MỤC LỤC - hoangthachlan.files.wordpress.com · mức “căn bệnh” của nền kinh tế; sự thực thi các giải pháp ngắn hạn nhằm đối phó với tình hình
Post on 30-Aug-2019
1 Views
Preview:
Transcript
1
MỤC LỤC
PHẦN 1: KINH TẾ VIỆT NAM 2013 VÀ TRIỂN VỌNG 2014
1. TS.Trần Du Lịch: Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2013 và triển vọng
2014...............................................................................................................................4
2. TS.Nguyễn Mạnh Hùng: Cập nhật tình hình kinh tế thế giới năm 2013 và triển
vọng năm 2014 ............................................................................................................12
3. TS.Nguyễn Thắng & Phạm Minh Thái: Việc làm và thu nhập 6 tháng đầu năm
2013..............................................................................................................................23
4. TS.Đặng Kim Sơn: Những thách thức mới đặt ra trong khu vực nông
nghiệp...........................................................................................................................37
5. TS.Tô Ánh Dƣơng: Quản lý thị trường vàng: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính
sách cho Việt Nam........................................................................................................46
6. PGS.TS.Ngô Trí Long: Chính sách điều hành thị trường vàng năm 2013 và những
khuyến nghị...................................................................................................................56
7. TS.Nguyễn Minh Phong: Vàng và quản lý thị trường vàng ở Việt Nam năm
2013..............................................................................................................................77
8. TS.Đinh Tuấn Minh: Vấn đề sở hữu chéo và đầu tư chéo trong quá trình tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng tại Việt Nam........................................................................102
9. TS.Vũ Nhữ Thăng: Những vấn đề về chính sách tài khóa và đầu tư công……...114
10. TS.Vũ Sỹ Cƣờng: Bàn về tính bền vững và kỷ luật trong chính sách tài
khóa.................................................................................................................. ..........129
11. TS.Nguyễn Ngọc Anh & TS.Tô Trung Thành: Những vấn đề về cơ cấu thương
mại quốc tế tại Việt Nam............................................................................................144
12. TS.Phạm Thị Thu Hằng: Hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam trong chiến
lược tái cấu trúc nền kinh tế và vai trò của ba đột phá chiến lược............................161
13. GS.TSKH.Đặng Hùng Võ: Thị trường bất động sản và những giải pháp cần
thiết...................................................................................................... .......................174
14. Đặng Đức Thành: Vì sao giá nhà đất ở Việt Nam cao? Làm gì để đất đai trở
thành nguồn lực quý giá của quốc gia?.....................................................................191
15. Nguyễn Văn Cao: Thừa Thiên Huế- Những nỗ lực phát triển kinh tế - xã
hội...............................................................................................................................202
PHẦN 2: TRIỂN KHAI CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƢỢC
1. PGS.TS. Lê Xuân Bá: Tổng quan về các đột phá chiến lược tại Việt Nam..........215
2. TS. Bùi Văn Thạch: Tổng quan về các khâu đột phá chiến lược tại Việt
Nam................................................................................................................. ............237
3. GS. Nguyễn Quang Thái: Ba đột phá chiến lược: Suy nghĩ từ kinh nghiệm quốc
tế.................................................................................................................................244
2
4. TS. Lê Đăng Doanh: Cải cách thể chế kinh tế và thể chế chính trị để tạo lập môi
trường cạnh tranh bình đẳng......................................................................................262
5. TSKH. Võ Đại Lƣợc: Phát triển nguồn nhân lực hướng tới tăng trưởng bền
vững............................................................................................................................274
6. Bùi Trinh: Đánh giá sự phát triển của kinh tế tri thức ở Việt Nam từ năm 2000 đến
nay..............................................................................................................................281
7. Vụ Kết cấu hạ tầng và đô thị - Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ: Phát triển cơ sở hạ tầng
tại Việt Nam và những khó khăn thách thức đặt ra...................................................324
8. PGS.TS Nguyễn Văn Trình & Ths. Lê Trƣơng Hải Hiếu: Chuyển đổi mô hình
tăng trưởng của TP.HCM đến 2020 tầm nhìn 2030: Các giải pháp ngắn, trung và dài
hạn..............................................................................................................................336
9. Các bài trình bày bằng Slide, tiếng Anh
TS. Võ Trí Thành, Phó Viện trƣởng CIEM: Ổn định kinh tế vĩ mô: Trải nghiệm
Việt Nam từ khi gia nhập WTO.
Ông Sunjay Kalra, Đại diện thƣờng trú IMF tại Việt Nam: Phát triển cơ sở hạ
tầng, Nguồn nhân lực và cải cách thể chế: Những kinh nghiệm quốc tế.
Ông Christian Bodewig, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam: Kỹ năng cho
Việt Nam: Chuẩn bị lực lượng lao động Việt Nam cho một nền kinh tế hiện đại.
3
PHẦN 1:
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2013 VÀ TRIỂN VỌNG 2014
4
TỔNG QUAN KINH TẾ VIỆT NAM 2013 VÀ TRIỂN VỌNG 2014
TS.TRẦN DU LỊCH
DẪN NHẬP
- Cho đến thời điểm này (giữa tháng 9.2013) có thể nói, kinh tế Việt Nam đang
có dấu hiệu phục hồi, các chỉ báo về kinh tế vĩ mô như tăng trưởng, lạm phát, tỷ giá,
xuất - nhập khẩu… có sự ổn định hơn so với các năm trước; thị trường tài chính, thị
trường bất động sản tuy chưa khởi sắc, nhưng đang diễn biến theo chiều hướng tích
cực hơn.
- Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn đang còn ở trong giai đoạn trì trệ, tăng trưởng
dưới tiềm năng và vẫn đang còn phải đối diện với những khó khăn ngắn hạn. Các chính
sách của Chính phủ đang thực thi, tuy vẫn ưu tiên mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, nhưng
đồng thời cũng đang áp dụng nhiều giài pháp để tăng tổng cầu, kích thích phục hồi tốc độ
tăng trưởng và từng bước triển khai Đề án tổng thể tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng
trưởng.
Để làm rõ hơn những nhận xét trên, Tham luận này tập trung vào 2 nhóm nội
dung sau đây:
(1) Nhận định tình hình kinh tế nước ta năm 2013; phân tích các giải pháp
nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, phục hồi tốc độ tăng trưởng mà Chính phủ đang thực thi.
(2) Triển vọng kinh tế năm 2014 và kỳ vọng tái cơ cấu gắn với chuyển đổi
mô hình tăng trưởng trong điều kiện kinh tế vĩ mô có sự ổn định hơn..
NỘI DUNG
I. Đánh giá tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam năm 2013
Để có thể đánh giá tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2013,cần phải nhìn cả một
giai đoạn, kéo dài từ năm 2008, mà nền kinh tế Việt nam lâm vào tình trạng bất ổn vĩ
mô. Những khó khăn của kinh tế đặt ra từ đầu năm 2013 là hệ quả cuối cùng của giai
đoạn này. Bối cảnh kinh tế thế giới không thuận lợi có ảnh hưởng nhất định đến tình
hình kinh tế nước ta, nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là từ nội tại của nền kinh tế; xuất
phát từ sự bất cập của cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng; sự nhận thức không đúng
mức “căn bệnh” của nền kinh tế; sự thực thi các giải pháp ngắn hạn nhằm đối phó với
tình hình đã làm cho thị trường mất phương hướng…
1.1. Năm 2013 là năm thứ 6 và là giai đoạn bất ổn kinh tế vĩ mô kéo dài
nhất, tính từ đầu thập niên 1990 đến nay
1.1.1.Nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ từ đầu năm 2012
+ Bước vào năm 2012, với hệ quả của các biện pháp giảm tổng cầu (chính sách
tiền tệ và tài khóa thắt chặt theo NQ 11 của Chính phủ) đã tác động kìm hãm sức mua
của thị trường và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Số lượng doanh nghiệp ngưng hoạt
động, phá sản, giải thể có xu hướng tăng nhanh từ đầu năm. Hệ thống ngân hàng
thương mại từ quý IV năm 2011 lâm vào nguy cơ đổ vỡ dây chuyền do mất thanh
khoản của một nhóm ngân hàng thương mại yếu kém. Nợ xấu tăng nhanh, đặc biệt
các khoản tín dụng về bất động sản và cung cấp tín dụng tập trung thái quá vào một
nhóm tập đoàn kinh tế, kể cả khu vực tư nhân làm tăng tính rủi ro của tín dụng và sự
5
kém hiệu quả trong việc phân bố nguồn lực tài chính. Từ quý II năm 2012 nền kinh tế
nước ta thể hiện càng rõ nét đặc điểm: như một cơ thể vừa thiếu máu, vừa không tiếp
nhận được máu. Doanh nghiệp thiếu vốn hoạt động; nhưng ngân hàng không tăng
được tín dụng. Nợ xấu như “cục máu đông” gây tắc nghẽn hệ tuần hoàn; “sức khoẻ”
của nền kinh tế suy giảm nặng; niềm tin thị trường giảm sút; doanh nghiệp thiếu
phương hướng hoạt động. Một bức tranh kinh tế không mấy sáng sủa kèm theo nhiều
lo lắng kéo dài cả năm 2012.
+ Bên cạnh những tồn tại từ cơ cấu kinh tế tích tụ từ nhiều năm trước chưa có
biện pháp căn cơ để giải quyết, thì xuất hiện nhiều vấn đề khó khăn mới cùng với tác
động rất bất ổn của thị trường thế giới, nên ngay từ đầu năm 2012, Chính phủ đã chủ
trương tiếp tục tập trung các giải pháp ưu tiên kiềm chế lạm phát,ổn định vĩ mô và bảo
đảm an sinh xã hội. Kỳ vọng lạm phát cao, nên trên thực tế vẫn tiếp tục thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặc theo tình thần NQ11 (áp dụng từ quý I.2011). Tổng cầu
cùa nền kinh tế giảm nhanh; thể hiện qua mức tăng GDP quý I.2012 chỉ có 4% (chỉ
bằng khoảng 2/3 mức tăng của quý IV.2011).
+ Từ quý II, Chính phủ triển khai Nghi quyết 13 nhằm kích thích tăng tổng cầu
và hỗ trợ thị trường với các biện pháp như hoãn thời gian nộp thế thu nhập doanh
nghiệp cho một số đối tượng; hoãn nộp tiền sử dụng đất năm 2011 cho doanh nghiệp
bất động sản… mang lại kết quả nhất định, nhưng chưa kích thích tăng được tổng cầu
của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ tập trung vào mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn
định tỷ giá; 6 lần giảm lãi suất huy động tiền gửi; hạ lãi suất cho vay xuống dưới 15%;
đồng thời tập trung xử lý thanh khoản của ngân hàng thương mại thông qua việc
“bơm” thêm tiền cho hệ thống bằng các công cụ của NHNN. Hệ thống NHTM có
nhiều nỗ lực trong việc giải quyết tín dụng cho doanh nghiệp trong một số lĩnh vực
công nghiệp, xuất khẩu, nông nghiệp… nhưng nhìn chung nền kinh tế vẫn rơi vào tình
trạng “thừa tiền nhưng thiếu vốn”. Chính sách tài khoá phần nào nới lỏng đầu tư công
theo mức bội chi ngân sách, thực hiện giải ngân theo kế hoạch và phát hành trái phiếu
trong kế hoạch được Quốc hội cho phép; tăng lương cơ bản vào 1.5.2012; thực hiện
biện pháp hoãn thuế…
+ Với những nỗ lực nêu trên đã mang lại những kết quả nhất định: sự suy giảm
tốc độ tăng trưởng kinh tế đã dừng lại trong quý I và đã tăng trở lại từ quý II, dù mức tăng
khá chậm: GDP quý I tăng 4%; quý II tăng 4,66%; quý III tăng 5,6% và cả năm 2012
tăng 5,03%; CPI theo chiều hướng giảm, thậm chí trong 2 tháng 6 và 7.2012 tăng trưởng
âm; CPI cả năm chỉ tăng 6,81% so với cuối năm 2011; xuất khẩu cả năm đạt 114 tỷ USD
tăng 16,6% so với năm 2011; nhập siêu giảm mạnh…
Nếu nhìn trên 4 mục tiêu quan trọng nhất của kinh tế vĩ mô: Tăng GDP; giá cả;
việc làm và xuất khẩu ròng, thì kết quả của nền kinh tế năm 2012 thể hiện những chỉ báo
khá tích cực trong bức tranh tiêu cực của cả năm. Tuy nhiên, những khó khăn của nền
kinh tế vẫn chưa được cải thiện đáng kể, mà tất cả dồn sang năm 2013.
1.1.2. Hệ quả của 6 năm bất ổn kinh tế vĩ mô
Nếu nhìn về hiện tượng kinh tế thì thực sự nền kinh tế nước ta từ quý 2.2012 đang
có sự phục hồi tốc độ tăng trưởng, dù rất chậm. Các chính sách tài khoá, tiền tệ và hỗ trợ
thị trường Chính phủ áp dụng trong năm 2012 là phù hợp với thực tiễn tình hình: phải
đồng thời giải quyết 2 mục tiêu mâu thuẫn là vừa ưu tiên kiềm chế lạm phát, vừa kích thích
phục hồi tăng trưởng. Tuy nhiên, bước vào năm 2013, nền kinh tế đang phải đối mặt với
thử thách, do hệ quả để lại sau 6 năm bất ổn kinh tế vĩ mô:
6
Như đã nêu ở trên, từ năm 2008 đến nay, hầu hết các chính sách kinh tế vĩ mô
đều mang tính chất tình thế nhằm xử lý nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô, mà tập trung nhất
là chống lạm phát. Sự thay đổi chính sách liên tục (lúc thắt chặt, lúc nới lỏng nhất là
chính sách tiền tệ) đã làm cho thị trường mất phương hướng dài hạn. Không phủ nhận
sự tác động tiêu cực từ thị trường thế giới, nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là sự bất cập
của cơ cấu kinh tế và tác động tính hai mặt của các giải pháp về tài khóa và tiền tệ. Từ
đầu năm 2012, sức mua chung của nền kinh tế suy giảm mạnh đã tạo nên vòng luẩn
quẩn: sức mua giảm- tồn kho tăng- sản xuất giảm- nợ xấu tăng- tín dụng giảm…Bước
vào năm 2013, tuy tình hình có cải thiện hơn, nhưng về cơ bản nền kinh tế đang đối
diện với 4 thách thức ngắn hạn như sau :
+ Thứ nhất, nguy cơ tái lạm phát cao kèm theo sự trì trệ của thị trường sẽ làm
cho tình hình khó khăn thêm. Mặc dù CPI 8 tháng đầu năm 2013 chỉ tăng 3,53% so
với tháng 12.2012, nhưng nguy cơ lạm phát vẫn “rình rập” khi mà nguyên nhân bên
trong của nền kinh tế chưa được giải quyết.
+ Thứ hai, tình hình nợ xấu chưa được cải thiện, nên dòng tín dụng vẫn bị tắc
nghẽn, nền kinh tế không hấp thụ được vốn. Tình trạng thừa tiền thiếu vốn còn kéo dài.
Khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp vẫn còn khó khăn, nhất là doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
+ Thứ ba, khả năng kéo giảm lãi suất cho vay không nhiều; khó đáp ứng sự mong
đợi của doanh nghiệp, do hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp lẫn hệ thống
NHTM. Nếu lạm phát kỳ vọng cả năm là 7%, thì việc kéo giảm lãi suất tiết kiệm tiền gửi
có kỳ hạn không còn nhiều dư địa và lãi suất cho vay vẫn còn khá cao, đặc biệt là lãi suất
vay trung-dài hạn, nên sẽ không kích thích được các DN đang có thị trường mở rộng đầu
tư và vẫn là nguy cơ làm tăng nợ xấu đối với những doanh nghiệp đang nỗ lực phục hồi
sản xuất.
+ Thứ tư, những nỗ lực để làm ấm thị trường bất động sản chưa thể mang lại
kết quả, nên thanh khoản của thị trường này khó được cải thiện. Gói hỗ trợ lãi suất
30.000 tỷ đồng để hỗ trợ thị trường bất động sản cho đến nay chưa mang lại kết quả
đáng kể. Một khi thanh khoản của thị trường bất động sản chưa cải thiện thì việc xử
lý nợ xấu của NHTM cũng sẽ khó khăn.
1.2. Năm 2013: sự phục hồi tăng trƣởng chậm, nhƣng kinh tế vĩ mô ổn định
hơn
1.2.1. Kinh tế toàn cầu vẫn trong xu thế phục hồi yếu và không ổn định. Ngân
hàng thế giới (WB) dự báo kinh tế toàn cầu năm 2013 chỉ tăng ở mức 2,4% và sẽ tăng
khá hơn trong năm 2014 (3,1%) và năm 2015 (3,3%). IMF dự báo kinh tế toàn cầu
năm 2013 tăng 3,1% (trước đó dự báo 3,3%) và năm 2014 là 4%. Tốc độ tăng trưởng
chung của thế giới sẽ chậm lại. Có thể nói trong năm 2013 tình hình kinh tế thế giới
còn diễn biến thất thường, sẽ có tác động bất lợi đối với những nền kinh tế có độ mở
lớn như nền kinh tế nước ta.
1.2.2. Với tình hình trên, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIII đã xác định mục
tiêu kinh tế tổng quát của năm 2013 là “Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát
thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn
với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng...” với tốc độ tăng GDP
khoảng 5,5% và kiểm soát CPI dưới 8% (Chính phủ đề ra khoảng 6,5%). Để thực hiện
các mục tiêu trên, Chính phủ đang có nhiều nỗ lực để tạo niềm tin cho thị trường thông
7
qua một “gói giải pháp hỗ trợ thị trường” nhằm: giải quyết hàng tồn kho; xử lý nợ xấu
và tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản. Ba vấn đề này có quan hệ nhân quả
với nhau, nên không thể giải quyết riêng rẽ. Ngày 07.01.2013, Chính phủ đã ban hành
NQ 01 và NQ 02.
Khác với gói giải pháp kích cầu thực hiện năm 2009 trong điều kiện nền kinh tế
toàn cầu suy thoái, Chính phủ phải tăng đầu tư công và hỗ trợ lãi suất; gói giải pháp hỗ
trợ thị trường lần này tập trung vào khâu xử lý “điểm nghẽn” của tín dụng và tăng sức
mua của thị trường, trong đó quan tâm đặc biệt đến tồn kho sản phẩm bất động sản.
Trong giải pháp về tín dụng áp dụng biện pháp cho vay mới các doanh nghiệp có điều
kiện tồn tại và phát triển; các doanh nghiệp đang thực hiện các dự án nhà ở đang có thị
trường…; ngăn chặn xu hướng tăng số DN phải ngưng hoạt động, giải thể do thiếu vốn
lưu động; mở rộng tín dụng tiêu dùng; giảm lãi suất huy động tiền gửi và lãi suất cho
vay; áp dụng nhiều biện pháp để xử lý nợ xấu, trong đó có việc thành lập định chế mua
bán nợ của Nhà nước (VAMC). Trong chính sách tài khóa tiếp tục thực hiện biện pháp
hoãn thời hạn nợp thuế, thời hạn nộp tiền sử dụng đất, miễn giãm thuế... theo tinh thần
NQ 13 của Chính phủ và Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 (tháng 5-6.2012) về
hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho DN cho đến giữa năm 2014 để tạo điều kiện cho DN phục
hồi tăng trưởng. Tại kỳ họp thừ 5 Quốc hội (tháng 5-6.2013) đã sửa đổi một số điều của
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật thuế giá trị gia tăng nhằm miễn giảm thuế cho
một số đối tượng để kích thích thị trường và giảm khó khăn cho doanh nghiệp. Áp dụng
thuế suất thu nhập DN 22% từ tháng 1.2014 và 20% từ tháng 01.2016 để khuyền khích
DN mở rộng đầu tư, giảm 50% thuế VAT cho nhà giá thấp….
1.2.3. Dù yếu ớt và vẫn ở trong tình trạng tăng trưởng dưới tiềm năng (so với
công suất đã đầu tư), nhưng năm 2013 nền kinh tế Việt Nam là năm bắt đầu hồi phục,
nếu thực hiện nhất quán, đồng bộ và có hiệu quả chính sách giảm miễn thuế thông qua tại
kỳ họp thứ 5 của Quốc hội (tháng 6.2013) và các biện pháp đề ra trong 2 Nghị quyết của
Chính phủ nêu trên, tạo niềm tin cho thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn
trước mắt.
1.2.4. Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013,
thông qua tại kỳ họp thứ 4 (ngày 08. 11.2012) đã đề ra các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu như
sau:
+ GDP tăng khoảng 5,5%;
+ Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%.
+ Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 8%,
+ Bội chi ngân sách nhà nước không quá 4,8% GDP,
+ Tốc độ tăng giá tiêu dùng ( CPI) khoảng 8%,
+Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 30% GDP.
+ Tạo việc việc làm cho khoảng 1,6 trịêu lao động;
+ Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%.
Diễn biến tình hình kinh tế cho đến nay cho thấy:
- Mục tiêu chung nhất là tốc độ tăng GDP cả năm chỉ có thể đạt được ở mức
5,2% (6 tháng đấu năm tăng 4,9%; 6 tháng cuối năm có thể đặt mức 5,5%).
8
- Kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt được mức tăng hơn 10%, ước số tuyệt đối
khoảng 127 tỷ USD như mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, mức tăng của kim ngạch xuất
khẩu chủ yếu dựa vào khu vực FDI, còn khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn chưa
được cải thiện so với năm 2012. Năm 2013 vẫn có tỷ lệ nhập siêu thấp, ước khoảng
7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, việc giảm nhập siêu chưa phải là sự cải
thiện tích cực cán cân thương mại quốc tế, mà chủ yếu do nhập khẩu tăng chậm (ước
tăng khoảng 19% trong năm 2013). Khi nền kinh tế khởi sắc, tín dụng tăng, đầu tư
tăng, sức mua thị trường nội địa tăng lại, thì nhập siêu sẽ tăng mạnh. Nguyên nhân
nhập siêu từ cơ cấu kinh tế, nên việc giảm nhập siêu chưa phải là hiện tượng kinh tế
đáng mừng.
- Tốc độ tăng giá cả tiêu dùng (CPI) cả năm ước khoảng 7%, tương đương
mức tăng của năm 2012, nhưng thấp hơn chỉ tiêu do Quốc hội đề ra (8%). Tuy nhiên
nếu không phối hợp tốt giữa 3 nhóm chính sách: tiền tệ; công chi và điều chỉnh giá
những hàng hoá dịch vụ công thì khó kiềm chế được CPI theo mục tiêu.
- Tổng vốn đầu tư phát triiển xã hội sẽ thấp hơn mục tiêu đề ra, khó đạt được
mức 30% GDP. Nguyên nhân là do nền kinh tế đang bị “nghẽn” hấp thụ tín dụng, mà
đầu tư của mọi thành phần kinh tế đều dựa chủ yếu vào tín dụng. Ngay cả trường hợp
đạt mức tăng tín dụng cả năm 2013 là 12%, thì tổng vốn đầu tư vẫn chưa thể đạt mức
30% GDP.
- Về các chỉ tiêu tạo việc làm và tỷ lệ thất nghiệp rất khó đánh giá vì tính khả
tín của số liệu công bố. Nhưng có điều chắc chắn là với mức tăng GDP khoảng 5%
thì không thể tạo ra đến 1,6 triệu việc làm và mức thất nghiệp ở đô thị chỉ có 4%.
Tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp ở nước ta cần được đánh giá đúng thực chất
hơn. Vì vấn đề việc làm và thất nghiệp là một trong 4 chỉ tiêu quan trọng nhất của
kinh tế vĩ mô.
Nhìn chung, bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2013 diễn ra không mấy khác biệt so
với những nhận định từ Diễn đàn kinh tế Mùa xuân (tháng 4.2013), tuy có dấu hiệu phục
hồi ở từng lĩnh vực cá biệt, nhưng nhìn chung chưa thoát khỏi giai đoạn trì trệ. Cả tốc độ
và chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện đáng kể. Nhưng điểm tích cực nội bật là các
chỉ báo kinh tế vĩ mô được cải thiện theo hướng ổn định hơn; lạm phát được kiềm chế, dự
trữ ngoại hối tăng cao, bình ổn được tỷ giá VNĐ... Nếu xét trên mục tiêu tổng quát theo
Nghị quyết của Quốc hội là “tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô” thì kết quả của năm 2013
là tích cực. Nhưng những chỉ báo ổn định kinh tế vĩ mô thiếu vững chắc, nhất là nguy cơ
tái lạm phát cao trong các năm sau, nếu thiếu những biện pháp đủ mạnh để tạo sự chuyển
biến của tình hình.
Bên cạnh đó, năm 2013 lại xuất hiện một vấn đề mới có nguy cơ gây bất ổn
kinh tế vĩ mô là sự thậm hụt ngân sách do nguồn thu không đạt kế hoạch (riêng trên
địa bàn TP.Hồ Chí Minh năm 2013 ước thu ngân sách hụt gần 20 nghìn tỷ đồng so
với kế hoạch). Sự thâm hụt ngân sách diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế trì trệ, doanh
nghiệp thua lỗ, thị trường bất động sản đóng băng, nhưng công chi không thể giảm,
nên đang trở thành vấn đề nan giải cho bài toán ngân sách trong 2 năm 2014 và 2015,
mà tại kỳ họp thứ 6 của Quốc hội cuối năm nay phải đặt lên bàn nghị sự.
II. Triển vọng kinh tế năm 2014
- Từ sự đánh giá tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2013 như trên cho thấy, năm
2014 nền kinh tế vẫn chưa thể ra khỏi giai đoạn trì trệ. Những khó khăn đặt ra trong
9
năm 2013 (như đã nêu trên) vẫn tiếp tục kéo dài trong năm 2014. Nền kinh tế tiếp tục
tăng trưởng nhưng tốc độ chậm; khu vực kinh tế trong nước vẫn còn tiếp tục khó
khăn; khu vực FDI giữ được lợi thế tăng trưởng, nhưng không có sự đột biến trong
năm 2014; nông nghiệp đã đạt đến đỉnh tăng trưởng do chưa thay đổi vể cơ cấu, nên
khó có khả năng tăng trưởng cao hơn năm 2013; khu vực dịch vụ sẽ tăng trưởng khá
hơn năm 2013, nhưng chưa có khả năng thúc đẩy cả nền kinh tế. Tuy nhiên, bức tranh
chung của nền kinh tế năm 2014 vẫn sáng hơn 2 năm 2012-2013. Do đó, có thể dự
báo trong năm 2014 tốc độ tăng GDP khoảng 5,5% và CPI tăng khoảng 7%. Nhiệm
vụ chính trong năm 2014-2015 vẫn là giữ ổn định kinh tế vĩ mô và đẩy nhanh tiến
trình tái cơ cấu nền kinh tế.
- Như đã trình bày ở trên, những dấu hiệu bất ổn vĩ mô được cải thiện so với các
năm trước; đặc biệt là nguy cơ lạm phát cao đã được ngăn chặn. Tốc độ tăng CPI từ hơn
18% năm 2011 đã kéo giảm xuống còn 6,81% năm 2012; và dự kiến cả năm 2013
khoảng 6,5-7%%. Đây là kết quả nổi bật nhất trong mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Có
thể nói, trong ngắn hạn, lạm phát không còn là “con ngựa bất kham”. Do đó, hiện nay là
thời điểm thích hợp, là thời cơ để đưa ra những quyết sách mạnh mẽ, tạo bước ngoặt
làm thay đổi tình hình, nếu chậm trễ thì cơ hội sẽ mất và chẳng bao lâu sẽ tái diễn sự bất
ổn, với cái vòng luẩn quẩn như đã từng xảy ra.
III. Kiến nghị về nhiệm vụ kinh tế trọng tâm năm 2014-2015
1. Về ngắn hạn nhiệm vụ tập trung vẫn là giải quyết nợ xấu của NHTM để xử lý
điểm nghẽn của tín dụng, tạo điều kiện cho nề kinh tế hấp thụ vốn; trong đó phải xử lý
một phần nợ xây dựng cơ bản, mà ngân sách đang nợ doanh nghiệp. Điều chỉnh lại NQ
02 của Chính phủ phần liên quan đến gói hỗ trợ tín dụng 30.000 tỷ đồng cho TTBĐS
theo hướng kích thích phân khúc thị trường nhà ở “phổ thông”, tức là loại nhà ở có giá
dưới 1 tỷ đồng/căn hộ ở TP.Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh và khoảng 500 triệu/căn hộ ở
các địa phương khác thông qua công cụ tín dụng cho người mua nhà. Hỗ trợ trực tiếp
người mua, chứ không hỗ trợ trực tiếp người bán.
2. Vấn đề đang đặt ra là phải làm thế nào để vực dậy nền kinh tế, để tạo cơ sở
cho việc xây dựng Kế hoạch 5 năm 2016-2020 theo hướng tích cực, trong đó thực
hiện mục tiêu tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Mục tiêu lớn nhất
của chúng ta là, nền kinh tế Việt Nam phải tận dụng cơ hội của quá trình hội nhập để
từ giai đoạn 2016-2020 có thể đạt được tốc độ tăng trưởng, như đã từng đạt được
trong giai đoạn 1991-1996 và giai đoạn 2001-2007. Nếu nền kinh tế Việt Nam không
đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy, tức là khoảng 7- 8% mỗi năm, trong vòng vài
thập niên, thì chúng ta không thể kỳ vọng đến sự thành công trong sự nghiệp công
nghiệp hóa đất nước và cũng không có tiền đề vật chất để nâng cao phúc lợi xã hội.
Một Chương trình trung hạn phục hồi kinh tế dựa trên các nội dung chính sau
đây:
+ Thứ nhất, chương trình này kéo dài đến hết 2015. Chính sách chủ đạo của
Chương trình trung hạn này là thực hiện chính sách” lạm phát mục tiêu”, với mức
tăng CPI khoảng 7% mỗi năm trong 3 năm 2013-2015 và dưới 5% trong các năm tiếp
theo. Có sự phối hợp giữa các chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách thị
trường hóa giá cả một số loại dịch vụ công, mà Nhà nước đang còn quy định giá và
chính sách ngoại thương; Chương trình phục hồi kinh tế trung hạn sẽ chấm dứt tình
trạng ban hành các giải pháp theo kiểu “ăn đong” như vừa qua. Phải chuyển chính
sách từ kiềm chế lạm phát bị động sang lạm phát chủ động. Mức lạm phát mục tiêu sẽ
10
tạo ra dư địa cho chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cũng như lộ trình điều chỉnh
giá cả dịch vụ, hàng hóa công cộng, mà không gây ra lạm phát do chi phí đẩy.
+ Thứ hai, từ chính sách” lạm phát mục tiêu” nêu trên, chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa phải phục vụ cho mục tiêu huy động tổng đầu tư xã hội từ 30-32%
GDP trong 3 năm sắp đến. Ở đây đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa và qua đó huy động các nguồn lực bổ sung
cho nhau nhằm bảo đảm tổng đầu tư xã hội.
+ Thứ ba, trước mắt trong 2 năm 2013 và 2014 cần mạnh dạn tăng công chi
dưới nhiều hình thức để kích thích tăng tổng cầu. Cụ thể, tăng trần bội chi ngân sách
so với mức 4,8% GDP hiện nay; phát hành trái phiếu Chính phủ, ngoài định mức 45
nghìn tỷ đồng/năm như Quốc hội đã cho phép nhằm thanh toán nợ đọng xây dựng cơ
bản và các công trình xây dựng dang dở. Chúng ta ý thức việc phải bảo đảm an toàn
của nợ công, nhưng trong tình thế hiện nay, chính đầu tư công là giải pháp có tác động
nhanh nhất để kích thích sự tăng tổng cầu của nền kinh tế, khi mà chính sách tiền tệ
đang có tác dụng hạn chế. Một khi nền kinh tế hấp thụ được vốn tốt hơn, có điều kiện
để tăng tín dụng, thì sẽ giảm đầu tư công, khuyến khích đầu tư tư nhân, cân bằng mức
nợ công như Quốc hội đã cho phép.
+ Thư tư, lồng ghép vào các nhóm giải pháp trên trong Chương trình trung hạn
cần có sự đột phá trong nhiệm vụ tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước. Hiệu
quả sử dụng nguồn lực này là nhân tố chủ đạo trong quá trình tái cơ cấu kinh tế. Lực
lượng DNNN không làm thay thị trường, nhưng là một lực lượng rất quan trọng để bổ
khuyết những khuyềt tật của thị trường. Trên quan điểm đó, thì không thể thành công
nếu tái cơ cấu từng tập đoàn, tổng công ty riêng rẽ, mà phải thực hiện trên tổng thể lực
lượng DNNN hiện hữu. Nhiệm vụ tái cơ cấu DNNN là nhiệm vụ của Chính phủ, chứ
không phải là nhiệm vụ của từng đơn vị. Nếu đặt đúng tầm như vậy chúng ta mới có
thể thực hiện thành công việc tái cơ cấu DNNN theo tinh thần Nghị quyết trung ương
3 (khoá XI).
Tóm lại, nhiệm vụ của năm 2014 và 2015 là phải phục hồi niềm tin của thị
trường thông qua các chính sách kinh tế trung-dài hạn và kết quả của quá trình tái cơ
cấu 3 lãnh vực ưu tiên, theo tinh thần NQ TW 3 (khoá XI), trong đó tái cơ cấu hệ
thống NHTM và khu vực DNNN là quan trọng nhất để vừa bảo đảm sự ổn định kinh
tế vĩ mô, vừa tạo niềm tin cho thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI , 2011:
-Báo cáo Chính trị.
- Chiến luợc phát triển KT-XH 2011-2020.
- Kế hoạch phát triển KT-XH 2011-2015.
2. Kế hoạch chương trình đầu tư phát triển kinh tế-xã hội việt nam đến năm 2010,
NXB, Thống kê, 2003, 873 tr.
3. Báo cáo Tình hình kinh tế-xã hội năm 2012 của Chính phủ.tháng 11.2012
4. Quyết định số 339/QĐ-TTg phê duyệt “ Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế….” ngày
19.02.2013.
5. Niên giám thống kê Việt nam, năm 2005, 2007, 2010.
11
6. Báo cáo “Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế-xã hội,
trọng tâm là thực hiện ba khâu đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng” do Bộ KH&ĐT trình Chính phủ ngày 29.08.2013.
7. Báo cáo “ Tình hình kinh tế-xã hội năm 2013 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội năm 2014” của Bộ KH&ĐT trình Chính phủ ngày 26.08.2013.
8. Và các tài liệu khác ( do Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia cung
cấp, tháng 8.2013).
12
CẬP NHẬT TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2013 VÀ
TRIỂN VỌNG NĂM 2014
TS. Nguyễn Mạnh Hùng
Viện Kinh tế và Chính trị thế giới
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
1. Cập nhật tình hình kinh tế thế giới
Tốc độ phục hồi tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang từng bước được củng cố:
Theo dự báo cập nhật của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF), năm 2013 tăng trưởng GDP của kinh tế thế giới sẽ đạt 3,1%.1
Tăng trưởng GDP của các nền kinh tế phát triển (PT) đạt 1,2%, còn của các nền kinh
tế đang phát triển (ĐPT) và mới nổi đạt khoảng 5,0% - đều có xu hướng cao hơn tốc
độ tăng trưởng của năm 2012.2
Sau khi trải qua giai đoạn khá bấp bênh trong nửa đầu năm 2013, các dấu hiệu từ
nửa cuối năm cho thấy, nền kinh tế toàn cầu đang quá độ sang một giai đoạn tăng
trưởng ổn định hơn tuy tốc độ tăng trưởng vẫn thấp. So với đầu năm 2013, những dự
báo từ giữa năm 2013 của hầu hết tổ chức quốc tế đã điều chỉnh tốc độ tăng trưởng
GDP của kinh tế toàn cầu và nhiều nền kinh tế lớn theo hướng giảm bớt. Nguyên nhân
chính là vì cầu nội địa vẫn còn yếu và tăng trưởng của một số nền kinh tế mới nổi tiếp tục
chậm lại. Ngoài ra, việc Mỹ giảm kích thích tiền tệ có thể khiến dòng vốn chảy vào các nền
kinh tế mới nổi đảo chiều, gây ra bất ổn và khiến cho các chính sách nhằm kích thích nền
kinh tế tăng trưởng mạnh hơn bị hạn chế.
Tăng trưởng thương mại thế giới vẫn ở mức thấp: Theo dự báo của IMF vào
tháng 7/2013, tăng trưởng thương mại thế giới năm 2013 sẽ đạt 3,1%, cao hơn năm
2012, song mức dự báo này thấp hơn mức 3,6% được đưa ra vào tháng 4/2013.3
Thương mại phục hồi chủ yếu là nhờ tăng sản xuất và tiêu dùng góp phần thúc đẩy
xuất, nhập khẩu ở một số nền kinh tế lớn như Mỹ và Nhật Bản.
1 WB. 2013. Global Economic Prospect 2013. Volume 7 June 2013
IMF. 2013. World Economic Outlook Update: Growing Pain. July 09, 2013 2 IMF. 2013. Đã dẫn 3 IMF. 2013. Đã dẫn
13
Bảng 1: Tăng trƣởng GDP và thƣơng mại thế giới 2013 và dự báo 2014
Quỹ Tiền tệ quốc tế Ngân hàng thế giới
Tăng trưởng GDP 2013*
2014* 2013
* 2014
*
Thế giới 3,1 3,8 3,1 3,8
Các nền kinh tế phát triển 1,2
(a) 2,1
(a) 1,1
(b) 1,9
(b)
Mỹ 1,7 2,7 2,0 2,8
Eurozone -0,6 0,9 -0,6 0,9
Nhật Bản 2,0 1,2 1,4 1,4
Các nền kinh tế đang phát
triển và mới nổi
5,0 5,4 5,1 5,6
Trung Quốc 7,8 7,7 7,7 8,0
Ấn Độ 5,6 6,3 5,7 6,5
Braxin 2,5 3,2 2,9 4,0
Nga 2,5 3,3 2,3 3,5
Tăng trưởng thương mại thế
giới (hàng hóa và dịch vụ)
3,1 5,4 4,0 5,0
* Số liệu dự báo
(a) các nền kinh tế phát triển (advanced economies) theo phân loại của IMF
(b) các nền kinh tế OECD theo phân loại của WB
Nguồn: IMF. 2013. World Economic Outlook Update: Growing Pain. July 09, 2013
WB. 2013. Global Economic Prospect 2013. Volume 7 June 2013.
Hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ phục hồi chưa đồng đều: Chỉ số
tổng sản lượng công nghiệp và dịch vụ toàn cầu do JPMorgan và Markit công bố
tháng 9/2013 cho thấy hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ toàn cầu tiếp tục xu
hướng mở rộng.4 Tuy nhiên, kể từ sau khủng hoảng, sản xuất công nghiệp toàn cầu
vẫn có xu hướng phục hồi chậm. Tính đến thời điểm giữa năm 2013, sản lượng công
nghiệp toàn cầu chỉ tăng 5,3% so với mức đỉnh điểm của giai đoạn tiền khủng hoảng.5
Trong những tháng gần đây, chỉ số tổng sản lượng công nghiệp toàn cầu do JPMorgan
và Markit công bố đạt 51,4 và 51,5 điểm trong tháng 6/2013 và tháng 7/2013,6 song
đã tăng lên 52,3 điểm trong tháng 8/2013,7 báo hiệu một sự khởi sắc hơn vào thời gian
cuối năm 2013.
Sản lượng công nghiệp của các nền kinh tế phát triển vẫn chưa đạt được mức
trước khủng hoảng 2008-2009. Nhìn chung, tăng trưởng công nghiệp của các nước ĐPT
ở Đông Á và Thái Bình Dương vẫn năng động. Tuy vậy, kể từ quý II/2013, sản xuất
công nghiệp bắt đầu mở rộng mạnh chủ yếu ở Mỹ, Anh và cả Nhật Bản (tuy có bấp
bênh hơn), song lại suy yếu ở châu Á và các nền kinh tế mới nổi. Sản xuất công nghiệp
của Trung Quốc đã có những tháng suy giảm vào giữa năm 2013 trước khi phục hồi nhẹ
vào tháng 8/2013.8 Hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ tại Eurozone bắt đầu có
dấu hiệu phục hồi kể từ giữa năm 2013. Chỉ số tổng sản lượng công nghiệp và dịch vụ
4 Chỉ số này tăng từ 51,2 điểm trong tháng 6/2013 lên 54,1 điểm trong tháng 7/2013 và 55,2 điểm trong tháng
8/2013 – mức cao nhất kể từ tháng 2/2011 (so với mức 50,0 điểm là không thay đổi)
[http://www.markiteconomics.com/Survey/PressRelease.mvc/0e5d5a0562a842dba2c773a70c8be7ba]
[http://www.markiteconomics.com/Survey/PressRelease.mvc/3dfe42c71a6748fe820a89f97aa15696] 5 WB. 2013. Đã dẫn, trang 33 6 http://www.markiteconomics.com/Survey/PressRelease.mvc/760ccbef0b1742ed8fc69acc37857228 7 http://www.markiteconomics.com/Survey/PressRelease.mvc/b34defd79f914b46b82892783a0205ec 8 Chỉ số tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 48,0 điểm trong tháng 7/2013 lên 50,6 điểm trong tháng 8/2013
[http://www.markiteconomics.com/Survey/PressRelease.mvc/6db45ffe4c024d7aadb1e6e701bd9f02]
14
của khu vực này do JPMorgan và Markit công bố đạt 50,5 điểm trong tháng 7/2013 và
51,7 điểm trong tháng 8/2013.9
Niềm tin kinh doanh có dấu hiệu khôi phục tuy vẫn ở mức thấp: Chỉ số niềm tin
kinh tế toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới đã tăng từ 0,43 điểm trong quý I/2013
lên 0,48 điểm trong quý II/2013 (so với mức 0,5 điểm là mức bình thường).10
Bảng 2: Chỉ số niềm tin toàn cầu
Chỉ số Quý I/2013 Quý II/2013
Niềm tin đối với hợp tác toàn
cầu
0,43 0,47
Niềm tin đối với kinh tế toàn cầu 0,43 0,48
Niềm tin đối với quản trị toàn
cầu
0,38 0,44
Ghi chú:
Mức điểm từ thấp đến cao như sau: Hoàn toàn không có niềm tin = 0; Không có
niềm tin = 0,25; Bình thường = 0,5; Tự tin = 0,75; Rất có niềm tin = 1 Nguồn:
http://www.weforum.org/content/pages/global-confidence-index
Vấn đề việc làm vẫn là ghánh nặng chính sách trong năm 2013: Tổ chức lao
động quốc tế (ILO) dự tính có thêm khoảng 5,1 triệu người thất nghiệp năm 2013 và 3
triệu người thất nghiệp năm 2014. Tỷ lệ thất nghiệp bình quân của thế giới sẽ ở mức
khoảng 6% cho tới năm 2017.11
Thất nghiệp vẫn diễn ra nghiêm trọng ở các nền kinh
tế PT. Tỷ lệ thất nghiệp của các nước OECD trong quý I/2013 là 8,1%, cao hơn so với
quý IV/2012.12
Tỷ lệ thất nghiệp của EU (27 nước) và Eurozone vào tháng 6/2013
tương ứng là 10,9% và 12,1%.13
Tình hình thất nghiệp vẫn trầm trọng ở những nền
kinh tế tiếp tục ở trong suy thoái như Hy Lạp và Tây Ban Nha, nơi có tới trên ¼ số
người lao động không có việc làm.14
Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã giảm xuống dưới
8,0% kể từ tháng 9/2012 và ở mức 7,6% trong tháng 6/2013, thể hiện xu hướng cải
thiện nhưng chậm.15
Tăng trưởng việc làm ở khu vực tư nhân của Mỹ vẫn còn khá yếu
và tỷ lệ thất nghiệp chưa thể nhanh chóng giảm xuống mức 6,5% như mục tiêu chính
sách.
Lạm phát toàn cầu tiếp tục được kiềm chế ở mức thấp trong năm 2013. Mức
giảm lạm phát ở các nền kinh tế không đều nhau do những khác biệt trong chính sách
và tình trạng sức khỏe của nền kinh tế. Lạm phát ở các nền kinh tế PT ở mức thấp chủ
yếu do sản xuất thấp, tiêu dùng thấp và mức tiền lương giảm. Mức tăng giá tiêu dùng
ở các nền kinh tế PT giảm từ 2,0% năm 2012 xuống còn 1,5% năm 2013 và 1,9% năm
2014. Mức tăng giá tiêu dùng ở các nền kinh tế ĐPT và mới nổi giảm nhẹ từ 6,1%
năm 2012 xuống 6,0% năm 2013.16
Giá lương thực và nhiên liệu giảm đã góp phần
9 http://www.markiteconomics.com/Survey/PressRelease.mvc/fd58998f084a468c8df4ba5b07d4754b 10 http://www.weforum.org/content/pages/global-confidence-index 11 ILO. 2013. Global Employment Trend 2013. 22 January 2013. Trang 16 12 http://stats.oecd.org/Index.aspx?DatasetCode=STLABOUR 13 ttp://epp.eurostat.ec.europa.eu/tgm/table.do?tab=table&language=en&pcode=teilm020&tableSelection=1&plugin=1 14 http://epp.eurostat.ec.europa.eu (đã dẫn) 15 http://www.bls.gov/news.release/empsit.nr0.htm 16 IMF. 2013. Đã dẫn.
15
khiến cho tỷ lệ lạm phát giảm ở nhiều nước ĐPT, đặc biệt là những nền kinh tế có thu
nhập thấp.
Lạm phát dự kiến của châu Á trong năm 2013 là 3,5%.17
Tại Đông Á, lạm phát
ở các nước như Trung Quốc và một số nước ASEAN (Malaixia, Việt Nam, Philíppin
và Inđônêxia) tiếp tục được kiểm soát trong mức mục tiêu của ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) dự báo lạm phát của nhóm ASEAN5
sẽ tăng nhẹ, từ 3,9% năm 2012 lên 4,0% năm 2013.18
Bảng 2: Lạm phát ở một số nƣớc châu Á (%)
Nước/vùng Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Các nền kinh tế
đang phát triển ở
châu Á
5,9 4,0 3,5 3,7
Trung Á 8,9 5,4 6,7 6,8
Đông Á 5,0 2,9 2,4 2,7
Trung Quốc 5,4 3,0 2,5 2,7
Nam Á 9,4 8,3 6,7 6,9
Ấn Độ 8,9 7,9 6,5 6,6
Đông Nam Á 5,5 4,0 4,3 4,2
ASEAN5 5,6 3,9 4,2 4,0
ASEAN5 gồm: Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Thái lan và Việt Nam
Nguồn: ADB. 2012. Asian Development Outlook Supplement, December 2012.
ADB. 2013. Asian Development Outlook Supplement, July 2013
Giá cả của những hàng hóa cơ bản trong năm 2013 có xu hướng giảm: Trao
đổi thương mại của các mặt hàng máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu sản xuất vẫn
còn gặp khó khăn trong năm 2013 do sản xuất công nghiệp và hoạt động đầu tư trì trệ.
Giá một số mặt hàng nông sản như lúa mỳ, gạo, cà phê đã có những phiên giảm khá
sâu như trong quý I/2013. Giá một số kim loại như đồng và bạc giảm so với năm
2012, chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc giảm khi hoạt động sản xuất
công nghiệp của nước này gặp khó khăn. Giá dầu mỏ vẫn có những phiên biến động
khá mạnh, tăng cao vào tháng 2/2013, sau đó đã hạ nhiệt nhưng lại có xu hướng tăng
kể từ tháng 7/2013. Trong ngắn hạn, giá năng lượng trong đó có giá dầu của thế giới
vẫn biến động chủ yếu tùy thuộc vào bất ổn chính trị ở Trung Đông (như cuộc xung
đột ở Syria) nên có những thời điểm tăng mạnh ngay cả khi nhu cầu của thế giới vẫn ở
mức thấp. Nhìn chung, giá vàng có xu hướng giảm, tụt xuống dưới mức 1600
USD/ounce kể từ tháng 3/2013,19
song vẫn còn biên độ dao động khá lớn.
Biểu đồ 1: Diễn biến giá dầu thô và giá vàng
17 ADB. 2013. Asian Development Outlook Supplement, July 2013 18 ADB. 2013. Đã dẫn 19 http://www.nasdaq.com/markets/commodities.aspx
16
Nguồn: http://www.nasdaq.com/markets
Thị trường tài chính thế giới đã vững mạnhhơn: Dòng vốn đổ vào các nền
kinh tế ĐPT và mới nổi đã tăng do các nền kinh tế PT thực thi chính sách nới lỏng
định lượng và giữ lãi suất ở mức thấp.20
WB ước tính, dòng vốn tư nhân ròng chảy
vào các nền kinh tế ĐPT sẽ tăng từ mức 1.178,3 tỷ USD năm 2012 lên 1250,2 tỷ USD
năm 2013, trong đó dòng vốn FDI ròng tăng từ 670,0 tỷ USD năm 2012 lên 719,3 tỷ
USD năm 2013.21
Trong nửa đầu năm 2013, theo đánh giá của WB, thị trường chứng khoán
(TTCK) của các nền kinh tế PT đã khởi sắc mạnh mẽ hơn TTCK của các nền kinh tế
ĐPT.22
Mặc dù dòng vốn đổ vẫn đổ vào các thị trường mới nổi song khả năng dòng
vốn này rút đi vào những tháng cuối năm là rất lớn khi các nền kinh tế PT có thể giảm
dần quy mô nới lỏng định lượng. Kinh tế Mỹ đang hồi phục hé lộ khả năng giảm dần
quy mô nới lỏng định lượng khiến cho đồng đôla Mỹ tăng giá so với nhiều đồng tiền
khác trong năm 2013.
Bảng 3: Dòng vốn vào, ra ở các nền kinh tế đang phát triển (tỷ USD)
2012 2013 2014
Dòng vốn vào 1192,4 1260,9 1297,4
Vốn tư nhân (ròng) 1178,3 1250,2 1290,7
+ Vốn cổ phiếu (ròng) 758,1 791,1 803,5
Vốn FDI vào (ròng) 670,0 719,3 715,7
Vốn cổ phiếu gián tiếp (ròng) 88,1 71,8 87,8
+ Vốn tín dụng tư nhân (ròng) 420,2 459,1 487,2
Dòng vốn ra - 365,4 - 371,3 -416,3
FDI ra - 238,0 - 275,0 -325,0
Vốn cổ phiếu gián tiếp - 12,4 - 17,3 -24,3
Nguồn: WB. 2013. Global Economic Prospect 2013. Volume 7 June 2013. Trang 6
20 ECB tiếp tục giữ tỷ lệ lãi suất tại mức thấp kỷ lục 0,75%; còn FED giữ tỷ lệ lãi suất ở mức 0-0,25%. 21 WB. 2013. Đã dẫn 22 WB. 2013. Đã dẫn. Trang 58
17
2. Cập nhật tình hình kinh tế của một số nƣớc và khu vực
Kinh tế EU và Eurozone: Năm 2013, tăng trưởng GDP của EU (27 nước) dự
kiến chỉ đạt -0,1% còn của Eurozone là -0,4%. Trong số các nền kinh tế đầu tàu của
EU, kinh tế Đức và Pháp dự kiến tăng trưởng 0,4% và -0,1%. Các nền kinh tế Italia và
Tây Ban Nha vẫn tiếp tục suy thoái với mức tăng trưởng -1,3% và -1,5% tương ứng.23
Tình hình kinh tế châu Âu đã từng rất nóng trong những tháng đầu năm 2013 với cuộc
khủng hoảng nợ công kéo theo cuộc khủng hoảng ngân hàng ở Cộng hòa Síp đẩy nền
kinh tế và xã hội nước này đến bên bờ sụp đổ nếu như không có sự cứu trợ kịp thời
của bộ ba: IMF, ECB và EU với 10 tỷ Euro kèm theo những điều khoản cải cách ngặt
nghèo. Điều này cũng thể hiện cam kết của Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) là
sẽ làm bất cứ điều gì để cứu đồng tiền chung.
Tháng 5/2012, khi ông François Hollande trở thành Tổng thống Pháp, tưởng
như trong EU đã xuất hiện sự khác biệt lớn hơn về chính sách ứng phó đối với cuộc
khủng hoảng giữa trường phái ủng hộ (Đức, Anh, Hà Lan, Phần Lan và Thụy Điển) và
trường phái phản đối (Pháp và những nước mới gia nhập) cắt giảm mạnh chi tiêu.
Thực tế cho thấy, ảnh hưởng của Pháp khá mờ nhạt so với Đức và trường phái cắt
giảm chi tiêu vẫn đang thắng thế. Tháng 2/2013, Hội nghị thượng đỉnh bàn về ngân
sách dài hạn của EU đã thông qua ngân sách của khối này trong 7 năm tới (2014-
2020) là 908 tỷ Euro. Đây là lần đầu tiên khối này cắt giảm ngân sách trong lịch sử 56
năm tồn tại.24
Nỗ lực thắt lưng buộc bụng và đẩy mạnh cải cách có vẻ bắt đầu đem lại những
tín hiệu tích cực cho EU. Những dấu hiệu đến thời điểm tháng 8/2013 cho thấy kinh tế
EU đã tươi sáng hơn và đang thoat ra khoi tinh trang suy thoái kéo dài 18 tháng qua.
GDP của 17 nền kinh tế thuộc Eurozone đã tăng 0,3% trong quý II/2013. Đức và Pháp
đều có tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn mong đợi, lần lượt là 0,7% và 0,5%.25
Ngày
01/8/2013, ECB cho biết, mặc dù thời gian tồi tệ nhất của Eurozone đã qua đi, ECB
vẫn tiếp tục duy trì lãi suất thấp 0,5% thêm một thời gian để tạo đà tăng trưởng.26
Kinh tế Nhật Bản: Tháng 12/2012, thắng lợi của Đảng Dân chủ Tự do trong
cuộc bầu cử quốc hội đã đưa ông Shinzo Abe trở lại nắm quyền. Thủ tướng mới của
Nhật Bản đã tiến hành những chính sách tiền tệ và tài khóa để vực dậy nền kinh tế với
ba mũi tên: i) kích thích bằng chính sách tiền tệ mạnh mẽ, bao gồm cả việc nâng mục
tiêu lạm phát của Ngân hàng trung ương Nhật Bản lên mức 2%; ii) kích thích tài khóa
dưới dạng tăng chi tiêu cho các công trình công cộng; và iii) thực hiện các cải cách dài
hạn từ phía cung nhằm mở rộng tiềm năng tăng trưởng.
Với việc vận hành “cỗ máy in tiền” đứng sau chính sách Abenomics nói trên,
ông Shinzo Abe đã đem lại cho nền kinh tế Nhật Bản những khởi sắc trong năm 2013.
Niềm tin của các doanh nghiệp Nhật Bản đang được cải thiện, sản lượng tại các nhà
máy gia tăng, giá trị xuất khẩu hồi phục và nhiều việc làm đang được tạo ra. Bên cạnh
đó, đồng Yên giảm giá là yếu tố then chốt để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Tình
trạng giảm phát của Nhật Bản đang dần được khắc phục. Dấu hiệu mới nhất là trong
tháng 6/2013 lần đầu tiên trong hơn một năm qua, giá tiêu dùng tại Nhật Bản đã tăng,
23 http://epp.eurostat.ec.europa.eu/tgm/table.do?tab=table&init=1&plugin=1&language=en&pcode=tec00115 24 So với con số 960 tỷ Euro dự kiến ban đầu, tương đương với 1,01 % GDP của toàn khối 25 www.tradingeconomics.com/euro-area/gdp-growth 26 www.bloomberg.com/.../draghi-policy-pause-seen-as-sign
18
mặc dù hầu hết là do giá điện tăng và đồng yên mất giá.27 IMF dự báo kinh tế Nhật
Bản sẽ tăng trưởng 2,0% trong năm 2013. Theo các số liệu mới công bố, sau khi đạt
mức 4,1% trong quý I/2013, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản đã tụt xuống còn 2,6%
trong quý II. Chi tiêu công và xuất khẩu đóng góp mạnh nhất cho tăng trưởng trong
quý II/2013 trong khi đầu tư tư nhân giảm sút. Thông tin về tăng trưởng chậm hơn
cùng với mức thâm hụt thương mại tăng trong quý II/2013 tăng áp lực đòi Thủ tướng
Shinzo Abe đẩy mạnh cải cách hơn nữa, bước sang giai đoạn III của chính sách
Abenomics là tái cơ cấu để cải thiện khả năng cạnh tranh của Nhật Bản và duy trì tăng
trưởng dài hạn.
Kinh tế Mỹ: Trong năm 2013, kinh tế Mỹ vẫn giữ đà khởi sắc, mặc dù mức
tăng trưởng đã chậm lại, dự báo chỉ đạt 1,7% (so với 2,2% trong năm 2012).28 Thị
trường nhà đất tiếp tục xu hướng phục hồi và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống. Tâm lý lo
ngại bao trùm trong những tháng cuối năm 2012 khi kinh tế Mỹ phải đối mặt với nguy
cơ “vách đá tài khóa” có thể gây ra một cuộc suy thoái mới đã qua đi khi chính phủ và
quốc hội Mỹ đã đạt được thỏa thuận về cách thức tạm thời xử lý vấn đề này.29 Tuy
nhiên, kể từ ngày 1/3/2013, chính quyền Mỹ vẫn phải thực hiện cắt giảm ngân sách 85
tỷ USD theo thủ tục “bảo lưu ngân sách” và việc cắt giảm này đã tác động ít nhiều đến
tăng trưởng, việc làm và các chương trình xã hội ở Mỹ.
