này cho thấy rằng việc thay
đổi các đặc tính khác nhau của thuốc hoặc
cách phân phối thuốc có thể làm tăng sự vận
chuyển đến các tế bào khối u.
“Ví dụ, để điều trị các tế bào tăng
trưởng nhanh nằm gần mạch máu, các tác
nhân khuếch tán thuốc từ từ sẽ có lợi. Ngược
lại, đối với các tế bào ngủ đông ở các vùng
mạch máu kém, các chất lưu động nhanh cần
ưu tiên, hoặc trong một số bệnh ung thư, tiêm
trực tiếp đến vị trí khối u có thể có lợi”,
Rejniak giải thích.
Cuối cùng, các nhà nghiên cứu hy
vọng rằng cách tiếp cận của họ sẽ được sử
dụng để thiết kế nhiều lựa chọn điều trị cá
nhân hơn cho bệnh nhân ung thư.
Theo vista.gov.vn, 26/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Đầu dò nano hybrid phát hiện tế bào ung thư
Nhóm nghiên cứu tại Trung tâm
Dornsife, Đại học Southern California đã chế
tạo được dầu dò nano hybrid mới có khả năng
phát hiện và điều trị bệnh ung thư theo cách
không xâm lấn ở cấp độ của tế bào đơn lẻ.
Fabien Pinaud, Phó giáo sư về khoa
học sinh học, hóa học và vật lý và là đồng tá
giả nghiên cứu đã đưa ra phương pháp
khuếch đại tín hiệu sinh hóa trên bề mặt của
các tế bào ung thư. Kỹ thuật mới liên kết và
lắp ghép các phân tử hữu cơ vàng trong các tế
bào sống bằng cách sử dụng 2 đoạn protein
huỳnh quang làm “keo phân tử”. Các dầu dò
này hoạt động như bộ khuếch đại, làm tăng
khả năng các nhà nghiên cứu phát hiện ra
những dấu hiệu sinh học khác biệt như những
protein biểu hiện quá mức hoặc đột biến được
phát hiện trong các tế bào ung thư.
Tín hiệu tăng cường cho phép các nhà
khoa học phân biệt tế bào ung thư với tế bào
khỏe mạnh thông qua sử dụng quang phổ
Raman, kỹ thuật chụp ảnh laser chuyên dụng.
PGS. Pinaud cho rằng: “Phương pháp của
chúng tôi dựa vào hai loại hạt nano khác nhau
không hoạt động, nhưng trở nên kích hoạt khi
chúng lắp ghép trên các tế bào ung thư”.
Sử dụng khối lắp ghép “keo phân tử”
để thiết kế các đầu dò nano mới là phương
thức phổ biến trong nghiên cứu y sinh hiện
nay, nhưng hầu hết các nhà khoa học tạo nên
các khối lắp ghép này bằng ADN hơn là
protein. Dù các đầu dò quang học triển vọng
đang được chế tạo bằng cách sử dụng các khối
lắp ghép ADN trong ống nghiệm, nhưng ADN
không phải chất dính thực tế trong tế bào sống.
Protein thường mang lại hiệu quả hơn.
Nhóm nghiên cứu bắt đầu với protein
huỳnh quang phát sáng khi ánh sáng xanh
(cực tím) chiếu vào. Protein huỳnh quang
được tách thành hai đoạn và mỗi đoạn được
gắn vào một tập hợp hạt nano vàng. Cả hai
tập hợp hạt nano nằm trên tế bào và liên kết
với các tín hiệu sinh học trên bề mặt tế bào.
Khi các hạt nano va chạm trên tế bào ung thư,
các đoạn protein tự ghép lại một cách tự
nhiên trên toàn bộ protein huỳnh quang.
Quy trình tái cấu trúc có 2 ưu điểm.
Thứ nhất, hoạt động của tín hiệu sinh hóa mới
trong protein huỳnh quang được khuếch đại
mạnh nhờ các hạt nano cho phép phát hiện
hình ảnh Raman. Thứ hai, nhiệt và sóng siêu
âm được phát ra khi laser tác động đến các
hạt nano, có thể được đo bằng máy dò siêu
âm. Ảnh hưởng kép này tạo độ tin cậy cao
trong việc phát hiện một tế bào trên thực tế là
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 15/57
tế bào ung thư, mà không phải là tín hiệu
dương tính giả từ tế bào khỏe mạnh.
Các nhà nghiên cứu dự kiến sẽ thăm
dò khả năng phá hủy các tế bào ung thư,
nhưng không làm ảnh hưởng xấu đến tế bào
khỏe mạnh bằng cách sử dụng laser để làm
nóng các hạt nano.
Theo motthegioi.vn, 28/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Bộ cảm biến gắn trên răng giúp theo dõi chế độ ăn uống
Sáng chế của các nhà khoa học có thể ghi lại thông tin về mức tiêu thụ đường, muối
và thậm chí cả rượu - Ảnh : Hi-news
Các chuyên gia từ Đại học Kỹ thuật
Tufts (Mỹ) đã tạo ra một thiết bị độc đáo gắn
trên bề mặt răng và nó tự động thu thập tất cả
các dữ liệu cần thiết về dinh dưỡng.
Theo Advanced Materials, có rất nhiều
chỉ số sức khỏe phụ thuộc vào thực phẩm mà
chúng ta tiêu thụ. Nhưng để theo dõi những gì
chúng ta ăn và ghi nhật ký thực phẩm thì
không phải lúc nào cũng thuận tiện và không
phải ai cũng cần. Ở đây, các thành tựu công
nghệ cao có thể hỗ trợ đúng lúc: các chuyên
gia từ Đại học Kỹ thuật Tufts đã tạo ra một
thiết bị độc đáo gắn trên bề mặt răng và nó tự
động thu thập tất cả các dữ liệu cần thiết về
dinh dưỡng.
Sáng chế của các nhà khoa học vào
thời điểm này có thể ghi lại thông tin về mức
tiêu thụ đường, muối và thậm chí cả rượu. Bộ
cảm biến bao gồm 3 lớp: 2 lớp bên ngoài,
hoạt động như ăng ten truyền tín hiệu và lớp
chính là chất hấp thụ sinh học cơ bản, có chức
năng ghi nhận và nhận diện các chất dinh
dưỡng. Dữ liệu thu nhận sẽ được chuyển tới
một ứng dụng đặc biệt trên điện thoại thông
minh. Ngoài ra, bộ cảm biến tự nó có thể thay
đổi màu sắc phụ thuộc vào chứa chất chứa
trong thực phẩm.
Cần lưu ý rằng trước đây người ta đã
từng chế tạo các thiết bị tương tự nhưng
chúng có nhiều khiếm khuyết như thời gian
hoạt động ngắn và thường xuyên phải sạc
điện, cần phải sử dụng lớp vật liệu bảo vệ,
phải có dây dẫn điện và kích thước cồng
kềnh... Thiết bị mới này có kích thước chỉ
vỏn vẹn có 2 x 2mm và loại trừ được hoàn
toàn các khiếm khuyết trên.
Theo motthegioi.vn, 27/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Keo hydrogel mới gắn kết các mô thậm chí khi có máu
Băng keo Band-Aid là phương pháp
hiệu quả để ngăn vết thương trên da chảy
máu, nhưng chưa có lựa chọn khả thi nào cho
hiện tượng máu chảy bên trong. Keo phẫu
thuật thường được sử dụng bên trong cơ thể
để thay thế các kỹ thuật khép vết thương phổ
biến như khâu, ghim vì keo làm giảm thời
gian bệnh nhân nằm viện và giảm nguy cơ
chấn thương hoặc tổn thương thứ cấp ở vị trí
vết thương.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 16/57
Keo phẫu thuật muốn phát huy hiệu quả
thì cần phải chắc, mềm, không độc và có thể
thích ứng với chuyển động, nhưng hiện nay
không có chất keo nào có được tất cả những
tính chất này. Để khắc phục hạn chế đó, các
nhà nghiên cứu tại Viện Kỹ thuật phỏng sinh
học Wyss thuộc trường Đại học Harvard đã
phát triển loại keo hydrogel mô phỏng chất
dính được tiết ra từ loài ốc sên phổ biến,
nhưng lại có khả năng tương thích sinh học,
mềm và có thể bám vào các mô chuyển động
ngay cả khi có sự xuất hiện của máu.
Bản thân hydrogel là một hybrid với 2
polymer bao gồm: alginate, chiết xuất từ cỏ
biển, được dùng để làm đặc thực phẩm và
polyacrylamide, vật liệu chính trong kính áp
tròng mềm. Khi các polymer tương đối yếu
này kết hợp với nhau, chúng tạo thành mạng
lưới phân tử tạo độ bền và độ đàn hồi cho vật
liệu hydrogel, sánh ngang với sụn tự nhiên
của cơ thể. Khi kết hợp với một lớp chất dính
chứa các phân tử polymer tích điện dương
(chitosan), vật liệu hybrid tạo thành có thể
bám vào các mô chắc hơn mọi loại keo và co
giãn gấp 20 lần độ dài ban đầu và liên kết với
các bề mặt mô ướt đang chịu tác động của
chuyển động động lực (như nhịp tim).
Các nghiên cứu về keo hydrogel đã
chứng minh keo có khả năng chịu được gấp 3
lần lực căng phá vỡ băng keo y tế tốt nhất
hiện nay, duy trì độ ổn định và độ kết dính
của hydrogel khi cấy vào chuột trong vòng 2
tuần và bịt kín một lỗ hổng trong tim lợn phải
trải qua hàng chục nghìn chu kỳ bơm máu của
tim. Ngoài ra, keo hydrogel không gây tổn
thương mô hay dính vào các mô xung quanh
khi dùng cho chuột bị xuất huyết ở gan.
Keo hydrogel có nhiều ứng dụng tiềm
năng trong y học như làm miếng dán có thể
điều chỉnh kích thước cho phù hợp với các
mô như xương, sụn, cơ hay màng phổi hoặc
làm dung dịch tiêm cho các tổn thương sâu.
Keo hydrogel cũng sẽ được sử dụng để gắn
các thiết bị y tế vào những cấu trúc mục tiêu
như bộ truyền động hỗ trợ chức năng tim.
Ngoài ra, keo hydrogel có thể được chế tạo để
phân hủy sinh học theo thời gian khi cơ thể
phục hồi.
Theo vista.gov.vn, 27/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Bộ lọc mới cải thiện chất lượng nước uống
Bộ lọc graphene đầu tiên trên thế giới có
thể loại bỏ hơn 99% chất hữu cơ tự nhiên
trong nước uống đã xử lý, đang được mở rộng
quy mô để sử dụng trong các nhà máy xử lý
nước thông thường.
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
New South Wales đã chế tạo được bộ lọc
graphene đầu tiên trên thế giới ở quy mô
phòng thí nghiệm với khả năng loại bỏ hơn
99% chất hữu cơ tự nhiên phổ biến còn sót lại
trong quá trình xử lý nước uống thông
thường.
Nhóm nghiên cứu đã chứng minh
phương pháp mới thành công trong các thí
nghiệm tại lab trên nước đã được lọc tại Nhà
máy lọc nước Nepal ở miền Tây Sydney và
đang nghiên cứu để mở rộng quy mô công
nghệ mới. Kết quả nghiên cứu đã được công
bố trên tạp chí Carbon.
TS. Rakesh Joshi, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: “Đột phá của chúng tôi là sử
dụng bộ lọc làm từ graphene, một dạng
cacbon cực mỏng. Không có phương pháp lọc
nào khác loại bỏ gần 99% chất hữu cơ tự
nhiên khỏi nước ở áp suất thấp. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các màng
graphene có thể được chuyển đổi thành
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 17/57
phương pháp thay thế mới để trong tương lai
trang bị cho các nhà máy xử lý nước thải
truyền thống”.
Nhà máy nước Sydney cung cấp nước
sạch cho khoảng 4,8 triệu người dân ở thành
phố Sydney, vùng Illawarra và Blue
Mountains. Các chất ô nhiễm hữu cơ tự nhiên
này gây ảnh hưởng đến hiệu suất của nhà máy
lọc nước trực tiếp, làm giảm công suất sau khi
mưa nặng hạt.
TS. Heriberto Bustamante, một trong
các tác giả nghiên cứu cho rằng: “Các
phương pháp phổ biến nhất hiện nay để khử
chất hữu cơ trong các nguồn cung cấp nước,
bao gồm sử dụng chất đông tụ hóa học. Tuy
nhiên, các phương pháp xử lý hiện nay chỉ
hiệu quả phần nào, đặc biệt khi nồng độ của
chất hữu cơ tự nhiên gia tăng”.
Theo TS. Joshi, hệ thống xử lý mới
được chế tạo bằng cách chuyển đổi than chì
xuất hiện tự nhiên thành các màng oxit
graphene cho phép dòng nước dâng lên ở điều
kiện áp suất khí quyển, trong khi loại bỏ gần
như toàn bộ chất hữu cơ. Nhóm nghiên cứu
đang cải tiến thiết bị thử nghiệm để xây dựng
nhà máy thí điểm quy mô nhỏ cho thử nghiệm
tại hiện trường.
Theo vista.gov.vn, 22/03/2017
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo pin lithium hoạt động ở mức nhiệt thấp kỷ lục -70oC
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã
chế tạo được loại pin với các điện cực làm từ
hợp chất hữu cơ, có thể hoạt động trong điều
kiện nhiệt độ -70 độ C, lạnh hơn nhiều mức
nhiệt khiến cho pin lithium ion mất gần hết
khả năng hoạt động và lưu trữ năng lượng.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Joule vào ngày 28/2/2018, có thể giúp các
kỹ sư phát triển công nghệ phù hợp để thích
ứng với nhiệt độ môi trường ngoài không
gian và những vùng lạnh giá nhất Trái đất.
Dù pin lithium ion có thể hoạt động
trong điều thời tiết tương đối lạnh, nhưng
chúng có những hạn chế nhất định. Hầu hết
pin này chỉ hoạt động 50% công suất tối ưu
khi nhiệt độ ở mức -20oC và khi xuống đến -
40oC, pin chỉ đảm bảo khoảng 12% công suất
hoạt động so với nhiệt độ phòng. Đây là hạn
chế lớn của pin khi pin hoạt động trong môi
trường không gian nơi nhiệt độ có thể giảm
xuống -157oC hoặc thậm chí nhiều nơi ở
Canada và Nga, nhiệt độ nhiều lúc xuống
dưới -50oC.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đã phát
hiện ra một thiết kế pin mới có thể hoạt động
thậm chí khi các pin khác đã bị hỏng. TS.
Yong-yao Xia, nhà nghiên cứu pin tại Khoa
Hóa học thuộc trường Đại học Fudan ở Trung
Quốc và là đồng tác giả nghiên cứu nói: “Mọi
người đều biết rằng cả chất điện phân (môi
trường hóa học chứa các ion di chuyển giữa
hai điện cực) và các điện cực (cực âm và cực
dương) gây ảnh hưởng lớn đến hiệu suất của
pin”.
Các nhà khoa học đã thử nghiệm sử
dụng chất điện phân làm từ ester (ethyl
axetat), có điểm đóng băng thấp, cho phép
thực hiện sạc thậm chỉ ở nhiệt độ cực thấp.
Đối với các điện cực, nhóm nghiên cứu đã sử
dụng hai hợp chất hữu cơ gồm cực âm làm từ
polytriphenylamine (PTPAn) và cực dương
polyimide được chế từ
naphthalenetetracarboxylic dianhydride -
1,4,5,8 (PNTCDA). Khác với các điện cực
được dùng trong pin lithium ion, các hợp chất
hữu cơ này không phụ thuộc vào quy trình kết
hợp liên tục các ion vào trong chất nền phân
tử, làm cho pin hoạt động chậm lại khi nhiệt
độ giảm. Theo TS. Xia, nhờ có điện cực làm
từ ethyl axetat và điện cực polymer hữu cơ,
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 18/57
pin sạc có thể hoạt động tốt ở nhiệt độ thấp cỡ
-70oC.
Nhóm nghiên cứu tin rằng đây có thể
là giải pháp thay thế hiệu quả hơn cho những
nỗ lực khác nhằm tăng cường chức năng của
pin lithium ion trong điều kiện thời tiết khắc
nghiệt. Các nhà nghiên cứu khác cũng đang
nỗ lực giải quyết vấn đề thông qua phát triển
các chất phụ gia cho pin nhiệt hoặc sử dụng
chất điện phân khí hóa lỏng, nhưng các giải
pháp này cần bổ sung vật liệu làm tăng trọng
lượng pin.
TS. Xia cho biết: “So với các điện cực
chứa kim loại chuyển tiếp trong pin lithium
ion thường, các vật liệu hữu cơ trong pin mới
dồi dào, giá rẻ và thân thiện với môi trường”.
Giá thành của vật liệu điện cực theo ước tính
chỉ bằng khoảng 1/3 giá của điện cực trong
pin lithium ion thường.
Tuy nhiên, loại pin mới vẫn cần được
cải tiến trước khi được thương mại trên thị
trường. TS. Xia tin rằng năng lượng riêng của
pin vẫn thấp so với pin lithium ion thương
mại và quy trình lắp ráp cần được tối ưu. Dù
vậy, pin có triển vọng cho nhiều ứng dụng.
Theo vista.gov.vn, 12/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Khám phá mới giúp kéo dài tuổi thọ pin và tăng độ an toàn khi sử dụng
Pin lithium-kim loại nằm trong số
những ứng cử viên hứa hẹn nhất cho công
nghệ lưu trữ năng lượng mật độ cao trong một
loạt các thiết bị “điện tử thông minh” và các
phương tiện điện tử đang phát triển, nhưng sự
tăng trưởng dendrite trong lithium không
kiểm soát, dẫn đến khả năng sạc pin kém và
mối nguy an toàn, hiện đang làm giảm tiềm
năng của chúng.
Dendrite là những hạt giống như kim
cương xuất hiện trên bề mặt của lithium kim
loại, được sử dụng làm anốt (cực dương) hoặc
điện cực âm của pin. Chúng gây ra các phản
ứng phụ không mong muốn như làm giảm
mật độ năng lượng, và tồi tệ nhất là gây ra sự
thiếu hụt các điện cực có thể dẫn đến cháy
hoặc nổ.
