Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 1/48 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 10/2018 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Nghiên cứu ứng dụng trí tuệ nhân tạo cho hệ thống nhận diện tội phạm Hà Nội dự kiến dùng vé xe buýt điện tử đầu tiên vào tháng Mười FPT công bố 3 sản phẩm công nghệ mới trên nền tảng trí tuệ nhân tạo Xây dựng mạng xã hội giúp nhà nông tối ưu hóa đầu ra sản phẩm CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY Công nghệ chế tạo chất gom xỉ hệ canxi aluminat dùng trong quá trình nấu thép bằng lò điện cảm ứng trung tần Máy phay 3D chuyên sản xuất chi tiết, linh kiện nhỏ Máy thái đa năng VẬT LIỆU – HÓA CHẤT Sáng chế siêu vật liệu hấp thụ sóng điện từ Nghiên cứu sản xuất thành công keo tản nhiệt dùng cho các thiết bị điện tử Chế tạo chất hấp thu K-Ni- hexacyanoferrate (II) gắn trên zeolit để loại bỏ ion Cs từ chất thải phóng xạ lỏng Chế tạo tính chất của các oxit phức hợp chứa bitmut xử lý một số hợp chất hữu cơ độc hại Công nghệ tuyển quặng barit và tận thu chì trong quặng barit khu vực Bao Tre tỉnh Thanh Hóa Nghiên cứu sự tiến hóa magma - kiến tạo đới cấu trúc Fansipan CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM Sử dụng năng lượng thác nước công suất nhỏ để sản xuất đá viên và bảo quản thực phẩm CÔNG NGHỆ SINH HỌC Chọn lọc dòng xạ khuẩn có khả năng kiểm soát nấm gây bệnh trên cây cao su
48
Embed
BẢN TIN THÁNG 10/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/01/Bantin_thanhtuu_KHCNVN_10-2018.pdf · Chế tạo tính chất của các oxit phức hợp chứa
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 1/48
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 10/2018
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Nghiên cứu ứng dụng trí tuệ nhân tạo cho hệ thống nhận diện tội phạm
Hà Nội dự kiến dùng vé xe buýt điện tử đầu tiên vào tháng Mười
FPT công bố 3 sản phẩm công nghệ mới trên nền tảng trí tuệ nhân tạo
Xây dựng mạng xã hội giúp nhà nông tối ưu hóa đầu ra sản phẩm
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Công nghệ chế tạo chất gom xỉ hệ canxi aluminat dùng trong quá trình nấu thép bằng lò
điện cảm ứng trung tần
Máy phay 3D chuyên sản xuất chi tiết, linh kiện nhỏ
Máy thái đa năng
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Sáng chế siêu vật liệu hấp thụ sóng điện từ
Nghiên cứu sản xuất thành công keo tản nhiệt dùng cho các thiết bị điện tử
Chế tạo chất hấp thu K-Ni- hexacyanoferrate (II) gắn trên zeolit để loại bỏ ion Cs từ chất
thải phóng xạ lỏng
Chế tạo tính chất của các oxit phức hợp chứa bitmut xử lý một số hợp chất hữu cơ độc
hại
Công nghệ tuyển quặng barit và tận thu chì trong quặng barit khu vực Bao Tre tỉnh
Thanh Hóa
Nghiên cứu sự tiến hóa magma - kiến tạo đới cấu trúc Fansipan
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Sử dụng năng lượng thác nước công suất nhỏ để sản xuất đá viên và bảo quản thực phẩm
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Chọn lọc dòng xạ khuẩn có khả năng kiểm soát nấm gây bệnh trên cây cao su
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 2/48
Nghiên cứu quy trình nhân sinh khối tảo giàu astaxanthin ở quy mô bình 20 lít
Chế phẩm nấm Peacilomyces lilacinus - Hiệu quả trong phòng trừ tuyến trùng sần rễ hồ tiêu
Y - DƯỢC
Giường đệm thông minh cho người già và người bệnh
Vaccine ‘made in Vietnam’ phòng cúm mùa, cúm đại dịch
Hiệu quả của một số biện pháp phòng chống loãng xương ở người trên 45 tuổi tại
TP.HCM
Khả năng kháng oxy hóa và kích thích miễn dịch của bài thuốc Nam Địa Long trong điều
trị ung thư
NÔNG NGHIỆP
Phát triển quy trình real-time RT-PCR phát hiện virus lở mồm long móng ở gia súc
Chế tạo thành công chiếc máy “bóc vỏ lụa và mầy hạt ngô”
Qui trình sản xuất cua hoàng đế Ranina ranina
Nghiên cứu quá trình lên men cám gạo giống lúa Khang Dân bằng Saccharomyces
cerevisiae để thu nhận hoạt chất chống oxy hóa
Thiết bị thu hoạch, chẻ và thiết bị sấy cây lác
MÔI TRƯỜNG
Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển
Hệ thống mô hình bất thủy tĩnh để nâng cao chất lượng dự báo thời tiết cho khu vực Việt
Nam
Nghiên cứu khả năng giảm nhẹ ô nhiễm chất độc hóa học/dioxin của cỏ vetiver - Áp
dụng thử nghiệm tại sân bay Biên Hòa
Công nghệ rửa đất xử lý môi trường ô nhiễm dioxin
Nghiên cứu và sử dụng bã trà làm chất hấp phụ Cd, Pb và Ni trong nước thải công nghiệp
Quản lý đê điều bằng khoa học công nghệ
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 3/48
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Nghiên cứu ứng dụng trí tuệ nhân tạo cho hệ thống nhận diện tội phạm
Mới đây, các sinh viên đã nghiên cứu
ứng dụng trí tuệ nhân tạo cho hệ thống nhận
diện tội phạm. Với công nghệ trí tuệ nhân tạo
(AI), nhóm sinh viên Trường Đại học FPT đã
giúp công việc quản lý an ninh qua camera
thêm phần nghiêm ngặt bằng ứng dụng
“Criminal Face Detection”. Đây là Hệ thống
nhận diện khuôn mặt những đối tượng hình
sự. Đây cũng là đề tài tốt nghiệp của nhóm
sinh viên khóa 10 ngành kỹ thuật phần mềm
Trường Đại học FPT gồm: Lê Hùng Sơn, Võ
Hoàng Việt, Nguyễn Thanh Nhã, Nguyễn
Kiến Huy. Ứng dụng công nghệ “Criminal
Face Detection” thành các giải pháp giải
quyết vấn đề xã hội của nhóm sinh viên trên
đã thuyết phục được hội đồng khoa học của
nhà trường cũng như các chuyên gia khác.
Hiện nay, các địa điểm như cửa hàng
tiện lợi, siêu thị có thể sử dụng hệ thống để
phát hiện những đối tượng không mong muốn
xuất hiện trong khu vực. Ứng dụng sẽ cảnh
báo cho nhân viên an ninh theo dõi các đối
tượng, đề phòng các tình huống xấu xảy ra.
“Criminal Face Detection” – Hệ thống nhận
diện hình ảnh khuôn mặt giúp tổ chức quản lý
được một danh sách tội phạm hoặc người
không mong muốn vào khu vực của tổ chức
hoặc địa điểm nào đó.
Về nguyên tắc hoạt động, hệ thống này
nhận diện ảnh trên nhiều camera. Khi một đối
tượng không mong muốn xuất hiện, lập tức
một tín hiệu được gửi đến người quản lý qua
phần mềm, website, email hoặc app điện
thoại. Ngoài ra, các lần xuất hiện hoặc thông
tin tội phạm sẽ được lưu trữ lại thành danh
sách tiện cho việc tra cứu sau này. Các tấm
hình sẽ được trải qua 2 bước là nhận diện
khung hình chứa khuôn mặt, sau đó sử dụng
công nghệ AI định danh ra khuôn mặt đó. Hệ
thống này sẽ nhận diện một số khung hình có
chung thuộc tính là khuôn mặt. Sau đó, máy
sẽ chuyển thuộc tính của khuôn mặt (mắt,
mũi, miệng) ra dạng vector và tính toán, so
sánh mức độ giống khuôn mặt đó với những
mẫu hình đã có trong dữ liệu hệ thống.
Thực tế cho thấy, những nơi công cộng
tập trung đông người rất cần đảm bảo tính an
ninh, nhất là nhà ga hay sân bay. Hệ thống
nhận diện khuôn mặt sẽ giúp các ban quản lý
tòa nhà hay bảo vệ an ninh có thêm một bước
sàng lọc, lại có thể quét trên diện rộng toàn
khu vực cần quan sát. Việc xử lý hình ảnh sẽ
giúp giảm công sức của người trực camera, có
thêm một công cụ để hạn chế hoặc theo dõi
các đối tượng khả nghi hoặc không mong
muốn. Ý tưởng táo bạo này đã tạo ra sự hào
hứng cho nhóm sinh viên nghiên cứu. Họ đã
sử dụng các công nghệ hiện đại để giải quyết
bài toán thực tế.
Nguồn: Vista.gov.vn, 21/09/2018
Trở về đầu trang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 4/48
**************
Hà Nội dự kiến dùng vé xe buýt điện tử đầu tiên vào tháng Mười
Trước đó, Hà Nội đã thí điểm vé tháng điện tử xe buýt trên tuyến Giáp Bát-Cầu Giẽ.
Dự án thí điểm hệ thống thẻ vé điện tử
trên tuyến buýt nhanh BRT 01 (Kim Mã-Yên
Nghĩa) và mở rộng cho các tuyến buýt trợ giá
trên địa bàn thành phố Hà Nội theo dự kiến
ngày 1/10/2018 tới sẽ triển khai thí điểm vé
điện tử trên tuyến buýt nhanh BRT.
Ông Nguyễn Hoàng Hải, Giám đốc
Trung tâm Quản lý và điều hành giao thông
đô thị Hà Nội (Sở Giao thông Vận tải Hà
Nội) cho biết, liên danh Tổng công ty Vận tải
Hà Nội (Transerco), Tập đoàn Viettel, Tập
đoàn Thẻ vé MK đang đẩy tiến độ để có thể
sớm đưa vào thí điểm thẻ vé điện tử trên
tuyến buýt BRT 01 (Kim Mã-Yên Nghĩa) tiến
tới triển khai trên toàn hệ thống vận tải hành
khách công cộng của thủ đô.
Cụ thể, trên tuyến sẽ được trang bị
thiết bị bán vé điện tử, thay thế toàn bộ vé
tháng tuyến BRT 01 sang vé tháng điện tử
(khoảng 2.500 thẻ); lắp đặt hệ thống cổng
kiểm soát khách ra vào tại các nhà chờ BRT;
trang bị hệ thống thiết bị, phần mềm quản lý
hệ thống vé điện tử tại Trung tâm Quản lý và
điều hành giao thông đô thị, các điểm giao
dịch của Liên danh Viettel-Transerco.
Về chính sách giá vé, thành phố Hà
Nội giữ nguyên chính sách giá vé hiện tại
trong giai đoạn thí điểm. Tổng mức đầu tư dự
kiến để triển khai cho tuyến buýt nhanh BRT
là 22,5 tỷ đồng và phía Tập đoàn Viettel sẽ
ứng trước kinh phí để triển khai nhằm đẩy
nhanh tiến độ và đưa vào thí điểm.
“Vé điện tử thông minh được tích hợp
linh hoạt nhiều ứng dụng. Trên cùng một thẻ
sẽ mặc định rất nhiều đối tượng phục vụ như
khách phổ thông, khách ưu tiên (theo đối
tượng, theo ngày, theo tháng, theo giờ), chính
sách về giá vé cũng được điều chỉnh dễ dàng.
Tiến tới trong tương lai, ngoài việc phục vụ
cho di chuyển trên các phương tiện công cộng
của Thủ đô, thẻ vé điện tử này sẽ được dùng
làm phương thức để gửi xe, mua bán lẻ tiện
lợi”, ông Hải thông tin thêm.
Thừa nhận thẻ vé điện tử xe buýt tiện
lợi và thông minh, theo ông Hải, khi hành
khách lên phương tiện sẽ tự động kiểm soát,
trừ tiền, xác định được giá tiền của từng
chuyến đi, bền vững văn minh hơn. Trước
đây, hành khách lên xe thì phải xé vé, chìa
thẻ... giờ lên xuống chỉ cần quẹt thẻ vào đầu
đọc như vậy quy trình quản lý sẽ mạch lạc,
minh bạch hơn.
Là đơn vị thực hiện thí điểm, ông
Nguyễn Công Nhật, Phó Tổng giám đốc
Transerco cho rằng, nhiều nước trên thế giới
đã tích hợp chung cho một loại thẻ vé điện tử
cho các loại hình vận tải công cộng bao gồm
xe buýt và tàu điện ngầm, đường sắt đô thị.
Theo ông Nhật, khi thí điểm thẻ vé
điện tử xe buýt sẽ giúp các cơ quan Nhà
nước, doanh nghiệp quản lý doanh thu chính
xác, đồng thời có con số thống kê chính xác
7Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 5/48
nhu cầu và quy luật đi lại của người dân qua
chuỗi thông tin báo về hệ thống, từ đó cơ
quan Nhà nước và đơn vị vận tải có thể điều
chỉnh kế hoạch phục vụ hành khách dễ dàng
và thuận tiện nhất.
“Việc triển khai thí điểm cung cấp và
ứng dụng hệ thống thiết bị thẻ vé điện tử liên
thông cho tuyến buýt nhanh BRT và các
tuyến buýt khác sẽ thay thế cho loại hình vé
giấy hiện tại, thủ công và tốn chi phí in ấn,
thời gian mua bán vé”, ông Nhật nhấn mạnh.
Được biết, Sở Giao thông Vận tải Hà
Nội đã báo cáo lên thành phố Hà Nội về việc
công tác chuẩn bị thí điểm về cơ bản đã đảm
bảo về nhân sự, thiết bị, phần mềm, cơ sở hạ
tầng, công nghệ. Các đơn vị đã cấp mới, đổi
thẻ cho khách và đang tổ chức đào tạo vận
hành hệ thống. Dự kiến, ngay trong tháng Chín
này, đơn vị sẽ hướng dẫn hành khách tại nhà
chờ, sử dụng hệ thống loa phát trên xe buýt.
Trước đó, vào đầu tháng 10/2014, Hà
Nội đã phối hợp với Cơ quan hợp tác Quốc tế
Nhật Bản (JICA) thí điểm vé tháng điện tử
cho xe buýt tuyến 06 (Giáp Bát-Cầu Giẽ).
Nguồn: Vista.gov.vn, 20/09/2018
Trở về đầu trang
**************
FPT công bố 3 sản phẩm công nghệ mới trên nền tảng trí tuệ nhân tạo
Hệ thống robot khi hoàn thành
Công ty FPT mới đây đã công bố 3 sản
phẩm công nghệ mới trên nền tảng trí tuệ
nhân tạo gồm: FPT.AI phiên bản mới; Thiết
bị điều khiển truyền hình bằng giọng nói
Voice Remote và Giải pháp chuyển đổi số
toàn diện cho doanh nghiệp akaRPA.
Voice Remote - thiết bị điều khiển
bằng giọng nói: Voice Remote là chiếc điều
khiển bằng giọng nói dành riêng cho thiết bị
xem truyền hình. Sản phẩm này ứng dụng
công nghệ nhận diện giọng nói thông minh do
FPT phát triển có thể nhận diện được tối đa
ngôn ngữ vùng miền. Điểm vượt trội của
Voice Remote so với những chiếc điều khiển
truyền thống đó là khả năng nhận diện giọng
nói thông minh thông qua cổng kết nối
Bluetooth 4.0, giúp người dùng điều khiển
thiết bị một cách đơn giản hơn chỉ bằng việc
“giữ phím” và đưa ra khẩu lệnh. Chuẩn kết
nối Bluetooth 4.0 được tích hợp vào sản phẩm
sẽ khiến việc truyền tín hiệu nhanh hơn, mã
hóa tốt và đưa ra kết quả chính xác hơn. Với
thuật toán được lập trình thông minh, thiết bị
còn cho phép đưa ra những gợi ý tìm kiếm
gần nhất với khẩu lệch của người dùng.
Giải pháp chuyển đổi số toàn diện
cho doanh nghiệp AkaRPA: AkaRPA là
một hệ thống cung cấp khả năng tự động hoá
các quy trình, nghiệp vụ trong một doanh
nghiệp bao gồm các nghiệp vụ lặp đi lặp lại,
tạo báo cáo định kỳ và phân tích dữ liệu báo
cáo, xử lý và lưu trữ dữ liệu, tạo email hàng
loạt cùng khả năng nhận và bóc tách nội dung
email, xử lý dữ liệu phi cấu trúc và dữ liệu
ảnh, tích hợp các hệ thống ERP như SAP,
Oracle RPA… và các hệ thống khác của
doanh nghiệp. Ứng dụng akaRPA vào quy
trình doanh nghiệp giúp giảm chi phí nhân sự
và vận hành, từ đó nâng cao được năng suất
lao động. Trong tương lai, dự kiến FPT sẽ bổ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 6/48
sung thêm nhiều tính năng để hệ thống có thể
giúp doanh nghiệp ra quyết định về mặt kinh
doanh… Đặc điểm nổi bật nhất của akaRPA
đó là hệ thống được chuẩn hóa và đóng gói
sẵn cho từng lĩnh vực như ngân hàng, bảo
hiểm, viễn thông, bán lẻ, giúp rút ngắn thời
gian, công sức phát triển và triển khai cho
doanh
FPT.AI phiên bản mới - nền tảng AI
toàn diện cho doanh nghiệp: FPT.AI ra mắt
cộng đồng phiên bản mới với vai trò là một
nền tảng trí tuệ nhân tạo toàn diện, cung cấp
những giải pháp tối ưu hóa hoạt động kinh
doanh, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình tự
ra quyết định, tạo lợi thế cạnh tranh và giúp
gây dựng những giá trị kinh doanh mới. Nền
tảng tạo chatbot của FPT.AI có những tính
năng vượt trội so với phiên bản cũ như chức
năng quản lý hội thoại, không chỉ cho phép
người tạo bot xây dựng các kịch bản trò
chuyện khác nhau, mà còn có thể theo dõi
lịch sử trò chuyện, giúp chatbot hiểu và tương
tác với khách hàng một cách tự nhiên, thân
thiết hơn... Trong phiên bản mới, FPT.AI
cũng bổ sung công nghệ nhận dạng giọng nói
cho phép các nhà phát triển chuyển đổi âm
thanh thành văn bản. Ứng dụng cho dịch vụ
này gồm tổng đài tự động, tương tác hội thoại
và điều khiển các thiết bị thông qua giọng
nói… Tháng 6/2017, nền tảng trí tuệ nhân tạo
FPT.AI lần đầu được trình làng. Thời điểm
đó, FPT.AI là nền tảng dành riêng cho các lập
trình viên để tạo ra các giao diện tương tác
bằng ngôn ngữ tự nhiên, tích hợp vào các nền
tảng hội thoại như Facebook Mesenger hoặc
các ứng dụng hội thoại do doanh nghiệp tự
phát triển và các thiết bị thông minh như
robot, điện thoại di động, thiết bị điều khiển.
Sau 1 năm ra mắt, FPT.AI đã đạt được những
con số ấn tượng như hơn 7,5 triệu yêu cầu,
hơn 2.000 giờ giọng nói được các đối tác của
FPT.AI sử dụng và trên 1.000 ứng dụng
chatbot được xây dựng.
Nguồn: Vista.gov.vn, 13/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Xây dựng mạng xã hội giúp nhà nông tối ưu hóa đầu ra sản phẩm
Trưởng nhóm dự án Nhà nông 4.0 Trần Quang Diệu
Trước việc sản phẩm nông nghiệp của
các bác nông dân thường xuyên rơi vào tình
trạng không có đầu ra, bị thương lái ép giá
như những vụ dưa hấu, củ cải, vải… nhóm
sinh viên Đại học Việt Nhật (Đại học Quốc
gia Hà Nội) đã đưa ra ý tưởng xây dựng một
mạng xã hội phục vụ cho công việc đưa sản
phẩm của nông dân tới người tiêu dùng.
Theo trưởng nhóm Trần Quang Diệu,
Nhà nông 4.0 sẽ là một mạng xã hội mang với
nhân tố trung tâm là những người nông dân
và có hai nhân tố xoay quanh là Agri-KOL và
con nhà nông.
Thành viên của Nhà nông 4.0 sẽ luôn
được đặt trong mạng lưới thông tin cho và
nhận không ngừng chuyển động. Agri-KOL
(Agricultural Key Opinion Leader) sẽ là
những nhà nông đi đầu trong việc áp dụng
công nghệ để tối ưu hoá việc giới thiệu và
chia sẻ sản phẩm hoặc mô hình nông nghiệp
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 7/48
của mình. Con nhà nông không chỉ mang ý
nghĩa đơn thuần là con của người nông dân,
mà còn hướng tới những người trẻ đang có
quan tâm đến nông nghiệp.
Khi đi vào hoạt động, Nhà nông 4.0 sẽ
giúp những người nông dân có thể tự trở
thành những Agri-KOL để tự thương mại sản
phẩm, mô hình nông nghiệp của chính mình.
Nhà nông 4.0 cũng dự định cộng tác với một
số chương trình truyền hình như “Sinh ra từ
làng” của VTV6, hoặc một số Influencer nổi
tiếng để tăng tính lan rộng của mô hình Agri-
KOL này.
Bên cạnh đó, Nhà nông 4.0 sẽ xây
dựng bản đồ động về nông nghiệp 4.0. “Bản
đồ này được xây dựng dựa trên những thông
tin chia sẻ của cộng đồng nhà nông. Đặc biệt,
nếu được hợp tác với các đại lý cung cấp các
thiết bị IoT cho nông nghiệp, Nhà nông 4.0 sẽ
tạo được một bản đồ với dữ liệu chính xác có
căn cứ khoa học để sản phẩm của người nông
dân không bao giờ rơi vào tình trạng cần giải
cứu, bán phá giá”, Trần Quang Diệu chia sẻ.