Các số liệu mới công bố cho thấy, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ trong
quý II/2013, đạt 1,7% (so cùng kỳ năm 2012), sau khi chỉ tăng 1,1% trong quý I/2013.
Tăng trưởng cao hơn trong quý II/2013 chủ yếu là do xu hướng tăng đầu tư kinh
doanh, xuất khẩu và tăng tiêu dùng. Mặc dù chuyển biến của thị trường lao động
không nhanh như kỳ vọng, số lượng việc làm trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ tiếp
tục tăng.30 Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 7,6% trong tháng 6/2013 xuống còn 7,4%
trong tháng 7/2013.
Cụ dự trữ liên bang (FED) tiếp tục duy trì lãi suất mục tiêu ở mức 0%- 0,25%
do tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở trên mức 6,5% và lạm phát nằm dưới ngưỡng 2,5%. Từ giữa
tháng 6/2013, FED đã tuyên bố có thể giảm dần chương trình mua tài sản tài chính
trong năm 2013 nếu nền kinh tế Mỹ cải thiện tốt. Tuyên bố của FED đã khiến cho
TTCK tụt dốc mạnh. Vì thế, có những lo ngại rằng thay đổi chính sách tiền tệ quá
nhanh của FED có thể ảnh hưởng đến ổn định của thị trường tài chính.
Kinh tế Trung Quốc: Tháng 3/2013 kỳ họp thứ nhất Đại hội đại biểu nhân dân
toàn quốc Trung Quốc khóa 12 đã lựa chọn ra ban lãnh đạo kinh tế mới của Trung
Quốc do Thủ tướng Lý Khắc Cường đứng đầu. Ông Chu Tiểu Xuyên, người ủng hộ
chính sách tự do hóa lãi suất và tỷ giá linh hoạt, được bầu lại chức vụ Thống đốc
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Đây là một tín hiệu cho thấy ban lãnh đạo mới của
Trung Quốc sẽ tiếp tục đưa hệ thống tài chính đi theo định hướng thị trường. Tháng
7/2013, Hội nghị thường vụ Quốc vụ viện đã thông qua nguyên tắc "Phương án tổng
thể khu thử nghiệm thương mại tự do Thượng Hải". Đây sẽ trở thành nơi thử nghiệm
27http://www.cnbc.com/id/100954796 28 IMF. 2013. Đã dẫn. 29 “Vách đá tài khóa” dùng để chỉ khi các biện pháp cắt giảm được áp dụng từ thời cựu Tổng thống George
Bush sẽ hết hiệu lực và kế hoạch tự động cắt giảm chi tiêu chính phủ và tăng thuế sẽ có hiệu lực vào đầu năm
2013. Trong những thỏa thuận quan trọng có việc quốc hội Mỹ chấp thuận lùi thời hạn cắt giảm chi tiêu thêm 2 tháng, chương trình hỗ trợ người thất nghiệp mở rộng được gia hạn đến hết 2013, và vẫn thực hiện tăng thuế đối
với những người có thu nhập cao. 30Kinh tế Mỹ tăng thêm 162.000 việc làm trong tháng 7/2013 và điều chỉnh giảm 26.000 việc làm so với tháng
6/2013
19
cho những thay đổi chính sách lớn theo hướng tự do hóa, trói cho lãi suất nội địa,
nhằm ghi lại dấu ấn trong thời kỳ cầm quyền của Thủ tướng Lý Khắc Cường.
Sau nửa năm đầu tương đối trì trệ, các hoạt động sản xuất trong tháng 8/2013 đã
có dấu hiệu phục hồi. Điều này cho thấy một số chính sách kích thích kinh tế “mini”
như giảm thuế cho các công ty nhỏ, hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu gặp khó khăn, gia
tăng đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị và đường sắt thời gian qua đã mang lại kết quả
khả quan. Nền kinh tế đã ổn định trở lại và có thể đạt mục tiêu tăng trưởng 7,5% trong
năm 2013 – tuy đây sẽ là mức tăng trưởng thấp nhất của Trung Quốc trong vòng 23
năm.
Kinh tế Trung Quốc vẫn phải đối mặt với nhiều rủi ro. Thị trường nhà đất tiếp
tục nóng lên bất chấp biện pháp kiềm chế của nhà nước. Nền kinh tế có sự mất cân
xứng rất lớn giữa tiêu dùng và đầu tư. Trong khi đó, mức lương đang tăng lên khiến
Trung Quốc đang mất dần lợi thế cạnh tranh dựa vào lao động giá rẻ. Kết quả là lợi
nhuận đầu tư sẽ giảm mạnh kéo theo giá trị đầu tư giảm.31
Sụt giảm đầu tư ở Trung
Quốc tác động tiêu cực đến tăng trưởng của nền kinh tế nước này và quan hệ thương
mại, đầu tư của Trung Quốc đối với phần còn lại của thế giới (đặc biệt đối với châu Á
trong đó có Việt Nam).
3. Triển vọng kinh tế toàn cầu 2014 và một số vấn đề trung hạn
Kinh tế toàn cầu sẽ khởi sắc hơn trong năm 2014, mặc dù tốc độ tăng trưởng
còn thấp song các điều kiện vĩ mô sẽ ổn định hơn. IMF dự báo kinh tế toàn cầu sẽ
tăng trưởng 3,8%; thương mại toàn cầu tăng trưởng 5,4%. Các nền kinh tế PT tăng
trưởng 2,1%, còn các nền kinh tế ĐPT tăng trưởng 5,4%. Kinh tế Mỹ tăng trưởng
2,7%, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 1,2%, kinh tế Eurozone thoát ra khỏi suy thoái và
đạt mức tăng trưởng 0,9%.32
Các kịch bản cho kinh tế Trung Quốc vẫn còn khá bấp
bênh và tương đối khác biệt. IMF dự đoán nền kinh tế nước này sẽ tăng trưởng 7,7%
(thấp hơn năm 2013), trong khi WB dự báo là 8,0% (cao hơn năm 2013).33
Tốc độ tăng trưởng thấp của kinh tế thế giới có nguyên nhân là do tác động
chính sách. Kinh tế thế giới đang trong quá trình điều chỉnh từ giai đoạn tăng trưởng
không bền vững trước đây để trở về quỹ đạo cân bằng hơn bằng cách giảm mức độ sử
dụng các đòn bẩy tài chính và rơi vào vòng xoáy của “bẫy tăng trưởng thấp”.34
Đây là
tác động kết hợp của chính sách thắt lưng buộc bụng, cắt giảm tiêu dùng và đầu tư của
chính phủ, các công ty và hộ gia đình trong bối cảnh nợ công tăng, khu vực tài chính
yếu kém và thất nghiệp cao. Kết quả là cả sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng
đều giảm sút. Trong khi đó, vấn đề khủng hoảng niềm tin vẫn chưa được khắc phục.
Các nhà đầu tư và các hộ gia đình vẫn chưa tin rằng các nhà hoạch định chính sách có
khả năng hành động một cách quyết đoán, phối hợp với nhau tốt hơn để đưa các nền
kinh tế quay trở lại với lộ trình tăng trưởng mạnh và ổn định hơn.35
Để phá vỡ “bẫy tăng trưởng thấp”, các nền kinh tế PT đã thử nghiệm một số
biện pháp “phi truyền thống” chưa từng có từ trước tới nay, điển hình là chính sách
31 http://vneconomy.vn/20130723110033112P0C99/paul-krugman-kinh-te-trung-quoc-sap-dam-vao-van-ly-truong-thanh.htm 32 IMF. 2013. Đã dẫn. 33 WB. 2013. Đã dẫn 34 UN. 2012. World Economic Situation and Prospects 2013. Chapter 1. New York, 18 December 2012 35 WB. 2012. Điểm lại: Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam. Báo cáo của Ngân hàng thế giới tại Hội
nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, ngày 10/12/2012. Tr.5
20
nới lỏng định lượng của FED.36
Đến nay, hàng tháng FED mua vào tới 85 tỷ USD các
tài sản tài chính, trong đó bao gồm 40 tỷ USD để mua các chứng khoán được bảo lãnh
bằng thế chấp (MBS) và 45 tỷ USD để mua vào trái phiếu kho bạc dài hạn, nhằm kích
thích kinh tế phục hồi.
Những người phản đối chính sách nới lỏng định lượng (QE) từng cho rằng nó
sẽ không có hiệu quả do lãi suất dài hạn hiện nay đang ở mức rất thấp. Ngoài ra, tác
động làm suy yếu đồng tiền (kênh ngoại hối) của các biện pháp nới lỏng định lượng sẽ
bị giảm sút khi các ngân hàng trung ương lớn hiện nay đều đang áp dụng biện pháp
này. Kết quả là, chuỗi chính sách QE có thể trở thành một “trò chơi tổng bằng không”
do không phải tất cả các đồng tiền đều có thể giảm giá và không phải tất cả các cán
cân thương mại đều có thể được cải thiện. Khi đó, “cuộc chiến nới lỏng định lượng”
sẽ xuất hiện không khác gì một cuộc “chiến tranh tiền tệ” mới. Các hành động của
FED, ECB và BOJ cũng khiến các nền kinh tế mới nổi nới lỏng chính sách tiền tệ
hoặc thực hiện kiểm soát vốn nhằm tìm cách ngăn các dòng tiền "nóng" đổ vào để tìm
lợi tức cao hơn và ngăn chặn đồng nội tệ tăng giá. Tại châu Á, tỷ giá thực hữu hiệu
(REER) của đồng Yên đã giảm tới 18% trong giai đoạn từ tháng 7/2012 đến tháng
2/2013. Cũng trong khoảng thời gian này, tỷ giá thực hữu hiệu của đồng đôla Xingapo
tăng tới 4,8%, của đồng Won Hàn Quốc tăng 6,7% và của đồng Bạt Thái Lan tăng
8,8%.37
Ngược lại, Chủ tịch FED Ben Bernake tuyên bố các chương trình nới lỏng định
lượng ở các nền kinh tế phát triển không phải là hành động phá giá cạnh tranh. Xuất
khẩu của các nền kinh tế ĐPT sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực do nhu cầu nhập khẩu
của các nền kinh tế phát triển gia tăng sẽ bù lại việc đồng tiền của những nền kinh tế
ĐPT có thể tăng giá. Các chính sách nới lỏng định lượng và lãi suất thấp ở các nền
kinh tế PT cũng không phải là nguyên nhân chính có thể tạo ra các dòng vốn “nóng”
đổ vào các nền kinh tế ĐPT. Nguyên nhân chủ yếu là do triển vọng tăng trưởng kinh
tế khác nhau và tính toán về rủi ro của các nhà đầu tư, trong đó có cả lo ngại về các
biện pháp kiểm soát vốn chặt chẽ hơn mà các nền kinh tế ĐPT có thể áp dụng.38
Trong bối cảnh trên, rủi ro chính sách sắp tới nằm ở chỗ thoái lui các chính
sách nới lỏng định lượng ở các nền kinh tế PT. Mặc dù đã được lường trước và ngay
cả khi nó chưa được thực hiện ngay, tuyên bố của FED về việc có thể giảm dần
chương trình mua tài sản tài chính trong năm 2013 vẫn gây ra những xáo trộn lớn trên
thị trường tài chính toàn cầu.
Trước đây, chính sách nới lỏng định lượng đã tạo ra những luồng tiền đổ mạnh
vào những thị trường mới nổi nhằm tìm kiếm lợi tức cao hơn. Nếu chính sách nới lỏng
định lượng được thu hẹp rồi dỡ bỏ, giá của các trái phiếu kho bạc Mỹ sẽ giảm, lợi suất
của các trái phiếu này sẽ tăng lên (thực tế đã tăng từ mức 2,33% lên mức 2,8% ngay
sau khi có tuyên bố của FED)39
và các luồng vốn sẽ rút khỏi các thị trường mới nổi để
đầu tư vào nơi an toàn hơn là trái phiếu kho bạc Mỹ. Thậm chí, các dòng vốn này sẽ
36 Kể từ giữa tháng 9/2012, FED quyết định chi ra 40 tỷ USD hàng tháng để mua các chứng khoán được bảo
lãnh bằng thế chấp (MBS). Tháng 12/2012, cùng với 40 tỷ USD nói trên, FED quyết định hàng tháng sẽ mua
thêm vào 45 tỷ USD trái phiếu kho bạc dài hạn. Việc mua vào này diễn ra cho đến khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi. 37 http://blogs.worldbank.org/prospects/comment/reply/1383 38 http://www.federalreserve.gov/newsevents/speech/bernanke20130325a.htm 39 http://www.cnbc.com/id/100975385
21
còn rút ra nhiều hơn trong tương lai nếu FED tăng lãi suất mục tiêu khi tỷ lệ thất
nghiệp tụt xuống mức yêu cầu.
Động thái tuyên bố trên của FED ngay lập tức đã khiến cho các chỉ số chứng
khoán như S&P 500 và Dow Jones sụt giảm mạnh, thị trường chứng khoán của một số
nền kinh tế Đông Á phụ thuộc nhiều vào dòng vốn từ Mỹ như Inđônêxia, Thái Lan,
Philíppin cũng sụt giảm, giá vàng thế giới trượt dốc xuống gần mốc 1200 USD/ounce,
đồng tiền của Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Inđônêxia cũng mất giá nghiêm trọng…Thực tế
cho thấy, những rủi ro mà chính sách nới lỏng định lượng gây ra, đặc biệt là cho các
nền kinh tế mới nổi tùy thuộc vào chính tình trạng phát triển lành mạnh của những
nền kinh tế này. Các nước có nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém như như Ấn Độ đang
phải trả giá đắt khi đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong nhiều thập kỷ:
thâm hụt tài khoảng vãng lai cao, đồng rupee mất giá, lạm phát tăng vọt, thị trường
chứng khoán tụt dốc…Những khó khăn của các nền kinh tế mới nổi từ Ấn Độ cho đến
Trung Quốc cho thấy, các nền kinh tế này vẫn chưa thực sự có được một nền tảng
phát triển thực sự bền vững và vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các nền kinh tế PT mặc
dù đóng góp của các nền kinh tế mới nổi cho quy mô của nền kinh tế toàn cầu hiện
nay là khá lớn.
Mặc dù điều kiện tài chính đã ổn định hơn, các nền kinh tế PT vẫn đứng trước
những rủi ro không nhỏ. Bất ổn của kinh tế Eurozone trong vòng xoáy của cuộc khủng
hoảng nợ công và hệ thống ngân hàng tiếp tục là mối lo ngại lớn đối với kinh tế toàn
cầu. Rủi ro sụp đổ từ những mắt xích yếu kém của Eurozone như Hy Lạp, Tây Ban
Nha, Italia…có thể gây ra những bất ổn dây chuyền. Cuộc khủng hoảng ở Cộng hòa
Síp đầu năm 2013 là một thí dụ về những rủi ro này. Nợ công cũng là nguy cơ đối với
cả Nhật Bản và Mỹ. Nợ công của Nhật Bản vào cuối tháng 6/2013 đã vượt quá 1 triệu
tỷ yên. Dự báo, năm 2014 nợ công Nhật Bản sẽ bằng 230% GDP của nước này và
hiện Nhật Bản đã là quốc gia có tỷ lệ nợ công trên GDP cao nhất trong số các nước
PT.40
Trong khi đó, tháng 8/2013, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Jack Lew vừa cảnh báo
Mỹ sẽ chạm trần nợ 16.700 tỷ USD vào giữa tháng 10/2013.41
Tuy nhiên, các nghị sĩ
đảng Dân chủ và Cộng hòa trong Quốc hội Mỹ vẫn chia rẽ sâu sắc về mức chi tiêu và
sẽ không thể nhanh chóng đạt được thỏa thuận về việc nâng mức trần nợ công. Vụ
tuyên bố phá sản của "kinh đô xe hơi" Detroit là lời cảnh tỉnh đối với việc kiểm soát
tài chính công và chi tiêu của chính quyền. Vì thế, tình trạng nợ nần leo thang của Mỹ
và những nguy cơ mà nó gây ra giống như một trái bom nổ chậm tiếp tục gây ra tâm
lý lo ngại trên thị trường tài chính toàn cầu.
*
* *
Kinh tế toàn cầu đã bước vào giai đoạn ổn định hơn, song tốc độ tăng trưởng
vẫn còn thấp. Động lực tăng trưởng của kinh tế toàn cầu trong những năm qua là các
nền kinh tế mới nổi đang đi xuống, trong khi các nền kinh tế PT mới bắt đầu có dấu
hiệu khởi sắc. Thị trường tài chính toàn cầu đã bớt rủi ro hơn mặc dù vẫn tiềm ẩn
những tác động tiêu cực đối với các nền kinh tế ĐPT do việc các nền kinh tế PT rút bỏ
dần các biện pháp nới lỏng định lượng. Tình hình lạm phát nhìn chung vẫn được kiểm
soát do giá cả hàng hóa quốc tế đang có xu hướng giảm. Tuy nhiên, bất ổn ở Trung
40 Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Báo cáo tình hình kinh tế Nhật Bản tháng 8/2013. Hà Nội 41 http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/quoc-te/my-se-cham-tran-no-vao-thang-10-2870971.html
22
Đông, trong đó có cuộc xung đột ở Syria, đang ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường năng
lượng, đặc biệt là dầu mỏ.
Nhìn chung, tăng trưởng của các nền kinh tế ĐPT cần tiếp tục được dựa chủ
yếu vào thị trường nội địa. Các tổ chức quốc tế như WB, IMF và UN khuyến nghị các
nước này nên có những chính sách củng cố đà phục hồi tăng trưởng, thi hành các
chính sách vĩ mô thận trọng, tạo dựng, củng cố lại các “dư địa” cho các chính sách tài
khóa và tiền tệ để có thể triển khai sau này nhằm đối phó với các rủi ro xảy ra. Đặc
biệt, các nước ĐPT nên cân nhắc tiến hành những cuộc cải cách dài hạn hơn, tập trung
vào cải thiện nền sản xuất, năng suất lao động. Giai đoạn phát triển vừa qua của thế
giới cho thấy, những quốc gia nào chấp nhận cải cách mạnh mẽ, sâu rộng trong và sau
thời kỳ khủng hoảng sẽ tạo lập được nền tảng phát triển vững chắc sớm hơn và phục
hồi nhanh hơn./.
23
VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2013
Nguyễn Thắng
42
Phạm Minh Thái1
I. Mở đầu
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2013 ước tăng 4,9% so với
cùng kỳ năm 2012, cao hơn mức tăng 4,38% của 6 tháng đầu năm 2012. Tuy nhiên,
tình hình kinh tế xã hội nước ta trong nửa đầu năm 2013 vẫn tiếp tục đối mặt với
nhiều khó khăn thách thức. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
trong tình trạng khó khăn, đặc biệt là thị trường tiêu thụ hàng hóa thu hẹp, nhu cầu
tiêu dùng giảm sút dẫn tới tổng cầu trong nước bị thu hẹp. Nợ xấu vẫn là gánh nặng
cho nền kinh tế. Tình trạng doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể hoặc thu hẹp đáng
kể qui mô hoạt động vẫn tiếp tục diễn ra trong nửa đầu năm 2013, gây tác động bất lợi
đến việc làm và thu nhập của người lao động.
Trên cơ sở phân tích số liệu về lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê
cập nhật trong 6 tháng đầu năm 2013, bài viết sẽ đưa ra những đánh giá về thị trường
lao động trong 6 tháng đầu năm 2013 thông qua các chỉ số chính về tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm, thu nhập, tiếp cận với bảo hiểm xã hội v,v…
II. Lao động và việc làm Việt Nam 6 tháng đầu năm 2013 qua một số chỉ số tổng hợp
Tình hình lao động và việc làm có thể được đánh giá thông qua một số chỉ số
tổng hợp phản ánh kết quả chính của thị trường lao động bao gồm: (i) lực lượng lao
động; (ii) tỷ lệ thất nghiệp; (iii) tỷ lệ thiếu việc làm và số giờ làm việc; và (iv) thu
nhập của người lao động.
Đối với các nước phát triển, tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ số đặc biệt quan trọng
phản ánh khả năng hấp thụ nhu cầu việc làm của nền kinh tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam
nói riêng và các nước đang phát triển ở trình độ thấp nói chung, khu vực việc làm
chính thức chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và do vậy chỉ số về tỷ lệ thất nghiệp chưa đóng vai
trò chỉ báo quan trọng đối với tình hình lao động và việc làm. Đặc biệt trong bối cảnh
kinh tế suy giảm, những người lao động không được khu vực chính thức tuyển dụng
sẽ phải nhanh chóng chuyển sang làm việc tại khu vực phi chính thức (với điều kiện
làm việc kém hơn như số giờ làm việc nhiều hơn, thu nhập thấp hơn, không được
tham gia bảo hiểm xã hội v,v…) thường khó khăn hơn. Các chỉ số khác có vai trò chỉ
báo quan trọng liên quan đến việc làm là tỷ lệ thiếu việc làm và số giờ làm việc (mức
độ sử dụng lao động) và thu nhập của người lao động (thể hiện năng suất lao động).
II.1. Lực lƣợng lao động
42
Trung tâm Phân tích và Dự báo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Các tác giả xin chân
thành cảm ơn bà Phan Thị Minh Hiền, Tổng Cục Thống Kê, đã giúp đỡ trong việc tính toán các chỉ
tiêu về lao động và việc làm trong báo cáo. Các phân tích và đánh giá được thực hiện trong báo cáo này chỉ phản ánh quan điểm riêng của các tác giả với tư cách là các chuyên gia kinh tế
24
Hình 1: Lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên 6 tháng đầu năm, 2011-2013 (triệu
ngƣời)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Số liệu về lực lượng lao động (LLLĐ) từ 15 tuổi trở lên chứa đựng thông tin
quan trọng về cung lao động. Số liệu về lực lượng lao động 6 tháng đầu năm 2011-
2013 đã cho thấy có sự tăng lên đều đặn khoảng hơn 1 triệu lao động trong nửa đầu
của năm này so với nửa đầu của năm trước (Hình 1). Trong 6 tháng đầu năm 2011 lực
lượng lao động có khoảng 50,6 triệu người, đến nửa đầu năm 2012 con số này là hơn
52 triệu người và tăng thêm 1 triệu người nữa trong 6 tháng đầu năm 2013. Số liệu về
sự gia tăng của số người trong lực lượng lao động của Tổng cục thống kê đã phản ánh
xu hướng nhân khẩu học của lao động nước ta. Tuy nhiên, xu hướng này đã bắt đầu
đảo chiều khi tốc độ gia tăng của lực lượng lao động đã bắt đầu suy giảm từ năm 2013
này.
Hình 2: Tăng trƣởng lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên và tăng trƣởng GDP
theo 6 tháng đầu năm (2011-2013)
Nguồn: Dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
25
Tăng trưởng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên thể hiện sự tăng cung lao
động trong nền kinh tế. Trong khi đó, cầu lao động – vế bên kia của quan hệ cung cầu
lao động – lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế, được thể hiện qua chỉ số tổng hợp nhất
là tăng trưởng GDP. Số liệu về tăng trưởng GDP so sánh 6 tháng đầu năm từ 2010 tới
2013 cho thấy tốc độ tăng trưởng đã giảm, từ 6,16% trong nửa đầu năm 2010 xuống
còn 4,9% trong 6 tháng đầu năm 2013. Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng này ít dao
động hơn so với sự thay đổi liên tục trong tăng trưởng về lao động (Hình 2). Đặc biệt
6 tháng đầu năm 2013, LLLĐ đã giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2012, đây là dấu hiệu
cho thấy xu hướng suy giảm về lực lượng lao động theo cơ cấu nhân khẩu học đã bắt
đầu với “điểm ngoặt” từ năm 2013 (Nguyễn Thắng, 2012).
II.2. Việc làm và thất nghiệp
Trong 6 tháng đầu năm 2013, tỷ lệ thất nghiệp chung của Việt Nam tăng nhẹ từ
1,71% trong 6 tháng đầu năm 2012 lên mức 2,01% (Hình ). Tỷ lệ thất nghiệp ở cả
thành thị và nông thôn cũng có chung xu hướng tăng như vậy, là chỉ báo cho thấy tình
hình khó khăn của kinh tế Việt Nam vẫn đang tiếp tục trong nửa đầu của năm 2013.
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị vẫn cao gấp 2 lần so với tỷ lệ thất nghiệp ở khu
vực nông thôn (3,5% so với 1,37%). Điều này cho thấy, thất nghiệp chủ yếu diễn ra ở
khu vực thành thị bởi tìm được việc làm ở thành thị (nơi có sự cạnh tranh rất cao khi
dòng người dịch chuyển từ nông thôn ra thành thị ngày càng tăng) là khó khăn hơn rất
nhiều so với khu vực nông thôn. Tuy nhiên, dù dễ tìm được việc làm hơn ở khu vực
nông thôn nhưng việc làm đó lại không đem lại thu nhập cao cho người lao động. Do
đó, người lao động tiếp tục dịch chuyển ra thành phô, chấp nhận sự cạnh tranh cao ở
khu vực này vì công việc (nếu tìm được) thường đem lại thu nhập sẽ tốt hơn đáng kể
so với ở khu vực nông thôn.
Hình 3: Tỷ lệ thất nghiệp theo 6 tháng đầu năm 2011 – 2013 (%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Mặc dù có sự chênh lệch lớn về tỷ lệ thất nghiệp giữa thành thị và nông thôn
nhưng nhìn chung các tỷ lệ thất nghiệp này vẫn ở mức tương đối thấp. Tỷ lệ thất
nghiệp thấp như vậy có thể được lý giải là do ở một nước có trình độ phát triển còn
thấp, với đặc trưng là hệ thống an sinh xã hội có độ bao phủ hạn chế nên những người
lao động mất việc làm không thể duy trì tình trạng thất nghiệp lâu dài được mà buộc
phải chấp nhận làm công việc nào đó với chất lượng thấp hơn, thường là trong khu
26
vực phi chính thức với thu nhập thấp, công việc bấp bênh hoặc có thời gian làm việc
không phù hợp (ILO, (2009); GSO (2012)).
Một đặc trưng nữa của thị trường lao động Việt Nam được phản ánh khi phân
tích số liệu của Điều tra Lao động và Việc làm là tỷ trọng cao của lao động không có
bảo hiểm xã hội (bao gồm những lao động làm việc trong nông nghiệp, hoặc tại các
doanh nghiệp phi nông nghiệp không có đăng ký, hoặc làm trong các doanh nghiệp có
đăng ký song không tham gia bảo hiểm xã hội). Chỉ số này tiếp tục gia tăng đáng kể,
từ mức 74,8% trong năm 2011 lên 78% trong năm 2012 (Nguyễn Thắng và Phạm
Minh Thái, 2012). Số liệu 6 tháng đầu năm 2013 cho thấy tỷ lệ về việc làm phi chính
thức là 81,8%, trong đó tỷ lệ việc làm phi chính thức của nam giới cao hơn nữ giới
với các tỷ lệ tương ứng là 82,4% và 81,1%. Do Điều tra lao động việc làm chỉ hỏi các
câu hỏi về việc tham gia bảo hiểm xã hội vào tháng 8 năm 2011, tháng 3 và tháng 10
năm 2012 nên Bảng 4 không có số liệu này cho 6 tháng đầu năm 2011 mà chỉ có số
liệu 6 tháng đầu năm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013. Bắt đầu từ năm 2013, các câu
hỏi về việc tham gia bảo hiểm xã hội sẽ được hỏi cho tất cả các tháng nên bởi vậy
chúng ta sẽ có được thông tin tốt hơn kể từ năm 2013. Số liệu 6 tháng đầu năm 2013
phản ánh thực tế tốt hơn do được hỏi từng tháng thông tin về việc tham gia bảo hiểm
xã hội so với số liệu 6 tháng đầu năm 2012 (chúng tôi tạm sử dụng số liệu về việc
tham gia bảo hiểm xã hội tháng 3/2012 để từ đó suy diễn ra số liệu cho 6 tháng đầu
năm 2012). Do sự suy diễn từ số liệu năm 2012 như vậy nên sự so sánh giữa hai năm
2012 và 2013 chỉ mang tính chất tương đối. Mặc dù vậy, xu hướng lao động ít tham
gia bảo hiểm xã hội đang tăng lên, và điều này tạo ra một thách thức không nhỏ trong
việc đảm bảo an sinh xã hội trong tương lai.
Hình 4: Tỷ lệ lao động không có bảo hiểm xã hội 6 tháng đầu năm 2011-2013 (%)
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu dựa trên số liệu Điều tra Lao động và Việc
làm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013
Số liệu Hình 4 cho thấy, số lao động không tham gia bảo hiểm xã hội đã tăng
đáng kể trong 6 tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012 từ 77,84% lên tới
81,77%. Tỷ lệ này còn tăng nhanh hơn đối với lao động nam giới khi mức tăng lên là
hơn 4,22 điểm phần trăm (từ 78,21% lên 82,42%). Điều này cho thấy có sự dịch
chuyển đáng kể từ việc làm chính thức (có tham gia bảo hiểm xã hội) sang việc làm
phi chính thức (không tham gia bảo hiểm xã hội) trên thị trường lao động.
27
Phân tích tích số liệu Điều tra Lao động và Việc làm cho thấy tỷ trọng của
nhóm lao động dễ bị tổn thương, được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa
bao gồm lao động tự làm và lao động gia đình43
, đã tăng lên từ 61,5% trong 6 tháng
đầu năm 2011 lên 62,5% trong 6 tháng đầu năm 2012 và tiếp tục tăng nhẹ lên 62,7%
trong 6 tháng đầu năm 2013 (trong đó đóng góp chủ yếu là từ lao động tự làm với
mức tăng tương ứng trong các 6 tháng đầu năm lần lượt là 43,3%; 45,3% và 45,5%,
xem Hình 5). Xu hướng tăng lên của chỉ số giữa các 6 tháng đầu năm 2011, 2012 và
2013 là tương đối ổn định bởi lẽ so sánh theo cùng 6 tháng đầu năm sẽ loại bỏ yếu tố
mùa vụ.
Hình 5: Cơ cấu việc làm 6 tháng đầu năm 2011- 2013 (%)
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu trên cơ sở Điều tra Lao Động và Việc làm
Hơn thế nữa, tỷ lệ lao động dễ bị tổn thương này cao hơn đáng kể so với mức
trung bình của thế giới là 50%44
. Một điểm rất đáng chú ý trong Bảng 5 là xu hướng
suy giảm về tỷ lệ của lao động làm công ăn lương trong 6 tháng đầu năm 2011, 2012
và 2013 với các tỷ lệ tương ứng là 35,37%; 34,68% và 34,58%. Đây là một thách thức
không nhỏ đối với việc hoàn thành chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội tới năm 2020 là
lao động làm công ăn lương chiếm khoảng 50% lực lượng lao động có việc làm.
Một số chỉ số khác khá hữu ích liên quan đến tình trạng thất nghiệp, đó là (i) tỷ
lệ thất nghiệp đối với những người trong lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; và (ii)
tỷ lệ thất nghiệp đối với nhóm thanh niên (từ 15 đến 24 tuổi – theo định nghĩa của Tổ
chức lao động quốc tế ILO) cũng có thể được tính toán từ số liệu của Điều tra tra lao
động và việc làm.
Hình 6: Tỷ lệ thất nghiệp và số ngƣời làm việc đối với nhóm dân số từ 15 tuổi trở
lên 6 tháng đầu năm 2011-2013
43 Nguồn: http://www.ilo.org/global/about-the-ilo/newsroom/features/WCMS_120470/lang--en/index.htm 44 Nguồn: http://www.decent-work-
worldwide.org/index.php?option=com_content&task=blogcategory&id=67&Itemid=97
28
Nguồn: Ước tính của nhóm tác giả dựa theo số liệu của Tổng cục Thống kê
Tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm dân số từ 15 tuổi trở lên được ước tính là 2,07%
trong 6 tháng đầu năm 2011; 1,7% trong 6 tháng đầu năm 2012 và lại tăng lên 2,01%
trong 6 tháng đầu năm 2013 (Hình ).
Liên quan đến thất nghiệp của thanh niên (từ 15 đến 24 tuổi), Hình cho thấy tỷ
lệ thất nghiệp của thanh niên ở khu vực đô thị của Việt Nam theo số liệu 6 tháng đầu
năm trong giai đoạn 2011 đến 2013 là tương đối cao (tỷ lệ này cao xấp xỉ với các
nước ở khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương) và tiếp tục xu huớng tăng. Đặc
biệt, trong 6 tháng đầu năm 2013 tỷ lệ thất nghiệp thanh niên ở thành thị đã lên tới
10,97% (cao hơn hẳn so với cùng kỳ các năm 2011 và 2012 với các tỷ lệ tương ứng là
8,83% và 8,91%).
Xu hướng thất nghiệp thanh niên gia tăng lại cho thấy sự khó khăn của thanh
niên trên thị trường lao động khi được xem xét cùng với một chỉ số khác là tỷ lệ thanh
niên không có hoạt động (joblessness, thanh niên không làm việc cũng như không
tham gia học tập hay đào tạo): tỷ lệ này đã tăng lên từ 8,43% trong 6 tháng đầu năm
2011 lên 10,16% trong 6 tháng đầu năm 2012 và 10,53% trong 6 tháng đầu năm 2013.
Tỷ lệ thanh niên không hoạt động tăng lên là một dấu hiệu cảnh báo sự khó khăn
trong thị trường lao động trong tương lai, vì không đi làm và không đi học sẽ làm cho
trình độ và kỹ năng lao động của thanh niên vốn khó được cải thiện và thậm chí bị
mai một đi nếu tình trạng đó kéo dài. Nói một cách khác, nhiều khả năng là do xin
việc khó khăn nên nhóm thanh niên có kỹ năng thấp nhất đã rời khỏi lực lượng lao
động vì ít hy vọng về sự thành công trong nỗ lực tìm việc của họ và như vậy tỷ lệ thất
nghiệp trong nhóm thanh niên thuộc lực lượng lao động giảm đi là nhờ giảm mẫu số
(số thanh niên trong lực lượng lao động) chứ không phải nhờ tăng tử số (số thanh niên
trong lực lượng lao động có được việc làm).
Hình 7: Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15 đến 24 tuổi) 6 tháng đầu năm 2011-2013
29
Nguồn: ước tính của các tác giả từ số liệu Điều tra lực lượng lao động giai đoạn 2011, 2012
và quý 1 năm 2013
Tóm lại, xu hướng tăng lên của thất nghiệp thanh niên thành thị đi cùng với xu
hướng tăng lên của tỷ lệ thanh niên không hoạt động là một dấu hiệu đáng quan ngại
đối với không chỉ thị trường lao động Việt Nam nói riêng mà còn tạo ra một áp lực
đáng kể đến những vấn đề xã hội. Do đó, hai chỉ tiêu này cần phải được tiếp tục theo
dõi chặt chẽ để từ đó có thể có những giải pháp hạn chế tình trạng đó nhằm phòng
ngừa những vấn đề xã hội có thể phát sinh.
II.3. Thiếu việc làm và số giờ làm việc
Đối với một nước đang phát triển có độ bao phủ thấp của hệ thống bảo hiểm xã
hội và khu vực phi chính thức có vị trí quan trọng thì thiếu việc làm là vấn đề mang tính
phổ biến hơn nhiều so với vấn đề thất nghiệp. Có hai chỉ số để đo tình trạng thiếu việc
làm: (i) tỷ lệ thiếu việc làm; và (ii) số giờ làm việc trong 1 tuần.
Hình 8: Tỷ lệ thiếu việc làm 6 tháng đầu năm 2011 – 2013 (%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2011, 2012 và 2013, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp
có xu hướng tăng nhẹ song tỷ lệ thiếu việc làm lại tương đối ổn định trong cả nước nói
chung cũng như ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn. Phân tích số liệu theo 6
tháng đầu năm 2013 cũng cho thấy tính chất ổn định của tỷ lệ này so với 6 tháng đầu
năm 2012 (Hình 8). Đối ngược với tỷ lệ thất nghiệp (thành thị luôn cao hơn gấp hai
30
lần ở nông thôn) thì tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn lại luôn cao hơn xấp xỉ hai lần ở
thành thị trong nửa đầu năm 2011-2013. Điều này một lần nữa khẳng định tính dẻo
dai của khu vực nông thôn khi đối phó với tình hình kinh tế suy giảm: người lao động
ở khu vực nông thôn luôn tìm việc gì đó để làm, kể cả phải chấp nhận việc làm với
chất lượng thấp hơn hay thời gian làm việc ít hơn. Do đó ở khu vực nông thôn, tỷ lệ
thất nghiệp thấp hơn nhưng tỷ lệ thiếu việc làm lại cao hơn của thành thị.
Về số giờ làm việc trung bình trong một tuần, có một sự giảm nhẹ từ 44,98 giờ
trong 6 tháng đầu năm 2012 xuống 44,59 giờ trong 6 tháng đầu năm 2013. Tuy nhiên
nếu so với 6 tháng đầu năm 2011 thì đã có sự suy giảm đáng kể số giờ làm việc trung
bình ở 6 tháng đầu các năm 2012 và 2013. Nếu sử dụng giá trị trung vị, số giờ làm
việc một tuần đã giảm mạnh từ mức 48 giờ trong 6 tháng đầu năm 2011 xuống còn 46
giờ một tuần ở 6 tháng đầu năm 2012 và 2013. Tuy nhiên, không có sự khác biệt
nhiều về số giờ làm việc trong 1 tuần giữa lao động nữ (44,1 giờ/tuần trong 6 tháng
đầu năm 2012 và 43,7 giờ/tuần trong 6 tháng đầu năm 2013) và nam (48,0 giờ/tuần
trong 6 tháng đầu năm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013).
Hình 9: Số giờ làm việc trong một tuần 6 tháng đầu năm (2011-2013)
Nguồn: Tính toán của các tác giả dựa trên số liệu Điều tra Lao động và Việc làm 2012 và 6
tháng đầu năm 2013
Như vậy, ở cấp độ toàn nền kinh tế, số liệu Điều tra lao động và việc làm cho
thấy thiếu việc làm không phải là vấn đề lớn trong cả năm 2012 và 6 tháng đầu năm
2013. Tuy nhiên, số giờ làm việc trung bình một tuần lại có xu hướng giảm trong nửa
đầu năm 2013 so với cùng kỳ các năm 2011 và 2012.
31
Bảng 1 cung cấp thông tin về số giờ làm việc bình quân trong 1 tuần theo loại hình sở
hữu và trong một số ngành chọn lọc trong 6 tháng đầu năm 2012 và 2013. Theo loại
hình sở hữu, thời gian lao động bình quân 6 tháng đầu năm 2013 có xu hướng giảm so
với 6 tháng đầu năm 2012 trong khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Tuy nhiên,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp tư nhân trong nước lại
có sự tăng nhẹ về số giờ làm việc với mức tăng tương ứng là 0,61 giờ/ tuần và 0.12
giờ/tuần. Đáng chú ý là FDI và doanh nghiệp tư nhân trong nước cũng chính là hai
loại hình sở hữu có số giờ lao động là lớn nhất với mức trung bình lên tới xấp xỉ 50
giờ/tuần45
trong 6 tháng đầu năm 2012. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thì số giờ
làm việc trung bình một tuần của người lao động cũng có xu hướng tăng nhẹ ở các
ngành có số giờ làm việc cao như dệt may, da giày với các con số tương ứng là 49,4
giờ/tuần và 49,3 giờ/tuần trong 6 tháng đầu năm 2012.
45
Mức quy định chung về số giờ làm việc đối với công nhân làm việc trong các doanh nghiệp là 48
giờ/tuần
32
Bảng 1: Số giờ làm việc bình quân theo loại hình sở hữu và trong một số ngành chọn lọc
6 tháng đầu năm 2012, 2013
Theo loại hình sở hữu
6 tháng 2012 6 tháng 2013 Thay đổi
Nữ Nam Chung Nữ Nam
Chung Nữ Nam
Chung
DNNN 45,77
46,61
46,31
45,16
45,65
45,47
(0,62)
(0,96)
(0,84)
FDI 49,17
49,56
49,32
50,04
49,73
49,93
0,86
0,17
0,61
Doanh nghiệp tư nhân 48,80
49,55
49,24
48,94
49,66
49,36
0,14
0,11
0,12
Hộ KDCT chính thức phi NN 51,38
52,93
52,22
51,70
50,91
51,27
0,32
(2,03)
(0,95)
Hộ KDCT phi CT phi NN
48,89
50,01
49,49
48,15
48,97
48,59
(0,74)
(1,04)
(0,90)
HTX và cơ quan nhà nước 41,82
43,36
42,62
40,52
42,89
41,74
(1,30)
(0,47)
(0,88)
Hộ KDCT trong nông nghiệp 40,69
42,78
41,72
39,65
41,95
40,79
(1,04)
(0,83)
(0,93)
Theo ngành chính
Nông nghiệp 40,73
42,87
41,79
39,69
42,04
40,85
(1,04)
(0,83)
(0,94)
Khai khoáng 43,96
49,78
48,49
44,18
47,19
46,58
0,22
(2,59)
(1,91)
Chế biến/Chế tạo 48,50
48,89
48,69
48,80
49,39
49,07
0,29
0,50
0,39
Xây dựng 49,71
49,68
49,69
48,99
49,77
49,69
(0,72)
0,09
0,01
Thương mại 49,52
49,29
49,42
50,13
49,52
49,87
0,61
0,24
0,45
Dịch vụ 44,91
46,28
45,62
44,52
46,11
45,34
(0,39)
(0,17)
(0,29)
Một số ngành xuất khẩu
Nông thủy sản xuất khẩu 41,44
43,00
42,24
40,50
42,18
41,37
(0,94)
(0,83)
(0,88)
Dệt may 49,18
50,23
49,40
49,81
50,70
50,01
0,63
0,47
0,60
Da giày
49,51
48,91
49,34
50,46
50,71
50,52
0,95
1,80
1,18
Điện tử và linh kiện 50,37
53,26
51,31
51,36
50,54
51,08
0,99
(2,72)
(0,23)
Gỗ và sản phẩm gỗ 49,54
49,90
49,82
50,16
50,73
50,60
0,62
0,83
0,78
Cao su 41,92
44,82
43,83
47,14
49,90
48,73
5,22
5,08
4,90
Điện và dây cáp điện 46,25
47,18
46,71
46,63
50,27
48,63
0,38
3,09
1,92
Gốm sứ
33
49,19 47,93 48,46 48,17 49,31 48,89 (1,02) 1,37 0,42
Mây tre đan 44,52
46,87
45,43
43,86
46,24
44,74
(0,66)
(0,63)
(0,69)
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu điều tra lao động việc làm 2012, quý 1/2013_ GSO
II.4. Thu nhập của ngƣời lao động làm công ăn lƣơng
Thu nhập của người lao động là chỉ số quan trọng nhất phản ánh chất lượng của
việc làm trên thị trường lao động. Thu nhập đồng thời là yếu tố quan trọng bậc nhất
quyết định đến chi tiêu của người lao động và gia đình của họ, qua đó tác động lên
tổng cầu của nền kinh tế. Tuy nhiên, số liệu Điều tra Lao động và Việc làm không
cung cấp thông tin về thu nhập của những lao động tự làm, lao động gia đình và
những lao động không thuộc hình thức làm công ăn lương. Nói một cách khác số liệu
chỉ thu thập thông tin về thu nhập của những lao động làm công ăn lương. Trong khi
đó nhóm lao động làm công ăn lương hiện nay vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khoảng 1/3
tổng số người làm việc và thậm chí tỷ lệ này còn giảm nhẹ từ 35,4% trong 6 tháng đầu
năm 2011 xuống còn 34,6% trong 6 tháng đầu năm 2013. Như vậy, thu nhập của
khoảng 2/3 tổng số người làm việc trong nền kinh tế hiện nay đang ở trong trạng thái
nằm trong “hộp đen” cần phải được tìm hiểu để có thể đánh giá được chất lượng của
việc làm trên thị trường lao động.
Hình 10: Thu nhập của lao động làm công ăn lƣơng theo thành phần sở hữu 6 tháng
đầu năm 2011 và 2013 (đơn vị: nghìn đồng/tháng)
Nguồn: Tính toán của các tác giả trên cơ sở số liệu Điều tra Lao động và Việc làm, các năm
2011, 2012 và 6 tháng đầu năm 2013
Phân tích thu nhập của nhóm lao động làm công ăn lương từ số liệu của Điều
tra Lao động và Việc làm cho thấy có sự tăng lên đáng kể về mức thu nhập danh nghĩa
trung bình của nhóm này trong 6 tháng đầu năm 2013, đạt khoảng 4,1 triệu đồng/1
tháng, tăng 10,2% so với 6 tháng đầu năm 2012 và tăng khoảng 36% so với cùng kỳ
năm 2011. Tuy nhiên có sự khác nhau về mức cũng như tốc độ tăng của thu nhập giữa
các nhóm lao động làm công ăn lương khác nhau. Cụ thể, nếu xem xét dưới góc độ cơ
cấu sở hữu của chủ lao động (Hình ) có thể thấy lao động làm công ăn lương trong các
doanh nghiệp Nhà nước có mức thu nhập cao nhất, và tốc độ tăng thu nhập là 7,6%
trong 6 tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012 và 24,5% so với cùng kỳ năm
34
2011, với mức thu nhập trung bình là 6,2 triệu đồng/ tháng. Lao động làm công ăn
lương trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có mức thu nhập cao thứ hai
sau các doanh nghiệp Nhà nước, với tốc độ tăng thu nhập là 7,2%. Cả hai mức tăng
này đều xấp xỉ tốc độ tăng giá tiêu dùng CPI. Lao động làm công ăn lương trong hộ
kinh doanh tập thể phi nông nghiệp (phi chính thức hoặc chính thức) có mức thu nhập
thấp nhất (trung bình khoảng 3 triệu đồng/tháng) và thấp hơn đáng kể so với các nhóm
khác. Mức tăng thu nhập của nhóm này trong 6 tháng đầu năm 2013 (13,5%) là cao
hơn hơn so với mức tăng trung bình của lao động làm công ăn lương.
Nếu xem xét dưới góc độ các ngành chính của nền kinh tế, phân tích số liệu cho
thấy (Hình 2) lao động làm công ăn lương trong nông nghiệp có mức thu nhập thấp
nhất, với tốc độ tăng thu nhập của ngành này cũng rất thấp trong 6 tháng đầu năm 2013
so với cùng kỳ năm 2012, đạt 3,6%, tức là thấp hơn đáng kể so với tốc độ tăng giá tiêu
dùng CPI. Tiếp theo là lao động làm công ăn lương trong ngành xây dựng với mức thu
nhập trung bình là 3,6 triệu đồng/tháng, với tốc độ tăng thu nhập là 7,8% trong 6 tháng
đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012. Thu nhập cao nhất thuộc về lao động làm công
ăn lương trong ngành khai khoáng với mức thu nhập trung bình là 5,9 triệu đồng/tháng,
tuy nhiên đây lại là nhóm có tốc độ tăng thu nhập thấp nhất chỉ tăng có 1,2% trong 6
tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012, và do vậy thấp hơn đáng kể so với tốc
độ tăng giá tiêu dùng CPI.
Hình 21: Thu nhập của lao động làm công ăn lƣơng trong một số ngành chính 6 tháng
đầu năm 2011-2013 (Đơn vị: Nghìn đồng/tháng)
Nguồn: Tính toán của các tác giả trên cơ sở số liệu Điều tra Lao động và Việc làm, các năm
2011, 2012 và 6 tháng đầu năm 2013
Thu nhập trung bình của lao động làm công ăn lương trong các ngành xuất
khẩu chủ yếu của Việt Nam cũng có mức tăng trưởng tương đối tốt trong 6 tháng đầu
năm 2013. Thu nhập trung bình của lao động làm công ăn lương trong ngành điện tử
tăng trưởng ở mức cao so với mức chung (10,4%), đạt khoảng 4,9 triệu đồng/tháng.
Hình 32: Thu nhập của lao động làm công ăn lƣơng trong một số ngành có định hƣớng
xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011-2013 (đơn vị: nghìn đồng/tháng)
35
Nguồn: Tính toán của các tác giả trên cơ sở số liệu Điều tra Lao động và Việc làm, các năm
2011, 2012 và 6 tháng đầu năm 2013
Lao động làm công ăn lương trong các ngành dệt may, da giày, gỗ và sản phẩm
gỗ có mức thu nhập trung bình tăng tương ứng là 6,4%, 4,4% và 11,8% trong 6 tháng
đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012, và đạt tương ứng là 3,6 triệu; 4,1 triệu và 3,7
triệu đồng/tháng trong 6 tháng đầu năm 2013. Đặc biệt, thu nhập của lao động làm công
ăn lương trong ngành điện và dây cáp điện, gốm sứ và mây tre đan có tốc độ tăng
trưởng khá ấn tượng (gần gấp hai lần tốc độ tăng trung bình) với tốc độ tăng tương ứng
là 17%, 25,8% và 28,6% so với 6 tháng đầu năm 2012.
III. Kết luận
Những chỉ số cơ bản của thị trường lao động được tính toán dựa trên số liệu
Điều tra Lao động và Việc làm của Tổng cục Thống kê cập nhật đến hết quý 2 năm
2013 dường như đã phản ánh được phần nào những thách thức mà nền kinh tế phải
đối mặt trong 6 tháng đầu năm 2013. Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2013, tỷ lệ thất
nghiệp của Việt Nam nói chung và tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nông thôn
nói riêng có xu hướng tăng lên; số giờ làm việc trung bình trong một tuần giảm và thu
nhập danh nghĩa của lao động làm công ăn lương tăng khá với tốc độ tăng là 10,16%
so với cùng kỳ năm 2012. Đặc biệt là sự tăng lên trong tỷ lệ thất nghiệp thanh niên
(15-24 tuổi) và tỷ lệ thanh niên không hoạt động là một chỉ số đáng chú ý và phải tiếp
tục được theo dõi chặt chẽ trong thời gian tiếp theo.
Đối với Việt Nam, một nền kinh tế có việc làm nông nghiệp và phi nông
nghiệp phi chính thức chi phối, chiếm tới trên 3/4 tổng số việc làm, mặc dù con số về
thất nghiệp không có nhiều ý nghĩa (đặc biệt khi định nghĩa một người có làm ít nhất
một giờ trong tuần nghiên cứu đã được coi là có việc làm) nhưng sự tăng lên về tỷ lệ
thất nghiệp trong 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ các năm trước đã cho thấy sự khó
khăn mà nền kinh tế phải đối mặt.
Tuy số liệu về thu nhập danh nghĩa có tăng thêm 10,16 % nhưng nó chỉ phản
ánh về thu nhập của những lao động làm công ăn lương (chiếm khoảng hơn 1/3 tổng
số lao động đang làm việc trong nền kinh tế). Kinh nghiệm cho thấy khi kinh tế suy
giảm thì những lao động có tay nghề thấp (và do đó có thu nhập thấp) thường là đối
tượng đầu tiên bị cắt giảm, dẫn đến nhóm lao động được giữ lại thường là có tay nghề
cao hơn (và do đó có thu nhập cao hơn), với kết quả quan sát được là thu nhập trung
36
bình của lao động làm công ăn lương tăng lên, cho dù thu nhập của từng lao động cụ
thể không tăng, thậm chí có thể còn giảm. Như vậy, với việc chúng ta không có thông
tin về thu nhập của 2/3 số lao động còn lại trong nền kinh tế nên chưa đủ cơ sở để
đánh giá được năng suất lao động thực sự của người lao động trên thị trường lao động.
Điều này được cũng cố thêm nhờ phân tích sâu hơn số liệu của Điều tra Lao động và
Việc làm: tỷ trọng lao động không có bảo hiểm xã hội đã gia tăng đáng kể, từ mức
77,8% trong 6 tháng đầu năm 2012 lên 81,8% trong 6 tháng đầu năm 2013. Đây là
dấu hiệu của sự chuyển dịch ngược từ việc làm chính thức trở về việc làm phi chính
thức, với chất lượng việc làm (thu nhập và các điều kiện làm việc khác) suy giảm.
Như vậy những người lao động yếu thế hơn và chịu nhiều rủi ro hơn trong bối cảnh
kinh tế suy giảm (do không có bảo hiểm xã hội) cũng có mức tăng thu nhập thấp hơn.
Điều này cũng có thể suy luận rằng nhóm dễ bị tổn thương (chiếm 62,7% tổng số lao
động) cũng bị ảnh hưởng đáng kể bởi bất ổn kinh tế vĩ mô và tăng trưởng suy giảm.
Nếu gộp chung với nhóm lao động làm công ăn lương không có bảo hiểm xã hội có
thể thấy rằng khoảng 80% lực lượng lao động nhiều khả năng chịu tác động đáng kể
của suy giảm kinh tế.
Tài liệu tham khảo
1. ILO (2009), “Các chỉ số chính của thị trường lao động”, bản sửa đổi lần thứ 7, Xem
http://www,ilo,org/empelm/pubs/WCMS_114060/lang--en/index,htm
2. Oudin Xavier, Laure Pasquier-Doumer, François Roubaud, Phạm Minh Thái và Vũ
Hoàng Đạt (2013), « Adjustment of the Labour Market in Time of Transition” (Sự
điều chỉnh của thị trường lao động ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi”, Bản dự
thảo,
3. Tổng cục thống kê (2012), “Tình hình kinh tế xã hội năm 2012”
http://www,gso,gov,vn/default,aspx?tabid=413&thangtk=12/2012
4. Tổng cục thống kê (2012), “Báo cáo điều tra lao động và việc làm Việt Nam năm
2011”, Hà Nội 2012
5. Tổng cục thống kê (2013), “Tình hình kinh tế-xã hội 6 tháng đầu năm 2013”,
http://gso,gov,vn/default,aspx?tabid=621&ItemID=13510
6. Tổng cục thống kê (2012), “Báo cáo điều tra lao động việc làm 9 tháng đầu năm
2012” tại hội thảo công bố kết quả điều tra lao động việc làm Việt Nam năm 2012 tại
Hà Nội ngày 18/12/2012
37
NHỮNG THÁCH MỚI ĐẶT RA TRONG KHU VỰC NÔNG NGHIỆP
TS. Đặng Kim Sơn
Trong thời gian qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu to lớn, đóng
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, phát triển kinh tế,
xóa đói giảm nghèo, là nguồn thu ngoại tệ lớn và góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Mặc dù Việt Nam đã có những thay đổi lớn về cơ cấu kinh tế, lao động, nhưng
đến nay vẫn còn trên 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn. Kinh nghiệm phát triển
25 năm đổi mới cho thấy nếu được quan tâm, đầu tư đúng mức, nông nghiệp sẽ là
động lực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Những thách thức của thế giới như dân số tăng nhanh, biến đổi khí hậu và biến động
giá lương thực,… cũng cho thấy nông nghiệp sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong
tương lai.
1. Những thành tựu nổi bật trong nông nghiệp Việt Nam thời gian qua
Sau 27 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể và
đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở
thành lĩnh vực phát triển thành công nhất của nền kinh tế. Bất chấp những khó khăn
về thị trường, thiên tai và dịch bệnh, nông nghiệp tăng trưởng duy trì ở mức tương đối
khá. Sản xuất nông nghiệp đã tạo ra nguồn cung lương thực thực phẩm dồi dào, đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia. Nhờ vậy, giá nông sản tại Việt Nam, đặc biệt là giá
lương thực được duy trì ở mức thấp, tạo chi phí lao động thấp, thu hút mạnh đầu tư
nước ngoài và đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
Bên cạnh đó, xuất khẩu nông sản tăng liên tục. Việt Nam đã trở thành một
trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về các mặt hàng như: gạo, cao su, cà
phê, hạt tiêu, hạt điều, sản phẩm gỗ và các sản phẩm thủy sản. Trong khi Việt Nam
liên tục thâm hụt thương mại, nông nghiệp là ngành duy nhất có thặng dư xuất khẩu
ròng tăng đều đặn, ngay cả trong thời điểm tăng trưởng kinh tế suy giảm. Thặng dư
xuất khẩu nông nghiệp đã góp phần quan trọng cân bằng cán cân thương mại quốc
gia.
Tăng trưởng nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực đã đóng vai trò quan
trọng nhất trong việc thực hiện thành công xóa đói giảm nghèo trong bối cảnh phần
lớn dân số vẫn sống ở khu vực nông thôn và nông nghiệp là nguồn sinh kế chính của
người dân ở những địa bàn khó khăn. Tỷ lệ giảm nghèo ở Việt Nam liên tục cải thiện
trong suốt thời gian dài với mức giảm ấn tượng khoảng 2%/năm. Đây là nền tảng quan
trọng của ổn định xã hội, an ninh chính trị, đồng thời cũng là đóng góp quan trọng cho
công tác bảo vệ môi trường.
