Top Banner
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 1/57 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 04/2018 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU Trung Quốc tìm ra phương pháp chữa bệnh mù từ vàng và titanium Một phương pháp điều trị mới đầy hứa hẹn đối với tổn thương tủy sống Công cụ quang học phát hiện những thay đổi về chuyển hóa do bệnh tật Quy trình sản xuất mới giúp loại bỏ tình trạng tử vong do sốt rét Hệ thống hydrogel mới giúp xương mau lành Thử nghiệm thành công nanorobot tiêu diệt ung thư Sử dụng phương pháp tạo ảnh tế bào đơn và mô hình toán học để xác định các đặc tính hữu hiệu của thuốc Bộ cảm biến gắn trên răng giúp theo dõi chế độ ăn uống Keo hydrogel mới gắn kết các mô thậm chí khi có máu Bộ lọc mới cải thiện chất lượng nước uống Khám phá mới giúp kéo dài tuổi thọ pin và tăng độ an toàn khi sử dụng Tấm nano oxit graphene có thể giúp đưa pin litinum-metal ra thị trường Nghiên cứu các chất xúc tác graphene phát hiện thấy kim loại trong các chất xúc tác “phi kim” Viên nang graphene sẽ bón phân cho cây theo giờ Kỹ thuật biến đổi gen có thể giúp tiết kiệm 25% lượng nước cho cây trồng Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các rễ cây thực vật có thể chống lại sự ấm lên toàn cầu Lớp phủ siêu mỏng tạo ra kính thông minh Phễu thu ánh nắng mặt trời từ mọi hướng Kỹ thuật khâu nối mạng lưới nguyên tử Phát triển thành công thiết bị chuyển đổi nhiệt cho các thiết bị điện tử Khai thác chất thải điện tử dư thừa để thu hồi polyme chất lượng cao Tái sử dụng nhựa để xử lý chất thải Gỗ nano có thể giảm phát thải cacbon B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM 1-0018305 Dược phẩm chứa corticosteroit giải phóng có kiểm soát để điều trị rối loạn liên quan đến tai 1-0018317 Hợp chất catecholamin và dược phẩm chứa nó 1-0018324 Hợp chất quinoxalin vòng lớn dùng làm chất ức chế NS3 proteaza của virut viêm gan C và dược phẩm chứa hợp chất này 1-0018327 Hợp chất ức chế protein kinaza và dược phẩm chứa hợp chất này
57

BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Aug 30, 2019

Download

Documents

dariahiddleston
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 1/57

TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN

BẢN TIN THÁNG 04/2018

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Trung Quốc tìm ra phương pháp chữa

bệnh mù từ vàng và titanium

Một phương pháp điều trị mới đầy hứa

hẹn đối với tổn thương tủy sống

Công cụ quang học phát hiện những thay

đổi về chuyển hóa do bệnh tật

Quy trình sản xuất mới giúp loại bỏ tình

trạng tử vong do sốt rét

Hệ thống hydrogel mới giúp xương mau

lành

Thử nghiệm thành công nanorobot tiêu

diệt ung thư

Sử dụng phương pháp tạo ảnh tế bào đơn

và mô hình toán học để xác định các đặc

tính hữu hiệu của thuốc

Bộ cảm biến gắn trên răng giúp theo dõi

chế độ ăn uống

Keo hydrogel mới gắn kết các mô thậm

chí khi có máu

Bộ lọc mới cải thiện chất lượng nước

uống

Khám phá mới giúp kéo dài tuổi thọ pin

và tăng độ an toàn khi sử dụng

Tấm nano oxit graphene có thể giúp đưa

pin litinum-metal ra thị trường

Nghiên cứu các chất xúc tác graphene

phát hiện thấy kim loại trong các chất xúc

tác “phi kim”

Viên nang graphene sẽ bón phân cho cây

theo giờ

Kỹ thuật biến đổi gen có thể giúp tiết

kiệm 25% lượng nước cho cây trồng

Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn

gốc từ các rễ cây thực vật có thể chống lại

sự ấm lên toàn cầu

Lớp phủ siêu mỏng tạo ra kính thông

minh

Phễu thu ánh nắng mặt trời từ mọi hướng

Kỹ thuật khâu nối mạng lưới nguyên tử

Phát triển thành công thiết bị chuyển đổi

nhiệt cho các thiết bị điện tử

Khai thác chất thải điện tử dư thừa để thu

hồi polyme chất lượng cao

Tái sử dụng nhựa để xử lý chất thải

Gỗ nano có thể giảm phát thải cacbon

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0018305 Dược phẩm chứa corticosteroit

giải phóng có kiểm soát để

điều trị rối loạn liên quan đến tai

1-0018317 Hợp chất catecholamin và

dược phẩm chứa nó

1-0018324 Hợp chất quinoxalin vòng lớn

dùng làm chất ức chế NS3 proteaza của

virut viêm gan C và dược phẩm chứa hợp

chất này

1-0018327 Hợp chất ức chế protein kinaza

và dược phẩm chứa hợp chất này

Page 2: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 2/57

1-0018368 Hợp chất có bốn vòng và dược

phẩm chứa hợp chất này

1-0018370 Hợp chất 4-(4-xyano-2-

thioaryl)dihydropyrimidinon, quy trình

điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này

1-0018371 Hợp chất 5,6-đihyđro-

imiđazo[1,2-a]pyrazin-8-ylamin hữu dụng

làm chất ức chế beta-secretaza (BACE),

dược phẩm chứa hợp chất này và

quy trình bào chế dược phẩm này

1-0018284 Dược phẩm chứa prasugrel và

quy trình bào chế dược phẩm này

1-0018278 Phương pháp sản xuất viên

nén nền sáp chứa kali xitrat

giải phóng kéo dài

1-0018417 Hợp chất indazol được thế

bằng amit dùng làm chất ức chế

poly(ADP-riboza)polymeraza (PARP) và

dược phẩm chứa hợp chất này

1-0018422 Hợp chất uraxil hoặc thymin

và dược phẩm chứa hợp chất này

1-0018456 Hợp chất etynyl dùng làm chất

điều biến biến cấu dương của thụ thể

glutamat hướng chuyển hóa kiểu phụ 5

(mGluR5), quy trình điều chế và dược

phẩm chứa chúng

1-0018457 Hợp chất betulin và dược

phẩm chứa nó

1-0018473 Hợp chất anamorelin

hyđroclorua tách được ở dạng rắn, dược

phẩm chứa hợp chất này và phương pháp

bào chế dược phẩm dạng liều

1-0018496 Hợp chất pyridin dạng vòng

đơn và dược phẩm chứa nó

1-0018310 Hợp chất lipit, chế phẩm và

dược phẩm chứa hợp chất lipit này và

phương pháp điều chế hợp chất lipit này

1-0018449 Hợp chất Nalmefene

hydroclorua dihydrat, phương pháp điều

chế hợp chất này và dược phẩm chứa hợp

chất này

1-0018481 Hợp chất chứa mesogen,

polyme, chế phẩm tinh thể lỏng và vật

phẩm chứa hợp chất này và phương pháp

chế tạo bộ phận dùng cho mắt

1-0018468 Chế phẩm diệt khuẩn

1-0018469 Hợp chất diệt nấm và dược

phẩm chứa hợp chất này

1-0018517 Chế phẩm bảo quản hồng cầu

1-0018192 Thiết bị cầm tay sử dụng điện

để điều trị da

1-0018133 Chỉ khâu không thắt nút

1-0018493 Kháng thể đặc hiệu kép, hoá

trị hai và phương pháp sản xuất kháng thể

này

1-0018319 Kháng thể đặc hiệu kép liên

kết với IL-4 và IL-13 và dược phẩm chứa

kháng thể này

1-0018369 Kháng thể kháng CD79b, thể

tiếp hợp miễn dịch và dược phẩm chứa

kháng thể này

1-0018421 Kháng thể của người liên kết

với phối tử giống delta 4 của người, phân

tử axit nucleic mã hóa kháng thể này và

dược phẩm chứa kháng thể này

1-0018419 Phương pháp tổng hợp và tinh

chế hợp chất heteroaryl

1-0018454 Chất ức chế Janus kinaza 2

(JAK2) và dược phẩm chứa nó để điều

trị bệnh tăng sinh tủy xương và bệnh ung

thư

1-0018466 Dược phẩm dạng liều rắn chứa

olmesartan medoxomil và amlodipin

1-0018535 Polypeptit được phân lập và

dược phẩm chứa polypeptit này để điều trị

tình trạng rối loạn trao đổi chất

1-0018396 Quy trình điều chế canxi

cacbonat đã được xử lý bề mặt

1-0018122 Sản phẩm sữa có hàm lượng

calo thấp và phương pháp sản xuất sản

phẩm sữa này

1-0018292 Chế phẩm chất xơ ăn được có

nguồn gốc từ bột sắn và thực phẩm chứa

chế phẩm này

Page 3: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 3/57

1-0018267 Chế phẩm sacaroza chịu nén

dạng bột và quy trình sản xuất chế phẩm

này

1-0018423 Chế phẩm tăng vị umami,

phân đoạn có hoạt tính umami,

phương pháp điều chế phân đoạn này và

thực phẩm chứa chúng

1-0018215 Chế phẩm thơm, sản phẩm tiêu

dùng chứa chế phẩm thơm và phương

pháp tăng tuổi thọ của sản phẩm chứa chế

phẩm thơm này

1-0018407 Chế phẩm trừ dịch hại

1-0018409 Chế phẩm trừ dịch hại và

phương pháp phòng trừ dịch hại

1-0018424 Chế phẩm diệt nấm và/hoặc

diệt côn trùng, phương pháp phòng

trừ mầm bệnh ở cây và/hoặc loài gây hại

và phương pháp xử lý hạt giống

1-0018145 Quy trình xử lý nước thải

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Trung Quốc tìm ra phương pháp chữa bệnh mù từ vàng và titanium

Mới đây, các nhà nghiên cứu thuộc

trường Đại học Fudan và Đại học Khoa học

và Công nghệ Trung Quốc đã tìm ra phương

pháp chữa mù bằng vàng và titanium.

Page 4: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 4/57

Trong nhiều năm qua, các nhà khoa

học đã nổ lực tìm cách khôi phục thị lực về

trạng thái ban đầu cho những bệnh nhân mắt.

Nhờ vào công nghệ phát triển nên đã đạt được

một số thành tựu nhất định như phương pháp

đảo ngược quá trình thoái hóa võng mạc được

thực hiện thành công hay phát minh ra mắt

điện tử sinh học Bionic. Bên cạnh đó, Cục

quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ

(FDA) đã chấp thuận liệu pháp chữa mù bằng

tế bào gốc cho người. Và mới đây nhất, các

nhà nghiên cứu của trường Đại học Fudan và

Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc

đã tìm ra phương pháp chữa mù bằng vàng và

titanium.

Được công bố trên tạp chí Nature

Communications, nhóm nghiên cứu cho biết

phương pháp này có thể khôi phục thành công

thị lực của chuột. Cụ thể, các nhà khoa học đã

thay thế các tế bào thụ cảm bị hỏng bằng bộ

phận nhận ánh sáng nhân tạo được làm từ

titanium dioxide và các dây nano vàng.

Để có thể kiểm tra tính hiệu quả của

thụ thể nhân tạo, các nhà khoa học đã biến

đổi tế bào gốc của những chú chuột tham gia

thí nghiệm để các thụ thể tự nhiên thoái hóa

đi. Sau đó, họ tiến hành cấy ghép và quan sát

kỹ lưỡng phản ứng của chuột khi gặp ánh

sáng màu xanh lá, xanh dương và tia cực tím.

Lúc này, đồng tử chuột giãn ra, xác nhận các

thụ cảm quang học mới đang hoạt động và

phản hồi lại với ánh sáng đang chiếu. Sau tám

tuần hậu phẫu thuật, không có bất kỳ con

chuột nào có những biểu hiện tiêu cực hay tổn

thương do không tương thích với cơ quan mới

được ghép.

Hiện kết quả đang rất khả quan tuy

nhiên vẫn chưa mang lại cho các nhà nghiên

cứu những gì họ muốn biết. Bởi khó có thể

xác định được tầm nhìn mà chuột có được sau

khi được cấy ghép là ra sao. Hơn nữa, các cơ

quan thay thế vẫn chưa chắc khôi phục được

hoàn toàn khả năng nhìn thấy đầy đủ các màu

mà mắt tự nhiên có thể nhìn thấy được. Có lẽ

đây không phải là mối quan tâm lớn đối với

một số người khiếm thị vì với họ thấy được

ánh sáng đã là hạnh phúc rồi, nhưng đồng

thời là dấu hiệu cho thấy nhóm nghiên cứu

cần phải làm nhiều việc hơn nữa để cải thiện

nó nhằm có thể ứng dụng vào điều trị nhiều

căn bệnh mắt khác như viêm võng mạc sắc tố

(RP) và thái hóa điểm vàng.

Viện mắt Hoa Kỳ thống kể cứ 4000

người trên toàn thế giới sẽ có 1 người bị ảnh

hưởng bởi chứng RP trong khi nhiều người

60 tuổi trở lên có nguy cơ cao bị thái hóa

điểm vàng, và nếu hút thuốc thường xuyên

nguy cơ ấy sẽ tăng lên gấp đôi. Dường như

tương lai đang hứa hẹn hơn với sự phát triển

không ngừng trên con đường tìm lại ánh sáng

cho người khiếm thị.

Theo vnreview.vn, 10/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Một phương pháp điều trị mới đầy hứa hẹn đối với tổn thương tủy sống

Page 5: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 5/57

Các nhà nghiên cứu tại Viện

Karolinska, Thụy Điển, đã có thể cải thiện

phục hồi chức năng sau thương tích tủy sống

ở chuột, mở đường cho các phương pháp điều

trị mới.

Khả năng chữa bệnh của hệ thống thần

kinh trung ương là rất hạn chế, và tổn thương

não hoặc tủy sống thường dẫn đến thâm hụt

chức năng vĩnh viễn.

Giờ đây, các nhà khoa học từ Viện

Karolinska đã báo cáo rằng họ đã tìm ra một

cơ chế quan trọng giải thích tại sao điều này

xảy ra.

Điều gì xảy ra với hệ thần kinh? Sau

một chấn thương hệ thần kinh trung ương,

một loại mô sẹo đặc biệt được hình thành

ngăn cản sự tái sinh. Do đó, chấn thương não

và tủy sống nên thường dẫn đến mất khả năng

hoạt động vĩnh viễn.

Hơn một thế kỷ trước, người ta nhận ra

rằng các sợi thần kinh của hệ thần kinh trung

ương không phát triển qua các mô sẹo tạo

thành tổn thương.

Mô sẹo này là một lưới phức tạp của

các loại tế bào và các phân tử khác nhau, và

không rõ chính xác các mô sẹo phong bế việc

tái phát triển sợi thần kinh như thế nào.

Sau khi nghiên cứu chuột bị tổn

thương tủy sống, các nhà nghiên cứu đã xác

định được một cơ chế quan trọng đằng sau sự

ức chế tái tạo sợi thần kinh.

Christian Goritz, phó giáo sư ở Khoa

Sinh học Phân tử và Tế bào, cho biết: "Những

phát hiện của chúng tôi đưa ra một giải thích

quan trọng là tại sao sự phục hồi chức năng

do tổn thương hệ thống thần kinh trung ương

lại quá hạn chế”.

Các nhà nghiên cứu ở Karolinska tìm

thấy lời giải thích nằm trong một số lượng

nhỏ các tế bào lót các mạch máu dẫn đến một

phần lớn mô sẹo.

Ngăn chặn sự hình thành sẹo bằng các

tế bào liên quan đến mạch máu này cho phép

một số sợi thần kinh phát triển qua tổn thương

và kết nối lại với các tế bào thần kinh khác.

Điều này dẫn đến việc phục hồi chức năng

được cải thiện sau tổn thương tủy sống ở

chuột.

Theo vista.gov.vn, 14/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Công cụ quang học phát hiện những thay đổi về chuyển hóa do bệnh tật

Những thay đổi về chuyển hóa trong tế

bào có thể xuất hiện ở những giai đoạn sớm

của bệnh. Trong hầu hết các trường hợp, khả

năng xác định những tín hiệu đó còn hạn chế,

bởi con người thường phát hiện bệnh chỉ sau

khi bệnh đã gây hậu quả nghiêm trọng. Giờ

đây, một nhóm nghiên cứu do các kỹ sư tại

Trường Kỹ thuật, Đại học Tufts dẫn đầu, đã

phát hiện ra công cụ quang học có thể xác

định quá trình trao đổi chất với độ phân giải

dưới cấp độ tế bào, nhưng không gây xáo trộn

tế bào do chất cản quang hoặc phá hủy chúng

để làm thí nghiệm. Phương pháp này đã được

áp dụng để xác định các tín hiệu chuyển hóa

đặc trưng cho bệnh tiểu đường, ung thư, tim

mạch và bệnh thoái hóa thần kinh. Nghiên

cứu đã được công bố trên tạp chí Science

Advances.

Page 6: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 6/57

Phương pháp mới dựa vào khả năng

phát quang của 2 loại coenzyme chính (phân

tử sinh học hoạt động cùng với các enzyme)

khi có sự kích thích của chùm tia laser. Hai

loại coenzyme này bao gồm nicotinamide

adenine dinucleotide (NADH) và flavin

adenine dinucleotide (FAD), có liên quan đến

số lượng lớn các con đường trao đổi chất

trong mỗi tế bào. Để tìm ra các con đường

trao đổi chất đặc thù do ảnh hưởng của bệnh

tật hoặc áp lực, nhóm nghiên cứu đã xem xét

3 thông số: tỷ lệ FAD/NADH, sự “mờ dần”

mức độ phát quang của NADH và sự sắp xếp

của các ty thể thể hiện sự phân bố của NADH

trong không gian tế bào (năng lượng cấp cho

tế bào).

Thông số đầu tiên (tỷ lệ FAD/NADH)

thể hiện cách tế bào tiêu thụ oxy, chuyển hóa

đường hay sản sinh hoặc phá vỡ các phân tử

chất béo. Thông số thứ hai (sự “mờ dần” mức

độ phát quang của NADH) tiết lộ chi tiết về

môi trường cục bộ của NADH. Thông số thứ

ba (sự phân bố của NADH trong không gian

tế bào) cho thấy cách các ty thể phân tách và

hợp nhất để phản ứng với sự phát triển của tế

bào và áp lực.

Irene Georgakoudi, Giáo sư kỹ thuật y

sinh và là đồng tác giả nghiên cứu cho rằng:

“Cả ba thông số này được kết hợp, sẽ cung

cấp các tín hiệu chuyển hóa đặc thù và duy

nhất về sức khỏe của tế bào hoặc hiện tượng

rối loạn chức năng. Sức mạnh của phương

pháp này là khả năng thu thập thông tin về

các tế bào sống mà không cần dùng chất cản

quang hoặc nhãn dán có thể ảnh hưởng đến

kết quả”.

Những phương pháp hiện có để theo

dõi theo phương thức không xâm lấn các tín

hiệu chuyển hóa do tác động của bệnh tật như

quét PET, thường được sử dụng trong nghiên

cứu. Tuy nhiên, dù kỹ thuật quét PET cung

cấp thông tin có độ phân giải thấp với khả

năng thâm nhập sâu tuyệt vời vào bên trong

các mô sống, nhưng phương pháp quang học

mới phát hiện hoạt động trao đổi chất ở cấp

độ phân giải của các tế bào đơn lẻ và chủ yếu

gần bề mặt.

Điều đó tất nhiên không phải là một

hạn chế. Nhiều bệnh có thể được phát hiện ở

bề mặt của mô như bệnh ung thư, trong khi

nhiều nghiên cứu tiền lâm sàng được thực

hiện trên các mô hình chuột và mô 3 chiều đã

điều chỉnh cũng sẽ được hưởng lợi từ việc

theo dõi một cách không phá hủy. Phương

pháp mới được chứng minh là công cụ nghiên

cứu mạnh mẽ để hiểu những tín hiệu chuyển

hóa của tế bào.

Theo vista.gov.vn, 15/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Quy trình sản xuất mới giúp loại bỏ tình trạng tử vong do sốt rét

Thành phần hoạt tính quan trọng nhất

để bào chế thuốc chống sốt rét hiện có thể

được sản xuất theo cách hiệu quả và thân

thiện hơn với môi trường. Các nhà nghiên

cứu tại Viện Động lực và Hệ thống kỹ thuật

phức tạp Max Planck và Viện Colloid và

Giao diện Max Planck đã đưa ra một phương

pháp mới sử dụng các chất từ chất thải thực

vật để tạo ra artemisinin. Artemisinin là thành

phần chính của loại thuốc sốt rét hiệu quả

nhất và nghiên cứu cũng được thực hiện về

tiềm năng sử dụng loại thuốc này trong điều

trị ung thư. Quy trình mới có thể được công

nghiệp hóa trên quy mô lớn, hứa hẹn thúc đẩy

hoạt động sản xuất chi phí thấp.

Mỗi năm, 650.000 người chết vì sốt

rét, trong số đó có gần 600.000 trẻ dưới 5

tuổi, dù trên thực tế bệnh đã được điều trị

bằng thuốc. Tuy nhiên, thuốc chống sốt rét

Page 7: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 7/57

hiệu quả này cho đến nay vẫn chưa phù hợp

với nhiều người, nhưng mọi thứ đang bắt đầu

thay đổi. Peter H. Seeberger, Giám đốc Ban

Hệ thống vi phân tử tại Viện Colloid và Giao

diện Max Planck và là đồng tác giả nghiên

cứu cho biết: “Đột phá của chúng tôi trong

việc sản xuất artemisinin có tiềm năng cứu

sống hàng triệu người nhờ giảm giá thành

của thuốc sốt rét và tăng khả năng tiếp cận

trên toàn cầu”.

Thời gian chuyển đổi từ các thành

phần thực vật thành artemisinin chỉ mất 15

phút

Năm 2012, các nhà nghiên cứu tại

Viện Colloid và Giao diện Max Planck đã thu

hút sự quan tâm của quốc tế khi đưa ra một

phương pháp đơn giản để sản xuất

artemisinin. Thành phần hoạt tính này trước

đây được tách từ cây ngải (Artemisia annua).

Vào thời điểm đó, các nhà nghiên cứu tại

Viện Max Planck đã sản xuất thành công hoạt

tính từ tiền chất sinh học axit

dihydroartemisinic, được xem là sản phẩm

thải loại. Hơn nữa, quy trình được các nhà

khoa học áp dụng là liên tục và có thể được

thực hiện trên quy mô công nghiệp.

Nhóm nghiên cứu đứng đầu là Kerry

Gilmore, nhà khoa học thuộc Viện Colloid và

Giao diện Max Planck hiện đã cải tiến mạnh

mẽ quy trình. Vật liệu thực vật không cần

được xử lý bằng quy trình làm sạch phức tạp.

Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn sử dụng

chất diệp lục riêng của thực vật làm chất xúc

tác để tổng hợp artemisinin, trong khi đó,

trước đây cần phải có các chất kích hoạt

quang học giá cao và gây hại cho môi trường.

Các nhà khoa học hiện cung cấp một dung

dịch bao gồm các thành phần được chiết tách

trực tiếp từ thực vật, cho quy trình sản xuất

liên tục. Vì thế, quy trình diễn ra chưa đầy 15

phút, mà trong các điều kiện tự nhiên, thực

vật phải mất khoảng 3 tuần mới làm được

điều đó. Phương pháp này hiệu quả đến mức

có thể xử lý 50-100 lần nồng độ tự nhiên của

axit dihydroartemisinic.

Triển vọng mới cho thuốc được bào

chế theo cách tương tự

Quy trình sản xuất hóa học mới là ví

dụ đầu tiên của phương pháp, qua đó, nguyên

liệu để sản xuất thuốc hoặc hợp chất thiên

nhiên không phải là thứ duy nhất được chiết

xuất từ thực vật. Chất xúc tác, cụ thể là công

cụ thúc đẩy phản ứng hóa học diễn ra, cũng

trực tiếp bắt nguồn từ thực vật. Peter

H.Seeberger cho biết: “Quy trình tổng hợp

sản phẩm tự nhiên của chúng tôi là bước đột

phá về chi phí thấp, hiệu quả và thân thiện

với môi trường. Quy trình này không chỉ mở

ra triển vọng bào chế các loại thuốc khác

theo phương thức tương tự, mà còn tạo cơ hội

để làm biến đổi ngành công nghiệp chống sốt

rét”.

Quy trình sản xuất artemisinin hiện

đang được triển khai trên quy mô công nghiệp

bởi công ty phái sinh ArtemiFlow do các nhà

nghiên cứu Peter H. Seeberger and Kerry

Gilmore tại Viện Max Planck sáng lập. Bên

cạnh đó, nhóm nghiên cứu đang thương thảo

với nhiều đối tác tiềm năng như Quỹ Bill &

Melinda Gates để nhiều bệnh nhân sốt rét sẽ

sớm được điều trị bệnh bằng loại thuốc hiệu

quả.