Ngoài ra, Nhà nông 4.0 cũng sẽ xây
dựng một trường học nông nghiệp kiểu mới
cho thế hệ trẻ. Dựa vào dữ liệụ có được từ các
bác nông dân cũng như các chuyên gia, Nhà
nông 4.0 kỳ vọng sẽ tạo ra được kho tư liệu
sống động nhất cho lớp trẻ khi tìm hiểu về
nông nghiệp.
Nguồn: Vista.gov.vn, 02/09/2018
Trở về đầu trang
**************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Công nghệ chế tạo chất gom xỉ hệ canxi aluminat dùng trong quá trình nấu thép bằng lò điện cảm ứng trung tần
Trong quá trình nấu luyện thép hợp
kim bằng lò trung tần để đúc các chi tiết,
trước khi tiến hành hợp kim hóa và đúc chi
tiết, thép lỏng cần phải được tinh luyện để
khử tạp chất, khử khí. Tạp chất có trong thép
lỏng một phần đi từ nguyên liệu, một phần từ
thể xây của lò. Khí tồn tại trong thép lỏng chủ
yếu từ môi trường nấu luyện. Mục tiêu của
quá trình tinh luyện là đưa các tạp chất có
trong thép lỏng thành xỉ nổi trên bề mặt thép,
sau đó vớt xỉ khỏi bề mặt thép lỏng. Do đó,
việc tạo ra thành phần xỉ phù hợp cho quá
trình nấu luyện thép để đúc các chi tiết là rất
cần thiết.
Hiện nay, ở các cơ sở sản xuất thép
lớn, thép được luyện từ gang lỏng hoặc thép
phế trong lò thổi oxy hoặc lò điện hồ quang
công suất lớn. Quá trình nấu chảy, tinh luyện
trong các thiết bị này được áp dụng theo các
công nghệ hiện đại của thế giới như: công
nghệ tạo xỉ bọt hay lưu lại xỉ từ mẻ trước
khiến hiệu quả nấu luyện đạt được cao. Trong
khi đó, tại các cơ sở đúc, cán thép hoặc luyện
thép quy mô nhỏ, thép được nấu chảy và tinh
luyện chủ yếu trong lò cảm ứng trung tần. Để
quá trình nấu thép trong lò cảm ứng xảy ra
thuận lợi, người ta thường đưa một lượng
nhất định chất tạo xỉ bên ngoài với vai trò là
chất tiền nóng chảy, từ đó kết hợp với các
thành phần khác tạo nên hệ xỉ. Hệ xỉ phù hợp
cho quá trình nấu luyện phải đảm bảo các yếu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 8/48
tố như: có khả năng che phủ chống oxy hóa
thép lỏng, có khả năng khử tạp chất cũng như
có độ chảy loãng phù hợp cho quá trình đúc
rót. Hiện nay, trên thị trường có nhiều sản
phẩm tạo xỉ cho quá trình luyện thép lò cảm
ứng trung tần như hệ CaO-Al2O3, CaO-
Al2O3-CaF2, CaO-Al2O3-CaF2 - NaF, v.v...
Chúng được gọi với tên thông dụng là chất
gom xỉ hay chất tụ xỉ. Trong đó, chất gom xỉ
hệ CaO-Al2O3 (canxi aluminat) là thông dụng
nhất. Phần lớn các cơ sở luyện thép sử dụng
chất gom xỉ đều phải nhập khẩu (hầu hết từ
Trung Quốc).
Việt Nam có nguồn tài nguyên bauxite
và đá vôi tương đối lớn. Đây sẽ là nguồn
nguyên liệu chính để chế tạo ra chất gom xỉ
hệ canxi aluminat bằng phương pháp luyện
kim. Do đó, để tăng giá trị tài nguyên trong
nước cũng như giảm bớt sự phụ thuộc vào thị
trường nước ngoài, năm 2016, nhóm nghiên
cứu tại Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ -
Luyện kim do ThS. Nguyễn Hồng Quân làm
chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
công nghệ chế tạo chất gom xỉ hệ canxi
aluminat dùng trong quá trình nấu thép bằng
lò điện cảm ứng trung tần” từ nguồn nguyên
liệu bauxite và đá vôi, nhằm tạo ra chất gom
xỉ hệ canxi aluminat có thành phần tương
đương mác JCA35 của Trung Quốc.
Một số kết quả của đề tài nghiên cứu:
- Đã tiến hành thí nghiệm chế tạo chất
gom xỉ canxi aluminat bằng phương pháp
thiêu kết. Chế độ vê viên và thiêu kết như
sau: Tỉ lệ phối liệu: 5,73% tinh quặng bauxite
Nhân Cơ + 60,45% đá vôi + 33,82% hydroxit
nhôm; Vê viên với hàm lượng ẩm 9%; Thiêu
kết ở nhiệt độ 1300 độ C, thời gian 120 phút.
- Đã tiến hành thí nghiệm chế tạo chất
gom xỉ bằng phương pháp điện chảy. Chế độ
công nghệ như sau: Tỉ lệ phối liệu: TQ
bauxite Nhân Cơ: Đá vôi: Than cốc =
1:1,3:0,018; Thời gian dừng lò sau khi liệu
chảy hết là 20 phút.
- Đã tính toán tiêu hao nguyên vật liệu
và so sánh giữa hai phương pháp chế tạo chất
gom xỉ và lựa chọn phương pháp điện chảy
để sản xuất được 87,2kg chất gom xỉ và 6,47
kg sắt.
- Đã thử nghiệm sử dụng chất gom xỉ
của đề tài trong quá trình nấu đúc thép bằng
lò điện cảm ứng trung tần tại Công ty TNHH
MTV Cơ khí Mê Linh. Kết quả đánh giá chất
lượng chất gom xỉ của đề tài đạt chất lượng
tốt, có thể gom được các tạp chất trong quá
trình nấu đúc thép. Chất lượng chất gom xỉ
của đề tài tương đương với chất gom xỉ nhập
ngoại.
Sản phẩm chất gom xỉ được chế tạo đã
đạt chất lượng và đủ số lượng. Tuy nhiên, đây
chỉ là những bước nghiên cứu mở đầu cho
hướng phát triển mới. Để kết quả của đề tài
có thể được áp dụng vào thực tế sản xuất,
chuyển giao công nghệ thì cần phải có những
nghiên cứu sâu hơn nữa, sản xuất thử nghiệm
ở quy mô mở rộng hơn nhằm đánh giá các chỉ
tiêu kinh tế kỹ thuật khác.
Nguồn: most.gov.vn, 29/09/2018
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 07/2018 9/48
Máy phay 3D chuyên sản xuất chi tiết, linh kiện nhỏ
ThS. Nguyễn Đình Ảnh hướng dẫn sinh viên cách phay mạch điện tử bằng máy phay 3D.
Nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy, nhu
cầu thực tiễn của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ hiện nay trong việc phay, gia công các
chi tiết, linh kiện nhỏ, đặc biệt là chíp điện
thoại, nhóm tác giả đến từ trường Cao đẳng
nghề Công nghệ cao Hà Nội đã nghiên cứu,
phát triển thành công máy phay 3D.
Hiện nay, trên thị trường, máy phay
3D được sử dụng rất nhiều, đặc biệt là trong
việc sản xuất chế tạo các chi tiết, phụ kiện từ
đơn giản đến phức tạp với độ chính xác cao,
lên tới 0,02 – 0,05mm. Tuy nhiên, chúng
thường có kích thước lớn, kết cấu phức tạp,
vận hành qua nhiều khâu, nhiều bước và giá
thành cao, áp dụng khó khăn trong việc giảng
dạy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
“Trên cơ sở mục tiêu đào tạo của nhà
trường, tức là sinh viên thực hành, có tay
nghề thì mới có việc làm, được sự chỉ đạo của
ban giám hiệu nhà trường, đáp ứng nhu cầu
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chúng tôi
đã tạo ra một sản phẩm mang tính chất thực
hành và ứng dụng thực tế trong công tác
giảng dạy cũng như kết hợp với sản xuất quy
mô nhỏ”, ThS. Nguyễn Đình Ảnh, tác giả sản
phẩm máy phay 3D, giảng viên Bộ môn Cơ
Điện tử, Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà
Nội – trưởng nhóm tác giả của sản phẩm máy
phay 3D chia sẻ.
Máy phay chuyên biệt công năng
Công dụng chính của máy phay 3D là
gia công, phay mạch điện tử 1 lớp, các logo,
chi tiết có kích thước nhỏ hơn khổ A3, đặc
biệt là phay chíp trên điện thoại – một trong
những nhu cầu bức thiết nhất hiện nay.
Thực tế, ngày này người Việt nói riêng
và con người nói chung có nhu cầu lớn đối
với việc sử dụng điện thoại thông minh. Nếu
như trước kia, khi điện thoại bị hỏng chíp,
người thợ sửa phải dùng mỏ hàn để tháo chíp
và thay chip mới, điều này thường rất khó
khăn và dễ gây ra hỏng hóc cũng như làm mất
tính thẩm mỹ của điện thoại. Tức là việc sửa
chữa điện thoại “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”.
Với công dụng của máy phay 3D,
người thợ chỉ cần phay đứt các vị trí mối hàn
là có thể tháo được chíp mà không ảnh hưởng
đến tính thẩm mĩ của máy.
Bên cạnh đó, tại các trường học, để có
được một mạch điện tử cho mục đích học tập
và nghiên cứu không phải là một điều dễ
dàng. Với phương pháp làm mạch thủ công –
phương pháp là mạch gây tốn thời gian, mạch
làm ra kém thẩm mỹ và có thể gây ảnh hưởng
lớn tới sức khỏe của người làm mạch do phải
tiếp xúc với hóa chất ăn mòn mạch. Nhưng
nếu đặt mua mạch ở bên ngoài thị trường thì
giá thành lại khá cao và mất nhiều thời gian.
Do đó, khi sử dụng máy phay 3D,
giảng viên có thể tự phay mạch điện tử ngay
tại trường, vừa tiết kiệm được thời gian và chi
phí mà mạch thành phẩm có tính thẩm mỹ
cao. Máy phay 3D được tạo ra trên cơ sở
nguyên lý hoạt động của máy CNC với mục
đích để cho các em sinh viên ngay từ lúc học
các môn đầu tiên đã được làm quen, nắm bắt
với việc gia công CNC. Sau này, khi các bạn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 10/48
làm việc với máy CNC cỡ lớn sẽ không bị bỡ
ngỡ và có thể vận hành một cách tốt hơn.
Cơ chế hoạt động của máy rất đơn
giản, từ bản vẽ gia công, người thợ sử dụng
phần mềm để xuất các lệnh gia công
(Mastercam, copperCAM...) và chạy chương
trình gia công bằng phần mềm Mach3 - phần
mềm phổ biến trên thị trường hỗ trợ cho việc
gia công máy phay CNC, máy tiện CNC, máy
cắt plasma, hoạt động trên cơ chế là di
chuyển trên 3 trục x, y, z.
Do có chế độ làm mát bằng nước được
thiết kế thêm nên máy phay 3D gần như có
thể hoạt động 24/24 giờ với độ chính xác cao.
Với các con chíp điện tử, máy chỉ mất 10
phút để hoàn thiện, mỗi ngày có thể làm từ
hàng trăm tới vài nghìn con chíp.
Đáp ứng nhu cầu giảng dạy và thị
trường
Theo TS. Phạm Xuân Khánh, Hiệu
trưởng Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao
Hà Nội, hiện nay, trường Cao đẳng nghề
Công nghệ cao Hà Nội với đội ngũ giảng viên
giàu kinh nghiệm, kỹ năng sản xuất tốt có rất
nhiều thiết bị máy móc có thể phục vụ cho
công tác sản xuất.
Có được điều này là do nhà trường
thường xuyên tổ chức các hoạt động KHCN
với mục tiêu vừa nghiên cứu, sản xuất, vừa
làm ra sản phẩm để nâng cao chất lượng đào
tạo, phục vụ cho công tác dạy và học. Có thể
kể đến như Cuộc thi Sáng tạo HHT, các hoạt
động về thương mại hóa sản phẩm, các triển
lãm sản phẩm sáng tạo KHCN có khả năng
thương mại hóa…
Do đó, hằng năm, nhà trường có hàng
trăm sản phẩm từ các hoạt động dạy và học
của giảng viên, sinh viên với giá trị thương
mại hóa rất cao như máy phát điện trục đứng,
dây chuyền sản xuất gạch không nung, máy
in 3D… Máy phay 3D cũng là một trong
những sáng chế thành công như vậy của
trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà
Nội.
“Thời gian chế tạo và phát triển máy
phay 3D mất 3 năm do một số bộ phận đề tạo
thành máy không có sẵn trên thị trường và
kinh phí thực hiện còn hạn chế nên nhóm tác
giả cũng phải cân nhắc khi mua các bộ phận.
Tuy nhiên, nhờ có sự ủng hộ, tạo điều kiện và
hỗ trợ về cơ sở vật chất và kinh phí từ Ban
giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa,
các giảng viên và sinh viên đam mê trong lĩnh
vực chế tạo nên nhóm tác giả đã chế tạo thành
công máy phay 3D”, ông Ảnh chia sẻ.
Máy có kích thước nhỏ gọn, kết cấu
đơn giản, vận hành dễ dàng và giá thành rẻ,
do vậy, nó có thể được áp dụng không chỉ
trong việc gia công các chi tiết mà còn có thể
phay mạch để áp dụng cho chuyên ngành cơ
điện tử, khả năng nhân rộng trong các trường
học và doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn.
Đánh giá về tính năng của máy phay
3D, ThS. Trần Xuân Dũng, Phó trưởng khoa
Cơ khí, Trường Cao đẳng nghề Công nghệ
cao Hà Nội cho rằng: “Máy phay 3D có một
số các tính năng chuyên biệt hơn, vì tùy chọn
của máy không rộng như các thiết bị trên thị
trường nên nó phục vụ đặc biệt tốt cho việc
chế tạo các chi tiết, linh kiện nhỏ như vi mạch
điện tử, con chíp…”.
Trước khi có máy này, việc giảng dạy
với các thiết bị hiện có của nhà trường, giảng
viên cũng đưa vào một số mô hình khác cũng
có thể mô phỏng. Dù vậy, với thiết bị này, các
em có thể tham gia vào những công việc như
nghiên cứu thiết kế các mô hình máy cho các
doanh nghiệp, nâng cao năng suất sử dụng
của các thiết bị cùng chủng loại, đưa ra một
số các phương án cải tiến cho dòng máy… Từ
đó, cải thiện óc sáng tạo, tinh thần ham học
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 11/48
hỏi, mày mò nghiên cứu của các em và ươm
mầm nên những tài năng KHCN, sáng chế
máy móc hữu ích cho đất nước.
Với máy phay 3D gia công kích thước
khổ A3, xuất ra thị trường với giá khoảng 20
– 25 triệu đồng/chiếc, thấp hơn giá thành của
máy CNC thông thường ngoài thị trường là
khoảng vài trăm triệu đồng. “Hiện nay, việc
thương mại hóa sản phẩm máy phay 3D đang
diễn ra rất tốt với nhiều phiên bản khác nhau
được đưa ra thị trường để phục vụ cho các
yêu cầu đa dạng của những doanh nghiệp”,
ông Dũng nói thêm.
Nguồn: Phan Minh, vtc.vn,
30/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Máy thái đa năng
Anh Hoan đang chạy thử máy thái đa năng tự chế của mình.
Từ những vật liệu đơn giản như động
cơ máy bơm nước bỏ đi, lưỡi dao... anh Phạm
Văn Hoan (xóm 4 Bắc Lâm, xã Diễn Lâm,
huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) đã chế tạo
thành công chiếc máy thái đa năng có thể
thay thế cả chục lao động.
Không phải là nơi thu mua phế liệu,
nhưng trước sân nhà anh Hoan luôn chất đầy
những tấm tôn, kim loại và cả hàng trăm
chiếc động cơ máy bơm nước nằm ngổn
ngang. Từ những phế liệu này, anh đã chế tạo
ra cả nghìn chiếc máy thái đa năng giúp ích
rất lớn trong hoạt động sản xuất của bà con.
Máy có cấu tạo khá đơn giản, gồm một
chiếc môtơ điện, 3 lưỡi dao hàn gắn lại theo
hình cánh quạt và vài tấm nhôm, sắt mỏng lắp
ráp lại với nhau. Máy nhỏ gọn, dễ di chuyển.
Công suất máy cao đạt đến 10 tấn sắn
tươi/ngày, trong khi đó nếu làm thủ công sẽ
chỉ đạt từ 700-800kg sắn tươi/ngày, gấp 10
lần lao động thủ công. Chiếc máy thái đa
năng này có thể băm, thái nhiều loại nguyên
liệu như sắn, chuối, các loại rau củ...
Anh Hoan chia sẻ cơ duyên để làm ra
chiếc máy này là do muốn đỡ đần vợ. Vốn
sinh ra tại vùng quê có nghề rèn truyền thống
nên sau khi học xong lớp 12 anh tiếp nối nghề
của ông cha. Sau một thời gian theo nghề, anh
nhận thấy đồ nhựa được ưa chuộng, các sản
phẩm rèn từ kim loại dần bị lãng quên duy chỉ
có dao là còn giữ được vị thế. Từ đó anh
Hoan quyết định chú tâm vào rèn dao.
Song công việc này cũng không khiến
cuộc sống của gia đình anh khấm khá lên
được. Để kiếm thêm thu nhập, anh cùng vợ
bỏ vốn ra chăn nuôi lợn. Nhưng nhìn cảnh vợ
cả ngày bận bịu quanh quẩn bên chuồng lợn
để băm, thái thức ăn khiến anh không khỏi
phiền lòng.
Nhận thấy nhà có sẵn vật dụng còn cả
nghề rèn trong tay, anh Hoan quyết tâm phải
làm ra máy thái giúp công việc chăn nuôi bớt
vất vả hơn. Sau nhiều ngày tự mày mò, tháo
ra lắp vào cuối cùng chiếc máy thái của anh
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 12/48
Hoan cũng thành công. Anh cho biết, khó
nhất là phải tính toán các thông số về khung
máy, hệ số an toàn khi đưa rau, củ, quả vào
lưỡi thái sao cho đều, nhỏ.
Với những tính năng ưu việt, sản phẩm
của anh Hoan được nhiều người biết đến. Để
đáp ứng nhu cầu của khách hàng, anh đã lập
xưởng sản xuất, mỗi tháng xưởng của anh
Hoan bán ra thị trường từ 70 - 80 chiếc máy
thái, vào dịp cao điểm lên tới 200 chiếc, giá
mỗi chiếc máy dao động từ 700 nghìn - 1,2
triệu đồng. Đến hiện tại, số lượng máy thái đa
năng của anh Hoan được bán ra lên đến 10
nghìn chiếc.
Nguồn: Ly Nga, vtc.vn, 04/10/2018
Trở về đầu trang
**************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Sáng chế siêu vật liệu hấp thụ sóng điện từ
Nhóm nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa
học Việt Nam vừa có công bố trên tạp chí
quốc tế Scientific Reports (thuộc nhà xuất
bản Springer Nature) về một loại siêu vật liệu
(Metamaterials) hấp thụ tối đa sóng điện từ
bằng cách tối ưu hóa cách sắp xếp tế bào cơ
sở trong cấu trúc của chúng.
TS Trần Mạnh Cường, giảng viên
khoa Vật lý, Đại học Sư phạm Hà Nội, thành
viên nhóm nghiên cứu cho biết, đây không
phải vật liệu thông thường giống như nguyên
tố nhôm, đồng, hay chì mà là dạng vật liệu
nhân tạo chế từ kim loại và điện môi, tạo
thành mô hình vật liệu điện từ trường hay vật
liệu điện tử.
Nó có tính chất khác biệt vì không
tuân theo định luật khúc xạ thông thường
hoặc các hiệu ứng điện từ khác mà có những
hiệu ứng nghịch đảo.
Tính chất đặc biệt của siêu vật liệu này
có thể ứng dụng để tạo ra các ăng ten tích hợp
siêu nhỏ, hỗ trợ truyền năng lượng không dây
hiệu suất cao, siêu thấu kính hoặc các bộ hấp
thụ hoàn toàn sóng điện từ ứng dụng trong
đời sống hoặc lĩnh vực quân sự.
Vật liệu này cũng có thể ứng dụng sản
xuất các cảm biến với độ nhạy siêu cao trong
y học, sinh học hoặc hỗ trợ cho các tấm pin
năng lượng mặt trời có hiệu suất tăng cao hơn
mức thông thường.
Do tính chất hấp thụ hầu hết năng
lượng sóng điện từ chiếu tới bề mặt của nó,
vật liệu có thể dùng vào sản xuất các thiết bị
ngụy trang trong quân sự. Khi cần ngụy trang,
người ta chỉ cần phủ lớp siêu vật liệu bên
ngoài sẽ khiến cho nó hấp thụ hoàn toàn sóng
radar. Như vậy việc dò tìm vị trí và phát tín
hiệu của radar đối với các thiết bị cần ngụy
trang sẽ không phát huy tác dụng do toàn bộ
sóng dò tìm được hấp thụ hoàn toàn và không
có phản xạ trở lại.
Lĩnh vực siêu vật liệu được các nước
trên thế giới tập trung nghiên cứu khoảng 15
năm trở lại đây. Các nhóm nghiên cứu đang
triển khai theo nhiều hướng và chủ yếu hướng
đến các ứng dụng thực tế.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 13/48
Hiện ở Việt Nam các nghiên cứu về
siêu vật liệu đã được nhiều nhà khoa học
quan tâm, tuy nhiên do điều kiện về công
nghệ nên còn khó khăn trong việc chế tạo và
đo đạc tại vùng tần số cao. Chính vì vậy công
bố của nhóm nghiên cứu có ý quan trọng khi
Việt Nam có thể chủ động trong các nghiên
cứu cơ bản và đáp ứng nhu cầu ứng dụng
thực tế của siêu vật liệu.