Kể từ năm 2008 đến nay, Việt Nam chứng kiến tình trạng suy trầm của nền
kinh tế do những yếu kém trong quản lý chính sách vĩ mô trong nước và ảnh hưởng
tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới. Trong khó khăn, sản xuất nông nghiệp vẫn
nổi lên như một mảng sáng đáng khích lệ nhất của nền kinh tế. Trước những bất lợi do
thiên tai, dịch bệnh và suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động
sản xuất kinh doanh, ngành nông nghiệp (bao gồm cả trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp và thủy sản vẫn duy trì mức tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011-2012
38
là 3,4%/năm, vượt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm Đại hội Đảng XI đề ra cho ngành là 2,6-
3,0%.
Cũng như các đợt suy thoái kinh tế cuối thập kỷ 1980 và cuối thập kỷ 1990, lần
này nông nghiệp tiếp tục đóng vai trò “phao cứu sinh” cho đất nước vượt qua khó
khăn. Nhờ sản xuất cung ứng đủ lương thực thực phẩm, giúp duy trì ổn định kinh tế -
xã hội. Năm 2011, khi giá lương thực tăng cao (22,82%), thực phẩm tăng (29,34%,)
thì CPI bình quân chung tăng đến 18,58%. Năm 2012, mức tăng CPI của nhóm hàng
lương thực, thực phẩm chậm lại còn 3,26% và 8,14%, kéo mức tăng CPI bình quân
chung xuống 9,21%. Những tháng đầu năm 2013, chỉ số giá lương thực giảm 24,5%
và thực phẩm giảm 35,8%, góp phần kéo CPI tiêu dùng chung giảm 5,6% so với tháng
12/2012 góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát.
Xuất khẩu đóng góp quan trọng trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Trung
bình trong giai đoạn 2011-2012, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu NLTS đạt
18,8%/năm, vượt xa so với chỉ tiêu 6-7% theo kế hoạch phát triển giai đoạn 2011-2015
của Bộ NN&PTNT. Trong khi thương mại Việt Nam thường xuyên nhập siêu thì nông
nghiệp là ngành duy nhất luôn luôn xuất siêu, góp phần đáng kể cải thiện cán cân
thương mại. Năm 2012 là năm đầu tiên sau 20 năm Việt Nam có thặng dư cán cân
thương mại (284 triệu USD)46
chủ yếu nhờ xuất khẩu nông sản và xuất khẩu của các
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xuất khẩu nông sản đạt mức kỷ lục 27,5 tỷ
USD và đạt thặng dư xuất khẩu ròng 10,6 tỷ USD trong năm 2012.
2. Những thách thức đặt ra trong khu vực nông nghiệp
Mặc dù đạt được những thành tựu đáng kể và có đóng góp tích cực cho việc
duy trì ổn định kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2010 - 2012, nhưng tăng trưởng nông
nghiệp vẫn chủ yếu dựa trên việc khai thác tài nguyên thiên nhiên (tăng diện tích đất,
thâm dụng nước tưới để tăng vụ,…) cùng mức sử dụng vật tư đầu vào cao nhưng hàm
lượng đổi mới công nghệ và thể chế thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp được biểu hiện
ở mức tổn thất sau thu hoạch cao, chất lượng sản phẩm không đồng đều, vệ sinh an
toàn thực phẩm không đảm bảo, khả năng tạo giá trị mới thấp. Vì vậy, sau một thời
gian dài khởi sắc, tăng trưởng nông nghiệp đã bắt đầu chững trong thời gian gần đây,
giảm từ 4,5% năm 1995-2000 xuống còn 3,8% giai đoạn 2000-2005; rồi 3,4% giai
đoạn 2006-2011 và chỉ còn 2,7% trong năm 2012.
Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông nghiệp diễn ra chậm, chưa thực sự phản ánh
lợi thế so sánh và chưa đáp ứng triển vọng nhu cầu trong tương lai. Trồng trọt vẫn
chiếm trên 50% cơ cấu nội ngành nông nghiệp, trong đó lúa gạo vẫn chiếm tỷ trọng
chính. Tuy chiếm phần lớn diện tích cây hàng năm nhưng hiệu quả kinh tế của cây lúa
đem lại không cao, vì vậy đã xuất hiện tình trạng nông dân không thiết tha với đất lúa,
không thâm canh tăng vụ nhất là ở Đồng bằng sông Hồng. Ngành thủy sản và ngành
chăn nuôi phát triển nhanh, song thiếu bền vững. Năng suất vật nuôi còn thấp, giá thành
chăn nuôi cao, thức ăn chăn nuôi phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu, mô hình chăn nuôi
công nghiệp chưa phát triển, khả năng kiểm soát dịch bệnh còn yếu, kiểm soát thị
trường và tổ chức kinh doanh kém… làm nhiều hộ nuôi thủy sản ở Đồng bằng Sông
Cửu Long treo ao, nhiều hộ chăn nuôi bỏ chuồng.
46 Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2012– Tổng cục Thống Kê
39
Sản xuất nông nghiệp Việt Nam đang xuất hiện những khó khăn ngày càng
trầm trọng do nhiều thách thức mới xuất hiện. Một số thách thức mà ngành nông
nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt có thể kể đến như:
Khả năng tái sản xuất mở rộng của nông dân giảm sút.
Nông nghiệp đang tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn. Kinh tế thế giới và
trong nước chưa thể nhanh chóng hồi phục trong năm nay và năm tới. Các ngân hàng
khó khăn vì nợ xấu, doanh nghiệp chậm tiếp cận nguồn vốn khiến lợi nhuận giảm phải
cắt giảm sản xuất. Kinh tế tăng trưởng chậm, nhu cầu tiêu dùng trên thị trường giảm
làm giá nông sản giảm trong khi giá vật tư, nhiên liệu vẫn tăng. Sản xuất nông nghiệp
tăng trưởng chậm, kinh tế nông thôn đình trệ, việc làm và thu nhập trong nền kinh tế
khó khăn sẽ tiếp tục ảnh hưởng xấu đến thu nhập của nông dân. Trong hoàn cảnh đầu
tư cho nông nghiệp không cải thiện, khả năng tái sản xuất mở rộng kém đi. Những vấn
đề suy thoái, bất ổn có khả năng lan từ lĩnh vực kinh tế sang xã hội và môi trường làm
bất ổn chính trị và xã hội từ nông thôn lan ra thành thị.
Rủi ro trong sản xuất nông nghiệp tăng.
An ninh sinh học đang trở thành vấn đề quan trọng. Trong năm 2013 Trung
Quốc đã đối mặt với chủng virus cúm gà H7N9 là loại virus cúm gia cầm mới vừa được
phát hiện có khả năng lây từ gia cầm sang người và có tỉ lệ tử vong cao, trong khi chủng
H5N1 vẫn xuất hiện và gây tử vong ở Việt Nam. Với sự biến đổi của các chủng virus
mới và khả năng lây nhiễm từ các nước xung quanh, nguy cơ phát sinh các đợt dịch
khác cho gia súc, gia cầm rất lớn và không loại trừ khả năng lây lan sang người. Tương
tự như vậy, bệnh dịch đối với thủy sản bùng phát trên tôm vừa qua gây tổn thất lớn cho
người nuôi. Mặc dù từ đầu năm 2012, các cơ quan chức năng của Bộ Nông nghiệp và
các địa phương đã quyết liệt nghiên cứu, làm rõ nguyên nhân của dịch bệnh trên tôm
(bệnh teo gan tôm) nhưng đến nay chưa được giải quyết triệt để, người nuôi vẫn chịu
thiệt hại lớn. Đồng thời, giá cá tra xuất khẩu biến động thất thường, nhu cầu nhập khẩu
của thị trường chính (EU và Mỹ) bị sụt giảm mạnh, sản lượng tồn kho lớn, người dân
giảm đầu tư sản xuất. Ngoài ra, các bệnh dịch khác trên thủy sản, cây trồng thời gian tới
sẽ có nhiều diễn biến phức tạp.
Do rừng bị phá hoại nhiều, các công trình thủy điện, các khu khai thác khoáng
sản không đi kèm khôi phục môi trường đã làm nặng nề hơn thiệt hại bão, lũ, hạn hán
thời gian gần đây. Cùng với quá trình biến đổi khí hậu, tình trạng thiên tai trong tương
lai sẽ diễn ra ngày căng tăng với nhiều diễn biến phức tạp hơn. Tình trạng sạt lở, lũ
lụt, ngập mặn, hạn hán tại một số vùng sẽ xảy ra với mức độ nghiêm trọng hơn ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân. Các biểu hiện thời
tiết cực đoan có nhiều khả năng gây ảnh hưởng tiêu cực cho sản xuất nông nghiệp.
Trong thời gian gần đây, tuy kinh tế suy thoái nhưng tình trạng mất đất sản
xuất nông nghiệp vẫn diễn ra với tốc độ cao. Trong khi hệ thống luật lệ quản lý tài
nguyên đất, nước, sinh học chậm được cải thiện thì các nhu cầu của quá trình CHN-
ĐTH, bối cảnh biến đổi khí hậu và nguy cơ cạnh tranh, tranh chấp ngày càng gay gắt.
Các nguồn tài nguyên phục vụ sản xuất nông nghiệp như đất, nước, sinh học... sẽ tiếp
tục căng thẳng trong tương lai giữa nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, giữa nông
thôn và đô thịvà giữa các quốc gia lân cận.
Tình trạng thiên tai trong tương lai sẽ diễn ra ngày căng tăng với nhiều diễn
biến phức tạp hơn. Tình trạng sạt lở, lũ lụt, ngập mặn, hạn hán tại một số vùng sẽ xảy
40
ra với mức độ nghiêm trọng hơn ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và sản
xuất của người dân. Các biểu hiện thời tiết cực đoan có nhiều khả năng gây ảnh hưởng
tiêu cực cho sản xuất nông nghiệp.
Ô nhiễm và nguy cơ gây suy thoái môi trường.
Tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua lạm dụng phân bón, hóa
chất bảo vệ, thuốc thú y, chất kích thích tăng trưởng,… gây tác động xấu đến môi
trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tính trạng
ô nhiễm môi trường nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời sẽ mang lại những
hậu quả hết sức nghiêm trọng, đe dọa sản xuất trong nước và khả năng cạnh tranh của
nông sản Việt Nam trên thị trường.
Quản lý tài nguyên nước mặt và nước ngầmlãng phí, áp dụng các biện pháp
canh tác cũ và kém tận dụng phụ phẩm nông nghiệp là nguyên nhân gây ra ô nhiễm
cục bộ cũng như tăng phát thải khí nhà kính.
Kinh tế nông thôn, với việc phát triển làng nghề, tiểu thủ công nghiệp và công
nghiệp địa phương mà không quản lý môi trường tốt đang gây nguy cơ làm ô nhiễm
môi trường nông thôn.
Việc việc phá rừng bừa bãi, săn bắt khai thác cạn kiệt động vật hoang dã và tận
thu nguồn lợi thủy sản bằng các phương pháp đánh bắt hủy diệt đã làm mất cân bằng
sinh thái, suy giảm đa dạng sinh học, hủy hoại khả năng tái tạo và phòng chống thiên tai
của tự nhiên.
Xu hướng phát triển bừa bãi các khu công nghiệp ở các địa phương, buông
lỏng quản lý chất thải công nghiệp, phát triển thủy điện nhỏ và khai thác đất đá,
khoáng sản bừa bãi trực tiếp làm suy thoái môi trường, gây nguy hiểm cho sinh kế và
phá hoại rừng, hủy hoại môi trường sống bền vững của người dân nông thôn.
Các nước trong khu vực đầu tư phát triển nông nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh
Tại Thái Lan, chính phủ đầu tư rất mạnh cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là
lúa gạo và trái cây. Trong năm tài khóa 2012, chính phủ Thái Lan đã chi cho chương
trình trợ giá gạo khoảng 3,5% GDP. Nông dân trồng lúa còn được hưởng những chính
sách hỗ trợ khác như: được mua phân bón với giá thấp và miễn cước vận chuyển phân
bón, được cung cấp giống mới có năng suất cao. Ba chương trình lớn nhằm hỗ trợ nông
nghiệp của Thái Lan gồm có: (i) Chương trình hoãn nợ cho nông dân vay tiền của Ngân
hàng nông nghiệp; (ii) Chương trình “Mỗi làng một triệu bath”; (iii) Chương trình “Mỗi
làng một sản phẩm”.
Tại Trung Quốc, năm 2006, Chính Phủ xoá bỏ thuế nông nghiệp đã tồn tại 2
600 năm, cắt giảm 15 tỷ USD gánh nặng thuế của nông dân. Từ đó đến nay, mức trợ
cấp cho nông nghiệp, đầu tư cho nông thôn của Trung Quốc tăng rất mạnh hàng năm,
tạo nên tiềm lực mới cho khoa học công nghệ và kết cấu hạ tầng sản xuất. Đời sống
nông thôn Trung Quốc thực sự thay đổi mạnh. Đồng thời, dưới áp lực về lương thực,
Trung Quốc đã khích lệ các doanh nghiệp hướng ra các nước khác để thuê đất nông
nghiệp sản xuất. Theo ước tính, hiện có hơn 40 Công ty nông nghiệp Trung Quốc hoạt
động ở 30 nước trên cả 5 châu lục. Các trang trại này sản xuất các thực phẩm mà
Trung Quốc đang thiếu như gạo, đậu tương, ngô… Không chỉ thuê, đi liền sau các
hợp đồng thuê đất ở khắp 5 châu là dòng người Hoa được đưa tới đó để làm việc.
41
Tại Indonesia, Cơ quan hậu cần quốc gia (Bulog) gần đây đã tăng cường thu
mua lúa gạo trong nước nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Indonesia tăng đầu tư cho
nông nghiệp và trợ cấp cho người trồng lúa, hỗ trợ kỹ thuật, công cụ và vật tư, dịch vụ
cho nông dân, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư nông nghiệp, chú trọng xây dựng
hệ thống thủy lợi, cung cấp thông tin dự báo thời tiết… cho người sản xuất. Chính phủ
sẽ cấp 10.000 ha đất sạch đối với doanh nghiệp đầu tư nông nghiệp đưa ra dự án khả
thi. Indonesia cũng kêu gọi doanh nghiệp bảo hiểm tham gia lĩnh vực bảo hiểm
Tại Philippines, Chính Phủ nỗ lực trong việc đảm bảo lúa gạo cho toàn dân trong
thời gian tới. Ngoài ra, Chính Phủ Philippines cũng đặt ra mục tiêu xuất khẩu 100 tấn
gạo chất lượng cao trong năm 2013. Chính phủ Philipppines dự kiến sẽ tăng 22% ngân
sách dánh cho nông nghiệp nhằm tăng cường mạng lưới giao thông và hệ thống tưới
tiêu. Để thực hiện những mục tiêu trên, Bộ Nông nghiệp Philippines đã ban hành
chương trình cung cấp giống chất lượng cao đồng thời cấp bảo hiểm rủi ro thiên tai cho
nông dân trồng lúa.
Các nước khác trong vùng như Lào, Campuchia, Mianma cũng có bước phát
triển mạnh trong việc cải tổ hệ thống tổ chức và chính sách phát triển nông nghiệp
nông thôn.
Suy thoái kinh tế thế giới, nhu cầu thị trường thế giới sụt giảm đối với một số
mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, doanh nghiệp tiếp tục gặp
khó khăn
Trong thời gian gần đây, kinh tế tăng trưởng chậm, nhu cầu tiêu dùng trên thị
trường thế giới giảm, làm giá nông sản xuất khẩu của Việt Nam giảm. Từ giữa năm
2012 cho đến tháng 6/2013, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chính đều giảm giá. Kim
ngạch xuất khẩu các nông sản chính trong 6 tháng đầu năm 2013 giảm 10,5% so với
cùng kỳ năm 2012. Trong tháng 6 năm 2013, giá cao su giảm 19,3%; giá hạt điều giảm
14,8%; giá gạo giảm 12,8%; giá hạt tiêu giảm 10,2%; giá thủy sản giảm 2,9% so với
cùng kỳ năm trước47
. Trong khi đó, do kinh tế trong nước khó khăn, sức mua trong
nước giảm. Giá nông sản thấp một mặt góp phần quan trọng giữ lạm phát ở mức thấp
nhưng mặt khác làm giảm đáng kể thu nhập của nông dân.
Trong khi đó, giá các vật tư đầu vào chính của sản xuất nông nghiệp như phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật và thú y, thức ăn gia súc và thủy sản, nhiên liệu,
điện,…vẫn tiếp tục tăng. Trong quý II năm 2013, giá xăng đã tăng 10% so với cùng
kỳ; giá điện tăng 5% từ ngày 1/8/2013. Ngân hàng tiếp tục gặp khó khăn vì nợ xấu
(chiếm 4,7% tổng dư nợ vào cuối tháng 5 năm 201348
) đã siết chặt tín dụng và giữ
mức lãi suất rất cao kéo dài (phổ biến trong khoảng 13,5% đến 17,5%49
). Nhiều doanh
nghiệp và hộ nông dân không vay được vốn, buộc phải cắt giảm sản xuất, khiến lợi
nhuận giảm. Trong chăn nuôi, do dịch bệnh và làm ăn thua lỗ, nhiều doanh nghiệp, hộ
sản xuất phá sản. Tổng số đàn trâu của cả nước trong tháng 7 năm 2013 giảm 2,5%;
đàn bò giảm 3%; đàn lợn giảm 1,5%, gia cầm giảm 2% so với cùng kỳ năm 2012 50
.
Một số sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu có dịp tràn vào thị trường nước ta. Trong
ngành thủy sản cũng diễn ra tình trạng nhiều doanh nghiệp, hộ nuôi trồng thủy sản phá
47 Tính toán từ số liệu xuất nhập khẩu 6 tháng năm 2013 của Tổng cục Thống kê. 48 Ngân hàng Nhà nước 49 Ngân hàng Nhà nước 50 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch 7 tháng đầu năm 2013 ngành
Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
42
sản do bệnh dịch, cạnh tranh thương mại gay gắt chính ngay giữa các doanh nghiệp
trong nước. Các ngư dân hoạt động trên biển còn gặp khó khăn vì tầu nước ngoài xua
đuổi, uy hiếp, bắt giữ. Thêm vào đó là các rào cản thương mại tại các thị trường xuất
khẩu. Ước tính, hiện đã có hơn 80% doanh nghiệp thủy sản mới thành lập trong 5 năm
gần đây sắp phá sản.Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2012 đạt khoảng
6,15 tỷ USD, tăng 0,7% so với năm 2011 nhưng chỉ bằng 94,2% so với kế hoạch. Ước
tính 6 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản tương đương cùng kỳ năm ngoái.
Kinh tế thế giới và trong nước chưa thể nhanh chóng hồi phục trong năm nay
và năm tới. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng chậm. Trong hoàn cảnh đó, đầu tư cho
nông nghiệp không cải thiện (tỷ lệ vốn đầu tư cho nông lâm thủy sản trong tổng vốn
đầu tư xã hội có xu hướng giảm từ 13,9% năm 2000 còn 6,6% vào năm 201151
). Nếu
nông nghiệp tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn như trước thì khả năng tái sản
xuất mở rộng của ngành sẽ sụt giảm nghiêm trọng.
Do hiệu quả thấp, nông nghiệp giảm dần vai trò trong cơ cấu thu nhập của gia
đình nông thôn. Trên toàn quốc lao động nông thôn bỏ sản xuất nông nghiệp đi tìm
việc phi nông nghiệp ở ngay nông thôn hoăc tại thành phố, thậm chí tìm cách đi làm ở
ngoài nước. Do trình độ thấp, thiếu thông tin, không có tổ chức, đa sống lao động từ
nông thôn ra chủ yếu tham gia “thị trường lao động phi chính thức” (xe ôm, cửu vạn,
thợ xây, đồng nát, ô sin,…) rủi ro cao, thu nhập thấp, điều kiện làm việc khó khăn,
điều kiện sinh hoạt bất thuận. Một số nơi ở đồng bằng sông Hồng, nông dân đã trả
ruộng lại cho nhà nước. Ở các vùng khác, hàng loạt nông dân bỏ đất không canh tác
hoặc giảm vụ gieo trồng.
3. Đề xuất cho bƣớc phát triển mới
Mặc dù, nhu cầu tiêu dùng chung trên thế giới đang chững lại trong điều kiện
khủng hoảng kinh tế thế giới trước mắt, nhưng nhìn lâu dài, nông sản với chất lượng
cao đảm bảo vệ sinh an toàn luôn luôn có thị trường và giá tốt. Trong vài chục năm
tới, cả thị trường trong nước và xuất khẩu đều có triển vọng tốt cho sản xuất nông
nghiệp.Trong bối cảnh hội nhập ngày càng đẩy mạnh, một khi sản xuất nông nghiệp
chuyển sang hướng có giá trị gia tăng cao và chất lượng tốt thì cơ hội để Việt Nam
liên kết với các doanh nghiệp và quốc gia khác để mở rộng thị trường nông sản là rất
to lớn. Đến năm 2015, AFTA sẽ phát huy hết tác dụng, hiệp định TPP đang đàm phán
cũng đang mở ra những thời cơ mới.
Các tiến bộ kỹ thuật được áp dụng ngày càng rộng rãi trong sản xuất nông
nghiệp đem lại năng suất vật nuôi cây trồng và năng suất lao động ngày càng cao, mở
ra khả năng chống chịu thích nghi tốt với các bất lợi của môi trường, thực sự sẽ là
nguyên liệu quan trọng để xây dựng một cơ cấu nông nghiệp hiện đại.
Việc đương đầu với những khó khăn thách thức và khai thác các thời cơ thuận
lợi trên gắn chặt với năng lực đổi mới cơ cấu ngành sản xuất nông nghiệp của Việt
Nam ngay trong năm 2013 và các năm tới. Một mặt là triển vọng thay đổi tình hình
một cách căn bản chẳng những đối với ngành nông nghiệp và với cả nền kinh tế nước
nhà, mặt khác là nguy cơ bất ổn về chính trị xã hội và suy thoái môi trường nếu ngành
nông nghiệp tiếp tục giảm tăng trưởng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã chủ động chuẩn bị Đề án tái cơ
cấu ngành, theo tầm nhìn “tái cơ cấu nền kinh tế” của Nghị quyết Đại hội Đảng lần
51 Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê
43
thứ 11. Đây là bộ ngành đầu tiên trình Đề án tái cơ cấu ngành và đã được Thủ tướng
phê duyệt. Mục tiêu chính của công tác tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm hướng tới
phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững có hàm lượng khoa học công nghệ cao, cơ
giới hóa cao, tạo ra giá trị cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn
quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện thu nhập nông dân, gắn với kinh tế
nông thôn phát triển năng động và đa dạng. Để phục vụ mục tiêu này, Bộ Nông
nghiệp đã đề xuất các định hướng tái cơ cấu ngành như sau:
Chuyển từ sản xuất các nông sản có giá trị thấp và tiềm năng thị trường hẹp
sang các sản phẩm có giá trị cao và tiềm năng thị trường lớn; chuyển từ tập trung đầu
tư vào các công đoạn sản xuất sang đầu tư cả cho những khâu tạo giá trị gia tăng trong
chuỗi giá trị sau thu hoạch; chuyển từ chỉ thúc đẩy sản xuất, kích cung sang hỗ trợ
cầu; chuyển từ nông nghiệp thâm dụng tài nguyên sang nông nghiệp thâm dụng khoa
học công nghệ, huy động tài nguyên con người; chuyển từ nông hộ tiểu nông sang
phát triển kinh tế hợp tác, chuyên môn hóa cao, gắn kết cả ngành hàng tại các vùng
chuyên canh.
Sau 25 năm đổi mới, nông nghiệp Viêt Nam đã đạt được những thành tựu đáng
ghi nhận và đã giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Nền
nông nghiệp vẫn phát triển trước biến động của thị trường, thiên tai bệnh dịch xảy ra
thường xuyên. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rõ là các động lực cho tăng trưởng
nông nghiệp trong thời gian qua đã không còn hoặc đang cạn kiệt dần. Nguồn tài
nguyên thiên nhiên, yếu tố quan trọng cho tăng trưởng nông nghiệp thời gian qua
đang bị suy giảm trầm trọng trong khi bản thân ngành nông nghiệp đang và sẽ phải
đối mặt với tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị thường thế giới và ngay
chính trong đất nước mình. Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết hơn bao giờ hết cho
những giải pháp phát triển ngành nông nghiệp với khả năng cạnh tranh cao song song
với phát triển bền vững.
Trước mắt, cần trợ giúp các hộ chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản đang gặp khó
khăn để có thể giữ vững ao nuôi và đầu tư tái đàn bằng hỗ trợ tài chính, giãn nợ,...;
đồng thời cần có giải pháp để trợ giúp các doanh nghiệp nông thôn còn hoạt động duy
trì và khôi phục sản xuất thông qua các giải pháp tài chính.
Nhanh chóng đưa các nguồn tài nguyên đang bị bỏ phí vào sản xuất nông
nghiệp như đất ở các khu dự án công nghiệp thuộc dạng quy hoạch treo; khôi phục
ngay các công trình thủy lợi tại các công trình thủy điện và khai khoáng không hiệu
quả; huy động vật tư tồn kho (xi măng, sắt…) để xây dựng, phát triển giao thông nông
thôn và thủy lợi nhỏ trong chương trình nông thôn mới…
Tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân (cả trong và ngoài nước) đầu tư
vào NN &PTNT, chuyển các hoạt động quan trọng mà trước đây nhà nước vẫn đầu tư
hoàn toàn sang hợp tác công tư. Các hoạt động đề xuất là: sản xuất công nghệ cao, áp
dụng tiêu chuẩn sản phẩm quốc tế, phát triển nguồn nhân lực, thông tin thị trường,
quản lý rủi ro, vận hành và bảo trì hệ thống thủy lợi, quản lý cơ sở hạ tầng nông thôn,
nghiên cứu ứng dụng nông nghiệp, dịch vụ khuyến nông, dịch vụ thú y, quản lý tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường, tài chính nông thôn và bảo
hiểm nông nghiệp.
Nhóm giải pháp quan trọng nhất, cần tập trung sức để giải quyết là đẩy mạnh
triển khai tái cơ cấu ngành:
44
Phát triển khoa học công nghệ: tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức KHCN nông
nghiệp theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm; huy động sự tham gia của tất cả các
thành phần kinh tế vào các hoạt động KHCN nông nghiệp; phân cấp, phân quyền
mạnh mẽ hoạt động khuyến nông cho các tổ chức nông dân và doanh nghiệp, tăng
kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ và khuyến nông, đẩy mạnh triển khai cơ chế
đấu thầu các đề tài nghiên cứu.
Tập trung đầu tư kết hợp cải tiến tổ chức, phát triển toàn diện toàn bộ chuỗi
ngành hàng (từ sản xuất, chế biến đến buôn bán) đối với những ngành có lợi thế như
lúa gạo, các da trơn ở ĐBSCL, cây công nghiệp ở Tây Nguyên,... tại các vùng chuyên
canh sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu trọng điểm (theo mô hình cánh đồng mẫu
lớn, cánh đồng liên kết,…). Ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng, hệ thống dịch vụ phục vụ
sản xuất kinh doanh và hệ thống kho tàng, chế biến, vận chuyển, tiếp thị, … nhằm
nâng cao giá trị gia tăng và giảm giá thành nông sản.
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm nhằm phát hiện kịp thời các loại bệnh dịch
nguy hiểm, nâng cao năng lực dự báo khí tượng thủy văn nhằm ứng phó với biến đổi
khí hậu, hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường làm cơ sở cho công tác điều hành và
dự báo thị trường. Tiến hành bảo hiểm sản xuất nông nghiệp
Cải cách và tăng cường vai trò của hội nông dân, vai trò của các hiệp hội ngành
hàng và các HTX nông nghiệp. Nâng cao vai trò của các tổ chức này trong việc cung
cấp các dịch vụ công. Nâng cao vai trò giám sát của cộng đồng đối với các dịch vụ
công và các hoạt động sử dụng nguồn lực chung. Cải cách thủ tục hành chính, tập
trung hoạt động của Nhà nước vào những hoạt động quản lý chính (chính sách, quy
hoạch, tiêu chuẩn..). Xóa bỏ cơ chế xin cho, chuyển sang đối tác khách hàng trong
quản lý NN và giao thêm quyền tự chủ cho người dân cho PTNT đặc biệt trong NTM
Xử lý dứt điểm, cổ phần hóa và sắp xếp lại các doanh nghiệp nông lâm nghiệp
nhằm cải thiện hiệu quả sử dụng đất bằng cách làm rõ đối tượng quản lý và sử dụng
có hiệu quả cao nhất.
Trước tình hình suy giảm của sản xuất nông nghiệp và xáo trộn trong kết cấu nông
thôn, đã đến lúc phải có quyết tâm chính trị cao để kiên quyết tái cơ cấu lại ngành nông
nghiệp, ưu tiên phát triển nông thôn, phát huy vai trò chủ thể của nông dân. Đây là những
mục tiêu quan trọng để ổn định chính trị xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng và mở đường
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục đi lên.
Đây là những bước đột phá ban đầu để tiếp tục duy trì bằng được điểm sáng
nông nghiệp nông thôn của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh khó khăn hiện nay.
Tuy nhiên để thực sự khai tác tiềm năng to lớn của nông nghiệp nông thôn Việt Nam
thực sự trở thành lợi thế đưa Việt Nam quay trở lại mức phát triển hiệu quả và vững
bền để có thể cất cánh công nghiệp hóa thì cần phải tiến hành tái cơ cấu kiên quyết và
triệt để của toàn nền kinh tế.Tư duy cũ phải được đổi mới, cách làm cũ phải được thay
đổi để tạo ra được động lực đúng hướng cho mọi đối tượng trong xã hội từ nhà lãnh
đạo đến người nông dân.
Nếu như công cuộc đổi mới 27 năm trước đã thay đổi tư duy, thực hiện những
cải cách quan trọng về đổi mới quan hệ sản xuất ở cơ sở, trao quyền cho người sản
xuất, kinh doanh, để cơ chế thị trường điều hành hàng hóa và dịch vụ thì có lẽ công
cuộc đổi mới hôm nay đòi hỏi những đột phá trong tư duy và đổi mới chính sách, chủ
trương lớn cả ở cơ sở và ở trung ương để trao quyền cho nhà khoa học, cho người
45
quản lý, để cơ chế thị trường vận hành hiệu quả với các tài nguyên quan trọng như đất
đai, tiền vốn, lao động, khoa học công nghệ,…
46
QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG VÀNG:
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM52
TS. Tô Ánh Dƣơng
Viện Kinh tế Việt Nam
1. Kinh nghiệm quản lý thị trƣờng vàng của Trung Quốc
Tại Trung Quốc, hoạt động kinh doanh vàng được thống nhất quản lý bởi đầu
mối duy nhất là Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (People‟s Bank of China-PBOC –
Ngân hàng Trung ương của Trung Quốc). Trong giai đoạn từ năm 1949 đến 2001,
Trung Quốc thực hiện kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, PBOC đóng vai
trò độc quyền thị trường vàng trong nước. Tuy nhiên, cùng với việc tự do hóa thị
trường tài chính, Trung Quốc đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc tự do hoá
từng bước thị trường vàng. Về cơ bản, kế hoạch tự do hoá thị trường vàng của Trung
Quốc cũng bao gồm 3 giai đoạn như nhiều nước khác, đó là: (i) Giai đoạn 1: Xoá bỏ
chế độ độc quyền kinh doanh vàng và cơ chế kiểm soát giá, đồng thời thành lập Sở
giao dịch vàng Thượng Hải; (ii) Giai đoạn 2: Từng bước xoá bỏ cơ chế cấp phép đối
với hoạt động sản xuất, bán buôn và bán lẻ vàng, bước đầu là đối với hoạt động bán
lẻ, sau đó cho phép cá nhân được tham gia giao dịch vàng miếng; (iii) Giai đoạn 3:
Xoá bỏ từng bước chế độ quản lý xuất nhập khẩu vàng. Trên cơ sở các bước nêu trên,
PBOC đã ban hành các quy định theo hướng nới lỏng quản lý hoạt động kinh doanh
vàng. Dưới đây là những mốc quan trọng trong tiến trình tự do hoá thị trường vàng
của Trung Quốc.
- Giai đoạn 1991-2000: Trước năm 1991, tại Trung Quốc, nhu cầu tiêu thụ
vàng phát triển chậm, chỉ vào khoảng 80 tấn/năm, rất thấp nếu tính theo đầu người.
Trong giai đoạn 1991-2000, nhu cầu tiêu thụ vàng bắt đầu tăng mạnh và đạt mức
trung bình 270 tấn/năm do những cải cách kinh tế và bắt đầu quá trình tự do hóa. Tuy
nhiên, thị trường vàng vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước từ khâu sản xuất
cho đến khâu phân phối bán lẻ. Trong giai đoạn này, PBOC hoàn toàn độc quyền thị
trường vàng trong nước từ khâu khai thác, tinh chế, gia công lẫn hoạt động mua bán,
xuất nhập khẩu vàng. Cụ thể, các công ty khai thác vàng sau khi tinh chế thành vàng
miếng phải bán lại cho các chi nhánh của PBOC, sau đó PBOC sẽ bán lại cho các
công ty vàng bạc đá quý chuyên gia công vàng trang sức. Các công ty này sau đó
được phép bán vàng trang sức cho dân chúng. Các hãng kinh doanh vàng trang sức chỉ
được phép mua vàng nguyên liệu từ PBOC và bán nhưng không được phép mua lại
vàng trang sức từ dân chúng. Người dân muốn bán vàng trang sức để lấy tiền mặt sẽ
bán tại các chi nhánh của PBOC. Ngoài ra, giá cả mua bán vàng đều phải áp dụng giá
do PBOC quy định. PBOC quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng dưới dạng cấp
phép xuất nhập khẩu cho các công ty được phép với số lượng tuỳ vào từng thời điểm.
Nhờ đó mà NHTW kiểm soát được số lượng vàng trong nước. Tuy nhiên, do giá vàng
mua vào mà Nhà nước quy định thường thấp hơn nhiều so với vàng bán ra nên đã
hình thành thị trường mua bán vàng ngầm trong dân cư. Mặt khác, cơ chế độc quyền
trong phân phối và kiểm soát giá đã làm cho giao dịch trên thị trường bị méo mó, giá
52 Bài viết là một trong những kết quả nghiên cứu về đô la hóa, vàng hóa do Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam thực hiện. Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Dự án “Hỗ trợ nâng cao
năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mô” đã tài trợ, hỗ trợ kỹ thuật, và góp ý cho
Nghiên cứu này.
47
cả không tuân theo quy luật cung cầu trong khi nhu cầu vàng người dân lại ngày càng
cao. Tình trạng này làm tăng lượng vàng nhập lậu kém chất lượng từ các nước có
chung đường biên giới với Trung Quốc. Nhận thấy tình hình tiêu cực trên, NHTW
Trung Quốc đã đổi mới, từng bước xóa bỏ cơ chế độc quyền trong sản xuất, kinh
doanh và phân phối vàng.
- Giai đoạn từ 2001-2006: Năm 2001 là năm Trung Quốc trở thành thành viên
chính thức của WTO. Đồng thời, năm 2001 cũng là mốc quan trọng trong việc tự do
hoá thị trường vàng của Trung Quốc. Tháng 4/2001, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa
lần đầu tiên chính thức công bố kế hoạch xoá bỏ cơ chế quản lý độc quyền trong mua
và phân phối vàng, bãi bỏ việc kiểm soát và ấn định giá vàng cũng như giảm thuế
suất. Hiệp Hội Vàng Trung Quốc (CGA) và Sở/Sàn giao dịch vàng Thượng Hải
(Shanghai Gold Exchange - SGE) được thành lập. Đây được coi là bước đột phá trong
chính sách quản lý thị trường vàng của Trung Quốc sau hơn 50 năm thực hiện kiểm
soát chặt chẽ. Đặc biệt, vào tháng 11/2001 Trung Quốc đã xoá bỏ chế độ cấp phép đối
với hoạt động sản xuất, bán buôn và bán lẻ vàng trong nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài vẫn chưa được phép tham gia vào lĩnh vực này.
Hoạt động của Sở giao dịch vàng Thượng Hải (SGE)
Để quản lý thị trường vàng hiệu quả mà vẫn đảm bảo nhu cầu kinh doanh vàng
bạc của dân chúng, Trung Quốc đã thành lập Sở giao dịch vàng Quốc gia vào tháng
11/2001, hoạt động độc lập như một Sở giao dịch Chứng khoán. Sở giao dịch vàng
Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange – SGE) là pháp nhân độc lập do Nhà nước
đầu tư vốn 100% (vốn điều lệ đăng ký là 30.000.000 RMB, tương đương khoảng 4,2
triệu USD), thời gian hoạt động là 50 năm. Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa là cơ
quan quản lý, giám sát toàn bộ hoạt động của SGE. Hội đồng quản trị của Sàn do
NHTW tiến cử, hầu hết các vị trí quan trọng và chủ chốt trong Ban Quản trị của Sàn
đều do NHTW bổ nhiệm. SGE có chế độ báo cáo thường xuyên và đột xuất lên cho
NHTW nhờ đó mà NHTW Trung Quốc vẫn giữ được quyền chủ động trong mọi quyết
định của SGE. Trong trường hợp hết thời gian hoạt động đã được đăng ký (50 năm)
mà Hội đồng thành viên không quyết định tiếp tục hoạt động hoặc trong trường hợp
sáp nhập, chia tách Sở thì PBOC là cơ quan phê duyệt và chấp thuận phương án đóng
cửa SGE. Như vậy, PBOC đóng vai trò quản lý và chi phối mọi quyết định của SGE
thông qua việc quản lý việc tham gia của các thành viên và tham gia bộ máy nhân sự
chủ chốt điều hành Sở (cử người tham gia Hội đồng Quản trị, tiến cử Chủ tịch và các
Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị, bổ nhiệm Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám
đốc). Nhờ đó, mặc dù có sự tham gia của các thành viên nhưng PBOC vẫn giữ được
vai trò quản lý mọi quyết định của SGE nhằm bảo đảm SGE hoạt động minh bạch,
hiệu quả dưới sự kiểm soát của Ngân hàng Trung ương.
Vào tháng 10/2002, Sở giao dịch vàng Thượng Hải chính thức đi vào hoạt
động. Đây là sàn vàng vật chất giao ngay (spot gold). Sản phẩm được phép giao dịch
lúc đầu là vàng miếng đạt tiêu chuẩn quốc tế, sau đó mở rộng sang các kim loại quý
khác như bạch kim và bạc. Để thực hiện giao dịch vàng vật chất, SGE có hệ thống
thành viên là các công ty cung cấp dịch vụ lưu kho, bảo quản và giao nhận vàng. Ban
đầu, chỉ nhà đầu tư là tổ chức mới được phép tham gia giao dịch trên SGE, nhà đầu tư
cá nhân chưa được phép tham gia. SGE có hệ thống thành viên là các tổ chức kinh tế
trong nước, gồm: các công ty kinh doanh vàng (công ty khai thác, chế tác, xuất nhập
khẩu vàng); các định chế tài chính và các thành viên chủ chốt. Các thành viên này là
các nhà tạo lập thị trường, tham gia giao dịch, làm đại lý nhận lệnh, thực hiện chức
48
năng ngân hàng thanh toán hoặc cung cấp dịch vụ kho bãi, giao nhận. Tại thời điểm đi
vào hoạt động, SGE có 108 thành viên.
Theo số liệu thống kê trên website của Sở giao dịch vàng Thượng Hải, giá
vàng giao dịch trên SGE (đơn vị CNY/g) tương đối sát với giá thế giới (đơn vị
USD/ounce) nếu cộng cả thuế và các chi phí nhập khẩu. Trong khi hoạt động xuất
nhập khẩu vàng đang bị quản lý dưới dạng cấp phép, giá vàng trong nước có sự liên
thông với giá vàng thế giới chứng tỏ PBOC có cơ chế quản lý linh hoạt trong việc cho
phép các đơn vị xuất hoặc nhập khẩu vàng khi có chênh lệch giá. Ngoài ra, cũng có
khả năng PBOC trực tiếp mua bán can thiệp thị trường nhằm bình ổn giá, hạn chế tình
trạng buôn lậu vàng.
Với sự ra đời của SGE, giao dịch vàng miếng đã được thực hiện tập trung qua
Sàn bằng cơ chế khớp lệnh tập trung, giá cả do cung cầu thị trường quyết định, PBOC
không thực hiện quy định giá đối với giao dịch vàng miếng. Đây là sự kiện đánh dấu
sự chấm dứt cơ chế độc quyền đối với thị trường vàng của Trung Quốc.
Tháng 3/2003, Trung Quốc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được phép
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vàng tại thị trường trong nước. Năm 2003-
2004, cũng đánh dấu tiến trình mở cửa thị trường của Trung Quốc qua việc: (i) Bãi bỏ
việc cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu sử dụng vào mục đích sản xuất nữ
trang để tái xuất khẩu; (ii) Bãi bỏ quy định cấp giấy phép kinh doanh vàng để tự do
hóa thị trường vàng nữ trang; (iii) Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China) bắt đầu
cho phép cá nhân giao dịch vàng hai chiều với thanh toán bằng tiền mặt; (iv) Ủy ban
Pháp chế cho phép việc mua bán vàng vật chất tại các ngân hàng thương mại.
- Giai đoạn từ năm 2006 - nay:
Tháng 12/2006, Ngân hàng Nhân dân Trung hoa ( PBOC) cho phép nhà đầu tư
cá nhân được phép giao dịch vàng miếng trên SGE. Nhờ quy định này, vàng trở thành
kênh đầu tư tài chính hấp dẫn cho các nhà đầu tư cá nhân cùng với kênh đầu tư khác
như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản. Với sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân,
tính thanh khoản của vàng trên SGE cũng được nâng lên đáng kể. Đồng thời, PBOC
cũng chính thức cho phép các ngân hàng thương mại được phép cung cấp dịch vụ kinh
doanh vàng tài khoản cho khách hàng cá nhân. Kinh doanh vàng qua tài khoản là việc
nhà đầu tư có thể thực hiện giao dịch mua bán vàng trên tài khoản của mình nhưng
trên thực tế không diễn ra việc giao nhận vàng vật chất, cũng như không thể rút vàng
vật chất từ tài khoản của mình. Về bản chất, đây chỉ là một loại hình đầu tư tài chính,
tìm kiếm lợi nhuận nhờ chênh lệnh giá. Hiện nay, các nhà đầu tư cá nhân phải mở 2
tài khoản (1 tài khoản tiền thanh toán và 1 tài khoản vàng) để thực hiện giao dịch tại
các Ngân hàng là thành viên của SGE. Ngân hàng cung cấp dịch vụ thực hiện chức
năng trung gian, mở tài khoản cho nhà đầu tư, nhập lệnh, khớp lệnh và thu phí giao
dịch.
Theo quy định của PBOC, nhà đầu tư cá nhân chỉ được phép giao dịch trong
giới hạn số dư tài khoản tiền hoặc vàng của họ. Tức là ngân hàng không được phép
cho nhà đầu tư vay để đầu tư vượt quá số tiền hoặc vàng họ đang nắm giữ hay không
sử dụng đòn bẩy tài chính (tỷ lệ ký quỹ là 100%). Quy định này sẽ hạn chế quy mô
giao dịch vàng tài khoản nhưng sẽ giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư trong trường hợp
đầu tư thua lỗ.
49
Giữa năm 2007, PBOC chấp thuận cho một số ngân hàng nước ngoài gồm
HSBC, Standard Chartered, UBS AG và Bank of Nova Scotia (BNS) trở thành thành
viên của Sàn giao dịch vàng Thượng Hải. Năm 2010, lượng vàng giao dịch tại Sàn
Giao dịch Vàng Thượng Hải đạt 6.046 tấn trị giá 1,61 ngàn tỷ NDT, trong đó giao
dịch vật chất là 837 tấn. Cho đến nay Sở giao dịch vàng Trung Quốc hoạt động có
hiệu quả, đảm bảo tính công khai, minh bạch, chuyên nghiệp và là yếu tố quan trọng
giúp ổn định giá vàng nội địa.
Những hợp đồng tương lai đầu tiên được giao dịch tại Sở Giao dịch Hợp đồng
Tương lai Thượng Hải (Shanghai Futures Exchange) vào ngày 9 tháng 01 năm 2008
và đạt khoảng 6.79 triệu hợp đồng trị giá 1,82 ngàn tỷ Nhân dân tệ trong năm 2010.
Tháng 08/2010, Chính phủ Trung Quốc nới lỏng những quy định trong hoạt động
mua, bán và đầu tư vàng đối với các tổ chức tài chính và nhà đầu tư cá nhân. Nhiều ngân
hàng được phép nhập khẩu và xuất khẩu vàng, mở cửa thị trường vàng cho các tổ chức và
các cá nhân. Cũng trong năm 2010, Trung Quốc cho phép quỹ đầu tư vàng đầu tiên được
đầu tư ra các quỹ tín thác đầu tư vàng ở thị trường nước ngoài.
Hiện tại, Trung Quốc là nước khai thác vàng lớn nhất thế giới với sản lượng dự
kiến lên tới 440 tấn53
năm 2013, vượt Nam Phi – nhà khai thác vàng lớn nhất thế giới
năm 2007, với sản lượng đạt 403 tấn trong năm 2012. Đồng thời, Trung Quốc là nước
tiêu thụ vàng đứng thứ 2 thế giới (sau Ấn Độ, tuy nhiên sẽ sớm vượt Ấn Độ trong năm
2013 ) với mức tiêu thụ ngày càng tăng (năm 2010: 580 tấn; năm 2011: 778,6 tấn; 6
tháng đầu năm 2013: 706,36 tấn và có thể đạt 1.000 tấn cả năm 2013)54
.
Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc chiếm 30,2% tổng dự trữ ngoại hối của thế
giới vào cuối năm 2012. Tuy nhiên, tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối của Trung
Quốc khá khiêm tốn. Năm 2009, Trung Quốc là quốc gia có dự trữ vàng đứng thứ 6
thế giới (sau Mỹ, Đức, IMF, Ý và Pháp) với 1054 tấn (chỉ chiếm 1,9% tổng dự trữ của
Trung Quốc).
2.Kinh nghiệm quản lý thị trƣờng vàng và huy động vàng của Ấn Độ
2.1.Tổng quan thị trường vàng Ấn Độ
Vàng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, tôn giáo và văn hóa của
người Ấn Độ. Trong nhiều thập kỷ qua, các gia đình Ấn Độ đã mừng lễ cưới, sinh
nhật, lễ hội thông qua vàng. Truyền thống này đã được truyền từ đời này sang đời
khác. Ví dụ điển hình là một nửa (½) số vàng mà người Ấn Độ mua hàng năm chỉ để
phục vụ cưới xin. Với khoảng 10 triệu đám cưới mỗi năm, quốc gia này đã và sẽ còn
chứng kiến một lực mua vàng vô cùng lớn mạnh.
Ấn Độ bãi bỏ lệnh cấm giao dịch vàng đã tồn tại hơn 4 thập kỷ qua vào tháng
10/2003. Ấn Độ thành lập thị trường giao dịch vàng qua Sở Giao dịch hàng hóa Ấn
Độ (MCX) và Sở giao dịch này bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2003. Tính tới năm
2010, MCX đã chiếm hơn 80% thị phần hàng hóa tương lai của Ấn Độ với hơn 2.000
thành viên đăng ký hoạt động thông qua 100.000 trung tâm giao dịch. MCX là thị
trường giao dịch hàng hóa tương lai lớn thứ hai thế giới về vàng.
Hiện tại, Ấn Độ là nước tiêu thụ vàng cũng như nhập khẩu vàng lớn nhất trên
thế giới. Theo thống kê từ Mineweb.com, năm 2012 nước này nhập tới 1.080 tấn
53 Nguồn: China Mining Association
54 Nguồn: Hội đồng Vàng Thế giới - WGC
50
vàng55
, trong đó 56% là nhập qua các ngân hàng, lượng vàng trong dân chúng khoảng
20.000 tấn. Theo Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), nhu cầu vàng của Ấn Độ và Trung
Quốc dự kiến có thể chiếm tới 45-50% cầu vàng thế giới vào cuối năm nay (2013),
với mức nhập khẩu tương đương từ 900-1000 tấn/mỗi nước. Chỉ riêng trong quý
2/2013, nhu cầu vàng của Ấn Độ tăng 70% so với cùng kỳ năm 2012, mức tăng cao
nhất trong vòng 10 năm qua và đạt mức 310 tấn, trong khi đó Việt Nam đứng ở vị trí
thứ 8 trên thế giới về nhu cầu vàng (hình 1).
Trong mấy năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Ấn Độ biến động mạnh. Tỷ lệ tăng
trưởng GDP đã giảm mạnh từ mức 9,3% năm 2011 xuống còn 4,4% hiện nay. Thâm
hụt cán cân vãng lai của Ấn Độ đã lên mức kỷ lục 4,8% GDP hay 88,2 tỷ USD trong
năm tài chính 2012 – 2013 kết thúc vào tháng 3/2013 (so với mức thâm hụt 4,3%
GDP năm 2011 – 2012). Chính phủ Ấn Độ đặt mục tiêu giảm thâm hụt cán cân vãng
lai xuống còn 3,8% GDP hay 70 tỷ USD trong năm tài chính này. Vàng là nhân tố
đứng thứ hai (sau dầu) đóng góp vào thâm hụt cán cân vãng lai của Ấn Độ, do nhập
khẩu xăng dầu và vàng chiếm tới 45% tổng nhập khẩu hàng hóa năm tài chính 2012 –
2013. Thâm hụt cán cân vãng lai lớn đã tác động mạnh đến giá trị đồng Rupee. Đồng
Rupee đã mất giá trên 20%56
trong năm tài chính 2012-2013, đây là mức mất giá
mạnh thứ 2 sau đồng Yên Nhật trong rổ tiền tệ của 11 nước Châu Á,và đạt mức thấp
kỷ lục 60,765 Rupee/USD vào ngày 26/6/2013.
Hình 1. Nhu cầu vàng của các nƣớc trong Quý 2/2013
Đơn vị: tấn
Nguồn: Hội đồng vàng Thế giới
2.2.Chính sách quản lý thị trường vàng và “chống vàng hóa” của Ấn Độ
Từ tháng 3/2012 trở lại đây, Chính phủ và Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (The
Reserve Bank of India – RBI – Ngân hàng Trung ương của Ấn Độ) dồn dập đưa ra các
quy định mới để tăng cường quản lý thị trường vàng, thậm chí kêu gọi người dân bớt
55 Tổng số tiền mà Ấn Độ phải bỏ ra nhập vàng trong năm 2012-2013 là gần 54 tỷ USD. Số tiền nhập khẩu vàng
trong năm liền trước (2011-2012) là 57,5 tỷ USD. Các con số này cho thấy đồng rupee mất giá một phần do
nhu cầu USD tăng cao và trong bối cảnh USD cũng lên giá so với các ngoại tệ khác. Với vị trí là nước tiêu thụ
vàng lớn nhất thế giới (nhập khẩu chiếm khoảng 25% toàn cầu) và lượng vàng ước tính khoảng 20.000 tấn, có
thể thấy, đây là nguyên nhân chính dẫn đến tăng thâm hụt cán cân vãng lai, qua đó tác động lên dự trữ ngoại hối
nước này và kéo theo các hệ lụy khác là khó tránh khỏi. 56 Nguồn: Mineweb, 11/9/2013
51
“yêu” vàng, và không mua vàng, bên cạnh việc sử dụng tiết kiệm xăng dầu. Ngày
21/3/2012, RBI ra quy định các công ty tài chính phi ngân hàng không được cho vay
dựa trên tài sản đảm bảo bằng vàng miếng và tiền xu vàng. Trong báo cáo định kỳ ngày
30/10/2012, RBI quan ngại việc nhập khẩu vàng tăng mạnh trong những năm gần đây
do các ngân hàng cho vay mua vàng dưới mọi hình thức và điều này thúc đẩy nhu cầu
vàng nhằm mục đích đầu cơ. Đến tháng 11/2012, RBI chính thức có quy định cấm các
ngân hàng cho vay để mua vàng dưới mọi hình thức.
Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ cũng dừng kế hoạch cho phép tăng tỷ lệ danh mục cho
vay dựa trên thế chấp bằng vàng từ 11% lên 15% như dự kiến trước đó, đồng thời chỉ
đạo các công ty tài chính phi ngân hàng giới hạn giá trị khoản vay ở mức 60% giá trị tài
sản thế chấp bằng vàng so với tỷ lệ 90 – 100% như trước đây. Tháng 2/2013, RBI yêu
cầu các ngân hàng hợp tác xã chỉ được phép cho vay thế chấp bằng vàng và không được
phép cho vay mua vàng dưới mọi hình thức. Đầu tháng 5/2013, RBI quy định các ngân
hàng được phép cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là vàng trang sức và tiền xu vàng do
ngân hàng đúc, nhưng không được phép cho vay để mua vàng dưới bất kỳ hình thức
nào. Cho vay dựa trên đảm bảo bằng tiền xu vàng đối với mỗi khách hàng không được
quá trọng lượng 50 gram vàng. Cũng trong tháng 5/2013, RBI quy định hạn chế nhập
khẩu vàng trên cơ sở ủy thác của ngân hàng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của đơn vị xuất
khẩu vàng trang sức, rồi mở rộng sang các tổ chức khác được Chính phủ cho phép nhập
khẩu vàng. Tất cả thư tín dụng (L/C) để nhập khẩu vàng dưới mọi hình thức phải được
đảm bảo 100% bằng tiền mặt và việc nhập khẩu vàng sẽ phải được thực hiện theo
phương thức Hồ sơ – Thanh toán, không được áp dụng phương thức Hồ sơ – Chấp
thuận. Cuối tháng 6/2013, tiếp theo quy định trước đó, RBI yêu cầu việc nhập khẩu
vàng dựa trên tín dụng của bên mua/bên bán phải tuân thủ quy định về tỷ lệ đảm bảo
bằng tiền mặt và phương thức Hồ sơ – Thanh toán, các ngân hàng phải đảm bảo không
cho phép cấp tín dụng dưới bất kỳ hình thức nào để nhập khẩu vàng.
Hội đồng Vàng thế giới cho rằng nhu cầu vàng vật chất của Ấn Độ có thể tiến
tới con số 1000 tấn trong năm nay. Tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ lại muốn hạn chế
lượng vàng nhập khẩu không vượt quá 850 tấn và vì thế quốc gia này một lần nữa lại
áp dụng các chế tài khắt khe trong việc mua và nhập khẩu vàng.
Trong nỗ lực nhằm giảm thâm hụt cán cân vãng lai ở mức cao kỷ lục, ngày
5/6/2013, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ đã quyết định tăng thuế nhập khẩu vàng lần thứ 2
trong năm nay, từ 6% lên 8%, so với mức thuế 2% vào tháng 1/2012. Ngày 22/6/2013,
RBI yêu cầu các nhà nhập khẩu phải tái xuất ít nhất 20% lượng vàng nhập khẩu –
thường là đồ trang sức. Sau đó, ngày 30/8/2013, RBI lại tiếp tục tăng thuế nhập khẩu
vàng từ 8% lên 10%.
Có thể thấy rằng, có nhiều điểm tương đồng trong các chính sách tăng cường
quản lý thị trường vàng của Ấn Độ giống với Việt Nam, đó là cùng theo hướng siết
chặt, cắt bỏ dần hoạt động cho vay bằng vàng, cho vay thế chấp bằng vàng, cũng như
hạn chế việc nhập khẩu vàng. Chính phủ Ấn Độ gần đây tuyên bố có thể sẽ áp dụng
thêm các biện pháp hạn chế nhập khẩu vàng hơn nữa cho đến khi lượng vàng vật chất
nhập khẩu đạt ở con số mong muốn.
Tuy nhiên, tại Ấn Độ, sự say mê giao dịch vàng vẫn được duy trì bất chấp các
biện pháp tăng thuế nhập khẩu của chính phủ với mục tiêu cắt giảm thâm hụt cán cân
vãng lai. Theo Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), trên thực tế, nhu cầu vàng trang sức,
52
vàng thỏi và tiền xu vàng tại Ấn Độ trong quý 2/2013 vẫn tăng mạnh57
so với cùng kỳ
năm ngoái, ngay cả khi các biện pháp tăng thuế được áp dụng, cho dù nhập khẩu vàng
giảm mạnh trong quý 3/2013 theo số liệu nhập khẩu chính thức58
. Tuy nhiên, lực mua
vàng kỷ lục mà chúng ta nhìn thấy không xuất phát hoàn toàn từ “tình yêu” vàng.
Chắc chắn người dân quyết định mua vàng một phần là do lo ngại nghèo đói cũng như
sự bất ổn trong các chính sách của chính phủ. Một chính sách tốt có thể kích thích
kinh tế tăng trưởng và khiến thị trường phản ứng tốt. Một chính sách tồi lại đem đến
những hậu quả trái ngược. Khi người dân mua vàng cho người thân và bạn bè, cũng là
lúc họ mua vàng với mục đích bảo vệ. Hình 2 cho thấy, trong vòng 3 năm qua, từ
tháng 8/2010 đến tháng 8/2013, lợi nhuận từ vàng ở Ấn Độ tính theo đồng Rupee –
một đồng tiền yếu so với USD - là 49,5%, trong khi đó lợi nhuận của vàng tính theo
đồng USD ở Mỹ chỉ là 12,4%.