Nghiên cứu mới của Trường Đại học
Arizona State liên quan đến việc sử dụng một
lớp Polydimethylsiloxane (PDMS) 3 chiều,
hoặc silicon, vì chất nền này của cực dương
lithium kim loại đã được phát hiện cho thấy
làm giảm sự hình thành dendrite và làm tăng
thời gian sử dụng của pin và giảm thiểu nguy
cơ mất an toàn.
Hanqing Jiang, giáo sư kỹ thuật về vật
chất, năng lượng Trường Đại học Arizona
State, và là tác giả bài viết được công bố
trong tạp chí Nature Energy cho biết: “Những
phát hiện này có liên quan đến cả pin lithium-
ion và pin lithium, cũng như các tác động đối
với các pin dựa trên anode kim loại khác”.
“Hầu như tất cả các kim loại dùng pin
anode có xu hướng phát triển các dendrites. Ví
dụ như pin kẽm, natri và nhôm”, Jiang giải
thích.
Thay vì tiếp cận vấn đề từ các vật liệu
cụ thể hoặc các triển vọng điện hóa học, Jiang
và nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm các giải
pháp tương tự các kỹ thuật cơ khí. Họ thực sự
hiểu rằng các mũi kim hoặc các sợi tóc thiếc
nhỏ có thể nhô lên khỏi bề mặt thiếc dưới ứng
suất, do đó bằng cách tương tự, họ lưu ý đến
khả năng chịu ứng xuất của vật liệu giống
như một yếu tố làm tăng trưởng dendrite
trong lithium.
Phạm vi đầu tiên của nghiên cứu liên
quan đến việc thêm một lớp PDMS vào đáy
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 19/57
của cực dương của pin. Kết quả cho thấy,
giảm đáng kể sự phát triển dendrite.
“Đây là lần đầu tiên tìm ra chứng cứ
thuyết phục cho thấy ứng suất thặng dư đóng
một vai trò quan trọng trong việc hình thành
dendrites trong lithium”, Jiang nói.
Ngoài việc có được các kiến thức nền
tảng về cơ chế tăng trưởng dendrite, nhóm
nghiên cứu của Jiang cũng khám phá ra một
cách thông minh lợi dụng hiện tượng này để
tăng tuổi thọ cho pin lithium kim loại trong
khi vẫn duy trì mật độ năng lượng cao của
chúng. Giải pháp này là chất nền PDMS dạng
3-D với nhiều bề mặt.
“Hãy hình dung các viên bọc đường có
chứa rất nhiều lỗ nhỏ bên trong, bên trong
các khối này, PDMS tạo thành một mạng lưới
liên tục giống như chất nền, được bao phủ
bởi một lớp đồng mỏng để dẫn điện. Cuối
cùng, lithium làm đầy các lỗ rỗng này.
PDMS, giống như lớp bọt xốp, làm giảm ứng
suất và ức chế hiệu quả sự phát triển
dendrite”, Jiang nói.
“Bằng cách kết hợp với các phương
pháp ức chế lithium dendrite khác như chất
phụ gia điện phân mới, phát hiện này có ý
nghĩa rất lớn đối với việc sản xuất pin
lithium-metal như là một giải pháp lưu trữ
năng lượng an toàn, mật độ cao, dài hạn”,
Giáo sư Ming Tang, thành viên của Trường
Đại học Rice cho biết. “Các phạm vi ứng
dụng tiềm năng bao gồm dùng cho các thiết
bị điện tử cá nhân và hoặc là nguồn điện dự
phòng cho lưới điện năng lượng mặt trời”.
Theo vista.gov.vn, 19/03/2017
Trở về đầu trang
**************
Tấm nano oxit graphene có thể giúp đưa pin litinum-metal ra thị trường
Pin lithium metal tuy là dòng pin có
thể khả năng dự trữ năng lượng cao gấp 10
lần so với pin lithium-ion hiện đang sử dụng
cho các thiết bị điện thoại, máy tính xách tay
và xe hơi nhưng rất khó thương mại hóa vì
một lỗ hổng nghiêm trọng đó là khi pin sạc và
xả, pin lithium tích tụ không đồng đều trên
các điện cực. Sự tích tụ này làm giảm tuổi thọ
của pin do đó khiến chúng trở nên không khả
thi khi phát triển, và quan trọng hơn, có thể
làm cho pin bị ngắt và bắt lửa gây cháy nổ.
Hiện nhóm nghiên cứu Trường Đại
học Illinois, Chicago đã phát triển thành công
một giải pháp giải quyết vấn đề này bằng việc
chế tạo một tấm nano graphene-oxit, khi thực
hiện đặt tấm nano này giữa hai điện cực của
pin lithium-metal sẽ giúp đồng đều trên lớp
mạ của pin lithium và cho phép pin hoạt động
an toàn với tuổi thọ hàng trăm chu kỳ xả sạc.
Công trình nghiên cứu này đã được
công bố trên tạp chí Advanced Materialsal
Materials.
Reza Shahbazian-Yassar, phó giáo sư
về kỹ thuật cơ khí và công nghiệp thuộc
Trường Cao đẳng Kỹ thuật UIC và là tác giả
của bài báo cho biết, nghiên cứu này đã
chứng minh cho thấy các vật liệu 2D mà
trong trường hợp này là graphene oxide có
thể giúp điều chỉnh quá trình lắng đọng
lithium mà theo cách có thể kéo dài tuổi thọ
của pin lithium-metal.
Pin Lithium-metal rất hữu ích vì mật
độ năng lượng của nó cao và trọng lượng
tương đối nhẹ so với các loại pin thông
thường. Tuy nhiên, trải qua nhiều chu kỳ xả
pin, lithium tích lại không đều trên điện cực
lithium metal của pin theo mô hình phân
nhánh hoặc xuất hiện hiện tượng 'dendritic' và
cuối cùng dẫn đến pin chết. Nếu dendrite này
xuất hiện tăng trưởng nhờ dung dịch chất điện
phân và tiếp xúc với điện cực khác thì pin có
thể gặp phải một sự kiện thảm khốc nói cách
khác sẽ gây ra một vụ nổ hoặc hỏa hoạn.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 20/57
Trong các dòng pin lithium-ion, chất
phân tách được đặt bên trong chất điện phân.
Thông thường được làm từ một sợi polyme
xốp hoặc sợi thuỷ tinh, chất phân tách này cho
phép các ion lithium chảy qua trong khi vẫn
chặn giữ lại các thành phần khác để ngăn chặn
tình trạng ngắn điện, có thể dẫn đến hỏa hoạn.
Theo đó, Reza và các đồng nghiệp đã
sử dụng một thiết bị phân tách trong pin
lithium metal để điều chỉnh lưu lượng ion
lithium nhằm kiểm soát tốc độ lắng đọng
lithium và xem xét chúng có thể ngăn ngừa sự
hình thành dendrite hay không. Họ bơm phủ
chất phân tách sợi thủy tinh với graphene
oxide, tạo ra một linh kiện mà được họ gọi là
một tấm nano.
Bằng cách sử dụng kính hiển vi điện tử
quét và các kỹ thuật tạo ảnh khác, nhóm
nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi tấm nano được
sử dụng trong pin lithium-metal, hình thành
màng phim lithium đồng nhất trên bề mặt của
điện cực lithium, điều này giúp cải thiện chức
năng của pin và làm cho pin an toàn hơn,
Tara Foroozan, sinh viên cao học tại Trường
Đại học Kỹ thuật UIC và là tác giả đầu tiên
của nghiên cứu này, cho biết.
Các mô phỏng phân tử, do một nhóm
các nhà nghiên cứu từ Đại học Texas A&M
thực hiện giả thiết rằng các ion lithium sẽ tạm
thời liên kết với graphene oxide, và sau đó
khuếch tán qua các vùng khuyết nano trên tấm
nano. Điều này cản trở hoãn các ion lithium đi
qua và do đó ngăn ngừa sự hình thành dithritic
lắng đọng của lithium trên điện cực.
Kết quả tính toán mô hình pha trường
(phase-field ) do Farzad Mashayek, giáo sư
và người đứng đầu về kỹ thuật cơ khí và công
nghiệp của Đại học Kỹ thuật UIC và là tác giả
của bài báo, chỉ ra rằng graphene oxide cũng
có thể hạn chế cơ học sự phát triển của
dendrites trên pin lithium.
Shahbazian-Yassar cho biết: “Nhóm
nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng vật liệu
graphene oxit 2D có thể cản trở sự hình
thành dendrite bằng cách thay đổi tốc độ
khuếch tán lithium-ion khi chúng đi qua các
lớp graphene oxit. Phương pháp này có tiềm
năng rất lớn cho ứng dụng công nghiệp và
tiềm năng ứng dụng mở rộng”.
Theo vista.gov.vn, 26/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Giấy dán tường báo cháy bằng tín hiệu ánh sáng và âm thanh
Sơ đồ giấy dán tường báo cháy -Ảnh:ASC Nano
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc gần
đây đã chế tạo được loại giấy dán tường vô cơ
chịu lửa. Hơn thế nữa loại giấy dán tường này
có sử dụng graphene có thể hoạt động như
một tín hiệu báo cháy.
Theo ACS Nano, hiện ngoài sơn, nhiều
căn hộ hay sử dụng giấy dán tường. Đây là
một cách khá hợp lý để trang trí các bức
tường theo ý thích, nhưng giấy dán tường có
một bất lợi rất nguy hiểm, là hay bắt lửa dễ
cháy. Rất may, các nhà nghiên cứu Trung
Quốc gần đây đã phát triển được loại giấy dán
tường vô cơ chịu lửa. Hơn thế nữa loại giấy
dán tường này có sử dụng graphene có thể
hoạt động như một tín hiệu báo cháy.
Trong thành phần của loại giấy dán
tường như vậy bao gồm các sợi hydroxyapatite
và các bộ cảm biến nhiệt đặc biệt bằng
graphene oxide. Chính các bộ cảm biến này sẽ
cảnh báo một khi có hỏa hoạn. Khi nhiệt độ
đạt đến ngưỡng 130 độ C, các cảm biến này
báo động chỉ sau 2 giây và báo động liên tục
trong hơn 5 phút. Nhóm chuyên gia ở Viện
Gốm sứ Thượng Hải, do nhà nghiên cứu Zhi-
Chao Xiong đứng đầu, chịu trách nhiệm
nghiên cứu loại giấy dán tường kỳ diệu này.
Họ đã phát triển công nghệ đưa các cảm biến
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 21/57
graphene vào nền giấy và trên cơ sở đó, tạo ra
một loại giấy vô cơ không cháy.
Cơ sở của giấy dán tường là cấu trúc
của các sợi nano hydroxyapatite dài hơn 10
micromet và độ dày khoảng 10 nanomét.
Chúng tạo cho giấy có độ bền cơ học, trong
khi vẫn nhẹ và chịu được hỏa hoạn.
Graphene oxide cũng được các nhà
khoa học sử dụng trong loại giấy dán tường
mới là vì khi nhiệt độ tăng lên, nó gây ra một
chuỗi các phản ứng hóa học khiến cảm biến
báo động bằng tín hiệu ánh sáng hoặc âm
thanh. Điều đặc biệt là các bộ cảm biến này
vẫn hoạt động ổn định trong trường hợp nhiệt
độ lên đến 250 độ C. Để tăng tính chịu lửa,
các nhà khoa học đã thêm các phân tử
polydopamine vào thành phần cấu tạo của
giấy.
Theo motthegioi.vn, 25/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu các chất xúc tác graphene phát hiện thấy kim loại trong các chất xúc tác “phi kim”
Nghiên cứu khám phá này, do các nhà
hoá học Trường Đại học Rice tìm thấy,cho đến
nay đã xác định một sự mô tả sai trong các
chất xúc tác graphene trước đây.
Graphene đã được thử nghiệm rộng rãi
như là một chất thay thế cho các chất bạch
kim đắt tiền trong các ứng dụng lớn như tế
bào nhiên liệu, trong đó vật liệu xúc tác tạo
phản ứng giảm oxy (ORR) là yếu tố cần thiết
để biến năng lượng hóa học thành năng lượng
điện.
Vì graphene, dạng nguyên tử carbon
dày, không phải như kim loại tự nhiên nên các
nhà nghiên cứu đã gặp thất bại bởi hoạt tính
xúc tác của nó khi dùng nó làm catốt.
Không quá ngạc nhiên khi nhà hóa học
James Tour và nhóm của ông, những người đã
phát hiện ra rằng số lượng các vết tích của
mangan nhiễm từ các tiền chất graphite hoặc
các chất phản ứng ẩn bên trong lưới graphene,
phát hiện thấy nếu đủ điều kiện đúng, các bit
kim loại này sẽ hoạt hóa ORR. Và Tour cũng
cho biết rằng, nhóm nghiên cứu của ông cũng
đã cung cấp thêm cái nhìn sâu sắc hơn về cách
thức có thể phát triển các chất xúc tác siêu
mỏng giống graphene.
Do sự tương phản giữa các nguyên tử
cacbon và mangan là rất nhỏ, không thể nhìn
thấy các dấu vết nguyên tử của chất gây ô
nhiễm bằng các thiết bị kỹ thuật phân tích
truyền thống như nhiễu xạ tia X và quang phổ
quang điện tử tia X (XPS).
“Các phòng thí nghiệm đã báo cáo về
các chất xúc tác graphene “phi kim loại”, và
các bằng chứng mà họ thu thập được có thể dễ
dàng để chứng minh điều đó. Nhưng trên thực
tế, công cụ thiết bị mà chúng ta đang ứng
dụng đơn giản là không đủ nhạy để có thể
“hiện thị” các nguyên tử mangan”, Tour nói.
Một công cụ có độ nhạy hơn có tên là
quang phổ khối plasma kết hợp (ICP-MS)
được thực hiện tại Phòng thí nghiệm của
Trường Đại học Rive cho thấy, có thể rõ ràng
cho chung ta quan sát thấy sự xâm nhập trong
các mẫu thí nghiệm.
Các mẫu thử nghiệm graphene nitơ đặc
đã bị khử khỏi graphene oxit và sau đó được
rửa axit trong khoảng 1 đến 6 lần. Với mỗi lần
rửa, tiến hành quét ICP-MS cho thấy, các
nguyên tử mangan dần ít hơn và hoàn toàn
không phát hiện thấy nguyên tử mangan trong
các mẫu graphene rửa sạch 6 lần. Tại lần rửa
thứ năm, hoạt tính xúc tác hoàn toàn thay đổi
và cho thấy hoạt tính trước đây là do các
nguyên tử kim loại dư tồn.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 22/57
Phòng thí nghiệm cho biết không có
nguyên tử mangan nào được quan sát thấy
trong bất kỳ mẫu nào tương tự bằng các công
cụ phân tích thông thường, bao gồm kính hiển
vi điện tử XPS hoặc kính hiển vi điện tử
truyền tin.
Các nhà nghiên cứu đã mô tả các hoạt
tính ORR của các mẫu và phát hiện thấy nitơ-
graphene đã được rửa hai lần là hữu hiệu nhất.
Các mẫu này có xu hướng kết hợp chặt chẽ với
các nguyên tử mangan đơn thành cấu trúc
graphene, tạo thuận lợi cho việc giảm oxy
hoàn toàn thông qua một quá trình xử lý4-
electron, trong đó bốn electron được chuyển
tới các nguyên tử oxy, thông thường bắt nguồn
từ hydro.
Nghiên cứu sinh Ruquan Ye, tác giả
chính của bài báo đăng trên tạp chí cho biết: Ở
quy trình 4-electron, oxy biến đổi thành nước
hoặc hydroxyd. Tuy nhiên, peroxit được hình
thành trong một quá trình 2 electron, điều này
dẫn đến mật độ dòng điện bị giới hạn tán xạ
thấp hơn và tạo ra các loại oxy hoạt tính nguy
hiểm. Ye nói rằng không có kim loại, ORR
trong graphene ít hiệu quả hơn.
Tour cho biết kết quả này sẽ dẫn tới
việc điều tra vai trò của kim loại tồn tại bên
trong các vật liệu khác được cho là phi kim
loại. Các chất xúc tác đơn nguyên tử có thể ẩn
giấu trong graphen, và hoạt tính của chúng là
mạnh.
Công trình nghiên cứu này được Văn
phòng nghiên cứu khoa học không quân, Văn
phòng nghiên cứu hải quân, Trung tâm tài
nguyên nghiên cứu quốc gia, Quỹ khoa học về
nghiên cứu và giảng dạy vật liệu quốc gia,
Quỹ khoa học tự nhiên quốc gia Trung Quốc
và Quỹ Jianlin Xie của Viện vật lý năng lượng
cao, Học viện khoa học Trung Quốc tài trợ.
Đồng các tác giả nghiên cứu bao gồm Luqing
Wang và Yilun Li, hai giáo sư về khoa học vật
liệu và kỹ thuật nano thuộc Đại học Rice;
Boris Yakobson và Miguel José Yacamán,
giáo sư hóa học thuộc Đại học Texas tại San
Antonio; và Juncai Dong, Peng-Fei An,
Dongliang Chen thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học Trung Quốc.
Công trình nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Carbon mới đây.
Theo vista.gov.vn, 12/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Graphene có thể được sử dụng làm thuốc nhuộm tóc vô hại, chống tĩnh điện
Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học
Northwestern đã giải quyết được vấn đề tồn
tại hơn một thế kỷ qua nhờ có khoa học vật
liệu: Đó là việc nhuộm tóc quá thường xuyên
gây tổn thương cho mái tóc suôn mượt của
bạn. Các nhà khoa học đã sử dụng siêu vật
liệu graphene để chế tạo loại thuốc nhuộm tóc
mới không độc, vô hại và giữ màu tóc sau
nhiều lần gội. Tính chất dẫn điện của
graphene cũng mở ra nhiều cơ hội mới cho
tóc như biến đổi nó thành các điện cực tại chỗ
hoặc kết hợp với các thiết bị điện tử mang
theo người.