Theo vista.gov.vn, 20/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Hệ thống hydrogel mới giúp xương mau lành

Nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Y tế

thuộc trường Đại học Connecticut đã thiết kế

được một hệ thống hydrogel hybrid mới giúp

giải quyết một số thách thức trong việc phục

hồi xương bị tổn thương. Kết quả nghiên cứu

đã được công bố trên Tạp chí Biomedical

Materials Research-Part B.

Page 8: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 8/57

Bộ xương người trưởng thành bao gồm

200 xương, dài từ vài milimét đến hơn 30cm.

Cách xương hình thành và lành lại sau tổn

thương, đặt ra thách thức cho các nhà nghiên

cứu trong lĩnh vực y học tái tạo. Hai quá trình

liên quan đến sự phát triển của xương người

giúp tất cả các loại xương trong cơ thể hình

thành và phát triển, bao gồm quá trình tạo

xương trong nội màng (IO) và cốt hóa nội sụn

(EO). Dù cả hai quá trình này đều quan trọng,

nhưng IO là quá trình chịu trách nhiệm tạo

thành xương phẳng và EO là quá trình tạo nên

xương dài như xương sống và xương cánh

tay.

Trong hai quá trình này cần có các tế

bào gốc trung mô để kích thích sự phát triển

của xương mới. Dù giống nhau, nhưng quá

trình IO rất dễ mô phỏng trong phòng thí

nghiệm vì các tế bào gốc trung mô có thể trực

tiếp chuyển đổi thành các tế bào tạo xương

mà không cần các bước bổ sung. Tuy nhiên,

sự đơn giản này lại có những hạn chế nhất

định. Để giải quyết vấn đề liên quan đến quá

trình IO, nhóm nghiên cứu đã phát triển chất

nền ngoại bào sử dụng hydrogel để định

hướng và hỗ trợ sự hình thành của xương

thông qua quá trình EO.

Syam Nukavarapu, Phó giáo sư phẫu

thuật chỉnh hình cho biết: “Cho đến nay, rất ít

nghiên cứu tập trung thiết kế chất nền cho

quá trình cốt hóa nội sụn để tái tạo và phục

hồi xương dài. Bằng cách kết hợp phát triển

hydrogel hybrid, chúng tôi có thể tạo nên

chất nền ngoại bào hỗ trợ sự hình thành của

mẫu sụn”.

Trong khi tính đơn giản của quá trình

IO là hạn chế, thì lợi ích của EO lại mang đến

sự cân bằng. EO đòi hỏi sự phối hợp theo

không gian và thời gian của các yếu tố khác

nhau như các tế bào, yếu tố tăng trưởng và

chất nền ngoại bào hoặc khung trên đó các tế

bào gốc trung mô gắn kết, phát triển và biệt

hóa.

Để tạo sự cân bằng, nhóm nghiên cứu

đã kết hợp 2 chất: fibrin và hyaluronan để

kích thích tái tạo mô và tạo nên chất ngoại

bào có tác dụng hình thành xương dài. Gel

fibrin mô phỏng tế bào gốc trung mô ở người

và thúc đẩy sự kết hợp giữa các tế bào, đòi

hỏi phải có sự biệt hóa tế bào gốc trung mô

thành tế bào tạo sụn. Hyaluronan là loại

polymer sinh học tự nhiên, mô phỏng các giai

đoạn sau của quá trình, qua đó, các tế bào tạo

sụn biệt hóa sinh trưởng và phát triển.

Theo dự báo, các mẫu sụn chứa tế bào

sụn phì đại sẽ giải phóng các yếu tố tạo thành

xương và mạch, cũng như sẽ thúc đẩy sự phát

triển của xương. PGS. Nukavarapu cho rằng

sử dụng chất nền của mẫu sụn sẽ dẫn đến khả

năng phát triển các chiến lược phục hồi

xương mới không liên quan đến các yếu tố

tăng trưởng gây hại.

Nhóm nghiên cứu dự kiến sẽ kết hợp

chất ngoại bào hybrid có khung chịu lực để

phát triển các mẫu sụn phù hợp phục vụ việc

điều chỉnh khiếm khuyến xương dài. Các nhà

nghiên cứu hy vọng đây là bước tiến đầu tiên

hướng tới cho ra đời những mẫu sụn phì đại

với các thành phần phù hợp để kích thích sự

hình thành của mô xương, tạo mạch, sửa đổi

và cuối cùng thiết lập chức năng của tủy

xương để sửa chữa các khiếm khuyết của

xương dài nhờ có quá trình EO.

Theo vista.gov.vn, 20/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 9: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 9/57

Lập mô hình mô 3D về sự phát triển của tim người

Các nhà khoa học tại trường Đại học

Syracuse, Hoa Kỳ đã nghiên cứu tế bào gốc

đa năng ở người để tìm hiểu khả năng tái tạo

mô, thuốc tái tạo mô và kỹ thuật tế bào gốc.

Các tế bào gốc đa năng có thể được sử dụng

để tạo ra mô tim, nhưng nhóm nghiên cứu tin

rằng sẽ còn có nhiều ứng dụng khác nữa.

Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí

Nature Protocols vào tháng 3/2018.

Zhen Ma, Giáo sư kỹ thuật Y sinh và

là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Chúng

tôi có thể tái định hình tim phát triển ở giai

đoạn đầu trong phòng thí nghiệm. Đó là sự

mô phỏng giai đoạn sớm của quá trình hình

thành phôi thai - cách tim được hình thành”.

Nhóm nghiên cứu đã xây dựng được

quy trình kết hợp tạo mẫu tế bào từ vật liệu

sinh học và công nghệ tế bào gốc để lập mô

hình mô 3D mô phỏng sự phát triển của tim

người ở giai đoạn đầu. Nhờ có một lớp

polymer trong đĩa nuôi cấy mô và thao tác

khắc các mẫu nhỏ trong polymer, các tế bào

gốc sẽ chỉ gắn kết bên trong những mô hình

đó. Vì các tế bào gốc không liên kết với

polymer, nên chúng phát triển trong các mô

hình và cuối cùng tạo nên cấu trúc 3D gồm có

ba loại mô khác biệt. Quy trình này tập trung

vào mô tim nhưng cũng có thể áp dụng cho

các loại mô khác. Nền tảng này cho phép mô

hình thành trong quá trình biệt hóa tế bào mà

không phải từ các tế bào tim có sẵn. Mô tạo

thành gồm có nhiều lớp và thể hiện cụ thể

hơn cách mô phát triển theo cách tự nhiên ở

người.

Plansky Hoang, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng: “Chúng tôi sử dụng các dòng tế

bào của người, nên biết chúng sẽ ảnh hưởng

đến mô người theo cách nhất định trái ngược

với sự bất ổn xuất hiện khi sử dụng mô hình

động vật”.

Một số phụ nữ mang thai tránh không

dùng loại thuốc họ cần uống để kiểm soát

bệnh mãn tính, nhưng nếu sức khỏe của bà

bầu không tốt cũng sẽ ảnh hưởng đến em bé.

Các kết quả thử nghiệm xác thực sẽ tạo lòng

tin cho bệnh nhân và bác sỹ.

Xác định độc tính gây ra cho phôi thai

chỉ là một ứng dụng tiềm năng của mô hình

do nhóm nghiên cứu tại trường Đại học

Syracuse phát triển. Vô số các mô khác ở

người cũng có thể được nuôi cấy bằng quy

trình này. Quy trình cũng cho phép xét

nghiệm độc tính thuốc trên người. Người

bệnh có những phản ứng khác nhau với cùng

một loại thuốc nhưng xét nghiệm riêng biệt

sử dụng các tế bào gốc ở người có thể xác

định mức độ an toàn của thuốc trước khi

người bệnh sử dụng.

Hoang cho rằng: “Đối với phương

pháp sàng lọc truyền thống, các bác sỹ sẽ

xem xét tiểu sử của bệnh nhân và sau đó, cho

người bệnh dùng thử thuốc trong vòng 1 hoặc

2 tháng và đánh giá phản ứng. Tuy nhiên, khi

sử dụng mô hình mới, có thể thử nghiệm cùng

lúc nhiều loại thuốc để xác định tác dụng của

thuốc đối với người bệnh mà không phải thực

hiện những xét nghiệm riêng rẽ mất nhiều

thời gian”.

Theo vista.gov.vn, 28/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Thử nghiệm thành công nanorobot tiêu diệt ung thư

Mỗi nanorobot đều rất nhỏ, không thể

nhìn thấy bằng mắt thường và có thể đi xuyên

qua máu để tìm các khối u.

Theo một công bố được đăng trên tạp

chí Nature Biotechnology vừa qua, các nhà

khoa học ở Trung tâm Khoa học và công

Page 10: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 10/57

nghệ nano quốc gia Trung Quốc đã phát triển

và thử nghiệm thành công loại nanorobot

ADN đầu tiên trên thế giới để chống lại các

khối u ác tính.

Các nanorobot có kích thước rất nhỏ, nhỏ hơn 5.000 lần đầu mũi kim

Các nhà nghiên cứu của Trung tâm cho

biết, nanorobot có kích thước nhỏ hơn 5.000

lần đầu mũi kim và không thể nhìn thấy được

bằng mắt thường.

Các nhà khoa học đã thử nghiệm

nanorobot trong ống nghiệm và mới đây nhất

đã lần đầu tiên thực hiện trên cơ thể sống -

một chú chuột.

Các thử nghiệm cho thấy các

nanorobot có thể đi qua máu để tìm các khối

u. Khi phát hiện ra khối u, chúng sẽ giải

phóng lượng thrombin vào khối u để cắt đứt

nguồn cung cấp máu nhằm “bỏ đói” khối u

cho đến chết. Sau đó, khối u sẽ tự hủy sau

một vài tuần, thậm chí một vài ngày.

Ngoài ra, để kiểm tra độ an toàn của

nanorobot, các nhà khoa học còn cẩn thận thử

nghiệm chúng trên cả loài lợn nhỏ có có cấu

tạo sinh lý và giải phẫu giống với người.

Khác với hóa trị và xạ trị, nanorobot ADN có

thể tiêu diệt khối u ác tính mà không gây tổn

thương các mô khoẻ xung quanh, không tích

tụ lại trong não và như vậy không gây nguy

cơ đột quỵ.

Nhờ được làm bằng vật liệu tự nhiên

nên nanorobot sẽ được thải ra khỏi cơ thể sau

khi đã hoàn thành nhiệm vụ.

Hiện các nhà khoa học đang nghiên

cứu tiền lâm sàng và hy vọng sớm áp dụng

công nghệ này.

Theo baochinhphu.vn, 13/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Các hạt nano oxit vonfram có tác dụng diệt tế bào ung thư

Các hạt nano oxit vonfram có tính sát khuẩn, đồng thời độc hại đối với các tế bào ung thư -

Ảnh: Global Look Press

Các nhà nghiên cứu Nga cùng với các

đồng nghiệp Ukraine đã tạo được các hạt

nano oxit vonfram và nhận thấy các hạt đó có

nhiều ứng dụng, đặc biệt có thể dùng để điều

trị ung thư.

Theo bài báo khoa học được công bố

trên tạp chí Journal of Photochemistry and

Photobiology, các nhà nghiên cứu Nga cùng

với các đồng nghiệp Ukraine đã tạo được các

hạt nano oxit vonfram và nhận thấy các hạt

đó có nhiều ứng dụng, đặc biệt có thể dùng để

điều trị ung thư. Oxit vonfram có nhiều đặc

tính thú vị. Đặc biệt, đó là một chất khử trùng

tốt, nhất là khi tiếp xúc với ánh sáng. Thậm

chí ngày nay nó vẫn được sử dụng để khử

trùng nước thải.

Các hạt oxit vonfram càng có diện tích

bề mặt lớn thì càng kháng khuẩn mạnh. Do

đó, điều quan trọng là để có được các hạt

nano có diện tích bề mặt tối đa với trọng

lượng được xác định.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu đặc

tính vật lý và hóa học của các hạt oxit

vonfram. Đặc biệt, họ đã chứng minh rằng

các hạt đó có thuộc tính xúc tác quang học

khi được chiếu sáng và đặc biệt khi chiếu với

ánh sáng cực tím. Họ đã nghiên cứu ảnh

hưởng của các hạt nano oxit vonfram tới vi

khuẩn, nấm và các tế bào động vật có vú .

Trong các thử nghiệm, các nhà khoa

học đã xử lý các tế bào bằng các hạt nano oxit

Page 11: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 11/57

vonfram ở nồng độ khác nhau và sau đó thay

đổi thời gian chiếu xạ bằng ánh sáng cực tím.

Sau đó, họ được đánh giá các chỉ số sống sót

của các tế bào, kể cả tỷ lệ sinh sôi nảy nở.

Hóa ra, oxit vonfram độc hại đối với tất cả

các loại tế bào, nhưng khác nhau về nồng độ

nguy hiểm. Liều gây tử vong cho vi khuẩn lại

an toàn với các tế bào chuột thử nghiệm.

Đáng chú ý, các hạt nano oxit vonfram

độc hại đối với các tế bào ung thư. Tuy nhiên

các hạt đó cũng có thể được sử dụng như một

tác nhân tương phản khi chụp cắt lớp vi tính.

Đặc biệt, có thể sử dụng các hạt đó trong chẩn

đoán trị liệu (theranostics) - một cách tiếp cận

y tế mới, khi công cụ chẩn đoán sớm đồng

thời cũng là một phương tiện điều trị.

Theo motthegioi.vn, 23/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Gel ngăn chặn ung thư tái phát

Nghiên cứu đột phá đã cho thấy một

chiến lược đầy hứa hẹn để ngăn chặn sự tái

phát của bệnh ung thư dưới dạng gel tự tiêu.

Các nhà nghiên cứu đã phát triển một loại gel có

thể giúp ngăn chặn ung thư tái phát và di căn

Được tạo ra bởi các nhà khoa học tại

Viện Ung thư Dana-Farber ở Boston, MA, gel

được thiết kế để đưa liệu pháp miễn dịch trực

tiếp tới vùng mà khối u ung thư đã được phẫu

thuật cắt bỏ.

Khi thử nghiệm gel trên chuột trong

quá trình phẫu thuật cắt bỏ khối u ung thư vú,

các nhà nghiên cứu thấy rằng nó không chỉ

giúp ngăn ngừa khối u tái phát ở vị trí ban

đầu, mà còn loại bỏ khối u thứ phát trong

phổi.

TS. Michael Goldberg, Phòng Miễn

dịch ung thư và Vi-rút tại Viện Ung thư

Dana-Farber - và các đồng nghiệp đã báo cáo

kết quả trên tạp chí Science Translational

Medicine.

Theo Hội Ung thư Mỹ (ACS), hơn 1,7

triệu trường hợp ung thư mới sẽ được chẩn

đoán ở nước này vào năm 2018, và hơn

600.000 người sẽ chết vì căn bệnh này.

Đối với khối u ung thư rắn - như ung

thư vú và ung thư phổi - phẫu thuật cắt bỏ

khối u thường là phương án điều trị đầu tiên.

Những vấn đề với liệu pháp miễn dịch

Tuy nhiên, như TS. Goldberg giải

thích, ngay cả khi khối u được loại bỏ, một số

tế bào ung thư có thể vẫn còn lại. Chúng có

thể hình thành các khối u mới, hoặc thậm chí

lan sang các vùng khác của cơ thể - một quá

trình được gọi là di căn.

"Trong khi một nửa số bệnh nhân ung

thư được phẫu thuật để điều trị bệnh, thì 40%

số bệnh nhân này sẽ bị tái phát bệnh trong

vòng 5 năm", TS. Goldberg lưu ý.

"Hơn nữa, quá trình chữa lành vết

thương tự nhiên của cơ thể mà phẫu thuật tạo

ra có thể thúc đẩy những tế bào ung thư còn

sót lại này di căn đến những nơi xa của cơ thể

và tạo thành những khối u mới".

Liệu pháp miễn dịch - bao gồm sử

dụng thuốc để kích thích hệ miễn dịch và tấn

công tế bào ung thư - có thể giúp ngăn ngừa

tái phát ung thư và di căn. Tuy nhiên, việc

điều trị có một số nhược điểm nghiêm trọng.

Một vấn đề chính với liệu pháp miễn

dịch là nó có thể tấn công các tế bào khỏe

mạnh cũng như các tế bào ung thư, làm tăng

sự nhạy cảm của bệnh nhân với các bệnh

khác.

TS. Goldberg cho biết: "Trong nghiên

cứu này, chúng tôi đã tìm cách xác định xem

liệu việc sử dụng các thuốc kích thích miễn

Page 12: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 12/57

dịch ở đúng chỗ và đúng thời điểm - tại nơi

cắt bỏ khối u, trước khi đóng vết mổ - có thể

làm tăng kết quả liệu pháp miễn dịch ung thư

hay không".

Con đường đến “kích thích miễn dịch”

Các nhà nghiên cứu giải thích rằng khi

khối u ung thư được cắt bỏ, hệ thống miễn

dịch sẽ sử dụng hầu hết các nguồn lực để giúp

liên vết thương, thay vì chiến đấu với bất kỳ

tế bào ung thư nào còn sót lại.

Điều này có thể tạo ra tình trạng gọi là

vi môi trường "ức chế miễn dịch", trong đó

các tế bào ung thư có thể phát triển và lan

rộng.

Như TS. Goldberg giải thích, các nhà

khoa học đã biến đổi vi môi trường ức chế

miễn dịch này thành dạng gọi là "kích thích

miễn dịch " - nghĩa là có thể tấn công và phá

huỷ các tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu

thuật.

Để đạt được kết quả này, các nhà

nghiên cứu đã chế tạo một loại hydrogel chứa

thuốc kích thích các tế bào đuôi gai, những tế

bào miễn dịch tham gia trong đáp ứng miễn

dịch ban đầu. Chúng "trình diện" bất kỳ tác

nhân xâm nhập hoặc tế bào bệnh - như tế bào

ung thư - cho các tế bào T, phát động cuộc

tấn công.

Gel – chứa một loại đường tự nhiên có

trong cơ thể người, khiến nó tự tiêu - được đặt

vào vị trí khối u đã được phẫu thuật cắt bỏ.

Gel sau đó sẽ dần dần giải phóng các thuốc

trong một thời gian dài, làm tăng hiệu quả của

nó.

Kết quả “đáng phấn khởi”

Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm gel ở

những con chuột được phẫu thuật cắt bỏ các

khối u ung thư vú. Nhóm nghiên cứu đã quyết

định sử dụng gel ngay sau khi cắt bỏ khối u,

thay vì trước đó.

TS. Goldberg giải thích: "Chúng tôi đã

lý giải rằng sẽ dễ dàng hơn để loại bỏ một số

nhỏ các tế bào ung thư còn sót lại bằng cách

tạo ra một môi trường kích thích miễn dịch

hơn là điều trị khối u ban đầu còn nguyên

vẹn, có nhiều phương tiện để trốn tránh cuộc

tấn công của hệ miễn dịch".

Vài tháng sau khi phẫu thuật, những

con chuột được điều trị bằng gel ít tái phát

khối u hơn so với những con được điều trị

bằng liệu pháp miễn dịch thông thường.

Khi các nhà nghiên cứu tiêm các tế

bào ung thư vú vào một bên đối diện với nơi

mà khối u ban đầu được cắt bỏ, những chuột

được điều trị bằng gel không có dấu hiệu hình

thành khối u.

Nghiên cứu cũng cho thấy rằng gel

loại bỏ các khối u thứ phát trong phổi của

chuột - nghĩa là nó loại bỏ các khối u phổi

được hình thành từ các tế bào ung thư vú đã

di căn từ vị trí ban đầu.

Các nhà nghiên cứu cũng đã lặp lại

những phát hiện này trên chuột bị ung thư

phổi nguyên phát và u hắc tố ác tính, một

dạng ung thư da chết người.

Dựa trên kết quả nghiên cứu, TS.

Goldberg và các đồng nghiệp tin rằng liệu

pháp miễn dịch dựa trên gel có thể là một

chiến lược điều trị hiệu quả chống lại nhiều

loại ung thư khác nhau.

"Cách tiếp cận này có thể phân phối

liệu pháp miễn dịch theo cách thức tập trung

điều trị vào vị trí quan tâm trong khoảng thời

gian quyết định.

"Chúng tôi cực kỳ phấn khởi trước

những kết quả của nghiên cứu và hy vọng

công nghệ này sẽ được điều chỉnh phù hợp

cho bệnh nhân để thử nghiệm trong các thử

nghiệm lâm sàng trong tương lai không xa",

TS. Goldberg nói.

Theo dantri.com.vn, 27/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 13: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 13/57

Sử dụng phương pháp tạo ảnh tế bào đơn và mô hình toán học để xác định các đặc tính hữu hiệu của thuốc

Liệu pháp điều trị bằng thuốc nhắm

đích các phân tử đặc biệt đã làm thay đổi các

phương thức điều trị ung thư và cải thiện tỉ lệ

sống của bệnh nhân rõ rệt. Tuy nhiên, một số

bệnh nhân không đáp ứng với các liệu pháp

điều trị này do thuốc không thể tiếp cận hiệu

quả tới các tế bào ung thư.

Trong một nghiên cứu mới được công

bố trên tạp chí Scientific Reports, các nhà

nghiên cứu tại Trung tâm Ung thư Moffitt đã

kết hợp phương pháp tạo ảnh các tế bào đơn

thuộc các tế bào ung thư ở chuột kết hợp mô

hình toán học để xác định xem xét đặc tính

nào của thuốc là yếu tố quan trọng nhất giúp

hấp thụ thuốc hiệu quả.

Một trong những vấn đề tồn tại của

liệu pháp nhắm mục tiêu là khối u và môi

trường xung quanh của chúng rất phức tạp và

không đồng nhất. Không phải tất cả các tế

bào trong khối u là giống nhau vì vậy chúng

có thể có những biểu hiện khác nhau với các

thụ quan màng nhắm đích dẫn đến sự dung

nạp trở nên không thích nghi và phản ứng

không đồng đều với thuốc nhắm mục tiêu

này. Ngoài ra, môi trường xung quanh khối u

bao gồm nhiều loại tế bào khác nhau với các

tính chất và mật độ khác nhau do dó có thể

tác động đến hiệu quả của thuốc.

Những biến thể này gây khó khăn

trong việc phát triển các loại thuốc nhắm đích

hiệu quả tới tất cả các tế bào trong khối u.

Hơn nữa, sự khác nhau của các tế bào và căn

nguyên có thể khiến cho bệnh nhân không

đáp ứng được với các loại thuốc nhắm địch

này bởi vì một số tế bào khối u không tiếp

xúc hoàn toàn với thuốc và sự phơi nhiễm

không hoàn toàn này có thể làm cho những tế

bào này phát triển kháng thuốc.

Tiến sĩ Kasia A. Rejniak, thành viên

của nhóm nghiên cứu, cho biết: “Thành công

hay thất bại của liệu pháp nhắm đích trên

lâm sàng phụ thuộc lớn vào việc phân tử

thuốc có tiếp cận được tất các các tế bào ung

thư và kết hợp với các mục tiêu phân tử của

chúng để mang lại hiệu quả điệu trị mong

muốn hay không”.

Các phương pháp tiêu chuẩn mà các

nhà khoa học sử dụng để nghiên cứu sự hấp

thu thuốc là dựa trên ý tưởng khối u và môi

trường xung quanh có các đặc tính đồng nhất.

Tuy nhiên, giả định này là không chính xác

và có thể dẫn đến các cách tiếp cận điều trị

hoàn toàn giống nhau.

Nhóm nghiên cứu Moffitt mong muốn

đưa ra được cách tiếp cận khác để nghiên cứu

sự dụng nạp thuốc. Họ sử dụng các mô hình

toán học và công nghệ tạo ảnh để cho phép họ

theo dõi dấu vết và dự đoán khả năng dung

nạp thuốc của một tế bào đơn nào đó. Cùng

với mô hình này, họ so sánh sự khác nhau các

đặc tính của thuốc và đặc điểm khối u để xác

định các điều kiện sẽ dẫn đến một tế bào nào

đó hấp thu thuốc hiệu quả.

Họ khám phá ra rằng lượng thuốc gắn

kết với tế bào nào đó phụ thuộc vào mức độ

thuốc khuếch tán qua mô nhanh hơn là nồng

độ thuốc xâm nhập vào mô. Các thuốc mà

khuếch tán nhanh có khuynh hướng kết dích

hiệu quả với các tế bào nằm xa các mạch

máu. Mặt khác, các thuốc mà khuếch tán

chậm hơn có khuynh hướng gắn kết với các tế

bào ở gần các mạch máu hơn và hữu hiệu hơn

khi các tế bào này được đóng gói. Nhóm

nghiên cứu cũng nhận thấy những loại thuốc

mà được giải phóng ra nhanh có thể liên kết

hiệu quả hơn với các tế bào với các mức độ

phản ứng thuốc khác nhau.