Nguồn: Vista.gov.vn, 11/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu sản xuất thành công keo tản nhiệt dùng cho các thiết bị điện tử
Keo tản nhiệt dùng cho các thiết bị
điện tử do Phòng thí nghiệm công nghệ Nano
của Trung tâm Nghiên cứu Triển khai (Khu
Công nghệ cao TPHCM) nghiên cứu và sản
xuất thành công. Đây là sản phẩm nằm trong
dự án khoa học và công nghệ thí điểm hỗ trợ
thương mại hóa các sản phẩm công nghệ cao
trong hoạt động nghiên cứu triển khai của
Khu Công nghệ cao TPHCM, giai đoạn 2017-
2018.
Sản phẩm trên đã được giới thiệu tại
Hội thảo “Dự án hoàn thiện công nghệ chế
tạo keo tản nhiệt từ nền vật liệu carbon
nanotube và graphene ứng dụng trong các
thiết bị điện tử”, ngày 25/9/2018 tại Khu
Công nghệ cao TPHCM.
Theo TS. Đỗ Hữu Quyết, Trưởng
nhóm nghiên cứu năng lượng thuộc Phòng thí
nghiệm công nghệ Nano, sau 3 năm phát
triển, đến nay các kỹ sư trong nhóm đã chính
thức cho ra 3 dòng sản phẩm keo tản nhiệt
gồm DSA, với hệ số dẫn nhiệt 1.62 W/m K;
DSA1 có hệ số dẫn nhiệt > 2 W/m K và
DSA2 có hệ số dẫn nhiệt > 3 W/m K. Sản
phẩm hiện đã đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ.
Sản phẩm keo tản nhiệt có chứa vật liệu than
ống nano/graphene được ứng dụng làm vật
liệu giao tiếp nhiệt (TIMs-Thermal Interface
Materials) cho các thiết bị điện tử như chip
máy tính, đèn LED... nhằm bảo đảm hiệu suất
làm việc và tuổi thọ cho các thiết bị.
Điểm nhấn quan trọng của nghiên cứu
là vật liệu graphene được nhóm nghiên cứu
chế tạo thành công bằng phương pháp hóa
học. Các tính chất của graphene đã được đưa
kiểm tra tại Viện Công nghệ Nano và Phòng
thí nghiệm trọng điểm vật liệu Polyme và
Compozit thuộc Đại học quốc gia TPHCM;
Phòng kiểm định đánh giá chất lượng thuộc
Trung tâm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp
TPHCM. Vật liệu này có độ ổn định cao, tăng
tuổi thọ thiết bị lên gấp 2 - 3 lần, giảm nhiệt
nhanh từ 13 - 15oC so với các loại keo tản
nhiệt thông thường, đặc biệt cho đèn led và
máy tính.
Ngoài ý nghĩa về triển khai ứng dụng
những nghiên cứu cơ bản, với độ ổn định cao,
tương đương với sản phẩm từ các nước phát
triển và nhất là giá thành sản xuất chỉ bằng
khoảng 25% giá bán sản phẩm cùng loại trên
thị trường, keo tản nhiệt do Trung tâm sản
xuất có nhiều cơ hội để cạnh tranh, chiếm
lĩnh thị trường Việt Nam với quy mô 200 tỷ
đồng/năm. Hiện đã có một số đơn vị trong
nước như Robot, Rạng đông, Điện quang…
tìm hiểu và có kế hoạch đặt hàng để sử dụng
cho các mặt hàng điện tử của mình, thay thế
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 14/48
sản phẩm nhập khẩu. Đây cũng là sản phẩm
keo tản nhiệt đầu tiên của Việt Nam được
nghiên cứu, chế tạo và thương mại hóa.
Công ty Cổ phần Chíp Sáng đã tiến
hành thương mại hóa và phân phối sản phẩm.
Ông Phạm Ngọc Tuấn - thành viên Hội đồng
quản trị Công ty Cổ phần Chíp Sáng cho biết,
không chỉ keo tản nhiệt, Công ty sẽ tiếp tục
hợp tác, khai thác và thương mại hóa những
sản phẩm từ kết quả nghiên cứu của
SHTPLABS..
Hiện các nhà khoa học đang tìm cách
nghiên cứu các giải pháp công nghệ nhằm làm
tăng hiệu suất tạo H2 lên 10%, độ bền hơn
1.000 giờ và khả năng tự sửa chữa của chúng.
Bên cạnh đó, các chuyên gia của Viện Hàn
lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam cũng đang
tìm cách tích trữ H2 dưới dạng lỏng hoặc chất
rắn với các “chất mang" phù hợp.
Nguồn: Vista.gov.vn, 28/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo chất hấp thu K-Ni- hexacyanoferrate (II) gắn trên zeolit để loại bỏ ion Cs từ chất thải phóng xạ lỏng
Cấu trúc không gian tế bào mạng
Một trong những phương pháp phổ
biến nhất để xử lý chất thải phóng xạ lỏng
trong các cơ sở hạt nhân trên thế giới là trao
đổi ion. Trong vòng một thập kỷ qua các vật
liệu trao đổi ion vô cơ đã được đặc biệt quan
tâm và phát triển để sử dụng và thay thế một
phần nhựa hữu cơ thông dụng, đặc biệt trong
quá trình xử lý nước thải phóng xạ và tái chế
nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Các chất
trao đổi ion vô cơ thường có ưu điểm là hiệu
quả hấp thu và độ chọn lọc ion cao hơn đối
với một số hạt nhân như Cs+ và Sr2+ so với
các chất trao đổi ion hữu cơ, ngoài ra chúng
còn thể hiện tính ưu việt trong quá trình cố
định hóa để chôn cất sau khi đã hấp thu bão
hòa các đồng vị phóng xạ.
Một số hợp chất trao đổi ion dạng vô
cơ mới đã và đang được nghiên cứu, tổng hợp
để xử lý nước thải phóng xạ trung bình và cao
trên thế giới. Trong số các hợp chất trao đổi
ion đó có potassium nickel hexacyanoferrate
(II) (KNiFC) đã được sửdụng đểloại bỏhiệu
quảvà chọn lọc 137Cs từ nước thải phóng xạ
hoạt độ cao nhiều năm nay. Tuy nhiên
KNiFC là những tinh thể rất mịn, có độ bền
cơ học kém, có khuynh hướng tạo thành dạng
keo trong dung dịch nước và không thích hợp
sử dụng trong thực tế nhất là dùng trong cột
trao đổi ion.
Hình dạng tinh thể zeolite X
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 15/48
Để khắc phục hạn chế này, một vật
liệu trao đổi ion dạng composite được chế tạo
mà thành phần gồm tinh thể hexacynoferrate
của một số kim loại được gắn lên một số vật
liệu khác có diện tích bề mặt lớn, độ xốp cao
đóng vai trò như một chất mang như: hạt
silica gel (SiO2) xốp, bentonit, zeolite.
Trong nghiên cứu này, Chủ nhiệm đề
tài ThS. Phạm Thị Quỳnh Lương đã giới thiệu
kết quả thu được trong phòng thí ghiệm từ
việc đánh giá khả năng trao đổi ion Cs của
một số zeolite tổng hợp của Trường Đại học
Bách khoa đến nghiên cứu chế tạo chất trao
đổi ion dạng composite potasium nikel
hexacynoferrate gắn lên zeolite (được viết tắt
là FC-zeolite) và khả năng trao đổi ion Cs+
và 134 Cs trong môi trường nước biển và
trong các dung dịch có độ pH khác nhau.
Cuối cùng là nghiên cứu phương pháp cố
định hóa chất trao đổi ion FC-zeolite sau khi
đã hấp thu bão hòa Cs và trở thành chất thải
thứ cấp hoạt độ cao để làm giảm tối đa khả
năng khuếch tán của các đồng vị phóng xạ mà
đặc biệt là 137Cs ra môi trường, góp phần
đảm bảo an toàn phóng xạ cho con người,
môi trường khi quản lý và lưu gữi lâu dài
chúng.
Sau thời gian nghiên cứu, đã thu được
những kết quả như sau:
Đề tài đã xác định được dung lượng
hấp thu cực đại ion Cs của zeolite A và X của
trường Đại học Bách khoa Hà Nội sản xuất từ
cao lanh Phú Thọ là 107,5 và 80,0mg/g tương
ứng trong môi trường nước cất, trong môi
trường nước biển đạt 46,1 và 35,1mg/g.
So sánh được hiệu quả hấp thu ion Cs
của một số zeolite khác nhau: Zeolite của
Bách Khoa cao hơn đáng kể so với zeolite 4
A Trung Quốc và zeolite tự nhiên Nga và đạt
99,0; 85,7 và 39,3% tương ứng (trong dung
dịch nồng độ Cs+ 100mg/l).
Xác định hệ số và hiệu quả tẩy xạ 134
Cs của zeolite A và X (dạng bột và hạt) trong
dung dịch nước cất và nước biển. Hệ số và
hiệu quả tẩy xạ 134 Cs của zeolite A dạng bột
là cao nhất, đạt 83 và 98%.
Đề xuất quy trình chế tạo vật liệu K-
Ni- hexacyanoferrate (II) - zeolite X bằng
cách gắn tinh thể K2-
xNix/2[NiFe(CN)6]nH2O lên trên chất mang
zeolite X. Zeolite X là chất mang tốt hơn
đáng kể so với zeolite A do diện tích bề mặt
và kích thước mao quản lớn.
Vật liệu KNiFC-zeolite X hấp thu ion
Cs đạt cân bằng sau 3h và 5h trong môi
trường nước cất và nước biển tương ứng,
nhanh hơn đáng kể so với zeolite X (5h và 8h
tương ứng trong nước cất và nước biển).
Dung lượng hấp thu ion Cs+ cực đại
Qmax của FC-zeolite X là 158,7 và
98,04mg/g tương ứng trong môi trường nước
cất và nước biển, pH môi trường không ảnh
hưởng lớn đến dung lượng hấp thu ion Cs của
FC-zeolite X.
Xác định hệ số tẩy xạ 134 Cs của
KNiFC-zeoliteX đạt 149,7 và 107,5 tương
ứng trong nước cất và nước biển, hiệu quả tẩy
xạ đạt 99,33% và 99% tương ứng.
Đề xuất được quy trình cố định hóa
KNiFC-zeoliteX sau khi đã hấp thu bão hòa
ion Cs quy mô phòng thí nghiệm theo các
điều kiện sau: tạo viên với lực ép 200-
300kg/cm2, chất phụ gia Na2B4O 5%; nhiệt
độ nung 900oC, thời gian nung 2h, tốc độ tăng
nhiệt 6-7oC/phút.
Khối rắn sau khi đã được cố định hóa
theo quy trình đề xuất đạt được một số chỉ
tiêu sau: Độ cố định Cs >95%; độ co ngót
>50%; độ bền nén 12,1 MPa; tốc độ rò rỉ ion
Cs ở chu kỳ 28 ngày đạt <1,0E-10
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 16/48
g/cm2.ngày. Các thông số này hoàn toàn đáp
ứng được các chỉ tiêu mà đề tài đặt ra.
Nguồn: Vista.gov.vn, 21/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo tính chất của các oxit phức hợp chứa bitmut xử lý một số hợp chất hữu cơ độc hại
Nhằm tìm ra các qui trình mới chưa
công bố và khảo sát một cách hệ thống các
yếu tổ ảnh hưởng nhằm thu được điều kiện
tổng hợp tối ưu để chế tạo BiFeO3, BiVO4,
BiNbO4 và BiTaO4 với các phẩm chất
quang xúc tác như mong muốn và đưa ra
được các giải pháp mới để tăng hoạt tính
xúc tác và thu hẹp độ rộng vùng cấm của
vật liệu cũng như nghiên cứu khả năng
quang xúc tác trong vùng ánh sáng nhìn
thấy để xử lý một số chất hữu cơ độc hại:
metylen xanh, metyl đỏ, metyl da cam.
Nhóm nghiên cứu do TS. Đào Ngọc
Nhiệm, Viện Khoa học vật liệu, Viện Hàn
lâm KH&CN Việt Nam đã tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Chế tạo và nghiên cứu tính chất
của các oxit phức hợp chứa bitmut có hoạt
tính quang xúc tác trong vùng ánh sáng nhìn
thấy để xử lý một số hợp chất hữu cơ độc
hại”.
Sau 31 tháng triển khai (03/2014 ->
10/2016), nhóm nghiên cứu đã thu được các
kết quả như sau:
1. Đối với nội dung 1: Tổng hợp vật
liệu BiFeO3, BiVO4, BiNbO4, BiTaO4 và xác
định đặc trưng tính chất của vật liệu chế tạo
được bằng phương pháp đốt cháy gel PVA.
- Đã nghiên cứu và lựa chọn phương
pháp đốt cháy gel làm phương pháp tổng hợp
các vật liệu BiFeO3, BiVO4, BiNbO4, BiTaO4
. Tìm được các điều kiện tối ưu để tổng hợp
vật liệu nano bằng phương pháp đốt cháy gel
PVA.
- Quy trình tổng hợp vật liệu: Hòa tan
một lượng thích hợp PVA vào nước, thêm từ
từ dung dịch kim loại cần chế tạo vào với tỷ
lệ mol thích hợp, gia nhiệt ở nhiệt độ 80 độ C
trong thời gian 2 giờ để tạo gel trong suốt, sấy
gel ở nhiệt độ 105 độ C, nung ở nhiệt độ thích
hợp với từng hệ vật liệu để thu được vật liệu
oxit có kích thước nanomet.
- Đã tổng hợp được vật liệu BiFeO3
cấu trúc perovskit, đơn pha có kích thước <
50 nm với diện tích bề mặt riêng 50 m2/g
bằng phương pháp đốt cháy gel PVA ở điều
kiện tối ưu: Tỷ lệ mol Bi/Fe/PVA = 1/1/3,, tỷ
lệ mol Bi/Fe = 1/1, ở pH = 2, gel sau khi được
tạo thành nung ở nhiệt độ 120 độ C trong 4
giờ, sau đó tiếp tục nung ở nhiệt độ 500 độ C
trong 2 giờ.
- Vật liệu BiVO4 đơn pha có kích
thước < 50 nm với diện tích bề mặt riêng
37,50 m2/g được tổng hợp bằng phương pháp
đôt cháy gel PVA với các điều kiện tối ưu
sau: pH tạo gel bằng 1; nhiệt độ tạo gel là 80
độ C; tỷ lệ mol Bi/V bằng 1/1; nhiệt độ nung
là 650 độ C trong 2 giờ.
- Vật liệu BiNbO4 đơn pha có kích
thước < 70 nm với diện tích bề mặt riêng
24,70 m2/g tổng hợp trong các điều kiện tối
ưu: Tỷ lệ mol Bi /Nb/PVA = 1/1/6, tỷ lệ mol
Bi/Nb = 1/1, ở pH=1, gel sau khi được sấy ở
105 độ C trong 4 giờ và đem nung ở 850 độ C
trong 2 giờ.
- Vật liệu BiTaO4 đơn pha có kích
thước < 70 nm với diện tích bề mặt riêng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 17/48
23,85 m2/g được tổng hợp bằng phương pháp
đốt cháy gel với điều kiện tối ưu: Tỷ lệ mol
Bi /Nb/PVA = 1/1/6, tỷ lệ mol Bi/Ta = 1/1, ở
pH=1, gel sau khi được sấy ở 105 độ C trong
4 giờ và đem nung ở 850 độ C trong 2 giờ.
2. Đối với nội dung 2: Tổng hợp vật
liệu BiFeO3, BiVO4, BiNbO4, BiTaO4 và xác
định đặc trưng tính chất của vật liệu chế tạo
được bằng phương pháp thủy nhiệt.
Đã nghiên cứu và lựa chọn phương
pháp thủy nhiệt làm phương pháp tổng hợp
các vật liệu BiFeO3, BiVO4, BiNbO4, BiTaO4
. Đã tìm được các điều kiện tối ưu để tổng
hợp vật liệu nano bằng phương pháp thủy
nhiệt.
- Quy trình tổng hợp vật liệu bằng
phương pháp thủy nhiệt, hỗn hợp giữa muối
nitrat của các kim loại và dung dịch
CH3COOH được khuấy đều với KOH theo tỉ
lệ xác định. Hỗn hợp này với thể tích được
giữ cố định là 20 ml, được chuyển vào ống
Teflon dung tích 40 ml rồi đặt trong bình thủy
nhiệt và gia nhiệt trong 12 giờ tại các nhiệt độ
khác nhau trong khoảng từ 160 độ C đến 180
độ C. Sản phẩm thu được sau phản ứng được
lọc, rửa bằng nước cất hai lần và sấy khô ở 50
độ C trong 24 giờ. Chúng tôi nghiên cứu một
số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp
mẫu như: nồng độ axit axetic, thời gian và
nhiệt độ phản ứng.
- Đã nghiên cứu một số yếu tố (tỉ lệ
mol CH3COOH/kim loại, thời gian phản ứng,
nhiệt độ phản ứng, tỷ lệ kim loại Bi/Fe, nguồn
nguyên liệu muối kim loại đầu vào) ảnh
hưởng tới quá trình tổng hợp BiFeO3 bằng
phương pháp thủy nhiệt. Để thu được đơn pha
BiFeO3 cần tổng hợp ở điều kiện: Thời gian
phản ứng 12 giờ, nhiệt độ thủy nhiệt 180 độ
C, tỉ lệ mol CH3COOH/kim loại = 52,5/1, tỷ
lệ kim loại Bi/Fe = 1/1 với nguồn muối kim
loại ban đầu là nitrat. - Đã nghiên cứu một số
yếu tố (tỉ lệ mol CH3COOH/kim loại có bổ
sung 2ml HNO3 4M, thời gian phản ứng,
nhiệt độ phản ứng, tỷ lệ kim loại Bi/V, nguồn
muối kim lại ban đầu) ảnh hưởng tới quá trình
tổng hợp BiVO4 bằng phương pháp thủy
nhiệt. Để thu được đơn pha BiVO4 có độ kết
tinh tốt với kích thước hạt < 100 nm, cần tổng
hợp ở điều kiện: Thời gian phản ứng 24 giờ,
nhiệt độ thủy nhiệt 160 độ C, tỉ lệ mol
CH3COOH/kim loại = 60/1 có bổ xung 2ml
HNO3 4M, tỷ lệ kim loại Bi/V = 1/1 với
nguồn muối kim loại ban đầu là nitrat.
- Đã nghiên cứu một số yếu tố (tỉ lệ
mol CH3COOH/kim loại có bổ xung 2ml
HNO3 4M, thời gian phản ứng, nhiệt độ phản
ứng, tỷ lệ kim loại Bi/Nb, nguồn muối kim
loại ban đầu) ảnh hưởng tới quá trình tổng
hợp BiNbO4 bằng phương pháp thủy nhiệt.
Để thu được đơn pha BiNbO4 có độ kết tinh
tốt với kích thước hạt < 100 nm, cần tổng hợp
ở điều kiện: Thời gian phản ứng 24 giờ, nhiệt
độ thủy nhiệt 180 độ C, tỉ lệ mol
CH3COOH/kim loại = 60/1 có bổ xung 4ml
HNO3 4M, tỷ lệ kim loại Bi/Nb = 1/1với
nguồn muối kim loại ban đầu là Bi(NO3)3 và
(NH4)3NbO(C2O4)3.
- Đã nghiên cứu một số yếu tố (tỉ lệ
mol CH3COOH/kim loại có bổ xung 2ml
HNO3 4M, thời gian phản ứng, nhiệt độ phản
ứng, tỷ lệ kim loại Bi/Nb, nguồn muối kim
loại ban đầu) ảnh hưởng tới quá trình tổng
hợp BiNbO4 bằng phương pháp thủy nhiệt.
Để thu được đơn pha BiNbO4 có độ kết tinh
tốt với kích thước hạt < 100 nm, cần tổng hợp
ở điều kiện: Thời gian phản ứng 24 giờ, nhiệt
độ thủy nhiệt 180 độ C, tỉ lệ mol
CH3COOH/kim loại = 60/1 có bổ xung 4ml
HNO3 4M, tỷ lệ kim loại Bi/Nb = 1/1với
nguồn muối kim loại ban đầu là Bi(NO3)3 và
(NH4)3NbO(C2O4)3
3. Đối với nội dung: Xác định đặc
trưng tính chất và nghiên cứu hoạt tính xúc
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 18/48
tác của vật liệu BiFeO3, BiVO4, BiNbO4 và
BiTaO4 chế tạo chế tạo được.
+ Đã khảo sát hoạt tính quang xúc tác
của vật liệu BiFeO3 cấu trúc perovskit. Đã
khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng quang xúc tác phân hủy xanh metylen
và metyl da cam của vật liệu BFO cho thấy: tỉ
lệ mol kim loại Bi ban đầu khi đưa vào tổng
hợp vật liệu càng cao hiệu suất phân hủy
phẩm màu càng tăng, khi cho thêm một lượng
nhỏ H2O2 vào hệ phản ứng hiệu suất phân hủy
của vật liệu tăng một cách rõ rệt lên 99 % với
dung dịch MB 30 ppm và > 64 % với dung
dịch MO 10 ppm.
- Khả năng quang xúc tác phân hủy
xanh metylen (MB) và metyl da cam (MO)
của vật liệu BiFeO3 dưới ánh sáng trong vùng
khả kiến đạt hiệu suất phân hủy cao trên 90 %
trong thời gian ngắn 30 phút. Hiệu suất phân
hủy hai dung dịch MB, MO của vật liệu tăng
rõ rệt khi có mặt của H2O2 và phụ thuộc vào tỉ
lệ mol Bi/Fe của vật liệu. Khả năng tái sử
dụng của vật liệu cũng được khẳng định khi
trải qua 3 lần tái sử dụng, hiệu suất phân hủy
chỉ giảm khoảng < 8 %.