Nhuộm tóc xem ra là thao tác đơn giản
và bình thường, nhưng trên thực tế lại là một
quá trình hóa học tinh vi. Lớp ngoài cùng của
sợi tóc là lớp biểu bì, được hình thành từ các
tế bào chồng lên nhau trong một mô hình
giống như vảy. Thuốc nhuộm tóc thương mại
hoạt động nhờ sử dụng các hóa chất mạnh
như amoniac và thuốc tẩy để mở lớp biểu bì
cho các phân tử thuốc nhuộm đi vào bên
trong và sau đó kích thích phản ứng bên trong
tóc để tạo màu. Quá trình này không chỉ
khiến cho tóc trở nên dễ gãy mà một số phân
tử nhỏ cũng trở nên khá độc hại.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 23/57
Nhóm nghiên cứu đã không sử dụng
các hóa chất độc hại nhờ khai thác hình dạng
tự nhiên của các tấm graphene. Dù các loại
thuốc nhuộm hiện nay sử dụng hỗn hợp phân
tử nhỏ hoạt động bằng cách làm thay đổi tóc
về mặt hóa học, nhưng các tấm graphene
mềm và dẻo, do đó, chúng quấn quanh mỗi
sợi tóc một lớp phủ. Công thức này cũng kết
hợp các chất dính polymer không độc hại và
có thể ăn được để đảm bảo rằng graphene
dính và tồn tại sau ít nhất 30 lần gội, là yêu
cầu về mặt thương mại đối với thuốc nhuộm
tóc lâu dài. Ngoài ra, graphene còn chống tĩnh
điện nên tóc ít bị bay vào mùa đông.
So sánh hình dạng của graphene với
hình dạng của các hạt sắc tố đen khác như
cacbon đen hoặc oxit sắt chỉ được sử dụng
trong thuốc nhuộm tóc tạm thời, Huang giải
thích: “Tương tự như sự khác biệt giữa giấy
ướt và quả bóng tennis. Giấy ướt sẽ bao phủ
và bám tốt hơn nhiều. Các hạt hình dạng của
quả bóng dễ dàng bị rửa trôi bằng dầu gội”.
Hình dạng của graphene cũng góp phần giải
thích vì sao graphene là giải pháp an toàn.
Trong khi các phân tử nhỏ có thể dễ dàng bị
bị nuốt hoặc di chuyển qua hàng rào của da,
thì graphene có kích thước quá lớn để thâm
nhập vào cơ thể.
Graphene, mạng lưới cacbon 2 chiều,
đã phát triển mạnh mẽ vào năm 2004 với vô
số ứng dụng tiềm năng. Nhưng để phát triển
các ứng dụng đó, vật liệu graphene phải hoàn
hảo về cấu trúc ở mức có thể để có được
những tính chất điện, cơ hoặc nhiệt tuyệt vời.
Đối với thuốc nhuộm mới, tính chất quan
trọng nhất của graphene là màu đen. Do đó,
nhóm nghiên cứu đã sử dụng oxit graphene,
chất dẫn xuất oxy hóa sẵn có, giá rẻ. Các loại
thuốc nhuộm khác trong tương lai có thể khai
thác các tính chất đáng chú ý của graphene
như tính chất dẫn điện tốt. Cho đến nay,
nhóm nghiên cứu đã tạo ra loại thuốc nhuộm
tóc từ graphene với các màu nâu và đen,
nhưng dự kiến sẽ thử nghiệm nhiều màu hơn.
Theo motthegioi.vn, 28/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Viên nang graphene sẽ bón phân cho cây theo giờ
Loại phân bón mới giúp tiết kiệm được thời gian, nguồn nhân lực và vật liệu
Ảnh: Đại học tổng hợp Adelaide
Theo ấn phẩm khoa học Applied
Materials and Interfaces, các nhà khoa học Úc
ở Đại học tổng hợp Adelaide đã phát triển
một loại phân bón công nghệ cao với các viên
nang bằng graphene.
Loại phân bón công nghệ cao này sẽ
cho phép các chất dinh dưỡng được giải
phóng vào một thời điểm nhất định sau khi
viên nang được vùi vào trong lòng đất. Thành
tựu này của các nhà khoa học sẽ làm tăng
lượng chất dinh dưỡng với cùng lượng phân
bón và việc chăm sóc cho cây trồng sẽ mất ít
thời gian hơn.
Trong những năm gần đây, graphene
đang được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh
vực, từ phát triển vũ khí đến sản xuất bao cao
su. Các nhà khoa học Úc, đã cố gắng chuyển
nó thành phân bón và như kết quả kiểm tra
cho thấy, họ đã thành công. Dự án rất hứa hẹn
với việc The Mosaic Company đã bắt đầu quá
trình đăng ký bản quyền.
Công nghệ giải quyết các vấn đề chính
của các nhà sản xuất phân bón hiện đại. Viên
nang bằng graphene rất bền và có diện tích bề
mặt rất lớn. Một cấu trúc phức tạp của các
ống nano cho phép "cấy" nhiều phân tử của
các chất hoạt tính vào cùng một thể tích. Do
đó, viên nang có thể chứa được nhiều nguyên
tố vi lượng thiết yếu hơn các hạt có cùng kích
thước bằng các vật liệu khác và mang nguyên
vẹn chúng đến rễ cây trồng.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 24/57
Ngoài ra, các loại cây trồng trong quá
trình sinh trưởng cần phải được cung cấp dinh
dưỡng bổ sung đúng tiến độ, vào những ngày
nhất định. Cấu trúc viên nang graphene có thể
được thiết kế sao cho các chất này được giải
phóng vào đúng thời điểm, độ tuần lễ sau khi
bón. Ở các trang trại lớn, công nghệ bón phân
mới sẽ giúp tiết kiệm được thời gian, nguồn
nhân lực và vật liệu, từ hỗn hợp phân bón đến
các hệ thống bón phân.
Trong tương lai, việc sản xuất loại
phân bón tiên tiến trên có thể hoàn toàn
không có phế liệu. Chính các chất chứa
graphene cũng sẽ trở thành một loại phân bón
hữu ích, phân hủy trong đất thành axit humic
(đất mùn).
Theo motthegioi.vn, 18/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Kỹ thuật biến đổi gen có thể giúp tiết kiệm 25% lượng nước cho cây trồng
Các nhà khoa học Hoa Kỳ đã tìm ra kỹ
thuật biến đổi gen giúp các loại cây giảm 1/4
lượng nước sử dụng trong khi vẫn bảo đảm
sản lượng thu hoạch. Nhóm nghiên cứu cho
biết bằng việc thay đổi một gen duy nhất, đã
giúp cây thuốc lá, một loại cây mẫu thường
được sử dụng trong các thí nghiệm, phát triển
với kích thước gần bình thường nhưng chỉ sử
dụng 75% lượng nước mà loại cây này
thường cần có. Nếu những cây lương thực
chính cũng có khả năng như vậy, biến đổi gen
loại này có thể bảo đảm cung cấp lương thực
cho dân số đang gia tăng cho dù nguồn nước
trên thế giới đang ngày càng cạn kiệt.
Giáo sư Stephen Long tại Viện Sinh
thực vật thuộc Đại học Illinois - Hoa Kỳ nhấn
mạnh: "Đây là một bước đột phá quan trọng.
Dù nước có hạn, nhưng những cây biến đổi
gen này vẫn phát triển nhanh và cho sản
lượng nhiều hơn".
Người đứng đầu nhóm nghiên cứu,
Giáo sư Johannes Kromdijk cũng thuộc Đại
học Illinois, cho biết: "Làm cho cây trồng sử
dụng nước hiệu quả hơn là một thách thức
lớn nhất đối với các nhà khoa học về cây
trồng hiện nay và tương lai".
Giáo sư Long và các cộng sự của ông
đã "tách" gen mã hóa một protein có tên
PsbS, quyết định tới sự quang hợp, quá trình
cây trồng biến ánh sáng thành dưỡng chất.
PsbS đóng vai trò then chốt trong việc truyền
thông tin về số lượng ánh sáng dẫn đến sự
đóng và mở các lỗ khí trên lá cây.
Khi lỗ khí mở, cây có thể hấp thu khí
CO2 cần cho sự quang hợp. Tuy nhiên cùng
lúc đó nước cũng thoát ra không khí. Trong
các cây biến đổi gen, mức PsbS tăng làm cho
các lỗ khí đóng sớm hơn bình thường, giúp
cây giữ lại được lượng nước nhiều hơn.
Hiện 1,2 tỷ người trên thế giới sống ở
những khu vực thiếu nước và 4 tỷ người, tức
2/3 nhân loại, thiếu nước ít nhất 1 tháng mỗi
năm. Liên hợp quốc dự báo đến năm 2030,
Trái đất sẽ thiếu 40% nước nếu tình trạng ấm
lên toàn cầu tiếp tục với tốc độ hiện nay.
Nông nghiệp hiện sử dụng hơn 3/4 lượng
nước ngầm khai thác, trong đó 90% là ở các
nước nghèo.
Theo vista.gov.vn, 21/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 25/57
Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các rễ cây thực vật có thể chống lại sự ấm lên toàn cầu
Các nhà khoa học, các công ty và các
cơ quan chính phủ hiện đang nỗ lực giảm
lượng phát thải khí nhà kính gây ra biến đổi
khí hậu. Trong những năm gần đây, nhiên
liệu sinh học được sản xuất từ ngô đã nổi lên
như một nguồn nhiên liệu cho động cơ xe
máy, và có lẽ dùng cho cả máy bay.
Nhưng ngô được xem như một nguồn
nguyên liệu nhiên liệu sinh học thì cần phải
bàn bởi phải cần số lượng rất lớn mới có thể
phát triển, tạo ra nhiều tác động mạnh tới môi
trường.
Mới đây, một nghiên cứu của Trường
Đại học Colorado State đã tìm ra hứa hẹn mới
đối với nhiên liệu sinh học được sản xuất từ
cỏ kê Mỹ (switchgrass), một loại cỏ tự nhiên
không ăn được, phát triển ở nhiều vùng của
Bắc Mỹ. Công trình nghiên cứu này đã được
công bố trên tạp chí Nature Energy mới đây.
Các nhà khoa học đã sử dụng các mô
hình để mô phỏng các kịch bản phát triển
khác nhau và phát hiện thấy có một dấu vết
khí hậu thay đổi khoảng từ -11 đến 10 gram
carbon dioxide trên mỗi mega-joule - phương
pháp tiêu chuẩn để đo phát thải khí nhà kính.
So sánh với các loại nhiên liệu khác,
ảnh hưởng của việc sử dụng xăng khiến gia
tăng 94 gram carbon dioxide / mega-joule.
John Field, nhà nghiên cứu thuộc
Phòng thí nghiệm sinh thái tài nguyên thiên
nhiên tại CSU, cho biết: “Phát hiện của nhóm
nghiên cứu rất có ý nghĩa. Chúng ta hiện đang
phát triển các chất hữu cơ và cô lập carbon”.
Nhóm nghiên cứu của ông tiến hành
nghiên cứucác loại nhiên liệu sinh học
xenlulô thế hệ thứ hai được làm từ nguyên
liệu thực vật không ăn được như các loài cây
cỏ. Cellulose là sợi xơ của cây. Những loại cỏ
này, bao gồm cỏ kê Mỹ, có tiềm năng sản
xuất nhiều hơn cây trồng và việc nuôi trồng
sẽ tạo ra ít tác động đến môi trường hơn ngô.
“Loài cỏ này không cần nhiều phân
bón hay tưới nước. Người nông dân không
phải cày ruộng mỗi năm để trồng cây mới, và
chúng phát triển tốt trên đồng ruộng đến một
thập kỷ hoặc lâu hơn”, ông nói.
Các nhà nghiên cứu đã chọn địa điểm
tiến hành nghiên cứu ở Kansas vì nơi đây có
nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học xenlulô,
thuộc một trong ba nhà máy ở Hoa Kỳ.
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng mô hình
DayCent, một công cụ mô hình hóa hệ sinh
thái theo dõi chu trình cacbon, sự tăng trưởng
của cây trồng, và sự gia tăng phản ứng của
khí hậu đối với thời tiết, khí hậu và các yếu tố
khác ở quy mô địa phương. Nó đã được phát
triển tại CSU vào giữa những năm 1990.
Công cụ này cho phép các nhà khoa học dự
đoán sản lượng cây trồng đóng góp hay giúp
chống lại sự biến đổi khí hậu và khả năng sản
xuất một số loại cây trồng nhất định trong
một khu vực nào đó.
Các nghiên cứu trước đây về nhiên liệu
sinh học xenlulô đã tập trung vào các chi tiết
kỹ thuật của chuỗi cung ứng. Các chi tiết này
bao gồm việc phân tích khoảng cách giữa các
trang trại, đây là nơi sản xuất vật liệu cây
trồng và việc vận chuyển tới nhà máy sản
xuất nhiên liệu sinh học. Theo phân tích của
CSU, chi tiết về địa điểm và phương pháp
trồng các nguyên liệu thực vật cũng quan
trọng hoặc thậm chí còn quan trọng hơn đối
với biểu hiện khí thải nhà kính của nhiên liệu
sinh học.
“Ngành công nghiệp nhiên liệu sinh
học đang gặp phải những thách thức, do giá
dầu thấp. Nhà máy sản xuất được tham chiếu
ở trên có chủ sở hữu mới và đang được tái tổ
chức. Nhưng đối với nhiên liệu sinh học và
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 26/57
năng lượng sinh học lại rất sáng trong tương
lai”, Field nói.
“Nhiên liệu sinh học có một số năng
lực tiềm tằng mà các nguồn năng lượng tái
tạo khác như gió và năng lượng mặt trời
không có. Nếu khi giá dầu cao hơn, chúng ta
sẽ quan tâm hơn và tiếp tục các công trình
nghiên cứu nhiên liệu sinh học bao gồm việc
xây dựng các cơ sở mới”, ông cho biết.
Theo vista.gov.vn, 12/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Lớp phủ siêu mỏng tạo ra kính thông minh
Hiện đã có loại cửa sổ “kính thông
minh” tiết kiệm năng lượng được làm mờ để
ngăn chặn các tia nắng mặt trời, giảm nhu cầu
điện năng của các hệ thống điều hòa không
khí. Nhưng mới đây, các nhà khoa học tại
trường Đại học RMIT ở Ôxtrâylia đã phát
triển được lớp phủ cho phép loại kính hiện có
trở nên thông minh, mà không cần đến điện.
Lớp phủ tự điều chỉnh bao gồm vanađi
dioxit có giá thành tương đối rẻ, chỉ dày cỡ
50-150 nanomét, mỏng hơn gần 1.000 lần sợi
tóc. Khi nhiệt độ bề mặt dưới 67oC, vanadi
dioxit đóng vai trò như chất cách nhiệt, giữ
cho nhiệt bên trong không bị thoát ra ngoài
qua kính cửa sổ và còn cho phép toàn bộ
quang phổ của ánh nắng mặt trời từ bên ngoài
đi vào. Tuy nhiên, ở nhiệt độ trên 67oC,
vanadi dioxit biến đổi thành kim loại ngăn
chặn bức xạ hồng hoại của mặt trời thâm
nhập vào bên trong.
Có nghĩa là các căn phòng ấm hơn khi
nhiệt độ thấp và mát hơn khi nhiệt độ cao,
nên ít phải sử dụng cả các hệ thống sưởi và
điều hòa nhiệt độ. Ngoài ra, nếu muốn, người
sử dụng có thể loại bỏ hiệu ứng ngăn chặn tia
của lớp phủ bằng công tắc điều chỉnh độ
sáng.
Trước đây, để gắn lớp phủ vanadi
dioxit, các lớp hoặc nền tảng chuyên dạng
phải được tạo ra trên bề mặt. Tuy nhiên,
nhóm nghiên cứu đã đưa ra một phương pháp
áp lớp phủ trực tiếp lên bề mặt như kính cửa
sổ mà không cần lớp nền. Các nhà khoa học
hy vọng hệ thống sẽ sớm được thương mại
hóa.
GS. Madhu Bhaskaran cho biết: “Công
nghệ của chúng tôi có tiềm năng giảm chi phí
sưởi ấm và điều hòa không khí gia tăng, cũng
như giảm đáng kể phát thải cacbon từ các tòa
nhà mọi kích cỡ. Các giải pháp cho cuộc
khủng hoảng năng lượng của chúng tôi không
chỉ bắt nguồn từ các dạng năng lượng tái tạo;
công nghệ thông minh loại bỏ tình trạng lãng
phí năng lượng là hoàn toàn cần thiết”.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Scientific Reports - Nature. Cửa sổ thông
minh phủ vanadi dioxit cũng đang được các
nhà khoa học Anh chế tạo.
Theo vista.gov.vn, 12/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 27/57
Phễu thu ánh nắng mặt trời từ mọi hướng
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Braunschweig ở Đức đã thiết kế được phễu
thu ánh nắng mặt trời từ mọi hướng và tập
trung ánh sáng trên phạm vi diện tích nhỏ hơn
như pin mặt trời hiệu suất cao. Bằng cách xếp
chồng các phễu được điều chỉnh theo những
bước sóng ánh sáng khác nhau, nhóm nghiên
cứu hy vọng có thể chuyển đổi rất hiệu quả
toàn bộ quang phổ mặt trời thành điện năng.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí
Nature Communications.
Dù hiện đã có các bộ thu năng lượng
mặt trời từ các khu vực rộng lớn và hướng
vào những phạm vi nhỏ hơn, nhưng các thiết
bị này vẫn có những hạn chế nhất định. Ví dụ,
chúng không hoạt động tốt trong bóng râm
mà cần có bức xạ mặt trời trực tiếp, nên
thường phụ thuộc vào các hệ thống theo dõi
ánh nắng chủ động.
Tuy nhiên, thiên nhiên đã chứng tỏ
rằng không thể thiết kế bộ thu năng lượng
mặt trời để khắc phục những hạn chế đó. Ở
sinh vật sống sử dụng quá trình quang hợp,
hàng trăm sắc tố định hướng ngẫu nhiên hấp
thụ proton thậm chí trực tiếp từ ánh sáng gián
tiếp và đưa năng lượng qua phễu hướng đến
trung tâm phản ứng quang tổng hợp. Mỗi
bước trong quy trình này diễn ra với hiệu quả
gần bằng 100%.