Ngoài ra, các loại thuốc bị khuếch tán

từ từ có khuynh hướng gắn kết với các tế bào

Page 14: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 14/57

gần với mạch máu và hiệu quả hơn khi các tế

bào được đóng gói chặt chẽ. Các nhà nghiên

cứu cũng cho thấy rằng các loại thuốc được

thải ra nhanh chóng có thể liên kết hiệu quả

hơn với các tế bào với các cấp độ thụ quan

thuốc khác nhau.

Khám phá này cho thấy rằng việc thay

đổi các đặc tính khác nhau của thuốc hoặc

cách phân phối thuốc có thể làm tăng sự vận

chuyển đến các tế bào khối u.

“Ví dụ, để điều trị các tế bào tăng

trưởng nhanh nằm gần mạch máu, các tác

nhân khuếch tán thuốc từ từ sẽ có lợi. Ngược

lại, đối với các tế bào ngủ đông ở các vùng

mạch máu kém, các chất lưu động nhanh cần

ưu tiên, hoặc trong một số bệnh ung thư, tiêm

trực tiếp đến vị trí khối u có thể có lợi”,

Rejniak giải thích.

Cuối cùng, các nhà nghiên cứu hy

vọng rằng cách tiếp cận của họ sẽ được sử

dụng để thiết kế nhiều lựa chọn điều trị cá

nhân hơn cho bệnh nhân ung thư.

Theo vista.gov.vn, 26/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Đầu dò nano hybrid phát hiện tế bào ung thư

Nhóm nghiên cứu tại Trung tâm

Dornsife, Đại học Southern California đã chế

tạo được dầu dò nano hybrid mới có khả năng

phát hiện và điều trị bệnh ung thư theo cách

không xâm lấn ở cấp độ của tế bào đơn lẻ.

Fabien Pinaud, Phó giáo sư về khoa

học sinh học, hóa học và vật lý và là đồng tá

giả nghiên cứu đã đưa ra phương pháp

khuếch đại tín hiệu sinh hóa trên bề mặt của

các tế bào ung thư. Kỹ thuật mới liên kết và

lắp ghép các phân tử hữu cơ vàng trong các tế

bào sống bằng cách sử dụng 2 đoạn protein

huỳnh quang làm “keo phân tử”. Các dầu dò

này hoạt động như bộ khuếch đại, làm tăng

khả năng các nhà nghiên cứu phát hiện ra

những dấu hiệu sinh học khác biệt như những

protein biểu hiện quá mức hoặc đột biến được

phát hiện trong các tế bào ung thư.

Tín hiệu tăng cường cho phép các nhà

khoa học phân biệt tế bào ung thư với tế bào

khỏe mạnh thông qua sử dụng quang phổ

Raman, kỹ thuật chụp ảnh laser chuyên dụng.

PGS. Pinaud cho rằng: “Phương pháp của

chúng tôi dựa vào hai loại hạt nano khác nhau

không hoạt động, nhưng trở nên kích hoạt khi

chúng lắp ghép trên các tế bào ung thư”.

Sử dụng khối lắp ghép “keo phân tử”

để thiết kế các đầu dò nano mới là phương

thức phổ biến trong nghiên cứu y sinh hiện

nay, nhưng hầu hết các nhà khoa học tạo nên

các khối lắp ghép này bằng ADN hơn là

protein. Dù các đầu dò quang học triển vọng

đang được chế tạo bằng cách sử dụng các khối

lắp ghép ADN trong ống nghiệm, nhưng ADN

không phải chất dính thực tế trong tế bào sống.

Protein thường mang lại hiệu quả hơn.

Nhóm nghiên cứu bắt đầu với protein

huỳnh quang phát sáng khi ánh sáng xanh

(cực tím) chiếu vào. Protein huỳnh quang

được tách thành hai đoạn và mỗi đoạn được

gắn vào một tập hợp hạt nano vàng. Cả hai

tập hợp hạt nano nằm trên tế bào và liên kết

với các tín hiệu sinh học trên bề mặt tế bào.

Khi các hạt nano va chạm trên tế bào ung thư,

các đoạn protein tự ghép lại một cách tự

nhiên trên toàn bộ protein huỳnh quang.

Quy trình tái cấu trúc có 2 ưu điểm.

Thứ nhất, hoạt động của tín hiệu sinh hóa mới

trong protein huỳnh quang được khuếch đại

mạnh nhờ các hạt nano cho phép phát hiện

hình ảnh Raman. Thứ hai, nhiệt và sóng siêu

âm được phát ra khi laser tác động đến các

hạt nano, có thể được đo bằng máy dò siêu

âm. Ảnh hưởng kép này tạo độ tin cậy cao

trong việc phát hiện một tế bào trên thực tế là

Page 15: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 15/57

tế bào ung thư, mà không phải là tín hiệu

dương tính giả từ tế bào khỏe mạnh.

Các nhà nghiên cứu dự kiến sẽ thăm

dò khả năng phá hủy các tế bào ung thư,

nhưng không làm ảnh hưởng xấu đến tế bào

khỏe mạnh bằng cách sử dụng laser để làm

nóng các hạt nano.

Theo motthegioi.vn, 28/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Bộ cảm biến gắn trên răng giúp theo dõi chế độ ăn uống

Sáng chế của các nhà khoa học có thể ghi lại thông tin về mức tiêu thụ đường, muối

và thậm chí cả rượu - Ảnh : Hi-news

Các chuyên gia từ Đại học Kỹ thuật

Tufts (Mỹ) đã tạo ra một thiết bị độc đáo gắn

trên bề mặt răng và nó tự động thu thập tất cả

các dữ liệu cần thiết về dinh dưỡng.

Theo Advanced Materials, có rất nhiều

chỉ số sức khỏe phụ thuộc vào thực phẩm mà

chúng ta tiêu thụ. Nhưng để theo dõi những gì

chúng ta ăn và ghi nhật ký thực phẩm thì

không phải lúc nào cũng thuận tiện và không

phải ai cũng cần. Ở đây, các thành tựu công

nghệ cao có thể hỗ trợ đúng lúc: các chuyên

gia từ Đại học Kỹ thuật Tufts đã tạo ra một

thiết bị độc đáo gắn trên bề mặt răng và nó tự

động thu thập tất cả các dữ liệu cần thiết về

dinh dưỡng.

Sáng chế của các nhà khoa học vào

thời điểm này có thể ghi lại thông tin về mức

tiêu thụ đường, muối và thậm chí cả rượu. Bộ

cảm biến bao gồm 3 lớp: 2 lớp bên ngoài,

hoạt động như ăng ten truyền tín hiệu và lớp

chính là chất hấp thụ sinh học cơ bản, có chức

năng ghi nhận và nhận diện các chất dinh

dưỡng. Dữ liệu thu nhận sẽ được chuyển tới

một ứng dụng đặc biệt trên điện thoại thông

minh. Ngoài ra, bộ cảm biến tự nó có thể thay

đổi màu sắc phụ thuộc vào chứa chất chứa

trong thực phẩm.

Cần lưu ý rằng trước đây người ta đã

từng chế tạo các thiết bị tương tự nhưng

chúng có nhiều khiếm khuyết như thời gian

hoạt động ngắn và thường xuyên phải sạc

điện, cần phải sử dụng lớp vật liệu bảo vệ,

phải có dây dẫn điện và kích thước cồng

kềnh... Thiết bị mới này có kích thước chỉ

vỏn vẹn có 2 x 2mm và loại trừ được hoàn

toàn các khiếm khuyết trên.

Theo motthegioi.vn, 27/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Keo hydrogel mới gắn kết các mô thậm chí khi có máu

Băng keo Band-Aid là phương pháp

hiệu quả để ngăn vết thương trên da chảy

máu, nhưng chưa có lựa chọn khả thi nào cho

hiện tượng máu chảy bên trong. Keo phẫu

thuật thường được sử dụng bên trong cơ thể

để thay thế các kỹ thuật khép vết thương phổ

biến như khâu, ghim vì keo làm giảm thời

gian bệnh nhân nằm viện và giảm nguy cơ

chấn thương hoặc tổn thương thứ cấp ở vị trí

vết thương.

Page 16: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 16/57

Keo phẫu thuật muốn phát huy hiệu quả

thì cần phải chắc, mềm, không độc và có thể

thích ứng với chuyển động, nhưng hiện nay

không có chất keo nào có được tất cả những

tính chất này. Để khắc phục hạn chế đó, các

nhà nghiên cứu tại Viện Kỹ thuật phỏng sinh

học Wyss thuộc trường Đại học Harvard đã

phát triển loại keo hydrogel mô phỏng chất

dính được tiết ra từ loài ốc sên phổ biến,

nhưng lại có khả năng tương thích sinh học,

mềm và có thể bám vào các mô chuyển động

ngay cả khi có sự xuất hiện của máu.

Bản thân hydrogel là một hybrid với 2

polymer bao gồm: alginate, chiết xuất từ cỏ

biển, được dùng để làm đặc thực phẩm và

polyacrylamide, vật liệu chính trong kính áp

tròng mềm. Khi các polymer tương đối yếu

này kết hợp với nhau, chúng tạo thành mạng

lưới phân tử tạo độ bền và độ đàn hồi cho vật

liệu hydrogel, sánh ngang với sụn tự nhiên

của cơ thể. Khi kết hợp với một lớp chất dính

chứa các phân tử polymer tích điện dương

(chitosan), vật liệu hybrid tạo thành có thể

bám vào các mô chắc hơn mọi loại keo và co

giãn gấp 20 lần độ dài ban đầu và liên kết với

các bề mặt mô ướt đang chịu tác động của

chuyển động động lực (như nhịp tim).

Các nghiên cứu về keo hydrogel đã

chứng minh keo có khả năng chịu được gấp 3

lần lực căng phá vỡ băng keo y tế tốt nhất

hiện nay, duy trì độ ổn định và độ kết dính

của hydrogel khi cấy vào chuột trong vòng 2

tuần và bịt kín một lỗ hổng trong tim lợn phải

trải qua hàng chục nghìn chu kỳ bơm máu của

tim. Ngoài ra, keo hydrogel không gây tổn

thương mô hay dính vào các mô xung quanh

khi dùng cho chuột bị xuất huyết ở gan.

Keo hydrogel có nhiều ứng dụng tiềm

năng trong y học như làm miếng dán có thể

điều chỉnh kích thước cho phù hợp với các

mô như xương, sụn, cơ hay màng phổi hoặc

làm dung dịch tiêm cho các tổn thương sâu.

Keo hydrogel cũng sẽ được sử dụng để gắn

các thiết bị y tế vào những cấu trúc mục tiêu

như bộ truyền động hỗ trợ chức năng tim.

Ngoài ra, keo hydrogel có thể được chế tạo để

phân hủy sinh học theo thời gian khi cơ thể

phục hồi.

Theo vista.gov.vn, 27/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Bộ lọc mới cải thiện chất lượng nước uống

Bộ lọc graphene đầu tiên trên thế giới có

thể loại bỏ hơn 99% chất hữu cơ tự nhiên

trong nước uống đã xử lý, đang được mở rộng

quy mô để sử dụng trong các nhà máy xử lý

nước thông thường.

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học

New South Wales đã chế tạo được bộ lọc

graphene đầu tiên trên thế giới ở quy mô

phòng thí nghiệm với khả năng loại bỏ hơn

99% chất hữu cơ tự nhiên phổ biến còn sót lại

trong quá trình xử lý nước uống thông

thường.

Nhóm nghiên cứu đã chứng minh

phương pháp mới thành công trong các thí

nghiệm tại lab trên nước đã được lọc tại Nhà

máy lọc nước Nepal ở miền Tây Sydney và

đang nghiên cứu để mở rộng quy mô công

nghệ mới. Kết quả nghiên cứu đã được công

bố trên tạp chí Carbon.

TS. Rakesh Joshi, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng: “Đột phá của chúng tôi là sử

dụng bộ lọc làm từ graphene, một dạng

cacbon cực mỏng. Không có phương pháp lọc

nào khác loại bỏ gần 99% chất hữu cơ tự

nhiên khỏi nước ở áp suất thấp. Kết quả

nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các màng

graphene có thể được chuyển đổi thành

Page 17: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 17/57

phương pháp thay thế mới để trong tương lai

trang bị cho các nhà máy xử lý nước thải

truyền thống”.

Nhà máy nước Sydney cung cấp nước

sạch cho khoảng 4,8 triệu người dân ở thành

phố Sydney, vùng Illawarra và Blue

Mountains. Các chất ô nhiễm hữu cơ tự nhiên

này gây ảnh hưởng đến hiệu suất của nhà máy

lọc nước trực tiếp, làm giảm công suất sau khi

mưa nặng hạt.

TS. Heriberto Bustamante, một trong

các tác giả nghiên cứu cho rằng: “Các

phương pháp phổ biến nhất hiện nay để khử

chất hữu cơ trong các nguồn cung cấp nước,

bao gồm sử dụng chất đông tụ hóa học. Tuy

nhiên, các phương pháp xử lý hiện nay chỉ

hiệu quả phần nào, đặc biệt khi nồng độ của

chất hữu cơ tự nhiên gia tăng”.

Theo TS. Joshi, hệ thống xử lý mới

được chế tạo bằng cách chuyển đổi than chì

xuất hiện tự nhiên thành các màng oxit

graphene cho phép dòng nước dâng lên ở điều

kiện áp suất khí quyển, trong khi loại bỏ gần

như toàn bộ chất hữu cơ. Nhóm nghiên cứu

đang cải tiến thiết bị thử nghiệm để xây dựng

nhà máy thí điểm quy mô nhỏ cho thử nghiệm

tại hiện trường.

Theo vista.gov.vn, 22/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo pin lithium hoạt động ở mức nhiệt thấp kỷ lục -70oC

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã

chế tạo được loại pin với các điện cực làm từ

hợp chất hữu cơ, có thể hoạt động trong điều

kiện nhiệt độ -70 độ C, lạnh hơn nhiều mức

nhiệt khiến cho pin lithium ion mất gần hết

khả năng hoạt động và lưu trữ năng lượng.

Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp

chí Joule vào ngày 28/2/2018, có thể giúp các

kỹ sư phát triển công nghệ phù hợp để thích

ứng với nhiệt độ môi trường ngoài không

gian và những vùng lạnh giá nhất Trái đất.

Dù pin lithium ion có thể hoạt động

trong điều thời tiết tương đối lạnh, nhưng

chúng có những hạn chế nhất định. Hầu hết

pin này chỉ hoạt động 50% công suất tối ưu

khi nhiệt độ ở mức -20oC và khi xuống đến -

40oC, pin chỉ đảm bảo khoảng 12% công suất

hoạt động so với nhiệt độ phòng. Đây là hạn

chế lớn của pin khi pin hoạt động trong môi

trường không gian nơi nhiệt độ có thể giảm

xuống -157oC hoặc thậm chí nhiều nơi ở

Canada và Nga, nhiệt độ nhiều lúc xuống

dưới -50oC.

Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đã phát

hiện ra một thiết kế pin mới có thể hoạt động

thậm chí khi các pin khác đã bị hỏng. TS.

Yong-yao Xia, nhà nghiên cứu pin tại Khoa

Hóa học thuộc trường Đại học Fudan ở Trung

Quốc và là đồng tác giả nghiên cứu nói: “Mọi

người đều biết rằng cả chất điện phân (môi

trường hóa học chứa các ion di chuyển giữa

hai điện cực) và các điện cực (cực âm và cực

dương) gây ảnh hưởng lớn đến hiệu suất của

pin”.

Các nhà khoa học đã thử nghiệm sử

dụng chất điện phân làm từ ester (ethyl

axetat), có điểm đóng băng thấp, cho phép

thực hiện sạc thậm chỉ ở nhiệt độ cực thấp.

Đối với các điện cực, nhóm nghiên cứu đã sử

dụng hai hợp chất hữu cơ gồm cực âm làm từ

polytriphenylamine (PTPAn) và cực dương

polyimide được chế từ

naphthalenetetracarboxylic dianhydride -

1,4,5,8 (PNTCDA). Khác với các điện cực

được dùng trong pin lithium ion, các hợp chất

hữu cơ này không phụ thuộc vào quy trình kết

hợp liên tục các ion vào trong chất nền phân

tử, làm cho pin hoạt động chậm lại khi nhiệt

độ giảm. Theo TS. Xia, nhờ có điện cực làm

từ ethyl axetat và điện cực polymer hữu cơ,

Page 18: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 18/57

pin sạc có thể hoạt động tốt ở nhiệt độ thấp cỡ

-70oC.

Nhóm nghiên cứu tin rằng đây có thể

là giải pháp thay thế hiệu quả hơn cho những

nỗ lực khác nhằm tăng cường chức năng của

pin lithium ion trong điều kiện thời tiết khắc

nghiệt. Các nhà nghiên cứu khác cũng đang

nỗ lực giải quyết vấn đề thông qua phát triển

các chất phụ gia cho pin nhiệt hoặc sử dụng

chất điện phân khí hóa lỏng, nhưng các giải

pháp này cần bổ sung vật liệu làm tăng trọng

lượng pin.

TS. Xia cho biết: “So với các điện cực

chứa kim loại chuyển tiếp trong pin lithium

ion thường, các vật liệu hữu cơ trong pin mới

dồi dào, giá rẻ và thân thiện với môi trường”.

Giá thành của vật liệu điện cực theo ước tính

chỉ bằng khoảng 1/3 giá của điện cực trong

pin lithium ion thường.

Tuy nhiên, loại pin mới vẫn cần được

cải tiến trước khi được thương mại trên thị

trường. TS. Xia tin rằng năng lượng riêng của

pin vẫn thấp so với pin lithium ion thương

mại và quy trình lắp ráp cần được tối ưu. Dù

vậy, pin có triển vọng cho nhiều ứng dụng.

Theo vista.gov.vn, 12/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Khám phá mới giúp kéo dài tuổi thọ pin và tăng độ an toàn khi sử dụng

Pin lithium-kim loại nằm trong số

những ứng cử viên hứa hẹn nhất cho công

nghệ lưu trữ năng lượng mật độ cao trong một

loạt các thiết bị “điện tử thông minh” và các

phương tiện điện tử đang phát triển, nhưng sự

tăng trưởng dendrite trong lithium không

kiểm soát, dẫn đến khả năng sạc pin kém và

mối nguy an toàn, hiện đang làm giảm tiềm

năng của chúng.

Dendrite là những hạt giống như kim

cương xuất hiện trên bề mặt của lithium kim

loại, được sử dụng làm anốt (cực dương) hoặc

điện cực âm của pin. Chúng gây ra các phản

ứng phụ không mong muốn như làm giảm

mật độ năng lượng, và tồi tệ nhất là gây ra sự

thiếu hụt các điện cực có thể dẫn đến cháy

hoặc nổ.

Nghiên cứu mới của Trường Đại học

Arizona State liên quan đến việc sử dụng một

lớp Polydimethylsiloxane (PDMS) 3 chiều,

hoặc silicon, vì chất nền này của cực dương

lithium kim loại đã được phát hiện cho thấy

làm giảm sự hình thành dendrite và làm tăng

thời gian sử dụng của pin và giảm thiểu nguy

cơ mất an toàn.

Hanqing Jiang, giáo sư kỹ thuật về vật

chất, năng lượng Trường Đại học Arizona

State, và là tác giả bài viết được công bố

trong tạp chí Nature Energy cho biết: “Những

phát hiện này có liên quan đến cả pin lithium-

ion và pin lithium, cũng như các tác động đối

với các pin dựa trên anode kim loại khác”.

“Hầu như tất cả các kim loại dùng pin

anode có xu hướng phát triển các dendrites. Ví

dụ như pin kẽm, natri và nhôm”, Jiang giải

thích.

Thay vì tiếp cận vấn đề từ các vật liệu

cụ thể hoặc các triển vọng điện hóa học, Jiang

và nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm các giải

pháp tương tự các kỹ thuật cơ khí. Họ thực sự

hiểu rằng các mũi kim hoặc các sợi tóc thiếc

nhỏ có thể nhô lên khỏi bề mặt thiếc dưới ứng

suất, do đó bằng cách tương tự, họ lưu ý đến

khả năng chịu ứng xuất của vật liệu giống

như một yếu tố làm tăng trưởng dendrite

trong lithium.

Phạm vi đầu tiên của nghiên cứu liên

quan đến việc thêm một lớp PDMS vào đáy

Page 19: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 19/57

của cực dương của pin. Kết quả cho thấy,

giảm đáng kể sự phát triển dendrite.

“Đây là lần đầu tiên tìm ra chứng cứ

thuyết phục cho thấy ứng suất thặng dư đóng

một vai trò quan trọng trong việc hình thành

dendrites trong lithium”, Jiang nói.

Ngoài việc có được các kiến thức nền

tảng về cơ chế tăng trưởng dendrite, nhóm

nghiên cứu của Jiang cũng khám phá ra một

cách thông minh lợi dụng hiện tượng này để

tăng tuổi thọ cho pin lithium kim loại trong

khi vẫn duy trì mật độ năng lượng cao của

chúng. Giải pháp này là chất nền PDMS dạng

3-D với nhiều bề mặt.

“Hãy hình dung các viên bọc đường có

chứa rất nhiều lỗ nhỏ bên trong, bên trong

các khối này, PDMS tạo thành một mạng lưới

liên tục giống như chất nền, được bao phủ

bởi một lớp đồng mỏng để dẫn điện. Cuối

cùng, lithium làm đầy các lỗ rỗng này.

PDMS, giống như lớp bọt xốp, làm giảm ứng

suất và ức chế hiệu quả sự phát triển

dendrite”, Jiang nói.

“Bằng cách kết hợp với các phương

pháp ức chế lithium dendrite khác như chất

phụ gia điện phân mới, phát hiện này có ý

nghĩa rất lớn đối với việc sản xuất pin

lithium-metal như là một giải pháp lưu trữ

năng lượng an toàn, mật độ cao, dài hạn”,

Giáo sư Ming Tang, thành viên của Trường

Đại học Rice cho biết. “Các phạm vi ứng

dụng tiềm năng bao gồm dùng cho các thiết

bị điện tử cá nhân và hoặc là nguồn điện dự

phòng cho lưới điện năng lượng mặt trời”.

Theo vista.gov.vn, 19/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Tấm nano oxit graphene có thể giúp đưa pin litinum-metal ra thị trường

Pin lithium metal tuy là dòng pin có

thể khả năng dự trữ năng lượng cao gấp 10

lần so với pin lithium-ion hiện đang sử dụng

cho các thiết bị điện thoại, máy tính xách tay

và xe hơi nhưng rất khó thương mại hóa vì

một lỗ hổng nghiêm trọng đó là khi pin sạc và

xả, pin lithium tích tụ không đồng đều trên

các điện cực. Sự tích tụ này làm giảm tuổi thọ

của pin do đó khiến chúng trở nên không khả

thi khi phát triển, và quan trọng hơn, có thể

làm cho pin bị ngắt và bắt lửa gây cháy nổ.

Hiện nhóm nghiên cứu Trường Đại

học Illinois, Chicago đã phát triển thành công

một giải pháp giải quyết vấn đề này bằng việc

chế tạo một tấm nano graphene-oxit, khi thực

hiện đặt tấm nano này giữa hai điện cực của

pin lithium-metal sẽ giúp đồng đều trên lớp

mạ của pin lithium và cho phép pin hoạt động

an toàn với tuổi thọ hàng trăm chu kỳ xả sạc.

Công trình nghiên cứu này đã được

công bố trên tạp chí Advanced Materialsal

Materials.

Reza Shahbazian-Yassar, phó giáo sư

về kỹ thuật cơ khí và công nghiệp thuộc

Trường Cao đẳng Kỹ thuật UIC và là tác giả

của bài báo cho biết, nghiên cứu này đã

chứng minh cho thấy các vật liệu 2D mà

trong trường hợp này là graphene oxide có

thể giúp điều chỉnh quá trình lắng đọng

lithium mà theo cách có thể kéo dài tuổi thọ

của pin lithium-metal.

Pin Lithium-metal rất hữu ích vì mật

độ năng lượng của nó cao và trọng lượng

tương đối nhẹ so với các loại pin thông

thường. Tuy nhiên, trải qua nhiều chu kỳ xả

pin, lithium tích lại không đều trên điện cực

lithium metal của pin theo mô hình phân

nhánh hoặc xuất hiện hiện tượng 'dendritic' và

cuối cùng dẫn đến pin chết. Nếu dendrite này

xuất hiện tăng trưởng nhờ dung dịch chất điện

phân và tiếp xúc với điện cực khác thì pin có

thể gặp phải một sự kiện thảm khốc nói cách

khác sẽ gây ra một vụ nổ hoặc hỏa hoạn.

