Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 1/44 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 11/2018 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Chế tạo robot chữa cháy Nghiên cứu thiết kế platform trên cơ sở bộ xử lý Java 32 bit hỗ trợ phát triển các thiết bị di động cầm tay kết nối tới các mạng di động thế hệ sau 42 đội Robotics nhí Hà Nội tranh tài tham dự Robothon quốc tế CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY Chế tạo tàu mini không người lái khảo sát trên biển Nghiên cứu xây dựng quy trình kiểm định nồi (lò) hơi thu hồi nhiệt VẬT LIỆU – HÓA CHẤT Nghiên cứu chế tạo hệ chất tẩy rửa cặn hydrocacbon và ứng dụng chúng để làm sạch các đường ống dẫn, đảm bảo an toàn môi trường biển khi hủy bỏ giếng khai thác dầu khí Nghiên cứu thiết lập quy trình đo liều cá nhân sử dụng liều kế quang phát quang (OSL) đối với trường bức xạ photon và trường bức xạ hỗn hợp notron, photon Nghiên cứu chế tạo màng lọc hiệu năng cao bằng phương pháp trùng hợp ghép bề mặt, ứng dụng trong siêu lọc và lọc nano Nghiên cứu, phân tích tính tự cháy của than, đề xuất giải pháp thiết kế hệ thống phòng chống cháy của than tại mỏ than Đông Tràng Bạch CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM Chế biến phế phụ phẩm ngành điều thành Thực phẩm giàu dưỡng chất Chế tạo màng sinh học bảo quản dâu tây CÔNG NGHỆ SINH HỌC Việt Nam sản xuất chế phẩm sinh học rẻ hơn nhập khẩu 30% Nhà khoa học trẻ người Việt phát hiện 8 loài vi khuẩn mới Hoàn thiện công nghệ sản xuất và sử dụng chế phẩm vi sinh vật xử lý phế thải chế biến tinh bột sắn
44
Embed
BẢN TIN THÁNG 11/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/02/Bantin_thanhtuu_KHCNVN_11-2018.pdf · giải quyết các bài toán phức tạp đặt ra được
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 1/44
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 11/2018
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo robot chữa cháy
Nghiên cứu thiết kế platform trên cơ sở bộ xử lý Java 32 bit hỗ trợ phát triển các thiết bị di
động cầm tay kết nối tới các mạng di động thế hệ sau
42 đội Robotics nhí Hà Nội tranh tài tham dự Robothon quốc tế
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chế tạo tàu mini không người lái khảo sát trên biển
Nghiên cứu xây dựng quy trình kiểm định nồi (lò) hơi thu hồi nhiệt
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu chế tạo hệ chất tẩy rửa cặn hydrocacbon và ứng dụng chúng để làm sạch các
đường ống dẫn, đảm bảo an toàn môi trường biển khi hủy bỏ giếng khai thác dầu khí
Nghiên cứu thiết lập quy trình đo liều cá nhân sử dụng liều kế quang phát quang (OSL) đối
với trường bức xạ photon và trường bức xạ hỗn hợp notron, photon
Nghiên cứu chế tạo màng lọc hiệu năng cao bằng phương pháp trùng hợp ghép bề mặt, ứng
dụng trong siêu lọc và lọc nano
Nghiên cứu, phân tích tính tự cháy của than, đề xuất giải pháp thiết kế hệ thống phòng chống
cháy của than tại mỏ than Đông Tràng Bạch
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Chế biến phế phụ phẩm ngành điều thành Thực phẩm giàu dưỡng chất
Chế tạo màng sinh học bảo quản dâu tây
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Việt Nam sản xuất chế phẩm sinh học rẻ hơn nhập khẩu 30%
Nhà khoa học trẻ người Việt phát hiện 8 loài vi khuẩn mới
Hoàn thiện công nghệ sản xuất và sử dụng chế phẩm vi sinh vật xử lý phế thải chế biến tinh
bột sắn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 2/44
NÔNG NGHIỆP
Máy xẻ gỗ “cải tiến”
Máy tách lạc quay tay
Máy thái sắn
Nuôi ong ký sinh diệt bọ dừa ở Bến Tre
Nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong nuôi tôm
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sau thu hoạch xử lý hơi nước nóng trừ ruồi đục quả vú sữa
phục vụ xuất khẩu
Tạo giống lúa chống stress
Hợp tác nghiên cứu, thiết kế và chế tạo hệ thống giám sát sử dụng mạng cảm biến không dây
trong kiểm soát chất lượng và tiết kiệm năng lượng cho chuỗi hậu cần thủy sản lạnh
MÔI TRƯỜNG
Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị hấp thụ kiểu Rainstorm
Nghiên cứu hiệu quả kinh tế trong giảm nhẹ khí nhà kính cho lĩnh vực quản lý chất thải
LĨNH VỰC KHÁC
Vinh danh 63 nông dân Việt sáng tạo trong sản xuất
Việt Nam sản xuất vệ tinh quan sát Trái Đất để dự báo thiên tai
Việt Nam làm chủ tịch Ủy ban vệ tinh quan sát Trái Đất 2019
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 3/44
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo robot chữa cháy
Robot chữa cháy điều khiển từ xa bằng sóng RF của Hương và Tuấn
Trăn trở trước những tổn thất nặng nề
do hỏa hoạn gây ra đối với tài sản và tính
mạng con người, năm học 2017-2018, Lê Mai
Hương và Trần Văn Tuấn (học sinh lớp 9
trường THCS Lâm Mộng Quang, huyện Phú
Lộc, Thừa Thiên Huế) đã chế tạo thành công
sản phẩm robot chữa cháy điều khiển từ xa
bằng sóng RF.
Hương và Tuấn cho biết, bản thân vẫn
thường xuyên theo dõi tin tức và nhận thấy có
hàng ngàn vụ cháy xảy ra mỗi năm ở nước ta,
khiến hàng chục người chết và bị thương,
thiệt hại lên tới hàng ngàn tỷ đồng, gây ra bao
khó khăn, vất vả cho các gia đình bị thiệt hại.
Thế nhưng, các phương tiện cứu hỏa sẵn có
chưa đáp ứng được nhu cầu phòng cháy chữa
cháy hiện nay.
Một điều đáng chú ý là tại các thành
phố lớn, dân cư đông đúc, một khi xảy ra hỏa
hoạn, lực lượng phòng cháy chữa cháy rất
khó tiếp cận vì đám cháy nằm trong hẻm nhỏ,
ngoằn ngoèo, các xe chữa cháy lớn và cồng
kềnh không vào được. “Từ đó, nhóm chúng
em hình thành ý tưởng robot chữa cháy điều
khiển từ xa bằng sóng RF để giúp cho lực
lượng phòng cháy chữa cháy giảm bớt áp lực
nguy hiểm đến tính mạng và giải quyết được
những vấn đề khó khăn trên”, Tuấn cho biết.
Để làm ra được chú robot hoàn chỉnh,
hai em đã tận dụng triệt để các sản phẩm đã
hỏng như động cơ điện một chiều, động cơ
quạt trong máy tính, động cơ làm cần gạt nước
của các xe ô tô cũ (mua từ phế liệu), bộ điều
khiển từ xa tận dụng từ xe đồ chơi của trẻ
em… và chỉ mua mới một camera hồng ngoại.