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học
đã lập mô hình loại phễu mới thu ánh sáng
dựa theo mẫu của tự nhiên. Thiết bị bao gồm
rất nhiều chất màu “cho” được định hướng
ngẫu nhiên có thể hấp thụ ánh sáng thậm chí
từ mọi góc tới và đưa ánh sáng qua phễu lên
trên rất ít các phân tử “nhận” được sắp xếp
theo một hướng duy nhất để chiếu ánh sáng
lên thiết bị chuyển đổi quang điện. Kết quả có
thể giảm 10% tổn thất bên trong cho các bộ
thu năng lượng mặt trời trước đây.
Sau nhiều thí nghiệm, nhóm nghiên
cứu đã chứng minh bộ thu năng lượng mặt
trời mới hấp thụ gần 99% ánh sáng đi tới mà
chỉ gây tổn thất nhỏ nhờ khả năng tái hấp thụ
và phản xạ. Thiết bị cũng có hiệu suất lượng
tử chuyển hướng ánh sáng đạt 80%, mà theo
các nhà nghiên cứu là những thông số quan
trọng nhất vì nó phụ thuộc vào bước sóng cụ
thể của các photon.
Trong tương lai, nhóm nghiên cứu hy
vọng các thiết bị này có thể được xếp chồng
lên nhau với mỗi thiết bị chứa các chất màu
tương ứng với phạm vi quang phổ khác nhau
của ánh nắng mặt trời. Do vật liệu dùng chế
tạo thiết bị có giá cả phải chăng, nên cấu trúc
xếp chồng thiết bị có thể là phương pháp thu
năng lượng từ toàn bộ quang phổ mặt trời với
chi phí thấp và hiệu quả.
Peter Jomo Walla, trưởng nhóm
nghiên cứu cho biết: “Các chất màu được sử
dụng trong nghiên cứu ở giai đoạn đầu hiện
chỉ có vùng quang phổ màu xanh và không đủ
ổn định để tiếp xúc lâu với ánh nắng mặt trời.
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi cho phép
sàng lọc số lượng lớn chất màu ổn định khác
có khả năng hoạt động như bộ thu ánh sáng
hoặc bộ chuyển hướng ánh sáng. Chúng tôi
rất vui vì phát hiện ra chất màu ổn định và
những cấu trúc xếp chồng để bao trùm toàn
bộ quang phổ mặt trời với hiệu quả cao”.
Theo vista.gov.vn, 12/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 28/57
Kỹ thuật khâu nối mạng lưới nguyên tử
Việc kết hợp các loại vật liệu khác
nhau có thể dẫn đến rất nhiều những ý tưởng,
phát minh mang tính đột phá và được coi là
kỹ năng thiết yếu cho phép con người sáng
tạo ra tất cả mọi thứ: từ những tòa nhà cao
chọc trời (bằng phương pháp gia cố bê tông
bằng thép) đến pin năng lượng mặt trời (bằng
phương pháp xếp lớp vật liệu vào các điện tử
liên kết thành cụm). Trong một nghiên cứu
được đăng tải trên tạp chí Khoa học, các nhà
khoa học thuộc trường Đại học Cornell và
Đại học Chicago, Hoa Kỳ tìm ra kỹ thuật
"khâu" kết hợp hai lớp tinh thể với nhau để
tạo ra một loại vải có độ dày chỉ ở cấp độ
nguyên tử.
Trong sản xuất thiết bị điện tử, việc kết
hợp các vật liệu khác nhau có thể tạo ra vật
liệu tổng hợp - thành phần cơ bản nhất dùng
để chế tạo pin mặt trời, đèn LED và chip máy
tính. Đường nối giữa hai vật liệu càng mịn thì
các electrons càng dễ dàng di chuyển qua lớp
vải. Đây là điểm mấu chốt vì nó cho phép
thiết bị điện tử hoạt động hiệu quả. Tuy
nhiên, có nhiều loại vật liệu có cấu trúc tinh
thể gồm mạng lưới rất nhiều nguyên tử cố
định, bền vững nên việc trộn lẫn các tinh thể
không phải là giải pháp hợp lý.
Nhóm nghiên cứu lựa chọn khâu kết
hợp các mạng lưới tinh thể giống như lớp vải,
có độ dày bằng 3 nguyên tử. Jiwoong Park,
Giáo sư Hóa học tại Đại học Chicago, đồng
thời là tác giả chính của nghiên cứu, cho biết:
"Thông thường, sự kết tinh của những tinh thể
này trải qua nhiều giai đoạn, dưới những
điều kiện khác nhau; đầu tiên là việc sản xuất
một loại vật liệu, sau đó, tạm dừng công việc
này để thay đổi một số điều kiện, cuối cùng là
thực hiện quy trình lại từ đầu nhằm tạo ra
một loại vật liệu khác".
Kết quả là các nhà khoa học đã tạo ra
được loại vật liệu một lớp có cấu tạo hoàn hảo.
Họ đã thực hiện thao tác chuyển đổi tại những
vị trí mà hai mạng lưới tinh thể gặp nhau, một
trong hai mạng lưới sẽ kéo giãn ra hoặc phát
triển để đáp ứng thay vì để lại lỗ hổng hoặc sai
hỏng mạng tinh thể ở mạng còn lại.
David A. Muller, giáo sư vật lý ứng
dụng và kỹ thuật và là Giám đốc của Viện
Khoa học Nano Kavli tại Đại học Cornellcho
biết: "Chúng tôi đang vẫn đang cố gắng tìm
kiếm giải pháp khâu nối kết hợp hai loại vật
liệu vải với hai chỉ số đo số lượng sợi đan
khác nhau, trong đó, mỗi dãy nguyên tử được
coi là một sợi đan sợi, và không có sợi thừa.
Chúng tôi đã sử dụng máy dò điện tử mới mà
về cơ bản là một máy ảnh siêu nhanh, siêu
nhạy, có thể đo được mức độ co giãn tính từ
vị trí mối nối của hai loại vật liệu ở cấp độ
nguyên tử đến vị trí toàn bộ tấm vải được nối
với nhau, với mức độ chính xác tốt hơn một
phần ba của một phần trăm khoảng cách giữa
các nguyên tử".
Quan sát qua kính hiển vi cho thấy các
đường khâu nối nguyên tử rất chặt chẽ, chỉ
lớn hơn nếp gấp hai vật liệu xung quanh khớp
nối. Robert A. DiStasio Jr., trợ lý giáo sư
Khoa Hóa học và Sinh hóa, trường Cao đẳng
Nghệ thuật và Khoa học, Đại học Cornell và
là một trong những tác giả cao cấp của bài
báo cho biết: "Sự hình thành những nếp gấp
trong những vật liệu 2D bị biến dạng là chủ
đề cung cấp cho chúng ta nền đất màu mỡ để
khám phá cách thức liên kết giữa những mô
hình năng lượng đàn hồi mang tính vĩ mô với
các lý thuyết về những tương tác cơ bản tiềm
ẩn của van der Waals mang tính vi mô”.
Nhóm đã quyết định kiểm tra hiệu suất
của vật liệu trong điốt bán dẫn - một trong
những thiết bị điện tử được sử dụng rộng rãi
nhất. Hai loại vật liệu được khâu nối với
nhau, và các dòng điện tử sẽ chảy một chiều
dễ dàng qua lớp "vải" đặc biệt này.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 29/57
Saien Xie, một sinh viên ngành kỹ
thuật, đại học Cornell và là tác giả đầu tiên
viết bài báo, cho biết: "Thật thú vị khi nhìn
thấy những chiếc đèn LED có độ dày bằng 3
nguyên tử bật sáng. Hiệu suất hoạt động của
các loại vật liệu này quả thật rất xuất sắc”.
Khám phá này mở ra một số ý tưởng
thú vị trong sản xuất các thiết bị điện tử, trong
đó có thiết bị như đèn LED được thiết kế gồm
các lớp cấu trúc 3D và 2D xếp chồng lên
nhau và thường có cấu tạo bề mặt cứng. Tuy
nhiên, kỹ thuật mới này có khả năng tạo ra
những thay đổi cấu hình mới, như đèn LED
linh hoạt hoặc mạch 2D có độ dày ở cấp độ
nguyên tử dày, chạy theo chiều ngang.
Park lưu ý rằng quá trình kéo giãn và
nén có thể làm thay đổi màu sắc của tinh thể
do những hiệu ứng cơ học lượng tử. Điều này
cũng có nghĩa là cảm biến ánh sáng và đèn
LED hoàn toàn có thể được điều chỉnh theo
các màu khác nhau, ví dụ, vải cảm biến có
khả năng kéo giãn có thể thay đổi màu sắc khi
chúng bị kéo căng.
Theo vista.gov.vn, 26/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Phát triển thành công thiết bị chuyển đổi nhiệt cho các thiết bị điện tử
Các nhà nghiên cứu Trường Đại học
Illinois tại Urbana-Champaign đã phát triển
được một công nghệ mới để chuyển đổi dòng
nhiệt 'đóng hoặc 'mở. Các phát hiện này đã
được công bố trong tạp chí Applied Physics
Letters.
Thiết bị chuyển mạch được sử dụng để
kiểm soát nhiều sản phẩm công nghệ và hệ
thống kỹ thuật. Thiết bị chuyển mạch cơ được
sử dụng để khóa hoặc mở khóa cửa ra vào,
hoặc để lựa chọn bánh răng trong hệ thống
truyền động của xe hoặc thiết bị chuyển mạch
điện được sử dụng để bật và tắt đèn trong
phòng. Ở quy mô nhỏ hơn, các thiết bị
chuyển mạch điện dưới dạng bóng bán dẫn
được sử dụng để bật và tắt các thiết bị điện tử,
hoặc để định tuyến các tín hiệu logic trong
mạch.
Các kỹ sư từ lâu đã mong muốn
chuyển đổi luồng nhiệt, đặc biệt là trong các
hệ thống điện tử, nơi kiểm soát lưu lượng
nhiệt có thể cải thiện đáng kể hiệu năng và độ
tin cậy của hệ thống. Tuy nhiên họ gặp rất
nhiều thách thức trong việc tạo ra một chuyển
đổi nhiệt.
“Dòng nhiệt xuất hiện mỗi khi có sự
chênh lệch nhiệt giữa một vùng nào đó có
nhiệt độ cao hơn vùng nào đó có nhiệt độ
thấp hơn. Để kiểm soát luồng nhiệt này, nhóm
nghiên cứu thiết kế một đường dẫn nhiệt đặc
biệt giữa vùng nóng và vùng lạnh, và sau đó
tạo ra một cách phá vỡ đường dẫn nhiệt khi
cần thiết”, giáo sư William King, đồng chủ
nhiệm dự án, nói.
Nenad Miljkovic, Phó Giáo sư Khoa
Cơ học và Kỹ thuật và đồng chủ trì dự án nói,
“công nghệ này dựa trên sự chuyển động của
một giọt kim loại dạng lỏng. Các giọt kim loại
có thể xác định được vị trí để nối với một
đường dẫn nhiệt, hoặc di chuyển ra khỏi
đường đi dòng nhiệt để hạn chế lưu lượng
nhiệt”.
Các nhà nghiên cứu đã chứng minh
công nghệ này trong một hệ thống được mô
hình mẫu phỏng theo các hệ thống điện tử
hiện đại. Một phía của bộ chuyển đổi có một
nguồn nhiệt tương chưng các thành phần điện
tử năng lượng, và phía còn lại của bộ chuyển
đổi có bộ làm lạnh lỏng để tản nhiệt Khi bộ
chuyển đổi được bật, chúng có thể có thể giải
nhiệt nhiều hơn 10 W/cm2. Khi chuyển đổi đã
được tắt, dòng nhiệt giảm khoảng gần 100X.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 30/57
Ngoài King và Miljkovic, các tác giả
khác của bài báo bao gồm Paul Braun, giáo
sư về khoa học kỹ thuật và vật liệu, và là
giám đốc Phòng thí nghiệm Vật liệu; Tianyu
Yang, Beomjin Kwon , hai sinh viên đại học
và Patricia B. Weisensee, hiện là giáo sư khoa
học cơ khí và kỹ thuật tại Đại học
Washington; Jin Gu Kang và Xuejiao Li,
khoa học vật liệu và kỹ thuật.
King cho biết, bước tiếp theo cho
nghiên cứu sẽ là tích hợp thiết bị chuyển đổi
này với các thiết bị điện tử điện năng trên một
bảng mạch. Dự kiến các nhà nghiên cứu sẽ có
một nguyên mẫu hoạt động vào cuối năm nay.
Theo vista.gov.vn, 19/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Khai thác chất thải điện tử dư thừa để thu hồi polyme chất lượng cao
Theo một nghiên cứu mới do các nhà
khoa học tại Trung tâm Công nghệ bền vững
Illinois dẫn đầu, chất thải điện tử chứa nhựa
hỗn hợp có thể trở thành một nguồn polyme
tái sử dụng có giá trị. Nhóm nghiên cứu đã
phát triển được một quy trình tiết kiệm năng
lượng và thân thiện với môi trường, lần đầu
tiên tách polyme hỗn hợp để tái chế thành các
sản phẩm nhựa mới chất lượng cao.
Chất thải điện tử bắt nguồn từ tủ lạnh,
vi ti, máy tính, màn hình, điện thoại di động
và máy chơi game là gánh nặng ngày càng
lớn với các bãi chôn lấp và ngành công
nghiệp tái chế. Dù các thành phần của vật liệu
này như thủy tinh và kim loại rõ ràng có thể
tái chế, nhưng nhựa còn sót lại vẫn là thách
thức do thành phần của polyme phức hợp.
B.K. Sharma, đồng tác giả nghiên cứu
cho biết: “Các đồ vật như chai nước và bình
sữa có thể dễ dàng được tái chế vì chúng
được làm từ polyme đơn. Những đồ vật khác
như hộp điện thoại được làm từ polyme phức
hợp. Chúng được chất đống tại các cơ sở tái
chế và cuối cùng được đốt hoặc vận chuyển
đến các bãi chôn lấp vì không có phương
pháp nào an toàn hoặc hiệu quả để tái chế
chất thải này”.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí ACS Sustainable Chemistry &
Engineering, lần đầu tiên chứng minh quy
trình sử dụng dung môi hóa học không độc
hại, không phá hủy và tiết kiệm năng lượng để
thu hồi polyme từ hỗn hợp nhựa phức tạp này.
Sriraam Chandrasekaran, kỹ sư nghiên
cứu và là một trong các tác giả nghiên cứu
cho rằng: “Quy trình được áp dụng để hòa
tan polyme công nghiệp không hoàn toàn
khác với việc sản xuất kẹo cứng. Với kẹo, bạn
phải hòa tan các hạt đường trong nước và thu
hồi polyme trong trường hợp này là kẹo.
Trong phòng thí nghiệm, chúng tôi sử dụng
polyme nhựa thay cho đường và dung môi mà
chúng tôi sử dụng mạnh hơn nước”.
Các phương pháp dùng dung môi hiệu
quả nhất hiện nay là sử dụng hóa chất DCM,
giải phóng hơi hóa chất gây ung thư vào
không khí trong điều kiện nhiệt độ gần bằng
nhiệt độ phòng. Hơi hóa chất này gây ô
nhiễm nơi làm việc và có thể bay vào khí
quyển. Chandrasekaran cho biết: “Quy trình
của chúng tôi sử dụng dung môi NMP sẽ chỉ
giải phóng hơi hóa chất khi được đun nóng ở
nhiệt độ 180 độ C, cao hơn nhiều nhiệt độ
cần để hòa tan polyme”.
Đặc trưng của quy trình mới là khả
năng ngưng tụ dung môi bay hơi để tái sử
dụng nhiều lần. Mục tiêu của nghiên cứu này
không chỉ tìm cách tái chế chất thải hỗn hợp
nhựa dồi dào, mà còn hiệu quả hơn theo cách
thân thiện với môi trường. Quy trình mới chỉ
để lại dư lượng chất thải polyme nhất định.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 31/57
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu có thể chuyển
đổi dư lượng chất thải này thành dầu nhiên
liệu hữu ích thông qua quy trình nhiệt phân, do
đó, không cần phải chuyển đến bãi chôn lấp.
Quy trình mới sử dụng dung môi đã
được chứng minh thành công ở quy mô
phòng thí nghiệm và tạo ra polyme có chất
lượng sánh ngang với polyme được chế từ vật
liệu nguyên chất. Bước tiếp theo, polyme tái
chế sẽ được sử dụng cho quy trình sản xuất để
kiểm tra chất lượng. Nếu thành công, nhóm
nghiên cứu sẽ triển khai các dự án thí điểm.
Theo vista.gov.vn, 22/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Tái sử dụng nhựa để xử lý chất thải
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Bristol đã tìm ra cách tái sử dụng loại nhựa
phổ biến để phân hủy thuốc nhuộm độc hại
trong nước thải. Nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí ACS Applied Materials and
Interface mô tả phương thức xử lý thuốc
nhuộm tổng hợp được sử dụng trong ngành
công nghiệp may mặc trên toàn thế giới bằng
nhựa polystyrene có trong bao bì.
Vật liệu thông minh được sản xuất từ
polystyrene nhờ phương pháp mới làm đông
đặc và chuyển đổi sang trạng thái hỗ trợ các
hạt nano. Ở trạng thái rắn, vật liệu có thể
được sử dụng để phân hủy thuốc nhuộm tổng
hợp độc hại, được biết đến là chất gây ung
thư và hoạt động như độc tố ảnh hưởng đến
khả năng sinh sản ở người và động vật.
Julian Eastoe, đồng tác giả nghiên cứu
cho rằng: “Sau khi bộ phim dài tập có tên là
“Hành tinh xanh II” do BBC phát gần đây,
nhấn mạnh đến quy mô của rác thải nhựa
(còn gọi là ô nhiễm trắng) trong các đại
dương, thì việc phát triển các quy trình phá
hủy, tái chế hoặc tái sử dụng nhựa thải là vô
cùng quan trọng. Nghiên cứu chứng minh một
phương pháp triển vọng để biến đổi phần nào
lượng chất thải nhựa gây ô nhiễm đại dương
thành tài nguyên để giải quyết sự cố môi
trường. Có nhiều loại chất độc và nguy hại,
bao gồm thuốc nhuộm tổng hợp, vẫn đang
tiếp tục được giải phóng vào trong dòng nước
thải công nghiệp, chủ yếu do thiếu các
phương pháp xử lý hiệu quả. Các nghiên cứu
gần đây đã chỉ rõ thuốc nhuộm ô nhiễm này
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh
thái thủy sinh, do vậy, việc triển khai các
phương pháp xử lý hợp chất này khỏi dòng
thải công nghiệp đang trở nên ngày càng
quan trọng”.