Page 20: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 20/57

Trong các dòng pin lithium-ion, chất

phân tách được đặt bên trong chất điện phân.

Thông thường được làm từ một sợi polyme

xốp hoặc sợi thuỷ tinh, chất phân tách này cho

phép các ion lithium chảy qua trong khi vẫn

chặn giữ lại các thành phần khác để ngăn chặn

tình trạng ngắn điện, có thể dẫn đến hỏa hoạn.

Theo đó, Reza và các đồng nghiệp đã

sử dụng một thiết bị phân tách trong pin

lithium metal để điều chỉnh lưu lượng ion

lithium nhằm kiểm soát tốc độ lắng đọng

lithium và xem xét chúng có thể ngăn ngừa sự

hình thành dendrite hay không. Họ bơm phủ

chất phân tách sợi thủy tinh với graphene

oxide, tạo ra một linh kiện mà được họ gọi là

một tấm nano.

Bằng cách sử dụng kính hiển vi điện tử

quét và các kỹ thuật tạo ảnh khác, nhóm

nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi tấm nano được

sử dụng trong pin lithium-metal, hình thành

màng phim lithium đồng nhất trên bề mặt của

điện cực lithium, điều này giúp cải thiện chức

năng của pin và làm cho pin an toàn hơn,

Tara Foroozan, sinh viên cao học tại Trường

Đại học Kỹ thuật UIC và là tác giả đầu tiên

của nghiên cứu này, cho biết.

Các mô phỏng phân tử, do một nhóm

các nhà nghiên cứu từ Đại học Texas A&M

thực hiện giả thiết rằng các ion lithium sẽ tạm

thời liên kết với graphene oxide, và sau đó

khuếch tán qua các vùng khuyết nano trên tấm

nano. Điều này cản trở hoãn các ion lithium đi

qua và do đó ngăn ngừa sự hình thành dithritic

lắng đọng của lithium trên điện cực.

Kết quả tính toán mô hình pha trường

(phase-field ) do Farzad Mashayek, giáo sư

và người đứng đầu về kỹ thuật cơ khí và công

nghiệp của Đại học Kỹ thuật UIC và là tác giả

của bài báo, chỉ ra rằng graphene oxide cũng

có thể hạn chế cơ học sự phát triển của

dendrites trên pin lithium.

Shahbazian-Yassar cho biết: “Nhóm

nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng vật liệu

graphene oxit 2D có thể cản trở sự hình

thành dendrite bằng cách thay đổi tốc độ

khuếch tán lithium-ion khi chúng đi qua các

lớp graphene oxit. Phương pháp này có tiềm

năng rất lớn cho ứng dụng công nghiệp và

tiềm năng ứng dụng mở rộng”.

Theo vista.gov.vn, 26/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Giấy dán tường báo cháy bằng tín hiệu ánh sáng và âm thanh

Sơ đồ giấy dán tường báo cháy -Ảnh:ASC Nano

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc gần

đây đã chế tạo được loại giấy dán tường vô cơ

chịu lửa. Hơn thế nữa loại giấy dán tường này

có sử dụng graphene có thể hoạt động như

một tín hiệu báo cháy.

Theo ACS Nano, hiện ngoài sơn, nhiều

căn hộ hay sử dụng giấy dán tường. Đây là

một cách khá hợp lý để trang trí các bức

tường theo ý thích, nhưng giấy dán tường có

một bất lợi rất nguy hiểm, là hay bắt lửa dễ

cháy. Rất may, các nhà nghiên cứu Trung

Quốc gần đây đã phát triển được loại giấy dán

tường vô cơ chịu lửa. Hơn thế nữa loại giấy

dán tường này có sử dụng graphene có thể

hoạt động như một tín hiệu báo cháy.

Trong thành phần của loại giấy dán

tường như vậy bao gồm các sợi hydroxyapatite

và các bộ cảm biến nhiệt đặc biệt bằng

graphene oxide. Chính các bộ cảm biến này sẽ

cảnh báo một khi có hỏa hoạn. Khi nhiệt độ

đạt đến ngưỡng 130 độ C, các cảm biến này

báo động chỉ sau 2 giây và báo động liên tục

trong hơn 5 phút. Nhóm chuyên gia ở Viện

Gốm sứ Thượng Hải, do nhà nghiên cứu Zhi-

Chao Xiong đứng đầu, chịu trách nhiệm

nghiên cứu loại giấy dán tường kỳ diệu này.

Họ đã phát triển công nghệ đưa các cảm biến

Page 21: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 21/57

graphene vào nền giấy và trên cơ sở đó, tạo ra

một loại giấy vô cơ không cháy.

Cơ sở của giấy dán tường là cấu trúc

của các sợi nano hydroxyapatite dài hơn 10

micromet và độ dày khoảng 10 nanomét.

Chúng tạo cho giấy có độ bền cơ học, trong

khi vẫn nhẹ và chịu được hỏa hoạn.

Graphene oxide cũng được các nhà

khoa học sử dụng trong loại giấy dán tường

mới là vì khi nhiệt độ tăng lên, nó gây ra một

chuỗi các phản ứng hóa học khiến cảm biến

báo động bằng tín hiệu ánh sáng hoặc âm

thanh. Điều đặc biệt là các bộ cảm biến này

vẫn hoạt động ổn định trong trường hợp nhiệt

độ lên đến 250 độ C. Để tăng tính chịu lửa,

các nhà khoa học đã thêm các phân tử

polydopamine vào thành phần cấu tạo của

giấy.

Theo motthegioi.vn, 25/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Nghiên cứu các chất xúc tác graphene phát hiện thấy kim loại trong các chất xúc tác “phi kim”

Nghiên cứu khám phá này, do các nhà

hoá học Trường Đại học Rice tìm thấy,cho đến

nay đã xác định một sự mô tả sai trong các

chất xúc tác graphene trước đây.

Graphene đã được thử nghiệm rộng rãi

như là một chất thay thế cho các chất bạch

kim đắt tiền trong các ứng dụng lớn như tế

bào nhiên liệu, trong đó vật liệu xúc tác tạo

phản ứng giảm oxy (ORR) là yếu tố cần thiết

để biến năng lượng hóa học thành năng lượng

điện.

Vì graphene, dạng nguyên tử carbon

dày, không phải như kim loại tự nhiên nên các

nhà nghiên cứu đã gặp thất bại bởi hoạt tính

xúc tác của nó khi dùng nó làm catốt.

Không quá ngạc nhiên khi nhà hóa học

James Tour và nhóm của ông, những người đã

phát hiện ra rằng số lượng các vết tích của

mangan nhiễm từ các tiền chất graphite hoặc

các chất phản ứng ẩn bên trong lưới graphene,

phát hiện thấy nếu đủ điều kiện đúng, các bit

kim loại này sẽ hoạt hóa ORR. Và Tour cũng

cho biết rằng, nhóm nghiên cứu của ông cũng

đã cung cấp thêm cái nhìn sâu sắc hơn về cách

thức có thể phát triển các chất xúc tác siêu

mỏng giống graphene.

Do sự tương phản giữa các nguyên tử

cacbon và mangan là rất nhỏ, không thể nhìn

thấy các dấu vết nguyên tử của chất gây ô

nhiễm bằng các thiết bị kỹ thuật phân tích

truyền thống như nhiễu xạ tia X và quang phổ

quang điện tử tia X (XPS).

“Các phòng thí nghiệm đã báo cáo về

các chất xúc tác graphene “phi kim loại”, và

các bằng chứng mà họ thu thập được có thể dễ

dàng để chứng minh điều đó. Nhưng trên thực

tế, công cụ thiết bị mà chúng ta đang ứng

dụng đơn giản là không đủ nhạy để có thể

“hiện thị” các nguyên tử mangan”, Tour nói.

Một công cụ có độ nhạy hơn có tên là

quang phổ khối plasma kết hợp (ICP-MS)

được thực hiện tại Phòng thí nghiệm của

Trường Đại học Rive cho thấy, có thể rõ ràng

cho chung ta quan sát thấy sự xâm nhập trong

các mẫu thí nghiệm.

Các mẫu thử nghiệm graphene nitơ đặc

đã bị khử khỏi graphene oxit và sau đó được

rửa axit trong khoảng 1 đến 6 lần. Với mỗi lần

rửa, tiến hành quét ICP-MS cho thấy, các

nguyên tử mangan dần ít hơn và hoàn toàn

không phát hiện thấy nguyên tử mangan trong

các mẫu graphene rửa sạch 6 lần. Tại lần rửa

thứ năm, hoạt tính xúc tác hoàn toàn thay đổi

và cho thấy hoạt tính trước đây là do các

nguyên tử kim loại dư tồn.

Page 22: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 22/57

Phòng thí nghiệm cho biết không có

nguyên tử mangan nào được quan sát thấy

trong bất kỳ mẫu nào tương tự bằng các công

cụ phân tích thông thường, bao gồm kính hiển

vi điện tử XPS hoặc kính hiển vi điện tử

truyền tin.

Các nhà nghiên cứu đã mô tả các hoạt

tính ORR của các mẫu và phát hiện thấy nitơ-

graphene đã được rửa hai lần là hữu hiệu nhất.

Các mẫu này có xu hướng kết hợp chặt chẽ với

các nguyên tử mangan đơn thành cấu trúc

graphene, tạo thuận lợi cho việc giảm oxy

hoàn toàn thông qua một quá trình xử lý4-

electron, trong đó bốn electron được chuyển

tới các nguyên tử oxy, thông thường bắt nguồn

từ hydro.

Nghiên cứu sinh Ruquan Ye, tác giả

chính của bài báo đăng trên tạp chí cho biết: Ở

quy trình 4-electron, oxy biến đổi thành nước

hoặc hydroxyd. Tuy nhiên, peroxit được hình

thành trong một quá trình 2 electron, điều này

dẫn đến mật độ dòng điện bị giới hạn tán xạ

thấp hơn và tạo ra các loại oxy hoạt tính nguy

hiểm. Ye nói rằng không có kim loại, ORR

trong graphene ít hiệu quả hơn.

Tour cho biết kết quả này sẽ dẫn tới

việc điều tra vai trò của kim loại tồn tại bên

trong các vật liệu khác được cho là phi kim

loại. Các chất xúc tác đơn nguyên tử có thể ẩn

giấu trong graphen, và hoạt tính của chúng là

mạnh.

Công trình nghiên cứu này được Văn

phòng nghiên cứu khoa học không quân, Văn

phòng nghiên cứu hải quân, Trung tâm tài

nguyên nghiên cứu quốc gia, Quỹ khoa học về

nghiên cứu và giảng dạy vật liệu quốc gia,

Quỹ khoa học tự nhiên quốc gia Trung Quốc

và Quỹ Jianlin Xie của Viện vật lý năng lượng

cao, Học viện khoa học Trung Quốc tài trợ.

Đồng các tác giả nghiên cứu bao gồm Luqing

Wang và Yilun Li, hai giáo sư về khoa học vật

liệu và kỹ thuật nano thuộc Đại học Rice;

Boris Yakobson và Miguel José Yacamán,

giáo sư hóa học thuộc Đại học Texas tại San

Antonio; và Juncai Dong, Peng-Fei An,

Dongliang Chen thuộc Viện Hàn lâm Khoa

học Trung Quốc.

Công trình nghiên cứu đã được công bố

trên tạp chí Carbon mới đây.

Theo vista.gov.vn, 12/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Graphene có thể được sử dụng làm thuốc nhuộm tóc vô hại, chống tĩnh điện

Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học

Northwestern đã giải quyết được vấn đề tồn

tại hơn một thế kỷ qua nhờ có khoa học vật

liệu: Đó là việc nhuộm tóc quá thường xuyên

gây tổn thương cho mái tóc suôn mượt của

bạn. Các nhà khoa học đã sử dụng siêu vật

liệu graphene để chế tạo loại thuốc nhuộm tóc

mới không độc, vô hại và giữ màu tóc sau

nhiều lần gội. Tính chất dẫn điện của

graphene cũng mở ra nhiều cơ hội mới cho

tóc như biến đổi nó thành các điện cực tại chỗ

hoặc kết hợp với các thiết bị điện tử mang

theo người.

Nhuộm tóc xem ra là thao tác đơn giản

và bình thường, nhưng trên thực tế lại là một

quá trình hóa học tinh vi. Lớp ngoài cùng của

sợi tóc là lớp biểu bì, được hình thành từ các

tế bào chồng lên nhau trong một mô hình

giống như vảy. Thuốc nhuộm tóc thương mại

hoạt động nhờ sử dụng các hóa chất mạnh

như amoniac và thuốc tẩy để mở lớp biểu bì

cho các phân tử thuốc nhuộm đi vào bên

trong và sau đó kích thích phản ứng bên trong

tóc để tạo màu. Quá trình này không chỉ

khiến cho tóc trở nên dễ gãy mà một số phân

tử nhỏ cũng trở nên khá độc hại.

Page 23: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 23/57

Nhóm nghiên cứu đã không sử dụng

các hóa chất độc hại nhờ khai thác hình dạng

tự nhiên của các tấm graphene. Dù các loại

thuốc nhuộm hiện nay sử dụng hỗn hợp phân

tử nhỏ hoạt động bằng cách làm thay đổi tóc

về mặt hóa học, nhưng các tấm graphene

mềm và dẻo, do đó, chúng quấn quanh mỗi

sợi tóc một lớp phủ. Công thức này cũng kết

hợp các chất dính polymer không độc hại và

có thể ăn được để đảm bảo rằng graphene

dính và tồn tại sau ít nhất 30 lần gội, là yêu

cầu về mặt thương mại đối với thuốc nhuộm

tóc lâu dài. Ngoài ra, graphene còn chống tĩnh

điện nên tóc ít bị bay vào mùa đông.

So sánh hình dạng của graphene với

hình dạng của các hạt sắc tố đen khác như

cacbon đen hoặc oxit sắt chỉ được sử dụng

trong thuốc nhuộm tóc tạm thời, Huang giải

thích: “Tương tự như sự khác biệt giữa giấy

ướt và quả bóng tennis. Giấy ướt sẽ bao phủ

và bám tốt hơn nhiều. Các hạt hình dạng của

quả bóng dễ dàng bị rửa trôi bằng dầu gội”.

Hình dạng của graphene cũng góp phần giải

thích vì sao graphene là giải pháp an toàn.

Trong khi các phân tử nhỏ có thể dễ dàng bị

bị nuốt hoặc di chuyển qua hàng rào của da,

thì graphene có kích thước quá lớn để thâm

nhập vào cơ thể.

Graphene, mạng lưới cacbon 2 chiều,

đã phát triển mạnh mẽ vào năm 2004 với vô

số ứng dụng tiềm năng. Nhưng để phát triển

các ứng dụng đó, vật liệu graphene phải hoàn

hảo về cấu trúc ở mức có thể để có được

những tính chất điện, cơ hoặc nhiệt tuyệt vời.

Đối với thuốc nhuộm mới, tính chất quan

trọng nhất của graphene là màu đen. Do đó,

nhóm nghiên cứu đã sử dụng oxit graphene,

chất dẫn xuất oxy hóa sẵn có, giá rẻ. Các loại

thuốc nhuộm khác trong tương lai có thể khai

thác các tính chất đáng chú ý của graphene

như tính chất dẫn điện tốt. Cho đến nay,

nhóm nghiên cứu đã tạo ra loại thuốc nhuộm

tóc từ graphene với các màu nâu và đen,

nhưng dự kiến sẽ thử nghiệm nhiều màu hơn.

Theo motthegioi.vn, 28/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Viên nang graphene sẽ bón phân cho cây theo giờ

Loại phân bón mới giúp tiết kiệm được thời gian, nguồn nhân lực và vật liệu

Ảnh: Đại học tổng hợp Adelaide

Theo ấn phẩm khoa học Applied

Materials and Interfaces, các nhà khoa học Úc

ở Đại học tổng hợp Adelaide đã phát triển

một loại phân bón công nghệ cao với các viên

nang bằng graphene.

Loại phân bón công nghệ cao này sẽ

cho phép các chất dinh dưỡng được giải

phóng vào một thời điểm nhất định sau khi

viên nang được vùi vào trong lòng đất. Thành

tựu này của các nhà khoa học sẽ làm tăng

lượng chất dinh dưỡng với cùng lượng phân

bón và việc chăm sóc cho cây trồng sẽ mất ít

thời gian hơn.

Trong những năm gần đây, graphene

đang được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh

vực, từ phát triển vũ khí đến sản xuất bao cao

su. Các nhà khoa học Úc, đã cố gắng chuyển

nó thành phân bón và như kết quả kiểm tra

cho thấy, họ đã thành công. Dự án rất hứa hẹn

với việc The Mosaic Company đã bắt đầu quá

trình đăng ký bản quyền.

Công nghệ giải quyết các vấn đề chính

của các nhà sản xuất phân bón hiện đại. Viên

nang bằng graphene rất bền và có diện tích bề

mặt rất lớn. Một cấu trúc phức tạp của các

ống nano cho phép "cấy" nhiều phân tử của

các chất hoạt tính vào cùng một thể tích. Do

đó, viên nang có thể chứa được nhiều nguyên

tố vi lượng thiết yếu hơn các hạt có cùng kích

thước bằng các vật liệu khác và mang nguyên

vẹn chúng đến rễ cây trồng.

Page 24: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 24/57

Ngoài ra, các loại cây trồng trong quá

trình sinh trưởng cần phải được cung cấp dinh

dưỡng bổ sung đúng tiến độ, vào những ngày

nhất định. Cấu trúc viên nang graphene có thể

được thiết kế sao cho các chất này được giải

phóng vào đúng thời điểm, độ tuần lễ sau khi

bón. Ở các trang trại lớn, công nghệ bón phân

mới sẽ giúp tiết kiệm được thời gian, nguồn

nhân lực và vật liệu, từ hỗn hợp phân bón đến

các hệ thống bón phân.

Trong tương lai, việc sản xuất loại

phân bón tiên tiến trên có thể hoàn toàn

không có phế liệu. Chính các chất chứa

graphene cũng sẽ trở thành một loại phân bón

hữu ích, phân hủy trong đất thành axit humic

(đất mùn).

Theo motthegioi.vn, 18/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Kỹ thuật biến đổi gen có thể giúp tiết kiệm 25% lượng nước cho cây trồng

Các nhà khoa học Hoa Kỳ đã tìm ra kỹ

thuật biến đổi gen giúp các loại cây giảm 1/4

lượng nước sử dụng trong khi vẫn bảo đảm

sản lượng thu hoạch. Nhóm nghiên cứu cho

biết bằng việc thay đổi một gen duy nhất, đã

giúp cây thuốc lá, một loại cây mẫu thường

được sử dụng trong các thí nghiệm, phát triển

với kích thước gần bình thường nhưng chỉ sử

dụng 75% lượng nước mà loại cây này

thường cần có. Nếu những cây lương thực

chính cũng có khả năng như vậy, biến đổi gen

loại này có thể bảo đảm cung cấp lương thực

cho dân số đang gia tăng cho dù nguồn nước

trên thế giới đang ngày càng cạn kiệt.

Giáo sư Stephen Long tại Viện Sinh

thực vật thuộc Đại học Illinois - Hoa Kỳ nhấn

mạnh: "Đây là một bước đột phá quan trọng.

Dù nước có hạn, nhưng những cây biến đổi

gen này vẫn phát triển nhanh và cho sản

lượng nhiều hơn".

Người đứng đầu nhóm nghiên cứu,

Giáo sư Johannes Kromdijk cũng thuộc Đại

học Illinois, cho biết: "Làm cho cây trồng sử

dụng nước hiệu quả hơn là một thách thức

lớn nhất đối với các nhà khoa học về cây

trồng hiện nay và tương lai".

Giáo sư Long và các cộng sự của ông

đã "tách" gen mã hóa một protein có tên

PsbS, quyết định tới sự quang hợp, quá trình

cây trồng biến ánh sáng thành dưỡng chất.

PsbS đóng vai trò then chốt trong việc truyền

thông tin về số lượng ánh sáng dẫn đến sự

đóng và mở các lỗ khí trên lá cây.

Khi lỗ khí mở, cây có thể hấp thu khí

CO2 cần cho sự quang hợp. Tuy nhiên cùng

lúc đó nước cũng thoát ra không khí. Trong

các cây biến đổi gen, mức PsbS tăng làm cho

các lỗ khí đóng sớm hơn bình thường, giúp

cây giữ lại được lượng nước nhiều hơn.

Hiện 1,2 tỷ người trên thế giới sống ở

những khu vực thiếu nước và 4 tỷ người, tức

2/3 nhân loại, thiếu nước ít nhất 1 tháng mỗi

năm. Liên hợp quốc dự báo đến năm 2030,

Trái đất sẽ thiếu 40% nước nếu tình trạng ấm

lên toàn cầu tiếp tục với tốc độ hiện nay.

Nông nghiệp hiện sử dụng hơn 3/4 lượng

nước ngầm khai thác, trong đó 90% là ở các

nước nghèo.

Theo vista.gov.vn, 21/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 25: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 25/57

Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các rễ cây thực vật có thể chống lại sự ấm lên toàn cầu

Các nhà khoa học, các công ty và các

cơ quan chính phủ hiện đang nỗ lực giảm

lượng phát thải khí nhà kính gây ra biến đổi

khí hậu. Trong những năm gần đây, nhiên

liệu sinh học được sản xuất từ ngô đã nổi lên

như một nguồn nhiên liệu cho động cơ xe

máy, và có lẽ dùng cho cả máy bay.

Nhưng ngô được xem như một nguồn

nguyên liệu nhiên liệu sinh học thì cần phải

bàn bởi phải cần số lượng rất lớn mới có thể

phát triển, tạo ra nhiều tác động mạnh tới môi

trường.

Mới đây, một nghiên cứu của Trường

Đại học Colorado State đã tìm ra hứa hẹn mới

đối với nhiên liệu sinh học được sản xuất từ

cỏ kê Mỹ (switchgrass), một loại cỏ tự nhiên

không ăn được, phát triển ở nhiều vùng của

Bắc Mỹ. Công trình nghiên cứu này đã được

công bố trên tạp chí Nature Energy mới đây.

Các nhà khoa học đã sử dụng các mô

hình để mô phỏng các kịch bản phát triển

khác nhau và phát hiện thấy có một dấu vết

khí hậu thay đổi khoảng từ -11 đến 10 gram

carbon dioxide trên mỗi mega-joule - phương

pháp tiêu chuẩn để đo phát thải khí nhà kính.

So sánh với các loại nhiên liệu khác,

ảnh hưởng của việc sử dụng xăng khiến gia

tăng 94 gram carbon dioxide / mega-joule.

John Field, nhà nghiên cứu thuộc

Phòng thí nghiệm sinh thái tài nguyên thiên

nhiên tại CSU, cho biết: “Phát hiện của nhóm

nghiên cứu rất có ý nghĩa. Chúng ta hiện đang

phát triển các chất hữu cơ và cô lập carbon”.

Nhóm nghiên cứu của ông tiến hành

nghiên cứucác loại nhiên liệu sinh học

xenlulô thế hệ thứ hai được làm từ nguyên

liệu thực vật không ăn được như các loài cây

cỏ. Cellulose là sợi xơ của cây. Những loại cỏ

này, bao gồm cỏ kê Mỹ, có tiềm năng sản

xuất nhiều hơn cây trồng và việc nuôi trồng

sẽ tạo ra ít tác động đến môi trường hơn ngô.

“Loài cỏ này không cần nhiều phân

bón hay tưới nước. Người nông dân không

phải cày ruộng mỗi năm để trồng cây mới, và

chúng phát triển tốt trên đồng ruộng đến một

thập kỷ hoặc lâu hơn”, ông nói.

Các nhà nghiên cứu đã chọn địa điểm

tiến hành nghiên cứu ở Kansas vì nơi đây có

nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học xenlulô,

thuộc một trong ba nhà máy ở Hoa Kỳ.

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng mô hình

DayCent, một công cụ mô hình hóa hệ sinh

thái theo dõi chu trình cacbon, sự tăng trưởng

của cây trồng, và sự gia tăng phản ứng của

khí hậu đối với thời tiết, khí hậu và các yếu tố

khác ở quy mô địa phương. Nó đã được phát

triển tại CSU vào giữa những năm 1990.

Công cụ này cho phép các nhà khoa học dự

đoán sản lượng cây trồng đóng góp hay giúp

chống lại sự biến đổi khí hậu và khả năng sản

xuất một số loại cây trồng nhất định trong

một khu vực nào đó.

Các nghiên cứu trước đây về nhiên liệu

sinh học xenlulô đã tập trung vào các chi tiết

kỹ thuật của chuỗi cung ứng. Các chi tiết này

bao gồm việc phân tích khoảng cách giữa các

trang trại, đây là nơi sản xuất vật liệu cây

trồng và việc vận chuyển tới nhà máy sản

xuất nhiên liệu sinh học. Theo phân tích của

CSU, chi tiết về địa điểm và phương pháp

trồng các nguyên liệu thực vật cũng quan

trọng hoặc thậm chí còn quan trọng hơn đối

với biểu hiện khí thải nhà kính của nhiên liệu

sinh học.