Nói về tính mới và sáng tạo của đề tài
này, Hương chia sẻ, thay các bánh xe tải thông
thường bằng bánh xích có bản bằng cao su
chịu nhiệt cao để xe robot vượt qua được mọi
địa hình mà xe cứu hỏa hiện nay không qua
được. Với giá thành rẻ, nguyên liệu dễ tìm, dễ
chế tạo, kích thước gọn nhưng động cơ cực
mạnh, vòi phun có thể phun nước đi xa với
khoảng cách gấp 10 lần chiều dài robot.
“Ngoài ra, nó có khả năng điều khiển
dập tắt và giám sát đám cháy từ xa bằng RF
kết hợp với camera hồng ngoại. Robot có khả
năng làm việc trong môi trường khắc nghiệt,
độc hại, cháy nổ, phóng xạ như khói, bụi, ban
đêm... Đồng thời, camera có thể truyền hình
ảnh hiện trường, vị trí người bị nạn, vị trí đám
cháy, kết cấu hạ tầng ra bên ngoài ở những
vùng không có sóng wifi”, Hương cho hay.
Theo đó, nhờ hệ thống bánh xích có
bản bằng cao su chịu lực và nhiệt cao, xe
robot có thể kéo vòi phun nước vượt qua mọi
địa hình để dập tắt đám cháy. Chưa hết, nhờ
hai động cơ điện một chiều đấu ngược nhau
nên xe robot có thể giật lùi, tiến tới, quay trái,
quay phải với một góc quay tùy ý. Ngoài ra,
vòi phun có thể nâng lên hay hạ xuống để
phun nước dập tắt đám cháy ở mọi góc độ.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 4/44
Sắp tới, nhóm phát triển thêm hệ thống
thang trượt để đưa robot lên những tòa nhà
cao tầng, dập tắt đám cháy trên cao trong khi
hầu hết xe cứu hỏa hiện nay không phun tới.
Ngoài ra còn tiếp tục phát triển sử dụng các
cảm biến nhiệt độ, vật thể, tia hồng ngoại,
camera giám sát để robot có khả năng tránh
vật cản, nhìn xuyên được khói bụi, phát hiện
nguy hiểm, người bị nạn truyền về trung tâm
điều khiển.
Nguồn: Vista.gov.vn, 31/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu thiết kế platform trên cơ sở bộ xử lý Java 32 bit hỗ trợ phát triển các thiết bị di động cầm tay kết nối tới các mạng di động thế hệ sau
Thông báo khi đã gửi cảnh báo thành công về trung tâm.
Ngày nay, khi các bộ vi xử lý đã trở
nên nhanh hơn, gọn hơn, công suất tiêu thụ và
giá thành giảm, hay nói cách khác các bộ vi
xử lý đã thông minh hơn rất nhiều, thì việc
giải quyết các bài toán phức tạp đặt ra được
tập trung nhiều vào phần mềm. Và lúc này,
các platform ra đời. Platform là sự kết hợp
giữa một kiến trúc phần cứng và một nền tảng
phần mềm cơ bản cho phép các ứng dụng
phía trên hoạt động trên nó. Một platform
điển hình sẽ gồm một kiến trúc phần cứng -
đặc trưng bởi kiến trúc máy tính bên trong nó,
một hệ điều hành và các ngôn ngữ lập trình
cùng các giao diện người sử dụng liên quan
(các thư viện hệ thống run-time).
Theo sự phát triển không ngừng của
công nghệ thông tin, điện tử viễn thông trong
nước hiện nay là nhu cầu về các thiết bị di
động cầm tay thông minh hỗ trợ cho các mục
đích giải trí, làm việc, kết nối tới các mạng
thế hệ sau... của người tiêu dùng. Một cột
mốc quan trọng đánh dấu bằng việc chuyển
sang cung cấp các dịch vụ 3G và hướng tới sẽ
phát triển lên 4G của các nhà mạng trong
nước. Theo đó là sự bùng nổ về thị trường các
thiết bị đầu cuối. Tuy nhiên, thực trạng đáng
buồn là hầu hết các thiết bị này đều nhập
ngoại, thị trường bị thao túng bởi các nhà
cung cấp nước ngoài, tiêu tốn chi phí ngoại tệ
cho nhập khẩu đáng kể, gây ảnh hưởng đến
nền kinh tế.
Theo những tình hình trên, nhóm thực
hiện đề tài “Nghiên cứu thiết kế platform trên
cơ sở bộ xử lý Java 32 bit hỗ trợ phát triển
các thiết bị di động cầm tay kết nối tới các
mạng di động thế hệ sau” gồm Cơ quan chủ
trì đề tài Học viện Công nghệ BCVT Việt
Nam cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài/dự
án TS. Đặng Hoài Bắc đề xuất thiết kế thử
nghiệm nền tảng (platform) dành cho phát
triển các thiết bị di động cầm tay (handheld
device) phục vụ kết nối tới các mạng thế hệ
sau như điện thoại di động, thiết bị định vị
các nhân, máy tính bảng,... cung cấp một
platform cho phát triển các thiết bị đầu cuối
ứng dụng các mạng di động thế hệ sau hướng
tới thị trường trong nước sử dụng bộ vi xử lý
Java 32-bit.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
7Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 5/44
- Phát triển hệ thống Telematics car
- Nhóm đề tài đã phát triển hệ thống
Telematics car trong đó sử dụng chip aJile
200 và platform Java do nhóm nghiên cứu
PTIT thiết kế. Hệ thống này bao gồm một
server và một thiết bị trên xe.
Thiết bị có các tính năng chính như sau:
- Màn LCD-Touch screen hiện thị nội
dung và tương tác với lái xe.
- Hiển thị vị trí hiện tại của phương
tiện trên bản đồ số
- Nhận cảnh báo tắc đường/ tai nạn từ
trung tâm
- Gửi thông tin cảnh báo tai nạn và tắc
đường về trung tâm
- Gọi cứu hộ khi gặp tình huống khẩn
cấp
- Lưu trữ hành trình như một hộp đen
- Tự động thu phí
- Tính năng thiết lập/ nhận cuộc gọi
- Tính năng truy cập mạng Internet
- Tính năng hỗ trợ quản lý danh bạ,
xem lịch
- Phát triển hệ thống giám sát an ninh
dùng camera
Hệ thống giám sát an ninh dùng
camera bao gồm các thành phần sau:
1. Client
Client được sử dụng trong hệ thống
này là một smartphone hỗ trợ chạy hệ điều
hành IOS hoặc Android.
Thiết bị client có chức năng yêu cầu
giám sát và nhận cảnh báo. Các bản tin thông
báo sẽ được gửi về client, cũng như nhận các
hình ảnh và video giám sát.
Ngoài ra thiết bị client có một nhiệm
vụ quan trọng là cài đặt và cấu hình thiết bị
giám sát video thông minh. Quá trình này sẽ
cài đặt thông số mạng Wifi (mã SSID, mật
khẩu, kênh sử dụng) để kết nối thiết bị giám
sát với máy chủ trung gian lưu trữ và thiết lập
tài khoản gmail để biết địa chỉ gửi nhận tin
thông báo. Cả quá trình đồng bộ sử dụng giao
thức UPnP.