Nghiên cứu mới vừa xem xét tái sử
dụng nhựa để chế tạo vật liệu mới và vừa sử
dụng vật liệu này để giải quyết tình trạng ô
nhiễm nước do thuốc nhuộm. Bước đột phá
này sẽ thu hút sự quan tâm của các công ty
nước trên toàn thế giới và giai đoạn tiếp theo,
các nhà khoa học sẽ nghiên cứu cách để xử lý
các chất ô nhiễm khác.
Các chất ô nhiễm như thuốc nhuộm, có
thể phân hủy nhờ quy trình oxy hóa chủ động
(AOP) thường liên quan đến chất xúc tác
quang không đồng nhất (ở trạng thái rắn) để
biến đổi các chất ô nhiễm thành sản phẩm ít
độc hại như nước và CO2. Trong nghiên cứu
mới, nhựa thải (poly(styrene) được tái sử
dụng để cho ra đời chất rắn xốp bằng cách
làm đông đặc nó trong dung dịch, trong đó,
cyclohexane đóng vai trò như dung môi (nhiệt
độ đông đặc +6°C). Khi dung môi được loại
bỏ, để lại xốp poly(styrene) nhựa rắn. Sau đó,
vật liệu này có thể được phủ các hạt nano xúc
tác quang, tạo nên chất xúc tác quang ở trạng
thái rắn có thể được kết hợp vào các mẫu
nước thải ô nhhiễm để phân hủy thuốc nhuộm
như Rhodamine B. Đây là loại thuốc nhuộm
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 32/57
bị cấm phục vụ mục đích sản xuất thực phẩm,
nhưng được sử dụng rộng rãi trong các nhà
máy xử lý nước thải để phát hiện rò rỉ.
Theo vista.gov.vn, 28/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Gỗ nano có thể giảm phát thải cacbon
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Maryland đã thiết kế được vật liệu gỗ cách
nhiệt vừa nhẹ và lại chắc hoàn toàn từ sợi gỗ
nhỏ tách rời. Loại gỗ nano này trong tương lai
sẽ được sử dụng để xây dựng các tòa nhà tiêu
thụ năng lượng hiệu quả. Bên cạnh đó, gỗ
nano cũng có giá thành rẻ và có thể phân hủy
sinh học. Nghiên cứu đã được công bố trên
tạp chí Science Advanced.
Kiểm soát nhiệt là vấn đề chủ yếu tại
các thành phố. Giữ nhiệt trong nhà vào mùa
đông và tản nhiệt ra ngoài vào mùa hè là việc
làm khó khăn. Vật liệu cách nhiệt hiện được
sử dụng thường có chi phí sản xuất đắt đỏ.
Hơn nữa, vật liệu này thường không phân hủy
sinh học và cuối cùng được đưa đến các bãi
chôn lấp. Do đó, các nhà khoa học đang cố
gắng tìm ra những biện pháp thay thế giá rẻ
và thân thiện với môi trường.
Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học
Maryland đã chế tạo được vật liệu chắc chắn
được gọi là siêu gỗ bằng cách loại bỏ một
phần lignin của gỗ - loại polymer duy trì liên
kết xenlulô trong gỗ, gần giống như keo và
hemixenlulô, một thành phần khác của mô
gỗ.
Nhưng đối với dự án này, các nhà khoa
học đã loại bỏ toàn bộ lignin và hầu hết
hemixenlulô. Lignin dẫn nhiệt rất tốt, nghĩa là
có thể sẽ trở thành chất cách nhiệt rất hiệu
quả. Không có tất cả các lignin đó, vật liệu gỗ
chuyển sang màu trắng tinh, cho phép phản
xạ ánh sáng đi đến hơn là hấp thụ ánh sáng
(cũng giúp ngăn chặn nhiệt).
Bí mật về khả năng cách nhiệt của gỗ
nano một phần nằm ở cấu trúc. Xốp
styrofoam có tính chất đẳng hướng, nên về cơ
bản giống nhau từ mọi góc độ. Nhưng gỗ
nano lại có tính chất dị hướng: Các sợi được
bó song song với nhau, do đó, trông khác
nhau từ nhiều góc độ. Nhiệt có thể dễ dàng di
chuyển lên trên và xuống dưới sợi, nhưng
không thể đi qua chúng, là vì khe hở tạo
thành sau khi loại bỏ chất làm đầy bằng gỗ
(lignin và hemixenlulô).
Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng
gỗ nano tốt như chất cách nhiệt styrofoam và
thậm chí còn nhẹ hơn và cũng được đánh giá
cao hơn các vật liệu khác. Gỗ nano chịu được
áp suất 13 Mpa. Nanoxenlulô có giá thành
chế biến tương đối rẻ với chi phí 7,44
USD/m2. Trong các điều kiện phù hợp, vi
khuẩn ăn nanoxenlulô, khiến nó có thể phân
hủy sinh học.
Theo Liangbing Hu, nhà khoa học vật
liệu và là đồng tác giả nghiên cứu, vật liệu
phân hủy sinh học chắc chắn, trọng lượng nhẹ
và cách nhiệt sẽ có nhiều ứng dụng trong
tương lai. Nó có thể được sử dụng để xây các
tòa nhà chọc trời, chế tạo ô tô và thậm chí bảo
vệ các thiết bị điện tử dễ bị nhiệt tác động ở
trên Trái đất hoặc trong không gian.
Theo vista.gov.vn, 23/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 33/57
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0018305 Dược phẩm chứa corticosteroit giải phóng có kiểm soát để điều trị rối loạn liên quan đến tai
Tác giả: Lichter Jay (US), Vollrath
Benedikt (DE), Trammel Andrew M. (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến dược phẩm chứa
corticosteroit giải phóng có kiểm soát để điều
trị rối loạn liên quan đến tai. Dược phẩm theo
sáng chế được sử dụng khu trú cho cá thể
đang bị rối loạn liên quan đến tai thông qua
việc đưa trực tiếp dược phẩm lên trên cấu trúc
tai đích hoặc thông qua việc truyền vào cấu
trúc tai đích.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018317 Hợp chất catecholamin và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Joergensen Morten (DK),
Bang-Andersen Benny (DK), Pueschl Ask
(DK), Moerk Niels (DK), Larsen Jennifer
(CA).
Quốc gia: Đan Mạch
Sáng chế đề cập đến các dẫn xuất
catecholamin mới có công thức I, quy trình
điều chế hợp chất này, dược phẩm chứa hợp
chất này để sử dụng trong việc điều trị bệnh.
.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018324 Hợp chất quinoxalin vòng lớn dùng làm chất ức chế NS3 proteaza của virut viêm gan C và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Harper Steven (GB), Summa
Vincenzo (IT), Liverton Nigel J. (GB),
Mccauley Johh A. (US).
Quốc gia: Ý, Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất vòng lớn
có công thức (I):
để sử dụng làm chất ức chế NS3 proteaza của
virut viêm gan C (hepatitis C virus - HCV).
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến dược phẩm
chứa hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 34/57
1-0018327 Hợp chất ức chế protein kinaza và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Linnanen Tero (FI),
Wohlfahrt Gerd (GM), Nanduri Srinivas
(IN),…
Quốc gia: Phần Lan
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức (I):
trong đó R3, R4, G, B, M, và Z như được xác
định trong yêu cầu bảo hộ, và muối dược
dụng của nó. Hợp chất có công thức (I) có tác
dụng ức chế yếu tố sinh trưởng nguyên bào
sợi (Fibroblast Growth Factor Receptor -
FGFR) và có tác dụng điều trị bệnh như bệnh
ung thư, trong đó việc ức chế FGFR kinaza là
cần thiết để tạo ra lợi ích trị liệu.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018368 Hợp chất có bốn vòng và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Kinoshita Kazutomo (JP),
Asoh Kohsuke (JP), Furuichi Noriyuki (JP),
Ito Toshiya (JP),…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức chung (I) dưới đây, hoặc muối hoặc
solvat của nó:
trong đó, các các ký hiệu trong công thức
trên đây là như được xác định trong phần mô
tả, hợp chất này hữu ích dùng làm thuốc ức
chế bạch huyết bào kinaza tự ghép
(Anaplastic Lymphoma Kinase - ALK), và
hữu ích để phòng hoặc điều trị bệnh đi kèm
với sự bất thường ở ALK, ví dụ, ung thư, ung
thư di căn, chứng trầm cảm hoặc rối loạn
chức năng nhận biết.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018370 Hợp chất 4-(4-xyano-2-thioaryl)dihydropyrimidinon, quy trình điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Von Nussbaum Franz (DE),
Karthaus Dagmar (DE), Anlauf Sonja (DE),
Delbeck Martina (DE),…
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến các hợp chất 4-
(4-xyano-2-thioaryl)dihydropyrimidin-2-on,
quy trình điều chế hợp chất này và dược
phẩm chứa chúng. Các hợp chất theo sáng
chế, ở dạng riêng rẽ hoặc kết hợp, là hữu ích
để điều trị và/hoặc phòng ngừa bệnh, cũng
nh- hữu ích để bào chế dược phẩm dùng để
điều trị và/hoặc phòng ngừa bệnh, cụ thể là
điều trị và/hoặc phòng ngừa các rối loạn phổi
và hệ tim mạch.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 35/57
1-0018371 Hợp chất 5,6-đihyđro-imiđazo[1,2-a]pyrazin-8-ylamin hữu dụng làm chất ức chế beta-secretaza (BACE), dược phẩm chứa hợp chất này và
quy trình bào chế dược phẩm này
Tác giả: Trabanco-Suarez Andrés
Avelino (ES), Delgado-Jimenez Francisca
(ES), Vega Ramiro Juan Antonio (ES),…
Quốc gia: Bỉ
Sáng chế đề cập đến các hợp chất 5,6-
đihyđro-imiđazo[l,2-a]pyrazin-8-ylamin được
dùng làm chất ức chế beta-secretaza, còn
được biết là enzym phân cắt tinh bột ở vị trí
beta, BACE, BACE1, Asp2 hoặc
memapsin2. Sáng chế đề cập đến dược phẩm
chứa hợp chất này, quy trình điều chế hợp
chất và quy trình bào chế dược phẩm này;
hợp chất và dược phẩm theo sáng chế được
sử dụng để ngăn ngừa và điều trị các rối loạn
liên quan đến beta-secretaza, như bệnh
Alzheimer (AD), suy giảm nhận thức nhẹ,
bệnh lão hoá, bệnh sa sút trí tuệ, bệnh sa sút
trí tuệ thể Lewy, mạch máu não nhiễm tinh
bột, bệnh sa sút trí tuệ đa nhồi máu, hội
chứng Down, bệnh sa sút trí tuệ liên quan
đến đột quỵ, bệnh sa sút trí tuệ liên quan đến
bệnh Parkinson hoặc bệnh sa sút trí tuệ liên
quan đến tinh bột beta.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018398 Hợp chất quinolin và quinoxalin dùng làm chất ức chế kinaza và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Parton Andrew Harry (GB),
Ali Mezher Hussein (GB), Brookings Daniel
Christopher (GB), Brown Julien Alistair
(GB),…
Quốc gia: Bỉ
Sáng chế đề cập đến hợp chất quinolin
và qinoxalin có mạch nhánh etyl được flo hóa
có công thức (I):
trong đó các ký hiệu là như được xác định
trong bản mô tả, dùng làm chất ức chế chọn
lọc enzym phosphoinositit 3-kinaza
(Phosphoinositide 3-kinase - PI3K), do đó
hữu ích trong y tế, ví dụ, để điều trị tình trạng
bệnh lý viêm bất lợi, bệnh tự miễn, bệnh tim
mạch, bệnh thoái hóa thần kinh, bệnh chuyển
hóa, bệnh ung thư, tình trạng đau nhức hoặc
bệnh về mắt.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018284 Dược phẩm chứa prasugrel và quy trình bào chế dược phẩm này
Tác giả: Feher András (HU),
Zsigmond Zsolt (HU), Tonka-Nagy Peter
(HU), UjfalussyGyorgy (HU)
Quốc gia: Hungary
Sáng chế đề cập đến dược phẩm chứa
prasugrel dùng qua đường miệng ổn định giải
phóng nhanh chứa bazơ prasugrel đã nghiền
thành bột mịn, và tinh bột hoặc dẫn xuất tinh
bột, và quy trình bào chế dược phẩm này.
Dược phẩm này được dùng để điều trị các
biến cố huyết khối do xơ vữa động mạch ở
bệnh nhân bị hội chứng mạch vành cấp, trong
đó các bệnh nhân này được can thiệp động
mạch vành dưới da.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 36/57
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018278 Phương pháp sản xuất viên nén nền sáp chứa kali xitrat giải phóng kéo dài
Tác giả: Mendoza Wendell G. (PH),
Santos Rita Josefina, M. (PH), Singh Eulogio
C. (PH), Dee Kennie U. (PH)
Quốc gia: Philippin
Sáng chế đề cập đến phương pháp sản
xuất viên nén chứa kali xitrat giải phóng kéo
dài chứa sáp carnauba, phương pháp này bao
gồm việc gia nhiệt hỗn hợp kali xitrat-sáp
carnauba đến nhiệt độ thấp hơn so với nhiệt
độ mà tại đó sáp carnauba hóa lỏng. Phương
pháp theo sáng chế làm đơn giản việc tạo ra
viên nén nền sáp chứa kali xitrat giải phóng
kéo dài.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018417 Hợp chất indazol được thế bằng amit dùng làm chất ức chế poly(ADP-riboza)polymeraza (PARP) và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Jones Philip (GB), Ontoria
Ontoria Jesus Maria (ES), Scarpelli Rita (IT),
Schultz-Fademrecht Carsten (DE) .
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức I:
và muối dược dụng, chất đồng phân lập thể
hoặc tautome của chúng. Hợp chất này là
chất ức chế poly (ADP-riboza) polymeraza
(PARP) và do đó là hữu dụng để điều trị
bệnh ung thư, các bệnh viêm, tổn thương do
cấp máu, bệnh thiếu máu cục bộ, bệnh đột
quỵ, chứng suy thận, các bệnh tim mạch, các
bệnh về mạch ngoài các bệnh tim mạch, bệnh
đái tháo đường, các bệnh thoái hóa thần kinh,
bệnh nhiễm retrovirut, tổn thương võng mạc
hoặc bệnh lão hóa da và tổn thương da do tia
uv gây ra, và để làm chất nhạy phóng xạ
và/hoặc nhạy hóa học để điều trị bệnh ung
thư.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018422 Hợp chất uraxil hoặc thymin và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Wagner Rolf (US), Tufano
Michael D. (US), Stewart Kent D. (US),…
Quốc gia: Bermuda
Sáng chế đề cập đến (a) hợp chất hoặc
muối của nó hữu ích dùng làm chất ức chế
virut gây bệnh viêm gan C; (b) hợp chất trung
gian hữu ích để điều chế hợp chất hoặc muối
này; (c) dược phẩm chứa hợp chất hoặc muối
này; (d) phương pháp điều chế hợp chất trung
gian, hợp chất, muối và dược phẩm nêu trên;
(e) kit chứa hợp chất, muối và dược phẩm nêu
trên.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 37/57
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018456 Hợp chất etynyl dùng làm chất điều biến biến cấu dương của thụ thể glutamat hướng chuyển hóa kiểu phụ 5 (mGluR5), quy trình điều chế
và dược phẩm chứa chúng
Tác giả: Georg Jaeschke (DE), Synese
Jolidon (CH), Lothar Lindemann (DE), Heinz
Stadler (CH), Eric Vieira (CH).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến hợp chất etynyl
có công thức I:
trong đó X là N hoặc C-R, trong đó R là
hydro hoặc halogen; G là N hoặc CH; với
điều kiện là tối đa một trong số G hoặc X có
thể là nitơ; R1 là phenyl hoặc pyridinyl, được
thế tùy ý bằng halogen; R2 là hydro, alkyl
thấp, hydroxy, alkoxy thấp hoặc
C(O)Obenzyl; R3, R
3', R
4, R
4', R
6, R
6 độc lập
với nhau là hydro hoặc alkyl thấp; hoặc R6 và
R4 cùng với nguyên tử cacbon mà chúng gắn
vào có thể tạo ra vòng C4-6-xycloalkyl, nếu m
bằng 0 và n bằng 1 hoặc 2; R5 là hydro hoặc
alkyl thấp; n bằng 0, 1 hoặc 2; m bằng 0 hoặc
1; với điều kiện là n và m không đồng thời
bằng 0; hoặc muối cộng axit dược dụng, hỗn
hợp raxemic, hoặc chất đồng phân đối ảnh
và/hoặc chất đồng phân quang học và/hoặc
chất đồng phân lập thể tương ứng của nó.