“Ngành công nghiệp nhiên liệu sinh

học đang gặp phải những thách thức, do giá

dầu thấp. Nhà máy sản xuất được tham chiếu

ở trên có chủ sở hữu mới và đang được tái tổ

chức. Nhưng đối với nhiên liệu sinh học và

Page 26: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 26/57

năng lượng sinh học lại rất sáng trong tương

lai”, Field nói.

“Nhiên liệu sinh học có một số năng

lực tiềm tằng mà các nguồn năng lượng tái

tạo khác như gió và năng lượng mặt trời

không có. Nếu khi giá dầu cao hơn, chúng ta

sẽ quan tâm hơn và tiếp tục các công trình

nghiên cứu nhiên liệu sinh học bao gồm việc

xây dựng các cơ sở mới”, ông cho biết.

Theo vista.gov.vn, 12/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Lớp phủ siêu mỏng tạo ra kính thông minh

Hiện đã có loại cửa sổ “kính thông

minh” tiết kiệm năng lượng được làm mờ để

ngăn chặn các tia nắng mặt trời, giảm nhu cầu

điện năng của các hệ thống điều hòa không

khí. Nhưng mới đây, các nhà khoa học tại

trường Đại học RMIT ở Ôxtrâylia đã phát

triển được lớp phủ cho phép loại kính hiện có

trở nên thông minh, mà không cần đến điện.

Lớp phủ tự điều chỉnh bao gồm vanađi

dioxit có giá thành tương đối rẻ, chỉ dày cỡ

50-150 nanomét, mỏng hơn gần 1.000 lần sợi

tóc. Khi nhiệt độ bề mặt dưới 67oC, vanadi

dioxit đóng vai trò như chất cách nhiệt, giữ

cho nhiệt bên trong không bị thoát ra ngoài

qua kính cửa sổ và còn cho phép toàn bộ

quang phổ của ánh nắng mặt trời từ bên ngoài

đi vào. Tuy nhiên, ở nhiệt độ trên 67oC,

vanadi dioxit biến đổi thành kim loại ngăn

chặn bức xạ hồng hoại của mặt trời thâm

nhập vào bên trong.

Có nghĩa là các căn phòng ấm hơn khi

nhiệt độ thấp và mát hơn khi nhiệt độ cao,

nên ít phải sử dụng cả các hệ thống sưởi và

điều hòa nhiệt độ. Ngoài ra, nếu muốn, người

sử dụng có thể loại bỏ hiệu ứng ngăn chặn tia

của lớp phủ bằng công tắc điều chỉnh độ

sáng.

Trước đây, để gắn lớp phủ vanadi

dioxit, các lớp hoặc nền tảng chuyên dạng

phải được tạo ra trên bề mặt. Tuy nhiên,

nhóm nghiên cứu đã đưa ra một phương pháp

áp lớp phủ trực tiếp lên bề mặt như kính cửa

sổ mà không cần lớp nền. Các nhà khoa học

hy vọng hệ thống sẽ sớm được thương mại

hóa.

GS. Madhu Bhaskaran cho biết: “Công

nghệ của chúng tôi có tiềm năng giảm chi phí

sưởi ấm và điều hòa không khí gia tăng, cũng

như giảm đáng kể phát thải cacbon từ các tòa

nhà mọi kích cỡ. Các giải pháp cho cuộc

khủng hoảng năng lượng của chúng tôi không

chỉ bắt nguồn từ các dạng năng lượng tái tạo;

công nghệ thông minh loại bỏ tình trạng lãng

phí năng lượng là hoàn toàn cần thiết”.

Nghiên cứu đã được công bố trên tạp

chí Scientific Reports - Nature. Cửa sổ thông

minh phủ vanadi dioxit cũng đang được các

nhà khoa học Anh chế tạo.

Theo vista.gov.vn, 12/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 27: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 27/57

Phễu thu ánh nắng mặt trời từ mọi hướng

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học

Braunschweig ở Đức đã thiết kế được phễu

thu ánh nắng mặt trời từ mọi hướng và tập

trung ánh sáng trên phạm vi diện tích nhỏ hơn

như pin mặt trời hiệu suất cao. Bằng cách xếp

chồng các phễu được điều chỉnh theo những

bước sóng ánh sáng khác nhau, nhóm nghiên

cứu hy vọng có thể chuyển đổi rất hiệu quả

toàn bộ quang phổ mặt trời thành điện năng.

Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí

Nature Communications.

Dù hiện đã có các bộ thu năng lượng

mặt trời từ các khu vực rộng lớn và hướng

vào những phạm vi nhỏ hơn, nhưng các thiết

bị này vẫn có những hạn chế nhất định. Ví dụ,

chúng không hoạt động tốt trong bóng râm

mà cần có bức xạ mặt trời trực tiếp, nên

thường phụ thuộc vào các hệ thống theo dõi

ánh nắng chủ động.

Tuy nhiên, thiên nhiên đã chứng tỏ

rằng không thể thiết kế bộ thu năng lượng

mặt trời để khắc phục những hạn chế đó. Ở

sinh vật sống sử dụng quá trình quang hợp,

hàng trăm sắc tố định hướng ngẫu nhiên hấp

thụ proton thậm chí trực tiếp từ ánh sáng gián

tiếp và đưa năng lượng qua phễu hướng đến

trung tâm phản ứng quang tổng hợp. Mỗi

bước trong quy trình này diễn ra với hiệu quả

gần bằng 100%.

Trong nghiên cứu, các nhà khoa học

đã lập mô hình loại phễu mới thu ánh sáng

dựa theo mẫu của tự nhiên. Thiết bị bao gồm

rất nhiều chất màu “cho” được định hướng

ngẫu nhiên có thể hấp thụ ánh sáng thậm chí

từ mọi góc tới và đưa ánh sáng qua phễu lên

trên rất ít các phân tử “nhận” được sắp xếp

theo một hướng duy nhất để chiếu ánh sáng

lên thiết bị chuyển đổi quang điện. Kết quả có

thể giảm 10% tổn thất bên trong cho các bộ

thu năng lượng mặt trời trước đây.

Sau nhiều thí nghiệm, nhóm nghiên

cứu đã chứng minh bộ thu năng lượng mặt

trời mới hấp thụ gần 99% ánh sáng đi tới mà

chỉ gây tổn thất nhỏ nhờ khả năng tái hấp thụ

và phản xạ. Thiết bị cũng có hiệu suất lượng

tử chuyển hướng ánh sáng đạt 80%, mà theo

các nhà nghiên cứu là những thông số quan

trọng nhất vì nó phụ thuộc vào bước sóng cụ

thể của các photon.

Trong tương lai, nhóm nghiên cứu hy

vọng các thiết bị này có thể được xếp chồng

lên nhau với mỗi thiết bị chứa các chất màu

tương ứng với phạm vi quang phổ khác nhau

của ánh nắng mặt trời. Do vật liệu dùng chế

tạo thiết bị có giá cả phải chăng, nên cấu trúc

xếp chồng thiết bị có thể là phương pháp thu

năng lượng từ toàn bộ quang phổ mặt trời với

chi phí thấp và hiệu quả.

Peter Jomo Walla, trưởng nhóm

nghiên cứu cho biết: “Các chất màu được sử

dụng trong nghiên cứu ở giai đoạn đầu hiện

chỉ có vùng quang phổ màu xanh và không đủ

ổn định để tiếp xúc lâu với ánh nắng mặt trời.

Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi cho phép

sàng lọc số lượng lớn chất màu ổn định khác

có khả năng hoạt động như bộ thu ánh sáng

hoặc bộ chuyển hướng ánh sáng. Chúng tôi

rất vui vì phát hiện ra chất màu ổn định và

những cấu trúc xếp chồng để bao trùm toàn

bộ quang phổ mặt trời với hiệu quả cao”.

Theo vista.gov.vn, 12/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 28: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 28/57

Kỹ thuật khâu nối mạng lưới nguyên tử

Việc kết hợp các loại vật liệu khác

nhau có thể dẫn đến rất nhiều những ý tưởng,

phát minh mang tính đột phá và được coi là

kỹ năng thiết yếu cho phép con người sáng

tạo ra tất cả mọi thứ: từ những tòa nhà cao

chọc trời (bằng phương pháp gia cố bê tông

bằng thép) đến pin năng lượng mặt trời (bằng

phương pháp xếp lớp vật liệu vào các điện tử

liên kết thành cụm). Trong một nghiên cứu

được đăng tải trên tạp chí Khoa học, các nhà

khoa học thuộc trường Đại học Cornell và

Đại học Chicago, Hoa Kỳ tìm ra kỹ thuật

"khâu" kết hợp hai lớp tinh thể với nhau để

tạo ra một loại vải có độ dày chỉ ở cấp độ

nguyên tử.

Trong sản xuất thiết bị điện tử, việc kết

hợp các vật liệu khác nhau có thể tạo ra vật

liệu tổng hợp - thành phần cơ bản nhất dùng

để chế tạo pin mặt trời, đèn LED và chip máy

tính. Đường nối giữa hai vật liệu càng mịn thì

các electrons càng dễ dàng di chuyển qua lớp

vải. Đây là điểm mấu chốt vì nó cho phép

thiết bị điện tử hoạt động hiệu quả. Tuy

nhiên, có nhiều loại vật liệu có cấu trúc tinh

thể gồm mạng lưới rất nhiều nguyên tử cố

định, bền vững nên việc trộn lẫn các tinh thể

không phải là giải pháp hợp lý.

Nhóm nghiên cứu lựa chọn khâu kết

hợp các mạng lưới tinh thể giống như lớp vải,

có độ dày bằng 3 nguyên tử. Jiwoong Park,

Giáo sư Hóa học tại Đại học Chicago, đồng

thời là tác giả chính của nghiên cứu, cho biết:

"Thông thường, sự kết tinh của những tinh thể

này trải qua nhiều giai đoạn, dưới những

điều kiện khác nhau; đầu tiên là việc sản xuất

một loại vật liệu, sau đó, tạm dừng công việc

này để thay đổi một số điều kiện, cuối cùng là

thực hiện quy trình lại từ đầu nhằm tạo ra

một loại vật liệu khác".

Kết quả là các nhà khoa học đã tạo ra

được loại vật liệu một lớp có cấu tạo hoàn hảo.

Họ đã thực hiện thao tác chuyển đổi tại những

vị trí mà hai mạng lưới tinh thể gặp nhau, một

trong hai mạng lưới sẽ kéo giãn ra hoặc phát

triển để đáp ứng thay vì để lại lỗ hổng hoặc sai

hỏng mạng tinh thể ở mạng còn lại.

David A. Muller, giáo sư vật lý ứng

dụng và kỹ thuật và là Giám đốc của Viện

Khoa học Nano Kavli tại Đại học Cornellcho

biết: "Chúng tôi đang vẫn đang cố gắng tìm

kiếm giải pháp khâu nối kết hợp hai loại vật

liệu vải với hai chỉ số đo số lượng sợi đan

khác nhau, trong đó, mỗi dãy nguyên tử được

coi là một sợi đan sợi, và không có sợi thừa.

Chúng tôi đã sử dụng máy dò điện tử mới mà

về cơ bản là một máy ảnh siêu nhanh, siêu

nhạy, có thể đo được mức độ co giãn tính từ

vị trí mối nối của hai loại vật liệu ở cấp độ

nguyên tử đến vị trí toàn bộ tấm vải được nối

với nhau, với mức độ chính xác tốt hơn một

phần ba của một phần trăm khoảng cách giữa

các nguyên tử".

Quan sát qua kính hiển vi cho thấy các

đường khâu nối nguyên tử rất chặt chẽ, chỉ

lớn hơn nếp gấp hai vật liệu xung quanh khớp

nối. Robert A. DiStasio Jr., trợ lý giáo sư

Khoa Hóa học và Sinh hóa, trường Cao đẳng

Nghệ thuật và Khoa học, Đại học Cornell và

là một trong những tác giả cao cấp của bài

báo cho biết: "Sự hình thành những nếp gấp

trong những vật liệu 2D bị biến dạng là chủ

đề cung cấp cho chúng ta nền đất màu mỡ để

khám phá cách thức liên kết giữa những mô

hình năng lượng đàn hồi mang tính vĩ mô với

các lý thuyết về những tương tác cơ bản tiềm

ẩn của van der Waals mang tính vi mô”.

Nhóm đã quyết định kiểm tra hiệu suất

của vật liệu trong điốt bán dẫn - một trong

những thiết bị điện tử được sử dụng rộng rãi

nhất. Hai loại vật liệu được khâu nối với

nhau, và các dòng điện tử sẽ chảy một chiều

dễ dàng qua lớp "vải" đặc biệt này.

Page 29: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 29/57

Saien Xie, một sinh viên ngành kỹ

thuật, đại học Cornell và là tác giả đầu tiên

viết bài báo, cho biết: "Thật thú vị khi nhìn

thấy những chiếc đèn LED có độ dày bằng 3

nguyên tử bật sáng. Hiệu suất hoạt động của

các loại vật liệu này quả thật rất xuất sắc”.

Khám phá này mở ra một số ý tưởng

thú vị trong sản xuất các thiết bị điện tử, trong

đó có thiết bị như đèn LED được thiết kế gồm

các lớp cấu trúc 3D và 2D xếp chồng lên

nhau và thường có cấu tạo bề mặt cứng. Tuy

nhiên, kỹ thuật mới này có khả năng tạo ra

những thay đổi cấu hình mới, như đèn LED

linh hoạt hoặc mạch 2D có độ dày ở cấp độ

nguyên tử dày, chạy theo chiều ngang.

Park lưu ý rằng quá trình kéo giãn và

nén có thể làm thay đổi màu sắc của tinh thể

do những hiệu ứng cơ học lượng tử. Điều này

cũng có nghĩa là cảm biến ánh sáng và đèn

LED hoàn toàn có thể được điều chỉnh theo

các màu khác nhau, ví dụ, vải cảm biến có

khả năng kéo giãn có thể thay đổi màu sắc khi

chúng bị kéo căng.

Theo vista.gov.vn, 26/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Phát triển thành công thiết bị chuyển đổi nhiệt cho các thiết bị điện tử

Các nhà nghiên cứu Trường Đại học

Illinois tại Urbana-Champaign đã phát triển

được một công nghệ mới để chuyển đổi dòng

nhiệt 'đóng hoặc 'mở. Các phát hiện này đã

được công bố trong tạp chí Applied Physics

Letters.

Thiết bị chuyển mạch được sử dụng để

kiểm soát nhiều sản phẩm công nghệ và hệ

thống kỹ thuật. Thiết bị chuyển mạch cơ được

sử dụng để khóa hoặc mở khóa cửa ra vào,

hoặc để lựa chọn bánh răng trong hệ thống

truyền động của xe hoặc thiết bị chuyển mạch

điện được sử dụng để bật và tắt đèn trong

phòng. Ở quy mô nhỏ hơn, các thiết bị

chuyển mạch điện dưới dạng bóng bán dẫn

được sử dụng để bật và tắt các thiết bị điện tử,

hoặc để định tuyến các tín hiệu logic trong

mạch.

Các kỹ sư từ lâu đã mong muốn

chuyển đổi luồng nhiệt, đặc biệt là trong các

hệ thống điện tử, nơi kiểm soát lưu lượng

nhiệt có thể cải thiện đáng kể hiệu năng và độ

tin cậy của hệ thống. Tuy nhiên họ gặp rất

nhiều thách thức trong việc tạo ra một chuyển

đổi nhiệt.

“Dòng nhiệt xuất hiện mỗi khi có sự

chênh lệch nhiệt giữa một vùng nào đó có

nhiệt độ cao hơn vùng nào đó có nhiệt độ

thấp hơn. Để kiểm soát luồng nhiệt này, nhóm

nghiên cứu thiết kế một đường dẫn nhiệt đặc

biệt giữa vùng nóng và vùng lạnh, và sau đó

tạo ra một cách phá vỡ đường dẫn nhiệt khi

cần thiết”, giáo sư William King, đồng chủ

nhiệm dự án, nói.

Nenad Miljkovic, Phó Giáo sư Khoa

Cơ học và Kỹ thuật và đồng chủ trì dự án nói,

“công nghệ này dựa trên sự chuyển động của

một giọt kim loại dạng lỏng. Các giọt kim loại

có thể xác định được vị trí để nối với một

đường dẫn nhiệt, hoặc di chuyển ra khỏi

đường đi dòng nhiệt để hạn chế lưu lượng

nhiệt”.

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh

công nghệ này trong một hệ thống được mô

hình mẫu phỏng theo các hệ thống điện tử

hiện đại. Một phía của bộ chuyển đổi có một

nguồn nhiệt tương chưng các thành phần điện

tử năng lượng, và phía còn lại của bộ chuyển

đổi có bộ làm lạnh lỏng để tản nhiệt Khi bộ

chuyển đổi được bật, chúng có thể có thể giải

nhiệt nhiều hơn 10 W/cm2. Khi chuyển đổi đã

được tắt, dòng nhiệt giảm khoảng gần 100X.

Page 30: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 30/57

Ngoài King và Miljkovic, các tác giả

khác của bài báo bao gồm Paul Braun, giáo

sư về khoa học kỹ thuật và vật liệu, và là

giám đốc Phòng thí nghiệm Vật liệu; Tianyu

Yang, Beomjin Kwon , hai sinh viên đại học

và Patricia B. Weisensee, hiện là giáo sư khoa

học cơ khí và kỹ thuật tại Đại học

Washington; Jin Gu Kang và Xuejiao Li,

khoa học vật liệu và kỹ thuật.

King cho biết, bước tiếp theo cho

nghiên cứu sẽ là tích hợp thiết bị chuyển đổi

này với các thiết bị điện tử điện năng trên một

bảng mạch. Dự kiến các nhà nghiên cứu sẽ có

một nguyên mẫu hoạt động vào cuối năm nay.

Theo vista.gov.vn, 19/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Khai thác chất thải điện tử dư thừa để thu hồi polyme chất lượng cao

Theo một nghiên cứu mới do các nhà

khoa học tại Trung tâm Công nghệ bền vững

Illinois dẫn đầu, chất thải điện tử chứa nhựa

hỗn hợp có thể trở thành một nguồn polyme

tái sử dụng có giá trị. Nhóm nghiên cứu đã

phát triển được một quy trình tiết kiệm năng

lượng và thân thiện với môi trường, lần đầu

tiên tách polyme hỗn hợp để tái chế thành các

sản phẩm nhựa mới chất lượng cao.

Chất thải điện tử bắt nguồn từ tủ lạnh,

vi ti, máy tính, màn hình, điện thoại di động

và máy chơi game là gánh nặng ngày càng

lớn với các bãi chôn lấp và ngành công

nghiệp tái chế. Dù các thành phần của vật liệu

này như thủy tinh và kim loại rõ ràng có thể

tái chế, nhưng nhựa còn sót lại vẫn là thách

thức do thành phần của polyme phức hợp.

B.K. Sharma, đồng tác giả nghiên cứu

cho biết: “Các đồ vật như chai nước và bình

sữa có thể dễ dàng được tái chế vì chúng

được làm từ polyme đơn. Những đồ vật khác

như hộp điện thoại được làm từ polyme phức

hợp. Chúng được chất đống tại các cơ sở tái

chế và cuối cùng được đốt hoặc vận chuyển

đến các bãi chôn lấp vì không có phương

pháp nào an toàn hoặc hiệu quả để tái chế

chất thải này”.

Kết quả nghiên cứu đã được công bố

trên tạp chí ACS Sustainable Chemistry &

Engineering, lần đầu tiên chứng minh quy

trình sử dụng dung môi hóa học không độc

hại, không phá hủy và tiết kiệm năng lượng để

thu hồi polyme từ hỗn hợp nhựa phức tạp này.

Sriraam Chandrasekaran, kỹ sư nghiên

cứu và là một trong các tác giả nghiên cứu

cho rằng: “Quy trình được áp dụng để hòa

tan polyme công nghiệp không hoàn toàn

khác với việc sản xuất kẹo cứng. Với kẹo, bạn

phải hòa tan các hạt đường trong nước và thu

hồi polyme trong trường hợp này là kẹo.

Trong phòng thí nghiệm, chúng tôi sử dụng

polyme nhựa thay cho đường và dung môi mà

chúng tôi sử dụng mạnh hơn nước”.

Các phương pháp dùng dung môi hiệu

quả nhất hiện nay là sử dụng hóa chất DCM,

giải phóng hơi hóa chất gây ung thư vào

không khí trong điều kiện nhiệt độ gần bằng

nhiệt độ phòng. Hơi hóa chất này gây ô

nhiễm nơi làm việc và có thể bay vào khí

quyển. Chandrasekaran cho biết: “Quy trình

của chúng tôi sử dụng dung môi NMP sẽ chỉ

giải phóng hơi hóa chất khi được đun nóng ở

nhiệt độ 180 độ C, cao hơn nhiều nhiệt độ

cần để hòa tan polyme”.

Đặc trưng của quy trình mới là khả

năng ngưng tụ dung môi bay hơi để tái sử

dụng nhiều lần. Mục tiêu của nghiên cứu này

không chỉ tìm cách tái chế chất thải hỗn hợp

nhựa dồi dào, mà còn hiệu quả hơn theo cách

thân thiện với môi trường. Quy trình mới chỉ

để lại dư lượng chất thải polyme nhất định.

Page 31: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 31/57

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu có thể chuyển

đổi dư lượng chất thải này thành dầu nhiên

liệu hữu ích thông qua quy trình nhiệt phân, do

đó, không cần phải chuyển đến bãi chôn lấp.

Quy trình mới sử dụng dung môi đã

được chứng minh thành công ở quy mô

phòng thí nghiệm và tạo ra polyme có chất

lượng sánh ngang với polyme được chế từ vật

liệu nguyên chất. Bước tiếp theo, polyme tái

chế sẽ được sử dụng cho quy trình sản xuất để

kiểm tra chất lượng. Nếu thành công, nhóm

nghiên cứu sẽ triển khai các dự án thí điểm.

Theo vista.gov.vn, 22/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Tái sử dụng nhựa để xử lý chất thải

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học

Bristol đã tìm ra cách tái sử dụng loại nhựa

phổ biến để phân hủy thuốc nhuộm độc hại

trong nước thải. Nghiên cứu đã được công bố

trên tạp chí ACS Applied Materials and

Interface mô tả phương thức xử lý thuốc

nhuộm tổng hợp được sử dụng trong ngành

công nghiệp may mặc trên toàn thế giới bằng

nhựa polystyrene có trong bao bì.

Vật liệu thông minh được sản xuất từ

polystyrene nhờ phương pháp mới làm đông

đặc và chuyển đổi sang trạng thái hỗ trợ các

hạt nano. Ở trạng thái rắn, vật liệu có thể

được sử dụng để phân hủy thuốc nhuộm tổng

hợp độc hại, được biết đến là chất gây ung

thư và hoạt động như độc tố ảnh hưởng đến

khả năng sinh sản ở người và động vật.

Julian Eastoe, đồng tác giả nghiên cứu

cho rằng: “Sau khi bộ phim dài tập có tên là

“Hành tinh xanh II” do BBC phát gần đây,

nhấn mạnh đến quy mô của rác thải nhựa

(còn gọi là ô nhiễm trắng) trong các đại

dương, thì việc phát triển các quy trình phá

hủy, tái chế hoặc tái sử dụng nhựa thải là vô

cùng quan trọng. Nghiên cứu chứng minh một

phương pháp triển vọng để biến đổi phần nào

lượng chất thải nhựa gây ô nhiễm đại dương

thành tài nguyên để giải quyết sự cố môi

trường. Có nhiều loại chất độc và nguy hại,

bao gồm thuốc nhuộm tổng hợp, vẫn đang

tiếp tục được giải phóng vào trong dòng nước

thải công nghiệp, chủ yếu do thiếu các

phương pháp xử lý hiệu quả. Các nghiên cứu

gần đây đã chỉ rõ thuốc nhuộm ô nhiễm này

gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh

thái thủy sinh, do vậy, việc triển khai các

phương pháp xử lý hợp chất này khỏi dòng

thải công nghiệp đang trở nên ngày càng

quan trọng”.

Nghiên cứu mới vừa xem xét tái sử

dụng nhựa để chế tạo vật liệu mới và vừa sử

dụng vật liệu này để giải quyết tình trạng ô

nhiễm nước do thuốc nhuộm. Bước đột phá

này sẽ thu hút sự quan tâm của các công ty

nước trên toàn thế giới và giai đoạn tiếp theo,

các nhà khoa học sẽ nghiên cứu cách để xử lý

các chất ô nhiễm khác.