Hình 2. Lợi nhuận từ vàng ở Ấn Độ và Mỹ
Nguồn: Bloomberg
Điều này cho thấy, bất chấp việc tăng thuế nhập khẩu lên 10%, người dân Ấn
Độ sẽ còn tiếp tục yêu mến vàng, thậm chí cả khi họ phải mua trên thị trường chợ đen
đi chăng nữa!
Có thể nói, các biện pháp quản lý thị trường vàng của Chính phủ Ấn Độ chỉ
mang tính ngắn hạn, làm tổn hại đến một trong những ngành công nghiệp chính của
Ấn Độ - đó là kinh doanh đồ kim hoàn; luồng vốn nước ngoài tiếp tục chảy ra59
do
quan ngại các chính sách bất ổn của chính phủ, GDP và lòng tin suy giảm mạnh;
chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế tăng cao, mà phía sau đó là quan ngại về
tình trạng nhập lậu vàng gia tăng. Theo Thomson Reuters GFMS, tổng hợp số liệu của
Hội đồng vàng Thế giới, năm 2012 có 102 tấn vàng nhập lậu vào Ấn Độ. Năm 2013,
các nhà bán lẻ và các trung tâm bán vàng miếng dự đoán vàng nhập lậu vào Ấn Độ có
thể lên tới 140 tấn, tăng 40% so với năm ngoái.
57
Theo Mineweb, Ấn độ nhập khẩu 142,5 tấn vàng trong tháng 4/2013; nhập khẩu 162 tấn vàng trong tháng
5/2013; và nhập khẩu 31,5 tấn vàng trong tháng 6/2013. 58 Theo Mineweb, số liệu nhập khẩu vàng chính thức của Ấn Độ trong tháng 8/2013 chỉ là 2,5 tấn, giảm mạnh so
với 47,5 tấn vàng nhập khẩu trong tháng 7/2013. 59
Kể từ 1/6/2013, các quỹ nước ngoài đã rút chừng 11,58 tỷ USD các cổ phiếu và trái phiếu ra khỏi các thị
trường Ấn Độ do những quan ngại về sự suy giảm mạnh của nền kinh tế này.
53
2.3.Kinh nghiệm của Ấn Độ trong việc huy động vàng
Để thu hút một phần khối lượng vàng của quốc gia do tư nhân nắm giữ (hiện
tại khoảng 20.000 tấn vàng), qua đó giảm sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu vàng,
Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (NHTW) cho phép các ngân hàng có đủ điều kiện được huy
động và cho vay vàng, cụ thể như sau:
- Ngân hàng được huy động khi được NHTW Ấn Độ cho phép (hiện nay ngân
hàng huy động vàng lớn nhất của Ấn Độ là Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ). Các ngân
hàng phải có cơ chế quản trị rủi ro thích hợp để phòng chống rủi ro biến động giá
vàng và được phép tham gia vào các hợp đồng kỳ hạn ở Ấn Độ để bảo hiểm rủi ro.
Các ngân hàng được tham gia thị trường vàng quốc tế, Hiệp hội vàng London hoặc sử
dụng các hợp đồng OTC để phòng ngừa biến động giá vàng theo các quy định về
kiểm soát ngoại hối. Đồng thời, các ngân hàng phải thiết lập hệ thống kế toán phù
hợp, cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ và công bố thông tin bao quát các hoạt động
liên quan đến vàng bao gồm cả huy động vàng.
- Một số đặc điểm huy động vàng ở Ấn độ:
+ Hình thức: huy động tiết kiệm hoặc phát hành chứng chỉ huy động vàng cho
các hộ gia đình, các ngôi đền, chùa và các quỹ tôn giáo.
+ Kỳ hạn: thường từ 3-7 năm.
+ Lãi suất: Do ngân hàng huy động quy định.
+ Khi đến hạn sẽ được thanh toán bằng vàng hoặc tương ứng bằng đồng Rupee
theo yêu cầu của người gửi.
+ Chứng chỉ có thể chuyển nhượng và người sở hữu không phải chịu thuế.
+ Người gửi vàng có thể thanh toán trước hạn sau khi gửi tối thiểu 1 năm.
Ngân hàng có thể cho người giữ chứng chỉ vay đồng Rupee.
- Ngân hàng huy động vàng có thể: (i) cho vay vàng đối với lĩnh vực trang sức
trong nước, cho vay các nhà xuất khẩu vàng trang sức; (ii) bán vàng giao ngay tại thị
trường trong nước hoặc bán vàng cho các ngân hàng chỉ định khác.
- Ngân hàng huy động sẽ bán vàng huy động được trên thị trường trong nước để
giảm sự phụ thuộc vào vàng nhập khẩu. NHTW sẽ cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ
hạn cho ngân hàng huy động vàng với một chi phí nhất định. Chi phí này cùng với lãi
suất huy động trả cho người sở hữu chứng chỉ vàng sẽ tương đương với lãi suất đi vay
Rupee của ngân hàng huy động.
Tuy nhiên, việc huy động vàng ở Ấn Độ cũng có một số vấn đề đặt ra là:
(i) Nhu cầu mua vàng miếng sẽ tương ứng với số lượng vàng gửi vào ngân hàng
thương mại (NHTM) nên không làm giảm được sự phụ thuộc vào vàng miếng nhập
khấu.
(ii) Chính phủ sẽ mất tiền nếu đồng Rupee giảm giá trị mạnh so với Đô la Mỹ
hoặc giá vàng tăng mạnh trong suốt thời hạn gửi vàng.
(iii) Mất khoản thu thuế đối với lãi gửi vàng trong khi có thể đánh thuế đối với
lãi tiền gửi Rupee.
(iv) NHTW Ấn Độ có lượng vàng dự trữ khoảng 557,7 tấn vàng (năm 2009). Số
vàng này đang không mang lại lợi nhuận cho NHTW Ấn độ, tuy nhiên họ đã chọn
54
việc cho phép NHTM đi vay vàng từ người dân và trả lãi suất. Nếu số vàng huy động
tăng lên và NHTW cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ hạn cho ngân hàng huy động thì
có nghĩa là NHTW đã bán khoản dự trữ ngoại hối của mình và có thể phải giao vàng
trong tương lai.
Tóm lại, kinh nghiệm của Ấn Độ cho thấy, NHTW Ấn Độ đã cho phép một số
NHTM thực hiện huy động vàng để cho vay và bán vàng trên thị trường để giảm sự
phụ thuộc vào nhập khẩu vàng. Tuy nhiên, để đảm bảo khả năng chi trả vàng cho dân
chúng, NHTW sẽ cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ hạn cho NHTM, thay vì nhập khẩu
vàng, NHTW dùng chính vàng của NHTW để can thiệp và do vậy dự trữ ngoại hối
giảm bằng lượng vàng NHTW bán cho các NHTM. Làm được điều này là do NHTW
Ấn Độ có dự trữ bằng vàng lớn trong dự trữ ngoại hối Nhà nước (năm 2009: 557,7
tấn). Từ kinh nghiệm này cho thấy, việc huy động và bán vàng hoàn toàn do các ngân
hàng thương mại thực hiện, để đảm bảo khả năng chi trả vàng, trong trường hợp
NHTW không có đủ lượng vàng để bán cho các NHTM thì vẫn phải nhập khẩu vàng.
3.Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Thị trường vàng Việt Nam hiện nay có quy mô khoảng 40 tỷ USD, tuy nhiên,
xét trên bình diện thị trường vàng thế giới, thị trường vàng Việt Nam vẫn rất nhỏ bé.
Theo đánh giá của Hội đồng Vàng Thế giới, thị trường vàng Việt Nam là một thị trường
nhiều tiềm năng, tuy nhiên vẫn còn kém phát triển, mang nặng tính thủ công, chưa áp
dụng được các công nghệ sản xuất và nghiệp vụ kinh doanh hiện đại trên thị trường
quốc tế. Trong khi thị trường vàng thế giới đang phát triển nhanh chóng với các hình
thái đầu tư hiện đại, cho phép các nhà đầu tư tiếp cận dễ dàng, nhanh chóng, với chi phí
thấp hơn nhiều so với đầu tư vàng vật chất, thì thị trường vàng Việt Nam lại giới hạn ở
các giao dịch vàng vật chất. Những khác biệt này, ở các góc độ nhất định, đã có tác
động không nhỏ tới vấn đề quản lý tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô và huy động nội lực
phát triển kinh tế xã hội. Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn biến động khó lường, yêu
cầu cấp thiết hiện nay là phải đổi mới việc quản lý vàng và phát triển thị trường vàng
Việt Nam theo thông lệ quốc tế.
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và huy động vàng của quốc tế,
đặc biệt kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ, có thể rút ra các bài học sau.
(i) Thị trường vàng cần quản lý theo quy luật cung – cầu trên cơ sở liên thông,
gắn kết với thị trường vàng thế giới. Tuy nhiên, do vàng là tài sản quốc gia và là hàng
hóa mang tính tiền tệ đặc biệt nên Nhà nước có cơ chế quản lý sao cho huy động tối
đa nguồn lực này phục vụ mục tiêu phát triển và bình ổn kinh tế vĩ mô, có thể điều tiết
được thị trường khi cần.
(ii) Cùng với quá trình tự do hoá thị trường tài chính, thị trường vàng cũng cần
tự do từng bước nhằm phù hợp với trình độ phát triển chung của thị trường tài chính.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước trong đó có Trung Quốc, tiến trình tự do hoá thị
trường vàng nên bắt đầu từ tự do hoá thị trường vàng vật chất, sau đó đến kinh doanh
vàng tài khoản và cuối cùng là từng bước xoá bỏ kiểm soát đối với hoạt động xuất
nhập khẩu vàng.
(iii) Ngân hàng Trung ương (NHTW) là đầu mối quản lý thị trường vàng và
điều tiết thị trường này theo quy luật cung cầu thị trường. Quản lý của NHTW cần
phải hướng tới việc kiểm soát được việc kinh doanh, đầu tư vàng của đối tượng đầu
tư, tiêu dùng. Muốn vậy, NHTW cần xây dựng cơ sở pháp lý đảm bảo đối tượng đầu
55
tư, tiêu dùng chỉ có thể mua, bán vàng trên mạng lưới mà NHTW thiết lập (như các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư, sàn/sở giao dịch
vàng,…). Từ đó, Chính phủ không cần thiết phải cấm người dân mua, bán và tích trữ
vàng miếng mà vẫn quản lý được nguồn lực tài chính quốc gia, đủ năng lực và công
cụ để đưa ra các biện pháp cần thiết, kịp thời nhằm ổn định và điều tiết thị trường khi
cần.
(iv) Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Sở giao dịch hàng hoá trong
đó có giao dịch vàng (trên cơ sở vàng được coi như một loại hàng hóa đặc biệt) như
mô hình của Sở giao dịch vàng Thượng Hải để đưa thị trường vàng trong nước liên
thông với thị trường vàng quốc tế. Kinh nghiệm từ các quốc gia khác cho thấy, việc
đưa hoạt động kinh doanh vàng vào quản lý theo thị trường tập trung mang lại hiệu
quả cao về kinh tế, xã hội.
Tài liệu tham khảo
1. Kỷ yếu hội thảo khoa học của Ngân hàng Nhà nước :“Vai trò của vàng và
ngoại tệ trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam”, Hà Nội, 2006.
2. Kỷ yếu hội thảo khoa học của Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia:“Tác động
của thị trường vàng đến thị trường tài chính Việt Nam“, Hà Nội. 2011.
3. www.gold.org
4. www.kitco.com
5. www.wgc.com
6.www.mineweb.com
56
CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH THỊ TRƢỜNG VÀNG
NĂM 2013 VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ
PGS.TS. Ngô Trí Long
Khoảng 5 năm trở lại đây, khủng hoảng kinh tế thế giới khiến vàng trở thành
công cụ trú ẩn lý tưởng của cả thế giới. Tại Việt Nam, tỷ lệ lạm phát cao, kinh tế vĩ
mô chưa thật ổn định, đồng nội tệ liên tục mất giá, câu chuyện vàng hóa ở nước ta
thành một bài toán đau đầu của các nhà lập chính sách. Thời gian qua giá vàng trong
nước biến động với biên độ khá lớn và thât thương gây tâm ly bât ôn cho ngươi dân ,
ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế, nhiều người dân thiệt hại khi chạy theo giá
vàng. Ở nước ta, tâm lý đầu tư, tích trữ vàng đã trở thành tập quán của người dân. Quy
mô của thị trường vàng của nước ta rất lớn và việc tích trữ vàng miếng đứng vào top 4
quốc gia hàng đầu trên thế giới sau Ấn Độ, Trung Quốc, Dubai. Hiện đầu tư vàng đối
với người Việt nam vẫn là một nhu cầu rất lớn. Trong nền kinh tế thị trường, thị
trường vàng là một bộ phận hữu cơ của thị trường Tài chính –Tiền tệ của mỗi quốc
gia. Do vậy, việc tạo lập một thị trường vàng chính thức nhằm đảm bảo thị trường
vàng hoạt động có hiệu quả là một yêu cầu tất yếu khách quan và cấp bách
Từ năm 2006 trở lại đây, thị trường vàng Việt Nam diễn biến vô cùng phức
tạp. Ngoài những nguyên nhân thông thường tác động đến quan hệ cung cầu của thị
trường vàng: tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát, lãi suất VND, lãi suất USD,
chênh lệch lãi suất giữa VND so với lãi suất USD, biến động tỷ giá VND/USD, biến
động giá vàng thế giới, thị trường BĐS, thị trường chứng khoán,... Thị trường vàng
giai đoạn 2006-2012 còn chịu nhiều yếu tố khác như :
- Sự ra đời và nở rộ của sàn vàng (2007-2008), sau đó chấm dứt hoạt động của
sàn vàng 2010.
- Tạm ngưng nhập khẩu vàng (6-2008), sau đó cấp hạn ngạch nhập khẩu trở
lại ( 11/2009).
- Cho phép các NHTM được phép kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài
(1/2006) và sau đó chấm dứt (7/2012).
- NHTM được phép huy động vàng, cho vay bằng vàng theo quy định mới
(10/2010) và lại chấm dứt cho vay vàng (5/2011) chấm dứt huy động vàng (11/2012).
- NHNN tuyên bố độc quyền sản xuất kinh doanh vàng miếng, sử dụng
thương hiệu SJC làm thương hiệu vàng quốc gia (11/2011).
Ngày 3/4/2012 Chính phủ ban hành NĐ 24/CP về “Quản lý hoạt động kinh
doanh vàng” và có hiệu lực thi hành từ ngày 25/5/2012. Có thể nói NĐ 24/CP về
chính sách quản lý thị trường vàng đã có nhiều thay đổi so với giai đoạn 1999-
2011.Nghị định 24 ra đời nhằm chấn chỉnh lại thị trường vàng, với mục tiêu “chống
vàng hóa, giảm nhập lậu, đầu cơ vàng và ngoại tệ, chuyển vàng dự trữ trong dân
thành VNĐ, góp phần ổn định thị trường ngoại hối và tiền tệ”.
I- CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG VÀNG HIỆN NAY
Chính sách quản lý thị trường vàng ở nước ta từ sau tháng 5/2012 đã có sự thay
đổi lớn so với giai đoạn 2006-2011. Kể từ khi NĐ 24/CP có hiệu lực cho đến nay, thị
trường Vàng trong nước bước đầu đã có những kết quả nhất định, trong đó đáng chú ý
57
là hạn chế xu hướng đầu cơ vào lĩnh vực vàng miếng. Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
đã có những biện pháp mạnh tay nhằm hạn chế thị trường vàng miếng, hạn chế giao
dịch, thanh toán, ký gửi vàng tại các NHTM và thâu tóm quyền quản lý, kiểm soát thị
trường vàng về mình, như: Tuyên bố vàng SJC trở thành nhãn hiệu vàng miếng độc
quyền do NHNN kiểm soát, nên các loại vàng miếng khác sẽ hoán chuyển sang vàng
SJC, độc quyền nhập khẩu vàng, độc quyền cung ứng vàng ra thị trường. Khoảng
12.000 cửa hàng vàng hoạt động trong cả nước trước đây đã được đăng ký lại với điều
kiện ngặt nghèo hơn, việc kinh doanh vàng miếng bị thắt chặt hơn, thực tế hiện chỉ
còn khoảng 2.500 cửa hàng vàng kinh doanh vàng miếng. Một năm qua với việc ban
hành NĐ 24/CP cùng với những văn bản pháp quy do NHNN ban hành về quản lý
vàng, thị trường vàng luôn trở thành “điểm nóng”. Sau hơn 1 năm thực hiện, cơ chế
quản lý thị vàng đã cho thấy nhiều điểm bất ổn. Hoạt động của thị trường vàng trong
nước xem ra vẫn chưa đạt được như kỳ vọng mà các mục tiêu của NĐ 24/CP đề ra,
đúng như các đại biểu QH đã chất vấn Thống đốc tại các phiên họp Quốc hội. Việc
quản lý thị trường vàng đang là một thách thức cho cơ quan quản lý. Thị trường vàng
còn bất ổn, căn nguyên từ cơ chế chính sách. Chỉ trong thời gian ngắn nhiều quy định
quản lý thị trường vàng đã thay đổi liên tục, theo chiều hướng ngược nhau. Hầu hết
các quy định thay đổi chỉ nhằm giải quyết tình thế hơn là mang tính hệ thống, ổn định.
Căn cứ vào mục tiêu NĐ24/CP đưa ra, chính sách quản lý thị trường vàng hiện nay
còn tồn tại những bất cập :
1- Về mục tiêu chống vàng hóa và chuyển vàng dự trữ trong dân thành
VNĐ để phát triển kinh tế-xã hội.
Một trong những mục tiêu quan trọng của Nghị định 24 là “chống vàng
hóa”. Vàng hóa được hiểu một cách giản đơn là hiện tượng người dân chọn sử dụng
vàng làm phương tiện thanh toán, giao dịch và dự trữ thay vì sử dụng đồng nội tệ.
Trước đây, hiện tượng vàng được dùng làm phương tiện thanh toán trong các giao
dịch lớn như mua bán nhà đất tương đối phổ biến. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, đặc biệt là từ khi giá vàng trên thế giới biến động tăng cao liên tục và thất
thường, trên thực tế ở nước ta vàng đã hầu như không trở thành phương tiện thanh
toán. Người dân chỉ mua vàng để tích trữ, như công cụ tiết kiệm. Việc mua bán, tích
trữ vàng của người dân để phòng ngừa lạm phát. Hiện nay, hiện tượng vàng hóa chỉ
còn giới hạn trong vai trò là phương tiện dự trữ giá trị và phương tiện để đầu cơ. Đứng
về mặt điều hành của Nhà nước, vàng hóa ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách tài khóa
và tiền tệ của quốc gia.
Nền tảng cơ bản để chống vàng hóa là tăng cường sức mạnh của đồng nội tệ,
nó chỉ có thể thực hiện được khi có một nền kinh tế ổn định vững chắc, một cán cân
thương mại lành mạnh, và chính sách tiền tệ có hiệu quả.
Những năm qua tăng trưởng kinh tế nước ta đầu tư theo chiều rộng, chủ yếu là
dựa vào vốn, khai thác tài nguyên với chính sách tiền tệ nới lỏng, trong khi đó năng
suất, chất lượng và hiệu quả chưa cao. Do vậy đã dẫn tới thâm hụt ngân sách, thâm hụt
cán cân thương mại và lạm phát cao diễn ra thường xuyên, đồng nội tệ liên tục bị mất
giá, chưa ổn định, chưa có khả năng chuyển đổi, nên người dân vẫn còn lo ngại, thì
không thể cấm được họ mua vàng. Giữ vàng là truyền thống của dân Việt Nam, là quy
luật chung của cả thế giới chứ không chỉ riêng ở nước ta. Cộng thêm vào đó là việc điều
hành chính sách kinh tế giật cục, bất ngờ làm cho người dân không kịp ứng phó. Những
58
điều đó đã làm cho niềm tin vào đồng nội tệ bị xói mòn. Đây là cơ sở tất yếu dẫn tới
hiện tượng vàng hóa.
Để chống vàng hóa, NHNN cùng các cơ quan chức năng của Chính phủ cần
có những biện pháp tăng cường sức mạnh của đồng nội tệ thông qua việc điều hành
chính sách tiền tệ có hiệu quả, cán cân thương mại vững chắc, ổn định kinh tế vĩ
mô.Vấn đề này đã được tiến hành, song hiệu quả chưa thấy rõ. NHNN không nên lạm
dụng việc chống “vàng hoá” để bao biện cho việc sử dụng các biện pháp hành chính
trong quản lý bằng việc cấm. Phải coi vàng đúng theo chức năng của nó, là 1 loại tiền
tệ đặc biệt, để tránh tình trạng "vàng hóa" nền kinh tế thì không được xem vàng là
phương tiện thanh toán. Tuy nhiên, thị trường vàng phải được lưu thông một cách
bình thường, khi người dân có nhu cầu bán vàng để lấy tiền chi tiêu hoặc đầu tư, kinh
doanh họ phải thực hiện được một cách dễ dàng, có như vậy mới có thể huy động
được số vàng đang cất trữ trong dân để phục vụ cho nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Tại sao lại như vậy ? Điều này xuất phát từ thực tế là nếu Nhà nước ngăn
cấm việc trao đổi, mua bán vàng, việc ngăn cấm này chỉ thực hiện được bề nổi mà
thôi, với chức năng vốn có của vàng và với thể tích gọn nhẹ, nếu ngăn cấm việc
mua bán vàng trên thị trường, sẽ dẫn tới tình trạng đưa vàng ra nước ngoài để bán,
điều này có thể gây ra một hậu quả cực kỳ nghiêm trọng là tài sản của nhân dân
được tích trữ dưới dạng vàng theo tập quán truyền thống sẽ chảy ra nước ngoài.
Hơn nữa khi càng cấm đoán thì nguy cơ giao dịch ngầm, buôn bán vàng trái phép
sẽ diễn ra ngày càng phức tạp, tinh vi hơn. Nếu không cho phép vàng thực hiện
theo bản chất, chức năng vốn có của nó, sẽ càng làm cho quá trình kiểm soát của
Nhà nước đối với loại tiền tệ đặc biệt này trở nên phức tạp và sẽ không tận dụng
được những nguồn lực to lớn trong toàn xã hội, bởi vì nếu như người sở hữu vàng
chỉ được cất giữ ở trong nhà, vàng sẽ bị mất hết các chức năng vốn có của nó khi
đó việc cất giữ vàng chẳng khác nào cất giữ một tài sản vô giá trị. Cho tới nay việc
huy động nguồn lực vàng trong dân để đưa vào phát triển kinh tế-xã hội vẫn chưa
được NHNN triển khai thực hiện.
Việc NHNN độc quyền thị trường vàng miếng và tăng cường mua vàng của dân
và có phải là một phương sách hữu hiệu để chống vàng hóa? Hiểu một cách giản đơn
là như vậy, vì dân còn ít vàng hơn nên hiện tượng vàng hóa sẽ phải giảm. Theo
NHNN, 5 tháng sau khi thực hiện Nghị định 24/CP, các TCTD đã mua lại hơn 60 tấn
vàng, tính trung bình mỗi tháng mua hơn 10 tấn vàng. Tuy nhiên sẽ là sai lầm khi cho
rằng như vậy có nghĩa vàng đã biến thành tiền tương đương khoảng 3 tỷ USD và được
chuyển thành tiền để phục vụ nền kinh tế. Các TCTD mua vàng của dân để trả lại cho
dân khi hết kỳ huy động. Điều này đã thể hiện không hề có sự chuyển đổi tiền đưa vào
phát triển kinh tế. Thực tế, là các NHTM mua vàng từ dân xuất phát từ nhiều lý do,
trong đó có việc đóng tình trạng “thiếu hụt” trong tài khoản buôn bán vàng của các
ngân hàng này và để phục vụ việc người dân rút vàng đã gửi vào hệ thống ngân hàng
từ trước. Giả sử là NHNN chỉ đạo các NHTM hoặc NHNN trực tiếp mua vàng từ dân
để chống vàng hóa, thì điều này nó không giúp gì được cho mục tiêu chống vàng hóa
mà chỉ là việc bơm tiền vào nền kinh tế. Bởi vì, trong điều kiện không cho nhập khẩu
vàng, việc mua vàng từ dân, nó sẽ đẩy giá vàng trong nước lên cao hơn. Bởi khi cầu
tăng, mà cung không thay đổi thì gía tăng, tạo ra kỳ vọng về giá vàng tiếp tục tăng, vì
nguồn cung khan hiếm hơn sau khi mua mà không có bổ sung. Một hệ lụy khác có thể
NHNN đã phải tung tiền ra để hỗ trợ các NHTM mua vàng, chưa kể đến việc NHNN
từ đầu năm tới nay liên tục tiếp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Chống vàng
59
hóa bằng cách này tạo thêm rủi ro cho đồng VNĐ. Hiện tượng này không có lợi cho
việc chống vàng hóa.
Chủ trương của NHNN là chống “vàng hóa”, là tách vàng khỏi hệ thống tiền tệ thì
việc tổ chức 57 phiên đấu thầu vàng cho đến ngày 30/8/2013 đã bán 58,3 tấn vàng quy
chuẩn. Điều này cho thấy càng bán vàng miếng cho thị trường là càng tiếp tay cho “vàng
hóa”, là đưa một khối lượng lớn vàng vật chất vào nằm bất động trong khối tài sản của
người dân. Như vậy là đi ngược lại mục tiêu chống vàng hóa và chuyển vàng dự trữ trong
dân thành VNĐ để phát triển kinh tế không thực hiện được.
2-Hiệu quả của Nghị định 24 đối với việc ổn định tỷ giá ?
Thời gian qua do kiềm chế được lạm phát, lượng ngoại tệ mua vào dự trữ nhiều
hơn. Do sự khó khăn, đình trệ của nền kinh tế dẫn tới sản xuất bị đình đốn, nhu cầu nhập
khẩu nguyên vật liệu của các doanh nghiệp cũng như nhu cầu tiêu dùng. Điều này cho
thấy sự ổn định của tỷ giá không phải là hệ quả từ sau khi có Nghị định 24. Một điều nữa
cho thấy, trung bình lượng vàng nhập khẩu về VN trong giai đoạn 1990–2011 xấp xỉ 25
tấn/năm, tức chỉ tương đương 1,5– 2 tỷ USD/năm - chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng
nhập khẩu so với các mặt hàng khác (ô tô, xe máy, điện thoại di động, hàng tiêu dùng,
xăng dầu…) Trong khi đó, vàng là hàng hoá có thể tái tạo ngoại tệ, còn các hàng hoá
khác thì không. Do vậy, việc nhập khẩu vàng thời gian qua cũng không ảnh hưởng nhiều
tới việc ổn định tỷ giá.
3-Trước đây Nghị định số 64/2003/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định
174/1999/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, NHNN đã
cấp phép sản xuất vàng miếng cho 08 Ngân hàng và Công ty vàng. Mỗi đơn vị đã bỏ
ra hàng nhiều tỷ đồng đầu tư máy móc, trang thiết bị, nhưng nay chỉ sau khoảng 10
năm đã trở nên vô giá trị do NHNN ban hành quyết định độc quyền sản xuất vàng
miếng từ 25/5/2012. Chưa kể hàng nghìn lao động trở thành thất nghiệp do hoạt động
của các đơn vị nói trên bị đình chỉ. Như vậy, một biện pháp hành chính đã gây lãng
phí tài sản, nguồn lực của doanh nghiệp - cũng là tài sản của đất nước, nhân dân mà
không có ai đứng ra đỡ hậu quả.
Đặc thù của hoạt động kinh doanh vàng miếng là không có sự khác biệt giữa
doanh nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp nhỏ. Theo quy định Nghị định 24/CP dựa trên
vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên và có số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng
từ 500 triệu đồng/năm trở lên trong 2 năm liên tiếp mới đủ điều kiện cấp phép kinh
doanh vàng miếng. Điều này làm cho mạng lưới kinh doanh vàng miếng bị thu hẹp,
tạo nên những khó khăn, bất tiện trong việc giao dịch vàng miếng của đại đa số người
dân nắm giữ ít vàng; thị trường sẽ khó ổn định, những người dân ít tiền lại càng bị
thiệt. Vậy tại sao lại phân biệt các doanh nghiệp dựa trên quy mô vốn, căn cứ vốn ít,
vốn nhiều để cho phép hoặc không cho phép kinh doanh vàng miếng (theo các điều
kiện của Nghị định 24)? Điều này đã gây nên sự mất bình đẳng về quy mô.
Sự hình thành mạng lưới các doanh nghiệp, cửa hàng kinh doanh vàng nhỏ lẻ là
xuất phát từ nhu cầu tất yếu của thị trường, là hệ thống phân phối tự nhiên trên cơ sở
cung - cầu xã hội. Không ai bỏ vốn đầu tư kinh doanh khi thị trường không có nhu
cầu. Việc xóa bỏ các cửa hàng nhỏ trong kinh doanh vàng đồng nghĩa với việc tước
mất công ăn việc làm của hàng chục nghìn lao động, biến các doanh nghiệp này trở
thành kinh doanh bất hợp pháp, ngoài ý muốn vì họ vẫn phải tiếp tục tồn tại và nuôi
sống chính mình.
60
Trên thường trường, thực tế các doanh nghiệp nhỏ lẻ không đủ vốn để đầu cơ,
thâu tóm thị trường, mà chỉ có thể là những Ngân hàng, doanh nghiệp có nhiều vốn.
Do vậy, việc quy định chỉ cho phép các đơn vị có vốn lớn kinh doanh vàng chính là
tạo điều kiện, môi trường cho hoạt động đầu cơ, lũng đoạn phát sinh
4- Sự mâu thuẫn trong điều hành thị trường vàng với Nghị quyết Quốc hội về Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013
Nghị quyết của Quốc hội nêu rõ một trong những mục tiêu năm nay là “Khắc
phục bất cập trong quản lý, ổn định thị trường vàng, bảo đảm giá vàng trong nước
liên thông với giá vàng quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của
người dân.” Nhưng trong buổi trả lời chất vấn trước quốc hội ngày 13/11/2012
Thống đốc NHNN đã thể hiện quan điểm không nhất thiết phải bình ổn giá vàng, ông
Bình nói “Nếu thấy rằng chênh lệch giá như thế mà phải bình ổn thì rõ ràng không có
lý do để bình ổn, kể cả về mặt tác động đối với kinh tế vĩ mô cũng như bản chất của
vàng miếng” và “liên thông giá vàng là vấn đề chúng ta không đặt ra”, như vậy chấp
nhận giá vàng VN không liên thông với quốc tế. Đây là hệ quả buông xuôi của một
loạt chính sách dồn đọng thời gian qua và thể hiện sự bất lực của quản lý nhà nước
trước một thị trường rối ren và phức tạp.
Trong chương trình Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời ngày 5/5/2013, Thống đốc trả
lời “Qua các phiên đấu thầu vàng, giá từ 46-47 triệu /lượng nay xuống còn 41-42
triệu/lượng . Giá này liên tục ổn định trong thời gian gần đây. Sự chênh lệch giữa giá
trong nước - giá thế giới hôm qua là 2 triệu, hôm nay là 5-6 triệu là hai khái niệm
khác nhau. Mục tiêu trước mắt và trực tiếp là bình ổn thị trường vàng nói chung trong
đó có bình ổn giá trong nước để tránh việc đầu cơ trục lợi do giá lên xuống thất
thường.”
Như vậy, Thống đốc không thừa nhận sự liên thông giữa giá vàng trong nước
và giá vàng thế giới, mục tiêu bình ổn thị trường vàng không phải là thu hẹp khoảng
chênh lệch giá trong nước và thế giới một cách hợp lý. Theo Thống đốc giá vàng
trong nước luôn giữ ở mức 41- 42 triệu đồng/lượng trong một thời gian là dài là thị
trường ổn định? Thực tế, giá vàng trong nước xuống là do giá thế giới giảm từ
1.800USD/oune xuống còn khoảng 1.400USD/oune, chứ không phải do đấu thấu làm
cho giá vàng trong nước giảm xuống còn 41- 42 triệu đồng/lương. Trong thời điểm đó
chênh lệch giữa giá trong nước và giá thế giới vẫn ở mức cao khoảng 4- 5 triệu đồng
/lượng, có thời điểm gần 7 triệu đồng/lương. Còn giá trong nước trong những ngày
qua luôn ổn định ở mức 41- 42 triệu/lượng là do giá thế giới tương đối ổn định xoay
quanh 1.400USD/oune, chứ không phải do quản lý hoặc do đấu thầu. Với tư duy như
vậy là trái với Nghị quyết của Quốc hộị
5- Chính sách quản lý vàng hiện nay theo kiểu “một mình một chợ”, thiếu hội
nhập và liên thông với thế giới. Lấy độc quyền nhập khẩu, sản xuất vàng miếng làm
nhân tố trung tâm để chi phối các hoạt động khác có liên quan đến vàng, bỏ qua các
yếu tố cung cầu của thị trường dẫn đến bế tắc trong sản xuất và lưu thông. Tuy nhiên
cơ chế này không làm thay đổi nhu cầu nắm giữ vàng của dân chúng, vì nhu cầu này
chủ yếu phục vụ cho nhu cầu đầu tư, cất giữ do tập quán lâu đời và từ sự bất ổn của
kinh tế vĩ mô.
Việc kiểm soát chặt chẽ và độc quyền nhập khẩu sẽ làm hạn chế nguồn cung,
trong lúc cầu không hề suy giảm, sẽ xuất hiện tình trạng giá vàng trong nước cách xa
với giá vàng thế giới. Điều này sẽ là điều kiện cho việc nhập lậu vàng tiêu chuẩn quốc
61
tế để tiêu thụ tại Việt nam. Cùng với việc không liên thông đuợc với giá vàng thế giới
sẽ làm xuất hiện yếu tố tắc nghẽn trên thị trường vàng và do vậy, khối lượng vàng có
giá trị lớn trong nền kinh tế sẽ không đuợc sử dụng có hiệu quả, vì số vàng này chỉ
đơn thuần giữ vai trõ cất trữ trong bối cảnh nền kinh tế đang thiếu vốn, tích lũy chưa
cao
Điều tiết thị trường vàng bằng biện pháp hành chính, mệnh lệnh (cấp giấy phép
chuyển đổi, quản lý máy móc sản xuất của doanh nghiệp…). Không tạo điều kiện tốt
để hình thành thị trường giao dịch vàng vật chất theo 2 kênh giao dịch OTC và giao
dịch qua sàn giao dịch vàng vật chất.
Sản xuất vàng miếng theo tiêu chuẩn riêng của VN, sẽ làm cho thị trường vàng
trong nước khác biệt với thị trường vàng thế giới khi hàng hóa giao dịch trên thị trường
thế giới. Vàng miếng là vàng đuợc dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lương,
chất lượng và ký mã hiệu của DN và tổ chức tín dụng đuợc NHNN Việt nam cho phép
sản xuất vàng miếng do NHNN tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ, thường bao gồm
các loại sau: 1 kg, 10 lượng, 1 lượng, 5 chỉ, 2 chỉ, 1 chỉ, 5 phân và thường là loại 24
kara ( 99,99); còn trên thế giới lấy đơn vị 0unce ( tương đương 31,10gram - 01 lượng
vàng tương đương với 1,2056ounce vàng về khối lượng)
6- Việc Nhà nước sử dụng DN (G5+1- bao gồm 5 NHTM lớn mạnh về nghiệp vụ
kinh doanh vàng ACB, Đông Á, Eximbank, Tecombank, Sacombank và SJC) để can
thiệp thị trường, thông qua việc cho phép họ bán vàng huy động của dân mà không
được nhập khẩu để trả lại lượng vàng vật chất đã bán, dẫn đến tình trạng khi đóng trạng
thái giải quyết thanh khoản đẩy giá vàng trong nước liên tục lên cao và chênh lệch quá
lớn so với giá thế giới. Việc không cho phép nhập khẩu sẽ làm hạn chế nguồn cung
trong lúc cầu không hề suy giảm, do vậy sẽ làm cho giá vàng trong nước bỏ xa giá vàng
thế giới và sẽ làm cho nạn nhập lậu vàng gia tăng.
7- Quản lý vàng miếng hiện nay đang “đi lùi” một bước so với các nước. Cả
trong quá khứ và hiện tại, trên thế giới chưa một NHTW nào có chính sách chỉ duy trì
một thương hiệu vàng và độc quyền sản xuất vàng miếng. Tại nhiều nước khác, mỗi
NH Trung ương có tối thiểu 3-4 thương hiệu vàng, mỗi NHTM, DN lại có thương
hiệu vàng của riêng mình chứ không có kiểu NHNN độc quyền sản xuất, kinh doanh
và quản lý kiểu “vừa đá bóng vừa thổi còi” như Việt Nam. Việc NHNN chỉ chọn độc
quyền SJC là thương hiệu vàng quốc gia, nên trên thực tế đã xuất hiện vàng SJC giả,
vàng nhái kém chất lượng. Nếu trên thị trường có nhiều thương hiệu thì tình trạng này
đã không xảy ra. Việc quy định chuyển đổi vàng phi SJC sang SJC gây nên tình trạng
là sản xuất, gia công không đảm bảo cả thời gian và số lượng, khiến thị trường vàng
trở lại chế độ cấp quota để được gia công vàng miếng và cơ chế “xin- cho” giấy phép
đi ngược lại cải cách hành chính và chủ trương xoá bỏ giấy phép con. Những điều trên
đã gây thiệt hại cho cả người dân, tổ chức tín dụng và Nhà nước. Việc chỉ công nhận
một thương hiệu độc quyền vàng miếng đã gây ra tình trạng cùng chất lượng 99.99%
như nhau nhưng các thương hiệu khác có thời điểm lại rẻ hơn SJC trên 3 triệu
đồng/lượng, và SJC cũng đắt hơn giá thế giới có thời điểm lên gần 7 triệu đồng
/lượng là vô lý. Việc quy định SJC là thương hiệu vàng quốc gia đã làm phương hại
đến lợi ích của các thương hiệu vàng miếng khác. Đồng thời tốn một khoản chi phí để
chuyển đổi vàng thương hiệu khác thành vàng SJC.
8- Những biện pháp hành chính NHNN đưa ra đều chỉ có tính tình thế, đối phó
cục bộ mà không có một phương tiện về mặt nghiệp vụ để giải quyết những vấn đề bất
62
cập của thị trường, làm thui chột những công cụ tài chính đang được sử dụng rộng rãi
trên toàn cầu.
9- Thế giới đang chuyển hướng từ thị trường vật chất (thị trường hàng hoá) sang
thị trường tài chính với các sản phẩm đầu tư tiện ích hơn (sản phẩm phái sinh, chứng
chỉ quỹ…). Trong khi đó, Việt Nam vẫn chăm chăm quản lý sản xuất và kinh doanh
vàng miếng. Việc quản lý như vậy đã làm cho danh mục sản phẩm tài chính bị hạn
chế.
10- Về đấu thầu vàng.
Một năm qua đầy xáo trộn trên thị trường vàng vì những chính sách mới khiến
vàng luôn trở thành “điểm nóng”, nhất là nhiều tháng qua thị trường vàng luôn bất ổn,
giá vàng trong nước chênh lệch với giá thế giới khá cao. Nhằm bình ổn thị trường vàng,
NHNN đã tiến hành tổ chức đấu thầu vàng. Như vậy, tính từ ngày 28/3/2013 đến
30/8/2013, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức 57 phiên đấu thầu bán vàng miếng với tổng
khối lượng trúng thầu là 1.517.200 lượng (tương đương hơn 58,3 tấn vàng quy chuẩn)
trên tổng số 1.622.000 lượng chào thầu. Ai đã mua 58,3 tấn vàng đấu thầu? Việc làm
này của NHNN đã thực hiện đúng chức năng của một cơ quan quản lý Nhà nước chưa?
Việc cung ứng một lượng lớn vàng miếng (vàng vật chất) vào nền kinh tế đã phù hợp
với xu thế chung của thị trường vàng hiện đại và có phù hợp với việc chống vàng hoá
hay không? Nguồn vàng này đã đi về đâu? Người dân được hưởng lợi gì từ các phiên
đấu thầu vàng này? Đấu thầu vàng - sân chơi đã bình đẳng chưa? Đây là những câu hỏi
cần phải có lời giải đáp thỏa đáng.
NHNN tổ chức đấu thầu vàng miếng, thực chất là đi kinh doanh vàng, điều
này có phù hợp với chức năng của một NHTW không ?
Trên thế giới chưa có NHTW nào độc quyền nhập khẩu nguyên liệu, sản xuất,
sau đó đấu giá để cung cấp nguồn cung vàng cho thị trường. Hay nói một cách khác là
chưa có NHTW lại đi kinh doanh vàng. Trong khi tại VN, NHNN lại kiêm tất cả vai
trò này, NHNN trở thành đơn vị kinh doanh vàng. Ở đây Ngân hàng Nhà nước đã
quên vai trò điều hành, quản lý để đi kinh doanh. Mà kinh doanh thì không thể đứng
ra bình ổn thị trường được, vì có sự mâu thuẫn trong lợi ích. Trên thực tế không có
một đơn vị kinh doanh nào chịu lỗ khi tham gia thị trường. Trong cuộc đấu thầu này,
người được lợi lớn nhất là các ngân hàng, không phải là người dân. Do vậy, mục tiêu
bình ổn giá là không thực hiện được. Nguyên tắc cao nhất của Ngân hàng Nhà nước
khi tham gia thị trường vàng là phải bảo đảm dự trữ ngoại hối quốc gia, không được
lỗ. Từ sự ôm đồm đó khiến dư luận đặt dấu hỏi về việc kinh doanh của Ngân hàng
Nhà nước có phù hợp với chức năng vốn có của một cơ quan quản lý Nhà nước về
chính sách tiền tệ, nhất là sau phiên đấu giá thất bại sáng 28/3. Với vai trò độc quyền,
giá của Ngân hàng Nhà nước đưa ra coi như được các chủ thể trên thị trường thừa
nhận đó là giá thị trường. Giá này luôn rất cao so với giá thế giới..
Trước khi đấu thầu, cuối tháng 3-2013, theo một lãnh đạo của NHNN, NHNN
dự kiến “bơm” ra khoảng 20 tấn là đủ cho các ngân hàng đóng trạng thái vàng, cũng
như đáp ứng nhu cầu thị trường. Nhưng trên thực tế số vàng “bơm” ra cho đến nay đã
gấp ba lần dự kiến, có lẽ không phải vì NHNN không nắm được số dư cho vay vàng
cộng với số vàng các ngân hàng cần mua để tất toán trạng thái. Phải chăng NHNN
không dự đoán được sức đầu cơ trong nước cũng như nhu cầu của người dân về vàng
và sự giảm giá mạnh của vàng thế giới?
63
Mơ hồ về bình ổn thị trường vàng
Bình ổn thị trường về bản chất là bình ổn giá. Bởi trên thị trường, giá cả là tín
hiệu, là hàn thử biểu phản ảnh thực trạng của thị trường. Nước ta không sản xuất vàng
nguyên liệu, phải nhập khẩu vàng để đảm bảo cân đối cung cầu. Đồng thời trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, giá vàng trong nước phải liên thông với giá vàng thế
giới. Bình ổn thị trường vàng đồng nghĩa giá vàng trong nước phải theo sát và liên
thông với giá vàng thế giới. Như Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) từng
tuyên bố chênh lệch giữa giá vàng trong nước - thế giới chỉ cần 400.000 đồng/lượng là
hợp lý. Tuy nhiên, không nên hiểu một mức chênh lệch “cố định” này để làm căn cứ
can thiệp thị trường. Phải tùy theo tín hiệu thị trường, tùy thuộc sức mua của VNĐ, tỷ
giá, các khoản chi phí nhập khẩu, gia công thành vàng miếng SJC... không phải lúc
nào cũng phải cố để giữ chênh lệch giá vàng ở một mức cứng như vậy.
Trả lời trên Website của NHNN, Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối cho rằng mục
tiêu NHNN đấu thầu bán vàng miếng là tăng cung vàng miếng trên thị trường để can
thiệp bình ổn thị trường vàng, không nhằm mục tiêu bình ổn giá vàng và đặc biệt không
bù lỗ cho bất cứ đối tượng nào trên thị trường. Cũng như vậy, sau phiên đấu thầu vàng
đại diên NHNN trả lời trước phóng viên báo chí: “ Mục tiêu của chúng tôi là bình ổn thị
trường chứ không chạy theo bình ổn giá, không dùng cách thức bù giá để ép giá xuống.
Giá vàng là do thị trường tự điều chỉnh”. Như vậy, theo quan điểm của NHNN “Đấu thầu
vàng nhằm bình ổn thị trường, không bình ổn giá” là chưa chuẩn, còn mơ hồ. Như vậy,
một khi đã không nhất thiết phải bình ổn mà vẫn bình ổn theo những quan điểm mơ hồ
nào đó ắt sẽ dẫn đến những kết quả mơ hồ.
Như vậy, với quan điểm mơ hồ không phản ảnh đúng bản chất của mục tiêu bình
ổn thị trường vàng chắc chắn sẽ gây ra những hệ lụy mà hậu quả nhãn tiền là vàng SJC
luôn đứng cao hơn giá vàng thế giới, tiềm ẩn rủi ro cực lớn cho thị trường.
Ổn định thị trường vàng trong nước có nghĩa là giá vàng trong nước phải luôn
bám sát với giá vàng thế giới (Sát giá vàng thế giới không có nghĩa là bằng với giá
vàng thế giới- Đây là điều hết sức cơ bản, cần phải hiểu ). Điều này đã được Nghị
quyết của Quốc hội năm 2013 nêu ra. Vậy khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng
trong nước và giá vàng thế giới là bao nhiêu thì hợp lý. Về vấn đề này hiện nay có
nhiều ý kiến khác nhau. Ý kiến của ông Đỗ Minh Phú, Tổng Giám đốc Tập đoàn
Vàng bạc đá quý DOJI cho rằng chênh lệch khoảng 100USD/1 lượng - khoảng 2triệu
đồng/1 lượng; Phó Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư và kinh doanh vàng Việt Nam
Nguyễn Nhật Quang cho rằng khoảng 1triệu-1,5 triệu đồng/1 lượng; Ông Nguyên
Thành Long - Chủ tịch Hiệp hội vàng Việt Nam cho rằng khoảng 500.000 -
700.000đồng/1 lượng là hợp lý
Theo tính toán của chúng tôi, chênh lệch giá vàng trong nước và gía vàng thế
giới bao gồm: Chi phí nhập khẩu gồm: Bảo hiểm; Chi phí vận chuyển; Chi phí gia
công; Chi phí kinh doanh; Rủi ro; Thuế,... Cụ thể Chi phí vận chuyển + chi phí bản
hiểm cao nhất là từ 10 đến 15 $/Oz, tức là từ 200.000 đồng - 300.000 đồng/Oz. Chi
phí gia công 50.000 đồng/lượng; Các chi phí còn lại khoảng 300.000 đồng/lượng. Như
vậy, giá vàng trong nước và giá vàng thế giới chênh lệch từ 500.000-600.000
đồng/lượng là hợp lý. Để đảm bảo an toàn cho NHNN và có lãi khi định giá đấu thầu,
thì mức chênh lệch nên là 1.000.000 đồng/1 lượng (50 $/lượng) so với giá thế giới.
64
Mức lãi này cao hơn mức lãi của các nước nhập khẩu vàng từ 4 đến 5 lần tùy theo nhu
cầu vàng của từng nước.
Đấu thầu vàng – sân chơi chưa bình đẳng
Tham gia đấu thầu vàng có các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được NHNN
cấp phép kinh doanh vàng miếng. Hiện tại có 22 tổ chức tín dụng (NHTM- Ngân hàng
Thương mại) và 17 doanh nghiệp đã được NHNN cấp phép kinh doanh vàng miếng;
39đơn vị này có tổng số gần 2.500 điểm kinh doanh tại 63 tỉnh thành trên cả nước.
Quan sát qua 57 cuộc đấu thầu cho thấy tổng số thành viên tham gia mỗi phiên giao
động từ 16 - 22 thành viên. Trong đó mỗi phiên đấu thầu, số doanh nghiệp tham gia
dao động từ 3 đến 6, chiếm từ 10-15% tổng số thành viên tham gia, đó là: SJC, DOJ,
Phú Quý, ViettinGold, VietnamGold, Kim Ngọc Phú. Còn lại là các tổ chức tín dụng,
ước lượng gần 90% số vàng đấu thầu của NHNN do các NHTM mua được. Tại sao
số lượng các doanh nghiệp tham gia đấu thẩu vàng lại thấp? Bởi, điều kiện mà NHNN
đưa ra mức đặt thầu tối thiểu những phiên đầu là 500 lượng, còn những phiên sau là
1.000 lượng, thì những doanh nghiệp nhỏ không thể nào có đủ tiềm lực tài chính để
tham gia. Với tỷ lệ đặt thầu tối thiếu là 1.000 lượng/phiên, giá mỗi lượng khoảng 41-
42 triệu đống, cộng với 10% trị giá tiền đặt cọc nữa, tổng cộng sẽ mất tối thiểu khoảng
45-46 tỷ đồng/phiên, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có số vốn lưu động lớn để thanh
toán cho NHNN trong thời gian rất ngắn sau khi trúng thầu. Do vậy, sân chơi đấu thầu
vàng này gần như chỉ dành cho các NHTM và vài công ty vàng lớn như SJC, DOJI.
Trong khi những doanh nghiệp có vốn 100 tỷ đồng theo tiêu chuẩn cấp phép, thì họ
không thể sử dụng toàn bộ số vốn này để tham gia đấu thầu. Vì họ phải đầu tư cho cơ
sở vật chất (cửa hàng, máy móc kiểm định, hàng hóa,...). Trong khi đó NHNN lại cấm
các NHTM cho các công ty kinh doanh vàng vay tiền để tham gia đấu thầu vàng. Vì
vậy, việc các công ty kinh doanh vàng này phải huy động một lúc 45-46 tỷ đồng từ
nguồn lực tài chính của chính mình là chuyện bất khả thi. Cùng với nó là mỗi bước
khối lượng đặt thầu là 100 lượng cũng là quá lớn. Với điều kiện đưa ra mức đặt thầu
tối thiểu là 1.000 lượng/phiên và mỗi bước đặt thầu là 100 lượng, đã vô hình dung loại
các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra cuộc chơi đấu thầu. Những quy định trên đã tạo ra sự
cạnh tranh không bình đẳng, loại bỏ nhiều doanh nghiệp kinh doanh vàng, đặc biệt là
các doanh nghiệp có quy mô vừa ra khỏi cuộc đấu thầu, đi ngược lại chủ trương của
Chính phủ về việc hỗ trợ cho DN vừa và nhỏ. Như vậy sân chơi này chỉ dành cho
NHTM và một vài “ ông” lớn – DN kinh doanh vàng . Phần lớn số vàng đấu thầu của
NHNN do NHTM mua để bù đắp lại số vàng huy động trong dân cư trước đây và đã
bán ra để lấy VNĐ. Số ít còn lại là các công ty kinh doanh vàng mua, nhưng trong số
này nhiều công ty là sân sau của NHTM. Thực chất số vàng đấu thầu được không đưa
ra thị trường, mà chẩy vào túi các NHTM. Đối với một số NHTM hoàn tất việc đóng
trạng thái cũng vẫn phải mua vào để hỗ trợ khách hàng vay vàng chuẩn bị đáo hạn.
Thực tế nhiều NHTM đăng ký rất nhiều điểm giao dich mua bán vàng miếng, nhưng
không triển khai được do không đủ kinh nghiệm và khả năng chuyên môn trong việc
mua bán trong hoạt động kinh doanh vàng. Trong khi đó, các doanh nghiệp được phép
kinh doanh vàng có bề dầy kinh nghiệm, có chuyên môn sâu, có mạng lưới rộng mua
bán vàng, nhưng không có đủ nguồn hàng để kinh doanh để đáp ứng được nhu cầu
mua bán vàng của người dân.
Từ thực trạng trên cho thấy, đấu thầu vàng miếng không những không bình ổn
được thị trường, mà còn không phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, đó là: “Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của các loại hình DN; đảm bảo sự
65
bình đẳng trước pháp luật của các DN không phân biệt hình thức sở hữu, không có sự
khác biệt giữa các DN lớn hoặc DN nhỏ; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt
động kinh doanh.” Qua đây, dư luận có quyền đặt câu hỏi: “Liệu có lợi ích nhóm
trong phương thức đấu thầu vàng hiện nay hay không?”.
Hành động của NHNN đã và đang cho thấy cơ quan này không ngại nhập vàng
và dự trữ ngoại hối hiện đủ mạnh để cho phép nhập khẩu vàng đến mức cần thiết để
đấu thầu vàng miếng. Qua nhiều phiên đấu thầu liên tiếp với khối lượng lớn đang
chứng minh điều đó. Sẵn sàng cung ứng vàng, nhưng không bán giá thấp, NHNN
đang giữ thế độc quyền, bán với giá cao hơn giá quốc tế hiện tại là một rủi ro vô cùng
lớn cho người nắm giữ vàng. Sức chịu đựng rủi ro này có thể kéo dài bao lâu nữa đối
với nhà đầu từ vàng?
Dư nợ vàng rồi sẽ tiến tới bằng không. Trạng thái vàng của ngân hàng theo quy
định cộng trừ tối đa 2% vốn tự có. Không gian cho đầu cơ vàng có thể sẽ không còn
nhiều. Và nếu may mắn, giá vàng quốc tế cứ dích dắc đi xuống, tỷ giá không biến động
quá mức dự liệu, đến một thời điểm nào đó, thay vì mua vàng người ta sẽ bán vàng.
Nhiều người nói họ mua vàng cho mục đích tích lũy lâu dài và không bán. Nhưng cũng
có một quy luật bất thành văn khác là người ta có xu hướng rời bỏ những thứ tài sản mà
càng giữ càng mất giá trị. Cơ may mua lại được vàng trong tương lai để xuất khẩu, gia
tăng dự trữ ngoại hối của NHNN, do đó, không phải là không có nhưng cho đến giờ là
khá mong manh.
II- KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG VÀNG
1-Thị trƣờng vàng thế giới đƣợc tổ chức theo 2 hình thức: Thị trƣờng phi
tập trung (OTC) và thị trƣờng tập trung (Sở giao dịch ).
Thị trường OTC như London, New York, HongKong, Zurich, Dubai, các chủ
thể trực tiếp giao dịch với nhau và thực hiện thanh toán thông qua hệ thống thanh toán
bù trừ của thị trường. Đặc điểm giao dịch không được tiêu chuẩn hóa và được thỏa
thuận giữa các bên. Thị trường OTC được vận hành chủ yếu bởi các NHTM, nhà khai
thác, tinh chế và bán lẻ vàng,..,với các giao dịch đa số trên cơ sở bán buôn, phần lớn
nhằm mục đích mua bán vàng vật chất hoặc giao dịch vàng tài khoản để bảo hiểm rủi
ro cho hoạt động vàng vật chất.
Thị trường tập trung các giao dịch được thực hiện trên cơ sở khớp lệnh liên tục.
Người mua và người bán không trực tiếp giao dịch với nhau. Sở giao dịch đóng vai trò
trung gian trong tất cả các giao dịch. Đặc điểm giao dịch được tiêu chuẩn hóa, cố định
và không thương lượng được. Các nhà đầu tư cá nhân và DN có thể thực hiện tại các
sở giao dịch thông qua các nhà môi giới. Lợi thế của hình thức này là hệ thống thanh
toán, lưu trữ và vận chuyển vàng được chuẩn hóa, đồng bộ hóa bởi sở giao dịch, nhờ
đó rủi ro gần như được lại bỏ và hoạt động của thị trường được vận hành một cách
thông suốt.
Trên cả hai loại thị trường này, hoạt động vàng vật chất và vàng tài khoản vận
hành xen kẽ, hỗ trợ lẫn nhau.
2- Kinh nghiệm tổ chức, quản lý thị trƣờng vàng của các nƣớc
Hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Úc, Canada, Nhât,... đều đã tự do hóa thị
trường vàng từ rất lâu. Thị trường vàng ở các nước này hoạt động theo những chuẩn
mực rõ ràng, chủ yếu giao dịch các chứng chỉ vàng thông qua sàn giao dịch tập trung.
Việc giao dịch không qua sàn (OTC) vẫn còn diễn ra sôi động giữa các nhà bán buôn,
được tổ chức rất bài bản, minh bạch và chủ yếu liên quan đến vàng lưu kho tại Luân
Đôn thông qua thay đổi sở hữu vàng của các bên liên quan tại kho này. Một số các
66
nước có truyền thống dân chúng giữ vàng như Châu Á, Trung Đông đã tổ chức rất
thành công giao dịch vàng qua sàn giao dịch tập trung gồm cả vàng vật chất và vàng
tài khoản như Thổ Nhĩ Kỳ; Ấn Độ, Trung Quốc, Ả rập, Hồng Kong,...