Hợp chất có công thức chung I theo sáng chế
là các chất điều biến biến cấu dương (PAM)
của thụ thể glutamat hướng chuyển hóa kiểu
phụ 5 (mGluR5). Các hợp chất này có thể
được sử dụng để điều trị bệnh tâm thần phân
liệt hoặc rối loạn nhận thức.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018457 Hợp chất betulin và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Hatcher Mark Andrew (US),
Johns Brian Alvin (US), Martin Michael
Tolar (US), Tabet Elie Amine (US), Tang Jun
(CN).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có cấu
trúc theo công thức (I)’:
hoặc muối dược dụng của nó. Hợp chất theo
sáng chế là hữu hiệu để điều trị hoặc ngăn
ngừa tình trạng nhiễm HIV.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
360/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 38/57
1-0018473 Hợp chất anamorelin hyđroclorua tách được ở dạng rắn, dược phẩm chứa hợp chất này và phương pháp bào chế dược phẩm dạng liều
Tác giả: Shin-itsu Kuwabe (JP),
Takehiko Yanagimachi (JP), Hideyuki
Yoshiyama (JP),…
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến hợp chất
anamorelin monohyđroclorua dạng hạt hoặc
chế phẩm chứa anamorelin monohyđroclorua
có hàm lượng clorua được kiểm soát, tốt hơn
là được tách ở trạng thái vô định hình
và/hoặc hạt mịn, quy trình sản xuất
anamorelin monohyđroclorua dạng hạt, và
dược phẩm chứa anamorelin monohyđro
clorua dạng hạt này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018496 Hợp chất pyridin dạng vòng đơn và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Funasaka Setsuo (JP), Okada
Toshimi (JP), Tanaka Keigo (JP),…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức (IA) hoặc muối dược dụng của nó:
trong đó n là số nguyên từ 0 đến 2; A là
nhóm arylen hoặc nhóm heteroarylen; G là
liên kết đơn, nguyên tử oxy hoặc -CH2-; E là
dị vòng không thơm chứa nitơ; R1 là nhóm
alkoxy, nhóm alkoxy alkoxy hoặc các nhóm
tương tự; R2 là nguyên tử hydro, nguyên tử
halogen, nhóm hydroxyl, nhóm alkyl, nhóm
hydroxy alkyl, nhóm dị vòng không thơm
chứa nitơ hoặc nhóm tương tự; R3 là nguyên
tử hydro, nhóm alkyl, nhóm alkoxy hoặc các
nhóm tương tự; và R4 là nhóm C1-6 alkyl, với
điều kiện là nếu E là vòng azetidin và R2
hoặc R3 có mặt trên nguyên tử nitơ trên vòng
azetidin này, R2 hoặc R
3 này không phải là
nguyên tử hydro.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018310 Hợp chất lipit, chế phẩm và dược phẩm chứa hợp chất lipit này và phương pháp điều chế hợp chất lipit này
Tác giả: Hovland Ragnar (NO),
Holmeide Anne Kristin (NO), Skjaeret Tore
(NO), Braendvang Morten (NO)
Quốc gia: Norway
Sáng chế đề cập đến hợp chất lipit có
công thức chung (I): R1-O-C(R2)(R3)-X (I)
trong đó R1 là nhóm C10-C22 alkyl, nhóm C10-
C22 alkenyl có 1 đến 6 liên kết đôi, hoặc
nhóm C10-C22 alkynyl có 1 đến 6 liên kết ba;
R2 và R3 giống nhau hoặc khác nhau và có thể
được chọn từ các nhóm thế khác nhau; và X
là axit carboxylic hoặc dẫn xuất của nó, như
este carboxylic, carboxylic anhydrit,
phospholipit, triglyxerit, carboxamit; hoặc
muối dược dụng, solvat, solvat của muối này
hoặc tiền dược chất của chúng. Sáng chế cũng
đề cập đến dược phẩm và chế phẩm chứa lipit
bao gồm ít nhất một hợp chất theo sáng chế,
và sáng chế đề cập đến các hợp chất này dùng
làm thuốc hoặc dùng để điều trị, cụ thể là để
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 39/57
điều trị bệnh có liên quan đến tim mạch,
chuyển hóa, và vùng bị viêm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018449 Hợp chất Nalmefene hydroclorua dihydrat, phương pháp điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Heidi Lopez De Diego (DK),
Carla De Faveri (IT), Florian Anton Martin
Huber (IT).
Quốc gia: Đan Mạch, Phần Lan
Sáng chế đề cập đến hợp chất
Nalmefene hydroclorua dihydrat, phương
pháp điều chế hợp chất này, dược phẩm chứa
hợp chất Nalmefene hydroclorua dihydrat và
hợp chất Nalmefene hydroclorua dihydrat
được sử dụng trong trị liệu.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018481 Hợp chất chứa mesogen, polyme, chế phẩm tinh thể lỏng và vật phẩm chứa hợp chất này và phương pháp chế tạo bộ phận dùng cho mắt
Tác giả: He Meng (US), Dai Xiao-
Man (US), Xu Ruisong (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất chứa
mesogen. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến
polyme, chế phẩm tinh thế lỏng và vật phẩm
chứa hợp chất chứa mesogen này và phương
pháp chế tạo bộ phận dùng cho mắt.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018468 Chế phẩm diệt khuẩn
Tác giả: Biliaieva Olga O (UA),
Neshta Viacheslav V. (UA).
Quốc gia: Áo
Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt
khuẩn có tác dụng làm tiêu mô hoại tử để
điều trị vết thương có mủ, loét do dinh
dưỡng, vết thương và thâm nhiễm với thành
phần hoại tử và dịch rỉ đáng kể, chế phẩm
này bao gồm chất hấp thụ silic oxit và dược
chất được cố định trên đó, trong đó aerosil là
chất hấp thụ silic oxit và seratiopeptidaza là
dược chất.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018469 Hợp chất diệt nấm và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Greenlee Mark, L. (US),
Wilkening Robert (US), Apgar James
(US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến các hợp chất
mới và các muối dược dụng, các hydrat và
tiền dược chất của chúng, các dược phẩm
chứa các hợp chất này, việc tổng hợp các hợp
chất này. Các hợp chất này có tác dụng diệt
nấm và/hoặc chất ức chế sự tổng hợp (1,3)-β-
Dglucan. Các hợp chất theo sáng chế là các
dẫn xuất của enfumafungin. Các hợp chất
mới theo sáng chế, các muối dược dụng, các
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 40/57
hydrat và các tiền dược chất, và các dược
phẩm chứa các hợp chất, các muối, các
hydrat và/hoặc các tiền dược chất này, có
hiệu quả điều trị và/hoặc phòng trừ chống
nhiễm nấm và các bệnh và tình trạng bệnh
liên quan đến nấm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018517 Chế phẩm bảo quản hồng cầu
Tác giả: Hess John, R. (US),
Greenwalt Tibor, G. (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm bảo
quản hồng cầu về cơ bản chứa: adenin,
dextroza, ít nhất một đường bảo vệ màng
không chuyển hoá được, và hệ đệm xác định
độ pH cụ thể. Sáng chế cũng đề cập đến
phương pháp cải tiến đế bảo vệ hồng cầu và
phương pháp làm tăng khả năng sống sót,
khả năng giữ màng, và khả năng phục hồi
trong khi loại bỏ cơ chế gây chết tế bào theo
chương trình, sự tan huyết, độ thanh thải của
hồng cầu sau tái tuần hoàn của hồng cầu
được bảo quản có sử dụng chế phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018192 Thiết bị cầm tay sử dụng điện để điều trị da
Tác giả: Bruno Gimelli (CH), James
N. Doyle Jr. (US).
Quốc gia: Hong Kong
Sáng chế đề xuất thiết bị cầm tay sử
dụng điện để điều trị da, trong đó dòng điện
được cho chạy vào da qua điện cực (3) để các
thành phần hoạt tính của một loại kẽm đã
được thoa vào da trước đó có thể thấm vào da
tốt hơn. Thiết bị được trang bị một mạch sạc
và pin có thể sạc (73) được bố trí trong ngăn
chứa (72) ở dưới đáy thiết bị. Ngăn chứa (72)
này được bao bởi nắp ngăn chứa (77) trên đó
bố trí một ổ cắm kết nối (82) có thể được kết
nối với một nguồn điện bên ngoài để sạc pin
(73). Nắp vỏ (75) được bố trí trên nắp ngăn
chứa (77). Nắp vỏ (75) ngang bằng với
đường viền ngoài của vỏ thiết bị.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018133 Chỉ khâu không thắt nút
Tác giả: Kim Young Jae (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến chỉ khâu được
giữ và cố định một cách chắc chắn vào vị trí
mổ để duy trì ổn định tác dụng khâu hoặc
nâng trong thời gian dài. Cụ thể hơn, sáng
chế đề xuất chỉ khâu có dạng hình nón cụt
hoặc dạng hình chóp cụt, trong đó phần đỡ
chỉ khâu có lỗ thông xuyên qua cả hai đầu
được bố trí ở một đầu chỉ. Phần đỡ chỉ khâu
có thể có một hoặc nhiều phần bị cắt theo
phương thẳng đứng từ đầu dưới ở phần đầu
dưới có đường kính lớn giữa hai đầu hoặc
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 41/57
một phần của đầu dưới có thể bị loại bỏ để
tạo thành một hoặc nhiều khe được tạo ra ở
đầu trên thành của phần đầu.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018493 Kháng thể đặc hiệu kép, hoá trị hai và phương pháp sản xuất kháng thể này
Tác giả: Klein Christian (DE),
Schaefer Wolfgang (DE).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến kháng thể đặc
hiệu kép, hoá trị hai, được trao đổi miền,
phương pháp sản xuất và dược phẩm chứa
kháng thể này. Ngoài ra, sáng chế cũng đề
cập tế bào chủ sản xuất ra kháng thể đặc hiệu
kép, hóa trị hai theo sáng chế.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018319 Kháng thể đặc hiệu kép liên kết với IL-4 và IL-13 và dược phẩm chứa kháng thể này
Tác giả: Rao Ercole (DE), Mikol
Vincent (FR), Li Danxi (US), Kruip Jochen
(DE), Davison Matthew (DE).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến kháng thể và
mảnh kháng thể được làm giống như của
người kháng IL-4 và IL-13 và kháng thể và
mảnh kháng thể đặc hiệu kép liên kết đặc
hiệu với IL-4 và IL-13. Sáng chế còn đề cập
đến dược phẩm chứa kháng thể này để điều
trị hoặc ngăn ngừa bệnh hoặc rối loạn do IL-4
và/hoặc IL-13 gây ra, bao gồm bệnh hen dị
ứng và viêm da.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018369 Kháng thể kháng CD79b, thể tiếp hợp miễn dịch và dược phẩm chứa kháng thể này
Tác giả: Chen Yvonne (US), Dennis
Mark (US), Dornan David (GB), Elkins
Kristi (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến kháng thể kháng
CD79b. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến thể
tiếp hợp miễn dịch và dược phẩm chứa kháng
này. Trong đó, kháng thể, thể tiếp hợp miễn
dịch và dược phẩm này là hữu ích để điều trị
khối u tế bào tạo huyết ở động vật có vú.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 42/57
1-0018421 Kháng thể của người liên kết với phối tử giống delta 4 của người, phân tử axit nucleic mã hóa kháng thể này và dược phẩm chứa kháng thể này
Tác giả: Papadopoulos Nicholas J.
(US), Martin Joel H. (US), Smith Eric
(US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến kháng thể hoặc
đoạn kháng thể của người liên kết đặc hiệu
với phối tử giống, delta 4 của ng-ời (hD114)
và ngăn chặn sự liên kết của hD114 với thụ
thể Notch. Kháng thể kháng hD114 của ng-ời
hoặc đoạn kháng thể này liên kết với hD114
với ái lực ≤ 500pM như được xác định bằng
phương pháp cộng hưởng plasmon bề mặt.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến phân tử
axit nucleic được phân lập mã hoá kháng thể
hoặc đoạn liên kết kháng nguyên, vector
chứa phân tử axit nucleic, tế bào chủ được
phân lập chứa vector, phương pháp sản xuất
kháng thể kháng D114 của người hoặc đoạn
liên kết kháng nguyên của nó và dược phẩm
chứa kháng thể hoặc đoạn kháng thể này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018419 Phương pháp tổng hợp và tinh chế hợp chất heteroaryl
Tác giả: Harris Roy L. (US), Sapienza
John (US), Shevlin Graziella (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến phương pháp
điều chế hợp chất heteroaryl có công thức (I)
hoặc (II):
trong đó R1-R
4 là như được xác định như
trong bản mô tả. Các hợp chất heteroaryl này
hữu ích trong điều trị hoặc phòng ngừa các
bệnh ung thư, tình trạng viêm, bệnh miễn
dịch, bệnh thoái hóa thần kinh, bệnh đái tháo
đường, bệnh béo phì, rối loạn thần kinh, bệnh
liên quan đến tuổi già, hoặc bệnh tim mạch.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018454 Chất ức chế Janus kinaza 2 (JAK2) và dược phẩm chứa nó để điều trị bệnh tăng sinh tủy xương và bệnh ung thư
Tác giả: Purandare Ashok V. (US),
Grebinski James W. (US), Hart Amy (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức (I):
và các muối dược dụng của nó. Các hợp chất
có công thức (I) ức chế hoạt tính tyrosin
kinaza của JAK2 (Janus kinaza 2), nhờ đó
chúng hữu ích trong kìm hãm các tác nhân
tăng sinh để điều trị bệnh ung thư và các bệnh
khác. Sáng chế còn đề cập đến dược phẩm để
điều trị bệnh tăng sinh tủy xương và bệnh ung
thư chứa các hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 43/57
1-0018535 Polypeptit được phân lập và dược phẩm chứa polypeptit này để điều trị tình trạng rối loạn trao đổi chất
Tác giả: Belouski Edward John (US),
Ellison Murielle Marie (US), Hamburger
Agnes Eva (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến phân tử axit nucleic
mã hóa polypeptit đột biến FGF21, dược
phẩm chứa polypeptit đột biến FGF21 này để
điều trị tình trạng rối loạn trao đổi chất.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018396 Quy trình điều chế canxi cacbonat đã được xử lý bề mặt
Tác giả: Gane Patrick A., C. (GB),
Gerard Daniel (CH).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề xuất quy trình điều chế
canxi cacbonat đã được xử lý bề mặt trong
môi trường nước. Quy trình theo sáng chế
nhằm mục đích hạn chế việc sử dụng các axit
từ mạnh vừa đến mạnh. Sáng chế cũng đề
cập đến huyền phù trong nước của canxi
cacbonat đã được xử lý bề mặt được tạo ra
bởi quy trình này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0018122 Sản phẩm sữa có hàm lượng calo thấp và phương pháp sản xuất sản phẩm sữa này
Tác giả: Navarro Y Koren Maria
Isabel (NL), Leenders , Gerardus Jozef Maria
(NL).
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến sản phẩm sữa có
giá trị calo được giảm bớt. Cụ thể, sáng chế
đề cập đến các sản phẩm sữa ngon có hàm
lượng calo thấp, lactoza thấp và các phương
pháp sản xuất các sản phẩm này. Sản phẩm
sữa có hàm lượng calo thấp theo sáng chế
khác biệt bởi hàm lượng chất béo thấp hơn
1,5% trọng lượng, hàm lượng lactoza thấp
hơn 4% trọng lượng, hàm lượng protein nằm
trong khoảng từ 1 đến 5% trọng lượng, và tỷ
lệ cazein so với protein nước sữa cao hơn tỷ
lệ này trong sữa nguyên liệu. Ví dụ, sản
phẩm là sữa, sữa chua (trái cây) hoặc sữa
chua uống (trái cây).
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 44/57
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018292 Chế phẩm chất xơ ăn được có nguồn gốc từ bột sắn và thực phẩm chứa chế phẩm này
Tác giả: Ralvert Klas (SE).
Quốc gia: Thái Lan
Sáng chế đề cập đến chế phẩm chất xơ
ăn được có nguồn gốc từ bột sắn chứa chất xơ
ăn được với tổng lượng nằm trong khoảng từ
35 đến 60% trọng lượng và tinh bột với lượng
nằm trong khoảng từ 30 đến 50% trọng lượng,
tính theo lượng chất rắn khô. Sáng chế còn đề
cập đến thực phẩm chứa chế phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018267 Chế phẩm sacaroza chịu nén dạng bột và quy trình sản xuất chế phẩm này
Tác giả: Wong Emile (FR), Delhorbe
Philippe (FR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến chế phẩm
sacaroza chịu nén dạng bột chứa sacaroza với
lượng ít nhất 99,1% trọng lượng, có hàm
lượng ẩm còn lại nhỏ hơn 0,1% trọng lượng,
tính theo tổng trọng lượng của chế phẩm nói
trên, chế phẩm này gồm các hạt rỗng, tuỳ ý
kết tụ cùng nhau ở dạng hạt. Ngoài ra, sáng
chế còn đề cập đến quy trình liên tục để sản
xuất chế phẩm sacaroza chịu nén dạng bột
này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018423 Chế phẩm tăng vị umami, phân đoạn có hoạt tính umami, phương pháp điều chế phân đoạn này và thực phẩm chứa chúng
Tác giả: Sander Dubbelman (NL),
Nikolos Mavroudis (GR), Leandro Oliehoek
(NL), Peter Ravestein (NL).
Quốc gia: Hà lan
Sáng chế đề cập đến chế phẩm tăng vị
umami chứa ít nhất là một hợp chất tăng vị
umami, trong đó chế phẩm này (a) có khả
năng đi qua màng siêu lọc có ngưỡng khối
lượng phân tử 250 kDa, (b) chủ yếu không có
lycopen, (c) chứa một hợp chất nhỏ hơn
250kDa, và (d) có khả năng tăng vị umami.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến phân đoạn
từ cà chua hoạt tính chứa các chế phẩm này.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 45/57
Các phân đoạn như vậy và các chế phẩm nêu
trên là thích hợp để sản xuất các sản phẩm
thực phẩm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018215 Chế phẩm thơm, sản phẩm tiêu dùng chứa chế phẩm thơm và phương pháp tăng tuổi thọ của sản phẩm chứa chế phẩm thơm này
Tác giả: Budijono, Stephanie (ID),
Ouali Lahoussine (FR), Normand Valery
(FR),…
Quốc gia: Thụy Sỹ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm thơm
chứa vi nang thơm thứ nhất bao nang dầu
thơm thứ nhất có LogT lớn hơn -2,5 và
cLogP lớn hơn 2,5 và/hoặc trị số bay hơi ít
nhất là 30µg/l không khí; và vi nang thơm
thứ hai bao nang thành phần dầu thơm thứ
hai có LogT thấp hơn -2,5 và cLogP lớn hơn
2,5 và/hoặc trị số bay hơi ít nhất là 30µg/l
không khí. Sáng chế cũng đề cập đến hỗn
hợp của các vi nang này được dùng làm
thành phần làm thơm hoặc chế phẩm tạo
hương thơm cho các sản phẩm chăm sóc gia
đình hoặc cá nhân, cũng như các chế phẩm
chăm sóc gia đình và cá nhân thu được.