2. Thiết bị giám sát, cảnh báo
Sử dụng thiết bị xử lý thuần Java
aJ_PTIT
Bộ vi xử lý Java trong hệ thống giám
sát video thông minh có chức năng xử lý các
sự kiện thu được từ các cảm biến âm thanh và
tiếng động. Sau đó gửi các sự kiện lên một
máy chủ để quản lý và thống kê. Chúng nhận
tất cả các sự kiện thu được từ các cảm biến
sau đó sử dụng các thuật toán để xác định
xem có người lạ đột nhập không. Khi xác
định được có người lạ đột nhập vào, cảm biến
hình ảnh đồng thời là camera sẽ chụp lại hình
ảnh (hoặc đoạn video) có thay đổi trong khu
vực giám sát rồi gửi về máy chủ. Khi dữ liệu
ở trên máy chủ các thông báo sẽ được máy
chủ gửi về thiết bị smart phone một cách
nhanh chóng.
3. Hệ thống nhận thực
Sử dụng Server nhận thực Google App
(XMPP)
Hệ thống nhận thực người sử dụng
bằng ứng dụng được cài đặt trên Client.
Muốn sử dụng hệ thống, người dùng phải
thỏa mãn hai điều kiện: Thứ nhất phải có tài
khoản gmail hợp lệ, thứ hai là tài khoản này
cần được thiết bị aJ_PTIT lưu trữ trong quá
trình cấu hình. Khi thỏa mãn hai điều kiện
này, người sử dụng sẽ được phép tùy biến hệ
thống giám sát video này.
4. Thiết bị lưu trữ thống kê
7Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 6/44
Sử dụng Server do PTIT R&D phát
triển.
Để đảm bảo tính bảo mật, tất cả tài
nguyên, nhật ký sử dụng của hệ thống sẽ
được lưu trữ và thống kê trên Server do nhóm
phát triển. Khi có yêu cầu từ người sử dụng,
tất cả file cảnh báo cũng như giám sát của hệ
thống sẽ được gửi về cho người dùng cũng
như các cơ quan điều tra chức năng.
Tương tự trên, tất cả các thiết bị trên
được phát triển dựa trên platform Java do
nhóm thiết kế PTIT thực hiện, các phần mềm
đều được viết bằng ngôn ngữ Java, tuân thủ
các tiêu chuẩn Java Specification Language
của Oracle..
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
42 đội Robotics nhí Hà Nội tranh tài tham dự Robothon quốc tế
Thí sinh tham gia cuộc thi Robothon ở mức độ sơ cấp.
Hai đội Robotics xuất sắc ở mức sơ
cấp và trung cấp đã giành vé vô địch tiếp tục
tham dự đấu trường Robothon Quốc tế tại
Trung Quốc.
Ở cuộc thi năm nay các đội thi đấu so
tài về kỹ năng lập trình qua hai vòng. Vòng
loại sẽ loại trực tiếp để chọn ra các đội có
chuyên môn cao bước vào vòng chung kết.
Ở vòng loại, robot có nhiệm vụ lấy và
di chuyển các HUB (ở đây là các bánh xe
tượng trưng bằng nhựa) về nơi quy định. Sau
đó, robot phải quay về vị trí đỗ xe - nằm dưới
thanh treo - rồi tự treo mình trên thanh ngang.
Ở vòng chung kết, nhiệm vụ của robot
là lấy 2 HUB ngẫu nhiên tại khu vực HUB
Area và di chuyển HUB vào 2 vị trí ngẫu
nhiên. Sau cùng, thí sinh cho robot di chuyển
để lấy HUB đưa vào vị trí Building Zone đã
quy định.
Trước khi bước vào cuộc thi các đội
được rèn luyện kỹ năng qua các lớp học cơ
bản (học về di chuyển), nâng cao (học về các
cảm biến) khác nhau. Trên các cảm biến đó
robot tự động thực hiện bài thi của mình. Các
bài học này được học từ 5-6 tháng trước. Học
sinh tham gia được thực hành các kỹ năng
chính về khoa học công nghệ, kỹ thuật và
toán học.
Ông Đặng Bảo Tuấn, Phụ trách chuyên
môn cuộc thi Công ty Cổ phần DTT Eduspec -
Học viện STEM cho biết, ở vòng chung kết
không phụ thuộc vào chuẩn bị bài trước của
giáo viên. Đề thi ngẫu nhiên nên các đội thực
sự hiểu bài mới làm được. Mỗi robot sẽ chọn
đi đường hoàn toàn khác nhau. Đội nào nghĩ ra
đường đi tốt thì sẽ chiến thắng các đội còn lại.
Các đội Robotics xuất sắc nhất sẽ được
lựa chọn để tham dự đấu trường Robothon
Quốc tế diễn ra vào ngày 25/11 tại Thâm
Quyến, Quảng Đông, Trung Quốc.
Ông Tuấn cho biết, đối thủ lớn nhất
của Việt Nam hiện nay là Malaysia. Từ năm
2015 đến nay Việt Nam tham gia cuộc thi
quốc tế đều có thứ hạng cao nhưng vẫn sau
Malaysia. “Năm nay các giáo viên của Việt
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 7/44
Nam đã rèn luyện cho các học sinh có khả
năng tốt hơn để đạt trình độ như Malaysia”,
ông Tuấn nói.
Trước đó, ngày 27/10, ngày hội Lập
trình quốc gia Wecode đã được tổ chức với sự
tham gia của 57 thí sinh ở cả 3 mức độ: sơ
cấp, trung cấp và cao cấp.
Ông Nguyễn Trung Quỳnh, Phó trưởng ban Quản lý khu Công nghệ cao Hòa Lạc trao giải vô địch
lập trình mức độ sơ cấp cho em Nguyễn Linh Anh.
Giải vô địch mức độ sơ cấp thuộc về em
Nguyễn Linh Anh, học sinh lớp 4A4 trường
Đoàn Thị Điểm; trung cấp thuộc về em Nguyễn
Gia Huy, Học viện STEM; cao cấp thuộc về em
Nguyễn Ngọc Bảo, Học viện STEM.
Với Wecode, năm nay ban tổ chức áp
dụng cách thức triển khai của Wecode quốc
tế, theo đó chú trọng để học sinh thể hiện sự
tự tin thông qua việc thuyết trình bài thi của
mình hoàn toàn bằng tiếng Anh.
Ngày hội Robothon và lập trình
Wecode Quốc gia do Ban Quản lý khu công
nghệ cao Hòa Lạc, Bộ Khoa học và Công nghệ
phối hợp với Công ty Cổ phần DTT Eduspec -
Học viện STEM và các trường Tiểu học,
Trung học trên địa bàn Hà Nội tổ chức.
Nguồn: Quân Nguyễn, Vnexpress.net,
28/10/2018
Trở về đầu trang
**************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chế tạo tàu mini không người lái khảo sát trên biển
Cán bộ Viện Khoa học đo đạc và Bản đồ giới thiệu về tàu khảo sát "Made in Vietnam"
Xuất phát từ những khó khăn trong
khảo sát, đo số liệu trong ngành bản đồ khi
cán bộ phải trực tiếp đến những vùng nước
nguy hiểm, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa
học đo đạc và Bản đồ, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã thiết kế, chế tạo tàu tự hành để thay
con người đo số liệu.