Chúng ta sẽ nghiên cứu kinh nghiệm của 2 nước về quản lý thị trường vàng và
tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế giới, có những giai đoạn quản lý tương tự như nước
ta hiện nay, đó là Ấn độ và Trung Quốc. Hai nước này là 2 thị trường tiêu thụ vàng
chiếm hơn 42% nhu cầu vàng thế giới, đồng thời là 2 quốc gia đã từng trải qua thời
gian dài kiểm soát thị trường vàng rất chặt chẽ trong quá khứ, nhưng sau đó phải tiến
hành cải cách thị trường vàng theo hướng tự do hóa, đã đạt được các thành công đáng
ghi nhận.
Ấn Độ phải nhập khẩu đến 90% lượng vàng tiêu thụ, đây là một thách thức
không nhỏ trong việc kiểm soát vàng nhập khẩu để giảm cán cân thâm hụt ngân sách.
Trong những năm Ấn Độ đã kiểm soát rất chặt thị trường vàng, cấm nhập khẩu vàng.
Với cơ chế đó, việc nhập khẩu vàng phi chính thức diễn ra trầm trọng, nhưng giá vàng
trong nước vẫn luôn cao hơn giá vàng thế giới từ 20%-50%. Giữa năm 1990, Ấn Độ
thừa nhận sự thất bại trong chính sách quản lý thị trường vàng chặt chẽ theo Luật quản
lý vàng 1963 . Những hạn chế sở hữu tư nhân về vàng đã giảm đi, các thương nhân kinh
doanh vàng không còn phải xin giấy phép nhập khẩu vàng nhằm gia tăng tỷ trọng nhập
khẩu vàng chính thức , điều đó đã giảm nhập khẩu lậu vàng, tăng thu ngân sách thông
qua việc thu thuế nhập khẩu vàng, kích thích nữ trang xuất khẩu, phát triển ngành sản
xuất vàng và chế tác trang sức. Khuyến khích tái chế vàng trang sức trong nước. Chính
phủ đã đưa ra các tiêu chí rất cụ thể để xác định các ngân hàng có đủ điều kiện được cấp
phép nhập khẩu vàng. Các tổ chức này được phép mua bán vàng trong nước và quốc tế
không giới hạn. Ngoài ra , còn được phép cung cấp các sản phẩm tiết kiệm và cho vay
liên quan đến vàng. Tiếp theo sự cải cách đó, Ngân hàng dự trữ cho phép các Ngân
hàng TM trả lãi tiền gửi vàng vật chất, phát hành chứng chỉ vàng và các chứng chỉ này
chỉ được phép chuyển nhượng, giao dịch trên thị trường thứ cấp với mục tiêu phát triển
thị trường chỉ chứng vàng. Tuy nhiên, việc triển khai này đã không thành công khi sau
12 tháng triển khai. Điều này cho thấy dân chúng vẫn thích nắm giữ vàng vật chất hơn
chứng chỉ vàng. Từ đầu năm 2012 các hạn chế về xuất khẩu vàng, đặc biệt là xuất khẩu
vàng trang sức, các quy định kiểm soát giao dịch vàng bao gồm cả vàng thỏi và vàng
trang sức cũng đã được bãi bỏ.
Thị trường OTC bán lẻ vàng thỏi diễn ra phổ biến rộng rãi giữa nhà đầu tư với
các tổ chức kinh doanh vàng, không bắt buộc giao dịch vàng thỏi phải diễn ra tại các
sàn giao dịch, mà có thể thực hiện ở thị trường bán lẻ phân tán khắp cả nước với hàng
triệu cửa hàng bán lẻ và hàng trăm ngàn thợ kim hoàn.
Trung Quốc, chiếm khoảng 18% tổng cầu vàng trên thế giới, nhưng đồng thời
cung cấp 13% tổng cung vàng trên thế giới - là nước sản xuất vàng lớn nhất thế giới.
Trước năm 2002, thị trường vàng TQ được kiểm soát rất chặt chẽ từ khâu sản xuất,
đến phân phối bán lẻ. Giá vàng và hạn ngạch được quyết định bởi NH Nhân dân TQ
(NHNDTQ) phối hợp với các cơ quan khác ở TƯ. Từ năm 1996 TQ đã đẩy nhanh quá
trình cải cách , dần dần tự do hóa sau đó đã bãi bỏ việc Nhà nước độc quyền vàng, bãi
bỏ hệ thóng cấp phép bán lẻ, bán buôn, sản xuất và không còn kiểm soát giá vàng.
Tháng 10/2002, sàn giao dịch vàng Thượng Hải được thành lập để tổ chức giao vàng
thay thế cho NHNDTQ trước đây.
Kể từ khi mở cửa thị trường vàng và sau khi Sàn giao dịch vàng đi vào hoạt động,
giá vàng tại TQ đã cho phép các NHTM giao dịch các sản phẩm đầu tư vàng với nhà đầu
tư cá nhân. Cũng trong năm này, hệ thống giao dịch vàng thỏi 2 giá cũng đã được triển
67
khai và đến năm 2007, các NHTM được phép giao dịch vàng thỏi vật chất, được tham gia
giao dịch vàng thỏi vật chất, được tham gia dịch tại sàn giao dịch.
Về thị trường bán lẻ, chỉ được phép bán vàng trang sức qua các cửa hàng bán lẻ
trang sức vốn chịu sự quản lý của chi nhánh NHNDTQ địa phương. Tất cả các giao
dịch vàng đều phải thông qua sàn giao dịch.
Từ những điểm cơ bản nêu trên cho thấy, cả Trung quốc và Ấn độ đều đã từng
trải qua giai đoạn kiểm soát rất chặt chẽ nhập khẩu vàng, độc quyền sản xuất, phân
phân phối và kinh doanh vàng. Nhưng cơ chế này đã không thành công như mong đợi,
đã gây nên những hệ lụy cho nền kinh tế. Từ thực tiễn đó, buộc nhà nước phải tiến
hành cải cách. Sau cải cách, cơ quan nhà nước vẫn quản lý sản xuất, kinh doanh vàng
( bán buôn, bán lẻ), nhưng đều thực hiện cơ chế minh bạch và hoàn toàn không có độc
quyền Nhà nước hay độc quyền tư nhân. Việc quản lý nhập khẩu vàng được thực hiện
một cách linh hoạt trên cơ sở xử lý hài hòa giữa trạng thái cán cân thanh toán và tình
trạng nhập lậu. NHTW hoàn toàn không tham gia trực tiếp vào sản xuất và hoạt động
xuất nhập khẩu vàng. Chính sách quản lý vàng được thực hiện theo nguyên tắc thị
trường, thông thoáng, nhằm tạo đươc sự liên thông giữa thị trường trong nước và thế
giới. Các nước này đã quản lý chặt chẽ chất lượng vàng thỏi theo tiêu chuẩn quốc tế.
Các nước này cũng đã tổ chức nhiều sàn giao dịch vàng với cơ chế tổ chức theo thông
lệ quốc tế, có điều chỉnh để tương thích với đặc trưng của thị trường trong nước.
Từ kinh nghiệm thành công về quản lý thị trường vàng của các nước, cho thấy
chúng ta cần sửa đổi Nghị định 24/CP, để loại bỏ những bất cập hiện nay. Việc sửa
đổi này phải đề cập toàn diện hơn các sản phẩm và dịch vụ tài chính liên quan tới
vàng chứ không đơn thuần chỉ quản lý vàng miếng và vàng trang sức. III- NHỮNG KHUYẾN NGHỊ
1-Các nguyên tắc quản lý thị trƣờng vàng cần đƣợc quán triệt
- NHNN chỉ thực hiện chức năng quản lý và hoạch định chính sách: Chỉ điều tiết dự
trữ ngoại hối bằng vàng theo Pháp lệnh Ngoại hối, Luật NHNN, Luật các tổ chức tín dụng
mà không tham gia sản xuất kinh doanh hoặc điều tiết thị trường bằng các biện pháp hành
chính, không trực tiếp can dự việc kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện sản xuất – kinh doanh thì phải để họ tự
hoạt động theo cơ chế thị trường (Trách nhiệm của doanh nghiệp là hoạt động đúng
luật, tuân thủ nghĩa vụ đóng thuế). Nhà nước chỉ quản lý chất lượng (tuổi vàng), trọng
lượng, nhãn hiệu như các doanh nghiệp đã đăng ký, cho phép nhiều thương hiệu cùng
tồn tại thay vì độc quyền. Khi đã quy định điều kiện kinh doanh thì không được đẻ ra
các thủ tục xin - cho, cấp giấy phép con.
- Thị trường Việt Nam phải liên thông với thị trường thế giới, phải loại bỏ yếu tố
giá cách biệt như hiện nay bằng các giải pháp thị trường. Cung phải gắn với cầu, tiến
tới tự do hoá xuất nhập khẩu, Nhà nước chỉ điều tiết bằng chính sách thuế như các
nước khác trên thế giới.
- Phải dần chuyển đổi từ thị trường vàng vật chất sang thị trường vàng có nhiều
sản phẩm phái sinh, tạo cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư có thêm nhiều công cụ
bảo hiểm rủi ro và hội nhập, tiếp cận được những sản phẩm tài chính thông dụng trên
thị trường quốc tế.
- Đảm bảo quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức và cá nhân như quyền nắm
giữ, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố… theo quy định của Pháp luật đồng thời phải
hạn chế việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán.
68
- Quản lý thị trường vàng phải có những giải pháp thích hợp để huy động được nguồn
vàng rất lớn trong dân cư (từ 400-500 tấn) phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
2- Những khuyến nghị
2.1- Hãy trả lại việc kinh doanh vàng miếng cho doanh nghiệp. Hoạt động sản
xuất vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được cấp phép. Điều
kiện kinh doanh vàng cho các doanh nghiệp chỉ cần quy định vốn điều lệ 20 tỷ VND
thay vì 100 tỷ VND; Giấy phép kinh doanh do Sở Kế hoạch –Đầu tư cấp; Có cửa
hàng, mặt bằng và trang thiết bị đo lường, kiểm định vàng. Thực hiện đăng ký kinh
doanh theo luật doanh nghiệp, không cần phải có giấy phép con của NHNN. Với điều
kiện như vậy sẽ cho phép các DN trước đây đã được phép kinh doanh vàng miếng sẽ
trở lại. Có như vậy, mới tạo lập một hệ thống phân phối trên thị trường rộng khắp cho
phép người dân ở mọi vùng miền đều được hưởng lợi, có điều kiện giao dịch thuận
lợi. Sự quản lý nhà nước theo hướng chỉ tập trung quản lý nghiệp vụ kinh doanh vàng
miếng như quản lý chất lượng (tuổi vàng), trọng lượng, nhãn hiệu của các doanh
nghiệp đã được cấp giấy phép, xoá bỏ cơ chế giấy phép con (cấp phép các địa điểm
kinh doanh vàng miếng), phù hợp với tiến trình cải cách thủ tục hành chính và tạo sự
chủ động cho doanh nghiệp. Chống hiện tượng cửa quyền, xin - cho trong việc cấp
phép cho chi nhánh hoạt động. Cho phép nhiều thương hiệu cùng tồn tại thay vì độc
quyền.
Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vàng. Theo chúng
tôi các doanh nghiệp được tiếp tục huy động và cho vay vàng, vì đây là nhu cầu tất
yếu của doanh nghiệp vì “các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vàng trong nước
không phải là định chế tài chính nên không có vốn tiền và vàng đủ lớn để thao túng thị
trường như các tổ chức tín dụng”. Hiện NHNN chỉ mới ban hành quy định ngăn cấm
tổ chức tín dụng huy động và cho vay kinh doanh vàng chứ chưa đề cập tới đối tượng
doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp vẫn hoạt động dưới sự điều chỉnh của các luật
hiện hành khác như Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại - theo đó
hoạt động vay và cho vay vàng với các đối tượng không phải tổ chức tín dụng hoàn
toàn được thừa nhận.
Cần khuyến khích các đơn vị kinh doanh sản xuất thêm vàng miếng với kích
thước trọng lượng theo thông lệ quốc tế (vàng khối/thanh với trọng lượng ounce và
kilôgam) và khuyến khích giao dịch loại vàng này để giảm dần việc sử dụng các sản
phẩm vàng theo đơn vị truyền thống (chỉ, lượng).
2.2- Những việc cần làm để đấu thầu vàng là sân chơi bình đẳng và giảm bớt sự
chênh lệch giữa giá trong nước và thế giới
Các doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh vàng miếng đều đã đáp ứng đầy đủ
điều kiện theo quy định và đã thiết lập quan hệ mua bán vàng miếng với NHNN. Do
nhu cầu lưu chuyển vốn đa dạng của các doanh nghiệp nên việc vay vốn của các
TCTD để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp kinh doanh vàng nói riêng là hoàn toàn bình thường và
phù hợp với quy định của pháp luật. Để hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh vàng có
điều kiện tham gia tích cực hơn nữa vào việc thực hiện mục tiêu bình ổn thị trường
vàng của NHNN, có thể tham gia trong sân chơi đấu thầu vàng. Vì vậy, việc cho phép
các TCTD cho các doanh nghiệp vay vốn mua vàng qua đấu thầu và mua vàng nguyên
liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ nếu đáp ứng đầy đủ điều kiện tín dụng là cần
thiết
69
Tỷ lệ đặt thầu mức tối thiểu nên quy định là 300 lượng/phiên và mỗi bước khối
lượng đặt thầu là 30 lượng. Với mức đặt thầu tối thiểu và mỗi bước đặt thầu như vậy,
thì mới tạo điều kiện cho các DN vừa và nhỏ kinh doanh vàng có điều kiện về vốn để
tham gia đấu thầu vàng miếng. Tuy có một thay đổi đáng kể trong quy chế đấu thầu
của phiên ngày 30/8 là khối lượng đặt thầu tối đa rút xuống còn 2.000 lượng từ mức
3.000 lượng trước đó. Đây là cách để phân bố nguồn cung vàng đều hơn, tránh để
vàng tập trung vào các “tay to”.
Mục tiêu của NHNN đấu thầu bán vàng là tăng cung vàng miếng trên thị trường
để can thiệp bình ổn thị trường vàng. Bản chất của bình ổn thị trường vàng là bình ổn
giá. Bởi vì, giá là tín hiệu, là hàn thử biểu phản ảnh thực trạng của thị trường. Thông
qua sự biểu hiện của giá vàng (tăng, giảm hoặc ổn định) trên thị trường, có thể biết thực
trạng của thị trường vàng. Như Thống đốc NHNN đã từng tuyên bố chênh lệch giữa giá
vàng trong nước và giá vàng thế giới 400.000 đồng là hợp lý (khoảng 20USD/lượng).
Theo Luật định, Nhà nước độc quyền và kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, sản xuất vàng
miếng nên giá vàng trên thị trường do chủ thể độc quyền quyết định. Việc NHNN đưa
ra mức giá sàn trong các phiên đấu thầu chính là NHNN đã thừa nhận (công nhận) đó là
giá thị trường.
Vậy thông qua các phiên đấu thầu vàng, NHNN có thể làm thu hẹp khoảng
chênh lệch giữa giá trong nước và giá thế giới được không? NHNN có thể làm được.
Bởi vì, với vai trò độc quyền xuất nhập khẩu vàng, NHNN có tài khoản vàng nước
ngoài, nên tại thời điểm đưa ra khối lượng vàng đấu thầu, có thể mua ngay lượng vàng
đưa ra gọi thầu với giá vàng thế giới tại thời điểm đó. Tại thời điểm này, NHNN cũng
biết được giá vàng trong nước. Từ đó, NHNN có thể đưa ra giá sàn đấu thầu là bao
nhiêu tùy thuộc vào ý đồ của mình, có thể sát hoặc không sát với giá thế giới với
khoảng chênh lệnh là tùy ý, mà không sợ lỗ. Việc làm đó là trong khả năng và quyền
hạn của NHNN. Còn với cách đặt giá sàn trong đấu thầu như hiện nay cao hơn nhiều
so với giá thế giới và sát với giá trong nước, thì khó có thể có thể đạt được mục tiêu
bình ổn thị trường vàng, như Nghị quyết Quốc hội đã nêu rõ một trong những mục
tiêu của năm 2013.
2.3- Để thị trường vàng Việt Nam liên thông với thị trường thế giới, phải có
biện pháp loại bỏ yếu tố giá cách biệt như hiện nay bằng các giải pháp thị trường.
Cung phải gắn với cầu, tiến tới tự do hoá xuất nhập khẩu, Nhà nước chỉ điều tiết bằng
chính sách thuế như các nước khác trên thế giới. Nhà nước quản lý đầu vào là vàng
nhập khẩu, vàng nguyên liệu thu mua trôi nổi trên thị trường bằng số lượng vàng
miếng sản xuất ra – Theo báo cáo định kỳ của doanh nghiệp cho NHNN và báo cáo
thuế theo quy định. Việc xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu cần được giao dịch trở lại
cho các công ty có chức năng và hội tụ đủ điều kiện. Không nhất thiết phải giới hạn về
mặt số lượng các công ty tham gia xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu, nhưng cần đặt ra
các tiêu chuẩn cao để chỉ những công ty thật sự vững mạnh về tài chính lẫn kinh
nghiệm mới có đủ những điều kiện sản xuất vàng miếng mới được phép xuất, nhập
khẩu vàng nguyên liệu, các công ty này sẽ đóng vai trò đầu mói trong việc sản xuất,
gia công vàng miếng.
2.4- Phải dần chuyển đổi từ thị trường vàng vật chất sang thị trường vàng có
nhiều sản phẩm phái sinh, tạo cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư có thêm nhiều công
cụ bảo hiểm rủi ro và hội nhập, tiếp cận được những sản phẩm tài chính thông dụng
trên thị trường quốc tế. NHTM không nên đóng vai trò đầu mối kinh doanh vàng
miếng mà chỉ nên triển khai các sản phẩm phái sinh (với điều kiện đủ kinh nghiệm,
trình độ chuyên môn), còn nếu muốn kinh doanh vàng miếng nên thành lập Công ty
70
vàng độc lập, vì: Chức năng cơ bản của NHTM là cung cấp các dịch vụ tài chính và
hoạt động tín dụng, nếu để các NHTM trực tiếp kinh doanh vàng sẽ dễ dẫn tới các hệ
luỵ: Dễ đầu cơ, làm giá do có lượng vốn lớn; đặc biệt nếu được phép huy động vàng
và có các nghiệp vụ cho vay, cầm cố bằng vàng, có thể xảy ra nguy cơ mất thanh
khoản vàng - tiền khi không được kiểm soát chặt chẽ (như các trường hợp có sự cố
vừa qua).
2.5- Chống vàng hoá không thể bằng giải pháp hành chính mà là phải chuyển
hướng từ giao dịch vàng miếng sang giao dịch các sản phẩm khác của vàng (chứng
chỉ vàng, vàng tài khoản…) trên một trung tâm giao dịch tập trung. Thành lập sở giao
dịch vàng quốc gia, chuyển hướng từ giao dịch vàng miếng sang giao dịch các sản
phẩm khác của vàng (chứng chỉ vàng, vàng tài khoản...) trên một trung tâm giao dịch
tập trung. Sở giao dịch vàng quốc gia sẽ vận hành trong mối quan hệ tổng hợp với với
các chủ thể : Cơ quan quản lý, Ngân hàng, DN, nhà đầu tư cá nhân, do đó sẽ gắn kết
chặt chẽ hơn thị trường vàng với hệ thống tài chính quốc gia. Trong khi đưa vào hoạt
động Sở giao dịch vàng, sẽ cho phép các NHTM và các công ty được phép nhập khẩu,
sản xuất vàng miếng là thành viên của Sở giao dịch vàng được phép mở tài khoản
vàng ở nước ngoài và kinh doanh vàng trên tài khoản này. Tuy nhiên, việc tổ chức
quản lý giám sát rủi ro, nhất là kiểm soát mức độ tuân thủ trạng thái vàng của các tổ
chức này, cần được thực hiện chặt chẽ, nghiêm ngặt để tránh rủi ro nằm trong mức
chấp nhận, để tránh đổ vỡ.
2.6- Cho phép thành lập các quỹ tín thác bằng vàng (ETF- Exchange Traded
Fund) như một công cụ tài chính quốc tế. Chứng chỉ quỹ cũng có thể được mua bán
trên Sở giao dịch sẽ khuyến khích người dân gửi vàng, bỏ vốn vào sản xuất kinh
doanh, đầu tư thay vì nắm giữ vàng miếng.
ETF nếu được tham gia mua bán các sản phẩm forward, futures, options trên sàn
thế giới, được xuất nhập khẩu vàng thì dự trữ vàng của ETF sẽ có vai trò như một quỹ
bình ổn, giảm bớt áp lực cho NHNN khi xảy ra sốt giá sẽ giúp tạo lập môi trường kinh
tế vĩ mô ổn định.
2.7-Về giải pháp huy động vàng trong dân:
Việt Nam là một trong 4 quốc gia hàng đầu thế giới về việc người dân có thói
quen giữ vàng miếng và lượng vàng được lưu giữ trong dân có tới vài trăm tấn. Trong
bối cảnh nền kinh tế nước ta đang đòi hỏi một lượng ngoại tệ rất lớn cho đầu tư phát
triển. Vậy làm thế nào để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính to lớn
bằng vàng trong dân. Vấn đề này đã trở thành chủ đề không những thu hút sự quan tâm
của các chuyên gia kinh tế, mà quan trọng hơn là của các cơ quan quản lý và hoạch định
chính sách để xây dựng cơ chế chính sách nhất quán nhằm huy động nguồn lực này
một cách có hiệu quả cả về ngắn, trung và dài hạn.
Tháng 5/2012 NHNN có đề án về phát hành chứng chỉ vàng nhằm huy động
nguồn lực trong dân, nhưng cho đến nay đề án vẫn chưa thực thi, do vẫn còn một số
do dự về tính khả thi của nó
Ước lượng nguồn vàng trong dân:
Theo số liệu thống kê từ các ngân hàng Thụy Sĩ, nguồn cung ứng vàng chủ yếu
cho thị trường Việt nam và trong giai đoạn 1990-2011 trung bình đã nhập xấp xỉ 500
tấn vàng, trong đó năm thấp nhất là 5 tấn, năm cao nhất là 80 tấn. Thông tin từ Hội
đồng Vàng thế giới cho thấy lượng vàng nhập về Việt Nam trong những năm qua rất
lớn, năm 2011 là 87,8 tấn; năm 2012 là 75,2 tấn và năm 2013 được dự báo sẽ nhập 73
71
tấn. Ngoài ra, nguồn vàng nhập khẩu từ một số nước khác như Úc, Hồng Kong và từ
các con đường tiểu ngạch hoặc không chính thống. Số vàng nhập trung bình giai đoạn
này đã nhập 25 tấn /năm. Số vàng nhập dùng để gia công chế tác trang sức rất ít, mà
chủ yếu được gia công thành vàng SJC và một số thương hiệu khác. Đồng thời cũng
trong thời gian đó, lượng vàng miếng xuất tối đa cũng chỉ đạt 20 tấn trong các năm
2007-2009. Còn lượng vàng gửi tiết kiệm theo số liệu chính thức được công bố từ các
NHTM Việt Nam huy động khoảng 100 tấn. Như vậy, theo ước tính tại Việt nam, số
lượng vàng vật chất nằm trong dân khoảng 400-500 tấn. Nếu theo giá vàng tại thời
điểm này trên thị trường, thị lượng vàng nằm trong dân có giá trị giao động từ 16-18
tỷ USD tương đương 16% GDP, xấp xỉ lượng dự trữ ngoại tệ thời kỳ trung bình trước
đây. Tỷ lệ này quá lớn nếu so với các nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới cũng chưa
tới 3%. Rõ ràng đây là một nguồn lực tài chính khổng lồ hiện đang nằm trong dân,
chưa được huy động để sử dụng có hiệu quả góp phần thức đẩy sự phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước. Nếu chỉ huy động được một nửa số vàng trong dân, thì ít nhất
cũng có gần 10 tỷ USD đưa vào nền kinh tế, nguồn ngoại tệ này sẽ làm giảm áp lực
vay nợ từ các tổ chức tài chính quốc tế hoặc tăng tỷ trọng vàng trong tổng dự trữ
ngoại hối, sẽ giúp NHNN có nguồn lực để chủ động và sẵn sàng điều tiết thị trường
khi xẩy ra những cơn sốt giá như thời gian vừa qua.
Lương vàng dự trữ nằm trong dân do nhiều nguyên nhân: Giá vàng thế giới tăng
giảm liên tục, nên là kênh đầu tư thu hút sự quan tâm của giới đầu tư trong và ngoài
nước. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay Thị trường chứng khoán èo uột, sản xuất kinh
doanh gặp nhiều khó khăn, thị trường bất động sản đóng băng,..; Vàng có tính thanh
khoản cao, dễ cất giữ và vận chuyển; Kinh tế vĩ mô chưa ổn định, lạm phát vẫn còn cao
và luôn thường trực trong nền kinh tế nước ta; Tỷ giá VNĐ thiếu ổn định; Do yếu tố
tâm ký, thói quen và truyền thống tích trữ vàng của người dân, với quan niệm vàng đem
lại sự may mắn và an tâm lâu dài cho cuộc sống.
Giải pháp huy động vàng trong dân:
Thừa nhận nguồn lực vàng trong dân là rất lớn, từ kinh nghiệm của các nước
việc huy động vàng trong dân là không dễ, cần hết sức thận trọng và phải đặt vấn đề
an toàn tài sản cho người dân, an toàn hệ thống tài chính và sử dụng nguồn lực huy
động này lên hàng đầu. Những biện pháp chủ quan, duy ý chí, nóng vội có thể có tác
dụng nhất thời, nhưng về lâu dài hoàn toàn không thể đạt mục tiêu mong muốn, mà
ngược lại sẽ nẩy sinh một thị trường ngầm, không dễ kiểm soát, mà còn phát sinh
nhiều hệ lụy
Muốn huy động được vàng trong dân, trước hết cần phải đảm bảo được các yếu tố
ổn định về chính sách vĩ mô lẫn điều kiện thực thi nhất quán, trên cơ sở đảm bảo hài hòa
lợi ích của Nhà nước, của cả tổ chức đầu tư, kinh doanh vàng cũng như của người gửi
vàng.
Các yếu tố kinh tế vĩ mô phải ổn định, trong đó thước đo quan trọng nhất là lạm
phát phải được kiểm soát. Duy trì chính sách tiền tệ linh hoạt, ổn định theo tín của thị
trường để tránh tác động tới giá vàng. Chính sách quản lý thị trường vàng phải tuân thủ
theo quy luật của thị trường và thông lệ quốc tế. Khung pháp lý phải rõ ràng, nhất quán,
không có rào cản cho việc chuyển đổi chứng chỉ vàng lấy vàng miếng và ngược lại. Mọi
thông tin cần được minh bạch, giúp cho người gửi vàng yên tâm, cảm thấy an toàn, tính
toán hợp lý đảm bảo lãi suất có lợi cho người gửi vàng.
Về điều kiện thực thi cần đảm bảo tính thanh khoản tốt cho chứng chỉ huy động
vàng và hệ thống ngân hàng luôn sẵn sàng có nguồn vàng đáp ứng nhu cầu rút vàng
của dân khi đến, hay trong những trường biến động bất thường. Quy trình, thủ tục
72
phải khoa học, chặt chẽ từ khâu phát hành chứng chỉ, nhận gửi, trả vàng, nhưng phải
đơn giản, thuận tiện. Chứng chỉ vàng có thể cầm cố, thế chấp, cho vay, chuyển
nhượng,... và có thể lâu dài chứng khoán hóa, đuợc phép giao dịch trên thị trường mở
và thị trường thứ cấp.
Về cách thức huy động: Sau khi ổn định trạng thái vàng của các NHTM,
NHNN cần thực hiện chủ trương tiếp tục huy động vàng trong dân. Lần này không để
NHTM kinh doanh, mà để NHNN sẽ phát hành chứng chỉ vàng dài hạn.
Từ kinh nghiệm của các nước, chúng ta có thể rút ra những bài học trong việc
quản lý thị trường vàng là việc thay thế người dân nắm giữ vàng vật chất thì họ nắm
giữ “chứng chỉ vàng”. Việc sử dụng chứng chỉ vàng có những ưu điểm là an toàn, tiện
lợi, không sợ vàng giả, vàng thiếu tuổi, thiếu trọng lượng, không mất phí gia công dập
ra vàng miếng,...Về vĩ mô, nền kinh tế sẽ đuợc lợi vì nguồn vàng trong dân tập trung
về ngân hàng, góp phần tăng dự trữ quốc gia và tiết kiệm đuợc USD, vì không cần
nhập khẩu hàng mấy chục tấn vàng vật chất mỗi năm.
Chứng chỉ vàng này do NHNN phát hành, có các loại mệnh giá như: 1 chỉ, 2
chỉ,5 chỉ; 1 lượng, 2 lượng, 5 lượng, 10 lượng,... Đặc điểm của vàng huy động thông
qua phát hành chứng chỉ là người gửi vàng không được phép rút vàng trước hạn, thay
vì hình thức tiết kiệm như trước đây. Do vậy, vốn vàng có thể đuợc sử dụng làm một
nguồn lực dài hạn cho đầu tư phát triển.
Trước thực trạng hiện nay, nhiều NHTM còn bộc lộ một số yếu kém trong
quản trị, cũng như chưa đủ mức độ tín nhiệm, do đó chứng chỉ huy động vàng phải do
chính NHNN phát hành. Tuy nhiên, NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước nên không
tực tiếp đứng ra, mà ủy quyền cho các NHTM thực hiện với vai trò đại lý phát hành
chứng chỉ. Ngược lại NHNN phải chiết khấu hoa hồng cho NHTM để bù đắp các chi
phí kiểm định, cất giữ, vận chuyển,...
Xuất phát từ đặc điểm, tập quán về thói quen và truyền thống tích trữ vàng
trong dân của nước ta, theo chúng tôi cho rằng việc cấp chứng chỉ vàng có thể nói là
phương thức huy động vàng trong dân hữu hiệu nhất. Với cách làm này sẽ loại bỏ
những được tâm lý, truyền thống đã ăn sâu hàng thế kỷ nay của người dân, đó là giữ
vàng nằm im một chỗ, mà không phát huy được tác dụng gì. Việc phát hành chứng chỉ
vàng sẽ hạn chế mua bán vàng miếng, đây cũng là một trong những giải pháp ổn định
thị trường vàng. Tuy nhiên, trong dài hạn Chính phủ cần phải xây dựng một thị trường
vàng hiện đại, để thị trường vàng trong nước liên thông với thị trường vàng thế giới,
một thị trường cho phép vàng trong dân được đưa vào lưu thông trong hệ thống tín
dụng thông qua chứng chỉ vàng và sàn vàng quốc gia. Muốn vậy, cần thành lập Sở
giao dịch vàng quốc gia tại Việt Nam với việc xây dựng các tiêu chuẩn về vàng giao
dịch trên sàn và chỉ định một số thương hiệu vàng và tổ chức kiểm định vàng được
chấp nhận sẽ dần chuẩn hóa chất lượng vàng vật chất lưu hành tại Việt nam. Khi vàng
đuợc chuẩn hóa về chất lượng, người dân có thể thực hiện ký gửi vàng tại các kho của
Sở, được quản lý tập trung để có thể trở thành các tài sản cầm cố, thế chấp vay vốn từ
các tổ chức trong nước hoặc quốc tế, tạo nguồn vốn phát triển kinh tế. Đồng thời vàng
vật chất sẽ được chuyển hóa thành vàng tài khoản, được đưa vào hệ thống giao dịch
thông suốt, thuận lợi cho việc thực hiện giao dịch và thanh toán vàng.
Với việc huy động vàng trong dân qua việc phát chứng chỉ vàng, một vấn đề
đặt ra là làm thế nào để đảm bảo được an toàn lượng tài sản khổng lồ của dân và của
Nhà nước? Bởi giá vàng thế giới diễn biến phức tạp và thay đổi liên tục, sự lao đao
của một số cá nhân lãnh đạo NHTM trong việc bán khống một số vàng lớn thời gian
qua đã đem lại món nợ khổng lồ cho họ và NHTM của họ là một bài học lớn cho cả hệ
73
thống NHTM và NHNN trong việc quản lý thị trường vàng tương lai. Muốn thực hiện
được phương thức huy động này, NHNN cần có những chuyên gia giỏi phân tích và
đưa ra dự báo về giá vàng trong thời gian tới và cần sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi
ro do biến động của giá vàng thế giới. Đây là điều cần thiết phải có và phải thực hiện
đối với NHNN. Nếu không chúng ta sẽ phải trả giá cho những sai lầm tính toán của
các chuyên gia.
Thị trường vàng là một bộ phận hữu cơ của thị trường tài chính tiền tệ. Ở bất kỳ
quốc gia nào cũng cần có sự quản lý, giám sát của Nhà nước đối với thị trường vàng.
Trong điều điện hội nhập kinh tế quốc tế, sự quản lý của mỗi quốc gia ngoài việc đòi
hỏi phải xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, còn phải phù hợp với
thông lệ quốc tế. Mục tiêu là phải đưa thị trường vàng phát triển lành mạnh và đúng
hướng, gắn kết mật thiết, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội. Hiện thị
trường vàng vẫn đang bị nhìn nhận một cách tiêu cực, phiến diện luôn gây sự bất ổn
cho kinh tế vĩ mô. Để hoàn thiện cơ chế quản lý cần nhìn nhận rõ những bất cập, hạn
chế trong Nghị định 24/CP về “Quản lý hoạt động kinh doanh vàng” để sửa đổi và
cần phải thay đổi tư duy quản lý thị trường vàng.
74
VÀNG VÀ QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG VÀNG Ở VIỆT NAM NĂM 2013
TS.Nguyễn Minh Phong
1. Nguồn gốc, dự trữ và quản lý vàng trên thế giới
Đầu tháng 3/2013, các nhà khoa học thuộc ĐH Queensland (Australia) vừa
công bố công trình nghiên cứu chứng tỏ vàng được tạo ra nhờ nước và động đất.
Kết quả nghiên cứu này vừa được đăng tải trên tạp chí Nature Geoscience.
Dion Weatherley, một nhà địa vật lý tại Đại học Queensland, Australia và là tác giả
chính của nghiên cứu tiết lộ: “Động đất gây ra hiện tượng đứt gãy địa chất, tạo nên vô
số các khe hở. Nước nhanh chóng choán đầy những khe hở này. Điều đặc biệt xảy ra ở
khoảng 10 km dưới lòng đất, nơi có áp suất và nhiệt độ cực kỳ cao".
"Điều kiện môi trường như vậy, cộng với việc nước mang nồng độ cao các chất
carbon điôxít, silíc điôxít cùng một số chất cần thiết khác sẽ giúp tạo ra vàng. Sau đó,
dư chấn hoặc các trận động đất khác khiến những khe hở mở rộng hơn làm áp suất
giảm đột ngột, nước nhanh chóng bay hơi và bất cứ hạt vàng nào tồn tại trong chất
lỏng đều kết tủa gần như ngay lập tức”.
Quá trình kiến tạo trong vỏ trái đất khiến động đất lặp đi lặp lại giúp hình thành
lớp vàng trầm tích (trầm tích cát vàng). Các nhà khoa học cho biết vàng trên thế giới
có nguồn gốc từ các mạch trầm tích hình thành trong thời kỳ địa chất tạo núi diễn ra 3
tỷ năm trước đây. Vàng bị nóng chảy từ trong lòng đất đã được đẩy lên theo sự vận
động của vỏ trái đất. Vàng có dạng thỏi do các khoáng chất kèm theo bị ôxi hóa bởi
thời tiết và việc rửa trôi bụi vào các con suối, dòng sông nơi vàng tích tụ hoặc do hoạt
động của nước liên kết lại. Nghiên cứu của các nhà địa chất Australia cũng cho biết
chấn động duy nhất sẽ không tạo ra vàng có giá trị kinh tế. Để tạo thành một mạch
chứa 100 tấn vàng sẽ mất 100.000 năm.
Phát hiện ra cơ chế hình thành vàng sẽ giúp ích cho con người trong việc tìm
kiếm, thăm dò những mỏ vàng mới trong tương lai. Người ta đã tính được trữ lượng
vàng trên thế giới đạt 250 ngàn tấn. Đến nay, loài người đã khai thác khoảng 150
nghìn tấn vàng từ lòng đất. Sản lượng khai thác hàng năm trung bình là 2.300 tấn thì
quặng vàng sẽ cạn kiệt vào năm 2050.
Ở Việt Nam, quặng vàng phân bố rải rác ở nhiều nơi với quy mô nhỏ, tổng tài
nguyên tính được khoảng vài nghìn tấn và trữ lượng chỉ đạt vài trăm tấn. Đến nay đã
phát hiện gần 500 điểm quặng và mỏ vàng gốc (quặng vàng thực thụ và các loại quặng
khác có chứa vàng). Trong đó có gần 30 nơi đã được tìm kiếm thăm dò và đánh giá
trữ lượng với số lượng khoảng 300 tấn vàng.
Năm 1931, chính phủ Anh đình chỉ đổi đồng Bảng Anh lấy vàng. Đầu năm
1968, Mỹ huỷ bỏ đạo luật dùng vàng dự trữ bảo đảm cho 25% tiền giấy lưu thông
trong nước, đồng thời đình chỉ việc chuyển đổi tiền đô la giấy lấy vàng cho tư nhân
nước ngoài; năm 1971 thì đình chỉ nốt việc đổi đô la giấy lấy vàng cho các chính phủ
và ngân hàng trung ương nước ngoài. Từ đó, chế độ bản vị đô la nói riêng và chế độ
bản vị vàng-hối đoái nói chung sụp đổ hoàn toàn. Chấm dứt vĩnh viễn việc kết gắn giá
trị của đồng tiền một nước bất kỳ vào một hàm lượng vàng nhất định nào đó.
75
Trên thực tế, vàng là hàng hóa đặc biệt, vừa mang tính chất hàng hóa phục vụ
đời sống, sinh hoạt và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân; Đồng thời, vàng vừa
mang chức năng thước đo giá trị và chức năng dự trữ như một loại ngoại hối đặc biệt;
Cũng vì vậy, mỗi khi bối cảnh thị truờng trong nước và quốc tế có biến động bất
thuờng, vàng thuờng được coi là sự lựa chọn hàng đầu để bảo toàn giá trị tài sản và
thể hiện sự giàu có của cả các quốc gia, ngân hàng và người dân các nước, trong đó có
Việt Nam. Tuy nhiên, vàng chỉ còn có chức năng không đầy đủ (tức chỉ có chức năng
thước đo giá trị và dự trữ, mà không còn có chức năng thanh toán và lưu thông) của
tiền tệ quốc tế, nên vàng không phải là tiền tệ thế giới, cũng không phải là đồng tiền
quốc gia.
Theo IMF, vàng miếng được phân thành 2 loại là vàng-tiền tệ và vàng phi tiền
tệ. Trong đó, vàng tiền tệ là vàng được nắm giữ bởi các cơ quan quản lý tiền tệ như
một phần của dự trữ chính thức của quốc gia và các tổ chức quốc tế như IMF, BIS.
Vàng phi tiền tệ là vàng được sử dụng như tài sản tài chính và vàng hàng hóa được
nắm giữ phục vụ cho mục đích sản xuất (trang sức, công nghệ), tồn kho hoặc cất trữ
giá trị. phải được đối xử bình thường như với bất kỳ hàng hóa nào khác trong nền kinh
tế (IMF, 2006). Theo TS Hoàng Công Gia Khánh, Trưởng khoa Tài chính ngân hàng
Trường ĐH Kinh tế-Luật-TP.HCM, ở hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Úc,
Canada, Nhật Bản… đều đã tự do hóa thị trường vàng từ rất lâu. Thị trường vàng ở
các nước này hoạt động theo các chuẩn mực rõ ràng, chủ yếu giao dịch các chứng chỉ
vàng thông qua sàn giao dịch tập trung. Việc giao dịch vàng không qua sàn giao dịch
(OTC) vẫn còn diễn ra sôi động ở Anh, Thụy Sĩ giữa các nhà bán buôn. Các giao dịch
này được tổ chức rất quy củ, minh bạch và chủ yếu liên quan đến vàng lưu kho tại
London thông qua thay đổi sở hữu vàng của các bên liên quan tại kho vàng này.
Vì vai trò đặc biệt của vàng, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chia vàng ra làm hai
loại: Trong đó vàng tài chính được IMF tiếp tục được chia làm hai nhóm: thứ nhất
gồm; thứ hai vàng phi tiền tệ là vàng được nắm giữ bởi các tổ chức tài chính trung
gian, các nhà kinh doanh vàng cho mục đích kinh doanh, đầu tư.
Một số các nước Trung Đông, châu Á mà dân chúng vốn có truyền thống cất
trữ vàng cũng đã tổ chức rất thành công giao dịch vàng qua sàn giao dịch tập trung.
Và sàn này bao gồm cả vàng vật chất và vàng tài khoản. Cụ thể như Ả Rập, Thổ Nhĩ
Kỳ, Ấn Độ, Trung Quốc, Hong Kong.
Ấn Độ và Trung Quốc vốn là hai thị trường tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế
giới, chiếm hơn 42% nhu cầu vàng trên thế giới. Đồng thời đây cũng là hai quốc gia
đã từng trải qua thời gian dài kiểm soát rất chặt thị trường vàng trong quá khứ nhưng
sau đó phải tiến hành cải cách thị trường vàng theo hướng tự do hóa và họ đã đạt được
các thành công đáng kể.
Tại Ấn Độ, với 90% lượng vàng tiêu thụ phải nhập khẩu. Đất nước này phải đối
mặt với thách thức không nhỏ trong việc kiểm soát vàng nhập khẩu để giảm thâm hụt
cán cân thanh toán. Từ những năm 1963 đến 1964, Ấn Độ đã kiểm soát rất chặt thị
trường vàng, cấm nhập khẩu vàng… Tuy nhiên, trong suốt hàng chục năm sau đó mặc
dù việc nhập khẩu vàng phi chính thức diễn ra trầm trọng nhưng giá vàng trong nước
vẫn cao hơn từ 20% đến 50% so với giá vàng quốc tế. Tháng 6-1990, Ấn Độ thừa nhận
sự thất bại trong chính sách quản lý vàng chặt chẽ khi bãi bỏ luật quản lý vàng 1963. Và
ba năm sau đó bãi bỏ luật điều tiết ngoại hối 1964. Các hạn chế sở hữu tư nhân về vàng
đã giảm đi, các thương nhân kinh doanh vàng không còn phải xin giấy phép, cho phép
76
nhập khẩu vàng nhằm gia tăng tỉ trọng nhập khẩu vàng chính thức (giảm nhập lậu), tăng
thu ngân sách thông qua việc thu được thuế nhập khẩu vàng, kích thích sản xuất nữ
trang xuất khẩu, phát triển ngành sản xuất vàng và chế tác trang sức, khuyến khích tái
chế vàng trang sức trong nước. Sau đó Chính phủ Ấn Độ cũng đã đưa ra các tiêu chí cụ
thể để xác định ngân hàng nào đủ điều kiện được cấp phép nhập khẩu vàng. Các tổ chức
này được phép mua bán vàng trong nước và quốc tế không giới hạn. Ngoài ra, họ còn
được phép cung cấp các sản phẩm tiết kiệm và cho vay liên quan đến vàng.
Giai đoạn từ 1998 đến 1999, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ cho phép các ngân hàng
thương mại trả lãi tiền gửi vàng vật chất, phát hành các chứng chỉ vàng và các chứng
chỉ này được phép chuyển nhượng, giao dịch trên thị trường thứ cấp với mục tiêu phát
triển thị trường chứng chỉ vàng. Tuy nhiên, việc triển khai đã thất bại khi sau 12 tháng
triển khai chỉ huy động được tám tấn vàng so với 100 tấn theo kế hoạch. Điều này cho
thấy dân chúng vẫn thích nắm giữ vàng vật chất hơn là chứng chỉ vàng. Bởi vậy từ
năm 2003, Ấn Độ cho phép các ngân hàng giao dịch hợp đồng vàng kỳ hạn trong
nước hoặc quốc tế nhưng không được phép giao dịch với các tổ chức phi ngân hàng.
Đến cuối năm 2011, có bốn sở giao dịch quốc gia thực hiện giao dịch vàng. Các sản
phẩm phái sinh vàng được cho phép giao dịch từ năm 2006 và cho đến nay sản phẩm
thông dụng nhất trong số các sản phẩm phái sinh vàng là ETF vàng. Đến đầu năm
2012, ở Ấn Độ đã có 30 ngân hàng bao gồm cả ngân hàng nhà nước, ngân hàng tư
nhân và ngân hàng nước ngoài được phép nhập khẩu vàng, bạc để bán tại thị trường
trong nước. Hiện nay họ có cả hai thị trường vật chất và phi vật chất. Thị trường bán
lẻ vàng thoi OTC diễn ra phổ biến rộng rãi giữa nhà đầu tư với các tổ chức kinh doanh
vàng. Nhưng Ấn Độ không bắt buộc giao dịch vàng thoi phải diễn ra tại các sàn giao
dịch mà có thể thực hiện ở thị trường bán lẻ phân tán khắp cả nước với trên 100.000
thợ kim hoàn và hơn 1 triệu cửa hàng bán lẻ.
Nhu cầu vàng ở Trung Quốc đứng thứ hai trên thế giới sau Ấn Độ và chiếm
khoảng 16% tổng cầu vàng trên thế giới. Mặc dù Trung Quốc là nhà sản xuất vàng lớn
nhất thế giới, đóng góp khoảng 13% tổng cung vàng trên thế giới nhưng nước này vẫn
phải nhập khẩu vàng. Trước năm 2002, thị trường vàng tại Trung Quốc được kiểm
soát chặt chẽ từ khâu sản xuất đến phân phối bán lẻ. Giá vàng và hạn ngạch đã được
quyết định bởi Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBOC) phối hợp với các cơ quan
khác ở trung ương. PBOC cấp giấy xuất khẩu vàng và nhập khẩu vàng trang sức, mặt
hàng này chịu mức thuế nhập khẩu 60% ở năm 1996, giảm so với mức 100% trước
đó. Từ năm 1996, Trung Quốc đẩy nhanh quá trình cải cách, dần dần tự do hóa và sau
đó đã bãi bỏ việc nhà nước độc quyền vàng, bãi bỏ hệ thống cấp phép bán lẻ, bán
buôn, sản xuất và không còn kiểm soát giá vàng. Tháng 10-2002, Sàn giao dịch vàng
Thượng Hải được thành lập để tổ chức giao dịch vàng thay thế cho PBOC. Kể từ khi
mở cửa thị trường vàng và sau khi Sàn giao dịch Thượng Hải đi vào hoạt động, giá
vàng tại Trung Quốc đã rất sát với giá vàng thế giới từ năm 2000. Từ năm 2006,
Trung Quốc đã cho phép các ngân hàng thương mại giao dịch các sản phẩm đầu tư
vàng với nhà đầu tư cá nhân. Cũng trong năm này, hệ thống giao dịch vàng thoi hai
giá cũng đã được triển khai. Và đến năm 2007, các ngân hàng thƣơng mại đƣợc
phép giao dịch vàng thoi vật chất, được tham gia giao dịch tại Sàn giao dịch Thượng
Hải, Sàn giao dịch hàng hóa giao sau Thượng Hải.
Về thị trường bán lẻ, Trung Quốc chỉ được phép bán vàng trang sức qua các
cửa hàng bán lẻ trang sức vốn chịu sự quản lý của chi nhánh PBOC tại địa phương.
77
Tất cả giao dịch vàng thoi đều phải được thực hiện thông qua Sàn giao dịch vàng
Thượng Hải.
Như vậy, sau cải cách, cơ quan nhà nước của cả Ấn Độ và Trung Quốc vẫn
quản lý sản xuất, bán buôn, bán lẻ vàng, nhưng đều được thực hiện theo cơ chế minh
bạch và hoàn toàn không có sự độc quyền, dù là độc quyền nhà nước hay tư nhân.
Việc quản lý nhập khẩu vàng được thực hiện một cách linh hoạt trên cơ sở xử lý hài
hòa giữa trạng thái cán cân thanh toán và tình trạng nhập lậu. Ngân hàng trung ƣơng
hoàn toàn không tham gia trực tiếp vào hoạt động nhập khẩu, sản xuất. Chính
sách quản lý được thực hiện theo nguyên tắc thị trường, thông thoáng nhằm tạo được
sự liên thông thị trường trong nước với thị trường nước ngoài khi đã chuẩn bị đầy đủ
các điều kiện. Các quốc gia này cũng đã quản lý chặt chẽ chất lượng vàng kể cả vàng
thoi và vàng trang sức, đồng thời xem xét để cấp phép giao dịch các sản phẩm vàng
thoi theo tiêu chuẩn quốc tế được sản xuất bởi các nhà sản xuất có uy tín theo danh
sách công bố của Hiệp hội Vàng thoi London. Ngoài ra, các nước này cũng đã tổ chức
nhiều sàn giao dịch vàng với cơ chế tổ chức theo thông lệ quốc tế với một số điều
chỉnh để tương thích với đặc trưng của thị trường trong nước.
Thực tế thế giới cũng cho thấy ngày càng hiếm có nước nào duy trì chính sách
chỉ độc quyền một thương hiệu vàng và độc quyền sản xuất vàng miếng. Hiện nay, Ấn
Độ đã thả nổi thị trường vàng và chỉ quản lý bằng thuế suất nhập khẩu vàng khi nâng
mức thuế lên 50%. Ngân hàng trung ương Ấn Độ vừa có thông báo chính thức trên
website ngày 19/11/2012, yêu cầu các ngân hàng nước này không cho vay với mục đích
mua vàng vật chất như trang sức, vàng xu, vàng thanh hay các sản phẩm tài chính có
liên quan đến vàng như đầu tư vào quỹ tín thác.
Trung Quốc, cách đây 10 năm, cũng cố gắng kiểm soát thị trường vàng theo
hướng độc quyền, ấn định giá vàng nhưng không thành công và hiện cũng thả nổi thị
trường vàng..
Theo số liệu của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), người dân Thổ Nhĩ Kỳ hiện
đang nắm giữ khoảng 5.000 tấn vàng, giá trị 302 tỷ USD, lớn hơn của GDP của
Ireland. Huy động được số vàng này trong dân, Thổ Nhĩ Kỳ có thể giảm được nhập
khẩu vàng cũng như vay nợ từ bên ngoài. Các ngân hàng ở nƣớc này đang tìm cách
hút số vàng trên để chuyển đổi thành tiền mặt. Thu hút vàng trong dân được xem là
một cách để Thổ Nhĩ Kỳ giải quyết mức thâm hụt cán cân vãng lai lớn thứ nhì thế
giới, chỉ sau Mỹ này. Trong năm 2011, thâm hụt cán cân vãng lai của nước này đã
vượt mức 77 tỷ USD. Theo số liệu của Ngân hàng Trung ương Thổ Nhĩ Kỳ, từ đầu
năm đến tháng 7/2013 vừa qua, số tài khoản gửi vàng tại các ngân hàng ở Thổ Nhĩ Kỳ
đã tăng 15%, cao gấp 5 lần tốc độ tăng của số tài khoản gửi tiết kiệm. Cũng từ đầu
năm, lượng vàng người dân gửi vào ngân hàng Yapi Kredi Bankasi của Thổ Nhĩ kỳ đã
tăng 62%. Còn tại ngân hàng lớn nhất nước này về tài sản là Turkiye Is Bankasi AS,
lượng vàng người dân gửi vào tăng 10 lần trong thời gian 2 năm tính đến hết tháng 6
năm nay. Khi mở tài khoản vàng, khách hàng sẽ có được một lượng tiền mặt tương
đương với giá trị của số vàng mà họ giao cho ngân hàng. Khách có thể rút tiền mặt
hoặc vay vốn từ ngân hàng. Về phần mình, ngân hàng có thể nắm giữ hoặc bán số
vàng tùy theo chiến lược kinh doanh riêng.Các ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ đang tung ra
hàng loạt dịch vụ khác nhau để thu hút người dân gửi vàng. Các ngân hàng Isbank và
Turkiye Garanti Bankasi AS - ngân hàng lớn nhất nước này về giá trị vốn hóa - cùng
cung cấp các khoản vay bảo đảm bằng vàng. Với dịch vụ này, khách hàng có thể
mang nữ trang hoặc tiền xu vàng tới ngân hàng để thế chấp vay vốn. Garanti cũng
78
phát hành thẻ tín dụng dựa trên tài khoản gửi vàng. Ngân hàng này sẽ sớm cho phép
khách hàng rút tiết kiệm bằng vàng, thay vì tiền mặt hoặc ngoại tệ. Ngân hàng Hồi
giáo Asya Katilim Bankasi AS thì tổ chức những “ngày vàng” để khách hàng đem tiền
xu và nữ trang vàng đến cho các chuyên gia kiểm định. Ngân hàng này cho biết đã thu
hút được 3 tấn vàng thông qua những “ngày vàng” như vậy từ tháng 3/2012 đến nay.
Số tài khoản tiết kiệm vàng trong ngân hàng này tính đến hết tháng 7 đã tăng 22%.
Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đang có những biện pháp để hỗ trợ các ngân hàng thu hút vốn
vàng. Ngân hàng Trung ương nước này ra quyết định cho phép các ngân hàng tăng tỷ
lệ vàng trong dự trữ lên mức 30% từ mức 25% trước đó. Ngoài ra, các nhà chức trách
Thổ Nhĩ Kỳ còn đang xem xét đưa ra các quy định cho phép người dân mua hoặc bán
vàng tại các chi nhánh ngân hàng hoặc chuyển vàng vào các tài khoản khác. Tuy
nhiên, kế hoạch này bị các tiệm vàng ở Thổ Nhĩ Kỳ phản đối vì cho rằng, việc ngân
hàng mua bán vàng sẽ khiến doanh thu của các tiệm kim hoàn sa sút.
Thực tế cho thấy, độc quyền sản xuất vàng không thể giống độc quyền sản xuất
tiền của Chính phủ, càng không thể quản lý vàng theo thương hiệu quốc gia như một
dạng tiền tệ chính thức quốc gia. Nói cách khác, không thể dùng quyền độc quyền
vàng như một loại máy in tiền; không thể biến việc chống “vàng hóa” thành việc “tiền
tệ hóa” vàng, nếu không muốn biến một quốc gia từ chỉ có một đồng bản tệ duy nhất
thành có 2 đồng tiền cùng lưu hành chính thức và độc quyền như nhau.
2. Quản lý vàng ở Việt Nam từ 1975-2013
Việt Nam có truyền thống tích trữ và giao dịch vàng trong dân rất cao do kinh
nghiệm đối phó với chiến tranh, loạn lạc và lạm phát cao...
Theo tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ, Vàng
miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và
ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam cho phép sản xuất, hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất
trong từng thời kỳ.
Quản lý kinh doanh vàng miếng ở Việt Nam đang được từng bước xiết chặt và
giá cả trên thị trường này liệu sẽ có những chuyển biến mới từ sau ngày 30/6/2013-
ngày tất toán trạng thái vàng của các NHTM (ngân hàng thương mại) mà NHNN
(Ngân hàng Nhà nước) đặt ra ...?!
Từ sau năm 1975, ở Việt Nam, Nhà nước dùng các biện pháp hành chính mạnh
để kiểm soát và điều khiển giá vàng. Việc giao dịch vàng, kể cả vàng trang sức lẫn
vàng miếng, của tư nhân bị cấm; Việc dùng vàng để định giá, thanh toán không được
pháp luật thừa nhận. Nhưng trên thực tế, vàng luôn được sử dụng làm thước đo giá trị,
phương tiện thanh toán và tài sản cất trữ.
Đến năm 1986, Việt Nam mới thực hiện chủ trương cho thành lập mạng lưới
các cửa hàng kinh doanh vàng bạc quốc doanh và đến năm 1989 mới chính thức cho
phép tư nhân thành lập cửa hàng kinh doanh vàng, bạc, đá quý. Từ đó, thị trường vàng
mới bắt đầu có sự cạnh tranh.
Ngày 23.9.1993, Chính phủ ban hành Nghị định 63/1993/NĐ-CP về quản lý
nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng. Theo đó, Nhà nước thừa nhận quyền sở
hữu hợp pháp về vàng của mọi tổ chức và cá nhân. Cho phép các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền cất giữ, vận chuyển
79
hoặc gửi vàng ở ngân hàng. Các doanh nghiệp kinh doanh vàng được mua bán vàng
các loại; được chế tác, gia công, cầm đồ vàng.
Từ năm 1994, vụ Quản lý ngoại hối – NHNN cấp phép nhập uỷ thác để công ty
Vàng bạc đá quý Việt Nam (VJC) nhập trực tiếp cho các doanh nghiệp và Vụ Quản lý
ngoại hối bán vàng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, từ năm 1996 do tình hình ngoại
tệ khan hiếm vì ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, NHNN tạm
dừng việc cấp phép nhập khẩu vàng.