Ngoài ra, sáng chế đề cập đến phương pháp
tăng tuổi thọ của sản phẩm chăm sóc gia đình
hoặc cá nhân chứa chế phẩm tạo hương thơm
bao gồm bước tạo ra chế phẩm thơm là một
trong số các hỗn hợp của các vi nang này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018433 Chất tạo ngọt, chế phẩm chứa chất tạo ngọt và phương pháp tạo ra vị ngọt cho chế phẩm bằng chất tạo ngọt này
Tác giả: Yoshinaka Koji (JP),
Yamamoto Maki (JP), Mie Masanori (JP),
Ueno Hiroshige (JP), Tokumura Tetsuya
(JP), Aya Takeshi (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chất tạo ngọt và
phương pháp tạo vị ngọt cho chế phẩm được
dùng qua đường miệng hoặc được sử dụng
cho khoang miệng bằng cách cải thiện độ
ngọt của dịch chiết stevia. Sáng chế cũng đề
xuất chất tạo ngọt có thể được điều chế bằng
cách kết hợp rebaudiosit A, là thành phần
ngọt chính của dịch chiết stevia, với mogrosit
V, là thành phần ngọt chính của dịch chiết
quả La Hán, với tỷ lệ theo trọng lượng nằm
trong khoảng từ 95:5 đến 60:40. Bằng cách
sử dụng chế phẩm nêu trên làm chất tạo ngọt,
có thể đem lại độ ngọt thích hợp cho các sản
phẩm khác nhau như thực phẩm, thuốc hoặc
các dạng tương tự.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018438 Chiết phẩm từ lá chè, đồ uống chứa chiết phẩm này và phương pháp sản xuất chúng
Tác giả: Nagao Koji (JP), Maki
Hideki (JP), Suzuki Ken (JP), Yokoo
Yoshiaki (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chiết phẩm từ lá
chè và phương pháp sản xuất chiết phẩm từ
lá chè trong đó chiết phẩm từ lá chè chứa các
thành phần hương vị thơm ngon/ngọt dịu ở
hàm lượng cao, với lượng các thành phần vị
đắng/chát giảm. Sáng chế cũng đề cập đến đồ
uống được đóng chai chứa chiết phẩm từ lá
chè, trong đó đồ uống này có vị ngon đậm đà
với vị chát giảm. Sáng chế cũng đề cập đến
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 46/57
việc chiết lá chè sau khi catechin được loại
bỏ ra khỏi lá chè bằng enzym khiến cho chiết
phẩm từ lá chè chứa hàm lượng cao các thành
phần hương vị thơm ngon/ngọt dịu, với
lượng các thành phần vị đắng/chát giảm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018153 Phương pháp và thiết bị khử hoạt tính lá dùng để chế biến chè xanh
Tác giả: Garikapati Dyva Kiran, Babu
(IN), Desikachar Ravindranath Srigiripuram
(IN).
Quốc gia: Ấn Độ
Sáng chế đề cập đến thiết bị khử hoạt
tính lá dùng để chế biến chè xanh nhằm tạo
ra chè xanh có chất lượng tốt với mức sử
dụng năng lượng tối thiểu. Thiết bị này bao
gồm thùng xử lý (1) có vỏ bao gia nhiệt (2)
và bộ cánh khuấy (9) vận hành bằng tay hoặc
bằng động cơ. Vỏ bao chứa chất lưu nhiệt
được gia nhiệt trong điều kiện có kiểm soát
để tạo ra hơi nước bên ngoài búp chè được
nạp vào trong thùng khử hoạt tính bằng cách
lợi dụng hơi ẩm có trong búp tươi có hai
cánh và một tôm. Nguyên liệu trong thùng xử
lý được gia nhiệt nhẹ để giúp sao lá hiệu quả
mà không tạo mùi cháy cho sản phẩm cuối.
Lá được khử hoạt tính hoàn toàn mà không
tiếp xúc với nhiệt độ cao hơn, và do không
mất dịch ra khỏi búp trong quá trình chế biến
nên chất lượng chè xanh tốt hơn so với lá
được chế biến theo giải pháp kỹ thuật đã biết.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018477 Phương pháp điều chế dịch chiết từ cây bạch đàn, thực phẩm và đồ uống chứa dịch chiết này
Tác giả: Yuuichi Maeda (JP), Atsushi
Narise (JP), Sanae Kikuchi (JP), Kenji
Osawa (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến phương pháp
điều chế dịch chiết từ cây bạch đàn mà có
khả năng làm giảm mùi đặc trưng của bạch
đàn và còn thu được thành phần hoạt tính với
hiệu suất và độ tinh khiết cao làm thành phần
có hoạt tính sinh lý. Phương pháp này bao
gồm các bước: loại bỏ thành phần tinh dầu ra
khỏi cây bạch đàn và chiết phần còn lại bằng
nước hoặc dung dịch nước chứa dung môi
hữu cơ và sau đó chiết tiếp phần còn lại thu
được sau chiết bằng dung dịch nước chứa
dung môi hữu cơ hoặc dung môi hữu cơ, do
đó thu được Macrocarpal A, Macrocarpal B
và Macrocarpal C có mặt trong cây bạch đàn
làm chất có hoạt tính sinh lý với hàm lượng
cao hơn so với sử dụng phương pháp thông
thường và điều chế được dịch chiết có mùi
vị, hình thức và các đặc tính tốt. Sáng chế
còn đề cập đến thực phẩm và đồ uống chứa
dịch chiết từ cây bạch đàn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 47/57
1-0018269 Quy trình bọc vỏ thức ăn và thức ăn được bọc vỏ
Tác giả: Haslinger Bernd (DE),
Kowalczyk Jorg (DE), Willibald-Et-Tle
Ingrid (DE), Peters Siegfried (DE).
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến thức ăn được bọc
vỏ bao gồm palatinoza và tác nhân gắn kết và
quy trình bọc vỏ thức ăn này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018268 Phương pháp xử lý thịt cá
Tác giả: Adachi Tetsuo (JP).
Quốc gia: Philippines
Sáng chế đề cập đến phương pháp xử
lý thịt cá, trong đó, thịt cá được phân tách,
cắt và tạo hình cá bắt được và sau đó làm
đông lạnh, nhờ vậy lượng gọi là chảy nhỏ
giọt chảy ra từ thịt cá trong quá trình xử lý và
tan chảy có thể được giảm đáng kể. Mục đích
này đạt được bằng cách sấy sơ bộ thịt cá
được tạo hình, thịt cá được tạo hình này đã
được chuẩn bị bằng cách phân tách cá bắt
được và cắt chúng ra thành các hình dạng
khác nhau, với không khí lạnh để loại một
chút nước ở phần bề mặt, ngâm thịt cá trong
dung dịch chứa nước có natri clorua trong
một khoảng thời gian ngắn sao cho bề mặt
thịt cá trở thành keo để tạo ra lớp phủ, đóng
gói trong chân không nó ở tình trạng như
vậy, tiếp theo thổi khí sạch như oxy vào
trong bao gói để thực hiện việc đóng trong
bao gói chứa khí, sau đó làm đông lạnh nó
bằng phương pháp làm đông lạnh ngâm nước
muối và cất giữ ở tình trạng đó. Nhờ các quy
trình xử lý như được mô tả trên đây, lượng
chảy nhỏ giọt trong quá trình tan chảy thịt cá
được giảm đáng kể.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018193 Phương pháp cải thiện chất lượng thịt bằng cách giảm mùi hôi của thịt lợn đực
Tác giả: Wang Min (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến phương pháp
giảm mùi hôi của thịt lợn đực, phương pháp
này bao gồm bước tiêm dung dịch muối kẽm
dược dụng vào trong phần trên của tinh hoàn
về phía lưng của mỗi tinh hoàn lợn đực, tốt
nhất là khi lợn nhỏ hơn một tuần tuổi. Dung
dịch muối kẽm này chứa ít nhất 20mg ion
kẽm trong mỗi ml và dung dịch này được
tiêm vào trong tinh hoàn với thể tích nằm
trong khả năng tiếp nhận của tinh hoàn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
359/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 48/57
1-0018272 Chế phẩm nhũ tương dầu trong nước và mỹ phẩm chống nắng chứa chế phẩm này
Tác giả: Takakura Tomiko (JP),
Kurosawa Takafumi (JP), Yajima Isao (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm nhũ
tương dầu trong nước (O/W) có khả năng bảo
vệ tia cực tím (UV). Cụ thể là, sáng chế đề
cập đến chế phẩm nhũ tương O/W chứa các
chất hấp thụ UV hữu cơ tan trong dầu, và chế
phẩm này có độ ổn định và cảm giác tốt khi
sử dụng và thích hợp làm mỹ phẩm chống
nắng. Sáng chế cũng đề cập đến mỹ phẩm
chống nắng chứa chế phẩm nhũ tương này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018321 Dụng cụ làm sạch kẽ răng và phương pháp sản xuất dụng cụ này
Tác giả: Lee Kyung-Sub (KR), Kim
Sung-Jin (KR), Ahn Jae-Hyun (KR), Chang
SugYoun (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến dụng cụ làm sạch
kẽ răng và phương pháp sản xuất dụng cụ này,
và cụ thể hơn đến dụng cụ làm sạch kẽ răng
và phương pháp sản xuất dụng cụ này để có
thể dễ dàng loại bỏ thức ăn còn lại giữa các
răng mà không gây tổn thương cho lợi.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018373 Bản chải đánh răng
Tác giả: Lee Pal Hyung (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến bàn chải đánh
răng, khác biệt ở chỗ, bằng cách tạo ra lỗ (3)
được khoan theo chiều thẳng đứng trên đầu
bàn chải (2) của bàn chải đánh răng (1), ở
bên trong lỗ (3) được bố trí tấm phẳng (5) mà
các lông chải (4) được cắm chặt trên đó, và
tấm phẳng (5) được cố định vào mặt trên của
chi tiết đàn hồi (6) được cố định vào các mặt
cạnh dưới của đầu bàn chải (2), theo đó cho
phép dịch chuyển đàn hồi theo các chiều lên
trên, xuống dưới, sang trái, sang phải, và để
tấm phẳng mà các lông chải được cắm chặt
trên đó di chuyển tương tự trên đầu bàn chải
theo các hình dạng của răng, diện tích tiếp
xúc giữa các răng và lông chải tăng và ma sát
giữa các răng và lông chải cũng tăng, nhờ đó
làm tăng tối đa hiệu quả chải răng, và làm
giảm tối thiểu sự mài mòn răng và sự phá
hoại các mô bao quanh răng do chải răng nhờ
điều chỉnh áp lực tác động quá mức vào các
răng bởi người sử dụng bàn chải đánh răng,
và cho phép áp dụng dễ dàng hơn với kỹ
thuật chải răng Bass để giúp người sử dụng
có được cả sự sạch sẽ cho lợi và sự vệ sinh
răng miệng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 49/57
1-0018301 Đồ chứa đóng gói chân không sử dụng túi bao bì
Tác giả: Park Eun Suk (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến đồ chứa đóng
gói chân không sử dụng túi bao bì, bao gồm
túi bao bì có chứa vật dụng trong đó, và vỏ
chứa đựng túi bao bì trong đó, với van vòi
hút được nối với túi bao bì để tạo ra đường
dẫn không khí, và vì vậy không khí có thể
được rút ra khỏi túi bao bì qua van vòi hút,
do đó thực hiện việc đóng gói chân không
cho vật dụng trong túi bao bì. Túi bao bì
được đặt theo cách có thể lấy ra được ở trong
phần vỏ, và vật dụng trong túi bao bì có thể
được nén nhanh chóng và có hiệu quả tới
mức chân không cao bằng cách sử dụng máy
hút chân không. Thêm nữa, có thể thay thế
túi bao bì bằng một cái khác bất cứ lúc nào,
và có thể cất trữ vật chứa một cách an toàn,
và có thể cất trữ một số lượng lớn các túi
đóng gói chân không một cách có hiệu quả
nhờ các phần vỏ có thể được xếp chồng lên
nhau gọn gàng từng cái một.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018340 Bình chứa có nắp chống mất và không quay tự do
Tác giả: Kwon Si Joong (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến bình chứa có nắp
chống mất và không quay tự do bao gồm nắp
được lắp chặt với thân bình chứa bằng ren.
Thân bình chứa bao gồm bậc chặn vòng phía
dưới phần ren của miệng bình chứa sao cho có
thể ngăn không cho nắp được tháo rời, bậc đỡ
phía dưới và tách khỏi bậc chặn vòng, và mặt
tỳ vòng đỡ đặt giữa bậc chặn vòng và bậc đỡ.
ở đây, nắp bao gồm vòng đỡ, thân nắp và
phần bản lề được liên kết liền khối với nhau.
Vòng đỡ được đặt trên mặt tỳ vòng đỡ để
ngăn không cho nắp tháo khỏi thân bình chứa
và quay tự do. Thân nắp mở hoặc đóng thân
bình chứa và mặt trong của nắp có phần ren.
Phần bản lề liên kết vòng đỡ với thân nắp.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018392 Quy trình hòa tan flopolyme và dung dịch chứa flopolyme trong hệ dung môi
Tác giả: Schmitt Paul-Guillaume (FR),
Vauthrin Mélanie (FR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến quy trình hòa tan
flopolyme, cụ thể là poly(vinyliden florua),
quy trình này bao gồm ít nhất một bước cho
flopolyme tiếp xúc với ít nhất một hệ dung
môi chứa: chế phẩm (A) chứa dimetyl
sulphoxit (DMSO) với lượng nằm trong
khoảng từ 50 đến 99,9% trọng lượng, và chế
phẩm (B) chứa ít nhất một keton với lượng
nằm trong khoảng từ 0,1 đến 50% trọng lượng.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 50/57
Sáng chế còn đề cập đến dung dịch chứa hệ
dung môi này và flopolyme, là hữu ích trong
sản xuất lớp mỏng, màng và lớp phủ.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018366 Dụng cụ buộc dây giầy
Tác giả: Park Myoung Ho (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến dụng cụ buộc
dây giầy dùng để buộc hai dây của các loại
giầy khác nhau như giầy thể thao, giầy đi bộ
hoặc giầy quân sự. Cụ thể là khi sử dụng
dụng cụ này cho phép buộc và cởi hai dây
giầy một cách nhanh hơn. Dụng cụ buộc dây
giầy theo một phương án của sáng chế gồm
có một lỗ (6) được thiết kế ở giữa tấm dưới
(2) và một phần của lỗ được sử dụng như một
trục bản lề để ghép linh động với tấm trên (1)
có chốt ép ở giữa (5) để có thể buộc chặt các
dây giầy lại. Dụng cụ buộc dây giầy theo
sáng chế có các rãnh cố định dây giầy được
thiết kế ở cả hai phía của tấm dưới, một lỗ
được thiết kế ở giữa tấm dưới và một phần lỗ
được dùng như trục bản lề để ghép linh động
với tấm trên có chốt ép ở giữa và có thể giữ
chặt dây giầy.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018144 Phương pháp dệt mũ giày Tác giả: Ikenaka Masamitsu (JP),
Terai Kenta (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến phương pháp dệt
mũ giày có thể cho phép mức độ gia cường
của mũ giày được thay đổi với số lượng nhỏ
các bộ cấp sợi. Phương pháp dệt mũ giày (1)
bao gồm phần phủ mu bàn chân (3) để che
một phần trên phía mu bàn chân của người
mang giày và phần phủ đế giày (2) để che đế
giày của người mang giày được đề xuất.
Phần phủ mu bàn chân (3) và phần
phủ đế giày (2) được dệt ba chiều theo cách
liền mạch; và trong quy trình dệt, ít nhất phần
nền (10) cấu tạo một phần của mũ giày (1)
được dệt bằng cách sử dụng sợi dệt cơ sở có
chứa sợi dính không dùng nhiệt và sợi dính
nhiệt, và sợi dệt gia cường có chứa sợi dính
nhiệt được dệt lẫn trong phần nền (10) nhằm
gia cường phần nền (10). Trong trường hợp
này, số lượng dệt với sợi dệt gia cường đối
với phần nền (10) được thay đổi.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 51/57
1-0018478 Giấy lụa, phương pháp sản xuất và các vật dụng thấm hút làm bằng giấy lụa này
Tác giả: Kouta Takuya (JP), Itoi
Takashi (JP), Masuki Tetsuya (JP), Wada
Masashi (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến giấy lụa, trong
đó giấy lụa chủ yếu chứa tổ hợp gồm hai loại
sợi xenluloza thấm nước khác biệt về độ thô
sợi và chứa chất phụ gia gia tăng độ bền. Hai
loại sợi xenluloza thấm nước là bột giấy thứ
nhất có độ thô sợi nằm trong khoảng từ 0,13
đến 0,16mg/m và bột giấy thứ hai có độ thô
sợi nằm trong khoảng từ 0,17 đến 0,20mg/m.
Sự khác biệt về độ thô sợi giữa bột giấy thứ
nhất và bột giấy thứ hai là nằm trong khoảng
từ 0,01 đến 0,07mg/m. Tổ hợp này có độ
lỏng nằm trong khoảng từ 400 đến 550ml.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018206 Thiết bị và phương pháp tách vỏ cây từ các thân gỗ Tác giả: Menanti Lumbangaol (ID),
Luthfan Ibrahim Djunaedi (ID).
Quốc gia: Bermuda
Sáng chế bộc lộ thiết bị và phương
pháp để tách vỏ cây từ các thân gỗ. Thiết bị
gồm: chân đế; các bộ phận đỡ thân gỗ gắn
vào chân đế, mỗi bộ phận đỡ thân gỗ gồm
nhiều cạnh bên đối xứng có độ dốc nói chung
lần lượt được kết hợp với các bệ, trong đó các
bộ phận đỡ thân gỗ được ngăn cách bởi một
lối đi không có các bộ phận đỡ thân gỗ; các
cạnh đối xứng theo chiều dọc được bố trí phối
hợp với các bộ phận đỡ thân gỗ để giữ lại các
thân gỗ bên trong các bộ phận đỡ thân gỗ; các
bộ phận bào mòn được bố trí trên mỗi bộ
phận đỡ thân gỗ có kết cấu để cọ xát vỏ cây
từ các thân gỗ, trong đó mỗi bộ phận đỡ thân
gỗ được bố trí với một số lỗ để cho phép các
mảnh vỏ cây bào mòn đi qua; và ít nhất một
bộ thu vỏ cây được bố trí trên bất kỳ các cạnh
đối xứng theo chiều dọc và có cấu tạo để loại
bỏ vỏ cây bong tróc từ các thân gỗ.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
359/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0018309 Chế phẩm làm bóng dùng cho nền đĩa từ và phương pháp tạo ra nền đĩa từ
Tác giả: Hamaguchi Takeshi (JP), Doi
Haruhiko (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất chế phẩm làm bóng
dùng cho nền đĩa từ mà có thể làm giảm các
vết xước, các khuyết tật lồi cỡ nano, và độ
gợn sóng bề mặt nền sau khi đánh bóng. Chế
phẩm làm bóng dùng cho nền đĩa từ chứa:
copolyme có đơn vị cấu tạo thu được từ
monome có độ tan bằng 2g hoặc nhỏ hơn
trong 100g nước ở 20oC và đơn vị cấu tạo có
nhóm axit sulfonic, và có mạch hydrocacbon
bão hoà làm mạch chính, hoặc muối của
copolyme; chất mài mòn; và nước. Ngoài ra,
sáng chế còn đề cập đến phương pháp tạo ra
nền đĩa từ.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 52/57
1-0018297 Quạt trần
Tác giả: Iwamoto Kiyohiko (JP),
Kawazu Tetsuji (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến quạt trần bao
gồm bộ phận treo được cố định vào trần nhà
và thân quạt trần được treo vào bộ phận treo.