- Bước đầu cũng nghiên cứu khả năng
quang xúc tác của vật liệu BiFeO3 để phân
hủy phenol và diazinon dưới bức xạ khả kiến.
Kết quả nghiên cứu thu được khá khả quan
sau 150 phút hiệu suất phân hủy đối với
phenol là 92,42 % và 85,70 % đối với
diazinon.
+ Khả năng quang xúc tác của vật liệu
BiVO4 chế tạo bằng phương pháp đốt cháy
gel PVA nung ở 650 độ C trong 2 giờ là đối
với dung dịch xanh metylen, metyl da cam
dưới bức xạ khả kiến cho kết quả tốt với hiệu
suất phân hủy MB, MO đạt 99% sau 2 giờ
chiếu sáng. Khả năng tái sử dụng của vật liệu
sau 3 lần có hiệu suất phân hủy > 97%.
+ Khả năng quang xúc tác của vật liệu
BiNbO4 chế tạo bằng phương pháp đốt cháy
gel PVA nung ở 850 độ C trong 2 giờ là đối
với dung dịch xanh metylen, metyl da cam
dưới bức xạ khả kiến cho kết quả tốt với hiệu
suất phân hủy MB, MO đạt 99% sau 2 giờ
chiếu sáng. Khả năng tái sử dụng của vật liệu
sau 3 lần có hiệu suất phân hủy > 97%.
+ Khả năng quang xúc tác của vật liệu
BiTaO4 chế tạo bằng phương pháp đốt cháy
gel PVA nung ở 850 độ C trong 2 giờ là đối
với dung dịch Mb, MB dưới bức xạ khả kiến
cho kết quả tốt với hiệu suất phân hủy MB,
MO đạt 99% sau 2 giờ chiếu sáng.
+ Đã nghiên cứu khảo sát phân hủy
metyl đỏ trong vùng ánh sáng khả kiến đối
với các hệ vật liệu BiFeO3, BiVO4, BiNbO4
và BiTaO4 chế tạo được kết quả cho thấy
trong điều kiện thí nghiệm ở 180 phút hiệu
suất phân hủy khá thấp (< 2,5%).
Công trình nghiên cứu đã được đăng
trên Tạp chí Advances in Natural Sciences:
Nanoscience and Nanotechnol và tạp chí Hóa
học.
Với các kết quả nghiên cứu đã đạt
được, hướng nghiên cứu này là rất khả quan,
đặc biệt vật liệu trên cơ sở BiFeO3,
BiVO4,BiNbO4, BiTaO4 có khả năng phân
hủy tốt các chất hữu cơ độc hại.
Sau khi đề tài được nghiệm thu, nhóm
nghiên cứu mong muốn tiếp tục được nghiên
cứu một cách có hệ thống, chi tiết hơn để
hoàn thiện và phát triển loại vật liệu này
nhằm đưa vào ứng dụng xử lý các chất hữu
cơ có độc tính cao khó phân hủy bằng các vật
liệu truyền thống.
Nguồn: most.gov.vn, 29/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 07/2018 19/48
Công nghệ tuyển quặng barit và tận thu chì trong quặng barit khu vực Bao Tre tỉnh Thanh Hóa
Việt Nam có nguồn tài nguyên barit
tương đối lớn, quặng chứa ba kiểu khoáng
chính: Barit - thạch anh, barit - đất hiếm và
barit sunfua đa kim. Vùng mỏ barit Bao Tre
có diện tích khoảng 46 ha, thuộc xã Bãi
Trành, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Kết
quả báo cáo thăm dò đã khoanh định được 3
thân quặng có trữ lượng cấp 121 122 và tài
nguyên cấp 211 là 374,1 ngàn tấn quặng barit,
trong đó trữ lượng chì kim loại đi kèm là
6.040 tấn. Hiện nay, các mỏ quặng barit có
chứa chì đi kèm, đặc biệt đối với các mỏ có
hàm lượng Pb < 1%, công tác nghiên cứu
tuyển mới chỉ dừng lại trong việc thu hồi sản
phẩm quặng tinh barit đạt chất lượng mà chưa
chú trọng thu hồi quặng tinh chì, gây thất
thoát nguồn tài nguyên khoáng sản, ảnh
hưởng môi trường, giảm hiệu quả kinh tế của
đơn vị sản xuất.
Công nghệ tuyển được áp dụng đối với
khu vực mỏ barit Bao Tre là công nghệ tuyển
nổi barit gồm 1 khâu tuyển chính, 1 khâu
tuyển vét và 1 khâu tuyển tinh từ quặng
nguyên khai có hàm lượng BaSO4 trung bình
là 53,71%, hàm lượng Pb là 0,88%. Yêu cầu
sản phẩm thu được sau quá trình tuyển tại nhà
máy là sản phẩm quặng tinh barit 1 có hàm
lượng 95% BaSO4, tỷ trọng 4,2 g/cm3 phục
vụ cho ngành khoan khai thác dầu khí và xuất
khẩu; quặng tinh barit 2 có hàm lượng 85%
BaSO4 phục vụ nhu cầu làm vật liệu xây dựng
sản xuất xi măng nặng và bê tông chống
phóng xạ... Các sản phẩm quặng tinh barit thu
được từ sơ đồ công nghệ tuyển đạt chất lượng
yêu cầu cung cấp thị trường trong nước, tuy
nhiên chưa đáp ứng yêu cầu làm sản phẩm
xuất khẩu do hàm lượng các tạp chất trong
quặng tinh khá cao, đặc biệt là hàm lượng
SiO2. Mặt khác, hiện nay nhà máy chưa có
công nghệ tuyển thu hồi các khoáng vật có
ích đi kèm trong quặng barit như chì, kẽm,
bạc. Các khoáng vật này, đặc biệt là chì đi
theo quặng tinh barit làm ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm hoặc theo quặng thải gây thất
thoát và lãng phí nguồn tài nguyên.
Với tình hình như trên, Tổng Công ty
Đầu tư Xây dựng và Thương mại Anh Phát đã
có công văn số 151/CV-APT đề nghị Viện
khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim phối
hợp thực hiện nghiên cứu công nghệ tuyển
quặng barit và tận thu chì trong quặng barit,
từ đó là cơ sở để áp dụng công nghệ trực tiếp
vào thực tiễn sản xuất cho đơn vị này.
Để triển khai nghiên cứu quy trình
công nghệ tuyển phù hợp, đồng thời tận thu
được tối đa quặng tinh chì đi kèm, năm 2016,
nhóm nghiên cứu tại Viện Khoa học và Công
nghệ Mỏ - Luyện kim do ThS. Phạm Đức
Phong làm chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài
“Nghiên cứu công nghệ tuyển quặng barit và
tận thu chì trong quặng barit khu vực Bao Tre
tỉnh Thanh Hóa”.
Đề tài đã thu được một số kết quả
nổi bật sau:
- Quặng barit khu vực Bao Tre tỉnh
Thanh Hóa là đối tượng quặng có thành phần
vật chất thuộc loại hình barit - thạch anh -
sunfua. Trong mẫu, barit và thạch anh chiếm
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 20/48
thành phần chủ đạo, ngoài ra còn có các
khoáng vật khác như galenit, sphalerit,
chalcopyrit, pyrit xâm nhiễm trong nền quặng
barit - thạch anh. Kết quả phân tích hóa đa
nguyên tố mẫu quặng nguyên khai, hàm
lượng BaSO4 là 53,25%, hàm lượng Pb là
0,81%, các thành phần có ích khác có hàm
lượng rất nhỏ.
- Kết quả nghiên cứu thành phần độ
hạt mẫu nghiên cứu đã được gia công xuống
độ hạt -2mm, thu hoạch các cấp hạt thô
(0,074mm) chiếm 85,25%, cấp hạt mịn (-
0,074mm) chiếm 14,75%. Hàm lượng BaSO4,
Pb có xu hướng tăng khi giảm dần độ hạt. Để
thu được quặng tinh barit và quặng tinh chì
đạt yêu cầu chất lượng cần gia công giảm độ
hạt để phá vỡ được các kết hạch xâm nhiễm
trong mẫu.
- Kết quả nghiên cứu tuyển mẫu công
nghệ trên thiết bị bàn đãi không hiệu quả: Sản
phẩm quặng tinh chì đạt hàm lượng 23,01%
Pb, với thực thu là 24,37%, sản phẩm quặng
tinh barit đạt hàm lượng 93,67% BaSO4, với
thực thu 54,68%.
Sơ đồ công nghệ tuyển mẫu quặng
barit khu vực Bao Tre, Thanh Hóa bao gồm 2
khâu tuyển nổi chọn riêng thu hồi quặng tinh
chì và tuyển nổi chọn riêng thu hồi quặng tinh
barit. Kết quả nghiên cứu đối với từng khâu
tuyển như sau:
Đối với khâu tuyển nổi chọn riêng chì:
Sơ đồ công nghệ tuyển gồm 1 lần tuyển
chính, 2 lần tuyển vét, 2 lần tuyển tinh với
chế độ tuyển như sau: Độ mịn nghiền: 85%
cấp hạt -0,074 mm; Môi trường tuyển pH=8;
Chi phí thuốc đè chìm: Na2SiO3=200 g/t; Chi
phí thuốc tập hợp: Butyl xantat= 200 g/t; Chi
phí thuốc tạo bọt: Flotinor 7166=100 g/t;
Đối với khâu tuyển nổi chọn riêng
barit: Sơ đồ công nghệ tuyển gồm 1 lần tuyển
chính, 2 lần tuyển vét, 2 lần tuyển tinh với
chế độ thuốc tuyển như sau: Môi trường
tuyển pH=8; Chi phí thuốc đè chìm:
Na2SiO3=600 g/t; Chi phí thuốc kích động:
BaCl2=300 g/t; Chi phí thuốc tập hợp:
Flotinor S72=700 g/t; Chi phí thuốc tạo bọt:
Flotol B=20 g/t.
Tổng hợp kết quả thí nghiệm tuyển nổi
sơ đồ vòng kín đã thu được sản phẩm quặng
tinh chì đạt hàm lượng 51,56% Pb, thực thu
Pb đạt 75,09%; sản phẩm quặng tinh 1 barit
đạt hàm lượng 95,28% BaSO4, sản phẩm
quặng tinh 2 barit đạt hàm lượng 87,43%
BaSO4 ; tổng thực thu sản phẩm quặng tinh
barit đạt 95,89%. Các chỉ tiêu về hàm lượng
và thực thu đều vượt so với mục tiêu đặt ra và
có tính lặp lại. Điều đó khẳng định quy trình
công nghệ cũng như các chỉ tiêu công nghệ
đạt được có tính khả thi cao.
Kết quả nghiên cứu nâng cao hàm
lượng SiO2 trong quặng thải đã thu được sản
phẩm phụ có hàm lượng SiO2=98,11%, hàm
lượng các nguyên tố TiO2 =0,01%,
Fe2O3=0,32%, Al2O3=0,29%, đều trong giới
hạn cho phép đáp ứng tiêu chuẩn yêu cầu làm
sản phẩm khuôn đúc.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết
quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 13475) tại
Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc
gia.
Nguồn: most.gov.vn, 29/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 21/48
Nghiên cứu sự tiến hóa magma - kiến tạo đới cấu trúc Fansipan
Vết lộ F.3051. Chuỗi thấu kính amphibolit xen kẹp đá phiến kết tinh ở Suối Giấu
Đới Fansipan được cấu thành chủ yếu
từ các đá magma xâm nhập thành phần trung
tính - axit, thuộc loạt kiềm vôi, á kiềm và
kiềm, có tuổi rất khác nhau, từ Tiền Cambri,
Paleozoi muộn - Mesozoi sớm và Kainozoi
sớm. Toàn khu vực đã trải qua nhiều giai
đoạn hoạt động magma với lịch sử tiến hoá
phức tạp. Các đá magma điển hình và chiếm
khối lượng lớn trong đới cấu trúc là granitoid
của phức hệ Yê Yên Sun, phức hệ Mường
Hum và phức hệ Po Sen. Từ những năm 1960
trở lại đây đã có nhiều nhà địa chất trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu các thành
tạo magma trên đới Fansipan cũng như chế độ
địa động lực hình thành chúng. Tuy nhiên,
các đá magma trong đới Fansipan chưa được
nghiên cứu đồng đều, các đá magma tuổi
Mesozoi đến Kanozoi được đầu tư nghiên cứu
khá kỹ cả về nguồn gốc và tuổi thành tạo
bằng những phương pháp phân tích hiện đại
có độ chính xác cao.
Bởi vậy, Đề tài: “Nghiên cứu sự tiến
hóa magma - kiến tạo đới cấu trúc Fansipan”
là nhiệm vụ rất thiết thực và có tính thời sự.
Được Cơ quan chủ trì Viện Khoa học và Địa
chất Khoáng sản phối hợp cùng Chủ nhiệm
Th.S. Bùi Thế Anh để thực hiện. Kết quả
nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần khôi phục
lại lịch sử tiến hóa kiến tạo đới Fansipan và
có cái nhìn tổng thể hơn về kiến tạo rìa địa
khu liên hợp Việt - Trung. Các kết quả mới
về tuổi thành tạo của các thành tạo magma có
được từ đề tài là những số liệu tin cậy và quan
trọng trong công tác hiệu chỉnh, ghép nối bản
đồ và trong đo vẽ bản đồ địa chất ở tỷ lệ lớn.
Đề tài đã thu được những kết quả
như sau:
1) Xác định thời gian thành tạo các đá
magma trên đới Fansipan:
+ Tuổi thành tạo của granitoit phức hệ
Ca Vịnh với hai giai đoạn là 2.933 và 2.860
triệu năm;
+ Tuổi thành tạo granitoit Xóm Giấu là
1.841-1.825 triệu năm;
+ Xác định được hai (02) kiểu gabro
Bảo Hà với các ngấn tuổi tương ứng 2.315 và
1.760 triệu năm; xác định tuổi granitoit Bản
Ngậm là 2.325 triệu năm. Từ đó phân chia
được hai kiểu gabro Bảo Hà tương ứng với
hai giai đoạn Paleoproterozoi sớm và
Paleoproterozoi muộn. Kiểu thứ nhất có thời
gian thành tạo gần gũi với granitoit phức hệ
Bản Ngậm, được kiến nghị ghép vào tổ hợp
magma tương phản Bảo Hà - Bản Ngậm; kiểu
thứ hai gần gũi với các đá gabro vùng Ngòi
Hút và granitoit Xóm Giấu thực thụ;
2) Làm rõ bản chất magma của các đối
tượng nghiên cứu trên đới cấu trúc Fansipan,
cụ thể: Phức hệ Ca Vịnh được hình thành do
sự tái nóng chảy vỏ lục địa cổ có trộn lẫn với
vật chất manti; granit Ca Vịnh đã ghi nhận sự
kiện nhiệt kiến tạo vào giai đoạn 1.85-2.0-2.4
tỉ năm gần với thời gian thành tạo granit Xóm
Giấu; granit Xóm Giấu có nguồn gốc vỏ và
có thể là sản phẩm nóng chảy từng phần của
granit Ca Vịnh; các đá gabro Bảo Hà được
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 22/48
hình thành do nóng chảy từng phần của manti
và có hỗn nhiễm vỏ không đáng kể.
3) Xác định được 6 pha hoạt động
magma chính trên đới cấu trúc đi cùng với
các pha hoạt động nhiệt - kiến tạo, từ đó xác
lập (khôi phục) lịch sử tiến hóa magma - kiến
tạo đới Fansipan. Các giai đoạn hoạt động
magma - kiến tạo gồm: (1) giai đoạn Arkei,
(2) giai đoạn Paleoproterozoi sớm, (3) giai
đoạn Paleoproterozoi muộn, (4) giai đoạn
Neoproterozoi, (5) giai đoạn Paleozoi muộn -
Mezozoi sớm, (6) giai đoạn Kainozoi;
4. Dự báo khả năng sinh kim của các
đá magma đới Fansipan, theo đó, các đá
magma có tuổi cổ (tiền Cambri) chưa có
những biểu hiện về tiềm năng sinh kim rệt;
các thành tạo magma granitoit phức hệ Yê
Yên Sun có tiềm năng sinh khoáng sản
molypden; các granitoit và các đá mạch đi
kèm giai đoạn Neoproterozoi, trong đó có cả
các đá granitoit phức hệ Po Sen, có khả năng
sinh khoáng đồng; các đá granit có tuổi Permi
- Trias phức hệ Mường Hum, có tiềm năng
sinh đất hiếm.
5) Kết quả nghiên cứu của đề tài đóng
góp thêm nhiều số liệu về tuổi đồng vị U-Pb
với độ tin cậy cao, qua đó góp phần quan
trọng vào việc định hướng cho các công tác
đo vẽ và thăm dò địa chất ở các tỷ lệ lớn cũng
như đo vẽ cấu trúc trong các bản đồ tỷ lệ nhỏ.
+ Đóng góp tài liệu, số liệu tin cậy, có
giá trị vào cơ sở dữ liệu về magma - kiến tạo
làm tài liệu tham khảo tin cậy cho các trường
đại học; các cơ quan nghiên cứu địa chất.
+ Góp phần làm sáng tỏ bình đồ cấu
trúc địa chất đới Fansipan, làm cơ sở đề đối
sánh với các đới cấu trúc lân cận.
Nguồn: Vista.gov.vn, 21/09/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Sử dụng năng lượng thác nước công suất nhỏ để sản xuất đá viên và bảo quản thực phẩm
Nhóm nghiên cứu bao gồm: Võ Chí
Chính, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng,
Vũ Huy Khuê, Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội và Mã Phước Hoàng cũng thuộc Trường
Đại học Bách khoa Đà Nẵng đã nghiên cứu
sử dụng năng lượng thác nước công suất nhỏ
để sản xuất đá viên và bảo quản thực phẩm ở
Đà Nẵng.
Theo nhóm nghiên cứu, nguồn năng
lượng nước được sử dụng trực tiếp để chạy
máy lạnh, không qua khâu sản xuất điện nên
giảm chi phí đầu tư và vận hành. Khác với hệ
thống sản xuất điện năng, lưu lượng nước
phải đảm bảo một giá trị nào đó, thì hệ thống
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 23/48
làm lạnh khi lưu lượng nhỏ vẫn có thể làm
việc được, nhưng thời gian làm lạnh tăng. Dự
án đã mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho
khu du lịch hằng năm và tăng tính chủ động
trong kinh doanh sản xuất. Từ các kết quả
triển khai lắp đặt và đánh giá hiệu quả kinh tế
cho thấy việc ứng dụng sức nước tại các khu
du lịch sinh thái là hiệu quả và cần thiết. Nó
không những mang lại các giá trị kinh tế to
lớn mà còn tăng tính chủ động trong kinh
doanh sản xuất cho doanh nghiệp. Kết quả
nghiên cứu góp phần bảo vệ môi trường, tạo
công ăn việc làm cho người dân địa phương,
có triển vọng được nhân rộng.
Địa hình dốc nên có rất nhiều thác
nước lớn, nhỏ là các nguồn năng lượng nước
có công suất từ nhỏ đến lớn. Riêng các nguồn
công suất nhỏ, việc khai thác sử dụng cục bộ
không ảnh hưởng đến môi trường môi sinh vì
công suất rất nhỏ. Tuy nhiên những giá trị mà
các nguồn này mang lại cho các cơ sở du lịch
là rất đáng kể, nó đủ cung cấp nguồn điện
chiếu sáng và các dịch vụ vui chơi cho các
khu du lịch.
Nhóm tác giả đã tiến hành tính toán
thiết kế, lắp đặt và vận hành thành công, hiệu
quả tốt tại cơ sở du lịch sinh thái Lái Thiêu
thuộc thôn Phú Túc, xã Hòa Phú, huyện Hòa
Vang, thành phố Đà Nẵng. Do đặc điểm
nguồn nước có sẵn nên năng lượng nước và
nguồn nước sử dụng làm đá không phải mua,
vì vậy không tính vào chi phí vận hành. Như
vậy, chi phí vận hành chủ yếu là chi phí nhân
công. Về hiệu quả kinh tế của dự án, kết quả
cho thấy số năm hoàn vốn là 3 năm 3 tháng.
Việc triển khai dự án không những mang lại
hiệu quả kinh tế mà còn tăng tính chủ động
trong kinh doanh sản xuất cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, nhờ tận dụng các nguồn năng lượng
tự nhiên có thể tiết kiệm đáng kể việc sử dụng
các nguồn năng lượng hóa thạch. Dự án cũng
mang lại công ăn việc làm cho một bộ phận
người lao động địa phương. Từ kết quả triển
khai và đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án,
nhóm nghiên cứu nhận định, dự án có thời
gian hoàn vốn rất nhanh..
Nguồn: Vista.gov.vn, 25/09/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Chọn lọc dòng xạ khuẩn có khả năng kiểm soát nấm gây bệnh trên cây cao su
Là nội dung chính trong đề tài nghiên
cứu của nhóm tác giả Hoàng Trọng Minh
Quân, Nguyễn Thị Bạch Huệ, Huỳnh Thị
Diễm Phúc (Trung tâm Phát triển Khoa học
và Công nghệ Trẻ) và cộng sự. Mục tiêu của
nghiên cứu là xác định được chủng xạ khuẩn
phù hợp để sản xuất chế phẩm có khả năng
diệt trừ hiệu quả nấm Corynespora cassiicola
gây bệnh cho cây cao su nhưng vẫn thân thiện
với môi trường và hệ sinh thái.