Tháng 12.1999, Chính phủ ban hành nghị định 174/1999/NĐ-CP quy định về
quản lý hoạt động kinh doanh vàng thay thế nghị định 63/1993/NĐ-CP. Cùng với nghị
định 63/1998/ NĐ-CP về quản lý ngoại hối được ban hành ngày 17.8.1998, cơ chế
quản lý vàng ở Việt Nam đã chính thức tách bạch rõ việc quản lý vàng tiền tệ, và quản
lý vàng phi tiền tệ với sự nới lỏng đáng kể trong việc quản lý đối với vàng phi tiền tệ
tập trung vào các nội dung chính: phân định rõ vàng miếng, vàng trang sức; quản lý
xuất nhập khẩu; quản lý sản xuất, gia công; quản lý kinh doanh giao dịch. Nhờ chính
sách nới lỏng này, đã có bảy đơn vị tham gia sản xuất, gia công vàng miếng theo dây
chuyền công nghệ hiện đại và hơn 12.000 cửa hàng kinh doanh vàng trên khắp cả
nước. NHNN cũng đã cho phép các tổ chức tín dụng đủ điều kiện được phép kinh
doanh vàng tài khoản ở nước ngoài, quy định cụ thể việc huy động vàng và cho vay
bằng vàng...
Sàn vàng ảo hay kinh doanh vàng tài khoản, sàn vàng đã một thời nở rộ tại
Việt Nam và trở nên phức tạp trong các năm 2008 – 2009 với hơn 20 sàn giao dịch
trước khi Chính phủ ban hành lệnh cấm vào cuối năm 2009. Thời điểm đó, cùng với
chứng khoán các sàn vàng hoạt động rầm rộ, cho phép các nhà đầu tư kinh doanh
vàng qua tài khoản trực tiếp với thị trường quốc tế. Sàn vàng đã thu hút sự tham gia
của nhiều đơn vị: DN kinh doanh vàng, ngân hàng, thậm chí tổ chức không có chức
năng kinh doanh vàng… lôi kéo vàng chục ngàn nhà đầu tư tham giá đã tạo nên một
cơn sốt vàng ảo; kéo theo đó là rất nhiều hệ lụy đối với nhà đầu tư, DN và tổ chức tài
chính, ảnh hưởng đến sự ổn định trên thị trường vàng, ngoại hối và tiền tệ. Đối với rất
nhiều nhà đầu tư, sau một thời gian tham gia đầu tư vàng ảo, cụ thể hơn là kinh doanh
vàng trên tài khoản đã chuốc lấy thất bại, thua lỗ. Trong khi đó, đối với không ít DN
và tổ chức tài chính dù ở góc độ người tổ chức kinh doanh hay trực tiếp đầu tư thì
cũng gánh chịu nhiều thiệt hại trước biến động của giá vàng thế giới. Đã có những NH
công bố con số thua lỗ hàng ngàn tỷ đông vì vàng. Sàn vàng đã kéo theo các công cụ
hỗ trợ như: đòn bẩy tài chính cho nhà đầu tư, hoạt động mua bán vàng liên tục với
nước ngoài thông qua tài khoản để cân bằng trạng thái, mua bán khống, mua bán kỳ
hạn … được thực hiện dưới nhiều hình thức và biến tướng, gây ra rủi ro tiền ẩn cho
các tổ chức tài chính và bất ổn vĩ mô. Thậm chí đã nảy sinh nhiều tranh chấp, kiện cáo
về những sự cố, rủi ro khi tham gia sàn vàng. Khi rà soát lại, cơ quan quản lý cho biết
kinh doanh sàn vàng là một hoạt động chưa có các quy định quản lý, và những bất lợi
của hoạt động này gây ra, khiến sàn vàng đã bị cấm hoạt động. Mọi hoạt động đầu tư
vàng ảo chấm dứt. Đến nay, mọi hoạt động kinh doanh vàng qua tài khoản của mọi
các nhân, tổ chức đều bị cấm, tài khoản mua bán vàng phục vụ xuất nhập khẩu của
các NH cũng chấm dứt. Tuy vậy, trên thực tế, kinh doanh vàng ảo chui vẫn còn rơi
rớt. Có không ít tổ chức dùng nhiều hình thức biến tướng để tiếp tục kinh doanh sàn
vàng. Tất nhiên, với hoạt động phi pháp thì luôn tiềm ẩn rủi ro và thua thiệt luôn đứng
về phía người đầu tư.
80
Giữa năm 2013, một ngân hàng đầu tiên đã công bố dịch vụ mua bán vàng
qua Internet Banking, hoạt động hoàn toàn dựa trên tiền thực và vàng thực. Lãnh
đạo Ngân hàng Nhà nước, sau khi thận trọng với việc cấp phép đã cho rằng, đây là là
giải pháp công nghệ mới và phù hợp quy định. Theo các quy định hiện nay, gần như
không có quy đình nào xác định ”vàng tài khoản” hay ”kinh doanh vàng trên tài
khoản” là gì. Trước đây, Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước
về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài có giải thích chung chung: “Kinh
doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài” là hoạt động kinh doanh vàng thông qua tài
khoản vàng tại nước ngoài dưới các hình thức giao dịch theo thông lệ quốc tế. Từ thực
tế hoạt động của sàn vàng ảo trước đây có thể thấy một số đặc trưng sau, gọi là sàn
vàng, nhưng thực chất nhà đầu tư chỉ sử dụng một tài khoản để đầu tư „vàng ảo” theo
giá vàng quốc tế mà không bao giờ được nhận vàng thực. Hoạt động đầu tư sàn vàng
ảo trước đây có 3 yếu tố đặc trưng: thực hiện khớp lệnh định kỳ giữa người mua với
người bán, cho phép vay vàng đầu tư và mua bán khống cũng như giao dịch trạng thái
kỳ hạn. Đặc biệt, các ngân hàng và tổ chức kinh doanh sàn vàng cho phép sử dụng
công cụ đòn bẩy tài chính trong đầu tư kinh doanh vàng. Vậy mua bán vàng qua
Internet Banking có là vàng ảo? Thực tế, ngân hàng cung cấp dịch vụ chỉ đóng vai trò
là người cung cấp dịch vụ mua bán vàng vật chất qua các giải pháp ngân hàng điện tử.
Khi đặt mua, khách hàng phải chuyển tiền và ngay sau đó sẽ được lấy vàng. Như vậy,
tiền thực chuyển đi và vàng thực sẽ được giao. Ngân hàng sẽ chỉ giữ hộ khi khách có
nhu cầu. Còn trong trường hợp bán vàng, nếu khách còn gửi vàng tại ngân hàng thì có
thể đặt qua mạng, còn không sẽ phải mang vàng đến bán tại các điểm kinh doanh vàng
như thông lệ. Như vậy, trong mọi trường hợp, người mua và bán chỉ thông qua ngân
hàng như một nhà giao dịch hàng hóa và niêm yết giá. Hoàn toàn không có biểu hiện
của vàng ảo như thực hiện khớp lệnh giữa người mua với người bán, không thực hiện
mua bán khống, không thực hiện giao dịch trạng thái kỳ hạn, không sử dụng công cụ
đòn bẩy tài chính. Mua vàng qua mạng như trên giống như mọi hình thức giao dịch
hàng hóa trực tuyến khác. Vàng ở đây là vật chất, hàng hóa không phải là một loại
hình đầu tư tài chính. Điểm khác biệt là chỉ là cho phép khách hàng thực hiện giao
dịch mua – bán vàng trực tuyến, thông qua kênh Internet Banking và Mobile Banking.
Người mua có thể “tranh thủ” mua vàng ở bất cứ đâu theo giá niêm yết của ngân
hàng, khách hàng không phải đổ xô xếp hàng mua vàng những lúc cao điểm. Mua
vàng qua mạng chỉ mở ra cơ chế giao dịch mới giữa khách hàng với ngân hàng trong
khi mô hình sàn giao dịch vàng là giao dịch giữa các nhà đầu tư với nhau, qua khớp
lệnh. Các yêu cầu mua- bán vàng chỉ được xác định thông qua giá thực tại thời điểm
giao dịch mà không có các trạng thái kỳ hạn như sàn vàng. Hơn nữa, với các quy định
về giới hạn trạng thái vàng của Ngân hàng Nhà nước, không được vượt quá 2% vốn tự
có; không được cho vay vốn, cho vay vàng để tạo giao dịch “ảo” như ở sàn vàng.
Tuy nhiên, theo Ông Lê Minh Hƣng, PTĐ NHNN: Phải khẳng định hoạt
động sản vàng online là hoạt động bất hợp pháp. Theo quy định tại Khoản 9 Điều 4
Nghị định 24, tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện các hoạt động kinh doanh vàng
khác (gồm cả kinh doanh vàng tài khoản, sản giao dịch vàng) sau khi được Thủ tướng
Chính phủ cho phép và được NHNN cấp phép. Do đó, tổ chức cá nhân thành lập và
kinh doanh trên sàn vàng online là trái với quy định của pháp luật. Nghị định 24 cũng
quy định rõ các cơ quan chức năng có trách nhiệm phối hợp điều tra, xử lý nghiêm các
vi phạm pháp luật về kinh doanh vàng.
81
Trước khi Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ (Nghị định 24) về quản lý
hoạt động kinh doanh vàng được ban hành, hoạt động mua bán vàng miếng được thực hiện
tại khoảng 12.000 doanh nghiệp, cửa hàng nhỏ lẻ kinh doanh vàng. Bên cạnh đó, nhằm
thu hút các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế xã hội,năm 2000, NHNN đã cho
phép các tổ chức tín dụng (TCTD) có giấy phép hoạt động ngoại hối được huy động
vốn bằng vàng. Với việc triển khai chính sách này, tính đến ngày 02/11/2012, số dƣ
huy động vàng của các tổ chức tín dụng khoảng gần 97 tấn, tƣơng đƣơng khoảng
120 nghìn tỷ VND, chiếm khoảng 3% tổng phƣơng tiện thanh toán (M2), đã giảm
nhiều so với mức gần 6% vào cuối năm 2011. Như vậy, quy định cho phép huy
động vốn bằng vàng đã cho phép vàng thực hiện một phần chức năng tiền tệ ở mức độ
nhất định (có thể gọi là “vàng hóa” chính thức trong hệ thống ngân hàng). Vàng gửi
vào hệ thống ngân hàng, rồi được cho vay ra đã tham gia vào hệ số tạo tiền của các
ngân hàng. Mặc dù mấy năm gần đây, tập quán sử dụng vàng làm phương tiện thanh
toán song hành với đồng Việt Nam đã dần mất đi, vàng chủ yếu được sử dụng làm
công cụ tích trữ,nhưng do nhu cầu tích trữ/gửi tiết kiệm vàng miếng của dân ngày
càng tăng (một phần do kỳ vọng giá thế giới tăng, một phần do các TCTD vẫn huy
động vàng). Việc đầu tư, đầu cơ có nguy cơ quá mức vào vàng đã gây nhiều hệ lụy
cho nền kinh tế-xã hội, rủi ro cho người dân mua vàng/ người vay vàng, và các tổ
chức kinh doanh vàng (trong đó có TCTD) khi giá vàng liên tục tăng cao.
Năm 2011, để bình ổn giá, NHNN đã phải nhập khẩu 15 tấn vàng nguyên liệu
với giá 50 triệu USD/tấn (tổng số ngoại tệ nhập khẩu vàng gần bằng nửa kim ngạch
xuất khẩu cá tra năm 2011 của Việt Nam). Dự trữ ngoại hối của quốc gia khó có khả
năng liên tục năm nào cũng đi nhập khẩu vàng để bình ổn giá trong khi vàng không
phải là mặt hàng thiết yếu. Đồng thời, khi giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế
giới, thường xuất hiện tình trạng nhập khẩu vàng lậu, sản xuất vàng miếng lậu, từ đó
gây ảnh hưởng bất lợi tới thị trường ngoại tệ, tỷ giá và kinh tế vĩ mô. Tình trạng thị
trường vàng ở Việt Nam không hẳn giống như Ấn Độ và Trung Quốc-những quốc gia
cũng có nhu cầu vàng rất cao, nhưng chủ yếu là vàng trang sức và tích trữ đầu tư chứ
không phải vàng miếng đem gửi vào ngân hàng lấy lãi và ngân hàng lại đem vàng của
dân gửi đem cho vay như ở Việt Nam.
Đây chính là nguyên nhân mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lo ngại mức độ
gia tăng “vànghóa” trong nền kinh tế, và để ngăn chặn tình trạng trước khi quá muộn,
cơ quan này tạm thời sử dụng một số công cụ hành chính để bình ổn thị trường. Có
thể bước đi của tiến trình chống “vàng hóa” đang nhanh hơn sự chuyển biến tâm lý,
nhận thức của người dân, nhưng mục tiêu bình ổn thị trường vàng của Nghị định 24 là
đúng đắn và cần thiết.
Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 ra đời đã khẳng định NHNN có
trách nhiệm xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế hoạch về
phát triển thị trường vàng và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này; bổ sung
vàng miếng vào Dự trữ ngoại hối Nhà nước; thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường
vàng thông qua các biện pháp: (a) Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu theo quy
định tại Khoản 1 Điều 14 Nghị định này; (b) Tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng
thông qua việc quyết định hạn mức, thời điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản
xuất vàng miếng phù hợp trong từng thời kỳ. Chi phí tổ chức sản xuất vàng miếng được
hạch toán vào chi phí hoạt động của Ngân hàng Nhà nước; (c) Thực hiện mua, bán vàng
82
miếng trên thị trường trong nước và tổ chức huy động vàng theo quy định của Thủ
tướng Chính phủ.
Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ khẳng định quyền sở
hữu và giao dịch vàng miếng của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy
định của pháp luật. NHNN độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất và nhập khẩu vàng
nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, thống nhất quản lý hoạt động kinh doanh vàng
nhằm ổn định thị trường vàng, bảo đảm hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức,
mỹ nghệ phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu theo quy định của pháp luật
vì lợi ích chung, bảo đảm không biến quyền kinh doanh vàng miếng thành độc quyền
và mang lại khối lợi nhuận khổng lồ béo bở cho bất kỳ doanh nghiệp hay một thương
hiệu vàng nào. NHNN và các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh vàng có liên qua phải
bảo đảm chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung ứng vàng miếng, không gây ách tắc và
méo mó cung-cầu, giá cả thị trường vàng trong nước, bảo đảm những nguồn lợi từ
chênh lệch giá vàng trong nước với giá vàng thế giới phải được quản lý chặt chẽ và
quy tụ thành nguồn thu bổ sung cho NSNN chung theo quy định của pháp luật.
Tính đến 10/1/2013, Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép kinh doanh vàng miếng
cho 22 ngân hàng và 16 doanh nghiệp, với 2.497 điểm kinh doanh tại 63 tỉnh thành
trên cả nước (TP HCM có khoảng 900 điểm và Hà Nội khoảng 400 điểm). Những đơn
vị chưa được cấp phép kinh doanh, mua bán vàng miếng sẽ chỉ được mua bán vàng
trang sức hoặc chuyển đổi sang loại hình kinh doanh khác. Cửa hàng nào không có
giấy phép kinh doanh vàng miếng mà vẫn mua bán vàng miếng sẽ bị phạt tiền từ 50
đến 100 triệu đồng theo Nghị định số 95/2011/NĐ-CP ban hành năm 2011...
Theo Thông tư số 06/2013/TT-NHNN ngày 12/3/2013 của NHNN về hướng
dẫn hoạt động mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước, NHNN có thể tuỳ
từng thời điểm để tổ chức đấu thầu (đấu thầu theo giá hoặc theo khối lượng) và mua
bán trực tiếp. Quy trình đấu thầu (gồm 11 bước từ khi thông báo đến ký văn bản xác
nhận, mua bán) và mua bán trực tiếp (gồm 7 bước từ thông báo mua bán, tổ chức
chuyển tiền đặt cọc). Khi đấu thầu theo khối lượng, trường hợp tổng số lô vàng miếng
đặt thầu bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHNN mua hoặc bán thì khối lượng trúng
thầu bằng khối lượng doanh nghiệp, tổ chức tín dụng đặt thầu. Nếu số lô đặt thầu vượt
quá khối lượng NHNN thông báo thì mức trúng thầu xếp thứ tự từ cao nhất xuống
thấp nhất. Trường hợp ở mức khối lượng trúng thầu thấp nhất có nhiều đơn vị đặt mua
hoặc bán thì khối lượng còn lại chia đều cho tất cả. Khi đấu thầu theo giá, xét theo thứ
tự giảm dần từ giá trúng cao nhất cho tới thấp nhất mà tại đó NHNN bán được khối
lượng tối đa; hoặc xét theo thứ tự từ thấp đến cao nếu NHNN mua được khối lượng
tối đa. Giá trúng thầu của từng đơn vị là giá đặt thầu của chính đơn vị đó.
Quy trình đấu thầu vàng và mua bán vàng trực tiếp
theo Thông tƣ 06/2013/TT-NHNN ngày 12/3/2013
83
Ngày 28.3.2013, cơ chế đấu thầu giá vàng miếng đã được chính thức khởi động
ở Việt Nam với phiên đầu tiên mang tính thăm dò thị trường. Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã tung ra gói thầu 26.000 lượng vàng (gần 1 tấn vàng) ) với giá sàn là 43,81
triệu đồng/lượng (cao hơn giá tham chiếu tính giá trị đặt cọc được ấn tính từ chiều
hôm trước tới 210 nghìn đồng mỗi lượng, thậm chí cao hơn giá vàng bán ra vào giờ
mở cửa tới 330 nghìn đồng mỗi lượng tại SJC và 360 nghìn đồng mỗi lượng ở Doji);
tỷ lệ ký quỹ 10%. 21 đơn vị đăng ký tham gia phiên đấu thầu chỉ được bỏ 1 mức giá,
với mức đặt mua thấp nhất 5 lô (500 lượng) và cao nhất 20 lô (2.000 lượng). Kết quả
có 2 đơn vị trúng thầu với 2000 lượng vàng miếng SJC được bán ra theo giá khá sát
với giá chào thầu.
Ngày 16/8/2013, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức đầu thầu bán vàng miếng lần
thứ 53 với khối lượng trúng thầu đạt 25.800 lượng trong tổng số 26.000 lượng chào
thầu. Giá tham chiếu để tính giá trị đặt cọc là 37,56 triệu đồng/lượng, tương đương giá
mua vàng ngoài thị trường của các doanh nghiệp trong chiều nay. Mỗi đơn vị tham gia
được đặt thầu tối thiểu là 1.000 lượng và tối đa 3.000 lượng.
Từ ngày 28/3/2013 đến 16/8/2013, NHNN đã đấu thầu bán vàng miếng với
tổng khối lƣợng trúng thầu là 1.426.400 lƣợng (tƣơng đƣơng với 54,86 tấn) trên
tổng số 1.530.000 lƣợng (tƣơng đƣơng với 56,84 tấn) chào thầu. Diễn biến trái
chiều giữa giá vàng Việt Nam và giá vàng thế giới là nguyên nhân chính dẫn đến việc
chênh lệch giá trúng thầu trung bình với giá bán vàng thế giới quy đổi tại cùng thời
điểm ngày 16/8 chỉ còn 3,16 triệu đồng/lƣợng, mức chênh lệch thấp nhất kể từ khi
NHNN tổ chức đấu thầu(mức cao nhất là gần 7 triệu đông/lƣợng). Trong khi giá
vàng thế giới đang tiếp tục có xu hướng tăng rõ rệt kể từngày 5/8 thì giá vàng tại Việt
Nam tăng không đáng kể. Cụ thể, so với ngày 5/8, giá vàng giao ngay thế giới đã tăng
4,74% (từ 1.303,34-1.304,56 USD/oz ngày 5/8 lên đến 1.365,14-1365,96 USD/oz)
trong khi giá vàng tại Việt Nam chỉ tăng có 0,93% (dao động quanh mức 37,9-38,2
triệu đồng/lượng mua-bán).
84
Kết quả các phiên đấu giá vàng miếng cho thấy, quy trình đấu thầu của Ngân
hàng Nhà nước được thực hiện thông suốt, đúng quy định tại Thông tư số
06/2013/TT-NHNN ngày 12/3/2013 và Quyết định số 563/QĐ-NHNN ngày
18/3/2013 của NHNN. Mục tiêu cao nhất của việc NHNN tổ chức đấu thầu vàng
miếng trước thời điểm 30/6/2013 với tư cách là nguời kiến tạo và bảo đảm nguồn
cung vàng miếng cho thị trường đã được thực hiện tốt.. Xét từ góc độ quy trình và các
mục tiêu đấu thầu vàng miếng, cho thấy phiên đầu là không thành công do đặt giá
chào bán cao hơn 500 nghìn đồng/lượng so với giá thị trường tại cùng thời điểm, nên
chỉ bán được dưới 8% lượng vàng chào bán và chỉ có dưới 10% đơn vị tham gia trúng
thầu. Tuy nhiên, các phiên đấu thầu vàng về sau đã thành công hơn nhiều cả về quy
mô vàng bán ra, cũng như số đơn vị trúng thầu; đồng thời tạo nguồn thu mới cho
NSNN…
Đánh giá việc quản lý thị trường vàng theo cơ chế mới, các báo cáo và phát
ngôn chính thức của NHNN đều khẳng định: NHNN can thiệp thị trường vàng không
vì mục tiêu lợi nhuận, đồng thời chỉ theo đuổi mục tiêu ổn định thị trường, chứ không
có mục tiêu ổn định hay là làm cho giá vàng trong nước hay giá vàng thế giới thu hẹp
lại... Một trong những nội dung bình ổn thị trường vàng mà Nghị định 24 đã làm được
là ổn định được giá vàng trong nước một cách tương đối, làm cho động cơ để đầu cơ
vào vàng khi giá thế giới biến động không còn hấp dẫn như trước đây nữa và tránh
được tác động lên xuống thất thường của giá vàng nước ngoài mà từ đó ảnh hưởng
đến kinh tế vĩ mô. Về tổng thể, sau một năm thực hiện khuôn khổ pháp lý mới về
quản lý thị trường vàng, quyền sở hữu, tích trữ, mua bán vàng miếng hợp pháp của
người dân được bảo vệ. Thị trường vàng đã được sắp xếp lại một cách cơ bản, hoạt
động ổn định và vàng không còn ảnh hưởng mạnh tới thị trường ngoại hối như trước
đây. Hoạt động đầu cơ bị đẩy lùi, thị trường, tỷ giá ổn định, lạm phát được kiềm chế,
ngoài ra đã mua lại được của dân gần 100 tấn vàng. Có thể nói, đa số yêu cầu của
Quốc hội về thị trường vàng đã được thực hiện và bước đầu có kết quả rất tích cực,
ngoại trừ thực tế giai đoạn 2012 - 2013, chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế
giới ở mức cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Theo Thống đốc NHNN, đến nay
toàn bộ hoạt động nhập vàng do nhà nước đảm nhiệm và toàn bộ chênh lệch giữa giá
vàng trong nước và giá vàng thế giới là thuộc về ngân sách nhà nước để đầu tư lại cho
nền kinh tế, thực hiện các công trình phúc lợi xã hội. Việc thu hẹp giá vàng trong
nước và thế giới không làm bình ổn thị trường vàng, không loại bỏ được các tác động
tiêu cực lên kinh tế vĩ mô, không làm giảm vàng hóa, mà trái lại, ở các chừng mực
khác nhau lại có tác động ngược lại. Chính chênh lệch giá vàng cao ở những thời điểm
nhất định và hoạt động can thiệp theo hình thức đấu giá của NHNN đã giữ cho giá
vàng trong nước và thị trường vàng trong nước ổn định trước những biến động bất
thường của giá vàng thế giới, đã làm mất đi động lực đầu cơ, làm giá, tạo sóng kiếm
lời của giới đầu cơ, và do vậy góp phần kiềm chế "vàng hóa" nền kinh tế… Ngoài ra,
thực hiện cơ chế quản lý vàng mới theo tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP đã giúp
tiết giảm nguồn ngoại tệ cho mục tiêu nhập khẩu vàng. NHNN đã cấp phép nhập
khẩu bình quân khoảng 50-60 tấn vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Đồng
thời, khối lượng ngoại tệ NHNN sử dụng để nhập khẩu vàng (với 55 tấn vào khoảng
2,5 tỷ USD) là nhỏ hơn nhiều lần lượng ngoại tệ nền kinh tế phải bỏ ra để nhập khẩu
vàng trong những năm trước đây (khoảng trên dưới 10 tỷ USD). Lượng ngoại tệ này
chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với lượng ngoại tệ NHNN đã mua vào tăng dự trữ ngoại hối
Nhà nước trong thời gian qua. Mục tiêu trước mắt và mục tiêu trực tiếp là bình ổn thị
trường vàng nói chung, trong đó có bình ổn giá vàng trong nước để tránh việc đầu cơ
85
trục lợi; tiếp tục ổn định được kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện kéo giá vàng trong nước và
thế giới sẽ sát lại gần nhau hơn.
Tính đến sáng 17/8/2013, chênh giá trong nước so với giá quốc tế quy đổi đã
co về còn 3,1 triệu đồng/lượng; nếu tính đủ các loại chi phí, chênh lệch chỉ còn
khoảng 2,6 - 2,7 triệu đồng/lượng. Như vậy, sau hơn một năm chênh lệch giá từng lên
tới gần 20%, nay chỉ còn khoảng 7%.
3. Những điểm nhấn triển vọng và giải pháp bình ổn thị trƣờng vàng thời
gian tới
Mức giảm hơn 20% của vàng từ đầu năm tới 6/2013 là chuỗi ngày tồi tệ nhất
kể từ năm 1981.
Ngày 19/6/2013, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã tuyên bố FED
Mỹ sẽ giảm quy mô gói mua trái phiếu trị giá 85 tỷ USD mỗi tháng kể từ cuối năm
nay và sẽ kết thúc chương trình vào năm 2014. Tuyên bố này đưa vàng hướng tới năm
giảm đầu tiên kể từ năm 2000, đồng thời cũng làm hạ giá bạc, thị trường chứng khoán
Mỹ mất điểm, giá dầu lao dốc và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng vọt, trong đó lợi
suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm lên mức cao nhất kể từ tháng 8/2011…
Trong năm 2013, các nhà đầu tư thế giới đều đang giảm nắm giữ vàng. Theo
thống kê của Bloomberg, các quỹ ETF đã bán ròng gần 526 tấn vàng từ đầu năm
2013-tới nay, trong đó riêng quỹ SPDR Gold Trust bán ra xấp xỉ 360 tấn, đưa lượng
nắm giữ xuống dưới 1.000 tấn lần đầu tiên kể từ tháng 2/2009. Các tỷ phú lừng danh
đều giảm nắm giữ cổ phần trong các quỹ đầu tư vàng và các công ty khai mỏ khi họ
nhận thấy đà tăng kéo dài 12 năm của vàng đã đến lúc kết thúc.
Tuy nhiên, nhu cầu mua vào của Trung Quốc trong nửa đầu năm 2013 tăng
khoảng 52% và đã vượt Ấn Độ để trở thành nước tiêu thụ vàng nhiều nhất thế giới
năm 2013.
Ngân hàng UBS của Thụy Sỹ cho rằng, vào cuối tháng 7/2013, giá vàng có thể
chỉ dừng ở mức 1.250 USD/ounce và cuối tháng 9/2013 sẽ là 1.350 USD/ounce, tức
thấp hơn nhiều so với mức lần lượt 1.425 USD/ounce và 1.500 USD mà UBS đưa ra
hồi cuối tháng 4/2013. Theo ông Frank McGhee của Alliance Financial thì giá vàng sẽ
chỉ còn là 1.050 - 1.100 USD/ounce. Còn ông Killian Charles của công ty Industrial
Alliance ở Montreal dự báo vàng sẽ rơi xuống mức 1.000 USD/ounce.
Tuy vây, thực tế phức tạp hơn mọi dự báo và có thể cho tháy điều ngược lại. Giá
vàng thế giới ngày 17/8/2013 lên cao, giá bạc cũng có tuần tăng mạnh nhất 5 năm do
dấu hiệu nhu cầu kim loại quý trên thị trường vật chất toàn cầu phục hồi. Trên sàn
Kitco, lúc 6h40, giá vàng giao ngay đứng tại 1.377,2 USD/oz, cao hơn gần 11 USD so
với đóng cửa phiên trước. Sáng sớm 17/8, giá còn chạm 1.381 USD/oz. Trên sàn
Comex, giá vàng giao tháng 12 tăng 0,7%, chốt phiên tại 1.371 USD/oz. Sau khi kết
thúc phiên, giá tăng tiếp lên 1.379,2 USD/oz, cao nhất kể từ 18/6. Trong tuần này, giá
vàng kỳ hạn tăng tổng cộng 4,5%, tăng mạnh nhất hơn 1 tháng qua. Giá vàng tăng liên
tiếp gần đây sau khi Hội đồng vàng thế giới thông báo nhu cầu vàng vật chất thế giới
tăng vọt trong quý II/2013. Theo đó, lượng tiêu thụ vàng thỏi và vàng xu đạt kỷ lục, tiêu
thụ vàng trang sức tăng mạnh nhất 5 năm.
Giá bạc giao tháng 12 phiên hôm qua cũng tăng 1,7% nâng mức tăng tổng cộng
là tuần là 15% lên 23,372 USD/oz. Như vậy, giá bạc đã có tuần tăng mạnh nhất từ
tháng 9/2008. Lượng tiêu thụ vàng và bạc trên thị trường vật chất tăng do giá thấp thu
86
hút người mua. Giá vàng phục hồi 16% từ mức thấp nhất 34 tháng ghi nhận hồi tháng
6, giá bạc cũng tăng trở lại 24% so với mức thấp nhất năm nay. Doanh số bán bạc xu
American Eagle của Sở đuc tiền Mỹ (US Mint) đạt 31 triệu ounce từ đầu năm đến
nay, trong khi cả năm ngoái doanh số mới chỉ là 33,7 triệu ounce. Lượng bạc các quỹ
ETF nắm giữ lên cao kỷ lục phiên hôm 16/8/2013...
Về tổng thể và trung hạn, giá vàng sẽ tiếp tục có những động thái bất thường,
không loại trừ sự gia tăng và sụt giảm nhanh với những biên độ lớn và giật cục.
Những nguyên nhân cội rễ lớn nhất và trực tiếp của sự biến động này chính là những
toan tính, chính sách và hành động có chủ đích nhằm thao túng thị trường và tạp sức
ép có lợi trong thương mại và thương lượng chính trị quốc tế của một số nước lớn,
các quỹ đầu cơ vàng và cả là hệ quả của cuộc chiến tiền tệ trên thế giới, cũng như sự
thiếu lành manh tài chính-ngân hàng tiềm tàng trong nhiều nước trên thế giới. Đặc
biệt, yếu tố tâm lý và sự nhậy cảm giá vàng tùy thuộc tỷ lệ thuận với độ “đóng cửa”,
thiếu liên thông trực tiếp, nhanh nhậy và thiếu minh bạch thông tin trên thị trường
vàng trong nước. Vì vậy, việc bảo đảm dòng chảy tự nhiên của vàng giữa thị trường
trong nước và quốc tế theo các nguyên tắc thị trường và sự phát triển đầy đủ, vận hành
có hiệu năng thực tế của các thể chế thị trường là hết sức cần thiết; Đồng thời, việc
tăng cường quản lý các hiện tượng buôn lậu, đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt và những
hiện tượng lạm dụng để trục lợi cũng quan trọng không kém trong hoạt động quản lý
nhà nước đối với thị trường vàng...
Về khách quan, có thể nói, trên thực tế, thị trường vàng trong nước hiện không
có sự liên thông với thế giới và có mức giá vàng miếng thường cao hơn so với giá
quốc tế. Khoảng cách chênh lệch sau phiên đấu thầu thứ nhất (28/3) là 3,2 triệu
đồng/lượng so với mức lệch ngày 27/3 là 2,6 triệu đồng. Các phiên tiếp theo tăng dần
lên mức là 4,1 triệu, 4,5 triệu... và có lúc lên tới gần 7 triệu đồng/lượng. Nguyên nhân
gây ra sự chênh lệch cao, kéo dài giữa vàng trong nước và quốc tế là do nguồn cung
cho thị trường chủ yếu là nguồn vàng nhập khẩu và được định giá sàn độc quyền cao
có mục tiêu, trong bối cảnh các NHTM có nhu cầu cao về vàng miếng để đáp ứng
nhiệm vụ tất toán trạng thái vàng trước 30/6 theo yêu cầu của NHNN. Đồng thời, đó
còn do hiện tượng các NHTM và công ty kinh doanh vàng trúng thầu trì hoãn hoặc cố
tình giảm giá vàng chậm hơn cho lượng vàng mình tung ra thị trường so với tốc độ sự
sụt giảm mạnh bất ngờ, liên tục và khó đoán định của vàng thế giới, cũng như e ngại
rủi ro từ nguyên tắc “không liên thông” giữa thị trường trong nước với thế giới mà
NHNN đang cố gắng theo đuổi…Tuy vây, giá vàng miếng trong nước cũng có tính ổn
định hơn, đồng điệu xu hướng, dù với mức giảm nhẹ hơn giá thế giới và hiện đang ở
mức thấp nhất kể từ đầu tháng 7/2011.
Phản ánh nhất định diễn biến trên thị trường thế giới, sáng 21/6, giá vàng
miếng trong nước giảm khoảng 1 triệu đồng/lượng so với cuối chiều 20/6. Đây là lần
thứ hai (sau sự kiện ngày 16/4) trong hơn hai tháng qua, giá vàng miếng trên thị
trường trong nước có biến động mạnh và có dấu hiệu đã đổi chiều, sau khi liên tục
tăng trong 10 năm qua (với mức tăng đột biến lên tới 64,32% trong năm 2009; 30%
năm 2010 và 24,09% trong năm 2011)…
Về hoạt động đấu thầu vàng thời gian tới của NHNN, PTĐ NHNN Lê Minh
Hưng khẳng định: Thị trường còn nhu cầu, còn thiếu cung thì còn tiếp tục tổ chức đấu
thầu vàng để tạo cung, để tránh thiếu cung có thể gây bất ổn thị trường. Về nhu cầu
của thị trường, theo một đánh giá của hàng vàng tư nhân trong nước thì thị trường
mua vào khoảng 2600 lượng/tuần; còn báo cáo vừa công bố của Hội đồng Vàng thế
87
giới (WGC) cho thấy, trong một năm qua ước tính nhu cầu vàng tại Việt Nam đạt 77,4
tấn. Cũng lưu ý rằng, thị trường không có nguồn cung mới kể từ khi ngừng hẳn nhập
khẩu từ năm 2011. Với mức tham khảo trên, con số gần 55 tấn vàng mà Ngân hàng
Nhà nước đã cung ra qua đấu thầu còn chưa đủ, chưa nói nhu cầu vẫn tiếp tục phát
sinh.
Từ tháng 7/2013, sau thời điểm tất toán trạng thái vàng của các NHTM, sẽ có
nhiều chuyển động mới trên thị trường vàng miếng, với 2 khả năng lớn sau:
Thứ nhất, các NHTM bảo đảm thời gian tất toán trạng thái vàng theo đúng kế
hoạch quy định (thực tế các NHTM đã tất toán được hơn 90% dư nợ vàng, và NHNN
cũng sẽ không gia hạn thêm thời hạn tất toán trạng thái vàng của các NHTM). Khi đó,
giá vàng miếng trong nước sẽ biến đổi mạnh theo hướng thu hẹp khoảng cách và bám
sát giá vàng thế giới, cũng như rút ngắn khoảng cách giữa hai đầu giá mua và bán, với
3 lý do chính: (1).Nhu cầu vàng miếng trên thị trường trong nước sẽ giảm thiểu;
(2).NHNN vì lời hứa của minh và theo yêu cầu của Quốc hội, sẽ đặt giá sàn các phiên
đầu giá trong thời gian từ đầu tháng 7/2013 thấp và sát với giá thế giới hơn, chứ
không chỉ dựa vào giá giao dịch thực tế bán lẻ vàng miếng trong nước; (3).Vàng thế
giới sẽ có sự giảm giá mạnh và liên tục cho tới năm 2014-2015 theo nhiều dự báo của
các tổ chức và chuyên gia vàng trên thế giới, thậm chí sẽ chỉ còn khoảng 1100-1200
USD/oz so với mức trên dưới khoảng 1300 USD/oz hiện nay.
Thứ hai, một số NHTM không kịp về đích theo yêu cầu tất toán trạng thái
vàng miếng của NHNN. Khi đó, giá vàng miếng trong nước sẽ tiếp tục quán tính kéo
dài sự giãn cách cao như hiện nay cho tới khi nào NHTM cuối cùng trả nợ xong nghĩa
vụ và trách nhiệm về vàng của mình. Tuy nhiên, khi đó, dù có thể giãn cách 2 đầu
mua-bán vàng miếng của các đơn vị được phép kinh doanh vàng miếng trong nước
vẫn còn cao, nhưng giãn cách giá vàng trong nước với thế giới sẽ có sự thu hẹp đáng
kể (có thể còn từ 10-5% theo dự báo của HSBC trong vòng từ 2-3 tháng tới; và lý
tưởng nhất đối với người dân là chỉ còn chênh lệch tối đa 400.000 đ/lượng như lời hứa
còn nợ đọng của Thống đốc NHNN hồi tháng 10/2011) do tổng cầu vàng miếng từ
khối các NHTM trên thị trường vàng trong nước sẽ có sự giảm mạnh đáng kể từ tháng
7/2013 (trong giả định cần và đã được cung ứng thêm 4-6 tấn vàng miếng SJC để bảo
đảm tất toán nốt trạng thái vàng theo quy định vào 30/6). Đồng thời, nhu cầu vàng
trang sức và vàng miếng thương hiệu phi SJC có thể không giảm nhiều, nhất là khi
kinh tế trong nước có sự khởi sắc đậm hơn vào nửa cuối năm 2013 và giá cả thế giới
tiếp tục đà rơi tự do như dự báo...Thực tế cho thấy, thị trường vàng Việt Nam vẫn
thiếu cung kéo dài như lời Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình trong lần trao đổi với
báo chí gần đây, vàng trong dự trữ ngoai hối quốc gia và vàng nhập khẩu về hơn 20
triệu lượng vàng miếng SJC đã được đưa ra thị trường, nhưng phần lớn không trở lại
giao dịch, dù chắc chắn không chảy ra bên ngoài vì giá trong nước những năm gần
đây luôn cao hơn giá thế giới. Điều này cho thấy, vàng đã, đang và vẫn sẽ được coi là
một công cụ tích trữ và hình thức tài sản, thậm chí, một công cụ để rửa tiền được ưa
chuộng ở Việt Nam…
Gần đây, việc tất toán trạng thái vàng của các NHTM cơ bản đã xong (theo
đánh giá sơ bộ của NHNN, đến 28/6 đã có trên 98% hợp đồng huy động vàng đã
đƣợc tất toán, hay nói cách khác số dư huy động vàng chỉ còn 2%, các đơn vị này
chủ yếu đều ở Thành phố Hồ Chí Minh), NHNN giảm số vàng được phép mua tối đa
để đảm bảo khả năng tham gia của các NH và doanh nghiệp, hạn chế vàng đấu thầu
chảy vào túi các NH lớn gây đầu cơ, lũng đoạn giá bán lẻ. Số lượng vàng tối đa mà
88
mỗi đơn vị được phép mua qua mỗi phiên đấu thầu, từ mức 15.000 lƣợng/phiên,
giảm xuống mức 5.000 lƣợng và hiện nay còn 3.000 lƣợng. Hiện các NH được duy
trì số vàng dương 2%. Tính tổng vốn của 22 NH được phép kinh doanh vàng, các NH
có thể duy trì số dư vàng tương đương 70.000 lượng. Con số này không cao nhưng
trong một thời gian, nếu các NH dồn dập tung hàng ra thì có khả năng chỉnh giá thị
trường theo ý đồ của mình. Với tình trạng độc quyền cung và độc quyền phân phối
như hiện nay, người dân thường có tâm lý thủ, người có vàng cũng không dám bán vì
sợ không mua lại được. Tất cả các phiên đấu thầu, NHNN chỉ bán ra chứ không mua
vào được, từ đó làm cho túi vàng trong dân ngày càng phình lên. Vấn đề gốc rễ không
giải quyết được mà làm cho tình trạng vàng hóa ngày càng trầm trọng thêm. Tình
trạng giá vàng bị đẩy lên vào những ngày NHNN không thực hiện đấu thầu là do đầu
cơ và thiếu nguồn cung…
Trong thời gian tới, để bình ổn thị trường vàng trong nước, đặc biệt là quản lý
thị trường vàng miếng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của NHNN theo quy định
của Luật NHNN, theo đúng tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP và Nghị định 86 về
quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước, Quyết định 16 của Thủ tướng Chính phủ về mua
bán vàng miếng của NHNN trên thị trường trong nước và các văn bản hướng dẫn thi
hành hai nghị định nêu trên, cần có sự thống nhất nhận thức và đồng bộ, nhất quán
trong định hướng mục tiêu và sử dụng các công cụ quản lý thị trường này. Theo đó,
NHNN thực hiện chức năng quản lý và hoạch định chính sách và từng bước chủ động
vai trò là người kiến tạo và mua bán cuối cùng trên thị trường; bảo đảm quyền lợi hợp
pháp và hài hòa của các chủ thể tham gia thị trường vàng miếng theo quy định; có
những giải pháp thích hợp để huy động được nguồn vàng trong dân cư phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Các hoạt động đấu thầu vàng miếng sẽ được tiếp tục với sự tuân
thủ các nguyên tắc thị trường ngày càng đầy đủ hơn và sự tham gia rộng rãi, tự do hơn
của các đối tượng và chủ thể thị trường. Các yêu cầu về phương thức thanh toán và
cung ứng vàng trúng thầu cũng cần được nâng cao hơn để bảo đảm an ninh ngoại hối
và quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường này. Đặc biệt, cần khẳng định mục
tiêu cao nhất của quản lý nhà nước đối với thị trường vàng miếng là góp phần ổn định
và dễ dự đoán các động thái thị trường vàng trong nước theo sát các động thái giá và
xu hướng thị trường vàng thế giới; theo yêu cầu của Quốc hội, cần gia tăng sự liên
thông thị trường của vàng trong nước với vàng quốc tế, từng bước thu hẹp sự cách
biệt giá trong nước và quốc tế; giải tỏa sức ép các yếu tố tâm lý về sự khan hiếm vàng
giả tạo, cũng như các hoạt động đầu cơ, buôn lậu, găm giữ vàng và kỳ vọng tăng giá
một chiều trong tương lai; giảm dần giao dịch vàng miếng để chuyển sang giao dịch
tập trung, có tổ chức các sản phẩm khác của vàng với hệ thống các công cụ bảo hiểm
rủi ro; ngày càng hội nhập và tiếp cận được những sản phẩm tài chính quốc tế; ưu tiên
lợi ích ổn định vĩ mô và cân đối, bảo đảm an toàn dự trữ ngoại hối; ngăn chặn các hiện
tuợng liên kết làm giá, giữ giá, đẩy giá trong và sau đấu thầu vàng miếng; giám sát
việc sử dụng vàng và giá bán lẻ đối với lượng vàng trúng thầu; giảm thiểu việc các tổ
chức tín dụng cho vay để kinh doanh vàng; nâng cao hơn các yêu cầu minh bạch hóa
và phòng chống rửa tiền trong kinh doanh vàng...
Hơn nữa, cần tránh ngộ nhận và đồng nhất việc độc quyền nhập khẩu và dập
vàng thương hiệu quốc gia giống như độc quyền sản xuất tiền của Chính phủ, càng
không thể quản lý vàng theo thương hiệu quốc gia như một dạng tiền tệ chính thức
quốc gia. Nói cách khác, không thể dùng quyền độc quyền vàng như một loại máy in
tiền; không thể biến việc chống “vàng hóa” thành việc “tiền tệ hóa” vàng, nếu không
89
muốn biến một quốc gia từ chỉ có một đồng bản tệ duy nhất thành có 2 đồng tiền
cùng lưu hành chính thức và độc quyền như nhau.
Chủ trương thực hiện quản lý vàng theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP để chống
“vàng hóa” (nhất là coi vàng như công cụ thanh toán) là đúng và cần thiết, bảo đảm
hiệu qủa của chính sách tiền tệ quốc gia có mục tiêu; song không vì thế mà ngộ nhận
hoặc làm dụng trong quản lý và kinh doanh vàng miếng, biến vàng miếng thành “đồng
tiền quốc gia thứ hai”, điều tự mâu thuẫn với yêu cầu chỉ được phép lưu hàng một đồng
tiền duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam, như mục tiêu đặt ra ban đầu của quản lý nhà
nước và phù hợp với thông lệ trên thế giới..
Đồng thời, cần thực hiện quản lý vàng thương hiệu quốc gia trên cơ sở pháp lý
đầy đủ, minh bạch, với giá được tính theo hàm lượng vàng, được chuẩn hóa và bảo
đảm bởi yêu cầu mang tính pháp định cao.
Hiện tượng cùng một miếng vàng có trọng lượng và hàm lượng giống hệt nhau,
những nếu chúng được dập thành thương hiệu quốc gia thì giá sẽ cao hơn hẳn loại dập
dưới thương hiệu khác chính là điển hình của việc ngộ nhận vàng thương hiệu quốc
gia là tiền quốc gia, khiến làm tăng giá trị ảo của vàng miếng mang thương hiệu quốc
gia, với tất cả những hệ lụy nặng nề và gây thiệt hại cho người dân và những ai muốn
sở hữu vàng.
Sự bám sát giá vàng trong nước và thế giới là nguyên tắc của giá cả thị trường
trong bối cảnh toàn cầu hóa; cũng như là điều kiện để giảm thiểu tình trạng đầu cơ, sốt
giá và rủi ro kinh doanh vàng.
Được biết, với lý do bảo mật thông tin về vàng nhập khẩu, NHNN đang kiến
nghị Thủ tướng Chính phủ bổ sung mặt hàng vàng nhập khẩu của NHNN vào danh
mục hàng hóa đặc biệt được áp dụng quy chế miễn khai báo, miễn kiểm tra và miễn
báo cáo thủ tục hải quan (cùng danh mục hàng hóa phục vụ an ninh, quốc phòng như
tiền, vật tư, máy móc, thiết bị phục vụ in, đúc tiền của NHNN đã được Thủ tướng
chấp thuận không phải thực hiện thủ tục khai báo hải quan) vào Luật Hải quan sửa
đổi. Đồng thời, đề nghị các Bộ Công an, Giao thông vận tải, Tài chính và Tổng cục
Hải quan, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam phối hợp với NHNN thực hiện tổ
chức tiếp nhận, bốc dỡ, vận chuyển và bảo vệ các chuyến hàng đảm bảo an toàn, bí
mật. Thủ tướng đã giao các bộ Tài chính, Giao thông vận tải, Công an xem xét, xử lí
đề xuất này. Trường hợp vượt thẩm quyền các bộ báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết
định. Trước đó, vào đầu tháng 5/2013, Bộ Tài chính đã công bố Dự thảo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với vàng
nguyên liệu xuất khẩu, nhập khẩu của NHNN trực tiếp hoặc uỷ thác xuất khẩu, nhập
khẩu.Theo đó, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng ban hành quyết định miễn thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu đối với vàng nguyên liệu xuất khẩu, nhập khẩu của NHNN, mà
không phân biệt hàm lượng vàng của vàng nguyên liệu khi xuất khẩu, nhập khẩu….
Có thể thấy, những đề nghị và điều chỉnh trên, bên cạnh những tác động tích
cực là tạo thuận lợi và an toàn cho quản lý vàng theo yêu cầu nghiệp vụ và theo tinh
thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP, song cũng cần có sự cân nhắc kỹ và nhất là cần chủ
động xây dựng và thực hiện tốt các cơ chế kiểm soát, giám sát và giải pháp phòng
ngừa các tác động mặt trái, nhất là hiện tượng lạm dụng, buôn lậu vì mục đích trục lợi
cá nhân hay lợi ích nhóm, vi phạm pháp luật, làm tổn hại lợi ích và an ninh quốc gia…
90
Đặc biệt, cần tránh những bất cập do ngộ nhận hoặc lạm dụng sau đây về
quản lý vàng trong nƣớc:
Thứ nhất, độc quyền sản xuất vàng khác độc quyền sản xuất tiền.
Theo Điều 16 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012, Ngân hàng Nhà
nước có trách nhiệm xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế
hoạch về phát triển thị trường vàng và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm
pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này; bổ sung
vàng miếng vào Dự trữ ngoại hối Nhà nước; thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường vàng
thông qua các biện pháp: (a) Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu theo quy định tại
Khoản 1 Điều 14 Nghị định này; (b) Tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng thông qua
việc quyết định hạn mức, thời điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản xuất vàng
miếng phù hợp trong từng thời kỳ. Chi phí tổ chức sản xuất vàng miếng được hạch toán
vào chi phí hoạt động của Ngân hàng Nhà nước; (c) Thực hiện mua, bán vàng miếng trên
thị trường trong nước và tổ chức huy động vàng theo quy định của Thủ tướng Chính
phủ…
Về cả bản chất và tính chất, cũng như cơ sở pháp lý quốc gia và quốc tế hiện
nay, thì vàng đủ hàm lượng 99,99% dù của bất kỳ ai và dưới dạng hình thức nào cũng
cần được đối xử bình đẳng và cũng như nhau về giá trị; tức không thể dùng ý chí chủ
quan tạo sự chệnh biệt giá cả lớn giữa vàng có “thương hiệu quốc gia” với vàng khác
cùng hàm lượng % vàng như nhau. Nếu coi vàng được gắn „thương hiệu quốc gia” là
vàng có giá trị chênh biệt cao hơn hẳn các vàng khác, thì vô tình hay cố ý đã biến
vàng thành tiền quốc gia, tương tư như việc Chính phủ thông qua máy in tiền đã biến
tờ giấy in bình thường thành đồng tiền giấy quốc gia, dù với những công nghệ chống
làm giả ngày càng tinh vi hơn mà thôi.
Nói cách khác, chủ trương thực hiện quản lý vàng theo Nghị định
24?2012/NĐ-CP để chống “vàng hóa” (nhất là coi vàng như công cụ thanh toán) là
đúng và cần thiết, bảo đảm hiệu qủa của chính sách tiền tệ quốc gia có mục tiêu; song
không vì thế mà ngộ nhận hoặc làm dụng trong quản lý và kinh doanh vàng miếng,
biến vàng miếng thành “đồng tiền quốc gia thứ hai”, điều tự mâu thuẫn với yêu cầu
chỉ được phép lưu hàng một đồng tiền duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam, như mục
tiêu đặt ra ban đầu của quản lý nhà nước và phù hợp với thông lệ trên thế giới..
Thứ hai, thương hiệu vàng quốc gia cần theo quy chuẩn hóa quốc gia.
Thực tế đáng ngạc nhiên là xã hội bùng nổ làn sóng săn lùng vàng SJC như
thương hiệu vàng quốc gia sau tuyên bố của Thống đốc NHNN, nhưng dường như cho
đến nay người dân vẫn khó tìm thấy một văn bản pháp lý nào trong đó quy định quy
chuẩn chi tiết hình thức mẫu mã, trọng lượng, chất lượng, cơ cấu sản phẩm vàng
miếng, cùng các quy chế giao dịch và bảo đảm chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung
ứng vàng miếng, xử lý các tranh chấp có liên quan đến loại vàng miếng mới lên ngôi
này; đặc biệt, càng hiếm có những quy định bảo vệ quyền lợi thỏa đáng của người dân
sở hữu các loại vàng miếng khác nhau.
Nói cách khác, sẽ là tùy tiện và áp đặt nếu thực hiện quản lý vàng thương hiệu
quốc gia mà không có đủ cơ sở pháp lý minh bạch về vị thế của nó.
Tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ là bảo đảm
Nhà nước độc quyền kinh doanh vàng miếng và quản lý tập trung thị trường vàng,
chống lại các hoạt động đầu cơ và gây rối loạn thị trường vàng nói riêng, cũng như thị
91
trường tài chính-tiền tệ và sự ổn định kinh tế vĩ mô quốc gia nói chung. Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là Nhà nước cho phép duy ý chí trong đưa ra các công cụ pháp lý
và hành chính quản lý vàng, chống lại các quy luật kinh tế thị trường và yêu cầu kinh
doanh vàng theo sát với động thái thị trường quốc tế; không cho phép sự vô tình hay cố
ý tạo ra các nhóm lợi ích cơ hội hay bắt ai đó phải trả giá cho những rủi ro chính sách
mà họ phải gánh chịu. Bởi vậy, sẽ là ngộ nhận lớn về mục tiêu và tinh thần xuyên suốt
của Nghị định này, cũng như sớm muộn sẽ gây hệ quả nhiều mặt cho đất nước nếu
đóng cửa thị trường vàng trong nước với thị trường vàng quốc tế, kiểu “mũ ni che tai”,
thiếu hài hòa các lợi ích, dù được biện minh bằng những lợi ích nào đó về cán cân
thương mại và thanh toán.
Thứ ba, chênh lệch giá vàng miếng không phải do chất lượng vàng.
Vì ngộ nhận quản lý độc quyền vàng như quản lý độc quyền tiền, nên giá vàng
không còn được tính theo hàm lượng vàng, mà lại được tính theo thương hiệu. Cùng
một miếng vàng có trọng lượng và hàm lượng giống hệt nhau, những nếu chúng được
dập thành thương hiệu SJC thì giá sẽ cao hơn hẳn loại dập dưới thương hiệu khác.
Chính đây là điển hình của việc ngộ nhận vàng thương hiệu quốc gia là tiền quốc gia,
khiến làm tăng giá trị ảo của vàng miếng mang thương hiệu quốc gia với tất cả những
hệ lụy nặng nề và gây thiệt hại cho người dân và những ai muốn sở hữu vàng.
Hơn nữa, chênh lệch giá vàng miếng trong nước với giá thế giới cao và kéo dài
đang đặt ra nhiều bức xúc trong xã hội, nhất là về lợi ích thực sự của nó; thì dư luận
càng khó hiểu hơn khi điều này đang được NHNN giải thích bởi liên thông thị trường,
mà không liên thông giá vàng; và NHNN chỉ thực hiện bình ổn thị trường, mà không
bình ổn giá vàng. Câu hỏi đặt ra là cần hiểu như thế nào về sự liên thông thị trường,
hay chỉ nên hiểu sự liên thông này chỉ đơn giản là việc NHNN có nhập khẩu vàng độc
quyền về để bán lại cho nhu cầu trong nước; và cần hiểu ra sao về bình ổn thị trưởng,
hay chỉ nên hiểu đơn giản bình ồn thị trường là lúc nào cũng có vàng bán ra thị
trường, dù với giá độc quyền cao của người kinh doanh vàng cao nhất là NHNN.
Sự bám sát giá vàng trong nước và thế giới là nguyên tắc của giá cả thị trường
trong bối cảnh toàn cầu hóa; cũng như là điều kiện để giảm thiểu tình trạng đầu cơ, sốt
giá và rủi ro kinh doanh vàng. Ngược lại, các ngân hàng thương mại và đơn vị kinh
doanh vàng miếng phải chịu rủi ro chính sách lớn khi đối diện với thực tế: Trước đó,
họ được cho phép huy động và kinh doanh vàng miếng trong bối cảnh bảo đảm liên
thông và bám sát giá vàng thế giới; rồi đột ngột họ bị rút lại quyền đó và phải tất toán
trạng thái vàng trong thời hạn đã định, nhất là trong tình huống mới NHNN đã độc
quyền nhấp khẩu vàng và thực hiện bán đấu vàng miếng giá với giá sàn luôn cao hơn
nhiều giá trung bình thế giới…
Lời hứa về triển vọng giá vàng trong nước sẽ bám sát giá vàng thế giới từ sau
tháng Sáu năm 2013 khi đã tất toán trạng thái vàng của các NHTM sẽ còn là một ẩn
số, vì chưa có cơ chế pháp lý cụ thể nào bảo đảm điều này trên thực tế.
Hơn nữa, cần tránh ngộ nhận và suy luận logich hình thức rằng, việc độc quyền
vàng và để giãn cách giá vàng trong nước với nước ngoài cao là công cụ hữu hiệu để
chống buôn lậu (nhớ rằng buôn lậu vàng dễ hơn nhiều các loại hàng hóa cồng kềnh và
dễ bị phát hiện khác), chống dòng chẩy ngoại tệ nhập vàng và do đó, giúp bảo đảm tỷ
giá ổn định...
92
Về tổng thể và nguyên tắc, Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của
Chính phủ khẳng định quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công
nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật. NHNN là cơ quan thay mặt Chính phủ
thống nhất quản lý các hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này. Vì
vậy, việc thực hiện quản lý kinh doanh vàng theo Nghị định này cũng đòi hỏi, một
mặt, tiêu chuẩn hóa các cơ sở và điều kiện kinh doanh vàng miếng, giảm bớt những
sức ép “đội” giá vàng trong nước do qua quá nhiều các “cầu trung gian” hay những
hoạt động đầu cơ; đồng thời, mặt khác, đề cao chất lượng dịch vụ của các đơn vị được
phép kinh doanh vàng miếng, bảo đảm sự tiếp cận thuận lợi và quyền lợi của người
mua và sở hữu vàng. Đồng thời, Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu
vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng và quản lý
hoạt động kinh doanh vàng nhằm phát triển ổn định và bền vững thị trường vàng, bảo
đảm hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ cho thị trường
trong nước và xuất khẩu theo quy định của pháp luật.