Các chất ô nhiễm như thuốc nhuộm, có

thể phân hủy nhờ quy trình oxy hóa chủ động

(AOP) thường liên quan đến chất xúc tác

quang không đồng nhất (ở trạng thái rắn) để

biến đổi các chất ô nhiễm thành sản phẩm ít

độc hại như nước và CO2. Trong nghiên cứu

mới, nhựa thải (poly(styrene) được tái sử

dụng để cho ra đời chất rắn xốp bằng cách

làm đông đặc nó trong dung dịch, trong đó,

cyclohexane đóng vai trò như dung môi (nhiệt

độ đông đặc +6°C). Khi dung môi được loại

bỏ, để lại xốp poly(styrene) nhựa rắn. Sau đó,

vật liệu này có thể được phủ các hạt nano xúc

tác quang, tạo nên chất xúc tác quang ở trạng

thái rắn có thể được kết hợp vào các mẫu

nước thải ô nhhiễm để phân hủy thuốc nhuộm

như Rhodamine B. Đây là loại thuốc nhuộm

Page 32: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 32/57

bị cấm phục vụ mục đích sản xuất thực phẩm,

nhưng được sử dụng rộng rãi trong các nhà

máy xử lý nước thải để phát hiện rò rỉ.

Theo vista.gov.vn, 28/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Gỗ nano có thể giảm phát thải cacbon

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học

Maryland đã thiết kế được vật liệu gỗ cách

nhiệt vừa nhẹ và lại chắc hoàn toàn từ sợi gỗ

nhỏ tách rời. Loại gỗ nano này trong tương lai

sẽ được sử dụng để xây dựng các tòa nhà tiêu

thụ năng lượng hiệu quả. Bên cạnh đó, gỗ

nano cũng có giá thành rẻ và có thể phân hủy

sinh học. Nghiên cứu đã được công bố trên

tạp chí Science Advanced.

Kiểm soát nhiệt là vấn đề chủ yếu tại

các thành phố. Giữ nhiệt trong nhà vào mùa

đông và tản nhiệt ra ngoài vào mùa hè là việc

làm khó khăn. Vật liệu cách nhiệt hiện được

sử dụng thường có chi phí sản xuất đắt đỏ.

Hơn nữa, vật liệu này thường không phân hủy

sinh học và cuối cùng được đưa đến các bãi

chôn lấp. Do đó, các nhà khoa học đang cố

gắng tìm ra những biện pháp thay thế giá rẻ

và thân thiện với môi trường.

Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học

Maryland đã chế tạo được vật liệu chắc chắn

được gọi là siêu gỗ bằng cách loại bỏ một

phần lignin của gỗ - loại polymer duy trì liên

kết xenlulô trong gỗ, gần giống như keo và

hemixenlulô, một thành phần khác của mô

gỗ.

Nhưng đối với dự án này, các nhà khoa

học đã loại bỏ toàn bộ lignin và hầu hết

hemixenlulô. Lignin dẫn nhiệt rất tốt, nghĩa là

có thể sẽ trở thành chất cách nhiệt rất hiệu

quả. Không có tất cả các lignin đó, vật liệu gỗ

chuyển sang màu trắng tinh, cho phép phản

xạ ánh sáng đi đến hơn là hấp thụ ánh sáng

(cũng giúp ngăn chặn nhiệt).

Bí mật về khả năng cách nhiệt của gỗ

nano một phần nằm ở cấu trúc. Xốp

styrofoam có tính chất đẳng hướng, nên về cơ

bản giống nhau từ mọi góc độ. Nhưng gỗ

nano lại có tính chất dị hướng: Các sợi được

bó song song với nhau, do đó, trông khác

nhau từ nhiều góc độ. Nhiệt có thể dễ dàng di

chuyển lên trên và xuống dưới sợi, nhưng

không thể đi qua chúng, là vì khe hở tạo

thành sau khi loại bỏ chất làm đầy bằng gỗ

(lignin và hemixenlulô).

Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng

gỗ nano tốt như chất cách nhiệt styrofoam và

thậm chí còn nhẹ hơn và cũng được đánh giá

cao hơn các vật liệu khác. Gỗ nano chịu được

áp suất 13 Mpa. Nanoxenlulô có giá thành

chế biến tương đối rẻ với chi phí 7,44

USD/m2. Trong các điều kiện phù hợp, vi

khuẩn ăn nanoxenlulô, khiến nó có thể phân

hủy sinh học.

Theo Liangbing Hu, nhà khoa học vật

liệu và là đồng tác giả nghiên cứu, vật liệu

phân hủy sinh học chắc chắn, trọng lượng nhẹ

và cách nhiệt sẽ có nhiều ứng dụng trong

tương lai. Nó có thể được sử dụng để xây các

tòa nhà chọc trời, chế tạo ô tô và thậm chí bảo

vệ các thiết bị điện tử dễ bị nhiệt tác động ở

trên Trái đất hoặc trong không gian.

Theo vista.gov.vn, 23/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 33: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 33/57

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0018305 Dược phẩm chứa corticosteroit giải phóng có kiểm soát để điều trị rối loạn liên quan đến tai

Tác giả: Lichter Jay (US), Vollrath

Benedikt (DE), Trammel Andrew M. (US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến dược phẩm chứa

corticosteroit giải phóng có kiểm soát để điều

trị rối loạn liên quan đến tai. Dược phẩm theo

sáng chế được sử dụng khu trú cho cá thể

đang bị rối loạn liên quan đến tai thông qua

việc đưa trực tiếp dược phẩm lên trên cấu trúc

tai đích hoặc thông qua việc truyền vào cấu

trúc tai đích.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018317 Hợp chất catecholamin và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Joergensen Morten (DK),

Bang-Andersen Benny (DK), Pueschl Ask

(DK), Moerk Niels (DK), Larsen Jennifer

(CA).

Quốc gia: Đan Mạch

Sáng chế đề cập đến các dẫn xuất

catecholamin mới có công thức I, quy trình

điều chế hợp chất này, dược phẩm chứa hợp

chất này để sử dụng trong việc điều trị bệnh.

.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018324 Hợp chất quinoxalin vòng lớn dùng làm chất ức chế NS3 proteaza của virut viêm gan C và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Harper Steven (GB), Summa

Vincenzo (IT), Liverton Nigel J. (GB),

Mccauley Johh A. (US).

Quốc gia: Ý, Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất vòng lớn

có công thức (I):

để sử dụng làm chất ức chế NS3 proteaza của

virut viêm gan C (hepatitis C virus - HCV).

Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến dược phẩm

chứa hợp chất này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 34: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 34/57

1-0018327 Hợp chất ức chế protein kinaza và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Linnanen Tero (FI),

Wohlfahrt Gerd (GM), Nanduri Srinivas

(IN),…

Quốc gia: Phần Lan

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức (I):

trong đó R3, R4, G, B, M, và Z như được xác

định trong yêu cầu bảo hộ, và muối dược

dụng của nó. Hợp chất có công thức (I) có tác

dụng ức chế yếu tố sinh trưởng nguyên bào

sợi (Fibroblast Growth Factor Receptor -

FGFR) và có tác dụng điều trị bệnh như bệnh

ung thư, trong đó việc ức chế FGFR kinaza là

cần thiết để tạo ra lợi ích trị liệu.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018368 Hợp chất có bốn vòng và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Kinoshita Kazutomo (JP),

Asoh Kohsuke (JP), Furuichi Noriyuki (JP),

Ito Toshiya (JP),…

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức chung (I) dưới đây, hoặc muối hoặc

solvat của nó:

trong đó, các các ký hiệu trong công thức

trên đây là như được xác định trong phần mô

tả, hợp chất này hữu ích dùng làm thuốc ức

chế bạch huyết bào kinaza tự ghép

(Anaplastic Lymphoma Kinase - ALK), và

hữu ích để phòng hoặc điều trị bệnh đi kèm

với sự bất thường ở ALK, ví dụ, ung thư, ung

thư di căn, chứng trầm cảm hoặc rối loạn

chức năng nhận biết.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018370 Hợp chất 4-(4-xyano-2-thioaryl)dihydropyrimidinon, quy trình điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Von Nussbaum Franz (DE),

Karthaus Dagmar (DE), Anlauf Sonja (DE),

Delbeck Martina (DE),…

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến các hợp chất 4-

(4-xyano-2-thioaryl)dihydropyrimidin-2-on,

quy trình điều chế hợp chất này và dược

phẩm chứa chúng. Các hợp chất theo sáng

chế, ở dạng riêng rẽ hoặc kết hợp, là hữu ích

để điều trị và/hoặc phòng ngừa bệnh, cũng

nh- hữu ích để bào chế dược phẩm dùng để

điều trị và/hoặc phòng ngừa bệnh, cụ thể là

điều trị và/hoặc phòng ngừa các rối loạn phổi

và hệ tim mạch.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 35: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 35/57

1-0018371 Hợp chất 5,6-đihyđro-imiđazo[1,2-a]pyrazin-8-ylamin hữu dụng làm chất ức chế beta-secretaza (BACE), dược phẩm chứa hợp chất này và

quy trình bào chế dược phẩm này

Tác giả: Trabanco-Suarez Andrés

Avelino (ES), Delgado-Jimenez Francisca

(ES), Vega Ramiro Juan Antonio (ES),…

Quốc gia: Bỉ

Sáng chế đề cập đến các hợp chất 5,6-

đihyđro-imiđazo[l,2-a]pyrazin-8-ylamin được

dùng làm chất ức chế beta-secretaza, còn

được biết là enzym phân cắt tinh bột ở vị trí

beta, BACE, BACE1, Asp2 hoặc

memapsin2. Sáng chế đề cập đến dược phẩm

chứa hợp chất này, quy trình điều chế hợp

chất và quy trình bào chế dược phẩm này;

hợp chất và dược phẩm theo sáng chế được

sử dụng để ngăn ngừa và điều trị các rối loạn

liên quan đến beta-secretaza, như bệnh

Alzheimer (AD), suy giảm nhận thức nhẹ,

bệnh lão hoá, bệnh sa sút trí tuệ, bệnh sa sút

trí tuệ thể Lewy, mạch máu não nhiễm tinh

bột, bệnh sa sút trí tuệ đa nhồi máu, hội

chứng Down, bệnh sa sút trí tuệ liên quan

đến đột quỵ, bệnh sa sút trí tuệ liên quan đến

bệnh Parkinson hoặc bệnh sa sút trí tuệ liên

quan đến tinh bột beta.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018398 Hợp chất quinolin và quinoxalin dùng làm chất ức chế kinaza và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Parton Andrew Harry (GB),

Ali Mezher Hussein (GB), Brookings Daniel

Christopher (GB), Brown Julien Alistair

(GB),…

Quốc gia: Bỉ

Sáng chế đề cập đến hợp chất quinolin

và qinoxalin có mạch nhánh etyl được flo hóa

có công thức (I):

trong đó các ký hiệu là như được xác định

trong bản mô tả, dùng làm chất ức chế chọn

lọc enzym phosphoinositit 3-kinaza

(Phosphoinositide 3-kinase - PI3K), do đó

hữu ích trong y tế, ví dụ, để điều trị tình trạng

bệnh lý viêm bất lợi, bệnh tự miễn, bệnh tim

mạch, bệnh thoái hóa thần kinh, bệnh chuyển

hóa, bệnh ung thư, tình trạng đau nhức hoặc

bệnh về mắt.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018284 Dược phẩm chứa prasugrel và quy trình bào chế dược phẩm này

Tác giả: Feher András (HU),

Zsigmond Zsolt (HU), Tonka-Nagy Peter

(HU), UjfalussyGyorgy (HU)

Quốc gia: Hungary

Sáng chế đề cập đến dược phẩm chứa

prasugrel dùng qua đường miệng ổn định giải

phóng nhanh chứa bazơ prasugrel đã nghiền

thành bột mịn, và tinh bột hoặc dẫn xuất tinh

bột, và quy trình bào chế dược phẩm này.

Dược phẩm này được dùng để điều trị các

biến cố huyết khối do xơ vữa động mạch ở

bệnh nhân bị hội chứng mạch vành cấp, trong

đó các bệnh nhân này được can thiệp động

mạch vành dưới da.

Page 36: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 36/57

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018278 Phương pháp sản xuất viên nén nền sáp chứa kali xitrat giải phóng kéo dài

Tác giả: Mendoza Wendell G. (PH),

Santos Rita Josefina, M. (PH), Singh Eulogio

C. (PH), Dee Kennie U. (PH)

Quốc gia: Philippin

Sáng chế đề cập đến phương pháp sản

xuất viên nén chứa kali xitrat giải phóng kéo

dài chứa sáp carnauba, phương pháp này bao

gồm việc gia nhiệt hỗn hợp kali xitrat-sáp

carnauba đến nhiệt độ thấp hơn so với nhiệt

độ mà tại đó sáp carnauba hóa lỏng. Phương

pháp theo sáng chế làm đơn giản việc tạo ra

viên nén nền sáp chứa kali xitrat giải phóng

kéo dài.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018417 Hợp chất indazol được thế bằng amit dùng làm chất ức chế poly(ADP-riboza)polymeraza (PARP) và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Jones Philip (GB), Ontoria

Ontoria Jesus Maria (ES), Scarpelli Rita (IT),

Schultz-Fademrecht Carsten (DE) .

Quốc gia: Ý

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức I:

và muối dược dụng, chất đồng phân lập thể

hoặc tautome của chúng. Hợp chất này là

chất ức chế poly (ADP-riboza) polymeraza

(PARP) và do đó là hữu dụng để điều trị

bệnh ung thư, các bệnh viêm, tổn thương do

cấp máu, bệnh thiếu máu cục bộ, bệnh đột

quỵ, chứng suy thận, các bệnh tim mạch, các

bệnh về mạch ngoài các bệnh tim mạch, bệnh

đái tháo đường, các bệnh thoái hóa thần kinh,

bệnh nhiễm retrovirut, tổn thương võng mạc

hoặc bệnh lão hóa da và tổn thương da do tia

uv gây ra, và để làm chất nhạy phóng xạ

và/hoặc nhạy hóa học để điều trị bệnh ung

thư.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018422 Hợp chất uraxil hoặc thymin và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Wagner Rolf (US), Tufano

Michael D. (US), Stewart Kent D. (US),…

Quốc gia: Bermuda

Sáng chế đề cập đến (a) hợp chất hoặc

muối của nó hữu ích dùng làm chất ức chế

virut gây bệnh viêm gan C; (b) hợp chất trung

gian hữu ích để điều chế hợp chất hoặc muối

này; (c) dược phẩm chứa hợp chất hoặc muối

này; (d) phương pháp điều chế hợp chất trung

gian, hợp chất, muối và dược phẩm nêu trên;

(e) kit chứa hợp chất, muối và dược phẩm nêu

trên.

Page 37: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 37/57

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018456 Hợp chất etynyl dùng làm chất điều biến biến cấu dương của thụ thể glutamat hướng chuyển hóa kiểu phụ 5 (mGluR5), quy trình điều chế

và dược phẩm chứa chúng

Tác giả: Georg Jaeschke (DE), Synese

Jolidon (CH), Lothar Lindemann (DE), Heinz

Stadler (CH), Eric Vieira (CH).

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến hợp chất etynyl

có công thức I:

trong đó X là N hoặc C-R, trong đó R là

hydro hoặc halogen; G là N hoặc CH; với

điều kiện là tối đa một trong số G hoặc X có

thể là nitơ; R1 là phenyl hoặc pyridinyl, được

thế tùy ý bằng halogen; R2 là hydro, alkyl

thấp, hydroxy, alkoxy thấp hoặc

C(O)Obenzyl; R3, R

3', R

4, R

4', R

6, R

6 độc lập

với nhau là hydro hoặc alkyl thấp; hoặc R6 và

R4 cùng với nguyên tử cacbon mà chúng gắn

vào có thể tạo ra vòng C4-6-xycloalkyl, nếu m

bằng 0 và n bằng 1 hoặc 2; R5 là hydro hoặc

alkyl thấp; n bằng 0, 1 hoặc 2; m bằng 0 hoặc

1; với điều kiện là n và m không đồng thời

bằng 0; hoặc muối cộng axit dược dụng, hỗn

hợp raxemic, hoặc chất đồng phân đối ảnh

và/hoặc chất đồng phân quang học và/hoặc

chất đồng phân lập thể tương ứng của nó.

Hợp chất có công thức chung I theo sáng chế

là các chất điều biến biến cấu dương (PAM)

của thụ thể glutamat hướng chuyển hóa kiểu

phụ 5 (mGluR5). Các hợp chất này có thể

được sử dụng để điều trị bệnh tâm thần phân

liệt hoặc rối loạn nhận thức.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018457 Hợp chất betulin và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Hatcher Mark Andrew (US),

Johns Brian Alvin (US), Martin Michael

Tolar (US), Tabet Elie Amine (US), Tang Jun

(CN).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất có cấu

trúc theo công thức (I)’:

hoặc muối dược dụng của nó. Hợp chất theo

sáng chế là hữu hiệu để điều trị hoặc ngăn

ngừa tình trạng nhiễm HIV.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

360/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 38: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 38/57

1-0018473 Hợp chất anamorelin hyđroclorua tách được ở dạng rắn, dược phẩm chứa hợp chất này và phương pháp bào chế dược phẩm dạng liều

Tác giả: Shin-itsu Kuwabe (JP),

Takehiko Yanagimachi (JP), Hideyuki

Yoshiyama (JP),…

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến hợp chất

anamorelin monohyđroclorua dạng hạt hoặc

chế phẩm chứa anamorelin monohyđroclorua

có hàm lượng clorua được kiểm soát, tốt hơn

là được tách ở trạng thái vô định hình

và/hoặc hạt mịn, quy trình sản xuất

anamorelin monohyđroclorua dạng hạt, và

dược phẩm chứa anamorelin monohyđro

clorua dạng hạt này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018496 Hợp chất pyridin dạng vòng đơn và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Funasaka Setsuo (JP), Okada

Toshimi (JP), Tanaka Keigo (JP),…

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức (IA) hoặc muối dược dụng của nó:

trong đó n là số nguyên từ 0 đến 2; A là

nhóm arylen hoặc nhóm heteroarylen; G là

liên kết đơn, nguyên tử oxy hoặc -CH2-; E là

dị vòng không thơm chứa nitơ; R1 là nhóm

alkoxy, nhóm alkoxy alkoxy hoặc các nhóm

tương tự; R2 là nguyên tử hydro, nguyên tử

halogen, nhóm hydroxyl, nhóm alkyl, nhóm

hydroxy alkyl, nhóm dị vòng không thơm

chứa nitơ hoặc nhóm tương tự; R3 là nguyên

tử hydro, nhóm alkyl, nhóm alkoxy hoặc các

nhóm tương tự; và R4 là nhóm C1-6 alkyl, với

điều kiện là nếu E là vòng azetidin và R2

hoặc R3 có mặt trên nguyên tử nitơ trên vòng

azetidin này, R2 hoặc R

3 này không phải là

nguyên tử hydro.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018310 Hợp chất lipit, chế phẩm và dược phẩm chứa hợp chất lipit này và phương pháp điều chế hợp chất lipit này

Tác giả: Hovland Ragnar (NO),

Holmeide Anne Kristin (NO), Skjaeret Tore

(NO), Braendvang Morten (NO)

Quốc gia: Norway

Sáng chế đề cập đến hợp chất lipit có

công thức chung (I): R1-O-C(R2)(R3)-X (I)

trong đó R1 là nhóm C10-C22 alkyl, nhóm C10-

C22 alkenyl có 1 đến 6 liên kết đôi, hoặc

nhóm C10-C22 alkynyl có 1 đến 6 liên kết ba;

R2 và R3 giống nhau hoặc khác nhau và có thể

được chọn từ các nhóm thế khác nhau; và X

là axit carboxylic hoặc dẫn xuất của nó, như

este carboxylic, carboxylic anhydrit,

phospholipit, triglyxerit, carboxamit; hoặc

muối dược dụng, solvat, solvat của muối này

hoặc tiền dược chất của chúng. Sáng chế cũng

đề cập đến dược phẩm và chế phẩm chứa lipit

bao gồm ít nhất một hợp chất theo sáng chế,

và sáng chế đề cập đến các hợp chất này dùng

làm thuốc hoặc dùng để điều trị, cụ thể là để

Page 39: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 39/57

điều trị bệnh có liên quan đến tim mạch,

chuyển hóa, và vùng bị viêm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018449 Hợp chất Nalmefene hydroclorua dihydrat, phương pháp điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Heidi Lopez De Diego (DK),

Carla De Faveri (IT), Florian Anton Martin

Huber (IT).

Quốc gia: Đan Mạch, Phần Lan

Sáng chế đề cập đến hợp chất

Nalmefene hydroclorua dihydrat, phương

pháp điều chế hợp chất này, dược phẩm chứa

hợp chất Nalmefene hydroclorua dihydrat và

hợp chất Nalmefene hydroclorua dihydrat

được sử dụng trong trị liệu.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018481 Hợp chất chứa mesogen, polyme, chế phẩm tinh thể lỏng và vật phẩm chứa hợp chất này và phương pháp chế tạo bộ phận dùng cho mắt

Tác giả: He Meng (US), Dai Xiao-

Man (US), Xu Ruisong (US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất chứa

mesogen. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến

polyme, chế phẩm tinh thế lỏng và vật phẩm

chứa hợp chất chứa mesogen này và phương

pháp chế tạo bộ phận dùng cho mắt.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018468 Chế phẩm diệt khuẩn

Tác giả: Biliaieva Olga O (UA),

Neshta Viacheslav V. (UA).

Quốc gia: Áo

Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt

khuẩn có tác dụng làm tiêu mô hoại tử để

điều trị vết thương có mủ, loét do dinh

dưỡng, vết thương và thâm nhiễm với thành

phần hoại tử và dịch rỉ đáng kể, chế phẩm

này bao gồm chất hấp thụ silic oxit và dược

chất được cố định trên đó, trong đó aerosil là

chất hấp thụ silic oxit và seratiopeptidaza là

dược chất.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018469 Hợp chất diệt nấm và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Greenlee Mark, L. (US),

Wilkening Robert (US), Apgar James

(US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến các hợp chất

mới và các muối dược dụng, các hydrat và

tiền dược chất của chúng, các dược phẩm

chứa các hợp chất này, việc tổng hợp các hợp

chất này. Các hợp chất này có tác dụng diệt

nấm và/hoặc chất ức chế sự tổng hợp (1,3)-β-

Dglucan. Các hợp chất theo sáng chế là các

dẫn xuất của enfumafungin. Các hợp chất

mới theo sáng chế, các muối dược dụng, các

Page 40: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 40/57

hydrat và các tiền dược chất, và các dược

phẩm chứa các hợp chất, các muối, các

hydrat và/hoặc các tiền dược chất này, có

hiệu quả điều trị và/hoặc phòng trừ chống

nhiễm nấm và các bệnh và tình trạng bệnh

liên quan đến nấm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018517 Chế phẩm bảo quản hồng cầu

Tác giả: Hess John, R. (US),

Greenwalt Tibor, G. (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm bảo

quản hồng cầu về cơ bản chứa: adenin,

dextroza, ít nhất một đường bảo vệ màng

không chuyển hoá được, và hệ đệm xác định

độ pH cụ thể. Sáng chế cũng đề cập đến

phương pháp cải tiến đế bảo vệ hồng cầu và

phương pháp làm tăng khả năng sống sót,

khả năng giữ màng, và khả năng phục hồi

trong khi loại bỏ cơ chế gây chết tế bào theo

chương trình, sự tan huyết, độ thanh thải của

hồng cầu sau tái tuần hoàn của hồng cầu

được bảo quản có sử dụng chế phẩm này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018192 Thiết bị cầm tay sử dụng điện để điều trị da

Tác giả: Bruno Gimelli (CH), James

N. Doyle Jr. (US).

Quốc gia: Hong Kong

Sáng chế đề xuất thiết bị cầm tay sử

dụng điện để điều trị da, trong đó dòng điện

được cho chạy vào da qua điện cực (3) để các

thành phần hoạt tính của một loại kẽm đã

được thoa vào da trước đó có thể thấm vào da

tốt hơn. Thiết bị được trang bị một mạch sạc

và pin có thể sạc (73) được bố trí trong ngăn

chứa (72) ở dưới đáy thiết bị. Ngăn chứa (72)

này được bao bởi nắp ngăn chứa (77) trên đó

bố trí một ổ cắm kết nối (82) có thể được kết

nối với một nguồn điện bên ngoài để sạc pin

(73). Nắp vỏ (75) được bố trí trên nắp ngăn

chứa (77). Nắp vỏ (75) ngang bằng với

đường viền ngoài của vỏ thiết bị.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018133 Chỉ khâu không thắt nút

Tác giả: Kim Young Jae (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến chỉ khâu được

giữ và cố định một cách chắc chắn vào vị trí

mổ để duy trì ổn định tác dụng khâu hoặc

nâng trong thời gian dài. Cụ thể hơn, sáng

chế đề xuất chỉ khâu có dạng hình nón cụt

hoặc dạng hình chóp cụt, trong đó phần đỡ

chỉ khâu có lỗ thông xuyên qua cả hai đầu

được bố trí ở một đầu chỉ. Phần đỡ chỉ khâu

có thể có một hoặc nhiều phần bị cắt theo

phương thẳng đứng từ đầu dưới ở phần đầu

dưới có đường kính lớn giữa hai đầu hoặc

Page 41: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 41/57

một phần của đầu dưới có thể bị loại bỏ để

tạo thành một hoặc nhiều khe được tạo ra ở

đầu trên thành của phần đầu.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018493 Kháng thể đặc hiệu kép, hoá trị hai và phương pháp sản xuất kháng thể này

Tác giả: Klein Christian (DE),

Schaefer Wolfgang (DE).