Tàu được thiết kế chạy tự động, không
cần người lái. Vỏ tàu làm bằng nhựa
composite. Trong thân tàu được gắn phần
mềm ghi dữ liệu, camera trực tuyến, máy
định vị vệ tinh, ăngten và một thiết bị đo sâu
hồi âm. Một máy tính nhỏ như điện thoại
cũng được gắn ở trong để lưu số liệu và gửi
về hệ thống qua tín hiệu radio.
Ths Lưu Hải Âu, Viện Khoa học đo
đạc và Bản đồ cho biết, thiết bị này được
nhóm nghiên cứu chế tạo trong một năm từ đề
tài nghiên cứu do Viện thực hiện. Toàn bộ
phần cứng đến phần mềm đều chủ động làm
trong nước.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 8/44
Khác với các con tàu đo số liệu biển,
chỉ đo được ở khu vực nước sâu và cán bộ đo
trên tàu đó đôi khi gặp nguy hiểm do gặp bão
hoặc các vấn đề an ninh. Chiếc tàu này có thể
đo sâu được 1.000m nhưng cũng có thể chạy
được ở vùng nước nông do mức mớm nước rất
thấp mà không cần người lái. Đối với khu vực
ven bờ, vùng đá, san hô con người không thể
tiếp cận thì tàu vẫn đến và đo được số liệu.
Nhóm nghiên cứu cho biết, với thiết kế
hiện tại tàu có tải trọng 60kg, được gắn hai
bình ắcquy nên có thể đo trong thời gian 8 -
10 tiếng.
Theo Ths Hải Âu, trên thế giới có
nhiều thiết bị tương tự. Ban đầu Viện dự định
thiết kế hệ thống điều khiển và phầm mềm
khảo sát nhưng đi mua tàu các hãng chế tạo
tàu đều không bán. Lý do là đối tượng khảo
sát của ngành bản đồ bao giờ cũng gắn với
chữ “mật”. Vì vậy nhóm nghiên cứu đã tìm
cách thiết kế phù hợp nhu cầu trong nước.
"Đây là thiết bị chế tạo để phục vụ
công tác nghiên cứu nên hình thức không được
đẹp nhưng có thêm nhiều tính năng chuyên
biệt phục vụ cho hoạt động điều tra, khảo sát",
Ths Hải Âu nói và cho biết với thiết bị này ở
những vùng biển khó khăn về an ninh, hay ô
nhiễm, con người sẽ không cần xuất hiện mà
chỉ cần tàu thả xuống sẽ tự động chạy và gửi
thông số về nhà. Tàu cũng có thể tự động chạy
ngầm rà soát, đo số liệu để phát hiện các nhà
máy thải nước thải trộm xuống biển.
Hiện tàu đã chạy thử nghiệm đo trên
vùng nước chảy xiết ở sông Lô, sông Đà cho
kết quả tốt. Nhóm nghiên cứu cho biết, khi có
điều kiện sẽ tiếp tục hoàn thiện để tàu có hình
thức đẹp hơn.
Nguồn: Bích Ngọc,
vnexpress.net,22/10/2018
Trở về đầu trang
*************
Nghiên cứu xây dựng quy trình kiểm định nồi (lò) hơi thu hồi nhiệt
Hình minh họa hoạt động của nhà máy điện theo chu trình hỗn hợp (CCPP)
Lò thu hồi nhiệt (Heat Recovery Steam
Generators) HRSG là lò dùng sản xuất hơi
bão hòa và hơi quá nhiệt gồm một hay nhiều
cấp áp suất (LP/IP/HP) trong nhà máy nhiệt
điện chu trình kết hợp Tuabin khí (GT) và
Tua bin hơi nước (ST) để sản xuất điện. Nhà
máy chu trình hỗn hợp là tương đối rẻ tiền để
xây dựng và có thể đạt được hiệu suất nhiệt
động hiện tại đến 62% ở chế độ tải định mức.
Hiệu suất chu trình này tăng thêm 22% so với
chu trình hơi nước Randkin và tăng trên 25%
so với chu trình chỉ dùng Tua bin khí để sản
xuất điện.
Chu trình hỗn hợp thế hệ khí thiên
nhiên được thay “Than đá truyền thống”. Và
mặc dù năng lượng tái tạo hứa hẹn một tương
lai rất tốt, các nhà máy điện chu trình hỗn hợp
(CCPP) có hiệu quả, sạch sẽ và các nguồn
phát điện ít tốn kém với công suất lớn để thay
thế phụ tải nền ở quy mô lớn. Ngoài ra, khả
năng khởi động, phát tải nhanh của nó cho
phép khả năng hàng trăm MW để hòa vào
lưới điện nhanh hơn so với các nguồn khác.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 9/44
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ
(U.S. Energy Information Administration -
EIA) dự đoán rằng thế hệ phát điện năm 2016
từ khí tự nhiên, lần đầu tiên, sẽ vượt qua phần
than đá ở 33% đến 32%, tương ứng. Tương
ứng, năm 2015 là năm đầu tiên khi sử dụng
nhà máy khí tự nhiên trong nước đã vượt than
tại một hệ số công suất 56% so với 55%.
Thực tiễn vận hành rất linh hoạt - từ
vận hành phụ thấp đến tải nền theo chu kỳ
nhà máy mỗi ngày làm ảnh hưởng đến độ bền
của các bộ phận áp lực HRSG. Hầu hết các lò
này vận hành hiện tại không được thiết kế với
sự linh hoạt để chịu được mức độ ứng suất
nhiệt gây ra bởi phần khởi động nhanh hơn,
vận hành tải thấp và chu kỳ làm việc nhiệt lặp
đi lặp lại. Và các yếu tố gây ứng suất (stress)
được tăng cao bởi các tuabin khí hiện nay
công suất lớn hơn, hiệu quả hơn.
Trước năm 1995 tại Việt Nam chỉ có
các nồi hơi trung áp, cao áp sử dụng buồng
đốt truyền thống đốt nhiên liệu than đá hoặc
dầu nặng (dầu mazut) trong trong các nồi hơi
sản xuất hơi quá nhiệt, quay Tuabin hơi phát
điện tại các nhà máy Nhiệt điện. Vấn đề trong
chu kỳ đơn dùng hơi trong các nhà máy nhiệt
điện này thì hiệu suất nhiệt cũng chỉ đạt được
không quá 40%.
Do các kiểu kết cấu lò hơi HRSG và
điều kiện vận hành khác nồi hơi thông thường
chỉ một cấp áp suất (hoặc hạ áp, hoặc trung
áp hoặc cao áp), nên yêu cầu về bảo trì, và
kiểm tra đánh giá lò hơi HRSG định kỳ cũng
cần có quy định riêng cho phù hợp, đảm bảo
an toàn và kinh tế.
Hiện nay các tài liệu liên quan đến lò
thu hồi nhiệt bằng tiết Việt rất ít và vô cùng
hạn chế, tài liệu liên quan chủ chủ yếu bằng
tiếng Anh. Chính vì vậy, Cơ quan chủ trì
Trung tâm kiểm định Công nghiệp II đã phối
hợp cùng với Chủ nhiệm đề tài KS. Trịnh Đình
Hùng thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng
quy trình kiểm định nồi (lò) hơi thu hồi nhiệt”.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
- Đề tài đã khảo sát, thu thập hệ thống
hóa được các loại nồi hơi thu hồi nhiệt HRSG
đang vận hành và sẽ xây dựng tiếp ở nước
ta.Trình độ năng lực quản lý, vận hành, bảo
dưỡng của cơ sở sử dụng nồi hơi HRSG dùng
sản xuất điện an toàn , kinh tế.