Cao su là một trong các loại cây công
nghiệp quan trọng nhất tại nước ta do các sản
phẩm từ nhựa cao su có tính ứng dụng cao và
không thể thay thế trong nhiều lĩnh vực. Tuy
nhiên, cây cao su thường bị rụng lá, giảm sản
lượng và chết hàng loạt do loài nấm nội ký
sinh C. Cassiicola tấn công lên tất cả cả giai
đoạn sống của cây. Đây là loài nấm có phổ
sinh trưởng rộng, tồn tại khắp nơi, vì vậy khả
năng gây bệnh của nấm luôn tiềm tàng và có
thể bùng pháp thành dịch nếu có điều kiện
phù hợp. Tuy hiện nay đã có một số thuốc
bảo vệ thực vật thương mại có khả năng diệt
nấm, nhưng hầu hết đều có phổ diệt rộng và
có tác động xấu đến môi trường và sức khỏe
con người.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 24/48
Từ đối tượng nghiên cứu là nấm C.
Cassiicola phân lập từ mẫu lá cao su có triệu
chứng nhiễm bệnh, các nhà nghiên cứu đã
tiến hành: phân lập, làm thuần xạ khuẩn từ
Vườn quốc gia Cát Tiên và khảo sát sơ bộ
hoạt tính kháng nấm C. Cassiicola; khảo sát
điều kiện thích hợp cho lên men đồng nuôi
cấy xạ khuẩn với nấm C. Cassiicola; thử hoạt
tính kháng nấm C. Cassiicola in vitro và ex
vivo của dịch chiết sau đồng nuôi cấy; phân
tích và dự đoán các hợp chất tiềm năng từ
dịch đồng nuôi cấy có hiệu quả kháng nấm C.
Cassiicola bằng phương pháp sắc ký lỏng cao
áp/hiệu năng cao.
Với 100 chủng xạ khuẩn thu được từ
quá trình phân lập, các nhà nghiên cứu đã xác
định được 7 chủng có thể sản sinh hợp chất
kháng nấm C. Cassiicola rõ ràng, trong đó,
chủng PT2 (Strep. misionensis) có hoạt tính
mạnh nhất và có khả năng ngăn chặn sự phát
triển của bệnh trong ít nhất 72 giờ. Nghiên
cứu cũng chọn được môi trường và điều kiện
nuôi cấy thích hợp để sinh hợp chất tự nhiên
là L4, 300C, 150 rpm trong 7 ngày. Ngoài ra,
việc đồng nuôi cấy xạ khuẩn với C.
Cassiicola trong môi trường ISP2 ở điều kiện
khảo sát hầu như không tạo thêm hợp chất
mới nào có khả năng kháng nấm.
Nguồn: Kim Tiến, Cesti.gov.vn,
25/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu quy trình nhân sinh khối tảo giàu astaxanthin ở quy mô bình 20 lít
Để đáp ứng nhu cầu của người chăn
nuôi trong việc cải thiện màu sắc cho động
vật thủy sản, nhóm tác giả Nguyễn Thi
Kim Liên, Trương Thị Thúy Hằng, Vũ Thị
Ngọc Nhung (Trung tâm Nghiên cứu và
Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao) đã
tiến hành xây dựng quy trình nhân nuôi
tảo H.pluvialis giàu hàm lượng astaxanthin
ở quy mô 20 lít, đồng thời đánh giá chất
lượng chế phẩm astaxanthin thu được.
Các loại thủy sản được nuôi nhân tạo
sau một thời gian thường có màu sắc nhạt dần
và kém rực rỡ. Do đó, người nuôi thường bổ
sung astaxanthin vào thức ăn nhằm cải thiện
màu sắc trên động vật thủy sản. Ngoài các
loại astaxanthin có nguồn gốc từ nấm, vi
khuẩn và tảo biển, astaxanthin tổng hợp hóa
học là loại được sử dụng phổ biến nhất nhưng
lại có các ảnh hưởng gây suy thoái môi
trường. Trong khi đó, loài vi tảo lục
H.pluvialis có khả năng tính lũy astaxanthin
lên đến 4% sinh khối khô và thân thiện với
môi trường. Vì vậy, việc chọn tảo H.luvialis
để chiết xuất astaxanthin làm nguyên liệu bổ
sung vào thức ăn cho thủy sản là hoàn toàn
khả thi.
Nghiên cứu được thực hiện trên chủng
tảo H.luvialis do Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản 2 cung cấp với 2 nội dung chính
gồm: xây dựng quy trình nuôi cấy tảo
H.luvialis giàu astaxanthin ở quy mô 20 lít và
nghiên cứu quy trình tách chiết astaxanthin từ
tảo H.luvialis.
Các nhà nghiên cứu đã xây dựng được
quy trình nuôi sinh khối tảo H.luvialis ở quy
mô 20 lít theo 2 pha: pha 1 dùng ánh sáng đèn
LED với cường độ chiếu 90 µmol/m2/s trong
12 giờ; pha 2 dùng ánh sáng đèn LED với
cường độ chiếu 120 µmol/m2/s trong 12 giờ.
Kết quả thu được mật độ trung bình tảo cao
nhất là 4,93x105, với hàm lượng sắc tố
astaxanthin đạt 3142,93 µg/l và hàm lượng
astaxanthin sau khi trích ly đạt từ 5144-
7535,8 µg/l, chiếm từ 2,34-6,61%/sinh khối
khô.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 25/48
Nguồn: Kim Tiến, Cesti.gov.vn,
28/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế phẩm nấm Peacilomyces lilacinus - Hiệu quả trong phòng trừ tuyến trùng sần rễ hồ tiêu
Nhóm nghiên cứu gồm Nguyễn Thị
Hai, Chu Thị Bích Phượng, Đinh Thành
Hiếu (Trường ĐH Công nghệ TP.HCM)
thực hiện đánh giá hiệu quả gây chết tuyến
trùng (Meloidogyne sp.) hại cây hồ tiêu của
chế phẩm nấm Peacilomyces lilacinus sản
xuất từ chủng Peacilomyces lilacinus HT1.
Tuyến trùng sần rễ (Meloidogyne sp.)
là sinh vật gây hại trực tiếp đến sinh trưởng
phát triển của cây hồ tiêu, ngoài ra chúng còn
tạo điều kiện cho các loài nấm bệnh khác gây
nhiều bệnh hại nguy hiểm cho cây hồ tiêu.
Các phương pháp phòng trừ chủ yếu dựa vào
hóa học nhưng hiệu quả không cao, đồng thời
việc lạm dụng hóa học làm giảm chất lượng
hồ tiêu. Chủng nấm P. lilacinus HT1 được
phân lập từ đất vùng rễ của cây Jatropha bị
tuyến trùng Meloidogyne sp. gây hại và được
đánh giá có khả năng ký sinh cao trên tuyến
trùng Meloidogyne sp.
Trong nghiên cứu này (đăng trên tạp
chí Bảo vệ thực vật, số 3/2018), nhóm tác giả
khảo sát hiệu quả gây chết tuyến trùng cái của
chế phẩm nấm P. lilacinus trong phòng thí
nghiệm và đánh giá khả năng phòng trừ tuyến
trùng của chế phẩm trên đồng ruộng.
Kết quả cho thấy, trong điều kiện
phòng thí nghiệm (nuôi cấy nấm trên các đĩa
PDA, sau 5 ngày tiến hành cấy tuyến trùng
cáiMeloidogyne sp. với số lượng 8 tuyến
trùng cái/đĩa, sau đó mỗi ngày thu lấy tuyến
trùng cái có triệu chứng bị nấm ký sinh và
quan sát sự lây nhiễm nấm P. lilacinus trên
tuyến trùng cái), chế phẩm nấm P.
lilacinus ký sinh 93,75 số tuyến trùng cái sau
5 ngày nhiễm nấm và 95,33% túi trứng của
tuyến trùng Meloidogyne sp. sau 6 ngày
nhiễm nấm. Ở điều kiện đồng ruộng, chế
phẩm nấm P. lilacinus 1 x 108 bào tử/g (liều
lượng 20kg/ha) cho hiệu lực đối với tuyến
trùng trong đất trồng hồ tiêu là 73,67%, tương
đương với hiệu lực của thuốc carbosulfan sau
2 tuần xử lý. Chỉ số bệnh vàng lá ở hồ tiêu
được xử lý bằng chế phẩm nấm P.
lilacinus sau 2 tuần cũng giảm hơn hẳn so với
hồ tiêu không xử lý bằng chế phẩm nấm và có
chiều hướng giảm hơn so với xử lý bằng
thuốc hóa học. Do vậy, nấm P.
lilacinus ngoài việc ký sinh lên tuyến trùng và
túi trứng, còn có khả năng kích thích sự phát
triển của cây, qua đó làm giảm khả năng
nhiễm bệnh cho cây.
Nguồn: Lam Vân, Cesti.gov.vn,
20/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 26/48
Y - DƯỢC
Giường đệm thông minh cho người già và người bệnh
Nhóm sinh viên chế tạo sản phẩm giường đệm thông minh của Trường Đại học Bách khoa
Đà Nẵng
Nhóm sinh viên trường Đại học Bách
khoa Đà Nẵng đã nghiên cứu và chế tạo thành
công sản phẩm “giường đệm thông minh”
dành cho người già và người bị bệnh về
xương khớp.
Theo anh Võ Văn Quốc, trưởng nhóm
nghiên cứu chế tạo sản phẩm, sản phẩm được
kết cấu với bộ khung chính bằng sắt và lớp vỏ
ngoài làm bằng gỗ, sau đó mặt trên được bọc
một lớp đệm mềm (có khả năng hút ẩm).
Đệm được điều khiển hoàn toàn bằng hệ
thống cơ cấu cơ khí và mạch điện tử được lắp
đặt nằm phía dưới đệm. Để thao tác với nệm
người dùng sử dụng hệ thống nút bấm được
gắn liền trên đệm. Chức năng chính của chiếc
giường thông minh này chính là việc giúp tự
động nâng hạ phần thân trên, giúp người sử
dụng đệm dễ dàng thay đổi tư thế chuyển từ
nằm sang ngồi và ngược lại.
Điều đặc biệt, đệm có thể xoay 180 độ
giúp người bệnh thay đổi hướng nhìn để dễ
dàng di chuyển lên xuống đệm hay tiện cho
việc chăm sóc của người nhà. Ngoài ra, đệm
có khả năng theo dõi tình trạng của người
bệnh và báo cho người nhà biết về tình trạng
của người sử dụng đệm.
Đây là nghiên cứu xuất phát từ thực tế
việc sinh hoạt, thay đổi tư thế khó khăn của
người già và người bị bệnh xương khớp. Các
tác giả muốn tạo ra một sản phẩm mà có thể hỗ
trợ họ dễ dàng thay đổi tư thế, tạo ra sự thoải
mái trong sinh hoạt hằng ngày. Ngoài ra đệm
còn là một công cụ hỗ trợ cho người nhà những
bệnh nhân về xương khớp có thể thuận tiện
trong việc theo dõi và chăm sóc bệnh nhân.
Các tác giả hy vọng sản phẩm này có
thể được phát triển hơn nữa để được sử dụng
một cách rộng rãi. Về vấn đề thương mại hóa
sản phẩm, các tác giả vẫn chưa thực sự nghĩ
tới việc đưa sản phẩm này ra thị trường với
mục đích thương mại. Trước mắt, các thành
viên trong nhóm phải dành thời gian cho việc
học tập. Có thể trong tương lai gần thì việc
thương mại hóa sản phẩm này sẽ thành hiên
thực.
Nguồn: Vista.gov.vn, 21/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 27/48
Vaccine ‘made in Vietnam’ phòng cúm mùa, cúm đại dịch
Sản xuất vaccine tại Việt Nam.
Kết quả thử nghiệm cho thấy, vaccine
phòng cúm mùa và vaccine phòng cúm đại
dịch sản xuất tại Việt Nam đều an toàn và có
khả năng tạo đáp ứng miễn dịch ở người
trưởng thành khỏe mạnh.
TS. Lê Văn Bé, Viện trưởng Viện
Vaccine và Sinh phẩm y tế (IVAC) cho biết,
Viện đã thực hiện thành công các giai đoạn
thử nghiệm lâm sàng cho 2 loại vaccine cúm
do Viện sản xuất và đang trong quá trình nộp
hồ sơ xin đăng ký lưu hành các vaccine này.
Dự kiến, 2 vaccine sẽ được cấp phép lưu hành
vào năm 2019.
Đây là kết quả của 9 năm hợp tác quốc
tế của Bộ Y tế cũng như IVAC nhằm nâng
cao năng lực sản xuất vaccine và khả năng
sẵn sàng ứng phó đại dịch của Việt Nam.
Đó là vaccine cúm mùa bất hoạt tam
giá phòng 3 chủng cúm gồm A/H1N1,
A/H3N2, B và vaccine cúm tiền đại dịch bất
hoạt A/H5N1 - một loại chủng cúm gia cầm
đã rải rác lây truyền sang người trong những
năm qua. Cả 2 vaccine này đều an toàn và có
khả năng tạo đáp ứng miễn dịch ở người
trưởng thành khỏe mạnh.
Theo IVAC, cúm mùa là nguyên nhân
gây ra tới 650.000 ca tử vong và khoảng 3-5
triệu trường hợp mắc bệnh nghiêm trọng trên
toàn thế giới hằng năm. Riêng Việt Nam mỗi
năm có hơn 1 triệu ca bị hội chứng cúm.
Thực tế cho thấy, các chủng cúm có
sức hủy diệt mạnh mẽ, xuất hiện và gây ra các
đợt bùng phát lan rộng ở nhiều nơi trên thế
giới. Đại dịch cúm lớn xảy ra gần đây có tác
động đến Việt Nam là đại dịch cúm A/H1N1
năm 2009, kéo dài trong vòng 12 tháng, đã
gây ra hơn 284.000 ca tử vong trên toàn thế
giới, trong đó có 78.000 người ở khu vực
Đông Nam Á.
Việt Nam từ trước tới nay đã thiếu
nguồn cung cấp vaccine cúm bền vững và
buộc phải dựa vào các nhà sản xuất nước
ngoài. Cách tốt nhất để đảm bảo sự tiếp cận
của Việt Nam với vaccine chính là tự mình
sản xuất với mức giá hợp lý, từ đó giúp duy
trì năng lực sản xuất liên tục. Việc duy trì
năng lực sản xuất liên tục sẽ lại làm tăng khả
năng chuẩn bị ứng phó đại dịch do việc dễ
dàng chuyển đổi từ sản xuất vaccine cúm mùa
sang sản xuất vaccine cúm đại dịch nếu cần.
Từ năm 2010, Ủy ban Công tác về các
tổ chức phi chính phủ nước ngoài (PATH) đã
hợp tác với Bộ Y tế xây dựng kế hoạch dài
hạn liên quan đến sản xuất và sử dụng
vaccine cúm, hướng dẫn thử nghiệm lâm sàng
và hướng dẫn đăng ký vaccine cúm.
PATH cũng phối hợp với Cơ quan
Nghiên cứu phát triển tiên tiến về y sinh học
(BARDA) và WHO hỗ trợ IVAC phát triển
sản xuất vaccine cúm mùa và cúm tiền đại
dịch sử dụng công nghệ trứng gà có phôi. Bên
cạnh đó, PATH cũng hỗ trợ Công ty TNHH
MTV Vaccine và Sinh phẩm số 1
(VABIOTECH) phát triển vaccine cúm tiền
đại dịch A/H5N1 bất hoạt sử dụng công nghệ
nuôi cấy trên tế bào.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 28/48
Giữa năm 2017 và 2018, thử nghiệm
lâm sàng giai đoạn 2/3 vaccine cúm mùa của
IVAC để phòng 3 chủng cúm, và vaccine
cúm A/H5N1 đã được hoàn thành. Đây là
đánh giá cuối cùng trước khi các vaccine có
thể được cấp phép để lưu hành.
Thành công trong việc việc sản xuất
vaccine cúm bền vững đã giúp Việt Nam trở
thành nhà tiên phong trong số các nước có thu
nhập thấp và trung bình về phát triển và sản
xuất vaccine. Những nỗ lực của IVAC trong
việc tự sản xuất vaccine cúm trong nước
không chỉ mang lại lợi ích cho người dân Việt
Nam, mà còn giúp tăng nguồn cung ứng
vaccine cúm trong khu vực và trên thế giới.
Cuối tháng 8 vừa qua, tại hội thảo về
dự án sản xuất vaccine cúm mùa ở quy mô
công nghiệp tại Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Y
tế Nguyễn Thanh Long thông báo, vaccine
cúm mùa do Việt Nam sản xuất đã có đơn
hàng đầu tiên của WHO.
Việt Nam là 1 trong 14 quốc gia được
WHO đặt hàng cơ sở sản xuất vaccine cúm
mùa phục vụ phòng chống đại dịch trên thế
giới. WHO cũng đánh giá rất cao vaccine
cúm mùa của Việt Nam.
Giá thành vaccine cúm mùa 3 trong 1
do Việt Nam sản xuất chỉ bằng 1/3 giá thành
vaccine cúm mùa nhập khẩu, với chi phí
80.000-120.000 đồng/liều.
Nguồn: Vista.gov.vn, 25/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Hiệu quả của một số biện pháp phòng chống loãng xương ở người trên 45 tuổi tại TP.HCM
Nhóm tác giả Nguyễn Trung Hòa,
Nguyễn Văn Tập, Nguyễn Thị Thắm
(Trung tâm Y tế Dự phòng quận Gò Vấp)
và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu đánh
giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp
cộng đồng phòng chống loãng xương ở
người từ 45 tuổi trở lên trong năm 2013–
2015 tại TP.HCM. Mục đích của nghiên
cứu là nâng cao hiểu biết của người dân về
bệnh, cũng như tìm ra biện pháp làm giảm
tỷ lệ mắc mới và tầm soát bệnh loãng
xương hiệu quả.
Loãng xương là một loại bệnh thầm
lặng ở người cao tuổi, thường gây biến chứng
gãy xương nên đòi hỏi chi phí chăm sóc và
điều trị cao. Bệnh đã trở thành một trong
những vấn đề sức khỏe mang tính toàn cầu và
là gánh nặng lên ngân sách y tế của nhiều
quốc gia. Trên thế giới, đã có nhiều nước triển
khai thực hiện phòng chống bệnh loãng xương
nhằm nâng cao nhận thức của người dân ở
nhiều lứa tuổi, đồng thời dành nhiều sự quan
tâm cho việc tăng cường các phương tiện tầm
soát và chẩn đoán sớm bệnh. Tuy nhiên, các
thiết bị tầm soát loãng xương tại Việt Nam
hiện nay vẫn còn rất hạn chế so với nhu cầu
của người bệnh. Do đó, việc đánh giá hiệu quả
của một số biện pháp can thiệp cộng đồng để
phòng chống loãng xương ngay từ ban đầu là
rất cần thiết trong thời buổi hiện nay.
Để thực hiện đề tài, các nhà nghiên
cứu đã tiến hành những nội dung sau: xác
định tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến
loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên tại
TP.HCM; so sánh mật độ xương bằng kỹ
thuật DXA (hấp thụ X-quang năng lượng
kép) ngoại biên tại đầu xa xương cẳng tay với
DXA trung tâm; đánh giá hiệu quả của một số
biện pháp can thiệp cộng đồng như truyền
thông giáo dục thay đổi hành vi, thực hiện
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 29/48
chế độ ăn giàu can-xi, tập luyện thể lực và
phòng chống té ngã.
Kết quả cho thấy, tỉ lệ người dân mắc
bệnh loãng xương cao (37,9%, nam giới mắc
bệnh thấp hơn nữ giới) và có xu hướng tăng
dần theo độ tuổi. Nhóm có nguy cơ mắc cao
nhất là phụ nữ mãn kinh với tỷ lệ 54,6%. Bên
cạnh giới tính và độ tuổi, các yếu tố khác có
liên quan đến tình trạng bệnh là nghề nghiệp,
học vấn, lạm dụng rượu bia và thuốc lá,…
Mặt khác, có thể cải thiện tình trạng bệnh
bằng cách tập thể dục, có kiến thức, thái độ
và thực hành tốt về phòng chống loãng
xương.
Bên cạnh đó, hiệu quả của việc thực
hiện các biện pháp can thiệp cộng đồng cho
thấy, tỷ lệ người dân nhận được thông tin về
bệnh đạt 81,9%; thực hiện chế độ ăn uống bổ
sung canxi là 80,8% (tăng 11,2%); tập thể dục
thường xuyên là 75,8% (tăng 14,6%) và có
kiến thức tốt về bệnh là 47% (tăng 16,4%)..
Nguồn: Kim Tiến, Cesti.gov.vn,
10/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Khả năng kháng oxy hóa và kích thích miễn dịch của bài thuốc Nam Địa Long trong điều trị ung thư
Với mục đích tìm kiếm các bằng
chứng khoa học cho tác dụng kích thích
miễn dịch và kháng oxy hóa của bài thuốc y
học cổ truyền Nam Địa Long, nhóm tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Nương, Bùi Thị Như Ngọc,
Nguyễn Thái Hoàng Tâm (Trung tâm Phát
triển Khoa học và Công nghệ Trẻ) và cộng
sự đã thực hiện nghiên cứu về khả năng hỗ
trợ điều trị ung thư của bài thuốc trên mô
hình chuột bị suy giảm miễn dịch bởi chất
hóa trị cyclophosphamide (CY).
Hiện nay, hai phương pháp xạ trị và
hóa trị phổ biến trong điều trị ung thư luôn gây
ra nhiều tác dụng phụ, làm cơ thể người bệnh
suy yếu, đau đớn và suy nhược nghiêm trọng.