Điều đặc biệt cần nhấn mạnh là Nghị định này khẳng định rõ yêu cầu Nhà nước
độc quyền kinh doanh vàng miếng vì lợi ích chung (tăng cường ổn định vĩ mô và
nguồn thu NSNN) của quốc gia, chứ không xóa bỏ quyền sở hữu và giao dịch vàng
miếng của người dân, cũng như không biến quyền kinh doanh vàng miếng thành độc
quyền và mang lại khối lợi nhuận khổng lồ béo bở cho bất kỳ doanh nghiệp hay một
thương hiệu vàng nào. Với tinh thần đó, mọi biểu hiện không bảo đảm chất lượng dịch
vụ và sản phẩm vàng miếng cung cấp cho thị trường, gây ách tắc và méo mó cung-
cầu, giá cả thị trường vàng trong nước phải được nhận diện đầy đủ và sâu sắc các
nguyên nhân, cũng như quy rõ trách nhiệm cá nhân và tổ chức để xử lý kịp thời,
nghiêm khắc, nhất là bảo đảm những nguồn lợi từ chênh lệch giá vàng trong nước với
giá vàng thế giới kéo dài trong thời gian qua phải được tính toán chính xác và quy tụ
thành nguồn thu bổ sung cho NSNN chung theo quy định của pháp luật.
Từ thực tế thị trường vàng miếng thời gian qua và những nhận thức trên, đòi
hỏi trong thời gian tới cần tiếp tục tăng cường hoàn thiện quản lý nhà nước đối hoạt
động kinh doanh vàng miếng theo đúng tình thần Nghị định 24/2012-NĐ-CP. Các can
thiệp hành chính nhà nước cần bảo đảm sự đông bộ và hài hoà, phục vụ tốt mục tiêu
góp phần ổn định nhanh chóng các động thái thị trường, nhất là giải tỏa các yếu tố tâm
lý; gia tăng sự liên thông thị trường của vàng trong nước với vàng quốc tế, giảm
thiểu sự cách biệt giá trong nước và quốc tế, cũng như sự khan hiếm vàng giả tạo, các
hoạt động đầu cơ, buôn lậu, tâm lý găm giữ vàng và kỳ vọng tăng giá trong tương
lai…Tiếp tục tổ chức, sắp xếp chặt chẽ thị trường vàng theo hướng giảm dần giao
dịch vàng miếng để chuyển sang giao dịch tập trung, có tổ chức các sản phẩm khác
của vàng với hệ thống các công cụ bảo hiểm rủi ro; ngày càng hội nhập và tiếp cận
được những sản phẩm tài quốc tế. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
và hoạch định chính sách và từng bước chủ động vai trò là người kiến tạo và mua bán
cuối cùng trên thị trường; Đồng thời, tạo ra môi trường kinh thuận lợi để các doanh
nghiệp tham gia thị trường vàng trang sức mỹ nghệ, kể cả đầu tư nước ngoài; vừa bảo
đảm quyền lợi của người dân, các DN và ngân hàng khi thực hiện giao dịch vàng
miếng; vừa đảm bảo nguồn thu vào NSNN lợi nhuận từ kinh doanh vàng miếng theo
quy định, có những giải pháp thích hợp để huy động được nguồn vàng trong dân cư
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội... Điều cần nhấn mạnh rằng, để đạt được mục tiêu
đảm bảo hài hoà các lợi ích, trong đó ưu tiên lợi ích ổn định vĩ mô và cân đối dự trữ
ngoại hối, các mức giá mua-bán vàng miếng cần được NHNN cân nhắc hợp lý; đồng
93
thời, cần có biện pháp ngăn chặn các hiện tuợng liên kết làm giá, giữ giá, đẩy giá
trong và sau đấu thầu vàng miếng; nhất là giám sát việc sử dụng vàng, cơ chế giá bán
lẻ đối với lượng vàng trúng thầu; áp giới hạn trạng thái vàng thấp hợp lý; cấm các tổ
chức tín dụng cho vay để mua vàng, ngoại trừ trường hợp được Thống đốc xét duyệt;
đồng thời triển khai quyết liệt Luật phòng chống rửa tiền. Ngoài ra, để giảm thiểu rủi
ro cho doanh nghiệp tham gia đấu thầu vàng, NHNN cũng cần thực hiện tốt các cam
kết nghĩa vụ cung ứng vàng trúng thầu theo đúng khối lượng, chất lượng, giá và thời
gian đã “chốt” với doanh nghiệp theo quy định đấu thầu...
Đặc biệt, cần có điều chỉnh quy định về số lượng điểm và thời gian giao dịch
vàng và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp lẻ vàng miếng để tránh gây phiền, thiệt
thòi cho người dân. Ví dụ, buộc các ngân hàng có giao dịch mua-bán vàng thực sự,
chứ không chỉ giữ chỗ hay chỉ chấp nhận mua vàng có bao bì mới, loại 1 lượng trở
lên…
Ngày 22/4, Thanh tra Chính phủ đã công bố quyết định Thanh tra Chính phủ sẽ
tiến hành thanh tra trách nhiệm việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NHNN đối với
hoạt động kinh doanh vàng, huy động và cho vay vốn bằng vàng. Khoảng thời gian thanh
tra sẽ tính từ tháng 1/2009 đến hết tháng 3/2013. Tuy nhiên, khi cần thiết, có thể thanh tra
trước hoặc sau thời kỳ nêu trên. Thời hạn thanh tra là 60 ngày kể từ ngày công bố quyết
định thanh tra (22/4)…Hy vọng, qua thanh tra sẽ góp phần hoàn thiện quản lý thị trường
vàng miếng Việt Nam hơn nữa…
Một số câu hỏi còn bỏ ngỏ về quản lý vàng trong nƣớc:
1. Theo NHNN, sau khi được Thủ tướng cho phép, NHNN đã tổ chức tạm xuất
vàng phi SJC, tái nhập vàng nguyên liệu tiêu chuẩn quốc tế để đẩy nhanh tiến độ
chuyển đổi vàng phi SJC thành vàng SJC nhằm đáp ứng nhu cầu chỉ trả vàng SJC cho
người dân của TCTD (đến 30/6 các TCTD sẽ phải tất toán xong tài khoản vàng với
khách hàng). Tổng cộng, sẽ có 10 tấn vàng miếng phi SJC được tạm xuất, tái nhập,
trong đó có 1,6 tấn vàng được cấp phép chuyển đổi cho DongA Bank và
Techcombank. Toàn bộ việc tạm xuất tái nhập vàng được thực hiện xong trước 10/3.
Số lượng vàng tạm xuất, tái nhập này là vàng miếng phi SJC của các TCTD đang giữ
của người dân. NHNN đã thực hiện kiểm tra tồn quỹ thực tế số vàng này 2 lần trước
khi trình Chính phủ cho phép thực hiện. Phương án này giúp đẩy nhanh tiến độ kiểm
định, gia công vàng miếng phi SJC thành vàng miếng SJC, khắc phục được "điểm
nghẽn" về tiến độ kiểm định của công ty SJC (nếu không thực hiện phương án tạm
xuất, tái nhập nêu trên, công ty SJC cần khoảng 6 tháng để hoàn thành việc kiểm
định, gia công vàng miếng phi SJC có nhu cầu chuyển đổi); đồng thời, không làm
phát sinh nhu cầu ngoại tệ để nhập vàng, do vậy không tạo áp lực lên thị trường
ngoại tệ, không hây ra biến động về tỷ giá.
Câu hỏi đặt ra là sao không đê trong nước luyện vàng để có việc làm, thu nhập
và đỡ tốn chi phí xuất-nhập; liệu có phải là động tác hợp lý hóa vàng nhập lậu hay để
buôn vàng/ vàng có thực xuất hay chỉ để ở kho ngoại quan rồi lại tái nhập, hợp lý hóa
vì vàng gửi của dân, sao NHNN cho phép xuất đi, lúc trả dân thì bằng vàng nào, ai chịu
thiệt hoặc chi phí cơ hội…?Hơn nữa, sao NHNN lại có đề nghị không kiểm tra vàng
nhập khẩu vào đúng thời điểm tạm xuất tái nhập này?
94
2. Lợi ích từ đấu thầu do chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước hàng trăm
tỷ đ/phiên thực sự được phân bổ như thế nào, có lợi ích nhóm hay tham nhũng
không?Và những rủi ro chính sách gắn với cho phép rồi đột ngột cấm kinh doanh tín
dụng bằng vàng trong bối cảnh độc quyền nhập khẩu và đấu giá vàng của các NHTM
thì ai chịu trách nhiệm?
3. Chi phí do vàng vênh, cong và rách nilon bọc ngoài phải đổi mới sao bị tính
cao và phiền nhiễu cho khách hàng như vậy, sẽ xử lý ra sao? Tiêu chuẩn hóa các tiêu
chí cụ thể về hình thưc, mẫu mã và chất lượng, cũng như dịch vụ đánh giá chất lượng
vàng Thương hiệu quốc gia sẽ như thế nào? Liệu vàng nhẫn đủ hàm lượng và chất
lượng như SJC có được coi và giao dịch như là vàng thương hiệu quốc gia không?
4. Sàn vàng giao dịch phi vật chất sẽ được tổ chức như thế nào? Mới đây, hình
thức mua bán vàng trực tuyến thông qua dịch vụ ngân hàng điện tử đã lần đầu tiên
được áp dụng tại Việt Nam từ tháng 7/2013. Dịch vụ này được quảng cáo là một hình
thức giao dịch hiện đại, tuy nhiên lại làm nảy sinh nghi vấn liệu kinh vàng tài khoản,
sàn vàng ảo… tái xuất.
5. Thời gian tới xử lý vấn đề bán vàng đấu thầu sẽ thu ngoại tệ hay vẫn thu nội
tệ? Nếu thu nội tệ thì dự trữ ngoại hối sẽ được cân đối ra sao để bù số ngoại tệ phải
xuất kho mua vàng nhập về bán trong nước?
6. Bao giờ giá vàng trong nước sát với giá thế giới và mức tối đa là bao nhiêu,
bao giờ lời hưa cảu Thống đốc NHNN về giãn cách tối đa 400.000 đ /lượng sẽ thành
hiện thực?bởi:
- Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ tư, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) được giao nhiệm vụ khắc phục những bất cập trong quản lý, ổn định thị
trường vàng, bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế, bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp về tài sản của người dân.
- Nghị quyết 01 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm
2013 cũng yêu cầu NHNN bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của người dân.
7. Bao giờ và bằng cách nào để thu hút lượng vàng trong dân như một nguồn
vốn rẻ và có lợi cho tất cả cás bên, từ NN, NH và DN, cũng như người dân có vàng….
Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 có chủ đề: “Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu”
của Ủy ban Kinh tế Quốc hội nhận định, việc xây dựng một thị trường vàng hiện đại
là nhu cầu cần thiết ở Việt Nam, nhằm huy động số vàng lên tới 300 - 500 tấn trong
dân để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế và tránh để các hoạt động trên thị trường
vàng ảnh hưởng đến tỷ giá. Báo cáo cho rằng, mấu chốt của vấn đề thị trường vàng
Việt Nam nằm ở việc tách hoạt động kinh doanh vàng vật chất ra khỏi khỏi hoạt động
đầu cơ giá vàng.
8. Tại sao vừa qua tình trạng nhập lậu vàng ít xẩy ra, dù chênh lệch giá vàng
trong và ngoài nước rất lớn và biên giới lại dài. Công an tỉnh Quảng Ninh cho biết
ngày 24/4 đã bắt 10kg vàng 9999 nghi nhập lậu từ Trung Quốc về tại Trạm kiểm soát
liên hợp km 15 (Móng Cái, Quảng Ninh) khi đang được vận chuyển theo hướng Móng
Cái - Hạ Long mà không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc. Tại thời điểm bị kiểm tra,
chủ hàng khai nhận, số vàng này là của gia đình và đang trên đường đem đi trả nợ.
Tuy nhiên, qua kiểm tra, số vàng trên có xuất xứ từ Trung Quốc. Được biết, chênh
95
lệnh giá giữa vàng 9999 trong nước và bên Trung Quốc là khoảng 5-6 triệu
đồng/lượng. Khoảng cách chênh lệch cao như vậy chính là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng nhập lậu vàng trên thị trường.
9. Làm gì để ngăn chặn tình trạng các NHTM lạm dụng quyền được đấu thầu
vàng miếng trở thành người trung gian đầu cơ vàng, đầu nậu hay ông chủ bán giấy
phép 30-40trđ/tháng của các cửa hàng vàng nhỏ-đại lý không đủ điều kiện tham gia
đấu thầu…?
Luật Doanh nghiệp quy định về những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện do
Chính phủ công bố. Ví dụ, kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định 6 tỷ đồng,
dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: 5 tỷ đồng... Nghị định 24 quy
định hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều
kiện, có cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Việc không cấp giấy phép cho
các doanh nghiệp, cửa hàng nhỏ lẻ không đủ điều kiện kinh doanh vàng miếng dù
không trái với Luật Doanh nghiệp, nhưng bản thân các doanh nghiệp, cửa hàng này
vẫn được chuyên hoạt động sản xuất, gia công, kinh doanh mua bán vàng trang sức,
mỹ nghệ (nếu đủ điều kiện)... Theo Nghị định 24/2012, DN muốn kinh doanh vàng
miếng, phải đáp ứng điều kiện: có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên; có kinh nghiệm
hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua bán vàng từ 2 năm trở lên; có số thuế đã
nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở lên trong 2 năm liên
tiếp gần nhất; có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trở lên… Với điều kiện này, chỉ có những DN kinh
doanh vàng có quy mô lớn và các ngân hàng mới được phép mua - bán vàng miếng.
Nghị định 24 cũng đã nêu rõ các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được cấp
phép kinh doanh mua bán vàng miếng không đuợc thực hiện kinh doanh mua bán qua
các đại lý. Doanh nghiệp nào mở đại lý giao dịch là trái với các quy định của pháp
luật.
10. Chống vàng hóa không bằng cách tiền tệ hóa vàng . Xử lý các vàng phi
SJC như thế nào để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân?
Trong thời gian trước mắt, loại vàng miếng giao dịch mua bán với Ngân hàng
Nhà nước là vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất (vàng miếng SJC).
Tuy nhiên, tùy điều kiện thực tế, trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước có
thể xem xét mua bán các loại vàng miếng khác do Ngân hàng Nhà nước đã cho phép
sản xuất trong các thời kỳ.
Đây có thể là lối thoát cho các loại vàng miếng phi SJC được phép gia công
suốt một thời gian dài trước khi SJC trở thành thương hiệu vàng miếng quốc gia.
Được biết, loại vàng miếng giao dịch cụ thể sẽ được thông báo cho các TCTD, doanh
nghiệp trong thông báo mua, bán vàng miếng hoặc thông báo đấu thầu mua, bán vàng
miếng của Ngân hàng Nhà nước. Quy trình mua bán cụ thể cũng được Ngân hàng
Nhà nước ấn định, theo đó cơ quan này có thể thực hiện qua hình thức gồm mua, bán
trực tiếp và mua, bán qua đấu thầu theo giá hoặc đấu thầu theo khối lượng. Thời hạn
thanh toán và giao vàng cũng được Ngân hàng Nhà nước quy định rất rõ. Cụ thể, với
trường hợp Ngân hàng Nhà nước bán vàng, thời hạn thanh toán tiền mua vàng chậm
nhất là ngày làm việc tiếp theo ngày ký xác nhận giao dịch (T+1), thời hạn giao vàng
là ngày làm việc tiếp theo ngày thanh toán đầy đủ tiền mua vàng. Đối với trường hợp
Ngân hàng Nhà nước mua vàng, thời hạn giao vàng chậm nhất là ngày làm việc tiếp
theo ngày ký xác nhận giao dịch (T+1) và thời hạn thanh toán là ngày làm việc liền kề
96
tiếp theo ngày giao vàng đầy đủ. Song căn cứ vào mục tiêu điều hành chính sách và
diễn biến thị trường vàng trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước có thể quyết định
thời hạn giao vàng khác với thời hạn quy định nêu trên tại thông báo mua, bán vàng
miếng hoặc thông báo đấu thầu cho các TCTD và doanh nghiệp.
PHỤ LỤC:
I/. Mƣời mỏ vàng lớn nhất thế giới
Trên thế giới, đến nay đã có tổng số khoảng 165.000 tấn vàng được khai thác.
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc đâu là mỏ vàng lớn nhất.
Nhiều người cho rằng, mỏ vàng Muruntau ở Uzbekistan là mỏ lớn nhất, trong
khi nhiều người khác lại tin là mỏ Grasberg ở Indonesia mới là mỏ dẫn đầu thế giới về
sản lượng.
Dựa trên những nguồn dữ liệu đáng tin cậy nhất về sản lượng vàng khai mỏ,
ngoài báo cáo từ các công ty khai mỏ hàng đầu, trang International Business Times đã
điểm qua những mỏ vàng lớn nhất trên thế giới. Xếp hạng dựa trên số liệu về sản
lượng của các mỏ vàng này trong năm 2010:
1. Mỏ Grasberg
Mỏ vàng có 19.500 công nhân này nằm ở tỉnh Papua của Indonesia. Theo báo
cáo thường niên của Rio Tinto, sản lượng của mỏ này trong năm 2010 là 2,025 triệu
ounce vàng. Cổ phần chính của mỏ Grasberg thuộc quyền sở hữu của công ty
Freeport-McMoRan Copper & Gold. Ngoài vàng, mỏ này còn cung cấp bạc và đồng.
2. Mỏ vàng Muruntau
Mỏ Muruntau nằm 250 dặm về phía Tây thủ đô Tashkent của Uzbekistan. Sản
lượng vàng của mỏ lộ thiên này trong năm 2010 ước tính khoảng 1,8 triệu ounce. Điều
hành mỏ Muruntau là công ty quốc doanh Navoi Mining and Metallurgical Combinat
của Uzbekistan.
3. Mỏ vàng Carlin-Nevada
Năm 2010, mỏ vàng Carlin-Nevada ở bang Nevada của Mỹ cho sản lượng
1,735 triệu ounce vàng. Đây là mỏ thuộc sở hữu của công ty Newmont Mining Corp.
Khai thác mỏ này, các nhà khai mỏ vừa tìm vàng lộ thiên, vừa đào vàng trong lòng
đất.
4. Mỏ vàng Yanacocha
Mỏ vàng tọa lạng ở miền Bắc Peru này là mỏ vàng lớn nhất ở Mỹ Latin, với
sản lượng 1,46 triệu ounce vàng trong năm 2010. Mỏ do công ty Newmont Mining
vận hành, đồng thời thuộc sở hữu của công ty này và đối tác Peru có tên
Buenaventurda.
5. Mỏ vàng Goldstrike (Betze Post)
Đây là mỏ vàng lớn tiếp theo ở bang Nevada của Mỹ, cho sản lượng 1,24 triệu
ounce vàng trong năm 2010. Mỏ thuộc quyền sở hữu của công ty Barrick Gold Corp.
6. Mỏ vàng Cortez
97
Lại một mỏ vàng lớn nữa ở Nevada, Mỹ. Mỏ Cortez là nơi sản xuất ra 1,14
triệu ounce vàng trong năm 2010. Đây là mỏ của công ty Barrick Gold.
7. Mỏ vàng Valerado
Mỏ vàng lớn thứ 7 thế giới, Valerado nằm ở Argentina, cho sản lượng 1,12
triệu ounce vàng trong năm 2010. Mỏ này thuộc sở hữu của công ty Barrick Gold
Corp.
8. Mỏ vàng Lagunas Norte
Nằm ở phía Bắc của quốc gia Nam Mỹ Peru, mỏ Lagunas Norte là nơi sản xuất
ra 808.000 ounce vàng trong năm 2010. Đây cũng là mỏ vàng của công ty Barrick
Gold Corp.
9. Mỏ vàng Lihir
Chủ sở hữu của mỏ vàng này là công ty Newcrest Mining, nhà sản xuất vàng
lớn nhất Australia. Năm 2010, mỏ cho sản lượng 790.974 ounce vàng.
10. Mỏ vàng Super Pit/Kalgoorlie
Đây là mỏ vàng lộ thiên nằm ở miền Tây, Australia, thuộc quyền sở hữu của
Barrick Gold Corp. và Newmont Mining. 788.000 ounce vàng đã được khai thác từ
mỏ này trong năm 2010. (theo vneconomy.vn)
2/. Mƣời nƣớc có nhu cầu vàng lớn nhất thế giới trong năm 2011
Nhu cầu về vàng trong năm 2011 tiếp tục ở mức cao. Theo danh sách các quốc
gia có nhu cầu vàng lớn nhất của Hội đồng vàng thế giới (WGC), Việt Nam đứng ở vị
trí thứ tám.
Nhu cầu vàng của thế giới trong năm 2011 ở mức 4.067,1 tấn tức trị giá khoảng
205,5 tỷ USD. Đây là mức nhu cầu về vàng tăng mạnh nhất trong vòng 14 năm liên
tiếp. Nhu cầu mua vàng tại Ấn Độ và Trung Quốc chiếm 49% nhu cầu của thế giới và
55% vàng trang sức toàn cầu. Giá trung bình trong năm 2011 ở mức 1.571,5
USD/ounce tăng hơn 28% so với năm 2010. Năm 2011, mức giá có thời điểm lên đến
1.920 USD/ounce hồi tháng 9/2011. Sau đó dao động trong vùng 1.300 USD/ounce,
chốt năm ở mức 1.531 USD/ounce.
Trong lịch sử, giá vàng tăng từ mốc 272 USD/ounce hồi năm 2000 lên đến mức
1.700 USD/ounce hiện nay, mức giá đã tăng gấp 6 lần. Theo Thomson Reuters, giá
vàng thế giới sẽ lên ngưỡng 2.000 USD/ounce vào cuối năm nay hoặc đầu năm 2013.
Hội đồng vàng thế giới (WGC) vừa đưa ra danh sách 10 quốc gia có nhu cầu
vàng lớn nhất thế giới trong năm 2011. Trong đó, Việt Nam xếp ở vị trí thứ tám với
tổng số vàng tiêu thụ trong năm 2011 ở mức 100,3 tấn
1. Ấn Độ
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 933,4 tấn
Nhu cầu năm 2011: Giảm 7%
Người dân Ấn Độ có truyền thống mua vàng, tuy nhiên nhu cầu đã giảm 7%
xuống còn 933,4 tấn trong năm 2011. Nguyên nhân xuất phát từ việc giá vàng tăng
cao và đồng Rupi Ấn Độ suy yếu. Tuy nhiên, nhu cầu của nhiều người dân vẫn cao.
Nước này chỉ sản xuất khoảng 4 tấn vàng mỗi năm, bằng 0,4 % nhu cầu của nước này.
98
2. Trung Quốc
Tổng số vàng tiêu thụ: 811,2 tấn vàng
Nhu cầu năm 2011: Tăng 22%
Người dân Trung Quốc tiêu thụ vàng nhiều thứ hai thế giới trong năm 2011,
với tổng khối lượng 811,2 tấn tức tăng 22% so với 1 năm trước đó. Trong đó, nhu cầu
vàng miếng và vàng với mục đích đầu tư tăng 38%, đạt 258,9 tấn, nhu cầu vàng nữ
trang tăng 13% đạt 510,9 tấn. Trong quý IV năm 2011, Trung Quốc tiêu thụ 201,6 tấn
vàng, hơn Ấn Độ 28,6 tấn vàng. Theo ước tính của Hội đồng vàng thế giới, Trung
Quốc sẽ thay thế Ấn Độ để lần đầu tiên đứng đầu danh sách các quốc gia tiêu thụ vàng
nhiều nhất thế gới. Theo Hiệp hội Vàng Trung Quốc, sản lượng vàng của Trung Quốc
đạt mức cao kỷ lục 360,96 tấn trong năm 2011, vì vậy nước này vẫn đứng trong hàng
các quốc gia sản xuất vàng nhiều nhất thế giới trong 5 năm liên tục.
3. Mỹ
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011:194,9 tấn
Nhu cầu năm 2011: Giảm 17%
Mỹ sản xuất 237 tấn vàng trong năm 2011, đồng thời là nước tiêu thụ vàng lớn thứ
ba thế giới. Nhu cầu vàng so với năm 2010 đã giảm 17% còn 194,9 tấn do kinh tế khó
khăn. Nhu cầu vàng nữ trang chiếm 115,1 tấn, giảm 11% so với 2010. Vàng miếng và vàng
đầu tư trong quý 4/2011 là 79,9 tấn, giảm 25% so với năm 2010.
4. Đức
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 159,3 tấn
Nhu cầu năm 2011: Tăng 26%
Đức là thị trường tiêu thụ vàng lớn thứ tư thế giới trong năm ngoái. Năm 2010,
nước này tiêu thụ tổng khối lượng 126,9 tấn, con số này đã tăng lên mức 159,3 tấn
trong năm 2011, tức tăng 26%. Trong quý 4/2011, nhu cầu của nước này lên đến 39,7
tấn vàng, tăng 15% từ mức 34,6 tấn của 1 năm trước đó. Sự gia tăng về nhu cầu vàng
của châu Âu chủ yếu đến từ Đức và Thụy Sĩ – thông tin từ Hội đồng vàng thế giới.
5.Thổ Nhĩ Kỳ
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 144,2 tấn
Nhu cầu năm 2011: Tăng 30%
Thổ Nhĩ Kỳ là nước tiêu thụ vàng nhiều thứ năm thế giới trong năm 2011. Nhu
cầu của nước này trong năm ngoái tăng 30% so với mức 111,1 tấn hồi năm 2010 và vàng
được coi là kênh đầu tư an toàn. Trong năm 2011, nhu cầu vàng trang sức giảm 10%
xuống còn 63,8 tấn, trong khi nhu cầu vàng đầu tư tăng 99% lên 80,4 tấn. Lượng vàng do
nước này sản tăng 43% lên mức 24,4 tấn trong năm 2011.
6. Thụy Sĩ
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 116,2 tấn
Nhu cầu năm 2011: Tăng 25%
Nhu cầu vàng của Thụy Sĩ tăng 25% so với năm 2010. Trong quý 4 năm 2011,
nhu cầu vàng của nước này ở mức 30,7 tấn, tăng 17% so với năm 2010. Đầu tư vào
vàng miếng tăng lên do giá vàng tăng cao và cuộc khủng hoảng nợ công của châu Âu.
99
7. Thái Lan
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 108,9 tấn
Nhu cầu năm 2011: Tăng 57%
Thái Lan là nước tiêu thụ vàng nhiều thứ bảy thế giới trong năm 2011. Là quốc
gia mà ở đó vàng được gắn với sự giàu có và thịnh vượng. Nhu cầu vàng trang sức tại
nước này giảm 34% trong năm 2011. Ngược lại vàng đầu tư tăng 66% do kỳ vọng về
giá tăng lên.
8. Việt Nam
Tổng vàng tiêu thụ trong năm 2011: 100,3 tấn
Nhu cầu trong năm 2011: Tăng 23%
Việt Nam xuất khẩu khoảng 35-38 tấn vàng trong năm 2011, tổng nhu cầu
trong năm 2011 tăng 23% từ mốc 81,4 tấn hồi năm 2010 lên hơn 100 tấn so. Trong
năm ngoái, nhu cầu vàng trang sức giảm 9%. Năm 2011, vàng được xem là kênh đầu
tư thích hợp.
9. Nga
Tổng số vàng tiêu thụ trong năm 2011: 75,1 tấn
Nhu cầu trong năm 2011: Tăng 14%
Nga là nước tiêu thị vàng lớn thứ chín thế giới trong năm 2011. Tổng nhu cầu
vàng tăng 14% so với năm 2010. Vàng trang sức được tiêu thụ nhiều nhất. Tuy nhiên,
Nga là nước sản xuất vàng lớn thứ tư thế giới trong năm 2011, tổng lượng sản xuất
200 tấn vàng.
10. Ả Rập Xê út
Tổng số vàng tiêu thụ trong năm 2011: 72,2 tấn
Nhu cầu trong năm 2011: Giảm 12%
Ả Rập Xê Út là nước tiêu thụ vàng lớn thứ 10 thế giới trong năm ngoái. Tuy
nhiên, tổng nhu cầu vàng giảm 12% so với năm 2010, chiếm khoảng 36% của khu vực
Trung Đông. Năm 2011, nhu cầu đồ trang sức của Ả Rập Xê Út giảm 17% còn 55,8
tấn.
III. Mƣời nƣớc dự trữ vàng lớn nhất thê giới
Danh sách 10 quốc gia có kho dự trữ vàng chính thức lớn nhất thế giới dựa trên
số liệu của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC). Được biết, tổng lượng vàng dự trữ của
10 quốc gia này là 21,364 tấn.
10. Ấn Độ
Dự trữ vàng chính thức: 557.7 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 9.8%
Được biết đến với việc mua vàng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và xem vàng
là một kênh đầu tư an toàn nhưng hiếm khi Ngân hàng Trung ương Ấn Độ tiết lộ kế
hoạch mua vàng của mình.
9. Hà Lan
100
Dự trữ vàng chính thức: 612.5 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 60.2%
Năm 1999, Hà Lan tuyên bố sẽ bán 300 tấn vàng trong 5 năm theo CBGA 1
nhưng nước này chỉ bán được 235 tấn. Theo CBGA 2, Hà Lan cho biết sẽ bán tổng
cộng 165 tấn vàng (bao gồm 65 tấn còn lại từ CBGA 1) và tuyên bố không bán vàng
theo CBGA 3.
8. Nhật Bản
Dự trữ vàng chính thức: 765.2 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 3.1%
Năm 1950, dự trữ vàng của Nhật Bản chỉ có 6 tấn nhưng đến năm 1959,
NHTW nước này lần đầu tiên gia tăng đáng kể lượng vàng nắm giữ khi mua thêm 169
tấn so với năm trước. Năm 2011, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) bán vàng để
bơm 20 ngàn tỷ JPY vào nền kinh tế nhằm trấn an nhà đầu tư sau thảm họa động đất
và sóng thần.
7. Nga
Dự trữ vàng chính thức: 918.0 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 9.2%
Từ năm 2006 đến nay, Nga đã đều đặn gia tăng dự trữ vàng nhằm đa dạng hóa
kho dự trữ ngoại hối và đưa đồng rúp trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế. Tính đến
cuối tháng 7/2012, dự trữ vàng của Nga có tổng trị giá 48.7 tỷ USD.
6. Thụy Sỹ
Dự trữ vàng chính thức: 1,040.1 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 14.2%
Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho biết, năm 1997 Thụy Sỹ công bố đề xuất bán
một phần vàng dự trữ vì số vàng này được xem là không còn cần thiết đối với chính
sách tiền tệ. Theo đó, nước này bắt đầu bán 1,300 tấn vàng được xem là dư thừa vào
tháng 5/2000; bao gồm 1,170 tấn được bán theo CBGA 1 và 130 tấn được bán theo
CBGA 2. Thụy Sỹ cho biết sẽ không bán vàng theo CBGA 3.
5. Trung Quốc
Dự trữ vàng chính thức: 1,054.1 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 1.6%
Vàng vẫn còn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong kho dự trữ ngoại hối có tổng
giá trị 3.2 ngàn tỷ USD của Trung Quốc, thấp hơn cả mức bình quân toàn cầu là 10%.
Theo Financial Times, tăng cường dự trữ vàng sẽ là một động thái quan trọng đối với
Trung Quốc trong lúc Bắc Kinh đang tiến hành quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ và đưa
đồng tiền này trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế.
4. Pháp
Dự trữ vàng chính thức: 2,435.4 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 71.6%
101
Pháp bán 572 tấn vàng theo CBGA 2. Ngoài ra, nước này còn chuyển nhượng
khoảng 17 tấn cho Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) vào cuối năm 2004 để mua
cổ phần của BIS. Pháp đã không công bố bất kỳ kế hoạch bán vàng nào theo CBGA 3.
3. Ý
Dự trữ vàng chính thức: 2,451.8 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 71.3%
Ý không bán vàng theo CBGA 1 hoặc CBGA 2 và tuyên bố sẽ không bán vàng
theo CBGA 3. Tuy nhiên trong năm 2011, các ngân hàng nước này tìm cách bán vàng
cho Ngân hàng Trung ương Ý để để củng cố bảng cân đối kế toán trước khi diễn ra
đợt thanh tra ngân hàng (stress test).
2. Đức
Dự trữ vàng chính thức: 3,395.5 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 71.9%
Đức đã bán vàng theo CBGA 1 và CBGA 2 để đúc đồng xu vàng làm kỷ niệm.
Trong năm đầu tiên của CBGA 3 (2008 – 2009), Ngân hàng Trung ương Đức
(Bundesbank) đã bán xấp xỉ 6 tấn vàng. Kể từ ngày 07/09/2011 đến nay, Bundesbank
đã bán thêm 4.7 tấn vàng. Đến thời điểm hiện tại, Đức vẫn từ chối sử dụng kho dự trữ
vàng để gia tăng nguồn vốn cho Quỹ Bình ổn Tài chính châu Âu (EFSF).
1. Mỹ
Dự trữ vàng chính thức: 8,133.5 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 75.1%
Mỹ luôn là nước có kho dự trữ vàng lớn nhất thế giới xét về khối lượng kể từ
năm 1952. Khi đó, dự trữ vàng của Mỹ đạt tổng cộng 20,663 tấn. Năm 1968 đánh dấu
lần đầu tiên dự trữ vàng của Mỹ rớt mốc 10,000 tấn.
(Vietstock)
102
VẤN ĐỀ SỞ HỮU CHÉO & ĐẦU TƢ CHÉO TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CƠ
CẤU HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM60
Đinh Tuấn Minh
1. Dẫn nhập
Trong những năm gần đây hiện tượng sở hữu chéo liên quan đến hệ thống tín
dụng của Việt Nam đã trở thành một đề tài nóng, thu hút sự chú ý của giới chuyên gia
và hoạch định chính sách. Sở hữu chéo được xem như là một trong những nguyên
nhân quan trọng dẫn đến nợ xấu và nguy cơ thao túng các hoạt động kinh doanh tài
chính.
Mặc dù tác giả của bài viết này đồng ý với luận điểm trên (xem Đinh Tuấn
Minh, 2012), nhưng chúng tôi cho rằng để tìm ra được giải pháp phù hợp để giảm
hoặc hạn chế các tác hại của quan hệ sở hữu chéo trong nền kinh tế nói chung và liên
quan đến hệ thống tín dụng nói riêng cho tổng thể nền kinh tế thì trước hết chúng ta
cần phải tìm hiểu lợi ích của hiện tượng này, chí ít là cho những công ty tham gia vào
hình thành quan hệ sở hữu chéo. Nếu không có lợi ích kinh tế thì hiện tượng này
không thể tồn tài lâu dài. Việc tìm hiểu các lợi ích song song với tác hại của sở hữu
chéo sẽ cho ta một bức tranh đầy đủ hơn về các thuận lợi và khó khăn của quá trình tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam khi có sự hiện diện của quan hệ sở hữu chéo.
Bài viết này có cấu trúc như sau. Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ xem xét lợi
ích và tác hại của sở hữu chéo nói chung và liên quan đến hệ thống tín dụng nói riêng
từ góc độ lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế. Trong phần 3 chúng tôi sẽ đánh giá tình
trạng sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng của Việt Nam trên các khía cạnh: các hình
thức sở hữu chéo, nguyên dân dẫn đến sở hữu chéo, lợi ích và tác hại. Phần 4 sẽ trình
bày các trở ngại mà tình trạng sở hữu chéo liên quan đến hệ thống tín dụng có thể gây
ra khi tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cuối cùng sẽ là một số
khuyến nghị chính sách.
2. Cơ sở lý thuyết về sở hữu chéo: lợi ích và tác hại
2.1 Khái niệm và thực tiễn sở hữu chéo trên thế giới
Sở hữu chéo (cross ownership or partial cross ownership) là hiện tượng doanh
nghiệp này chiếm giữ cổ phần tại doanh nghiệp khác. Sở hữu chéo có thể phân thành
ba loại: (i) trực tiếp (khi công ty A có cổ phần tại công ty B), (ii) gián tiếp (khi A có
cổ phần tại B và B có cổ phần tại C, thì A sở hữu gián tiếp C), và (iii) sở hữu vòng
(circular ownership) (khi A có cổ phẩn tại B, B có cố phần tại C, C lại có cổ phần tại
A) (Temurshoev, 2011).
Sở hữu chéo là hiện tượng kinh tế phổ biến trong nhiều nền kinh tế như Đức,
Thụy Điển, Nhật Bản, và kể cả Mỹ. Chẳng hạn, theo nghiên cứu của Lott (1996), trong
lĩnh vực máy vi tính và ô tô của Mỹ giai đoạn 1994-1995, khoảng 77% cổ phần của
60 Một phần nội dung của bài viết đã được trình bày tại Hội thảo “RRủủii rroo ssởở hhữữuu cchhééoo vvàà đđầầuu ttưư cchhééoo:: tthhựựcc ttrrạạnngg
vvàà ggiiảảii pphháápp cchhoo tthhịị ttrrưườờnngg ttààii cchhíínnhh VViiệệtt NNaamm”” 31/07/2013, Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Hà Nội, Việt Nam.
Bài viết mới ở dạng thô, đề nghị không trích dẫn.
103
Intel và 71% cổ phần của Compaq được sở hữu bởi các công ty mà đồng thời sở hữu
một trong năm công ty trong lĩnh vực máy vi tính khác (như Apple, Compaq, IMB,
Intel, Microsoft, Motorola). Và 56% cổ phẩn của Chrysler được sở hữu bởi các công ty
mà đồng thời có cổ phần tại Ford và/hoặc General Motors.
Mối quan hệ sở hữu giữa các ngân hàng với doanh nghiệp đã từng được xem
như là một mô hình tổ chức đặc trưng của Đức và Nhật. Tại Đức, khối ngân hàng,
công ty bảo hiểm và các quỹ đầu tư sở hữu tới 37% giá trị cổ phiếu của các công ty
đại chúng niêm yết năm 1998 (Forlin, 2005, tr. 223). Còn tại Nhật, các định chế tài
chính (không bao gồm các quĩ đầu tư tín thác), nắm giữ tới gần 44% giá trị cổ phiếu
của các công ty đại chúng niêm yết vào năm 1989 và con số này đã giảm xuống còn
khoảng 40% vào năm 1998. Các tập đoàn lớn như Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo, Fuji,
Sanwa, Dai-Ichi Kangyo, DKB… đều sở hữu những ngân hàng lớn (Scher, 2001).
Mô hình ngân hàng nắm giữ cổ phần tại các doanh nghiệp của Đức và Nhật đã
từng được xem như là một đối trọng so với mô hình truyền thống Anh – Mỹ, nơi mà
hệ thống ngân hàng hoạt động tương đối tách biệt khỏi khu vực doanh nghiệp phi tài
chính ngân hàng. Mô hình này đã được áp dụng tại khác nhiều nước như Thụy Điển,
Hàn Quốc, và nhiều nước Đông Nam Á sau này như Thái Lan và Indonesisa. Tuy
nhiên, kể từ sau khi Nhật Bản rơi vào duy thoái trong đầu thập niên 1990 và sau
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1997, mô hình này đã không còn được ưa
thích nữa.
2.2 Lợi ích và tác hại của sở hữu chéo
Khi một doanh nghiệp sở hữu chéo một doanh nghiệp khác, đích hướng đến
của hành vi này không chỉ dừng lại ở việc đầu tư thông thường nhằm hưởng cổ tức
hay lãi vốn. Điều mà hành vi này hướng đến là tăng quyền lực kiểm soát (control
power). Kiểm soát quyền lực qua sở hữu chéo mang lại lợi ích cho doanh nghiệp trên
hai phương diện: giảm chi phí giao dịch cho một số các hoạt động hợp tác giữa các
bên liên quan và có khả năng thao túng thị trường. Trong khi hành vi hợp tác để giảm
chi phí giao dịch và thúc đẩy hoạt động sáng tạo làm tăng phúc lợi cho xã hội thì
ngược lại, hành vi thao túng thị trường lại được xem như là có hại cho phúc lợi xã hội.
Theo lý thuyết về chi phí giao dịch (Williamson, 1996), các công ty sẽ chọn mô
thức quản chế giao dịch khác nhau (thị trường, cấu trúc thứ bậc hãng, và các hình thức
lai hợp) với mỗi loại giao dịch tùy thuộc vào các đặc điểm của giao dịch (độ chuyện
biệt về tài sản, tần xuất giao dịch, và tính bất định) nhằm có được chi phí giao dịch ở
mức kinh tế nhất. Sở hữu chéo được coi như là một mô thức quản chế lai hợp trong cấu
trúc này. Sở hữu chéo đem lại lợi ích cho các bên liên quan trong các điều kiện sau:
• Chi phí thị trường lớn (thông tin kém minh bạch, hệ thống pháp lý yếu kém,
biến động thị trường mạnh)
• Hai bên liên quan đến các giao dịch có tính chuyên biệt cao, có tần xuất
thường xuyên xảy ra, các dự án có tính bất định cao.
Ngoài ra, sở hữu chéo có thể đem lại hiệu quả cao hơn tại các quốc gia có
truyền thống văn hóa tôn trọng kỷ luật (Đức) và danh dự cá nhân (Nhật) cao. Các đặc
tính văn hóa này giúp giảm các chi phí liên quan đến hành vi cơ hội chủ nghĩa khi
thực hiện các giao dịch có hiện diện của sở hữu chéo.
Lợi ích của sở hữu chéo trên khía cạnh này đã được các công ty áp dụng để
hình thành các tập đoàn, tại đó các thành viên sẽ sở hữu cổ phần lẫn nhau, đặc biệt là
104
giữa các công ty trong các ngành liên kết dọc. Quan hệ sở hữu chéo giúp các bên hiểu
nhau tốt hơn, giảm thiểu được các tác động tiêu cực từ các cú sốc bên ngoài, góp phần
ổn định kinh doanh. Với các hoạt động liên quan đến việc tạo ra các sản phẩm, dịch
vụ mới, quan hệ sở hữu chéo giúp các bên có thể tin cậy và dành nhiều thời gian hơn
cho nhau để gỡ rối các vấn đề nảy sinh giữa các công đoạn hoặc cấu phần sản xuất.
Sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp sản xuất và khu vực tài chính tín dụng giúp
cho doanh nghiệp được đảm bảo về nguồn tài chính với chi phí hợp lý. Điều này rất
quan trọng ở các thị trường mới nổi, nơi mà thị trường vốn chưa phát triển và khó huy
động được trên thị trường chứng khoán. Nhờ được đảm bảo về vốn, doanh nghiệp có
thể yên tâm đầu tư vào các dự án nghiên cứu và phát triển thường khá rủi ro và mất
khá nhiều thời gian.
Lợi ích của sở hữu chéo đối với hoạt động sáng tạo đổi mới đã được ghi nhận
bởi Cơ quan hoạch định chính sách kinh tế Nhật Bản (Japan Economic Planning
Agency - 1992) và nhiều nghiên cứu học thuật, tiêu biểu là O‟Sullivan (2001). Trong
công trình này O‟Sullivan đã chỉ ra rằng mô hình quản trị doanh nghiệp kiểu Đức và
Nhật cho phép các doanh nghiệp nước này có điều kiện tốt hơn các doanh nghiệp của
Anh - Mỹ trên khía cạnh sáng tạo đổi mới. Đấy chính là điều đã làm nên sự phát triển
thần kỳ của Đức và Nhật sau Thế chiến thứ II.
Mặc dù có những lợi ích như thế nhưng sở hữu chéo luôn bị giới học giả theo
trường phái Ănglê-Sacxông phản đối bởi sở hữu chéo có thể dẫn đến khả năng thao
túng thị trường. Khi một doanh nghiệp A nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp B, dù là
trực tiếp hay gián tiếp, thì A vẫn có thể kiểm soát tốt hơn các dự án/ hợp đồng hợp tác
với B hoặc thậm chí tác động vào việc định giá hay sản lượng cung ra thị trường của
B. Không những thế, nếu bản thân A cũng kinh doanh trong lĩnh vực của B thì A cũng
sẽ cân nhắc về việc định giá và cung ứng sản lượng của chính mình để sao cho không
ảnh hướng xấu đến lợi nhuận của B. Hay nói cách khác, khi tồn tại quan hệ sở hữu
chéo, ắt sẽ dẫn đến sự kiểm soát điều hành hay cấu kết giữa các doanh nghiệp có quan
hệ sở hữu trong cùng ngành để hưởng lợi nhuận từ việc tác động/ thao túng thị trường.
Mặc dù điều này có lợi cho các doanh nghiệp liên quan nhưng xét tổng thể nền kinh tế
thì sẽ làm kìm hãm cạnh tranh và giảm tính sáng tạo của nền kinh tế.
Đa phần các nghiên cứu thực nghiệm gần đây chỉ ra sự tồn tại của cấu kết
ngầm khi có sở hữu chéo. Cụ thể, các nghiên cứu của Parker và Roller (1997) trong
lĩnh vực điện thoại di động ở Mỹ, của Dietzenbacher et al. (2000) trong lĩnh vực tài
chính Đức, của Amundsen and Bergman (2002) trong lĩnh vực điện năng ở Thụy
Điển, và của Alley (1997) trong lĩnh vực ô tô ở Mỹ và Nhật đều ghi nhận tình trạng
này. Các nghiên cứu này chỉ ra rằng sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp trong ngành
sẽ làm cho mặt bằng giá của ngành sẽ tăng, làm giảm sản lượng, và do đó, làm giảm
phúc lợi xã hội.
Một lo ngại nữa của sở hữu chéo là nó hạn chế sự giám sát của cổ đông. Khi các
công ty sở hữu cổ phiếu của nhau, những người quản lý chứ không phải người nắm cổ
phần trực tiếp của doanh nghiệp (A) nắm giữa cố phần của doanh nghiệp kia (B) sẽ
giám sát hoạt động của doanh nghiệp (B). Trong trường hợp này những người quản lý
thường thiếu động cơ tối đa hoá lợi nhuận để thực hiện việc giám sát doanh nghiệp
trong tư cách của cổ đông. Hệ quả là các doanh nghiệp có sở hữu chéo thường hoạt
động không vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cho cổ đông mà thường là cho quyền lực
của nhà quản lý. Hành vi này sẽ khiến cho hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bị sụt
105
giảm và để duy trì lợi nhuận các doanh nghiệp lại càng có xu hướng cấu kết ngầm, gây
ảnh hưởng xấu đến phúc lợi chung của xã hội.
Cuối cùng, sở hữu chéo gây ra hiện tượng vốn ảo. Khi các doanh nghiệp phát hành
riêng lẻ cho nhau và không kèm theo việc thanh toán bằng tiền, các cổ đông nhỏ lẻ sẽ bị
thiệt hại do bị pha loãng. Số lượng cổ phiếu tăng trong khi nguồn vốn mới để phát triển
sản xuất thì lại thực chất không có. Thị giá của cổ phiếu vì thế sẽ giảm. Hành vi được
không khác gì việc cưỡng ép, tước đoạt tài sản của cổ đông nhỏ lẻ.
Như vậy, sở hữu chéo có những lợi ích nhất định cho nền kinh tế khi chi phí thị
trường lớn. Tuy nhiên, sự tồn tại của sở hữu chéo lại khiến cho thị trường bị tổn hại,
không phát triển được. Kết hợp hai luận điểm này ta có thể đưa ra nhận định rằng
trong ngắn hạn sở hữu chéo mang lại một số hữu dụng nhưng về dài hạn, sở hữu chéo
tạo ra cơ chế củng cố sự bền vững của chính nó với cái giá phải trả là sự tổn hại của
thị trường. Hàm ý chính sách dựa trên lý thuyết tổng quát về sở hữu chéo ở đây là:
chính sách giảm sở hữu chéo là điều nên làm, nhưng giảm sở hữu chéo được đến đâu
trên thực tế lại phụ thuộc vào việc xây dựng thị trường hiệu quả đến mức độ nào.
2.4 Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng: lợi ích và tác hại
Trong các mối quan hệ sở hữu chéo, sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng ngân hàng
bị giới học giả phê phán nhiều hơn cả. Bên cạnh lý do về cấu kết ngầm, sở hữu chéo trong hệ
thống tín dụng ngân hàng tạo ra rủi ro hệ thống do đặc thù của lĩnh vực này.
Có thể phân sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thành hai loại: (i) sở hữu
giữa doanh nghiệp và ngân hàng, theo đó doanh nghiệp sở hữu cổ phần của ngân hàng
hoặc ngân hàng sở hữu cổ phần của doanh nghiệp; và (ii) các ngân hàng nắm cổ phần
của nhau. Với loại sở hữu chéo thứ nhất, việc duy trì sở hữu chéo giúp cho ngân hàng
có thể bán được các sản phẩm (tín dụng doanh nghiệp, tín dụng cá nhân, các dịch vụ
thanh toán v.v.) cho các doanh nghiệp liên quan. Ngược lại, khi doanh nghiệp có mối
quan hệ sở hữu chéo với ngân hàng có thể dể dàng tiếp cận vốn hơn và với chi phí hợp
lý hơn cho các dự án trung và dài hạn hay có tính rủi ro cao (như các dự án phát triển
sản phẩm mới hoặc thị trường mới). Tuy nhiên, hệ quả của sở hữu chéo giữa doanh
nghiệp và ngân hàng là nguy cơ tạo ra các khoản vay thiếu cẩn trọng và việc sử dụng
vốn kém hiệu quả từ phía doanh nghiệp. Đây là mầm mống dẫn đến các khoản nợ xấu
lớn và thường được che đậy trong hệ thống ngân hàng.
Sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng với nhau có thể có thể đem lại một số
lợi ích nhất định trong việc dễ dàng hợp tác tài trợ vốn cho các dự án lớn, đòi hỏi sự
tham gia của nhiều ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng tạo ra các cấu kết ngầm tương tự
như ở các ngành khác. Các tổ chức tài chính có sở hữu chéo có thể liên minh với nhau
để khống chế giá (lãi suât, tỷ giá) trên thị trường tín dụng.
Lo lắng lớn nhất về tác hại của sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng là rủi ro
đổ vỡ hệ thống tài chính.Trong các mối quan hệ sở hữu chéo thông thường giữa các
doanh nghiêp với nhau, nếu có đổ vỡ thì chỉ có một vài doanh nghiệp liên quan bị liên
luy. Do các ngân hàng và tổ chức tín dụng là các trung gian tài chính, hoạt động của
chúng bị ràng buộc bởi tỷ lệ an toàn vốn. Khi các đối tác có quan hệ sở hữu chéo với
các tổ chức tín dụng bị thua lỗ, giá cổ phiếu sụt giảm hoặc phá sản sẽ khiến cho các tổ
chức tín dụng này không đáp ứng được tỷ lệ an toàn vốn. Điều này dẫn đến giảm năng
lực tín dụng và có thể khiến cho các tổ chức tín dụng đó rơi vào tình trạng mất thanh
khoản. Một khi điều này xảy ra, chúng sẽ kéo theo một loạt các tổ chức tín dụng khác
106
bị đóng băng thanh khoản do các tổ chức tín dụng đều có mối quan hệ tín dụng với
nhau qua hệ thống liên ngân hàng.
Đa phần các nghiên cứu thực nghiệm gần đây cho thấy sở hữu chéo trong hệ
thống tín dụng gây nhiều tác hại cho nền kinh tế hơn là ích lợi. Các nghiên cứu của
Laeven (1999) về vai trò của cấu trúc sở hữu đối với hành vi tín dụng rủi ro tại các
ngân hàng Đông Á và của Scher (2001) và Gilo (2007) về sở hữu chéo tại Nhật Bản
chỉ ra rằng sở hữu chéo là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến nợ xấu mang tính hệ
thống và đổ vỡ hệ thống tài chính tại các quốc gia châu Á và châu Mỹ la tinh trong vài
thập kỷ gần đây. Nghiên cứu của Forlin (2005) về lịch sử mối quan hệ giữa sở hữu và
kiểm soát doanh nghiệp tại Đức cho thấy mô hình này khá thành công cho đến thập
niên 1970 nhưng cũng đã bộc lộ những bất cập và được điều chỉnh mạnh theo hướng
giảm quan hệ sở hữu chéo giữa hệ thống ngân hàng và khu vực doanh nghiệp từ cuối
thập niên 1980. Còn nghiên cứu của Donnato và Tiscini (2009) về sở hữu chéo giữa
ngân hàng và doanh nghiệp tại Ý cho thấy mối quan hệ này khiến cho doanh nghiệp
phải chịu chi phí về lãi vay cao hơn so với trường hợp không tham gia vào sở hữu
chéo chứ không phải theo chiều ngược lại.
3. Sở hữu chéo và đầu tƣ chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam
3.1 Các dạng sở hữu chéo ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng ngân hàng đã ở
mức báo động. Các mối quan hệ sở hữu chéo được hình thành chằng chịt giữa các
ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), ngân hàng thương mại cổ phần
(NHTMCP), NHTM nước ngoài (NHTMNNg), các quĩ tài chính, doanh nghiệp nhà
nước (DNNN), và doanh nghiệp tư nhân. Trên cơ sở phân chia sở hữu chéo thành hai
nhóm giữa doanh nghiệp với tổ chức tín dụng và giữa các tổ chức tín dụng với nhau,
ta có thể chia thành các nhóm nhỏ sau:
1. Sở hữu của các NHTMNN và NHTMNNg tại các ngân hàng liên doanh:
Hiện tại có 6 ngân hàng liên doanh trong hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam.
Thông thường một ngân hàng liên doanh được sở hữu bởi một ngân hàng nước ngoài
và một ngân hàng trong nước. Chẳng hạn ngân hàng Việt Thái là ngân hàng liên
doanh giữa 3 đối tác lớn - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
(NHNo&PTNT), Ngân hàng Thương mại Siam của Thái Lan và Tập đoàn Charoen
Pokphand (CP) của Thái Lan với tỷ lệ vốn góp tương ứng là 34%, 33% và 33%; ngân
hàng Việt Nga là liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
và Ngân hàng VTB (trước là Ngân hàng Ngoại thương Nga Vneshtorgbank) với mức
góp vốn điều lệ ngang nhau.
2. Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM, cả nhà nước lẫn cổ phần:
đứng trước nhu cầu thu hút vốn và kỹ năng quản trị từ các định chế tài chính có kinh
nghiệm nước ngoài, NHNN đã có chủ trương khuyến khích các NHTM trong nước
tìm kiếm các đối tác nước ngoài làm cổ đông chiến lược. Đến thời điểm cuối 2011, có
khoảng 10 NHTM có đối tác chiến lược là các tập đoàn tài chính nước ngoài.
3. Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quĩ: Từ 2005 trở lại đây, các quĩ
quản lý vốn bắt đầu xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Các quỹ này thường đầu tư vốn vào
những NHTMCP có tiềm năng phát triển tốt. Chẳng hạn, Vinacapital đầu tư vốn vào
Sacombank, VOF đầu tư vào Eximbank, quỹ Dragon đầu tư vào ACB v.v...
4. Sở hữu của các NHTMNN tại các NHTMCP: Quan hệ sở hữu này hình thành
chủ yếu việc yếu kém nghiệp vụ ngân hàng của các NHTMCP trong giai đoạn đầu
107
thành lập cũng như trong giai đoạn khủng hoảng 1997-1998. Đến thời điểm cuối
2011, có 8 NHTMCP có quan hệ cổ phần với 4 NHTMNN. Tiêu biểu là Vietcombank,
hiện đang sở hữu 11% tại NH Quân Đội, 8,2% tại Eximbank, 4,7% tại NH Phương
đông, 5,3% tại NH Sài Gòn.
5. Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTMCP: Hiện tượng sở hữu lẫn nhau giữa các
NHTMCP cũng khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Từ những thông tin công bố của
các ngân hàng, hiện có ít nhất 6 NHTMCP có cổ đông là một NHTMCP khác. Chẳng
hạn, Eximbank hiện sở hữu 10,6% cổ phần tại Sacombank, 8,5% cổ phần tại NH Việt
Á.
6. Sở hữu NHTMCP bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân: trong
giai đoạn bùng nổ các NHTMCP và quỹ đầu tư tài chính, rất nhiều tập đoàn và tổng công
ty nhà nước đã tham gia góp vốn hình thành các tổ chức tín dụng này. Đến thời điểm cuối
2011có khoảng gần 40 các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có sở hữu trên 5% tại các
NHTMCP. Hơn nữa hầu hết các tập đoàn nhà nước đều có các công ty tài chính. Mối
quan hệ giữa NHTMCP với các tập đoàn tư nhân ngày càng trở nên phức tạp. Nhiều ngân
hàng có thể được sở hữu bởi rất nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia đình vốn
đồng thời lãnh đạo ở các doanh nghiệp khác.
7. Ngân hàng sở hữu các công ty chứng khoán, đầu tư tài chính, bảo hiểm, bất
động sản: trong giai đoạn từ 2007 trở lại đây nhiều ngân hàng có xu hướng chuyển
sang mô hình tập đoàn tài chính. Trong mô hình này, các ngân hàng sẽ tham gia góp
vốn thành lập các công ty con kinh doanh trong các lĩnh vực bất động sản, môi giới
chứng khoán, quản lý quĩ, bảo hiểm v.v... Thông tin thu thập từ 4 NHTMNN và 8
NHTMCP lớn nhất cho thấy 11/12 ngân hàng có công ty chứng khoán là công ty con
hoặc công ty liên kết, 8/12 ngân hàng có công ty quản lý quỹ, đầu tư tài chính, 9/12
ngân hàng có công ty con hoặc công ty liên kết đầu tư BĐS, và 5/12 ngân hàng có vốn
góp tại các công ty bảo hiểm.