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến kháng thể đặc

hiệu kép, hoá trị hai, được trao đổi miền,

phương pháp sản xuất và dược phẩm chứa

kháng thể này. Ngoài ra, sáng chế cũng đề

cập tế bào chủ sản xuất ra kháng thể đặc hiệu

kép, hóa trị hai theo sáng chế.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018319 Kháng thể đặc hiệu kép liên kết với IL-4 và IL-13 và dược phẩm chứa kháng thể này

Tác giả: Rao Ercole (DE), Mikol

Vincent (FR), Li Danxi (US), Kruip Jochen

(DE), Davison Matthew (DE).

Quốc gia: Pháp

Sáng chế đề cập đến kháng thể và

mảnh kháng thể được làm giống như của

người kháng IL-4 và IL-13 và kháng thể và

mảnh kháng thể đặc hiệu kép liên kết đặc

hiệu với IL-4 và IL-13. Sáng chế còn đề cập

đến dược phẩm chứa kháng thể này để điều

trị hoặc ngăn ngừa bệnh hoặc rối loạn do IL-4

và/hoặc IL-13 gây ra, bao gồm bệnh hen dị

ứng và viêm da.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018369 Kháng thể kháng CD79b, thể tiếp hợp miễn dịch và dược phẩm chứa kháng thể này

Tác giả: Chen Yvonne (US), Dennis

Mark (US), Dornan David (GB), Elkins

Kristi (US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến kháng thể kháng

CD79b. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến thể

tiếp hợp miễn dịch và dược phẩm chứa kháng

này. Trong đó, kháng thể, thể tiếp hợp miễn

dịch và dược phẩm này là hữu ích để điều trị

khối u tế bào tạo huyết ở động vật có vú.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 42: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 42/57

1-0018421 Kháng thể của người liên kết với phối tử giống delta 4 của người, phân tử axit nucleic mã hóa kháng thể này và dược phẩm chứa kháng thể này

Tác giả: Papadopoulos Nicholas J.

(US), Martin Joel H. (US), Smith Eric

(US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến kháng thể hoặc

đoạn kháng thể của người liên kết đặc hiệu

với phối tử giống, delta 4 của ng-ời (hD114)

và ngăn chặn sự liên kết của hD114 với thụ

thể Notch. Kháng thể kháng hD114 của ng-ời

hoặc đoạn kháng thể này liên kết với hD114

với ái lực ≤ 500pM như được xác định bằng

phương pháp cộng hưởng plasmon bề mặt.

Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến phân tử

axit nucleic được phân lập mã hoá kháng thể

hoặc đoạn liên kết kháng nguyên, vector

chứa phân tử axit nucleic, tế bào chủ được

phân lập chứa vector, phương pháp sản xuất

kháng thể kháng D114 của người hoặc đoạn

liên kết kháng nguyên của nó và dược phẩm

chứa kháng thể hoặc đoạn kháng thể này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018419 Phương pháp tổng hợp và tinh chế hợp chất heteroaryl

Tác giả: Harris Roy L. (US), Sapienza

John (US), Shevlin Graziella (US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến phương pháp

điều chế hợp chất heteroaryl có công thức (I)

hoặc (II):

trong đó R1-R

4 là như được xác định như

trong bản mô tả. Các hợp chất heteroaryl này

hữu ích trong điều trị hoặc phòng ngừa các

bệnh ung thư, tình trạng viêm, bệnh miễn

dịch, bệnh thoái hóa thần kinh, bệnh đái tháo

đường, bệnh béo phì, rối loạn thần kinh, bệnh

liên quan đến tuổi già, hoặc bệnh tim mạch.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018454 Chất ức chế Janus kinaza 2 (JAK2) và dược phẩm chứa nó để điều trị bệnh tăng sinh tủy xương và bệnh ung thư

Tác giả: Purandare Ashok V. (US),

Grebinski James W. (US), Hart Amy (US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức (I):

và các muối dược dụng của nó. Các hợp chất

có công thức (I) ức chế hoạt tính tyrosin

kinaza của JAK2 (Janus kinaza 2), nhờ đó

chúng hữu ích trong kìm hãm các tác nhân

tăng sinh để điều trị bệnh ung thư và các bệnh

khác. Sáng chế còn đề cập đến dược phẩm để

điều trị bệnh tăng sinh tủy xương và bệnh ung

thư chứa các hợp chất này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 43: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 43/57

1-0018466 Dược phẩm dạng liều rắn chứa olmesartan medoxomil và amlodipin

Tác giả: Bauer Wolfgang (DE),

Lichey Johann (DE), Teubner Andreas (DE),

Wadenstorfer Elmar (DE).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến dược phẩm dạng

liều rắn ổn định chứa olmesartan medoxomil

và amlodipin hoặc muối dược dụng của

chúng. Cụ thể, sáng chế đề cập đến dược

phẩm dạng liều rắn không chứa các đường

khử. Ngoài ra, dược phẩm dạng liều rắn ổn

định có thể tùy ý chứa hydroclothiazit hoặc

muối dược dụng của chúng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018535 Polypeptit được phân lập và dược phẩm chứa polypeptit này để điều trị tình trạng rối loạn trao đổi chất

Tác giả: Belouski Edward John (US),

Ellison Murielle Marie (US), Hamburger

Agnes Eva (US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến phân tử axit nucleic

mã hóa polypeptit đột biến FGF21, dược

phẩm chứa polypeptit đột biến FGF21 này để

điều trị tình trạng rối loạn trao đổi chất.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018396 Quy trình điều chế canxi cacbonat đã được xử lý bề mặt

Tác giả: Gane Patrick A., C. (GB),

Gerard Daniel (CH).

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề xuất quy trình điều chế

canxi cacbonat đã được xử lý bề mặt trong

môi trường nước. Quy trình theo sáng chế

nhằm mục đích hạn chế việc sử dụng các axit

từ mạnh vừa đến mạnh. Sáng chế cũng đề

cập đến huyền phù trong nước của canxi

cacbonat đã được xử lý bề mặt được tạo ra

bởi quy trình này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0018122 Sản phẩm sữa có hàm lượng calo thấp và phương pháp sản xuất sản phẩm sữa này

Tác giả: Navarro Y Koren Maria

Isabel (NL), Leenders , Gerardus Jozef Maria

(NL).

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến sản phẩm sữa có

giá trị calo được giảm bớt. Cụ thể, sáng chế

đề cập đến các sản phẩm sữa ngon có hàm

lượng calo thấp, lactoza thấp và các phương

pháp sản xuất các sản phẩm này. Sản phẩm

sữa có hàm lượng calo thấp theo sáng chế

khác biệt bởi hàm lượng chất béo thấp hơn

1,5% trọng lượng, hàm lượng lactoza thấp

hơn 4% trọng lượng, hàm lượng protein nằm

trong khoảng từ 1 đến 5% trọng lượng, và tỷ

lệ cazein so với protein nước sữa cao hơn tỷ

lệ này trong sữa nguyên liệu. Ví dụ, sản

phẩm là sữa, sữa chua (trái cây) hoặc sữa

chua uống (trái cây).

Page 44: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 44/57

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018292 Chế phẩm chất xơ ăn được có nguồn gốc từ bột sắn và thực phẩm chứa chế phẩm này

Tác giả: Ralvert Klas (SE).

Quốc gia: Thái Lan

Sáng chế đề cập đến chế phẩm chất xơ

ăn được có nguồn gốc từ bột sắn chứa chất xơ

ăn được với tổng lượng nằm trong khoảng từ

35 đến 60% trọng lượng và tinh bột với lượng

nằm trong khoảng từ 30 đến 50% trọng lượng,

tính theo lượng chất rắn khô. Sáng chế còn đề

cập đến thực phẩm chứa chế phẩm này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018267 Chế phẩm sacaroza chịu nén dạng bột và quy trình sản xuất chế phẩm này

Tác giả: Wong Emile (FR), Delhorbe

Philippe (FR).

Quốc gia: Pháp

Sáng chế đề cập đến chế phẩm

sacaroza chịu nén dạng bột chứa sacaroza với

lượng ít nhất 99,1% trọng lượng, có hàm

lượng ẩm còn lại nhỏ hơn 0,1% trọng lượng,

tính theo tổng trọng lượng của chế phẩm nói

trên, chế phẩm này gồm các hạt rỗng, tuỳ ý

kết tụ cùng nhau ở dạng hạt. Ngoài ra, sáng

chế còn đề cập đến quy trình liên tục để sản

xuất chế phẩm sacaroza chịu nén dạng bột

này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018423 Chế phẩm tăng vị umami, phân đoạn có hoạt tính umami, phương pháp điều chế phân đoạn này và thực phẩm chứa chúng

Tác giả: Sander Dubbelman (NL),

Nikolos Mavroudis (GR), Leandro Oliehoek

(NL), Peter Ravestein (NL).

Quốc gia: Hà lan

Sáng chế đề cập đến chế phẩm tăng vị

umami chứa ít nhất là một hợp chất tăng vị

umami, trong đó chế phẩm này (a) có khả

năng đi qua màng siêu lọc có ngưỡng khối

lượng phân tử 250 kDa, (b) chủ yếu không có

lycopen, (c) chứa một hợp chất nhỏ hơn

250kDa, và (d) có khả năng tăng vị umami.

Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến phân đoạn

từ cà chua hoạt tính chứa các chế phẩm này.

Page 45: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 45/57

Các phân đoạn như vậy và các chế phẩm nêu

trên là thích hợp để sản xuất các sản phẩm

thực phẩm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018215 Chế phẩm thơm, sản phẩm tiêu dùng chứa chế phẩm thơm và phương pháp tăng tuổi thọ của sản phẩm chứa chế phẩm thơm này

Tác giả: Budijono, Stephanie (ID),

Ouali Lahoussine (FR), Normand Valery

(FR),…

Quốc gia: Thụy Sỹ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm thơm

chứa vi nang thơm thứ nhất bao nang dầu

thơm thứ nhất có LogT lớn hơn -2,5 và

cLogP lớn hơn 2,5 và/hoặc trị số bay hơi ít

nhất là 30µg/l không khí; và vi nang thơm

thứ hai bao nang thành phần dầu thơm thứ

hai có LogT thấp hơn -2,5 và cLogP lớn hơn

2,5 và/hoặc trị số bay hơi ít nhất là 30µg/l

không khí. Sáng chế cũng đề cập đến hỗn

hợp của các vi nang này được dùng làm

thành phần làm thơm hoặc chế phẩm tạo

hương thơm cho các sản phẩm chăm sóc gia

đình hoặc cá nhân, cũng như các chế phẩm

chăm sóc gia đình và cá nhân thu được.

Ngoài ra, sáng chế đề cập đến phương pháp

tăng tuổi thọ của sản phẩm chăm sóc gia đình

hoặc cá nhân chứa chế phẩm tạo hương thơm

bao gồm bước tạo ra chế phẩm thơm là một

trong số các hỗn hợp của các vi nang này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018433 Chất tạo ngọt, chế phẩm chứa chất tạo ngọt và phương pháp tạo ra vị ngọt cho chế phẩm bằng chất tạo ngọt này

Tác giả: Yoshinaka Koji (JP),

Yamamoto Maki (JP), Mie Masanori (JP),

Ueno Hiroshige (JP), Tokumura Tetsuya

(JP), Aya Takeshi (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chất tạo ngọt và

phương pháp tạo vị ngọt cho chế phẩm được

dùng qua đường miệng hoặc được sử dụng

cho khoang miệng bằng cách cải thiện độ

ngọt của dịch chiết stevia. Sáng chế cũng đề

xuất chất tạo ngọt có thể được điều chế bằng

cách kết hợp rebaudiosit A, là thành phần

ngọt chính của dịch chiết stevia, với mogrosit

V, là thành phần ngọt chính của dịch chiết

quả La Hán, với tỷ lệ theo trọng lượng nằm

trong khoảng từ 95:5 đến 60:40. Bằng cách

sử dụng chế phẩm nêu trên làm chất tạo ngọt,

có thể đem lại độ ngọt thích hợp cho các sản

phẩm khác nhau như thực phẩm, thuốc hoặc

các dạng tương tự.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018438 Chiết phẩm từ lá chè, đồ uống chứa chiết phẩm này và phương pháp sản xuất chúng

Tác giả: Nagao Koji (JP), Maki

Hideki (JP), Suzuki Ken (JP), Yokoo

Yoshiaki (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chiết phẩm từ lá

chè và phương pháp sản xuất chiết phẩm từ

lá chè trong đó chiết phẩm từ lá chè chứa các

thành phần hương vị thơm ngon/ngọt dịu ở

hàm lượng cao, với lượng các thành phần vị

đắng/chát giảm. Sáng chế cũng đề cập đến đồ

uống được đóng chai chứa chiết phẩm từ lá

chè, trong đó đồ uống này có vị ngon đậm đà

với vị chát giảm. Sáng chế cũng đề cập đến

Page 46: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 46/57

việc chiết lá chè sau khi catechin được loại

bỏ ra khỏi lá chè bằng enzym khiến cho chiết

phẩm từ lá chè chứa hàm lượng cao các thành

phần hương vị thơm ngon/ngọt dịu, với

lượng các thành phần vị đắng/chát giảm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018153 Phương pháp và thiết bị khử hoạt tính lá dùng để chế biến chè xanh

Tác giả: Garikapati Dyva Kiran, Babu

(IN), Desikachar Ravindranath Srigiripuram

(IN).

Quốc gia: Ấn Độ

Sáng chế đề cập đến thiết bị khử hoạt

tính lá dùng để chế biến chè xanh nhằm tạo

ra chè xanh có chất lượng tốt với mức sử

dụng năng lượng tối thiểu. Thiết bị này bao

gồm thùng xử lý (1) có vỏ bao gia nhiệt (2)

và bộ cánh khuấy (9) vận hành bằng tay hoặc

bằng động cơ. Vỏ bao chứa chất lưu nhiệt

được gia nhiệt trong điều kiện có kiểm soát

để tạo ra hơi nước bên ngoài búp chè được

nạp vào trong thùng khử hoạt tính bằng cách

lợi dụng hơi ẩm có trong búp tươi có hai

cánh và một tôm. Nguyên liệu trong thùng xử

lý được gia nhiệt nhẹ để giúp sao lá hiệu quả

mà không tạo mùi cháy cho sản phẩm cuối.

Lá được khử hoạt tính hoàn toàn mà không

tiếp xúc với nhiệt độ cao hơn, và do không

mất dịch ra khỏi búp trong quá trình chế biến

nên chất lượng chè xanh tốt hơn so với lá

được chế biến theo giải pháp kỹ thuật đã biết.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018477 Phương pháp điều chế dịch chiết từ cây bạch đàn, thực phẩm và đồ uống chứa dịch chiết này

Tác giả: Yuuichi Maeda (JP), Atsushi

Narise (JP), Sanae Kikuchi (JP), Kenji

Osawa (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến phương pháp

điều chế dịch chiết từ cây bạch đàn mà có

khả năng làm giảm mùi đặc trưng của bạch

đàn và còn thu được thành phần hoạt tính với

hiệu suất và độ tinh khiết cao làm thành phần

có hoạt tính sinh lý. Phương pháp này bao

gồm các bước: loại bỏ thành phần tinh dầu ra

khỏi cây bạch đàn và chiết phần còn lại bằng

nước hoặc dung dịch nước chứa dung môi

hữu cơ và sau đó chiết tiếp phần còn lại thu

được sau chiết bằng dung dịch nước chứa

dung môi hữu cơ hoặc dung môi hữu cơ, do

đó thu được Macrocarpal A, Macrocarpal B

và Macrocarpal C có mặt trong cây bạch đàn

làm chất có hoạt tính sinh lý với hàm lượng

cao hơn so với sử dụng phương pháp thông

thường và điều chế được dịch chiết có mùi

vị, hình thức và các đặc tính tốt. Sáng chế

còn đề cập đến thực phẩm và đồ uống chứa

dịch chiết từ cây bạch đàn.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 47: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 47/57

1-0018269 Quy trình bọc vỏ thức ăn và thức ăn được bọc vỏ

Tác giả: Haslinger Bernd (DE),

Kowalczyk Jorg (DE), Willibald-Et-Tle

Ingrid (DE), Peters Siegfried (DE).

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến thức ăn được bọc

vỏ bao gồm palatinoza và tác nhân gắn kết và

quy trình bọc vỏ thức ăn này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018268 Phương pháp xử lý thịt cá

Tác giả: Adachi Tetsuo (JP).

Quốc gia: Philippines

Sáng chế đề cập đến phương pháp xử

lý thịt cá, trong đó, thịt cá được phân tách,

cắt và tạo hình cá bắt được và sau đó làm

đông lạnh, nhờ vậy lượng gọi là chảy nhỏ

giọt chảy ra từ thịt cá trong quá trình xử lý và

tan chảy có thể được giảm đáng kể. Mục đích

này đạt được bằng cách sấy sơ bộ thịt cá

được tạo hình, thịt cá được tạo hình này đã

được chuẩn bị bằng cách phân tách cá bắt

được và cắt chúng ra thành các hình dạng

khác nhau, với không khí lạnh để loại một

chút nước ở phần bề mặt, ngâm thịt cá trong

dung dịch chứa nước có natri clorua trong

một khoảng thời gian ngắn sao cho bề mặt

thịt cá trở thành keo để tạo ra lớp phủ, đóng

gói trong chân không nó ở tình trạng như

vậy, tiếp theo thổi khí sạch như oxy vào

trong bao gói để thực hiện việc đóng trong

bao gói chứa khí, sau đó làm đông lạnh nó

bằng phương pháp làm đông lạnh ngâm nước

muối và cất giữ ở tình trạng đó. Nhờ các quy

trình xử lý như được mô tả trên đây, lượng

chảy nhỏ giọt trong quá trình tan chảy thịt cá

được giảm đáng kể.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018193 Phương pháp cải thiện chất lượng thịt bằng cách giảm mùi hôi của thịt lợn đực

Tác giả: Wang Min (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến phương pháp

giảm mùi hôi của thịt lợn đực, phương pháp

này bao gồm bước tiêm dung dịch muối kẽm

dược dụng vào trong phần trên của tinh hoàn

về phía lưng của mỗi tinh hoàn lợn đực, tốt

nhất là khi lợn nhỏ hơn một tuần tuổi. Dung

dịch muối kẽm này chứa ít nhất 20mg ion

kẽm trong mỗi ml và dung dịch này được

tiêm vào trong tinh hoàn với thể tích nằm

trong khả năng tiếp nhận của tinh hoàn.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

359/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 48: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 48/57

1-0018272 Chế phẩm nhũ tương dầu trong nước và mỹ phẩm chống nắng chứa chế phẩm này

Tác giả: Takakura Tomiko (JP),

Kurosawa Takafumi (JP), Yajima Isao (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm nhũ

tương dầu trong nước (O/W) có khả năng bảo

vệ tia cực tím (UV). Cụ thể là, sáng chế đề

cập đến chế phẩm nhũ tương O/W chứa các

chất hấp thụ UV hữu cơ tan trong dầu, và chế

phẩm này có độ ổn định và cảm giác tốt khi

sử dụng và thích hợp làm mỹ phẩm chống

nắng. Sáng chế cũng đề cập đến mỹ phẩm

chống nắng chứa chế phẩm nhũ tương này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018321 Dụng cụ làm sạch kẽ răng và phương pháp sản xuất dụng cụ này

Tác giả: Lee Kyung-Sub (KR), Kim

Sung-Jin (KR), Ahn Jae-Hyun (KR), Chang

SugYoun (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến dụng cụ làm sạch

kẽ răng và phương pháp sản xuất dụng cụ này,

và cụ thể hơn đến dụng cụ làm sạch kẽ răng

và phương pháp sản xuất dụng cụ này để có

thể dễ dàng loại bỏ thức ăn còn lại giữa các

răng mà không gây tổn thương cho lợi.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018373 Bản chải đánh răng

Tác giả: Lee Pal Hyung (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến bàn chải đánh

răng, khác biệt ở chỗ, bằng cách tạo ra lỗ (3)

được khoan theo chiều thẳng đứng trên đầu

bàn chải (2) của bàn chải đánh răng (1), ở

bên trong lỗ (3) được bố trí tấm phẳng (5) mà

các lông chải (4) được cắm chặt trên đó, và

tấm phẳng (5) được cố định vào mặt trên của

chi tiết đàn hồi (6) được cố định vào các mặt

cạnh dưới của đầu bàn chải (2), theo đó cho

phép dịch chuyển đàn hồi theo các chiều lên

trên, xuống dưới, sang trái, sang phải, và để

tấm phẳng mà các lông chải được cắm chặt

trên đó di chuyển tương tự trên đầu bàn chải

theo các hình dạng của răng, diện tích tiếp

xúc giữa các răng và lông chải tăng và ma sát

giữa các răng và lông chải cũng tăng, nhờ đó

làm tăng tối đa hiệu quả chải răng, và làm

giảm tối thiểu sự mài mòn răng và sự phá

hoại các mô bao quanh răng do chải răng nhờ

điều chỉnh áp lực tác động quá mức vào các

răng bởi người sử dụng bàn chải đánh răng,

và cho phép áp dụng dễ dàng hơn với kỹ

thuật chải răng Bass để giúp người sử dụng

có được cả sự sạch sẽ cho lợi và sự vệ sinh

răng miệng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 49: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 49/57

1-0018301 Đồ chứa đóng gói chân không sử dụng túi bao bì

Tác giả: Park Eun Suk (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến đồ chứa đóng

gói chân không sử dụng túi bao bì, bao gồm

túi bao bì có chứa vật dụng trong đó, và vỏ

chứa đựng túi bao bì trong đó, với van vòi

hút được nối với túi bao bì để tạo ra đường

dẫn không khí, và vì vậy không khí có thể

được rút ra khỏi túi bao bì qua van vòi hút,

do đó thực hiện việc đóng gói chân không

cho vật dụng trong túi bao bì. Túi bao bì

được đặt theo cách có thể lấy ra được ở trong

phần vỏ, và vật dụng trong túi bao bì có thể

được nén nhanh chóng và có hiệu quả tới

mức chân không cao bằng cách sử dụng máy

hút chân không. Thêm nữa, có thể thay thế

túi bao bì bằng một cái khác bất cứ lúc nào,

và có thể cất trữ vật chứa một cách an toàn,

và có thể cất trữ một số lượng lớn các túi

đóng gói chân không một cách có hiệu quả

nhờ các phần vỏ có thể được xếp chồng lên

nhau gọn gàng từng cái một.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018340 Bình chứa có nắp chống mất và không quay tự do

Tác giả: Kwon Si Joong (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến bình chứa có nắp

chống mất và không quay tự do bao gồm nắp

được lắp chặt với thân bình chứa bằng ren.

Thân bình chứa bao gồm bậc chặn vòng phía

dưới phần ren của miệng bình chứa sao cho có

thể ngăn không cho nắp được tháo rời, bậc đỡ

phía dưới và tách khỏi bậc chặn vòng, và mặt

tỳ vòng đỡ đặt giữa bậc chặn vòng và bậc đỡ.

ở đây, nắp bao gồm vòng đỡ, thân nắp và

phần bản lề được liên kết liền khối với nhau.

Vòng đỡ được đặt trên mặt tỳ vòng đỡ để

ngăn không cho nắp tháo khỏi thân bình chứa

và quay tự do. Thân nắp mở hoặc đóng thân

bình chứa và mặt trong của nắp có phần ren.

Phần bản lề liên kết vòng đỡ với thân nắp.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018392 Quy trình hòa tan flopolyme và dung dịch chứa flopolyme trong hệ dung môi

Tác giả: Schmitt Paul-Guillaume (FR),

Vauthrin Mélanie (FR).

Quốc gia: Pháp

Sáng chế đề cập đến quy trình hòa tan

flopolyme, cụ thể là poly(vinyliden florua),

quy trình này bao gồm ít nhất một bước cho

flopolyme tiếp xúc với ít nhất một hệ dung

môi chứa: chế phẩm (A) chứa dimetyl

sulphoxit (DMSO) với lượng nằm trong

khoảng từ 50 đến 99,9% trọng lượng, và chế

phẩm (B) chứa ít nhất một keton với lượng

nằm trong khoảng từ 0,1 đến 50% trọng lượng.