- Thu thập các tài liệu pháp lý, kỹ thuật
liên quan tới việc kiểm tra đánh giá các Lò
hơi thu hồi nhiệt với một/ hai/ ba cấp áp suất
trên thế giới và tại Việt nam hiện nay, đã nhìn
nhận ra được sự cần thiết ban hành của một
văn bản pháp luật, sự thiếu tính hệ thống
trong các tài liệu qui định.
- Đã cập nhật , tham khảo được các tài
liệu mới nhất trên thế giới về HRSG , và các
nghiên cứu đánh giá hư hỏng và các qui định
trong công tác kiểm tra, đánh giá đối với các
hệ thống Lò hơi thu hồi nhiệt.
- Thông qua kinh nghiệm thực tiễn của
các chuyên gia nước ngoài, các phương pháp
kiểm tra của các nước phát triển, các nước
đang phát triển, với điều kiện hiện tại về cơ
sở pháp lý, năng lực con người, cơ sở vật chất
hiện tại các đơn vị lien quan tại Việt nam để
xây dựng được một Tiêu chuẩn riêng cho Lò
HRSG, xây dựng qui trình kiểm tra đủ độ tin
cậy để xác định được tình trạng kỹ thuật an
toàn của Lò hơi thu hồi nhiệt HRSG sau sau
lắp đặt, sau những chu kỳ vận hành, kiểm
định và bảo dưỡng.
- Thử áp lực định kỳ với HRSG phải
ngừng lâu dài và tiến hành cho từng cấp áp
suất riêng biệt LP/IP/RH/HP rất tốn thới gian
và chi phí. Vì vậy qua kiểm tra tăng cường
thử nghiệm đánh giá NDT hoặc quá trình quá
trình sửa chữa, thay thế mà không quá 25%
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 10/44
về số lượng mối hàn mới thì có thể áp dụng
NDE thay thế và thử thủy lực định kỳ có thể
được mở rộng thới hạn.
- Hiện nay các nước trên thế giới đang
áp dụng tăng cường NDE ( Hoa Kỳ) trong
kiểm tra bảo dưỡng định kỳ và không cần thử
thủy lực định kỳ theo chu kỳ ngắn hạn mà căn
cứ vào kết quả kiểm định thực tế. Tại CHLB
Đức và EU thời gian thử thủy lực định kỳ cho
lò hơi 9 năm hoặc 10 năm.
- Thông qua đề tài các thành viên đề
tài, các kiểm định viên đã được nâng cao kiến
thức về luật pháp và chuyên môn và là tài liệu
tiếng Việt dùng tham khảo và hướng dẫn cho
cơ sở sử dụng..
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu chế tạo hệ chất tẩy rửa cặn hydrocacbon và ứng dụng chúng để làm sạch các đường ống dẫn, đảm bảo an toàn môi trường biển khi hủy bỏ
giếng khai thác dầu khí
Trong quá trình khai thác, lắng đọng
cặn hydrocacbon (paraffin, asphalten,
naphten…) là không thể tránh khỏi, hiện
tượng lắng đọng cặn có thể hình thành với
mức độ tùy thuộc vào thành phần dầu thô,
điều kiện môi trường khu vực khai thác, áp
suất,… Đặc biệt, đối với những loại dầu thô
có hàm lượng paraffin rắn cao và với những
khu vực khai thác có nhiệt độ môi trường
thấp thì quá trình lắng đọng cặn hydrocacbon
diễn ra càng nhanh.
Ngày nay, trong các khu vực có thể
xảy ra lắng đọng cặn hydrocacbon, khu vực
lắng đọng trong hệ thống đường ống vận
chuyển và khai thác dầu khí là vấn đề đang
được quan tâm đặc biệt, bởi nó gây ra nhiều
hậu quả hơn so với các khu vực đặt bồn bể
chứa dầu. Việc đảm bảo an toàn môi trường
biển cho các giai đoạn thăm dò, khai thác dầu
khí đã và đang thực hiện tại tất cả các mỏ dầu
khí trên thế giới. Khi tiến hành thu dọn mỏ và
hủy giếng, việc kiểm soát môi trường càng
được quan tâm đặc biệt, tránh gây ô nhiễm
trong quá trình xử lý và sau xử lý. Các đường
ống dẫn dầu khí thường rất dài, bên trong
chứa nhiều cặn hydrocacbon độc hại có thành
phần phức tạp, bao gồm hợp chất hữu cơ
(asphalten, parafin) và hợp chất vô cơ (FeS,
Fe2O3, CaCO3, ...) cần được loại bỏ khi tiến
hành hủy giếng.
Hiện nay, việc làm sạch cặn
hydrocacbon vẫn được định kỳ thực hiện trên
các đường ống dẫn dầu, khí đang hoạt động.
Phương pháp làm sạch chủ yếu là phóng thoi,
hoặc đối với một số đường ống là ngâm hoá
chất tẩy rửa. Tuy nhiên, hệ chất tẩy rửa đang
được sử dụng tại Việt Nam có dung môi là
các chất thơm như xylen, toluen và một số
chất độc hại khác. Mặt khác, điều đặc biệt
quan trọng là phần lớn hệ thống ống dẫn dầu
khí tại Việt Nam đã cũ nên dễ xảy ra hư hỏng
khi làm sạch. Do đó, cần nghiên cứu kết hợp
các phương pháp tẩy rửa cặn hydrocacbon
sao cho phù hợp với điều kiện và chiến lược
phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt
Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025.
Để kiểm soát được toàn diện quá trình
xử lý môi trường trong các hoạt động dầu khí,
đáp ứng nhu cầu cấp thiết về việc xử lý triệt
để các chất thải sinh ra trong quá trình hủy bỏ
giếng khai thác dầu khí với mục tiêu tiến tới
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 11/44
thỏa mãn các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về bảo
vệ môi trường trong tương lai, Cơ quan chủ
trì Viện dầu khí Việt Nam đã phối hợp với
Chủ nhiệm đề tài ThS. Tạ Quang Minh cùng
thực hiện đề tài “Nghiên cứu chế tạo hệ chất
tẩy rửa cặn hydrocacbon và ứng dụng chúng
để làm sạch các đường ống dẫn, đảm bảo an
toàn môi trường biển khi hủy bỏ giếng khai
thác dầu khí”.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
Đã thiết lập được công thức chế tạo hệ
chất tẩy cặn hydrocacbon chứa hệ dung môi
sinh học hỗ trợ hiệu quả quá trình phóng thoi
làm sạch đường ống dầu khí trước khi hủy bỏ
dưới biển VPI-PCS với các thành phần tối ưu
như sau:
1. Tripropylene Glycol Methyl Ether
8,23%
2. Dibassic Ester 7,74%
3. Methyl Ester 80,25%
4. Chống phân lớp 4,00%
5. Chống OXH 0,06%
6. Chống ăn mòn kim loại 0,02%
Khả năng phân hủy sinh học của chất
tẩy cặn gốc dung môi sinh học VPI-PCS được
đánh giá là 98%.