Ngoài việc tiêu diệt các tế bào ung thư, các
phương pháp này còn tiêu diệt luôn những tế
bào khỏe mạnh, đặc biệt là các tế bào như tủy
xương, miễn dịch, niêm mạc ruột, tóc… Thêm
vào đó, việc sử dụng hóa chất trị liệu trong
thời gian dài có thể khiến cơ thể bệnh nhân
kháng thuốc, dẫn đến suy giảm hiệu quả điều
trị ung thư.
Bài thuốc y học cổ truyền Nam Địa
Long (bao gồm các thành phần như địa long,
đậu đen, đậu xanh và bồ ngót) thường được
dân gian sử dụng trong điều trị các bệnh viêm
khớp, động kinh, ung thư… Do các tác dụng
phụ tiêu cực của phương pháp xạ trị và hóa trị,
nhiều bệnh nhân đã sử dụng các bài thuốc y
học cổ truyền như Nam Địa Long làm liệu
pháp thay thế trong điều trị ung thư. Tuy
nhiên, hiện vẫn chưa có nghiên cứu hay công
bố khoa học nào về hiệu quả điều trị của bài
thuốc này. Vì vậy, việc khảo sát các tác động
độc tế bào ung thư, kháng oxy hóa và kích
thích miễn dịch của bài thuốc Nam Địa Long
là rất cần thiết.
Kết quả cho thấy, bài thuốc Nam Địa
Long có tác động kích thích miễn dịch dựa
trên tăng sinh tế bào miễn dịch, đồng thời làm
giảm các tác hại gây ra bởi stress oxy hóa, cụ
thể như: ngăn chặn được sự sụt giảm trọng
lượng cơ thể, cải thiện phần trăm trọng lượng
lách và tuyến ức của chuột bị tiêm 150mg
CY/kg thể trọng; kích thích tăng sinh bạch cầu
tổng (42-44%), bạch cầu lympho (48-53%),
đặc biệt là lympho TCD4 (34-43%) và lympho
TCD8 (35-46%); ngăn chặn quá trình peroxy
hóa lipid do tác động sản sinh gốc tự do của
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 30/48
CY; làm tăng mức độ kháng oxy hóa nội bào
và hiệu quả của các enzyme kháng oxy hóa
SOD2 và CAT.
Nguồn: Kim Tiến, Cesti.gov.vn,
11/09/2018
Trở về đầu trang
**************
NÔNG NGHIỆP
Phát triển quy trình real-time RT-PCR phát hiện virus lở mồm long móng ở gia súc
Với mục tiêu định tính virus FMD
(Foot and Mouth Disease) gây bệnh lở
mồm long móng ở gia súc, nhóm tác giả
Đoàn Thị Quỳnh Hương, Nguyễn Văn
Lượng, Nguyễn Hoàng Chương (Trung
tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp
Công nghệ cao) và cộng sự đã phát triển
quy trình real-time RT-PCR (Reverse
Transcriptas – Polymerase Chain
Reaction) có chức năng phát hiện virus
FMD, đáp ứng nhu cầu của ngành thú y
nước ta trong công tác kiểm soát và phòng
chống dịch bệnh.
Bệnh lở mồm long móng ở gia súc là
loại bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây lan
nhanh và gây nhiều thiệt hại to lớn cho ngành
chăn nuôi. Đây là một trong những bệnh được
tổ chức Dịch tễ thế giới xếp vào nhóm 15
bệnh nguy hiểm nhất cho các loài móng guốc
chẵn như trâu, bò, dê, cừu và heo. Hiện tại,
tình hình diễn biến khi xảy ra dịch bệnh ở các
nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng ngày càng trở nên phức tạp và khó kiểm
soát. Vì vậy, việc phát triển một quy trình
chẩn đoán có khả năng bổ sung những khiếm
khuyết của các quy trình hiện có và có tính
cập nhật là đặc biệt cần thiết trong việc phòng
ngừa và phục vụ công tác kiểm soát bệnh lở
mồm long móng ở nước ta.
Để xây dựng quy trình real-time RT-
PCR phát hiện virus FMD, các nhà nghiên
cứu đã thu thập mẫu bệnh phẩm từ các gia
súc bị lở mồm long móng, chọn phương pháp
tách chiết là hấp phụ RNA trên silica và thực
hiện các nội dung sau: thiết kế các cặp primer
và taqman probe đặc hiệu; xây dựng và tối ưu
hóa quy trình real-time RT-PCR; khảo sát đặc
tính kỹ thuật của quy trình mới; áp dụng quy
trình mới vào phát hiện và phân type virus
FMD trên các mẫu bệnh phẩm thu thập từ
thực địa.
Đề tài đã xây dựng thành công quy
trình real-time RT-PCR FMDV (virus lở
mồm long móng) có độ đặc hiệu và độ nhạy
chẩn đoán là 100% trên tất cả các mẫu khảo
sát dương tính và âm tính; độ biến thiên nội
phản ứng của quy trình là 0,06%. Khi áp dụng
quy trình trên các mẫu bệnh thực tế cho thấy
kết quả hoàn toàn tương đồng với quy trình
real-time RT-PCR kết hợp HRM sẵn có tại
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông
nghiệp Công nghệ cao. Ngoài ra, các nhà
nghiên cứu cũng đề nghị tiến hành thêm các
nghiên cứu so sánh giữa kết quả của quy trình
real-time RT-PCR FMDV, với các bộ kit phát
hiện bệnh đã được thương mại hóa trên thị
trường nhằm đánh giá chất lượng của quy
trình mới, tạo cơ sở để phát triển quy trình
thành bộ KIT sử dụng trong thực tế..
Nguồn: Kim Tiến, Cesti.gov.vn,
05/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo thành công chiếc máy “bóc vỏ lụa và mầy hạt ngô”
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 31/48
Sau sáu lần chế tác thất bại, giờ đây
nông dân Thái Văn Âu, sinh năm 1958, ở thôn
Ú, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận)
đã chế tạo thành công chiếc máy “bóc vỏ lụa
và mầy hạt ngô”, giúp đồng bào dân tộc Ra
Glai nơi đây “thoát” cảnh mỗi ngày phải vất
vả giã ngô bằng cối chày tay trong nhiều giờ
để có lương thực nấu ăn.
Năm 2012, ông Thái Văn Âu có ý
tưởng chế tạo chiếc “máy bóc vỏ lụa và mầy
hạt ngô”, nhưng qua hai năm nghiên cứu với
sáu lần chế tạo thất bại, phải đem những cái
máy đi bán phế liệu vì chưa bảo đảm kỹ thuật,
bị hỏng hóc, vận hành không như mong muốn.
Mãi cho đến năm 2015, chiếc máy thứ bảy
mới được hoàn chỉnh và đưa vào chạy thử
nghiệm tốt.
Bên chiếc máy đang vận hành, ông Âu
bộc bạch: “Việc chế tạo máy không đơn giản
như suy nghĩ, nhiều lần thất bại, vợ tôi nản
lòng vì tốn khá nhiều chi phí trong khi phải
nuôi bốn đứa con đi học. Nhưng, thấy tôi quá
đam mê nên vợ “bấm bụng” chịu theo ý mình,
thế là tôi tiếp tục mày mò, tham khảo kiến thức
trong các sách kỹ thuật chế tạo, cuối cùng đã
toại nguyện”.
Ông Thái Văn Âu vận hành máy bóc vỏ lụa và mầy ngô.
Cấu tạo của máy “bóc vỏ lụa và mầy
hạt ngô” gồm tám bộ phận chính: Khung máy
để giữ cho máy ổn định; Toa chứa hạt ngô để
đưa hạt ngô vào buồng bóc vỏ; Thùng bóc vỏ
có một dao bóc ngang, bốn dao đứng; Hộp
truyền động với tỷ lệ 1/1; Quạt gió 4 cánh;
Sàng 2 tấm gồm tấm phía trên là sàng lưới hạt
ngô thành phẩm và được chứa bằng thau,
chậu, phía dưới là khay hứng và truyền cám,
cũng chứa bằng thau, chậu đặt phía dưới băng
chuyền sàng lưới; Trục lắc sàng và đai truyền;
hai puly trên hộp truyền chuyển động.
Về nguyên lý hoạt động là dùng dòng
điện ba pha, mô-tơ điện 15 Hp có vòng quay
1400V/p. Khi mô-tơ hoạt động, trục quay kéo
bộ phận dây đai đến trục truyền chuyển động
làm xoay bộ bánh răng có hình nón xoay kéo
trục đứng làm cho dao bóc vỏ lụa xoay theo,
đồng thời trục hộp truyền chuyển độn kéo dây
đai và kéo quạt gió cùng sàng lắc từ lúc đổ hạt
ngô vào toa chứa hạt cho đến khi mở cửa để
hạt ngô đã tách vỏ lụa được lùa vỏ xuống sàng
tách cám. Khi ngô chảy qua sàng rơi xuống
quạt gió, thì nhờ sức gió cánh quạt đẩy cám
còn sót lại để lấy hạt ngô hoàn sạch trước lúc
chảy xuống thau chứa ngô đặt phía dưới bằng
truyền.
Chiếc máy “bóc vỏ lụa và mầy hạt ngô”
rất gọn nhẹ, cấu tạo đơn giản. Với công năng
vượt trội, chỉ mất tám phút xay, sẽ cho ra
thành phẩm 12 kg hạt ngô được bóc vỏ lụa
sạch đẹp. Nếu giã thủ công như trước đây, bà
con phải mất bốn giờ. Nếu chiếc máy làm việc
tám giờ/ngày sẽ đạt năng suất gấp 30 lần của
một ngày công lao động. Ban đầu, ông nhận
xay ngô miễn phí, nhưng bà con ghi nhận nỗ
lực cống hiến của ông với cộng đồng, đã tự
nguyện trả thù lao cho ông là 1 nghìn đồng/kg,
để hỗ trợ ông có khoản phí bù đắp lại tiền
điện, hao mòn máy móc, đồng thời kích thích
sự sáng tạo để ông tiếp tục chế tác nhiều loại
máy móc khác có công năng tốt hơn, gắn liền
với sản xuất, giúp bà con tiết kiệm công sức.
Qua đó, mỗi ngày ông Âu thu 720 nghìn đồng,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 32/48
trừ các khoản chi phí, thu nhập 650 nghìn
đồng/ngày.
Sáng chế máy “bóc vỏ lụa và mầy hạt
ngô” của ông Thái Văn Âu đã đạt giải nhất tại
Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Ninh Thuận lần
thứ IV, năm 2016 - 2017 và giải khuyến khích
Sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc năm
2017.
Hiện tại, ông Âu đặt chiếc máy tại nhà
để phục vụ bà con xã Mã Nới và một số thôn
lân cận của xã khác. Tâm nguyện của ông Âu
là mong muốn hồ sơ đăng ký bảo hộ bằng
sáng chế và bản quyền sản phẩm đã gởi lên
cấp tỉnh và T.Ư sớm được cấp giấy công nhận,
để ông có đủ điều kiện làm giấy phép đăng ký
thành lập cơ sở chế tạo máy “bóc vỏ lụa và
mầy hạt ngô” tại xã Phước Chiến, huyện Bác
Ái để cung ứng sản phẩm cho đồng bào vùng
cao trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận ứng dụng
vào sản xuất. Hoặc ông chuyển giao thông tin
cho các đơn vị có thể sản xuất với số lượng
lớn để phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số các
tỉnh, thành phố khác.
Nguồn: Nguyễn Trung,
Nhandan.com.vn, 26/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Qui trình sản xuất cua hoàng đế Ranina ranina
Ranina ranina Linneaus, 1758 Cua
hoàng đế (Ranina ranina) hay còn gọi là cua
mỏ lết (Spanner Crab) được xem là loài đặc
sản quý hiếm bởi phẩm chất thịt thơm ngon,
hàm lượng chất béo và cholesterol thấp,
protein cao, dồi dào khoáng vi lượng và các
vitamin. Chính vì vậy, cua hoàng đế đã trở
thành một đối tượng thủy sản có giá trị xuất
khẩu, mang lại giá trị kinh tế cao ở nhiều
nước trên thế giới như Ấn Độ (Krajangdara
và Watanabe, 2005; Kasinathan, 2007), Úc
(Brown, 1986; Skinner và Hill, 1986;
Kennelly, 1989; Kennely và Craig, 1989;
Kennelly và cộng sự, 1990), Philipin (Tahil,
1983; Vicente và cộng sự 1986), Hawaii
(Onizuka, 1972), Nhật Bản (Sinoda và
Kobayashi, 1969)… và là món ăn được ưa
chuộng ở nhiều nước Châu Á như Trung
Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông
(Baylon và Tito, 2012).
Cua hoàng đế hiện là loài sống trong
tự nhiên, để bảo vệ đối tượng này khỏi nguy
cơ tuyệt chủng và có thể khai thác, phát triển
và sử dụng nguồn gen này một cách bền vững
thì một trong những cách giải quyết hiệu quả
nhất là đưa chúng trở thành đối tượng nuôi.
Do đó, mục tiêu hàng đầu là gia hóa cua
hoàng đế, trong đó, phải tái tạo quần đàn qua
các thế hệ để khép kín vòng đời nhờ sản xuất
giống nhân tạo, tạo ra quy trình sản xuất
giống là quan trọng nhất và cũng là nhiệm vụ
trọng tâm. Để phát triển nghề nuôi cua hoàng
đế, bước tiếp theo là cần phải phát triển công
nghệ nuôi thương phẩm đối tượng này. Tuy
nhiên, đây là nhiệm vụ được tiến hành lần
đầu, các vấn đề nuôi thương phẩm sẽ khó giải
quyết trọn vẹn, vì vậy, kết quả đạt được ở
mức độ nhất định. Nên cơ quan chủ trì là
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã
phối hợp cùng Chủ nhiệm TS. Nguyễn Thị
Thanh Thủy thực hiện.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 33/48
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
1. Một số đặc điểm sinh học sinh sản
cua hoàng đế đã nghiên cứu bổ sung bao gồm:
cua hoàng đế có chiều dài giáp đầu ngực > 60
mm và khối lượng thân > 100 g/con đã thành
thục và có khả năng tham gia sinh sản. Cua
hoàng đế có thể sinh sản quanh năm nhưng
mùa sinh sản chính từ tháng 2 đến tháng 6.
Sức sinh sản thực tế tuỳ theo kích thước cua
mẹ, số trứng trung bình trên một lần đẻ là
45.400 trứng đối với cua mẹ có chiều dài giáp
đầu ngực trung bình 87,4 mm và khối lượng
thân 251g/con. Thời gian phát triển phôi của
cua hoàng đế từ 19-21 ngày ở nhiệt độ 26-
28oC. Ấu trùng trải qua 7-8 giai đoạn Zoea, 1
giai đoạn Megalopa trước khi lột xác thành
cua bột với tổng thời gian biến thái từ 50-60
ngày tuỳ theo điều kiện môi trường. Đã đánh
giá giá trị dinh dưỡng dựa trên các chỉ tiêu
sinh hoá và giá trị kinh tế và nguồn lợi của
nguồn gen dựa trên khảo sát điều tra sơ cấp tại
vùng phân bố cua hoàng đế.
2. Nhiệm vụ đã nghiên cứu sản xuất
thành công con giống nhân tạo loài cua hoàng
đế, góp phần phục hồi nguồn lợi và có tiềm
năng phát triển nghề nuôi mới vùng ven biển.
Các sản phẩm dạng I đạt được bao gồm: cua
giống sản xuất nhân tạo 1.208 con, kích cỡ
1,2 cm/con, cua đồng đều khoẻ mạnh; cua bố
mẹ 197 con, khối lượng>300 g/con, tỷ lệ
thành thục > 80 %; cua hậu bị 202 con, khối
lượng > 200g.
3. Đã xây dựng qui trình sản xuất
giống cua hoàng đế gồm các khâu kỹ thuật:
Tuyển chọn, nuôi vỗ cua bố mẹ; Thu và ương
ấu trùng thành cua bột; Ương cua bột thành
cua giống. Kết quả triển khai qui trình đạt các
chỉ tiêu: Nuôi vỗ cua bố mẹ đạt tỷ lệ sống và
tỷ lệ thành thục > 80 %, cua khoẻ mạnh.
Ương nuôi ấu trùng giai đoạn Zoea 1 đến
Megalope đạt tỷ lệ sống 2-3 %. Ương nuôi
giai đoạn megalope sang cua bột đạt tỷ lệ
sống 60 -80 %. Ương nuôi cua bột lên cua
giống đạt tỷ lệ sống 80-90 %.
4. Nhiệm vụ đã hoàn thành các sản
phẩm dạng II theo thuyết minh gồm 1 báo
cáo, chuyên đề khoa học và 2 tiêu chuẩn cơ
sở được thông qua hội đồng khoa học cơ sở.
5. Đã đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ sản
phẩm ”Qui trình sản xuất cua hoàng đế
Ranina ranina” được chấp nhận đơn hợp lệ..
Nguồn: Vista.gov.vn, 21/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu quá trình lên men cám gạo giống lúa Khang Dân bằng Saccharomyces cerevisiae để thu nhận hoạt chất chống oxy hóa
Nhóm tác giả Bùi Thị Thanh, Tạ Minh
Huyền (Học viện Hậu cần) và Phí Thị Thanh
Mai (Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ
thực phẩm, ĐH Bách khoa Hà Nội) tiến hành
nghiên cứu điều kiện lên men cám gạo giống
lúa Khang Dân bằng nấm men Saccharomyces
cerevisiae để thu nhận các hoạt chất chống oxy
hóa, góp phần nâng cao giá trị sử dụng các
chất dinh dưỡng sẵn có trong cám gạo.
Giống lúa Khang Dân được trồng phổ
biến ở khu vực miền Bắc nước ta, là giống ít
sâu bệnh, năng suất cao. Trong cám gạo
Khang Dân có các thành phần chính như hàm
lượng protein thô khoảng 8,19%, chất xơ tiêu
hóa 20,7%, đường 0,9%, các vitamin E, B,…
Trong nghiên cứu này (đăng trên Tạp
chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kỳ 1,
tháng 8/2018), nhóm tác giả tiến hành khảo sát
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 34/48
các điều kiện lên men cám gạo gồm pH, nhiệt
độ, tỷ lệ cám gạo (nước, thời gian lên men,
phương pháp lên men, độ ẩm môi trường lên
men thích hợp để thu nhận được các hoạt chất
chống oxy hóa cao nhất).
Theo đó, chủng nấm men
Saccharomyces cerevisiae, được phân lập từ
men làm bánh mì, có khả năng lên men thu
nhận được các hoạt chất chống oxy hóa từ
nguồn cám gạo Khang Dân trên cả 2 môi
trường rắn và lỏng ở cùng điều kiện lên men
pH = 6,0, nhiệt độ thích hợp 300C và thời gian
lên men trong 20 giờ. Đối với môi trường
lỏng, tỷ lệ cám gạo/nước dùng để lên men là
1:12 cho hàm lượng polyphenol tổng số
247,96 ± 44 mg/l, tăng 17,3% so với lượng
polyphenol có trong cám nguyên liệu ban đầu
(211,70 ± 0,49 mg/l). Ở môi trường rắn, hàm
lượng polyphenol tổng số thu được là 296,95 ±
0,42 mg/l, tăng 40,27% so với lượng
polyphenol có trong cám nguyên liệu ban đầu.
Việc sử dụng các chủng vi sinh để lên
men thu nhận polyphenol, tập hợp các hoạt
chất chống oxy hóa từ nguồn cám gạo đã và
đang được nghiên cứu nhiều trên thế giới và
ở Việt Nam. Các hoạt chất chống oxy hóa có
nhiều tác dụng đối với sức khỏe con người
trong việc hỗ trợ điều trị, phòng chống, ngăn
ngừa một số bệnh như u bướu, huyết khối
trong não, nhồi máu não, tiểu đường, lão
hóa, tăng cường sức đề kháng,… Các hoạt
chất này có thể ứng dụng tốt cho việc bổ
sung dinh dưỡng trong các loại đồ uống và
các sản phẩm ăn liền, chế biến sẵn hoặc dùng
làm thực phẩm chức năng góp phần bảo vệ
sức khỏe con người.
Nguồn: Lam Vân, Cesti.gov.vn,
20/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị thu hoạch, chẻ và thiết bị sấy cây lác
“Nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị
thu hoạch, chẻ và thiết bị sấy cây lác ở tỉnh
Vĩnh Long” là đề tài nghiên cứu khoa học cấp
tỉnh do Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật Vĩnh
Long thực hiện. Hội đồng Khoa học cũng
đánh giá cao về độ mới của các sản phẩm,
chưa có mẫu tương tự nào.
Bộ sản phẩm nghiên cứu bao gồm 3
sản phẩm: máy cắt lác, máy chẻ lác và máy
sấy lác. Máy cắt lác có công suất 3.000
m2/giờ, khối lượng của máy là 250kg, bảo
hành 5 năm. Tuy nhiên, máy cắt chưa vận
hành tốt ở những vùng đất lầy, lác đổ ngã.
Máy chẻ lác dùng cho một người, năng
suất đạt 120- 140 kg/giờ, chất lượng lác chẻ
ra đồng đều không bị giập. Máy sấy lác quy
mô sử dụng cho hộ gia đình, mỗi ngày có thể
sấy 300kg lác. Máy sử dụng nhiên liệu từ
nhiệt của than đá. Ước tính khi 3 sản phẩm
nghiên cứu đưa vào thu hoạch lác sẽ giảm
công lao động từ 5- 6 lần so với trước đây.
Các đại biểu tham dự hội thảo đánh giá
cao hiệu quả hoạt động của các thiết bị, đặc
biệt là máy sấy lác, đáp ứng được nhu cầu sấy
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 35/48
lác trong thời tiết mưa nhiều như hiện nay.
Thiết bị chẻ lác đảm bảo hiệu quả sản xuất cao
hơn các thiết bị truyền thống gấp nhiều lần.
Hội đồng thẩm định kiến nghị cần bổ sung
thêm các báo cáo liên quan trong đề tài, hiệu
quả kinh tế và đầu tư cho mỗi loại thiết bị.