Page 50: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 50/57

Sáng chế còn đề cập đến dung dịch chứa hệ

dung môi này và flopolyme, là hữu ích trong

sản xuất lớp mỏng, màng và lớp phủ.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018366 Dụng cụ buộc dây giầy

Tác giả: Park Myoung Ho (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến dụng cụ buộc

dây giầy dùng để buộc hai dây của các loại

giầy khác nhau như giầy thể thao, giầy đi bộ

hoặc giầy quân sự. Cụ thể là khi sử dụng

dụng cụ này cho phép buộc và cởi hai dây

giầy một cách nhanh hơn. Dụng cụ buộc dây

giầy theo một phương án của sáng chế gồm

có một lỗ (6) được thiết kế ở giữa tấm dưới

(2) và một phần của lỗ được sử dụng như một

trục bản lề để ghép linh động với tấm trên (1)

có chốt ép ở giữa (5) để có thể buộc chặt các

dây giầy lại. Dụng cụ buộc dây giầy theo

sáng chế có các rãnh cố định dây giầy được

thiết kế ở cả hai phía của tấm dưới, một lỗ

được thiết kế ở giữa tấm dưới và một phần lỗ

được dùng như trục bản lề để ghép linh động

với tấm trên có chốt ép ở giữa và có thể giữ

chặt dây giầy.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018144 Phương pháp dệt mũ giày Tác giả: Ikenaka Masamitsu (JP),

Terai Kenta (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến phương pháp dệt

mũ giày có thể cho phép mức độ gia cường

của mũ giày được thay đổi với số lượng nhỏ

các bộ cấp sợi. Phương pháp dệt mũ giày (1)

bao gồm phần phủ mu bàn chân (3) để che

một phần trên phía mu bàn chân của người

mang giày và phần phủ đế giày (2) để che đế

giày của người mang giày được đề xuất.

Phần phủ mu bàn chân (3) và phần

phủ đế giày (2) được dệt ba chiều theo cách

liền mạch; và trong quy trình dệt, ít nhất phần

nền (10) cấu tạo một phần của mũ giày (1)

được dệt bằng cách sử dụng sợi dệt cơ sở có

chứa sợi dính không dùng nhiệt và sợi dính

nhiệt, và sợi dệt gia cường có chứa sợi dính

nhiệt được dệt lẫn trong phần nền (10) nhằm

gia cường phần nền (10). Trong trường hợp

này, số lượng dệt với sợi dệt gia cường đối

với phần nền (10) được thay đổi.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 51: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 51/57

1-0018478 Giấy lụa, phương pháp sản xuất và các vật dụng thấm hút làm bằng giấy lụa này

Tác giả: Kouta Takuya (JP), Itoi

Takashi (JP), Masuki Tetsuya (JP), Wada

Masashi (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến giấy lụa, trong

đó giấy lụa chủ yếu chứa tổ hợp gồm hai loại

sợi xenluloza thấm nước khác biệt về độ thô

sợi và chứa chất phụ gia gia tăng độ bền. Hai

loại sợi xenluloza thấm nước là bột giấy thứ

nhất có độ thô sợi nằm trong khoảng từ 0,13

đến 0,16mg/m và bột giấy thứ hai có độ thô

sợi nằm trong khoảng từ 0,17 đến 0,20mg/m.

Sự khác biệt về độ thô sợi giữa bột giấy thứ

nhất và bột giấy thứ hai là nằm trong khoảng

từ 0,01 đến 0,07mg/m. Tổ hợp này có độ

lỏng nằm trong khoảng từ 400 đến 550ml.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018206 Thiết bị và phương pháp tách vỏ cây từ các thân gỗ Tác giả: Menanti Lumbangaol (ID),

Luthfan Ibrahim Djunaedi (ID).

Quốc gia: Bermuda

Sáng chế bộc lộ thiết bị và phương

pháp để tách vỏ cây từ các thân gỗ. Thiết bị

gồm: chân đế; các bộ phận đỡ thân gỗ gắn

vào chân đế, mỗi bộ phận đỡ thân gỗ gồm

nhiều cạnh bên đối xứng có độ dốc nói chung

lần lượt được kết hợp với các bệ, trong đó các

bộ phận đỡ thân gỗ được ngăn cách bởi một

lối đi không có các bộ phận đỡ thân gỗ; các

cạnh đối xứng theo chiều dọc được bố trí phối

hợp với các bộ phận đỡ thân gỗ để giữ lại các

thân gỗ bên trong các bộ phận đỡ thân gỗ; các

bộ phận bào mòn được bố trí trên mỗi bộ

phận đỡ thân gỗ có kết cấu để cọ xát vỏ cây

từ các thân gỗ, trong đó mỗi bộ phận đỡ thân

gỗ được bố trí với một số lỗ để cho phép các

mảnh vỏ cây bào mòn đi qua; và ít nhất một

bộ thu vỏ cây được bố trí trên bất kỳ các cạnh

đối xứng theo chiều dọc và có cấu tạo để loại

bỏ vỏ cây bong tróc từ các thân gỗ.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

359/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0018309 Chế phẩm làm bóng dùng cho nền đĩa từ và phương pháp tạo ra nền đĩa từ

Tác giả: Hamaguchi Takeshi (JP), Doi

Haruhiko (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề xuất chế phẩm làm bóng

dùng cho nền đĩa từ mà có thể làm giảm các

vết xước, các khuyết tật lồi cỡ nano, và độ

gợn sóng bề mặt nền sau khi đánh bóng. Chế

phẩm làm bóng dùng cho nền đĩa từ chứa:

copolyme có đơn vị cấu tạo thu được từ

monome có độ tan bằng 2g hoặc nhỏ hơn

trong 100g nước ở 20oC và đơn vị cấu tạo có

nhóm axit sulfonic, và có mạch hydrocacbon

bão hoà làm mạch chính, hoặc muối của

copolyme; chất mài mòn; và nước. Ngoài ra,

sáng chế còn đề cập đến phương pháp tạo ra

nền đĩa từ.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 52: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 52/57

1-0018297 Quạt trần

Tác giả: Iwamoto Kiyohiko (JP),

Kawazu Tetsuji (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến quạt trần bao

gồm bộ phận treo được cố định vào trần nhà

và thân quạt trần được treo vào bộ phận treo.

Thân quạt trần có các cánh được bố trí theo

chiều ngang, động cơ để làm quay các cánh,

trục nhô ra khỏi mặt bên trên của động cơ, và

bộ phận nối được cố định vào đầu phía trên

của trục và được liên kết với bộ phận treo. Bộ

phận nối có thể tháo khỏi bộ phận treo và

được bố trí bộ phận phát hiện trạng thái treo

nằm kéo dài từ bộ phận nối đến bộ phận treo.

Bộ phận phát hiện trạng thái treo phát hiện

trạng thái được kích hoạt giữa bộ phận treo

và bộ phận nối.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018279 Dây nối dùng cho thiết bị bán dẫn và phương pháp sản xuất dây nối này

Tác giả: Yamada Takashi (JP), Oda

Daizo (JP), Oishi Ryo (JP),…

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đê cập đến dây nối dùng cho

thiết bị bán dẫn trong đó cả sự mất tính

nghiêng lẫn mất tính đàn hồi lò xo được ngăn

chặn bởi (1) ở mặt cắt ngang chứa tâm dây và

song song với hướng chiều dọc của dây (mặt

cắt ngang qua tâm dây), không có các hạt

tinh thể với tỷ lệ a/b của trục dài "a" và trục

ngắn "b" lớn hơn hoặc bằng 10 và có diện

tích lớn hơn hoặc bằng 15µm2 ("kết cấu

sợi"), (2) khi đo hướng tinh thể theo hướng

chiều dọc của dây ở mặt cắt ngang qua tâm

dây, tỷ lệ của hướng tinh thể <100> với

chênh lệch góc so với hướng chiều dọc của

dây nhỏ hơn hoặc bằng 15o, với tỷ lệ diện

tích, nằm trong khoảng từ 10% đến nhỏ hơn

50%, và (3) khi đo hướng tinh thể theo

hướng chiều dọc của dây ở bề măt của dây, tỷ

lệ của hướng tinh thể <100> với chênh lệch

góc so với hướng chiều dọc của dây là nhỏ

hơn hoặc bằng 15o, với tỷ lệ diện tích, lớn

hơn hoặc bằng 70%. Trong suốt bước kéo,

thao tác kéo có tỷ lệ giảm diện tích là lớn hơn

hoặc bằng 15,5% được thực hiện ít nhất một

lần. Nhiệt độ xử lý nhiệt cuối cùng và nhiệt

độ xử lý sơ bộ nhiệt cuối cùng được thực

hiện trong các phạm vi được định trước.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018318 Chế phẩm carotenoit phân tán được trong nước, quy trình điều chế chế phẩm này và quy trình sử dụng chế phẩm này

Tác giả: Ferrater Martorell Joan Carles

(ES), Fernandez Martin Juan Antonio (ES),

Ribera Ruiz David (ES), Viso Acostan

Antonio (ES).

Quốc gia: Spain

Sáng chế đề cập đến chế phẩm

carotenoit phân tán được trong nước, chế

phẩm này ở dạng lỏng, chứa hỗn hợp

canthaxanthin và xà phòng marigold, và bao

gồm carotenoit với lượng nằm trong khoảng

từ 1 đến 500 phần trên mỗi 1000 phần dung

dịch và do các đặc tính điều chế của nó, chế

phẩm này có khả năng nhuộm màu trứng và

mô động vật cao hơn nhiều so với khi sử

Page 53: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 53/57

dụng riêng rẽ các xantophyl này. Sáng chế

còn đề cập đến quy trình điều chế chế phẩm

này, quy trình bao gồm ba bước: (1) tạo ra xà

phòng bằng cách xà phòng hóa một phần

hoặc hoàn toàn dịch chiết marigold, (2) điều

chế chế phẩm canthaxanthin phân tán được

trong nước và (3) trộn lẫn hai sản phẩm thu

được trong điều kiện nhiệt độ và chế độ

khuấy trộn có kiểm soát. Chế phẩm này có

thể được sử dụng làm tác nhân nhuộm màu

trong công nghiệp thức ăn động vật. Ngoài ra,

sáng chế còn đề cập đến quy trình sử dụng

chế phẩm này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018407 Chế phẩm trừ dịch hại

Tác giả: Morita Masayuki (JP), Awazu

Takao (JP), Nakagawa Akira (JP), Hamamoto

Taku (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm cải

thiện được hiệu quả phòng chống sinh vật gây

hại của hợp chất antranilamit. Chế phẩm trừ

dịch hại theo sáng chế là chế phẩm đậm đặc

chứa hợp chất antranilamit là thành phần có

hoạt tính trừ dịch hại, chất phân tán và dung

môi hữu cơ ưa nước, khác biệt ở chỗ khi chế

phẩm này được pha loãng với nước, thì hợp

chất antranilamit sẽ kết tủa thành các hạt rắn

trong nước.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018409 Chế phẩm trừ dịch hại và phương pháp phòng trừ dịch hại

Tác giả: Morita Masayuki (JP), Awazu

Takao (JP), Nakagawa Akira (JP), Iwasa

Mitsugu (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm trừ dịch

hại có độ bền và hiệu quả trừ dịch hại cao. Chế

phẩm trừ dịch hại này bao gồm hợp chất

pyriđin có công thức (I):

(trong đó R1 là CH2CN hoặc

và mỗi R2 và R

3 độc lập với nhau, là nguyên

tử hydro, nguyên tử halogen, C1-6 alkyl hoặc

C1-6 alkoxy) hoặc muối của nó và ít nhất một

thành phần tăng cường hoạt tính được chọn từ

nhóm bao gồm chất hoạt động bề mặt không

ion, chất hoạt động bề mặt anion, chất hoạt

động bề mặt cation, chất hoạt động bề mặt

lưỡng tính, dầu thực vật hoặc dầu động vật,

dầu khoáng, polyme tan trong nước, nhựa và

sáp.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018424 Chế phẩm diệt nấm và/hoặc diệt côn trùng, phương pháp phòng

Page 54: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 54/57

trừ mầm bệnh ở cây và/hoặc loài gây hại và phương pháp xử lý hạt giống

Tác giả: Assmann Lutz (DE),

Wachendorff-Neumann Ulrike (DE), Dahmen

Peter (DE), Hungenberg Heike (DE), Thielert

Wolfgang (DE).

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến các tổ hợp hợp

chất hoạt tính, cụ thể là chế phẩm diệt nấm

và/hoặc diệt côn trùng, bao gồm isotianil

(3,4-diclo-N-(2-xyanophenyl)-5-

isothiazolcarboxamit), số CAS 224049-04-1)

và thuốc trừ sâu flubendiamit khác (Số Cas

272451-65-7) và tuỳ ý một thuốc trừ sâu khác

thuộc họ neonicotinoid. Ngoài ra, sáng chế

còn đề cập đến phương pháp phòng trừ hoặc

trị nấm gây bệnh ở thực vật và/hoặc vi sinh

vật và/hoặc loài gây hại ở thực vật hoặc cây

trồng, đến tổ hợp theo sáng chế được sử dụng

để xử lý hạt giống, đến phương pháp bảo vệ

hạt giống và đến hạt giống được xử lý.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018425 Chế phẩm diệt nấm và/hoặc trừ sâu có tác dụng hiệp đồng bao gồm tổ hợp hợp chất hoạt tính, phương pháp phòng trừ mầm bệnh ở cây

và/hoặc sinh vật gây hại và phương pháp xử lý hạt giống

Tác giả: Assmann Lutz (DE),

Wachendorff-Neumann Ulrike (DE),Dahmen

Peter (DE).

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến tổ hợp hợp chất

hoạt tính, cụ thể là chế phẩm diệt nấm

và/hoặc trừ sâu, bao gồm isotianil (3,4-diclo-

N-(2-xyanophenyl)-5- isothiazolcarboxamit)

và ít nhất một thuốc trừ sâu khác thuộc nhóm

antranilamit và tuỳ ý một thuốc trừ sâu khác

thuộc họ neonicotinoid. Ngoài ra, sáng chế

còn đề cập đến phương pháp phòng trừ nấm

và/hoặc vi sinh vật gây bệnh và/hoặc sinh vật

gây hại ở cây hoặc cây trồng, đến việc sử

dụng tổ hợp theo sáng chế để xử lý hạt giống,

đến phương pháp bảo vệ hạt giống và sáng

chế còn đề cập đến đến hạt giống được xử lý.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018557 Tổ hợp diệt nấm hoặc trừ sâu và phương pháp phòng trừ hoặc trị nấm Pyricularia và/hoặc sâu bọ hại cây

Tác giả: Assmann Lutz (DE), Stubler

Dietrich (DE), Wachendorff-Neumann Ulrike

(DE), …

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến các tổ hợp các

hợp chất có hoạt tính trừ nấm hoặc trừ sâu, tổ

hợp này bao gồm (A) 3,4-diclo-N-(2-

xyanophenyl)-5-isothiazolcarboxamit và (B)

imidacloprit và (C) một trong các hợp chất có

hoạt tính trừ sâu hoặc diệt nấm và đến các

chế phẩm bao gồm các tổ hợp này. Ngoài ra,

sáng chế còn đề cập đến phương pháp phòng

trừ hoặc trị nấm và/hoặc vi sinh vật và/hoặc

sâu bọ gây hại cây hoặc mùa màng, đến

phương pháp bảo vệ hạt giống và/hoặc các

chồi non và lá của cây mọc từ hạt giống và

đến các hạt giống được xử lý bằng các tổ hợp

này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 55: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 55/57

1-0018451 Tổ hợp hoạt chất để diệt trừ sinh vật gây hại, chế phẩm chứa tổ hợp hoạt chất này, quy trình điều chế chế phẩm và phương pháp kiểm soát các loài

sinh vật gây hại

Tác giả: Waldron Craig (US), Martin

Robert (US), Williams Gareth (GB).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm phủ

diệt sinh vật chứa chế phẩm bao gồm một

hoặc nhiều hợp chất pyrithion và một hoặc

nhiều hợp chất pyrol có công thức I, trong đó

chế phẩm phủ diệt sinh vật này không chứa

đồng hoặc chứa đồng với hàm lượng thấp.

Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến phương

pháp phủ nền và nền được phủ chứa chế

phẩm phủ này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018453 Chế phẩm hoá nông ít bọt để bảo vệ thực vật, quy trình điều chế chế phẩm này và phương pháp phòng trừ sự phát triển của thực vật không

mong muốn sử dụng chế phẩm này

Tác giả: Baur Peter (DE), Auler

Thomas (DE), Deckwer Roland (DE),

Giessler Stephanie (DE).

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến các chế phẩm ít

bọt để bảo vệ cây trồng. Các alkyl ete sulfat

có từ 1 đến 9 nguyên tử cacbon trong mạch

alkyl và có từ 1 đến 20 đơn vị alkylenoxy

trong gốc ete thích hợp để sử dụng làm các

chất phụ gia ít bọt để gia tăng hoạt tính của

các chất hóa nông hòa tan hoàn toàn hoặc

một phần trong nước. Các hợp chất này có

thể được sử dụng để sản xuất các chế phẩm ít

bọt để bảo vệ cây trồng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018500 Chế phẩm vi sinh vật và phương pháp thúc đẩy sự tăng trưởng của cây trồng sử dụng chế phẩm này

Tác giả: Lin Jian Er (US), Zhou

Wenwen Shelley (CN), Chu Kee Hung (US).

Quốc gia: Anh

Sáng chế đề cập đến chể phẩm thúc

đẩy sự tăng trưởng của cây trồng chứa vi sinh

vật có lợi và chất hoạt hóa vi sinh vật. Vi

sinh vật có lợi này có thể được chọn từ nhóm

bao gồm Bacillus spp., Azotobacter spp.,

Trichoderma spp., Saccharomyces spp., hoặc

hỗn hợp của chúng. Sáng chế cũng đề cập

đến phương pháp bào chế chế phẩm này và

phương pháp thúc đẩy sự tăng trưởng của cây

trồng sử dụng chế phẩm này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018203 Chế phẩm diệt sinh vật gây hại, phương pháp điều chế chế phẩm này và phương pháp phòng trừ sinh vật gây hại

Tác giả: Bell Gordon Alastair (GB),

Harris Clair Louise (GB), Tovey Ian David

(GB).

Quốc gia: Anh

Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt

sinh vật gây hại chứa hợp chất có công thức

(I) CH3CH(OH)C(=O)NR1R2, trong đó R1

và R2 độc lập với nhau là hydro; hoặc C1-

6alkyl, C2-6 alkenyl hoặc C3-6 xycloalkyl,

mỗi hợp chất này tùy ý được thế bằng tối đa

Page 56: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 56/57

ba phần tử thế độc lập được chọn từ phenyl,

hydroxy, C1-5 alkoxy, morpholinyl và

NR3R4 trong đó R3 và R4 độc lập với nhau

là C1-3 alkyl; hoặc phenyl tùy ý được thế

bằng tối đa ba phần tử thế độc lập được chọn

từ C1-3 alkyl; hoặc R1 và R2 cùng với

nguyên tử nitơ mà chúng gắn vào tạo thành

vòng morpholinyl, pyrolidinyl, piperidinyl

hoặc azepanyl, mỗi hợp chất này tùy ý được

thế bằng tối đa ba phần tử thế độc lập được

chọn từ C1-3 alkyl; và ít nhất là một hợp chất

có hoạt tính sinh học, chứa ít nhất một vòng

thơm có năm và/hoặc sáu cạnh, trong đó vòng

này chứa ít nhất một nitơ là phân tử của vòng.

Sáng chế còn đề cập đến phương pháp điều

chế chế phẩm này và phương pháp phòng trừ

sinh vật gây hại.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018202 Chế phẩm nông hóa được tạo huyền phù trong nước và phương pháp phòng trừ thực vật không mong muốn

Tác giả: Shimizu Shinichi (JP),

Sugiyama Minoru (JP), Tomioka Atsushi

(JP),…

Quốc gia: Thụy Sỹ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm nông

hóa được tạo huyền phù trong nước ổn định

chứa ít nhất một thành phần nông hóa dạng

lỏng, ít nhất một thành phần nông hóa dạng

rắn, ít nhất một dầu và ít nhất một polyol

chứa ít nhất 3 nhóm hydroxyl, chế phẩm này

có thể làm giảm tính độc đối với thực vật do

tiếp xúc trên các cây trồng là thực vật hữu

ích, đặc biệt là trên cây lúa. Ngoài ra, sáng

chế còn đề cập đến phương pháp phòng trừ

thực vật không mong muốn ở cây trồng là

thực vật hữu ích.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0018200 Chế phẩm diệt cỏ chứa muối glyphosat đậm đặc và phương pháp điều chế chế phẩm này

Tác giả: Malec, Andrew, D. (US),

Figley Timothy M. (US), Turpin Krista L.

(US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt cỏ

chứa muối glyphosat đậm đặc dưới dạng

muối isopropylamoni, muối kali hoặc muối

hỗn hợp, kết hợp với hệ chất hoạt động bề

mặt, bền vững khi cất trữ. Ngoài ra, sáng chế

còn đề cập đến phương pháp điều chế chế

phẩm diệt cỏ chứa muối glyphosat đậm đặc

này và phương pháp xử lý thực vật không

mong muốn bằng chế phẩm diệt cỏ này. Hệ

chất hoạt động bề mặt sử dụng trong chế

phẩm diệt cỏ là alkylamin được đialkoxy hoá,

tác nhân tăng độ hòa tan trong nước và oxit

amin. Vượt hơn sự mong đợi, hệ chất hoạt

động bề mặt này cho phép điều chế ra các chế

phẩm diệt cỏ chứa muối glyphosat đậm đặc,

bền vững khi cất trữ, có điểm đục cao hoặc

không có điểm đục.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0018158 Phương pháp xử lý bào nang Artemia và bào nang đã thu hoạch

Tác giả: Van Nieuwenhove, Luciaan,

Alex, Johan (TH), Naessens-Foucquaert,

Eddy, Marie, Jules (BE), Rombaut, Geert

(BE).

Quốc gia: Belgium

Sáng chế đề cập đến các bào nang, cụ

thể là bào nang Artemia, được ấp trong môi

trường nở trứng sao cho một phần các bào

nang nở và giải phóng các sinh vật làm thức

ăn sống bơi tự do. Các sinh vật làm thức ăn

Page 57: BẢN TIN THÁNG 04/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/08/Bantin-_thanhtuu_KHCN-TG_04... · Cách thức nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 04/2018 57/57

sống bơi tự do sau đó được tách khỏi các bào

nang không nở. Trước khi ấp các bào nang,

các hạt từ được gắn lên các bào nang để các

bào nang này có thể bị hút bằng từ trường, cụ

thể là trong môi trường ấp lỏng. Điều này cho

phép có thể tách một cách hiệu quả các bào

nang không nở và các vỏ bào nang rỗng,

được phủ các hạt từ, khỏi các sinh vật làm

thức ăn sống bơi tự do không có các hạt từ

được gắn lên bề mặt ngoài của chúng. Sáng

chế cũng đề cập đến các bào nang được phủ

và phương pháp xử lý bào nang.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018488 Phương pháp khắc phục hoặc làm giảm tác động dinh dưỡng bất lợi ở cá được nuôi bằng thức ăn chứa protein thực vật

Tác giả: Gonzalez Vecino José, L

(NO), Wadsworth Simon (NO).

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến thức ăn nuôi cá

có tác dụng tăng cường quá trình tăng trưởng

của cá. Chính xác hơn là sáng chế đề cập đến

phương pháp khắc phục hoặc làm giảm tác

động dinh dưỡng bất lợi của khô dầu đậu

nành bằng cách bổ sung manna-oligosacarit

(MOS) vào khẩu phần. Ngoài ra quá trình

sinh trưởng được cải thiện khi MOS được

cho ăn kết hợp với các nucleotit và các chất

kích thích miễn dịch. Sáng chế cũng đề cập

đến việc tăng cường quá trình hấp thu sắc tố

ở cá được nuôi bằng chế phẩm theo sáng chế.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 360/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018145 Quy trình xử lý nước thải

Tác giả: Logan, Andrew, J. (US),

Terry Seth, Sprague (US), Swenson,

Randolphe P. Jr. (US)

Quốc gia:Mỹ

Sáng chế đề cập đến quy trình xử lý

nước thải để chuyển hoá các tạp chất lỏng từ

nước thải lấy từ thiết bị xử lý thực phẩm

thành thành phần thích hợp để sử dụng trong

thức ăn gia súc. Thành phần được tạo ra theo

quy trình theo sáng chế có hàm lượng protein

cao và có thể được sử dụng để thay thế cho

nguồn protein của thức ăn gia súc thông

thường như bột cá.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 359/2018

Trở về đầu trang

**************