Điều kiện công nghệ tối ưu áp dụng
đối với VPI-PCS như sau:
1. Nhiệt độ 42 độ C
2. Chu kỳ xử lý 3
3. Tỷ lệ sử dụng 1:5,8 g/ml
4. Thời gian 7,3 giờ
Đã thiết lập được công thức chế tạo hệ
chất tẩy cặn hydrocacbon chứa các chất
HĐBM có khả năng phân hủy sinh học VPI-
APS để làm sạch triệt để lớp màng dầu còn
lại trên bề mặt đường ống sau làm sạch với
các thành phần tối ưu như sau:
1. Calamide 21,85%
2. Tergitol 24,73%
3. Alfoterra 1,45%
4. Tripropylene Glycol Methyl Ether
50,67%
5. Chống tạo bọt 0,15%
6. Chống ăn mòn kim loại 0,50%
7. Diệt khuẩn 0,65%
Khả năng phân hủy sinh học của hệ
chất tẩy rửa cặn chứa chất HĐBM phân hủy
sinh học VPI-APS được đánh giá là 97,4%.
Điều kiện công nghệ tối ưu áp dụng
đối với VPI-APS như sau:
1. Nhiệt độ 30 độ C
2. Nồng độ 24,42 g/l
3. Thời gian 8,8 phút
Đã chế tạo được 200 lít hệ chất tẩy cặn
hydrocacbon gốc dung môi sinh học VPIPCS,
200 lít hệ chất tẩy cặn chứa các chất HĐBM
có khả năng phân hủy sinh học VPIAPS với
các chỉ tiêu chất lượng như đăng ký.
Đã thiết lập được 2 quy trình công
nghệ chế tạo hai hệ chất tẩy cặn
hydrocacabon;
Đã thiết lập được 2 quy trình công nghệ
ứng dụng hai hệ chất tẩy cặn hydrocacbon đề
làm sạch đường ống dẫn dầu khí.
Đã đánh giá chất lượng hai hệ chất tẩy
cặn hydrocacbon sản phẩm, so sánh với mẫu
chất tẩy cặn thương mại của thế giới.
Đã đánh giá hiệu quả của chất tẩy cặn
trên hệ thống thiết bị mô phỏng thực tế trong
phòng thí nghiệm của Viện Dầu khí như sau:
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 12/44
Đánh giá kết quả phóng thoi (pig)
trong hệ thống pilot đối với các mẫu trống,
VPI-PCS, APS-50 và dung môi CN (công
nghiệp) trong cùng điều kiện thời gian ngâm
mẫu cặn đường ống trong khoảng thời gian
150 phút, nhiệt độ 100C, áp suất đầu vào
không đổi ở mức 3 bar cho thấy hiệu quả
phóng thoi tăng theo thứ tự của các dung môi
từ CN, APS-50, VPI-PCS, mẫu trống. Ở nhiệt
độ 25 độ C sau thời gian ngâm 100 phút, hiệu
quả phóng thoi của chất tẩy cặn VPI-PCS là
tương tự như chất tẩy cặn thương mại APS 50
và dung môi công nghiệp.
- Hiệu quả tẩy cặn HC bám trên bề mặt
thành ống được rửa đối với dung dịch
VPIAPS đạt gần 100% so với 90% của chất
tẩy thương mại APS-120 với nồng độ tẩy rửa
hiệu quả ở khoảng nồng độ từ 4-6%.
Đã tính toán sơ bộ giá thành của 2 sản
phẩm VPI-PCS và VPI-APS. So sánh giá
thành của sản phẩm nghiên cứu và sản phẩm
thương mại cho thấy giá thành trong nước rẻ
hơn. Nếu được sản xuất ở quy mô công
nghiệp thì hiệu quả sẽ khả thi, có ý nghĩa
không chỉ về mặt kinh tế, xã hội mà vừa
mang lại hiệu quả môi trường cao. Do vậy, để
đáp ứng yêu cầu môi trường ngày càng
nghiêm ngặt, đồng thời, theo kịp xu hướng
phát triển các sản phẩm khoa học của thế
giới, Việt Nam cần thiết đầu tư nghiên cứu
những sản phẩm có tính năng tương đương
của nước ngoài, sử dụng nguồn nguyên liệu
nội địa sẵn có, rẻ, thân thiện môi trường và
mang thương hiệu Việt Nam.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu thiết lập quy trình đo liều cá nhân sử dụng liều kế quang phát quang (OSL) đối với trường bức xạ photon và trường bức xạ
hỗn hợp notron, photon
Để đánh giá an toàn bức xạ cho các
nhân viên làm việc trong môi trường bức xạ
thì cần thiết phải theo dõi liều nghề nghiệp cá
nhân của họ. Có nhiều phương pháp đánh giá
liều cá nhân, tuy nhiên phương pháp sử dụng
liều kế cá nhân thụ động vẫn là thông dụng
nhất. Có nhiều loại vật liệu khác nhau được
ứng dụng để sản xuất các loại đầu đo thụ
động trong các liều kế cá nhân, ví dụ như:
liều kế phim, liều kế thủy tinh, liều kế vết hạt
nhân, liều kế nhiệt phát quang, liều kế quang
phát quang, v.v…). Cho tới nay, hai loại vật
liệu chính trong sản xuất liều kế cá nhân thụ
động là vật liệu nhiệt phát quang
(thermoluminescence - TL) và vật liệu quang
phát quang (Optically Stimulated
Luminescence - OSL) được ứng dụng nhiều
nhất trên thế giới. Liều kế làm từ vật liệu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 13/44
OSL đã được sản xuất và thương mại hóa bởi
tập đoàn Landauer.
Có rất nhiều loại liều kế OSL khác
nhau dùng trong đo liều cá nhân với các
trường bức xạ khác nhau, trong nghiên cứu
này chủ yếu đề cập đến đo liều cá nhân sử
dụng liều kế quang phát quang trong trường
bức xạ photon (liều kế OSL) và trong trường
bức xạ hỗn hợp notron, photon (liều kế
OSLN). Đối với liều kế OSL, chúng ta sẽ biết
được liều bức xạ chiếu vào chúng bằng cách
đo tín hiệu ánh sáng màu xanh da trời phát ra
(bước sóng từ 300 đến 450 nm) sau khi kích
thích chúng bằng ánh sáng màu xanh lá cây
(bước sóng 525 nm) từ các điốt phát quang.
Một liều kế OSL cơ bản gồm một miếng đỡ 4
chip với thành phần mỗi chip là Al2O3:C
được bao bọc bởi lớp vỏ nhựa. Ngoài ra các
tấm phin lọc bằng nhựa, nhôm (Al), đồng
(Cu) hay không có phin lọc được thiết kế trên
mỗi chip nhằm mục đích đo liều cá nhân
𝐻𝑝(10), 𝐻𝑝(0.07) và 𝐻𝑝(3).
Một liều kế OSL cơ bản gồm một
miếng đỡ 4 chip với thành phần mỗi chip là
Al2O3:C được bao bọc bởi lớp vỏ nhựa.
Ngoài ra các tấm phin lọc bằng nhựa, nhôm
(Al), đồng (Cu) hay không có phin lọc được
thiết kế trên mỗi chip nhằm mục đích đo liều
cá nhân 𝐻𝑝(10), 𝐻𝑝(0.07) và 𝐻𝑝(3). Liều kế
OSLN cơ bản giống một liều kế OSL, tuy
nhiên chip thứ 2 của liều kế OSLN được bao
phủ bởi một lớp 6Li2CO3 nhằm phục vụ mục
đích đo liều notron.