Nguồn: baovinhlong.com.vn,
27/09/2018
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển
Trước tình trạng sạt lở bờ sông, bờ
biển tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) ngày càng diễn biến phức tạp, việc
áp dụng các giải pháp kỹ thuật được xem như
là một trong những giải pháp cần thiết để hạn
chế tình trạng này.
Trong những năm gần đây, do diễn
biến bất thường của thời tiết, nhất là ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng
cùng với tác động của việc phát triển kinh tế -
xã hội kém bền vững dẫn đến tình hình sạt lở
bờ sông, xói lở bờ biển ở vùng ĐBSCL đã và
đang diễn ra rất phức tạp. Từ năm 2007 đến
nay, diễn biến sạt lở bờ sông, bờ biển vùng
ĐBSCL có xu thế gia tăng cả về phạm vi và
quy mô. Tại nhiều khu vực, sạt lở đã gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người
dân, tác động tiêu cực đến phát triển bền
vững kinh tế - xã hội vùng ven sông, ven
biển. Qua công tác quản lý và báo cáo của các
địa phương, hiện ĐBSCL có đến hơn 562 vị
trí bờ sông, bờ biển bị sạt lở với tổng chiều
dài gần 786km, trong số đó có 59 điểm sạt lở
đặc biệt nguy hiểm với tổng chiều dài 180
km. Những năm qua, vùng ĐBSCL đã được
hỗ trợ đầu tư hàng nghìn tỷ đồng từ nguồn
ngân sách Trung ương, nguồn vốn ODA để
xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển. Nhiều đề tài
khoa học, dự án thử nghiệm đã được nghiên
cứu, áp dụng nhằm đề xuất các giải pháp phù
hợp để xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển. Đặc biệt,
các giải pháp kỹ thuật được xem là một trong
những hướng đi quan trọng.
Hiện nay việc áp dụng các giải pháp
kỹ thuật ở vùng ĐBSCL vẫn còn tồn tại nhiều
điểm hạn chế. Trong đó, việc một số công
trình áp dụng giải pháp kỹ thuật chưa phù hợp
với điều kiện tự nhiên hoặc chưa bám sát các
quy định về tiêu chuẩn thiết kế, thi công nên
đã bị hư hỏng, hoặc không đạt được mục tiêu
đề ra. Về phòng chống sạt lở bờ sông, hầu hết
các công trình được thực hiện tại những khu
vực đã bị sạt lở theo hướng “hỏng đâu làm
đấy”, thiếu kế hoạch dài hạn, căn cơ cho toàn
hệ thống sông, kênh, rạch trong vùng. Bên
cạnh đó, việc áp dụng giải pháp chỉnh trị bằng
hệ thống mỏ hàn cứng tại khu vực đang có
diễn biến xói lở phức tạp còn chưa tính toán,
xác định đầy đủ các yếu tố thủy văn, thủy lực,
địa chất công trình; quá trình diễn biến xói lở
bờ, hình thành bãi bồi,… Về phòng chống sạt
lở bờ biển, kè chống sóng và một số tuyến kè
bảo vệ bờ chưa phù hợp, quy mô công trình
khá lớn, song diện tích bảo vệ còn hạn chế.
Việc tính toán và bố trí tường hắt sóng tại
những công trình chưa phù hợp, gây hư hỏng.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 36/48
Mặt khác, tuyến kè giảm sóng hầu hết chưa
được lượng hóa cụ thể thông qua tính toán
các yếu tố về sóng, thủy triều, đường bờ nên
hiệu quả gây bồi chưa cao. Việc giảm sóng
gây bồi bằng hàng rào tre kết hợp với việc
trồng cây chắn sóng áp dụng tại nhiều khu
vực, nhất là nơi đang có diễn biến xói lở chỉ
có tác dụng trong khoảng 2 năm đầu sau khi
đưa vào sử dụng, không có tác dụng lâu dài
do vật liệu giảm sóng bằng tre kém bền.
Do vậy, theo Vụ Kiểm soát An toàn
thiên tai, cần giải quyết hiệu quả vấn đề mất
cân bằng bùn cát trên sông, kênh rạch và
vùng ven biển, lún sụt đất. Tăng cường công
tác quản lý bờ sông, kênh rạch, bờ biển, giảm
tác động gây xói lở theo hướng quản lý tổng
hợp, dành không gian thoát lũ, làm đường
giao thông... Cùng với đó, nghiên cứu, ứng
dụng khoa học công nghệ trong phòng chống
sạt lở bờ sông, kênh, rạch, xói lở bờ biển, lún
sụt đất, trồng và phục hồi rừng ngập mặn
thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng trưởng
xanh. Đáng chú ý, đối với bờ sông, vùng
thượng nguồn, cần tăng cường hợp tác quốc
tế trong việc quản lý bền vững sông Mê
Kông. Đối với vùng đồng bằng, cần rà soát,
chỉ cấp phép khai thác cát với khối lượng hợp
lý đảm bảo sự cân bằng tương đối; sử dụng
hợp lý bùn cát nạo vét để san lấp, đắp đê, làm
đường; nghiên cứu đề xuất các giải pháp thay
thế cát san lấp và cát xây dựng, tiến tới không
sử dụng cát để san lấp. Ngoài ra, cần quản lý
chặt chẽ việc xây dựng nhà ở, công trình ven
sông để hạn chế chất tải lên bờ sông, kênh
rạch, cản trở dòng chảy. Với việc quy hoạch
chỉnh trị sông cần gắn với quy hoạch sử dụng
đất ven sông theo hướng dành không gian
thoát lũ; điều tra, cập nhật cơ sở dữ liệu liên
quan đến sạt lở bờ sông; nghiên cứu toàn diện
về sự thay đổi lòng dẫn, dòng chảy sông Mê
Kông, chế độ thủy văn, cân bằng bùn cát. Về
giải pháp công trình, cần thực hiện chỉnh trị
sông đảm bảo ổn định lòng dẫn, ổn định dòng
chảy cả mùa lũ và mùa kiệt, tập trung vào
sông Tiền, sông Hậu, chỉ xây dựng công trình
phòng chống sạt lở tại những phân lưu, hợp
lưu, khu tập trung dân cư.
Bên cạnh đó, ở bờ biển, cần quản lý
tổng hợp vùng bờ theo hình thức xã hội hóa,
gắn trách nhiệm trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng
ven biển; kiểm soát việc sử dụng và khai thác
nước ngầm để hạn chế các tác động gây xói
lở bờ biển; quy hoạch hệ thống quan trắc diễn
biến xói lở bờ biển, nước biển dâng. Về giải
pháp công trình, cần ưu tiên các giải pháp
mềm như nuôi giữ bãi, trồng rừng ngập mặn;
ứng dụng công nghệ giải quyết khu vực sạt lở
phức tạp, chú trọng giải pháp giảm sóng gây
bồi đảm bảo bền vững.
Nguồn: Vista.gov.vn, 25/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 37/48
Hệ thống mô hình bất thủy tĩnh để nâng cao chất lượng dự báo thời tiết cho khu vực Việt Nam
Căn cứ vào tính cấp thiết của việc tiếp
tục ứng dụng mô hình bất thủy tĩnh phân giải
cao trong bài toán dự báo nghiệp vụ và sự
hợp tác chặt chẽ giữa Trung tâm Dự báo khí
tượng thủy văn Trung ương (DBKTTVTƯ)
với Trung tâm quốc gia dự báo môi trường
của Mỹ (NCEP), Cục khí tượng Đức (DWD),
Cục khí tượng Nhật bản (JMA), Viện nghiên
cứu khí tượng Nhật bản (MRI) và Viện
nghiên cứu khí quyển của Ý (ISAC), các mô
hình khí tượng khu vực bất thủy tĩnh, phân
giải cao được sử dụng trong nghiệp vụ hiện
nay như mô hình WRF, mô hình COSMO,
mô hình NHM và Moloch đều đã được
chuyển giao cho Trung tâm DBKTTVTƯ để
thử nghiệm. Bên cạnh đó, Trung tâm
DBKTTVTƯ luôn nhận được sự hỗ trợ của
các chuyên gia từ các trung tâm quốc tế này
trong việc ứng dụng và thử nghiệm các mô
hình cho khu vực Việt Nam và với sự bổ sung
của các số liệu quan trắc tại Việt Nam.
Đây là những tiền đề cơ bản trong việc
đề xuất đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên
cứu ứng dụng nghiệp vụ mô hình bất thủy
tĩnh để nâng cao chất lượng dự báo thời tiết
cho khu vực Việt Nam”. Do Cơ quan chủ
quản Trung tâm Khí tượng Thủy Văn QG
phối hợp cùng Chủ nhiệm đề tài ThS. Dư Đức
Tiến thực hiện nhằm mục tiêu xây dựng hệ
thống nghiệp vụ dự báo bằng mô hình bất
thủy tĩnh có đồng hóa số liệu thám sát địa
phương để nâng cao chất lượng dự báo thời
tiết trên khu vực Việt Nam.
Việc triển khai vào môi trường nghiệp
vụ sản phẩm dự báo số trị từ các mô hình bất
thủy tĩnh là cấp thiết, qua đó các dự báo viên
sẽ có được nguồn tham khảo dự báo số trị
mới với độ phân giải cao hơn và tính đến đầy
đủ các đặc tính vật lý của khí quyển. Điều
này sẽ giúp tăng cường chất lượng dự báo của
bản tin đặc biệt ở khía cạnh dự báo định
lượng và tăng cường khả năng nắm bắt, dự
báo các hiện tượng thời tiết nguy hiểm.
Đề tài đã đưa vào thử nghiệm hai hệ
thống mô hình bất thủy tĩnh phân giải cao
WRF-ARW và COSMO chạy ở hai độ phân
giải 5km và 7km trên hệ thống máy tính của
Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung
ương. Các sản phẩm được đưa lên trang web
nghiệp vụ MHDARS và chia sẻ cho các đài
KTTV khu vực và tỉnh thông qua trang web
http://101.96.116.80:8003/ (guest, nchmf)
hoặc qua trang web dự báo tiểu khu vực Đông
Nam Á http://www.swfpd-sea.com.vn
(swfdp-sea, Hanoi@2016).
Với việc thực hiện đoàn ra trong năm
2016 làm việc tại Tổng Cục khí tượng Liên
Bang Đức (DWD) theo quyết định số
343/QĐ-KTTVQG của Tổng Giám Đốc
Trung tâm khí tượng thủy văn Quốc gia, hệ
thống đồng hóa số liệu trong nghiệp vụ cho
mô hình COSMO đã được chuyển giao. Đề
tài đã phối hợp với các chuyên gia DWD để
thực hiện chuyển đổi toàn bộ số liệu quan trắc
của Việt Nam (bề mặt, radar) sang định dạng
mã bufr và grib vào hệ thống đồng hóa số liệu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 38/48
của mô hình COSMO và đã thực hiện một số
thử nghiệm ban đầu với bài toán dự báo mưa
lớn. Kết quả nghiên cứu hợp tác này sẽ tiếp
tục mở ra sự hợp tác giữa Việt Nam và Đức
trong những năm tới đây về lĩnh vực dự báo
khí tượng thủy văn.
Đề tài đã hỗ trợ 01 học viên cao học
trong việc thực hiện luận văn thạc sĩ trong
lĩnh vực hiệu chỉnh thống kê sau mô hình.
Các số liệu dự báo và kết quả hiệu chỉnh
trong luận văn thạc sĩ là một phần kết quả đạt
được của đề tài.
Nguồn: Vista.gov.vn, 21/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu khả năng giảm nhẹ ô nhiễm chất độc hóa học/dioxin của cỏ vetiver - Áp dụng thử nghiệm tại sân bay Biên Hòa
Khảo sát thực địa và trao đổi kinh nghiệm với GS. TS. Paul Trương tại khu thí nghiệm,
sân bay Biên Hòa, tháng 5 năm 2016.
Sự tồn lưu dioxin trong môi trường
đã và đang gây ra những tổn thương lâu dài
cho hàng triệu người dân Việt Nam. Phơi
nhiễm chất độc da cam/dioxin không chỉ
ảnh hưởng tới sức khỏe của người bị phơi
nhiễm, gây ra các loại bệnh như: ung thư,
suy giảm miễn dịch, tai biến sinh sản, dị tật
bẩm sinh v.v..., mà còn ảnh hưởng tới cả thế
hệ sau (Văn phòng Ban chỉ đạo 33, 2013).
Dioxin là các chất ô nhiễm môi trường,
là chất không mong muốn, chủ yếu sinh ra từ
các quá trình sản xuất công nghiệp có sự liên
quan đến chlorine. Đây là tên chung để chỉ
một nhóm hàng trăm các hợp chất hoá học có
chung cấu trúc hoá học nhất định, thuộc nhóm
polychlorinated dibenzo para dioxin (PCDDs)
và polychlorinated dibenzofurans (PCDFs).
Trong 210 đồng phân của hai nhóm này, có 17
chất đồng loại độc với các nguyên tử clo tại vị
trí 2, 3, 7 và 8. Chất 2,3,7,8-TCDD được xem
là độc nhất và được Tổ chức quốc tế nghiên
cứu về ung thư (IARC) thuộc WHO xếp vào
những chất gây ung thư nhóm 1 (Fiedler,
2003; WHO, 2007).
Công nghệ phục hồi môi trường dựa
trên thực vật là quá trình sử dụng thực vật để
chiết rút, hấp thu và khoáng hoá các chất ô
nhiễm và được xem như là một chiến lược
sinh thái để quản lý các chất ô nhiễm trong hệ
sinh thái (Nwoko, 2010). Công nghệ xử lý ô
nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm các
chất hữu cơ khó phân huỷ nói riêng bằng việc
sử dụng thực vật là phương pháp có hiệu quả
kinh tế hơn, có giá trị về mặt sinh thái và thân
thiện với môi trường hơn so với các phương
pháp khác (Campanella và cs., 2002; Campos
và cs., 2008; Nwoko, 2010). Trong các loài
thực vật, cỏ vetiver (Vetiveria zizanioides L.)
có các đặc tính sinh học đặc biệt, là loài sinh
sản vô tính nên không bị phát tán bừa bãi, có
bộ rễ khổng lồ với khu hệ vi sinh vật phong
phú trong quyển rễ nên đã và đang được ứng
dụng rộng rãi trong chống xói mòn, sạt lở và
xử lý ô nhiễm môi trường đất và nước. Cỏ
vetiver có thể sinh trưởng và phát triển mạnh
mẽ được ở những điều kiện khắc nghiệt như
nơi đất có độ chua, độ mặn, độ phèn, và độ
kiềm rất cao, có khoảng dao động nhiệt độ từ -
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 39/48
22 đến 55°C và chịu được môi trường nhiễm
kim loại nặng. Tuy nhiên, cỏ vetiver mới chỉ
được ứng dụng để xử lý đất và nước ô nhiễm
hữu cơ, kim loại nặng, chất diệt cỏ, thuốc trừ
sâu,.v.v nhưng cho đến nay chưa có nghiên
cứu chính thức nào về việc sử dụng cỏ này để
xử lý ô nhiễm các chất hữu cơ khó phân huỷ
như dioxin. Với các đặc điểm đặc biệt như có
bộ rễ rất lớn, có khả năng chịu được điều kiện
môi trường khắc nghiệt và có hàm lượng tinh
dầu rất cao nên có thể đây là kho trữ lý tưởng
cho các chất hữu cơ khó phân huỷ. Ngoài ra,
với vùng quyển rễ rộng lớn, nơi đây có thể là
điều kiện sống lý tưởng cho các vi sinh vật
(VSV) và nấm. Với sự có mặt của các vi
khuẩn và nấm này trong quyển rễ, có thể tạo
lên sự kết hợp thuận lợi, tối ưu cho quá trình
phân huỷ các chất hoá học/dioxin thành các
chất không độc. Trên các cơ sở đó, Cơ quan
chủ trì Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản
phối hợp cùng Chủ nhiệm Ngô Thị Thúy
Hường cùng thực hiện đề tài “Nghiên cứu khả
năng giảm nhẹ ô nhiễm chất độc hóa
học/dioxin của cỏ vetiver - Áp dụng thử
nghiệm tại sân bay Biên Hòa”.
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, có
thể rút ra một số kết luận như sau:
1. Cỏ vetiver giống monto có thể sinh
trưởng và phát triển tốt trên đất nghèo dinh
dưỡng và bị ô nhiễm, các chất độc hóa học và
dioxin ở nồng độ vừa và nhẹ.
2. Số liệu quan trắc sinh trưởng cỏ cho
thấy thời kỳ phát triển cực thịnh của cỏ là 8
tháng sau trồng, ở thời điểm này chiều cao
thân cỏ có thể đạt tới 2,5 m, số nhánh đạt đến
trên 30 nhánh sau 6 tháng trồng và cỏ nở hoa
đồng loạt. Sau đó cỏ vetiver bước vào giai
đoạn thoái trào phát triển, là chu kỳ sinh học
bình thường của giống cỏ này trên các môi
trường đất bình thường khác. Điều này cũng
chứng tỏ cỏ cỏ thể phát triển ổn định và bình
thường trên đất ô nhiễm các chất độc hóa học
và dioxin ở mức độ vừa và nhẹ và như vậy có
khả năng chống lan tỏa dioxin.
3. Kết quả phân tích các mẫu sinh phẩm
cho thấy, cỏ vetiver có thể hấp thụ dioxin, 2,4-
D, 2,4,5-T và As vào trong bộ rễ khổng lồ của
nó và có sự di chuyển của chất độc dioxin từ
rễ lên chồi. Mức độ hấp thụ các chất độc này
bởi cỏ vetiver chịu ảnh hưởng nhiều từ các yếu
tố tự nhiên như chu kỳ sinh trưởng, điều kiện
chăm sóc, điều kiện khí hậu, thời tiết,.v.v.
Lượng dioxin hấp thụ vào bộ rễ có thể sẽ được
phân giải hoặc chuyển hóa thành các chất ít
độc hơn.
4. VSV tổng số trong các lô trồng cỏ có
xu hướng cao hơn lô không trồng cỏ, đặc biệt
là lô có bổ sung thêm chế phẩm DECOM1.
5. Thành phần các loài cũng như tính
đa dạng của VSV cũng khác nhau giữa các lô
thí nghiệm và một lần nữa lô có bón chế phẩm
DECOM1 có mặt các VSV mà không có xuất
hiện ở các lô khác.
6. Các chất độc hóa học như 2,4-D;
2,4,5-T, As và đặc biệt là dioxin có xu hướng
giảm theo thời gian. Cụ thể là ở lô trồng cỏ có
bón chế phẩm DECOM1 giảm tới 38% (tương
đương khoảng 702 pg TEQ) và lô 2 không bón
chế phẩm giảm 24% (tương đương khoảng
735 pg TEQ) sau một năm.
Như vậy có thể khẳng định rằng cỏ
vetiver có khả năng chống lan tỏa và làm giảm
nhẹ ô nhiễm dioxin trong đất vùng ô nhiễm ở
mức độ vừa và nhẹ một cách có hiệu quả, cả
về mặt môi trường và kinh tế. Kết quả này mở
ra một triển vọng về khả năng xử lý ô nhiễm
dioxin bằng công nghệ đơn giản, chi phí thấp
và thân thiện với môi trường tại sân bay Biên
Hòa, Đồng Nai nói riêng và các điểm ô nhiễm
dioxin tại Việt Nam nói chung.
Nguồn: Vista.gov.vn, 21/09/2018
Trở về đầu trang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 40/48
**************
Công nghệ rửa đất xử lý môi trường ô nhiễm dioxin
Trung tâm Công nghệ xử lý môi
trường (Bộ Tư lệnh Hóa học) và Tập đoàn
Shimizu (Nhật Bản) vừa tổ chức lễ công bố
Biên bản ghi nhớ hợp tác và Kế hoạch thử
nghiệm công nghệ xử lý dioxin tại sân bay
Biên Hòa (Đồng Nai). Hợp tác này có ý
nghĩa quan trọng trong việc đánh giá, lựa
chọn công nghệ tiên tiến, hiệu quả, đảm
bảo an toàn trong xử lý dioxin và từng
bước nghiên cứu, làm chủ công nghệ xử lý
dioxin.
Khắc phục hậu quả chiến tranh, trong
đó có khắc phục hậu quả chất độc hóa học
dioxin đối với con người và môi trường ở
Việt Nam là vấn đề cấp bách, có tính nhân
văn sâu sắc. Dành sự quan tâm đặc biệt tới
vấn đề này, Chính phủ đã xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch quốc gia khắc phục
cơ bản hậu quả chất độc hóa học được sử
dụng trong chiến tranh ở Việt Nam. Ban Chỉ
đạo quốc gia về lĩnh vực này đã được thành
lập theo Quyết định số 651 ngày 1/6/2012 của
Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc làm Trưởng Ban Chỉ đạo quốc
gia. Theo mục tiêu của Chính phủ đặt ra, từ
nay đến 2030 sẽ làm sạch các vùng đất ô
nhiễm trên toàn quốc.
Tập đoàn Shimizu cho biết “Công nghệ
rửa đất xử lý môi trường ô nhiễm dioxin” là sự
kết hợp giữa công nghệ tẩy rửa đất và công
nghệ đốt, là giải pháp thay thế mang tính chủ
động, có hiệu quả kinh tế cao hơn so với nhiều
phương án làm sạch đất nhiễm dioxin khác.