Thân quạt trần có các cánh được bố trí theo
chiều ngang, động cơ để làm quay các cánh,
trục nhô ra khỏi mặt bên trên của động cơ, và
bộ phận nối được cố định vào đầu phía trên
của trục và được liên kết với bộ phận treo. Bộ
phận nối có thể tháo khỏi bộ phận treo và
được bố trí bộ phận phát hiện trạng thái treo
nằm kéo dài từ bộ phận nối đến bộ phận treo.
Bộ phận phát hiện trạng thái treo phát hiện
trạng thái được kích hoạt giữa bộ phận treo
và bộ phận nối.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018279 Dây nối dùng cho thiết bị bán dẫn và phương pháp sản xuất dây nối này
Tác giả: Yamada Takashi (JP), Oda
Daizo (JP), Oishi Ryo (JP),…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đê cập đến dây nối dùng cho
thiết bị bán dẫn trong đó cả sự mất tính
nghiêng lẫn mất tính đàn hồi lò xo được ngăn
chặn bởi (1) ở mặt cắt ngang chứa tâm dây và
song song với hướng chiều dọc của dây (mặt
cắt ngang qua tâm dây), không có các hạt
tinh thể với tỷ lệ a/b của trục dài "a" và trục
ngắn "b" lớn hơn hoặc bằng 10 và có diện
tích lớn hơn hoặc bằng 15µm2 ("kết cấu
sợi"), (2) khi đo hướng tinh thể theo hướng
chiều dọc của dây ở mặt cắt ngang qua tâm
dây, tỷ lệ của hướng tinh thể <100> với
chênh lệch góc so với hướng chiều dọc của
dây nhỏ hơn hoặc bằng 15o, với tỷ lệ diện
tích, nằm trong khoảng từ 10% đến nhỏ hơn
50%, và (3) khi đo hướng tinh thể theo
hướng chiều dọc của dây ở bề măt của dây, tỷ
lệ của hướng tinh thể <100> với chênh lệch
góc so với hướng chiều dọc của dây là nhỏ
hơn hoặc bằng 15o, với tỷ lệ diện tích, lớn
hơn hoặc bằng 70%. Trong suốt bước kéo,
thao tác kéo có tỷ lệ giảm diện tích là lớn hơn
hoặc bằng 15,5% được thực hiện ít nhất một
lần. Nhiệt độ xử lý nhiệt cuối cùng và nhiệt
độ xử lý sơ bộ nhiệt cuối cùng được thực
hiện trong các phạm vi được định trước.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018318 Chế phẩm carotenoit phân tán được trong nước, quy trình điều chế chế phẩm này và quy trình sử dụng chế phẩm này
Tác giả: Ferrater Martorell Joan Carles
(ES), Fernandez Martin Juan Antonio (ES),
Ribera Ruiz David (ES), Viso Acostan
Antonio (ES).
Quốc gia: Spain
Sáng chế đề cập đến chế phẩm
carotenoit phân tán được trong nước, chế
phẩm này ở dạng lỏng, chứa hỗn hợp
canthaxanthin và xà phòng marigold, và bao
gồm carotenoit với lượng nằm trong khoảng
từ 1 đến 500 phần trên mỗi 1000 phần dung
dịch và do các đặc tính điều chế của nó, chế
phẩm này có khả năng nhuộm màu trứng và
mô động vật cao hơn nhiều so với khi sử
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 53/57
dụng riêng rẽ các xantophyl này. Sáng chế
còn đề cập đến quy trình điều chế chế phẩm
này, quy trình bao gồm ba bước: (1) tạo ra xà
phòng bằng cách xà phòng hóa một phần
hoặc hoàn toàn dịch chiết marigold, (2) điều
chế chế phẩm canthaxanthin phân tán được
trong nước và (3) trộn lẫn hai sản phẩm thu
được trong điều kiện nhiệt độ và chế độ
khuấy trộn có kiểm soát. Chế phẩm này có
thể được sử dụng làm tác nhân nhuộm màu
trong công nghiệp thức ăn động vật. Ngoài ra,
sáng chế còn đề cập đến quy trình sử dụng
chế phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018407 Chế phẩm trừ dịch hại
Tác giả: Morita Masayuki (JP), Awazu
Takao (JP), Nakagawa Akira (JP), Hamamoto
Taku (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm cải
thiện được hiệu quả phòng chống sinh vật gây
hại của hợp chất antranilamit. Chế phẩm trừ
dịch hại theo sáng chế là chế phẩm đậm đặc
chứa hợp chất antranilamit là thành phần có
hoạt tính trừ dịch hại, chất phân tán và dung
môi hữu cơ ưa nước, khác biệt ở chỗ khi chế
phẩm này được pha loãng với nước, thì hợp
chất antranilamit sẽ kết tủa thành các hạt rắn
trong nước.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018409 Chế phẩm trừ dịch hại và phương pháp phòng trừ dịch hại
Tác giả: Morita Masayuki (JP), Awazu
Takao (JP), Nakagawa Akira (JP), Iwasa
Mitsugu (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm trừ dịch
hại có độ bền và hiệu quả trừ dịch hại cao. Chế
phẩm trừ dịch hại này bao gồm hợp chất
pyriđin có công thức (I):
(trong đó R1 là CH2CN hoặc
và mỗi R2 và R
3 độc lập với nhau, là nguyên
tử hydro, nguyên tử halogen, C1-6 alkyl hoặc
C1-6 alkoxy) hoặc muối của nó và ít nhất một
thành phần tăng cường hoạt tính được chọn từ
nhóm bao gồm chất hoạt động bề mặt không
ion, chất hoạt động bề mặt anion, chất hoạt
động bề mặt cation, chất hoạt động bề mặt
lưỡng tính, dầu thực vật hoặc dầu động vật,
dầu khoáng, polyme tan trong nước, nhựa và
sáp.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018424 Chế phẩm diệt nấm và/hoặc diệt côn trùng, phương pháp phòng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 54/57
trừ mầm bệnh ở cây và/hoặc loài gây hại và phương pháp xử lý hạt giống
Tác giả: Assmann Lutz (DE),
Wachendorff-Neumann Ulrike (DE), Dahmen
Peter (DE), Hungenberg Heike (DE), Thielert
Wolfgang (DE).
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến các tổ hợp hợp
chất hoạt tính, cụ thể là chế phẩm diệt nấm
và/hoặc diệt côn trùng, bao gồm isotianil
(3,4-diclo-N-(2-xyanophenyl)-5-
isothiazolcarboxamit), số CAS 224049-04-1)
và thuốc trừ sâu flubendiamit khác (Số Cas
272451-65-7) và tuỳ ý một thuốc trừ sâu khác
thuộc họ neonicotinoid. Ngoài ra, sáng chế
còn đề cập đến phương pháp phòng trừ hoặc
trị nấm gây bệnh ở thực vật và/hoặc vi sinh
vật và/hoặc loài gây hại ở thực vật hoặc cây
trồng, đến tổ hợp theo sáng chế được sử dụng
để xử lý hạt giống, đến phương pháp bảo vệ
hạt giống và đến hạt giống được xử lý.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018425 Chế phẩm diệt nấm và/hoặc trừ sâu có tác dụng hiệp đồng bao gồm tổ hợp hợp chất hoạt tính, phương pháp phòng trừ mầm bệnh ở cây
và/hoặc sinh vật gây hại và phương pháp xử lý hạt giống
Tác giả: Assmann Lutz (DE),
Wachendorff-Neumann Ulrike (DE),Dahmen
Peter (DE).
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến tổ hợp hợp chất
hoạt tính, cụ thể là chế phẩm diệt nấm
và/hoặc trừ sâu, bao gồm isotianil (3,4-diclo-
N-(2-xyanophenyl)-5- isothiazolcarboxamit)
và ít nhất một thuốc trừ sâu khác thuộc nhóm
antranilamit và tuỳ ý một thuốc trừ sâu khác
thuộc họ neonicotinoid. Ngoài ra, sáng chế
còn đề cập đến phương pháp phòng trừ nấm
và/hoặc vi sinh vật gây bệnh và/hoặc sinh vật
gây hại ở cây hoặc cây trồng, đến việc sử
dụng tổ hợp theo sáng chế để xử lý hạt giống,
đến phương pháp bảo vệ hạt giống và sáng
chế còn đề cập đến đến hạt giống được xử lý.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018557 Tổ hợp diệt nấm hoặc trừ sâu và phương pháp phòng trừ hoặc trị nấm Pyricularia và/hoặc sâu bọ hại cây
Tác giả: Assmann Lutz (DE), Stubler
Dietrich (DE), Wachendorff-Neumann Ulrike
(DE), …
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến các tổ hợp các
hợp chất có hoạt tính trừ nấm hoặc trừ sâu, tổ
hợp này bao gồm (A) 3,4-diclo-N-(2-
xyanophenyl)-5-isothiazolcarboxamit và (B)
imidacloprit và (C) một trong các hợp chất có
hoạt tính trừ sâu hoặc diệt nấm và đến các
chế phẩm bao gồm các tổ hợp này. Ngoài ra,
sáng chế còn đề cập đến phương pháp phòng
trừ hoặc trị nấm và/hoặc vi sinh vật và/hoặc
sâu bọ gây hại cây hoặc mùa màng, đến
phương pháp bảo vệ hạt giống và/hoặc các
chồi non và lá của cây mọc từ hạt giống và
đến các hạt giống được xử lý bằng các tổ hợp
này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 55/57
1-0018451 Tổ hợp hoạt chất để diệt trừ sinh vật gây hại, chế phẩm chứa tổ hợp hoạt chất này, quy trình điều chế chế phẩm và phương pháp kiểm soát các loài
sinh vật gây hại
Tác giả: Waldron Craig (US), Martin
Robert (US), Williams Gareth (GB).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm phủ
diệt sinh vật chứa chế phẩm bao gồm một
hoặc nhiều hợp chất pyrithion và một hoặc
nhiều hợp chất pyrol có công thức I, trong đó
chế phẩm phủ diệt sinh vật này không chứa
đồng hoặc chứa đồng với hàm lượng thấp.
Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến phương
pháp phủ nền và nền được phủ chứa chế
phẩm phủ này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018453 Chế phẩm hoá nông ít bọt để bảo vệ thực vật, quy trình điều chế chế phẩm này và phương pháp phòng trừ sự phát triển của thực vật không
mong muốn sử dụng chế phẩm này
Tác giả: Baur Peter (DE), Auler
Thomas (DE), Deckwer Roland (DE),
Giessler Stephanie (DE).
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến các chế phẩm ít
bọt để bảo vệ cây trồng. Các alkyl ete sulfat
có từ 1 đến 9 nguyên tử cacbon trong mạch
alkyl và có từ 1 đến 20 đơn vị alkylenoxy
trong gốc ete thích hợp để sử dụng làm các
chất phụ gia ít bọt để gia tăng hoạt tính của
các chất hóa nông hòa tan hoàn toàn hoặc
một phần trong nước. Các hợp chất này có
thể được sử dụng để sản xuất các chế phẩm ít
bọt để bảo vệ cây trồng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018500 Chế phẩm vi sinh vật và phương pháp thúc đẩy sự tăng trưởng của cây trồng sử dụng chế phẩm này
Tác giả: Lin Jian Er (US), Zhou
Wenwen Shelley (CN), Chu Kee Hung (US).
Quốc gia: Anh
Sáng chế đề cập đến chể phẩm thúc
đẩy sự tăng trưởng của cây trồng chứa vi sinh
vật có lợi và chất hoạt hóa vi sinh vật. Vi
sinh vật có lợi này có thể được chọn từ nhóm
bao gồm Bacillus spp., Azotobacter spp.,
Trichoderma spp., Saccharomyces spp., hoặc
hỗn hợp của chúng. Sáng chế cũng đề cập
đến phương pháp bào chế chế phẩm này và
phương pháp thúc đẩy sự tăng trưởng của cây
trồng sử dụng chế phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 360/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018203 Chế phẩm diệt sinh vật gây hại, phương pháp điều chế chế phẩm này và phương pháp phòng trừ sinh vật gây hại
Tác giả: Bell Gordon Alastair (GB),
Harris Clair Louise (GB), Tovey Ian David
(GB).
Quốc gia: Anh
Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt
sinh vật gây hại chứa hợp chất có công thức
(I) CH3CH(OH)C(=O)NR1R2, trong đó R1
và R2 độc lập với nhau là hydro; hoặc C1-
6alkyl, C2-6 alkenyl hoặc C3-6 xycloalkyl,
mỗi hợp chất này tùy ý được thế bằng tối đa
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 56/57
ba phần tử thế độc lập được chọn từ phenyl,
hydroxy, C1-5 alkoxy, morpholinyl và
NR3R4 trong đó R3 và R4 độc lập với nhau
là C1-3 alkyl; hoặc phenyl tùy ý được thế
bằng tối đa ba phần tử thế độc lập được chọn
từ C1-3 alkyl; hoặc R1 và R2 cùng với
nguyên tử nitơ mà chúng gắn vào tạo thành
vòng morpholinyl, pyrolidinyl, piperidinyl
hoặc azepanyl, mỗi hợp chất này tùy ý được
thế bằng tối đa ba phần tử thế độc lập được
chọn từ C1-3 alkyl; và ít nhất là một hợp chất
có hoạt tính sinh học, chứa ít nhất một vòng
thơm có năm và/hoặc sáu cạnh, trong đó vòng
này chứa ít nhất một nitơ là phân tử của vòng.
Sáng chế còn đề cập đến phương pháp điều
chế chế phẩm này và phương pháp phòng trừ
sinh vật gây hại.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018202 Chế phẩm nông hóa được tạo huyền phù trong nước và phương pháp phòng trừ thực vật không mong muốn
Tác giả: Shimizu Shinichi (JP),
Sugiyama Minoru (JP), Tomioka Atsushi
(JP),…
Quốc gia: Thụy Sỹ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm nông
hóa được tạo huyền phù trong nước ổn định
chứa ít nhất một thành phần nông hóa dạng
lỏng, ít nhất một thành phần nông hóa dạng
rắn, ít nhất một dầu và ít nhất một polyol
chứa ít nhất 3 nhóm hydroxyl, chế phẩm này
có thể làm giảm tính độc đối với thực vật do
tiếp xúc trên các cây trồng là thực vật hữu
ích, đặc biệt là trên cây lúa. Ngoài ra, sáng
chế còn đề cập đến phương pháp phòng trừ
thực vật không mong muốn ở cây trồng là
thực vật hữu ích.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0018200 Chế phẩm diệt cỏ chứa muối glyphosat đậm đặc và phương pháp điều chế chế phẩm này
Tác giả: Malec, Andrew, D. (US),
Figley Timothy M. (US), Turpin Krista L.
(US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt cỏ
chứa muối glyphosat đậm đặc dưới dạng
muối isopropylamoni, muối kali hoặc muối
hỗn hợp, kết hợp với hệ chất hoạt động bề
mặt, bền vững khi cất trữ. Ngoài ra, sáng chế
còn đề cập đến phương pháp điều chế chế
phẩm diệt cỏ chứa muối glyphosat đậm đặc
này và phương pháp xử lý thực vật không
mong muốn bằng chế phẩm diệt cỏ này. Hệ
chất hoạt động bề mặt sử dụng trong chế
phẩm diệt cỏ là alkylamin được đialkoxy hoá,
tác nhân tăng độ hòa tan trong nước và oxit
amin. Vượt hơn sự mong đợi, hệ chất hoạt
động bề mặt này cho phép điều chế ra các chế
phẩm diệt cỏ chứa muối glyphosat đậm đặc,
bền vững khi cất trữ, có điểm đục cao hoặc
không có điểm đục.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0018158 Phương pháp xử lý bào nang Artemia và bào nang đã thu hoạch
Tác giả: Van Nieuwenhove, Luciaan,
Alex, Johan (TH), Naessens-Foucquaert,
Eddy, Marie, Jules (BE), Rombaut, Geert
(BE).
Quốc gia: Belgium
Sáng chế đề cập đến các bào nang, cụ
thể là bào nang Artemia, được ấp trong môi
trường nở trứng sao cho một phần các bào
nang nở và giải phóng các sinh vật làm thức
ăn sống bơi tự do. Các sinh vật làm thức ăn
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 57/57
sống bơi tự do sau đó được tách khỏi các bào
nang không nở. Trước khi ấp các bào nang,
các hạt từ được gắn lên các bào nang để các
bào nang này có thể bị hút bằng từ trường, cụ
thể là trong môi trường ấp lỏng. Điều này cho
phép có thể tách một cách hiệu quả các bào
nang không nở và các vỏ bào nang rỗng,
được phủ các hạt từ, khỏi các sinh vật làm
thức ăn sống bơi tự do không có các hạt từ
được gắn lên bề mặt ngoài của chúng. Sáng
chế cũng đề cập đến các bào nang được phủ
và phương pháp xử lý bào nang.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 359/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018488 Phương pháp khắc phục hoặc làm giảm tác động dinh dưỡng bất lợi ở cá được nuôi bằng thức ăn chứa protein thực vật