Tại Việt Nam, việc sử dụng liều kế
OSL vào đo liều bức xạ ion hóa và các nghiên
cứu liên quan hiện chưa được triển khai. Trên
thực tế các cơ sở cung cấp dịch vụ đo liều kế
cá nhân cho các nhân viên bức xạ tính đến
nay vẫn chủ yếu sử dụng liều kế TLD.
Việc nghiên cứu ứng dụng liều kế OSL,
OSLN vào mục đích đo liều cá nhân tại Việt
Nam là cần thiết nhằm thúc đẩy tiến trình phát
triển đa dạng hóa kỹ thuật đo liều cá nhân. Cơ
quan chủ trì Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt
nhân đã phối hợp với Chủ nhiệm nhiệm vụ
CN. Lê Ngọc Thiệm cùng thực hiện đề tài
“Nghiên cứu thiết lập quy trình đo liều cá nhân
sử dụng liều kế quang phát quang (OSL) đối
với trường bức xạ photon và trường bức xạ
hỗn hợp notron, photon”.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
- Đã nghiên cứu cấu tạo của liều kế
quang phát quang (loại OSL và OSLN) dùng
cho đo liều trong trường bức xạ photon và
trường bức xạ hỗn hợp notron, photon.
- Đã nghiên cứu cấu tạo, đặc trưng của
liều kế OSL, OSLN và nguyên lý hoạt động
của hệ đọc liều kế Microstar.
- Đã nghiên cứu, khảo sát tín hiệu
phông và ngưỡng phát hiện của liều kế OSL
trong đo liều cá nhân đối với trường bức xạ
photon; và của liều kế OSLN trong đo liều cá
nhân đối với trường bức xạ hỗn hợp notron và
photon. Hai loại liều kế này đều có ngưỡng
phát hiện vào khoảng 5μSv.
- Đã nghiên cứu, khảo sát độ đồng đều
của các liều kế OSL đo liều bức xạ photon; và
của các liều kế OSLN trong đo liều cá nhân
đối với trường bức xạ hỗn hợp notron và
photon. Liều kế OSL và OSLN có độ đồng
đều thỏa mãn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.
- Đã nghiên cứu, khảo sát độ lặp lại
của liều kế OSL đo liều bức xạ photon; và
của liều kế OSLN trong đo liều cá nhân đối
với trường bức xạ hỗn hợp notron và photon.
Liều kế OSL có độ lặp lại đạt tiêu chuẩn kỹ
thuật quốc tế. Giá trị liều notron đo được bởi
liều kế OSLN có độ lặp lại trong khoảng 30%
đến 40%, giá trị này nằm ngoài tiêu chuẩn kỹ
thuật quốc tế. Tuy nhiên giá trị liều sâu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 14/44
𝐻𝑝(10) đo được bởi liều kế OSLN lại thỏa
mãn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế. Vấn đề này
cần có thêm những nghiên cứu hơn nữa để có
thể áp dụng tốt liều kế OSLN vào trong công
tác đo liều cá nhân trong trường bức xạ hỗn
hợp notron, photon.
- Đã nghiên cứu, khảo sát độ tuyến
tính của liều kế OSL đo liều bức xạ photon;
và của liều kế OSLN trong đo liều cá nhân
đối với trường bức xạ hỗn hợp notron và
photon. Cả hai loại liều kế này có độ tuyến
tính nằm trong khoảng 10%, thỏa mãn tiêu
chuẩn kỹ thuật quốc tế. - Đã nghiên cứu, khảo
sát sự phụ thuộc góc của liều kế OSL đo liều
bức xạ photon; và của liều kế OSLN trong đo
liều cá nhân đối với trường bức xạ hỗn hợp
notron và photon. Cả hai loại liều kế này có
sự phụ thuộc góc nằm trong khoảng 30%,
thỏa mãn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.
- Đã nghiên cứu, khảo sát sự phụ thuộc
năng lượng và đánh giá hệ số hiệu chỉnh năng
lượng của liều kế OSL để đo liều bức xạ
photon. Liều kế OSL có sự phụ thuộc năng
lượng đạt tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.
- Đã nghiên cứu, khảo sát sự suy giảm
tín hiệu theo thời gian của liều kế OSL đo
liều bức xạ photon; và của liều kế OSLN
trong đo liều cá nhân đối với trường bức xạ
hỗn hợp notron và photon. Cả hai loại liều kế
này có sự suy giảm tín hiệu theo thời gian
thỏa mãn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.
- Đã đánh giá độ không đảm bảo đo
của phương pháp đo liều cá nhân sử dụng liều
kế OSL đối với bức xạ photon theo những
khuyến cáo của tài liệu kỹ thuật quốc tế.
- Đã so sánh các đặc tính cơ bản và kết
quả đọc liều đối với bức xạ photon của liều kế
OSL với liều kế TLD-100 tại 10 giá trị liều
chiếu ở năng lượng tia X và năng lượng
137Cs. Hai loại liều kế này có đáp ứng khá
tương đồng nhau trong trường bức xạ photon.
- Đã so sánh các đặc tính cơ bản và kết
quả đọc liều đối với trường bức xạ hỗn hợp
notron, photon của liều kế OSLN với liều kế
TLD 8806 tại 5 giá trị liều bằng nguồn 252Cf
và 252Cf được làm chậm. Đáp ứng của hai
loại liều kế này có sự khác nhau khá lớn với
các trường bức xạ notron khác nhau. Vấn đề
này cần được xem xét, nghiên cứu sâu hơn để
hoàn thiện hơn các ứng dụng của liều kế cá
nhân OSLN khi đo liều cá nhân trong trường
bức xạ hỗn hợp notron, photon.
- Đã xây dựng quy trình đo liều cá
nhân sử dụng liều kế quang phát quang OSL
đối với bức xạ photon. - Đã xây dựng quy
trình đo liều cá nhân sử dụng liều kế quang
phát quang OSLN đối với trường bức xạ hỗn
hợp notron và photon.
- Đã xây dựng chương trình đảm bảo
chất lượng cho quy trình đo liều cá nhân sử
dụng liều kế quang phát quang.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 15/44
Nghiên cứu chế tạo màng lọc hiệu năng cao bằng phương pháp trùng hợp ghép bề mặt, ứng dụng trong siêu lọc và lọc nano
Ảnh hưởng của nồng độ MA đến tính năng lọc của màng
Màng lọc polyethersulfone (PES) được
sử dụng nhiều trong các lĩnh vực công nghệ
sinh học và y sinh, ví dụ siêu lọc máu (thận
nhân tạo), thẩm tách máu, tách làm giàu
enzim và protein, tách thu tế bào. Ưu điểm
của màng lọc PES là có độ bền nhiệt, bền hóa
học và bền cơ học tốt, có tính phù hợp sinh
học với các đối tượng y sinh. Tuy nhiên,
nhược điểm của loại vật liệu này là tương đối
kỵ nước, nên hiệu quả của quá trình lọc tách
thường bị ảnh hưởng do hiện tượng tác màng
(fouling), khi các tiểu phân (protetin, các chất
hữu cơ) trong dung dịch tách bị hấp thụ lên bề
mặt màng trong quá trình lọc, làm giảm năng
suất lọc của màng. Để nâng cao tính năng
tách và giảm mức độ tắc màng, phương pháp
biến tính bề mặt màng nhằm nâng cao tính
chất ưa nước và giảm sự hấp thu các tiểu
phân gây tắc nghẽn là một giải pháp hữu ích.