Công nghệ tẩy rửa đất có hai ưu điểm chính là
giảm thiểu chất thải và hiệu quả kinh tế. Chi
phí làm làm sạch đất thấp hơn nhờ việc giảm
khối lượng tuyệt đối đất nhiễm bẩn và đất có
chứa chất ô nhiễm được cô đặc (bùn bánh), xử
lý bằng phương pháp làm sạch thứ cấp. Đốt là
phương pháp hiệu quả, đáng tin cậy nhất để
phá hủy các chất ô nhiễm khó phân hủy như
dioxin. Việc kết hợp sử dụng dụng công nghệ
tẩy rửa đất và đốt sẽ giúp nâng cao hiệu quả và
tiết kiệm chi phí trong xử lý đất. Khối lượng
đất bị ô nhiễm dioxin mà công nghệ tẩy rửa
đất có thể chấp nhận và xử lý càng lớn, hiệu
quả kinh tế của việc sử dụng kết hợp hai công
nghệ càng cao.
Trên thực tế, từ tháng 9/2015, Shimizu
đã bắt đầu thử nghiệm việc làm sạch một số
mẫu đất bị ô nhiễm của sân bay Biên Hòa
trong phòng thí nghiệm. Kết quả cho thấy có
thể loại bỏ đến 95% dioxin trong đất ó mức ô
nhiễm ở cấp độ từ thấp đến trung bình; đồng
thời có thể khôi phục lại khoảng 70% đất bị ô
nhiễm, đưa về trạng thái sử dụng được. Công
nghệ rửa đất mà Shimizu sẽ sử dụng ở Biên
Hòa hiện cũng đang được thực hiện ở 14 địa
điểm trong nước Nhật Bản.
Theo kế hoạch, một nhà máy tẩy rửa
đất toàn diện (công suất tối đa 40 tấn/giờ) sẽ
được lắp đặt vào cuối tháng 12 tới và khởi
động thử nghiệm làm sạch đất trong khu vực
sân bay từ đầu tháng 1/2019. Tập đoàn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 41/48
Shimizu đảm nhận viện xây dựng và vận
chuyển, lắp ráp, quản lý vận hành nhà máy
tẩy rửa và thực nghiệm tẩy rửa tại hiện
trường. Bộ Quốc phòng đảm nhận việc chuẩn
bị mặt bằng, cải thiện cơ sở hạ tầng xung
quanh và những phần việc khác.
Nguồn: Vista.gov.vn, 13/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu và sử dụng bã trà làm chất hấp phụ Cd, Pb và Ni trong nước thải công nghiệp
Hiện nay vấn nạn ô nhiễm môi
trường do các kim loại nặng và các chất
hữu cơ khá nghiệm trọng. Các chất gây ô
nhiễm này khi xâm nhập vào cơ thể con
người qua đường hô hấp, đường miệng,
qua da… với hàm lượng vượt quá giới hạn
cho phép sẽ gây rối loạn chức năng sinh lý
của cơ thể sống, gây các bệnh ung thư,
thần kinh. Vì vậy, việc nghiên cứu loại bỏ
chúng ra khỏi môi trường nước có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Đứng trước thách
thức, các nước phát triển trên thế giới cũng
đang tập trung và nghiên cứu phát triển
công nghệ xử lý kim loại nặng bằng cách
sử dụng bã trà.
Hiện có một số phương pháp khác
nhau để loại bỏ kim loại nặng ra khỏi môi
trường nước như phương pháp trao đổi ion,
thẩm thấu ngược, lọc nano, kết tủa hoặc hấp
phụ... Trong đó hấp phụ là một trong những
phương pháp có nhiều ưu điểm như vật liệu
sử dụng làm chất hấp phụ tương đối phong
phú, dễ điều chế, chi phí thấp, thân thiện với
môi trường, tách loại được đồng thời nhiều
ion kim loại trong dung dịch, có khả năng tái
sử dụng được vật liệu hấp phụ và thu hồi kim
loại, quy trình xử lý đơn giản đặc biệt không
làm nguồn nước ô nhiễm thêm. Chính vì vậy
đây là một vấn đề đang và được nhiều nhà
khoa học quan tâm, nghiên cứu.
Trong lĩnh vực xử lý môi trường, việc
sử dụng các vật liệu nano làm chất hấp phụ
được phát triển từ cuối thế kỉ XX. Các vật
liệu hấp phụ nguồn gốc tự nhiên đã được
nghiên cứu và ứng dụng như: Vỏ trấu, bã mía,
xơ dừa, vỏ lạc, than bùn, xỉ than, vỏ sò... Bã
trà là chất thải của loại thức uống phổ biến
của nhiều quốc gia trên thế giới như: Trung
Quốc, Ấn Độ, Srilanca, Indonexia, Ai Cập,
Achentina, Braxin, Cộng hoà Liên bang
Nga...
Ở Việt Nam, trà được trồng trong
khoảng 30 tỉnh, trung du 14 tỉnh trong đó
vùng trung du và miền núi phía Bắc chiếm
khoảng trên 60%, Tây Nguyên khoảng 14%,
còn lại là các vùng khác. Bã trà được nghiên
cứu là có tiềm năng chế tạo vật liệu hấp phụ
để xử lý môi trường.
Trên cơ sở các nghiên cứu trong ngoài
nước và nhu cầu cần xử lý nguồn nước thải
công nghiệp, nhóm nghiên cứu do TS.
Nguyễn Trung Sơn, Trường Cao đẳng Kinh tế
- Kỹ thuật Thương mại đứng đầu đã đề xuất
nhiệm vụ nghiên cứu liên quan đến việc sử
dụng bã trà để xử lý kim loại nặng nhằm góp
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 42/48
phần bảo vệ môi trường và giảm chi phí xử lý
các kim loại nặng độc hại. Ưu điểm của
phương pháp là tận dụng các phụ phẩm nông
nghiệp, công nghiệp làm vật liệu hấp phụ để
xử lý nguồn nước ô nhiễm. Hơn nữa nguồn
nguyên liệu này rẻ tiền, sẵn có, không đưa
thêm các chất độc hại khác vào môi trường.
Đây cũng là hướng nghiên cứu hoàn toàn
mới, không trùng lặp với các đề tài đã và
đang thực hiện tại Việt Nam.
Sau một thời gian triển khai nghiên
cứu, nhóm nghiên cứu đã thu được các kết
quả như sau:
1. Đã nghiên cứu xử lý và các phương
pháp biến tính bã trà ứng dụng cho hấp phụ
kim loại nặng trong nước thải, từ đó lựa chọn
được phương pháp sử dụng Fe3O4 để biến
tính bã trà trong quá trình xử lý tinh các kim
loại nặng trong nước thải.
2. Đã khảo sát và đưa ra quy trình xử
lý nước thải gồm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1,
thực hiện ở pH = 4 - 5 nhằm tách kim loại Ni
và một phần Cd. Giai đoạn 2, thực hiện ở pH
= 5 -6 nhằm tách kim loại Pb và phần Cd còn
lại.
3. Lượng chất hấp phụ bã trà biến tính
thích hợp cho tách kim loại giai đoạn 1 là
10% (kl), cho giai đoạn 2 là 5 - 10% (kl).
4. Với nước thải công nghiệp, cần có
quá trình xử lý sơ bộ (phương pháp keo tụ)
nhằm tách các chất thải khác như
hydrocacbon, chất hoạt động bề mặt trước khi
tiến hành tách kim loại nặng bằng phương
pháp sử dụng bã trà biến tính để hấp phụ
nhằm tăng hiệu quả hoạt động cho quá trình
hấp phụ.
5. Với nước thải có nồng độ kim loại
nặng cao (trên 100ppm) nên sử dụng bã trà
rửa sạch, sấy khô để tách sơ bộ đưa về nồng
độ khoảng vài chục ppm, sử dụng bã trà than
hóa một phần để tách kim loại nặng ở nồng
độ vài chục ppm đưa về nồng độ khoảng
10ppm sau đó sử dụng bã trà biến tính bằng
Fe3O4 để tách kim loại nặng về đạt tiêu
chuẩn (theo cột B QCVN 40:2011/BTNMT).
6. Vật liệu bã trà biến tính có khả năng
xử lý thực tế đạt yêu cầu theo cột B QCVN
40: 2011 với nước thải của nhà máy sơn, mạ
phụ tùng xe máy.
Nguồn: Vista.gov.vn, 12/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Quản lý đê điều bằng khoa học công nghệ
Chống tràn tuyến đê tả Bùi (huyện Chương Mỹ) bằng phương pháp truyền thống.
Biến đổi khí hậu làm xuất hiện ngày
càng nhiều loại hình thiên tai có nguồn gốc
thủy văn, gây áp lực lớn cho hệ thống công
trình phòng, chống lũ, bão. Vì vậy, việc
nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ để
bảo đảm an toàn hệ thống đê điều đang trở
thành nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
Là “thành phố trong sông”, Hà Nội có
hệ thống đê điều lớn nhất so với 19 tỉnh,
thành phố có đê. Trên địa bàn thành phố hiện
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 43/48
có hơn 626km đê được phân cấp; trong đó có
gần 38km đê cấp đặc biệt, hơn 249km đê cấp
I, hơn 45km đê cấp II, hơn 72km đê cấp III...
Ngoài nhiệm vụ chống lũ từ thượng nguồn
sông Đà, sông Hồng và lũ rừng ngang từ tỉnh
Hòa Bình đổ về, phần lớn các tuyến đê của
TP Hà Nội được sử dụng làm đường giao
thông.
Hiện TP Hà Nội giao Chi cục Đê điều
và Phòng, chống lụt bão Hà Nội quản lý các
tuyến đê từ cấp III đến cấp đặc biệt; các quận,
huyện, thị xã quản lý các tuyến đê còn lại. Để
nâng cao hiệu quả quản lý các tuyến đê, những
năm qua, Chi cục Đê điều và Phòng, chống lụt
bão Hà Nội đã triển khai ứng dụng công nghệ
thông tin trong lập hồ sơ lý lịch đê điều bằng
công nghệ số; sử dụng thiết bị hiện đại để
“siêu âm” thân đê, đánh giá hiện trạng đê…
Tuy nhiên, đối với các quận, huyện,
thị xã, việc quản lý đê hiện nay vẫn chủ yếu
bằng phương pháp thủ công là lập hồ sơ lý
lịch đê điều bằng sổ sách, sử dụng bản đồ
giấy, tài liệu giấy, thu nhận thông tin chủ yếu
qua điện thoại…
Ông Vũ Xuân Thành, Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục Phòng, chống thiên tai (Bộ
NN&PTNT) cho biết, Tổng cục Phòng, chống
thiên tai đã nghiên cứu và ứng dụng thành
công các đề tài quản lý đê điều bằng hệ thống
bản đồ số; theo dõi mực nước trên các tuyến
sông có đê bằng thiết bị tự động... Việc tăng
cường đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ
trong quản lý đê sẽ giúp cơ quan chuyên môn
nắm bắt thông tin đầy đủ, kịp thời, tham mưu
hiệu quả, nhất là khi thực hiện nhiệm vụ chỉ
đạo hộ đê.
Ngoài ra, Tổng cục Phòng, chống thiên
tai sử dụng phương pháp điện đa cực, radar
đất kết hợp với phương pháp đo nhiệt hồng
ngoại để phát hiện các ẩn họa trong đê như:
Hang rỗng, tổ mối, bất đồng nhất vật liệu, khe
nứt, vùng thấm, đường bão hòa… mà không
cần phá hủy kết cấu tuyến đê. Để chống tràn
các tuyến đê, các cơ quan chuyên môn của Bộ
NN&PTNT đã nghiên cứu và ứng dụng thành
công giải pháp sử dụng đê di động.
Với nguyên lý hoạt động: Dùng ống đê
mềm có cấu tạo chống trượt, lật, bên trong
bơm nước đặt trên mặt đê để chống tràn. Khi
không sử dụng, tháo bỏ nước bên trong ống
đê và cất vào kho bảo quản. Ưu điểm của giải
pháp này là tính cơ động, có thể di chuyển
nhanh và dễ dàng; tái sử dụng nhiều lần và
dùng chính nguồn nước sẵn có nên tiết kiệm
kinh tế; thời gian vận hành nhanh, xử lý trên
chiều dài lớn, cho hiệu quả cao, đáp ứng yêu
cầu chống lũ khẩn cấp. Đê di động thường
được thiết kế có chiều cao 0,5m đến 1m hoặc
lớn hơn tùy theo yêu cầu.
Theo ông Phạm Quang Đông, Trưởng
phòng Quản lý đê (Chi cục Đê điều và Phòng,
chống lụt bão Hà Nội), đơn vị đang đánh giá
thực trạng và đề xuất UBND thành phố bố trí
kinh phí ứng dụng khoa học công nghệ trong
quản lý, bảo đảm an toàn, phù hợp với thực tế
từng tuyến đê.
Nguồn: Vista.gov.vn, 13/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 44/48
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
TT Tên đề tài/Dự án Chủ nhiệm/CQ chủ trì
1 Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo mô hình cáp kéo thuyền
trong khu du lịch sinh thái.
PGS.TS. Nguyễn Hồng
Ngân - Trường Đại học Bách
Khoa TP. HCM
2 Nghiên cứu bào chế thuốc tiêm đông khô liposome
paclitaxel từ nguồn lipid đậu nành.
TS. Nguyễn Đại Hải - Viện
Khoa học Vật liệu ứng dụng
3
Nghiên cứu tổng hợp phức chất carboplatin/PAMAM
và oxaliplatin/PAMAM định hướng làm thuốc chống
ung thư.
GS.TS. Nguyễn Cửu Khoa -
Viện Khoa học Vật liệu ứng
dụng
4
Nghiên cứu bào chế và đánh giá tương đương sinh
học của viên nén bao phim chứa metoprolol 50mg
phóng thích kéo dài và amlodipin 5 mg phóng thích
tức thời.
ThS. Nguyễn Thị Linh
Tuyền - Trung tâm Khoa
học Công nghệ Dược Sài
Gòn
5
Nghiên cứu và xây dựng phần mềm tích hợp dữ liệu
bản đồ để nâng cao hiệu quả công tác quản lý và khai
thác Mạng thông tin chỉ huy điều hành Quân khu 7
tại Sở Chỉ huy thường xuyên.
ThS. Hoàng Tuấn - Viện
công nghệ thông tin
6
Thiết kế, gia công, chế tạo hệ thống lọc nước biển
thành nước ngọt, có thể sử dụng nguồn điện mặt trời
hoặc điện gió cho bộ đội tại đảo Sinh Tồn Đông -
Trường Sa. Công suất 300 lít nước sinh hoạt/giờ.
TS. Nguyễn Như Dũng -
Viện KH&CN quân sự, Cơ
quan Đại diện phía Nam
7
Nghiên cứu chế tạo mẫu sinh phẩm đo số lượng hồng
cầu, bạch cầu, tiểu cầu trong kiểm tra chất lượng xét
nghiệm huyết học.
TS. Trần Hữu Tâm - Trung
tâm kiểm chuẩn xét nghiệm
thành phố
8
Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào
gan bằng phương pháp đốt vi sóng.
ThS.BSCKII. Nguyễn Đình
Song Huy - Bệnh Viện Chợ
Rẫy
Trở về đầu trang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 45/48
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
TT Ngày Tên đề tài/ Dự án
Chủ nhiệm/ CQ chủ
trì
Ngành Kinh tế
1 31/08/2018
Nghiên cứu đề xuất công cụ phục vụ kiểm toán năng
lượng lồng ghép đánh giá tiềm năng sản xuất sạch
hơn cho một số ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh
Bình Dương.
GS.TS Lê Thanh
Hải - Viện Môi
trường và Tài
nguyên (thuộc Đại
học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh)
2 04/09/2018 Lập kế hoạch kiểm toán các dự án công trình thủy lợi
dựa trên đánh giá rủi ro và xác định trọng yếu.
KS. Nguyễn Hữu
Trí và KS. Phan
Thế Đức - Kiểm
toán nhà nước
3 06/09/2018
Nghiên cứu xây dựng đề cương kiểm toán chuyên đề
quản lý và sử dụng nguồn vốn chuyển đổi đất quốc
phòng.
ThS. Nguyễn Tiến
Đạt; ThS. Mai Hải
Cường - Kiểm toán
nhà nước
4 21/09/2018
Hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các
doanh nghiệp sản xuất và chế biến chè trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.
TS. Trần Thị Nhung
- Trường Đại học
Kinh tế & Quản trị
kinh doanh - Đại
học Thái Nguyên
Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật
5 30/08/2018
Nghiên cứu tính toán thiết kế và thử nghiệm hố ga thu
nước ngăn mùi không muỗi tại tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.
TS. Nguyễn Đức
Quý - Trường Đại
học Bà Rịa - Vũng
Tàu và ông Hồ Viết
Vẻ - Công ty
TNHH Sigen
6 31/08/2018 Nâng cao tính thực tiễn trong giảng dạy các môn Luật
tại Cơ sở II Trường Đại học Ngoại thương.
ThS. Lưu Thị Bích
Hạnh - Trường Đại
học Ngoại thương
Cơ sở 2 tại TP.
HCM
7 03/09/2018 Nâng cao tính thực tiễn trong giảng dạy tiếng Anh
chuyên ngành tại Trường Đại học Ngoại thương Cơ
ThS. Lê Hồng Linh
- Trường Đại học
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 46/48
sở II TP.HCM. Ngoại thương Cơ sở
2 tại TP. HCM
8 06/09/2018
Nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất
lúa theo quy mô cánh đồng mẫu lớn ở tỉnh Quảng
Bình.
Th.S Lê Văn Nam -
Trường Đại học
Nông Lâm – Đại
học Huế
9 14/09/2018
Ảnh hưởng của tannin kết hợp với biochar bổ sung
vào khẩu phần cơ sở đến tiêu hóa dạ cỏ và lượng
methane thải ra trong điều kiện invitro.
TS. Mai Anh Khoa
- Đại học Thái
Nguyên
10 23/09/2018
Nghiên cứu hệ thống rút gọn văn bản, chuyển đổi cú
pháp và biểu diễn đồ họa 3D ngôn ngữ ký hiệu Việt
Nam.
PGS.TS. Phùng
Trung Nghĩa -
Trường Đại học
Công nghệ thông
tin và Truyền thông
11 27/09/2018 Thử nghiệm sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm
cá niên tại Quảng Nam.
Th.S Nguyễn Công
Dưỡng Trung tâm
chọn giống cá rô
phi
12 27/09/2018 Nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị thu hoạch, chẻ và
thiết bị sấy cây lác ở tỉnh Vĩnh Long.
Trường ĐH Sư
phạm kỹ thuật Vĩnh
Long
13 28/09/2018
Nghiên cứu thiết kế, cải tiến động cơ diesel 1 xylanh
sang hoạt động theo nguyên lý cháy do nén hỗn hợp
đồng nhật (HCCI).
TS. Khương Thị Hà
- Trường Đại học
Giao thông vận tải
14 28/09/2018 Nghiên cứu xây dựng sổ tay điện tử hỏi - đáp theo các
văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành.
CN.Đỗ Thị Diễm -
Học viện Cán bộ
Quản lý Xây dựng
& Đô thị (AMC)
15 28/09/2018 Đánh giá thực trạng và hiệu quả chăn nuôi trâu ở
nông hộ tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ông Dương Thanh
Hải - Trường Đại
học Nông Lâm –
Đại học Huế
Ngành Y Dược
16 30/08/2018 Nghiên cứu ghép thùy phổi hoặc một phổi từ người
cho chết não hoặc người cho sống.
GS.TS Đỗ Quyết -
Học viện Quân y
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 47/48
Ngành Giáo dục đào tạo
17 22/08/2018 Nghiên cứu xây dựng nội dung chương trình đào tạo
các ngành của Trường Đại học Thống kê.
TS. Nguyễn Ngọc
Tú - Trường Cao
đẳng Thống kê
18 24/09/2018 Nghiên cứu việc dạy học trong môi trường đa văn hóa
ở vùng dân tộc miền núi phía Bắc.
PGS.TS. Ngô Thị
Thanh Quý - Đại
học Thái Nguyên
Ngành văn hóa xã hội
19 12/09/2018
Chương trình, tài liệu tiếng Raglai dành cho cán bộ,
công chức, viên chức công tác vùng dân tộc, miền núi
tỉnh Ninh Thuận.
UBND tỉnh Ninh
Thuận
20 14/09/2018 Cơ sở khoa học xây dựng khung năng lực mẫu cho
một số vị trí việc làm ở Bộ Nội vụ.
ThS. Phạm Đức
Toàn - Viện Khoa
học tổ chức nhà
nước
21 18/9/2018
Nâng cao đạo đức, phong cách của cán bộ, công chức,
viên chức trong Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đặng Đình Bình và
Phạm Văn Lực -
Ban Quản lý Lăng
Chủ tịch Hồ Chí
Minh
22 20/09/2018 Sự tham gia thị trường của các hộ dân tộc thiểu số
vùng biên giới Đông Bắc.
TS. Vũ Vân Anh -
Đại học Thái
Nguyên
23 21/09/2018
Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng thực
phẩm an toàn của người tiêu dùng thành phố Hồ Chí
Minh.
ThS. Nguyễn Thúy
Phương - Trường
Đại học Ngoại
thương Cơ sở 2 tại
TP. HCM
24 24/09/2018
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng xã, thị trấn ở huyện Châu Thành,
tỉnh Bến Tre hiện nay.
ThS. Đoàn Thị Mao
- Trường Chính trị
tỉnh Bến Tre
25 24/9/2018
Nghiên cứu ứng dụng tri thức bản địa đồng bào dân
tộc Thái miền Tây Nghệ An trong phát triển kinh tế -
xã hội.
TS. Lê Thị Hiếu -
Trung tâm Khoa
học xã hội và nhân
văn Nghệ An
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 48/48
26 28/9/2018
Nghiên cứu những tác động của tôn giáo trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay.
PGS. TS Lê Bá
Trình - Ban Thường
trực Ủy ban Trung
ương MTTQ Việt
Nam
27 28/9/2018
Quan hệ phối hợp giữa MTTQ Việt Nam với các cơ
quan, tổ chức trong công tác theo dõi tình hình thi