Nói chung, có nhiều phương pháp
được sử dụng để biến tính bề mặt màng lọc,
trong đó trùng hợp ghép quang hóa là một kỹ
thuật có nhiều thuận lợi do một số ưu điểm:
có thể thực hiện được ở nhiệt độ thấp, phản
ứng trùng hợp xảy ra êm dịu và dễ kiểm soát,
nhiều loại monome có thể sử dụng cho quá
trình trùng hợp và kỹ thuật này có thể ghép
nối vào giai đoạn cuối cùng của quá trình chế
tạo màng thông thường.
PGS. TS. Trần Thị Dung thuộc Khoa
Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc Gia Hà Nội đã làm chủ nhiệm
“nghiên cứu về chế tạo màng lọc hiệu năng
cao bằng phương pháp trùng hợp ghép bề
mặt, ứng dụng trong siêu lọc và lọc nano”.
Trong nghiên cứu này, bề mặt màng PES
được biến tính bằng phương pháp trùng hợp
ghép quang hóa trong pha lỏng dưới bức xạ tử
ngoại với monome và axit maleic. Ảnh hưởng
của các điều kiện tiến hành trùng hợp đến tính
năng tách của màng được đánh giá và so sánh
qua khả năng lưu trữ protein, năng suất lọc
cũng như độ giảm năng suất lọc của màng
theo thời gian. Đặc tính bề mặt màng được
đánh giá qua phổ hồng ngoại phản xạ (FTIR-
ATR) và chụp hiển vi lực nguyên tử (AFM)
Độ giảm năng suất lọc của màng nền và màng trùng hợp ghép bề mặt
Mật độ trùng hợp ghép khi thay đổi nồng độ dung dịch axit maleic
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 16/44
Kết quả nghiên cứu có những điểm nổi
bật sau đây:
Đã nghiên cứu chế tạo thành công
màng lọc hiệu năng cao bằng phương pháp
trùng hợp ghép bề mặt, dùng cho siêu lọc và
lọc nano, gồm:
- Màng lọc compozit polyamid lớp
mỏng được trùng hợp ghép bề mặt với acid
acrylic (AA) và poly(ethylen glycol) (PEG)
- Màng lọc polyethersulfone (PES)
trùng hợp ghép bề mặt với acid maleic (MA)
và 1-vinyl-2-pyrolidinone (NVP)
- Màng lọc polyacrylonitrile (PAN)
trùng hợp ghép bề mặt với MA và AA -
Phát hiện mới:
- Màng lọc chế tạo bằng phương pháp
trùng hợp ghép bề mặt trong các điều kiện
thích hợp có tính năng tách lọc được nâng lên
rõ rệt với sự tăng lên đồng thời của các thông
số: độ lưu giữ, năng suất lọc và khả năng
chống tắc.
- Việc sử dụng PEG trùng hợp ghép
biến tính bề mặt màng TFC-PA cho hiệu quả
tốt hơn nhiều so với khi sử dụng các dẫn xuất
của PEG
Phương pháp mới:
- Quá trình trùng hợp ghép quang hóa
biến tính bề mặt màng lọc có thể thực hiện
được ở điều kiện kích thích bề mặt màng
trong môi trường không khí
Ý nghĩa khoa học: Phát triển kỹ thuật
biến tính bề mặt vật liệu polyme ứng dụng
trong nghiên cứu chế tạo màng lọc, nâng cao
tính năng tách lọc của vật liệu màng lọc
polyme.
Khả năng sử dụng kết quả nghiên cứu:
chế tạo màng lọc có tính năng lọc tách và khả
năng chống tắc tốt, đặc biệt với đối tượng các
chất hữu cơ trong môi trường nước.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu, phân tích tính tự cháy của than, đề xuất giải pháp thiết kế hệ thống phòng chống cháy của than tại mỏ than Đông Tràng Bạch
Sự tự cháy của các vỉa than trong quá
trình khai thác hầm lò là một trong các vấn đề
được các chuyên gia, các cơ quan trong lĩnh
vực công nghệ khai thác mỏ trên toàn thế giới
quan tâm nghiên cứu và tìm các giải pháp
phòng chống, xử lý và ngăn chặn hiện tượng
này nhằm củng cố an toàn lao động, giảm bớt
rủi ro trong quá trình khai thác than hầm lò
trên thế giới. Hiện nay, các mỏ than khai thác
hầm lò trên thế giới đã áp dụng các phương
pháp khác nhau để phòng chống sự tự cháy
của các vỉa than và đảm bảo an toàn khai thác.
Mặc dù trên thế giới có nhiều phương pháp
phòng chống sự tự cháy của than, tuy nhiên về
nguyên lý có thể phân chia thành hai phương
pháp chính bao gồm: (1) Phương pháp phát
hiện sớm, và (2) phương pháp ngăn ngừa.
Để đảm bảo an toàn cho quá trình sản
xuất, cần thiết phải nghiên cứu, xác định rõ
nguyên nhân của hiện tượng trên để từ đó xây
dựng được các giải pháp phòng chống cháy
phù hợp. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có
công trình nghiên cứu mang tính toàn diện và
sâu rộng nào về vấn đề này. Điều này dẫn đến
sự ra đời của đề tài “Nghiên cứu, phân tích
tính tự cháy của than, đề xuất giải pháp thiết
kế hệ thống phòng chống cháy của than tại mỏ
than Đông Tràng Bạch - Công ty than Uông
Bí”. Bên cạnh đó, đề tài này cũng sẽ là cơ sở
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 17/44
để nghiên cứu áp dụng khi tiến hành khai thác
tại những vỉa than có tính tự cháy tại mỏ.
Dưới sự chủ trì của Công ty CP Tin
học, Công nghệ, Môi trường - Vinacomin, và
kỹ sư Lê Công Tới, đề tài đã đạt được rất
nhiều mục tiêu về khoa học công nghệ, cũng
như nhiều mục tiêu về kinh tế sau đây:
- Nghiên cứu và phân tích các đặc tính
tự cháy của than mỏ Đông Tràng Bạch.
- Đề xuất giải pháp thiết kế hệ thống
phòng chống cháy cho khu vực khai thác tại
mỏ than Đông Tràng Bạch đảm bảo an toàn
và hiệu quả.
- Góp phần giải quyết vấn đề an toàn về
tính tự cháy của than tại một số vỉa khai thác
hầm lò, đồng thời, phát triển lĩnh vực khai thác
than tự cháy trong hầm lò nhằm mục đích
nâng cao mức độ an toàn về khí mỏ, hiệu quả
sản xuất và giảm ô nhiễm môi trường.
- Góp phần đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế
- Góp phần giảm chi phí sản xuất cho
công tác khai thác than hầm lò.
Nguồn: Vista.gov.vn, 29/10/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Chế biến phế phụ phẩm ngành điều thành Thực phẩm giàu dưỡng chất
Sản phẩm KH&CN Rượu vang điều và đồ uống dưỡng chất từ quả điều có triển vọng đáp ứng
thị hiếu người tiêu dùng.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 18/44