108
Bảng 1: Tình trạng sở hữu các công ty chứng khoán, tài chinh, bảo hiểm,
và bất động sản của 12 ngân hàng thƣơng mại lớn nhất Việt Nam
Tên ngân hàng Công ty chứng
khoán
Công ty quản lý
quỹ/ đầu tƣ tài
chính
Công ty đầu tƣ
BĐS
Công ty bảo hiểm
VCB X X - -
BIDV X X X X
CTG X X X X
AGRIBANK X - - X
ACB X X X -
STB X X X -
MBB X X X X
TCB X X - -
EIB X - X -
SHB X X X X
MSB X - X -
SCB - - X -
Nguồn: thu thập bởi tác giả từ website và báo cáo tài chính các công ty. (Thông tin
cập nhật đến 30/8/2013)
Tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng ngân hàng của Việt Nam trở
nên nghiêm trọng khi các mối quan hệ này đã trở thành quan hệ sở hữu vòng. Các
NMTM hoặc những người đứng đầu các NHTM nắm giữ cổ phần tại các doanh
nghiệp; sau đó các doanh nghiệp hoặc những người đứng đầu các doanh nghiệp lại sở
hữu cổ phần tại các ngân hàng khác. Bức tranh sở hữu chéo nhằng nhịt giữa các
NHTM, công ty chứng khoán và quĩ đầu tư, doanh nghiệp, nhà đầu tư lớn… đã được
một báo cáo công phu gần đây của Chương trình giảng dạy Fulbright (xem Nguyễn
Xuân Thành, 2013).
3.2 Nguyên nhân dẫn đến sở hữu chéo trầm trọng trong hệ thống tín
dụng Việt Nam
Tình trạng sở hữu chéo của Việt Nam trở nên nghiêm trọng như trong thời gian
vừa qua không hẳn là vì Việt Nam thiếu vắng các qui định khống chế tình trạng này. Luật
các tổ chức tín dụng năm 2010 và trước đó đều có các điều khoản qui định để quản lý
tình trạng này. Cụ thể Luật các TCTD năm 2010 không cho phép các TCTD sở hữu cổ
phần lẫn nhau (khoản 5 điều 129); không cho phép các công ty con, công ty liên kết của
một TCTD được góp vốn, mua cổ phần của chính TCTD đó (Khoản 2 Điều 135); không
cho phép TCTD được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát; hạn chế cấp tín dụng cho một số đối
tượng và các công ty con v.v...
Tuy nhiên, bằng nhiều cách khác nhau các ngân hàng và tổ chức tín dụng vẫn
lún sâu vào mối quan hệ sở hữu chéo chằng chịt như đề cập ở trên. Để xảy ra tình
trạng này có những nguyên nhân sâu xa từ tình trạng kinh tế vĩ mô và vi mô của nền
kinh tế.
Nguyên nhân vĩ mô bao trùm là chính sách tiền tệ nới lỏng trong giai đoạn
2006-2010. Ngoại trừ 6 tháng cuối năm 2008, NHNN luôn duy trì lãi suất tái cấp vốn
109
ở mức khá thấp, từ 5% - 7,5%, trong cả giai đoạn 2005-2009, khiến cho mặt bằng lãi
suất huy động của các ngân hàng được duy trì ở mức thấp tương ứng, từ 7-8,5% trong
giai đoạn này. Đây chính là nguyên nhân khiến cho tín dụng của nền kinh tế bùng nổ.
Tốc độ tăng trưởng cung tiền, tín dụng và huy động bình quân hàng năm trong giai
đoạn 2006-2010 lần lượt là 32,5%, 35,5%, và 34,6%.
Tăng trưởng tín dụng nóng khiến cho các doanh nghiệp khó tiếp cận vốn ngân
hàng. Để có thể đáp ứng được nhu cầu tín dụng qui mô lớn, các doanh nghiệp cần liên
kết hoặc sở hữu ngân hàng để đảm bảo việc cung ứng vốn không bị gián đoạn. Tương
tự, các ngân hàng cũng chịu áp lực tăng trưởng tín dụng nên thường có xu hướng cho
các doanh nghiệp thân quen vay để giảm thời gian đánh giá và thẩm định hồ sơ. Khi
nhu cầu tín dụng của một nhóm doanh nghiệp quá lớn, việc sở hữu một ngân hàng sẽ
khó đáp ứng đủ nhu cầu, dẫn đến các ngân hàng phải liên kết với nhau thành nhóm và
ràng buộc bởi quan hệ sở hữu. Từ đây, mối quan hệ sở hữu chằng chịt giữa ngân hàng
với ngân hàng, ngân hàng với doanh nghiệp, ngân hàng và doanh nghiệp với nhà đầu
tư cá nhân xuất hiện. Nói cách khác, tăng trưởng tín dụng nóng là môi trường thích
hợp nhất để dung dưỡng và thúc đẩy sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng.
Một nguyên nhân khác dẫn đến mối quan hệ sở hữu chéo của Việt Nam trở nên
nghiêm trọng là quyết định chuyển đổi 13 ngân hàng nông thôn thành ngân hàng
thành thị trong giai đoạn 2005-2007. Các ngân hàng này trước khi chuyển đổi, vốn
điều lệ chỉ có khoảng vài chục đến vài trăm tỷ đồng. Tuy nhiên, theo yêu cầu vốn điều
lệ tối thiểu 3000 tỷ vào năm 2011, các NHTM này đã buộc phải tăng vốn chủ sở hữu
lên 10-20 lần chỉ trong vòng chỉ 5 năm. Hậu quả của việc phải phát triển với tốc độ
cực nhanh của nhóm các ngân hàng này là chúng phải tăng trưởng tài sản bằng mọi
giá để tương ứng với lượng vốn chủ sở hữu tăng thêm. Để tăng vốn chủ sở hữu với
tốc độ lớn như vậy trong thời gian ngắn các ngân hàng này buộc phải dựa vào vốn
đóng góp của chính các tập đoàn nhà nước và tư nhân, và tự biến mình thành “sân
sau” của các tổ hợp doanh nghiệp này. Một vấn đề khác nảy sinh khi tốc độ tăng vốn
chủ sở hữu quá nhanh của nhóm ngân hàng này là chính các tập đoàn đằng sau các
ngân hàng này cũng phải vay vốn từ các ngân hàng khác để đáp ứng yêu cầu. Và để
đáp ứng được nhu cầu vay vốn thì giữa các bên lại cần có mối quan hệ sở hữu.
Bên cạnh hai nguyên nhân vĩ mô trên là một số các nguyên nhân vi mô. Thứ
nhất là sự thiếu vắng nguồn nhân lực quản lý cấp cao tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam. Đây là một đặc thù của các nước đang phát triển. Khi số lượng các tổ chức
tín dụng tăng mạnh, nhu cầu nhân sự quản lý cao cấp cũng tăng theo. Tuy nhiên,
nguồn nhân lực trong nước không kịp đáp ứng dẫn đến những người nắm cổ phần chi
phối ngân hàng không thể tin tưởng giao phó việc điều hành hoàn toàn cho người
quản lý. Người chủ sở hữu phải trông cậy vào các mối quan hệ gia đình để điều hành
ngân hàng. Nhưng theo các quy định của Luật tổ chức tín dụng hiện hành thì sử dụng
mối quan hệ gia đình để điều hành ngân hàng là điều bị hạn chế. Để lách quy định, các
chủ ngân hàng có xu hướng thiết lập quan hệ sở hữu chéo để có thể quản lý được hoạt
động của ngân hàng thông qua các doanh nghiệp do những người thân trong gia đình.
Một vấn đề nữa dẫn đến tăng sở hữu chéo ở Việt Nam là sự thiếu minh bạch
thông tin của khu vực doanh nghiệp và khung pháp lý giải quyết nợ xấu, nợ khó đòi
còn chưa hoàn thiện. Khi thông tin thiếu minh bạch và nguy cơ mất vốn cao nếu như
xảy ra nợ xấu khiến cho ngân hàng luôn trong trạng thái nghi ngờ doanh nghiệp. Để
cấp vốn, ngân hàng thường yêu cầu nhiều thủ tục chứng minh khả năng trả vốn và lãi,
khiến cho rất nhiều doanh nghiệp khó có thể tiếp cận ngân hàng. Đây là mảnh đất màu
110
mỡ để quan hệ sở hữu chéo nảy sinh. Một khi có quan hệ sở hữu chéo, ngân hàng nắm
được tình hình của doanh nghiệp dễ dàng hơn và nhờ vậy việc cấp vốn cũng thông
thoáng hơn.
3.3 Đánh giá về lợi ích và tác hại của sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng
Việt Nam
Trước khi xem xét các tác hại mà sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng Việt
Nam gây ra cho nền kinh tế chúng ta cũng nên ghi nhận những mặt tích cực của quan
hệ này.
Trong bối cảnh năng lực quản trị của các ngân hàng TMCP của Việt Nam còn
yếu và quan hệ giữa các ngân hàng trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài còn
khó khăn thì các hình thức sở hữu chéo dưới dạng liên doanh, các định chế tài chính
nước ngoài là cổ đông lớn, hay quỹ đầu tư góp vốn sẽ mang lại những lợi ích nhất
định cho những ngân hàng này. Đặc biết trong bối cảnh tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
như hiện nay, do nguồn vốn trong nước hạn hẹp, việc tìm kiếm nguồn vốn từ các định
chế tài chính nước ngoài sẽ góp phần làm tăng hệ số an toàn vốn của các ngân hàng
TMCP nhỏ và yếu trong nước.
Hình thức sở hữu chéo giữa các NHTM và doanh nghiệp trong thời gian qua
cũng mang lại những lợi ích nhất định cho khu vực doanh nghiệp trên khía giúp các
doanh nghiệp này có thể huy động và tập trung vốn với qui mô lớn trong thời gian
ngắn để mở rộng sản xuất và thị trường. Nhờ thế nhiều tập đoàn tư nhân lớn đã xuất
hiện. Có thể quan sát qua các hiện tượng tập đoàn Tân Tạo (thông qua NH Nam Việt
và NH PHương Tây), tập đoàn Masan (thông qua liên kết với Techcombank), tập
đoàn BRG (qua Sea Bank), FPT và Doji (qua Tien Phong Bank), T & T (qua SHB),
Vạn Thịnh Phát (qua SCB), Him Lam Group (tại Liên Việt), Geleximco (tại ABB)…
Một số tập đoàn nhà nước cũng có liên kết chặt chẽ với các ngân hàng. Cụ thể
PVN có cổ phần tại OCEAN bank, Vinacomin tại SHB, EVN có vốn tại ABB, tập
đoàn cao su có cổ phần tại SHB, Vinatex tại Nam Việt, ACB, và Eximbank, Bảo Việt
có cổ phần tại NH Bảo Việt, Petrolimex có cổ phần tại NH petrolimex, Viettel có cổ
phần tại NH Quân Đội, PV Gas có cổ phần tại Sea Bank….Tuy nhiên, có thể mối
quan hệ này có lẽ khác với mục đích của các tập đoàn tư nhân là huy động vốn. Trên
thực tế, các tập đoàn nhà nước có thể huy động vốn khá dễ dàng từ các ngân hàng TM
nhà nước. Vì thế mục đích của các tập đoàn nhà nước khi đầu tư vào các ngân hàng có
lẽ thuần tuý vì mục đích lợi nhuận nhiều hơn.
Mặc dù có một số lợi ích như vậy nhưng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng
của Việt Nam được đánh giá là có nhiều tác hại. Trước hết, sở hữu chéo khiến cho các
NHTMCP cho vay thiếu cẩn trọng và tập trung nhiều vào một số doanh nghiệp. Khi
vốn được dồn vào cho một số ít doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh
doanh bất động sản, thì khi các doanh nghiệp này rơi vào thua lỗ, các khoản vay sẽ trở
thành nợ xấu. Điều này có thể đã xảy ra với một số NHTMCP trong thời gian qua khi
mà giá bất động sản suy giảm mạnh.
Đối với các tập đoàn nhà nước, việc đầu tư vào các ngân hàng khiến cho vốn
tại các tập đoàn này bị phân tán. Các tập đoàn nhà nước thường có thể tiếp cận nguồn
vốn với lãi suất mềm hơn so với các doanh nghiệp tư nhân. Nhưng khi không mang
vốn này đầu tư vào lĩnh vực trọng điểm của mình mà lại bơm vốn vào các NHTMCP
thì thực chất dòng vốn ưu đãi dành cho các tập đoàn nhà nước lại bị chảy sang các
111
lĩnh vực đầu tư có rủi ro cao như BĐS. Điều này làm giảm hiệu quả chính sách đầu tư
của nhà nước.
Sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng của Việt Nam có thể dẫn đến hiện tượng
lũng đoạn thị trường tài chính ngân hàng. Mặc dù điều này tuy chưa được xác nhận
nhưng một số vụ án trong lĩnh vực tài chính ngân hàng trong năm 2012 có vẻ như
minh chứng cho điều này.
4. Những vấn đề cần giải quyết trong sở hữu chéo và đầu tƣ chéo trong
quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng việt Nam
4.1 Các nội dung chính trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt
Nam
Theo đề án tái cơ cấu hệ thống tín dụng ngân hàng mà NHNN trình Chính phủ
thì mục đích của quá trình này là nhằm để giải quyết các vấn đề sau:
Hỗ trợ khả năng thanh toán (solvency) cho các ngân hàng yếu kém. Đây là
bước đầu tiên của quá trình tái cơ cấu. Hành động ở đây chủ yếu được thực
hiện thông qua các hình thức sáp nhập hoặc giải thể các tổ chức tín dụng yếu
kém và tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng có độ an toàn vốn thấp. Cho tới
nay, NHNN đã thực thi bước này thông qua việc thực hiện sáp nhập 8/9 ngân
hàng yếu kém vào với nhau hoặc với tổ chức tài chính mạnh hơn. Ngoài ra,
NHNN cũng thực hiện các hành động tái cấp vốn cho một số ngân hàng có sức
khoẻ tài chính yếu. Có thể nói, cho đến nay, khả năng thanh toán của các tổ
chức tín dụng đã được cải thiện rất nhiều so với giai đoạn cuối 2011 và đầu
2012.
Bước tiếp theo là xử lý nợ xấu có tính hệ thống để cải thiện thanh khoản hệ
thống (liquidity). NHNN đã thực hiện một số chính sách để xử lý nợ xấu như
yêu cầu các ngân hàng tăng trích lập dự phòng, cơ cấu lại kỳ hạn nợ và đặc biệt
là việc ra đời Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) để giải quyết nợ xấu.
Bước cuối cùng là xây dựng các chuẩn mực an toàn mới cho các tổ chức tín
dụng trong hệ thống. Một khi sức khoẻ của các tổ chức tín dụng được hồi phục,
để đảm bảo an toàn trong lâu dài, NHNN đang hướng các NHTM cải thiện
năng lực quản trị rủi ro. Các chuẩn mực quản trị rủi ro và an toán vốn theo
Basel II đang được nghiên cứu và áp dụng dần tại các NHTM.
Câu hỏi đặt ra ở đây là tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng ngân hàng
của Việt Nam như chúng ta mô tả ở trên ảnh hưởng đến tiến độ tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng như thế nào? Có hai ảnh hưởng có thể kể đến: vấn đề sụt giảm giá vốn và
khả năng ngưng trệ đầu tư khi cố ép giải quyết vấn đề sở hữu chéo.
4.2 Vấn đề sụt giảm giá vốn
Ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình tài cấu trúc hệ thống tín dụng ngân hàng của
sở hữu chéo là nguy cơ sụt giảm giá vốn khi tiến hành loại trừ sở hữu chéo.
Trong điều kiện nền kinh tế chưa khởi sắc, việc thoái vốn có thể khiến cho bên
sở hữu cổ phần (A) tại đơn vị liên quan (B) có thể khiến cho doanh nghiệp A phải ghi
nhận thua lỗ. Đây là một điều rất khó cho các doanh nghiệp nhà nước đầu tư ngoài
ngành bởi việc phải ghi nhận lỗ như vậy sẽ ảnh hưởng đến thành tích kinh doanh của
doanh nghiệp.
112
Ngoài ra, khi bị thoái vốn thị giá cổ phiếu của ngân hàng mà doanh nghiệp đầu
tư cũng chịu sức ép giảm do tăng cung. Nếu đây là các NHTMCP gia đình thì sẽ có
thể gặp sự kháng cự từ người chủ sở hữu. Yêu cầu thoái vốn như vậy sẽ khiến cho các
chủ đầu tư tư nhân này thua lỗ ở cả hai đầu.
Bởi phải ghi nhận thua lỗ và bởi không còn được cấp vốn từ các thành viên gia
đình, các NHTMCP sẽ khó có thể huy động thêm nguồn vốn mới để giải quyết nợ xấu.
Trong trường hợp này, gánh nặng xử lý nợ xấu sẽ đặt lên vai VAMC sẽ lớn hơn.
Giải pháp cho vấn đề sụt giảm giá vốn khi loại bỏ sở hữu chéo tuỳ thuộc vào
mối quan hệ sở hữu chéo này là gì. Nếu A và B đều là các tổ chức tín dụng thì giải
pháp tốt nhất là sáp nhập với nhau và ghi nhận thua lỗ và sụt giảm vốn chủ sở hữu.
NHNN hỗ trợ khả năng thanh toán trong giai đoạn đầu hoặc bằng tái cấp vốn hoặc
bằng góp vốn. Trong trường hợp nếu B là ngân hàng và A là doanh nghiệp phi tài
chính thì cách tốt nhất là A bán lại cho tổ chức tài chính nước ngoài có năng lực tài
chính tốt và cho phép tổ chức tài chính nước ngoài nắm cổ phần chi phối bằng cách
yêu cầu bơm thêm vốn. Và cuối cùng nếu A là ngân hàng và B là doanh nghiệp phi tài
chính thì ngân hàng có thể phải dùng vốn chủ sở hữu để ghi nhận thua lỗ và xin hỗ trợ
tái cấp vốn từ NHNN.
4.3 Vấn đề ngƣng trệ đầu tƣ
Một vấn đề khác nảy sinh khi xoá bỏ sở hữu chéo giữa doanh nghiệp và ngân
hàng là doanh nghiệp có thể sẽ bị mất nguồn cung ứng tín dụng cho các dự án có tính
trung và dài hạn. Bởi doanh nghiệp đã đầu tư nhiều vào một dự án, nay không còn
được cung ứng vốn đề hoàn thành thì ắt sẽ khiến cho dòng tiền bị ngưng trệ và doanh
nghiệp có thể mất khả năng thanh toán cho các khoản đầu tư trước đây. Điều này
khiến cho nợ xấu tại ngân hàng có quan hệ sở hữu chéo trước đây tăng lên. Trong
trường hợp các dự án được tài trợ vốn có tính trung và dài hạn là các dự án tốt và phải
bị ngưng lại vì không còn tiếp tục được cung ứng vốn thì sẽ ảnh hưởng đến tăng
trưởng chung của nền kinh tế ở một mức độ nào đó.
Để giải quyết hiện tượng này các bên cần có những cam kết tiếp tục đảm bảo
cung ứng tín dụng ngắn hạn cho phía doanh nghiệp khi mối quan hệ sở hữu chéo
chấm dứt. Điều này nên được duy trì một thời gian để doanh nghiệp có thể tìm kiếm
thêm các nguồn cung vốn mới. Đối với nguồn vốn trung và dài hạn, thì việc rà soát lại
từng dự án cụ thể là cần thiết để tìm ra các dự án tốt. NHNN có thể phải cùng ngồi lại
với chủ sở hữu mới và chủ sở hữu cũ để đảm bảo điều này.
4.4 Thị trƣờng tín dụng, thị trƣờng vốn, và thị trƣờng các nhà quản lý
Như chúng ta đã phân tích ở trên, vấn đề sở hữu chéo về bản chất có nguyên
nhân từ sự yếu kém của thị trường. Vì thế, giải pháp dài hạn để ngăn chặn sở hữu chéo
cần tập trung mạnh hơn vào việc xây dựng thị trường tín dụng và thị trường vốn minh
bạch, có chi phí giao dịch thấp. Cụ thể cần có các giải pháp sau:
Thông tin minh bạch: áp dụng và ban hành các chuẩn mực kế toàn quốc tế cho
thị trường vốn, định giá tài sản, với các thuyết minh rõ ràng.
Hệ thống pháp lý tốt hơn: Tập trung vào việc làm cho quyền sở hữu trở nên rõ
ràng đặc biệt với các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước; việc phát mại
tài sản cũng cần dễ dàng và thủ tục phá sản cần nhanh gọn để khiến cho ngân
hàng có thể yên tâm hơn khi cho doanh nghiệp vay.
113
Năng lực giám sát thị trường tín dụng và thị trường vốn hiệu quả hơn.
Xây dựng chỉ số tín nhiệm doanh nghiệp: công việc này giúp cho ngân hàng có
thể thêm nguồn thông tin đánh giá thể trạng của doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp để vay được vốn cũng cần minh bạch hơn và sẵn sàng chấp nhận để cho
bên ngoài đánh giá.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến hiện tượng sở hữu chéo là quan hệ gia đình trong
quản lý doanh nghiệp của Việt Nam vẫn còn nặng nề. Đây là vấn đề văn hoá không chỉ
ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước châu Á khác. Nhà nước và xã hội cần có những
chương trình vận động và tư vấn để các chủ doanh nghiệp, đặc biệt là những người liên
quan đến hệ thống tài chính ngân hàng, nhận ra rằng việc thuê nhà quản lý chuyên
nghiệp điều hành sẽ sinh lợi cho gia sản của mình nhiều hơn. Đây là điều đã xảy ra ở
các nước phát triển đi trước bởi các hoạt động kinh doanh phức tạp thì cần đòi hỏi nhiều
hơn các tính toán duy lý thay vì là quan hệ dựa trên tình cảm.
Tài liệu tham khảo (chƣa cập nhật đầy đủ)
Donato, F. và R. Tiscini (2009). “Cross ownership and interlocking directorates
between banks and listed firms: an empirical analysis of the effects on debt leverage and cost
of debt in the Italian case”, Corporate Ownership and Control, 6(3), pp. 473-481.
Fohlin, C. (2005). “The History of Corporate Ownership and Control in Germany”, trong
Morck, R.K., A History of Corporate Governance around the World: Family Business Groups to
Professional Managers, University of Chicago Press.
Japan Economic Planning Agency [1992] White Paper: Economic Survey of Japan,
1991-92. Tokyo.
Nguyễn Xuân Thành và Đỗ Thiên Anh Tuấn (2013). Nhận diện thực trạng và đánh
giá ảnh hưởng của sở hữu chéo trong hệ thống tài chính. Thuyết trình tại Hội thảo “rủi ro sở
hữu chéo và đầu tư chéo: thực trạng và giải pháp cho thị trường tài chính Việt Nam” do
NFSC tổ chức ngày 31/7/2013, Hà Nội.
Scher, M. (2001). “Bank-firm cross-shareholding in Japan: what it is, why does it
matter, its it winding down?”, DESA Discussion Paper No. ST/ESA/199/DP. 15.
Trivieri, F. (2005). “Does cross-ownership affect competition? Evidence from the
Italian banking industry”, Journal of Intl. Financial Markets, Institutions and Money, 17, p.
79-101.
114
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ ĐẦU TƢ CÔNG
TS.Vũ Nhữ Thăng
Viện trƣởng Viện CL&CSTC
Năm 2013 là năm thứ ba của kế hoạch 5 năm 2011-2015, do đó kết quả của
việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2013 có vai
trò quan trọng, đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ tài chính – NSNN
5 năm 2011-2015. Bám sát diễn biến tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, ngay từ
đầu năm 2013, Chính phủ đã chủ động ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP ngày
07/01/2013 về giải pháp chủ yếu chỉ đạo thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
và dự toán NSNN năm 2013, Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 về giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
1. Chính sách thu, chi NSNN 2013 và kết quả
- Chính sách thu NSNN tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong
khi chính sách chi NSNN nghịch chu kỳ61
bị hạn chế, đồng thời phải thắt chặt ở
một số nội dung chi.
Trên cơ sở Nghị quyết 01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013
của Chính phủ, chính sách tài khóa năm 2013 được thực hiện theo hướng tập trung
tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường. Trong đó, chính sách thu
NSNN tập trung vào ba nhiệm vụ lớn62
với trọng tâm là tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp thông qua thực hiện giãn, giảm thuế đối với một số sắc thuế, khoản thu NSNN
nhằm mục đích giảm bớt gánh nặng về nghĩa vụ tài chính trước mắt của doanh nghiệp
đối với Nhà nước cũng như giảm gánh nặng về chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp hạ giá thành và tiêu thụ được sản phẩm, thúc
đẩy doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở điều chỉnh chính sách thu nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
theo Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ, việc xây dựng và ban
hành các hướng dẫn và tổ chức thực hiện gia hạn, giảm một số khoản thu NSNN về cơ
bản đã được tiến hành khẩn trương, kịp thời63
.
61 Chính sách tài khóa theo nghĩa nghịch chu kỳ, đó là khi nền kinh tế đi vào suy giảm thì chính sách tài khóa
phải mở rộng và khi nền kinh tế phát triển nhanh thì chính sách tài khóa phải giảm bớt đi để có dư địa cho
những can thiệp sau này. 62 Đó là: (1) Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trên cơ sở thực hiện các biện pháp giảm, giãn thuế đối với một
số sắc thuế, khoản thu NSNN (Cụ thể là gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế giá trị
gia tăng (GTGT) và thời hạn nộp tiền sử dụng đất; giảm tỷ lệ thu đối với một số khoản thu NSNN như thuế
TNDN, thuế GTGT và hoàn lại tiền thuế bảo vệ môi trường đã nộp,…); (2) Hoàn thiện hệ thống chính sách thu
NSNN; (3) Tăng cường quản lý thu, chống thất thu và xử lý nợ đọng thuế. 63 Như đã ban hành Thông tư 16/2013/TT-BTC ngày 08/02/2013 hướng dẫn thực hiện gia hạn, giảm một số
khoản thu NSNN; Thông tư 30/2013/TT-BTC ngày 18/3/2013 về việc hoàn lại tiền thuế bảo vệ môi trường đã
nộp từ ngày 01/01/2012 đến hết ngày 14/11/2012 đối với túi nylon làm bao bì đóng gói sẵn sản phẩm theo quy định tại Nghị định 69/2012/NĐ-CP; Nghị định 23/2013/NĐ-CP ngày 25/3/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 45/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 về lệ phí trước bạ; Nghị định 92/2013/NĐ-CP ngày 13/8/2013
quy định chi tiết một số điều có hiệu lực từ 01/7/2013 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của thuế giá trị gia tăng;…
115
Cùng với việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thì công tác quản lý thu
NSNN, chống thất thu NSNN cũng được quan tâm, chú trọng64
. Trong đó, tập trung rà
soát, nắm chắc đối tượng, nguồn thu, phấn đấu thu ở các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn
có khả năng tăng thu để bù đắp các phần giảm thu do thực hiện chính sách giảm, giãn
thời hạn nộp thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế, quyết
toán thuế được tăng cường, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thuế,
phí, lệ phí và thu khác vào NSNN. Thực hiện quản lý chặt chẽ công tác hoàn thuế, bảo
đảm đúng đối tượng, đúng chế độ quy định, công khai, minh bạch, chống thất thu và
xử lý nợ đọng.
Chính sách chi NSNN trong nửa đầu năm 2013 không có gì khác biệt so với
năm 2012 nhưng sau quý II/2013, do tác động của việc thực hiện chính sách thu
NSNN cũng như ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế chậm lại65
đã tác động làm giảm
thu NSNN gây khó khăn trong việc đảm bảo nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ đặt ra
nên chính sách chi NSNN đã được điều chỉnh theo hướng chặt chẽ, tiết kiệm, đồng
thời thực hiện rà soát, cơ cấu lại chi NSNN, tăng cường kiểm soát quản lý chi
NSNN66
.
Một số điều chỉnh trong chính sách chi NSNN 2013
Thực hiện cắt giảm chi đối với một số khoản chi NSNN67
, đồng thời rà soát,
sắp xếp lại các nhiệm vụ chi thường xuyên, thực hiện tiết kiệm thêm 10% dự toán chi
thường xuyên còn lại của 7 tháng cuối năm 2013 (không bao gồm các khoản: chi tiền
lương, phụ cấp theo lương, các khoản chi cho con người theo chế độ; tiết kiệm 10%
chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo dự toán đầu năm và tiết kiệm
10% chi thường xuyên tăng thêm đang giữ lại ở các cấp ngân sách); tiết kiệm tối thiểu
20% chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu; tiết kiệm tối thiểu
30% dự toán kinh phí đã phân bổ cho các nhiệm vụ chi tổ chức lễ hội, tiếp khách, hội
nghị, hội thảo, đi công tác trong và ngoài nước,... Không bổ sung các đề án, chương
trình, ban hành các chính sách mới hoặc nâng định mức làm tăng chi NSNN khi chưa
xác định được nguồn đảm bảo. Đối với chi đầu tư, thực hiện kiểm soát chặt chẽ việc
lập, thẩm định, phê duyệt các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn NSNN và TPCP; tăng
cường công tác quản lý nhằm giảm tối đa nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) thông
qua việc: i) Rà soát tình hình nợ đọng XDCB và xác định trách nhiệm của từng cấp,
cơ quan; ii) Cân đối nguồn xử lý nợ đọng XDCB; iii) Không yêu cầu doanh nghiệp
ứng vốn thực hiện dự án khi chưa được bố trí vốn, dẫn đến hậu quả phát sinh nợ đọng
XDCB; iv) Không sử dụng vốn vay ngân sách địa phương để bố trí cho các dự án khởi
công mới khi chưa xác định hoặc thẩm định được nguồn vốn để hoàn trả.
64 Chỉ thị 09/CT-TTg ngày ngày 24/5/2013 về tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính –
NSNN năm 2013. 65 Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2013 đạt 5%. 66 Chỉ thị 09/CT-TTg ngày 24/5/2013 về tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính – NSNN
năm 2013, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/6/2013 về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ
bản từ nguồn NSNN và trái phiếu Chính phủ (TPCP). 67 Thực hiện cắt giảm chi, thu hồi để bổ sung dự phòng ngân sách trung ương và dự phòng ngân sách địa
phương đối với: số vốn đầu tư và kinh phí chi thường xuyên đã giao trong dự toán năm 2013 của các Bộ, cơ
quan Trung ương và địa phương nhưng đến ngày 30 tháng 6 năm 2013 chưa phân bổ hoặc phân bổ không đúng quy định; vốn đầu tư thuộc kế hoạch năm 2013 đã phân bổ cho các dự án nhưng đến ngày 30 tháng 6 năm 2013
chưa triển khai thực hiện và các khoản vốn, kinh phí đơn vị sử dụng sai quy định. Cắt giảm hoặc lùi thời gian
thực hiện các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp thiết, các khoản chi mua sắm trang thiết bị, xe ô tô; hạn chế tối đa
tổ chức hội nghị, hội thảo quốc gia, lễ khởi công, khánh thành, công bố quyết định…
116
(Nguồn: Chỉ thị 09/CT-TTg ngày 24/5/2013 về tăng cường chỉ đạo điều hành
thực hiện nhiệm vụ tài chính – NSNN năm 2013, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày
28/6/2013 về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn
NSNN và trái phiếu Chính phủ)
Có thể thấy, trong bối cảnh kinh tế suy giảm, tăng trưởng thấp với những khó
khăn kéo dài từ những năm trước sang thì việc điều chỉnh chính sách tài khóa năm
2013 xét về ngắn hạn là phù hợp với tình hình và bối cảnh. Việc ban hành Nghị quyết
02/NQ-CP ngày 07/01/2013 ngay từ đầu năm đã thể hiện sự chủ động, tích cực của
Chính phủ và nỗ lực, quyết tâm giải quyết những khó khăn, vướng mắc nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Kết quả, thu NSNN đạt thấp so với tiến độ đề ra và chậm hơn so với cùng
kỳ các năm trước. Chi NSNN đảm bảo nguồn lực thực hiện tốt các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội nhưng áp lực chi NSNN lớn.
+ Thu NSNN đạt thấp so với tiến độ đề ra và chậm hơn so với cùng kỳ các năm trước
Trên cơ sở thực hiện chính sách thu, chi NSNN những tháng đầu năm 2013,
tổng thu NSNN tháng 8 bằng 6,1% dự toán năm, đạt mức thấp trong các tháng kể từ
đầu năm 201368
. So với cùng kỳ các năm trước thì số thu NSNN tháng 8/2013 vẫn đạt
cao hơn nhưng tốc độ tăng thu đã có xu hướng giảm đi rõ rệt. Lũy kế thu NSNN 8 tháng
đầu năm 2013 ước đạt 59,4% dự toán69
, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó,
thu nội địa đạt 58,2% dự toán70
, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2012 (không kể thu
tiền sử dụng đất thì đạt 59,4% dự toán, tăng 13,1% so với cùng kỳ); thu từ dầu thô đạt
73,7% dự toán71
; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 59,4% dự toán, sau khi thực hiện
hoàn thuế giá trị gia tăng, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 54,1%
dự toán, tăng 18,3% cùng kỳ năm 2012.
Đến hết tháng 8/2013, ước tính có 23 địa phương thu đạt yêu cầu tiến độ dự
toán, chủ yếu là các địa phương có số thu nhỏ; 40 địa phương còn lại tiến độ thu chưa
đạt yêu cầu, trong đó có các địa phương trọng điểm thu như: Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Bình Dương, Bà Rịa -
Vũng Tàu... So với cùng kỳ năm 2012, có 57 địa phương thu đạt và vượt, tuy nhiên
mức tăng không lớn; 6 địa phương còn lại (Hà Nội, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum,
Đắc Lắc và Đắk Nông) thu thấp hơn.
Có thể thấy, thu NSNN đạt thấp so với tiến độ đề ra72
và chậm hơn so với cùng
kỳ các năm trước. Số thu nội địa đạt thấp là do: (i) thực hiện các biện pháp giãn, giảm
thuế theo Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp73
; (ii) tăng trưởng kinh tế đạt thấp74
so với kế hoạch đề ra cũng tác động ảnh
68
Xét về số tuyệt đối thì trừ tháng 2 (do vào dịp Tết Nguyên đán nên số thu NSNN tháng 2/2013 đạt thấp so với
các tháng còn lại), số thu NSNN tháng 8 đạt thấp nhất trong tất cả các tháng đầu năm 2013. 69 Không kể số ghi thu ghi chi đầu tư trở lại cho Tập đoàn Dầu khí từ khoản tiền lãi dầu khí nước chủ nhà phát
sinh giai đoạn 2006-2011 thì thu NSNN 8 tháng đạt 58,3% dự toán, tăng 6,6% so với cùng kỳ 2012. 70 So với dự toán, cùng kỳ năm 2010 đạt 74,2%; năm 2011 đạt 74,4% dự toán; năm 2012 đạt 60,4% dự toán.
71 Trên cơ sở giá dầu bình quân 8 tháng đạt khoảng 111,5 USD/thùng, tăng 21,5 USD/thùng so với giá xây dựng
dự toán; sản lượng thanh toán ước đạt 9,9 triệu tấn, bằng 70% kế hoạch.
72 Theo tiến độ dự toán thì thu NSNN 8 tháng 2013 phải đạt 67% dự toán. 73 Dự kiến tác động của việc thực hiện Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 làm giảm thu NSNN năm 2013
khoảng hơn 5.300 tỷ đồng. Thực tế triển khai thực hiện thì số thuế GTGT được gia hạn tạm tính đến 23/8/2013
117
hưởng tới số thu ngân sách; (iii) tình hình doanh nghiệp mặc dù đã được cải thiện hơn
nhưng mức độ cải thiện còn hạn chế75
; (iv) diễn biến thị trường bất động sản những
tháng đầu năm còn trầm lắng đã ảnh hưởng tới số thu từ đất. Đối với thu từ hoạt động
xuất nhập khẩu, tiến độ thu ngân sách từ lĩnh vực này đạt thấp chủ yếu do kim ngạch
xuất nhập khẩu của một số mặt hàng có giá trị lớn, thuế suất cao giảm mạnh76
. Riêng
số thu NSNN từ dầu đạt khá chủ yếu là do sản lượng khai thác tăng hơn so với các
năm trước77
và giá dầu thanh toán bình quân cao hơn so với giá xây dựng dự toán. Kết
quả thu NSNN đạt thấp cũng cho thấy nền kinh tế còn nhiều khó khăn đòi hỏi cần
phải được tiếp tục tháo gỡ những rào cản và tăng trưởng kinh tế cũng như tăng trưởng
thu NSNN phụ thuộc rất nhiều vào những hành động chính sách trong những tháng
còn lại của năm 2013.
+ Chi NSNN đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nhưng
áp lực chi NSNN cao
Chi NSNN tháng 8/2013 ước đạt 7,7% dự toán năm, thấp hơn chút so với cùng
kỳ các năm trước78
; Lũy kế chi NSNN 8 tháng đầu năm 2013 ước đạt 61,8% dự toán,
tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó chi đầu tư phát triển ước đạt 60,6% dự
toán79
; chi trả nợ, viện trợ đạt 65,7% dự toán, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2012; chi
phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính (bao
gồm chi thực hiện cải cách tiền lương) ước đạt 63,7% dự toán, tăng 9,7% so với cùng
kỳ năm 2012. Nhìn chung, trong 8 tháng đầu năm, mặc dù thu NSNN khó khăn nhưng
công tác tổ chức điều hành NSNN đã được triển khai tích cực, chủ động, đảm bảo
nguồn đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi theo dự toán; đảm bảo nguồn kinh phí thực hiện
chính sách tăng lương cơ sở (từ 1.050.000 đồng/tháng lên 1.150.000 đồng/tháng) từ
01/7/2013 và bổ sung kinh phí cho công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai,
là 4.245,1 tỷ đồng cho 104.015 doanh nghiệp, thuế TNDN được gia hạn là hơn 952,5 tỷ đồng của 45.252 lượt
doanh nghiệp. 74 Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2013 đạt 5%. 75 Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng dần theo từng tháng (5 tháng tăng 4,8%; 6 tháng tăng 7,6%; 7
tháng tăng 8,4% và 8 tháng ước tăng 9,5% so với cùng kỳ). Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tuy vẫn tăng
so với cùng kỳ nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần (4 tháng tăng 16,9%; 5 tháng tăng 13%; 6 tháng tăng
12,3%; 7 tháng tăng 11,1%; 8 tháng tăng 11,3%). Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại hoạt
động cũng tăng dần qua từng tháng (4 tháng khoảng 8,3 nghìn DN, 5 tháng khoảng 8,8 nghìn DN, 6 tháng
khoảng 9,3 nghìn DN; 7 tháng khoảng 10 nghìn DN và 8 tháng có khoảng 10,7 nghìn DN). Tuy nhiên, số DN
ngừng hoạt động vẫn tăng so với cùng kỳ. Số vốn đăng ký của DN thành lập mới vẫn có xu hướng giảm (4
tháng 2013 giảm 14,1%; 5 tháng giảm 16,3%; 6 tháng giảm 19,9% và 7 tháng giảm 17,5%) do những khó khăn
của nền kinh tế và khả năng huy động vốn của nhà đầu tư. Một số ngành có số doanh nghiệp thành lập mới giảm so với cùng kỳ năm 2012, như nông, lâm nghiệp và thủy sản, kinh doanh bất động sản, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, xây dựng; sản xuất, phân phối điện, gas. Một số ngành có số doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh có thời
hạn và ngừng hoạt động tăng như nông, lâm nghiệp và thủy sản; tài chính ngân hàng và bảo hiểm; kinh doanh
bất động sản; xây dựng; sản xuất, phân phối điện, nước, gas; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô xe máy; vận tải kho
bãi, khai khoáng; giáo dục đào tạo. 76 Đến tháng 8/2013, mặt hàng than đá giảm 0,3% về lượng và 20,3% về giá trị; xăng dầu các loại giảm 26% về
lượng và 28% về giá trị; xe máy nguyên chiếc giảm 35,5% về lượng và 12,5% về giá trị; linh kiện và phụ tùng
xe máy giảm 22,4% về giá trị....
77 8 tháng năm 2013 sản lượng dầu khai thác ước đạt 9,9 triệu tấn, côn số này năm 2012 là 9,6 triệu tấn; năm
2011 là 8,9 triệu tấn; năm 2012 là 9,2 triệu tấn.
78 Chi NSNN tháng 8/2012 và 8/2011 so với dự toán năm đều đạt 7,8% và chi NSNN 8/2010 là 8,4% (Nguồn:
Bộ Tài chính). 79 trong đó, giải ngân vốn đầu tư XDCB vốn NSNN đạt khoảng 60,3% dự toán. Ngoài ra, NSNN đã thực hiện
cấp bù lãi suất tín dụng nhà nước cho Ngân hàng Phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 73,9% dự toán;
chi cho vay chính sách đối với học sinh sinh viên đạt 71% dự toán; chi bổ sung dự trữ quốc gia đạt 69,1% dự
toán....
118
dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng, an ninh... Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế vẫn còn
nhiều khó khăn, áp lực tăng chi vẫn cao (trong 8 tháng đầu năm số lượng các chính sách
mới làm tăng chi NSNN80
vẫn được ban hành nhiều đã ảnh hưởng tới việc cân đối, quản
lý, điều hành NSNN).
+ Tái cơ cấu đầu tư công còn chậm
Tái cơ cấu đầu tư công được triển khai thực hiện trong tất cả các cấp, các
ngành, các doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được những kết quả bước đầu về cơ bản
là đúng hướng. Việc rà soát và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến
phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính công gắn với quá trình tái cơ cấu kinh
tế đã được triển khai mạnh mẽ81
. Theo đó, việc lập và giao kế hoạch vốn đầu tư trung
hạn, hàng năm có điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế đã tạo điều kiện cho
các bộ, ngành, địa phương chủ động cân đối nguồn vốn nhà nước và huy động các
nguồn vốn khác cho đầu tư. Việc chuyển đổi phương thức giao kế hoạch vốn TPCP từ
giao tổng số vốn và danh mục dự án sử dụng vốn TPCP (không ghi kế hoạch cụ thể
từng dự án) sang giao danh mục và chi tiết mức vốn TPCP giai đoạn 2012-2015 cho
từng dự án giúp khắc phục được nhược điểm của phương thức giao kế hoạch vốn
trước đây là dễ phân bổ vốn sai đối tượng, đầu tư dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả,
không đảm bảo khả năng cân đối vốn do thực hiện không theo đúng mức vốn kế
hoạch đã giao, dễ gây nợ đọng trong XDCB... Việc phân bổ vốn kế hoạch đầu tư trung
hạn và kế hoạch đầu tư hàng năm được thực hiện công khai, minh bạch theo các tiêu
chí, định mức phân bổ vốn. Việc rà soát danh mục các dự án đầu tư XDCB và bố trí
phân bổ vốn đầu tư từ nguồn NSNN và nguồn TPCP theo các ưu tiên đã được quan
tâm, chú trọng. Trên cơ sở rà soát, điều chỉnh vốn đầu tư từ NSNN, quy mô đầu tư từ
NSNN đảm bảo mục tiêu đề ra tại Quyết định 339/QĐ-TTg ngày 19/02/201382
, cơ cấu
đầu tư từ NSNN đảm bảo các ưu tiên theo các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, giao
thông, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh. Theo đó, vốn nhà nước được đầu tư một
cách tập trung, hiệu quả hơn. Từng bước khắc phục tình trạng dàn trải, thất thoát, lãng
phí. Trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các ngành được quy định cụ thể hơn, góp
phần tích cực vào việc phòng chống tiêu cực, tham nhũng trong đầu tư từ nguồn vốn
nhà nước.
80
Như chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
đến 575.000 đồng/tháng (Quyết định 12/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013); Tăng thêm 9,6% mức lương hưu từ
01/7/2013 (Nghị định 73/2013/NĐ-Cp ngày 15/7/2013); Tăng lương cơ sở của cán bộ, công chức lên 1.150 triệu
đồng/tháng (Nghị định 66/2013/NĐ-Cp ngày 27/6/2013); Chính sách hỗ trợ nhà ở cho người có công có hộ
khẩu trước 15/6/2013 (Quyết định 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013); Tăng mức phụ cấp đặc thù đối với cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm công tác thi hành án hình sự (Quyết định 10/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013);…
81 như đã xây dựng và ban hành Nghị định số 66/2012/NĐ-CP ngày 06/9/2012 quy định việc xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; Nghị định 10/2013/NĐ-CP ngày 11/01/2013 về quản lý, sử
dụng tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; Thông tư 161/2012/TT-BTC ngày 2/10/2012 quy định chế độ kiểm
soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN; đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1792/CT-
TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn NSNN và vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP), Chỉ thị
27/CT-TTg ngày 10/10/2012 về những giải pháp chủ yếu khắc phục tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) tại
các địa phương; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/6/2013 về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ
bản từ nguồn NSNN và trái phiếu Chính phủ;...
82 Chi đầu tư từ NSNN/tổng chi NSNN năm 2012 là 21,5%. Theo Quyết định 339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013:
“… hàng năm tăng dần tiết kiệm từ NSNN cho đầu tư; dành khoảng 20% - 25% tổng chi ngân sách cho đầu tư
phát triển. Đổi mới cơ bản cơ chế phân bố và quản lý sử dụng vốn, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân
tán và lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước”.
119
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng cho thấy tiến trình tái cơ cấu
đầu tư công còn chậm. Nguyên nhân là do một số thể chế liên quan tới tái cơ cấu đầu
tư công chậm được ban hành như Luật Quy hoạch, Luật Đô thị, Luật Quản lý, sử dụng
vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, Luật NSNN sửa đổi, Luật Đầu tư
công,… Ngoài ra, do trước đây nhiều dự án được phê duyệt vượt quá khả năng cân
đối vốn nên hiện nay vẫn chưa xử lý xong, đặc biệt là khu vực địa phương quản lý.
Việc giảm mạnh tỷ lệ đầu tư nhà nước thời gian gần đây cũng là nhân tố ảnh hưởng
tới tái cơ cấu đầu tư công, hơn thế việc giảm nhanh và mạnh tỷ lệ đầu tư của nhà nước
trong bối cảnh tăng trưởng vẫn dựa vào yếu tố vốn là chủ yếu đã tác động làm cho
tăng trưởng kinh tế giảm sút.
- Số bội chi NSNN 8 tháng đầu năm 2013 tăng cao so với cùng kỳ các năm
trước đó.
Với việc thực hiện các nhiệm vụ chi NSNN trong 8 tháng đầu năm 2013 đã làm
bội chi NSNN tăng hơn so với các năm trước đó (bội chi NSNN 8 tháng đầu năm
2013 bằng 74% dự toán năm, tăng 17% so với cùng kỳ 2012; trong khi đó bội chi
NSNN 8 tháng năm 2012 là 72,8% dự toán; năm 2011 là 31,8% dự toán và năm 2010
là 33,7% dự toán).
- Huy động vốn cho đầu tư phát triển trong những tháng đầu năm khá thuận
lợi, nợ công vẫn duy trì trong giới hạn đề ra.
Trong 8 tháng đầu năm 2013, Bộ Tài chính đã chủ động thực hiện huy động
các nguồn vốn nhàn rỗi từ các quỹ của nhà nước, phát hành trái phiếu Chính phủ cho
bù đắp bội chi NSNN và đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ. Trong phát hành trái
phiếu Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ, thực hiện huy động với
lãi suất hợp lý, tạo điều kiện giảm dần lãi suất thị trường, giảm gánh nặng cho ngân
sách, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, giảm dần lãi suất thị
trường, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Tổng số huy động vốn qua phát hành
TPCP đạt 68,5% kế hoạch được giao. Trong đó, đã tổ chức huy động đạt 69,1% nhiệm
vụ huy động vốn trong nước để bù đắp bội chi NSNN và cho đầu tư phát triển năm
2013. So với tháng 7, tình hình huy động TPCP tháng 8 diễn biến tuy có khả quan hơn
(khối lượng huy động tăng hơn 2 lần so với tháng 7) song vẫn còn thấp so với yêu cầu
đặt ra cho những tháng còn lại của năm 2013.
Về vay nợ nước ngoài, trong 8 tháng 2013, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi
được ký kết cao hơn 29,12% so với cùng kỳ năm 2012. Trị giá giải ngân trong tháng
8/2013 là hơn 420 triệu USD. Lũy kế giải ngân các dự án vay nợ, viện trợ 8 tháng
2013 là hơn 2.500 triệu USD, trong đó có 671 triệu USD giải ngân trực tiếp cho ngân
sách. Việc giải ngân được thực hiện kịp thời, đúng theo các quy định của các hiệp
định vay, hợp đồng uỷ quyền cho vay lại đã ký. Ngoài ra, tính đến 20/8/2013, tổng giá
trị các khoản vay có bảo lãnh Chính phủ đã cấp khoảng 1.990 triệu USD, trong đó cấp
bảo lãnh đối với các khoản vay nước ngoài chiếm 82,6%, bảo lãnh vay trong nước
chiếm 17,4%.
Về nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia, tính đến cuối năm
2012, so với GDP dư nợ công đạt 55,5%; dư nợ Chính phủ đạt 43,1% và dư nợ nước
ngoài của quốc gia là 42% nằm trong giới hạn quy định.
2. Thách thức trong trung hạn và những vấn đề đặt ra
120
Có thể thấy, các kết quả đạt được trong thực hiện chính sách tài khóa những
tháng đầu năm 2013 có cả kết quả tích cực và kết quả tiêu cực. Việc thực hiện chính
sách tài khóa cũng cho thấy những tồn tại và thách thức đặt ra đòi hỏi cần phải được
giải quyết trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng
nguồn lực tài chính nhà nước thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, gắn với các đột phá chiến lược đã đề
ra. Thách thức trong ngắn hạn hiện nay là làm thế nào để thực hiện chính sách tài
khóa đạt được các mục tiêu kế hoạch tài chính – NSNN năm 2013 đã đề ra, tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
năm 2013, đồng thời đảm bảo thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ thu, chi NSNN theo
dự toán đã được Quốc hội thông qua. Thách thức trong trung hạn là chính sách tài
khóa đứng trước 4 áp lực: (1) từng bước giảm dần tỷ lệ động viên vào NSNN so với
GDP, (2) nhu cầu tăng chi đáp ứng các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt là chính sách an sinh xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng; (3) đảm bảo tính bền
vững của NSNN; và (4) hỗ trợ thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược gắn với quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
- Tỷ lệ động viên vào NSNN có xu hướng giảm.
Xem xét mức độ động viên ngân sách cho thấy quy mô thu NSNN so với GDP
bình quân giai đoạn 2001-2010 là 26,6% GDP, trong đó thu ngân sách từ thuế, phí đạt
24,2% GDP. Trong 3 năm gần đây, mức độ động viên ngân sách có xu hướng giảm
(năm 2011 là 28,5%; năm 2012 là 22,9%; năm 2013 tỷ lệ động viên kế hoạch là
24,2% GDP, trung bình ba năm 2011-2013 là 25,2% GDP, thấp hơn so với tỷ lệ huy
động bình quân của 10 năm trước đó), khả năng chỉ đạt 20-21% GDP83
. Đây cũng là
xu hướng phù hợp với Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội, Chiến lược
tài chính đến năm 2020 và Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 đều yêu cầu
phải giảm dần tỷ lệ động viên vào NSNN so với GDP. Tuy nhiên, căn cứ tỷ lệ huy
động thực tế 3 năm 2011-2013 và dự kiến 2 năm 2014-2015, khả năng tỷ lệ huy động
ngân sách nhà nước trên GDP dự kiến khó đạt 23 – 24% GDP như mục tiêu đề ra.
Xét về cơ cấu thu ngân sách, thu nội địa chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu NSNN
và có xu hướng tăng. Thu NSNN từ các sắc thuế gắn trực tiếp với sản xuất, kinh doanh
trong nước như thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT trong tổng thu NSNN ngày càng
tăng. Nhờ đó, thu nội địa (không kể dầu thô) trong tổng thu NSNN đã tăng từ 50,7% năm
2001 lên 62,6% năm 2012 và ước đạt 66,8% năm 2013.
Tuy nhiên, tốc độ tăng thu ngân sách trong những năm gần đây cũng thể hiện
xu hướng giảm mạnh từ 29,4% năm 2010 xuống 9,8% năm 2013. Hơn nữa, cơ cấu
động viên NSNN mặc dù đã có chuyển biến tích cực nhưng tỷ lệ những khoản thu
“không thường xuyên” vẫn còn cao (dầu thô, giao quyền sử dụng đất, bán tài sản
thuộc sở hữu nhà nước), chiếm khoảng ¼ tổng thu NSNN. Bên cạnh đó, tỷ lệ động
viên ngân sách có xu hướng giảm đang là thách thức đối với Việt Nam trong việc đảm
bảo nguồn thu cho NSNN trong những năm trước mắt. Trong những năm qua, việc
thực hiện các biện pháp miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế và các khoản thu
83 Nguyên nhân thu ngân sách nhà nước 2 năm 2012-2013 đạt thấp chủ yếu do yếu tố kinh tế (tăng trưởng thấp,
các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,…), tác động do yêu cầu đổi mới cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng, cộng với ảnh hưởng của việc điều chỉnh chính sách miễn giảm thuế, tạo điều kiện tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp, thu hút đầu tư mới.
121
NSNN đã tác động làm giảm thu NSNN, bên cạnh đó việc thực hiện Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế TNCN và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế TNDN, thuế GTGT cũng sẽ làm giảm thu NSNN trong một số năm đầu thực
hiện. Tuy nhiên, xét về dài hạn việc giảm mức động viên sẽ tạo điều kiện để doanh
nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy tái đầu tư. Khi doanh nghiệp phát
triển sẽ tạo ra nhiều hàng hóa, của cải vật chất cho xã hội, tạo thêm nhiều lợi nhuận,
nhờ đó nguồn thu NSNN cũng sẽ ổn định và tăng trưởng trong trung và dài hạn.
Trong xu thế giảm tỷ lệ huy động vào NSNN đòi hỏi việc huy động các nguồn
lực vào NSNN phải hiệu quả, có tính bền vững. Tuy nhiên, trong thời gian qua, mặc
dù các chính sách về thu NSNN đã được ban hành và thường xuyên được hoàn thiện
nhưng việc huy động một số nguồn lực tài chính còn chưa hiệu quả như huy động
nguồn lực từ đất đai, hay việc quy định tỷ lệ đầu tư trở lại chưa rõ ràng và có sự khác
nhau giữa các ngành, lĩnh vực cũng làm cho hiệu quả huy động nguồn lực bị hạn chế.
- Áp lực chi NSNN gia tăng cùng với xu thế hình thành các quỹ tài chính
nhà nước ngoài ngân sách làm phân tán nguồn lực tài chính nhà nước
Quy mô chi NSNN xét về số tuyệt đối và so với GDP giai đoạn 2001-2009 cho
thấy xu thế tăng dần qua các năm84
. Tuy nhiên trong 3 năm trở lại đây quy mô chi
NSNN so với GDP có xu thế giảm, tốc độ tăng chi cũng giảm đáng kể. Điều này thể
hiện kết quả của việc thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ trong thời gian qua. Xét
về cơ cấu chi NSNN, trong ba khoản chi lớn là chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển
và chi trả nợ viện trợ thì chi thường xuyên chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi NSNN và
có xu hướng tăng lên qua các năm, trong khi đó hai khoản chi còn lại có xu hướng
giảm, đặc biệt là chi đầu tư phát triển.
Việc giảm chi đầu tư từ NSNN thời gian qua cũng đã phần nào đã tác động làm
sụt giảm mạnh tỷ trọng đầu tư xã hội so với GDP. Trong bối cảnh cơ cấu và cơ chế
vận hành nền kinh tế không có gì thay đổi, vốn đầu tư vẫn là yếu tố chủ yếu quyết
định tăng trưởng (tức là mô hình tăng trưởng vẫn dựa vào yếu tố vốn là chủ yếu) trong
khi quá trình chuyển đổi, tái cơ cấu kinh tế chưa có nhiều chuyển biến đã tác động tới
sự suy giảm lâu dài của tăng trưởng cũng như tác động tới sức khỏe của doanh nghiệp
bị suy yếu do cầu giảm.
Như vậy, xét trong mối quan hệ giữa thu và chi NSNN thì trong khi quy mô thu
NSNN khó có thể duy trì ở mức như thời gian qua, áp lực tăng chi NSNN để thực hiện
các chính sách an sinh xã hội đang có xu hướng mở rộng. Việc mở rộng chi thường
xuyên cũng là vấn đề cần phải xem xét vì các khoản chi này thường khó cắt giảm hơn
so với chi đầu tư phát triển. Ngoài ra, tình trạng chi bổ sung dự toán để thực hiện các
chính sách mới, đặc biệt là các đề án được cấp có thẩm quyền quyết định đang có xu
hướng gia tăng đã ảnh hưởng tới công tác lập dự toán ngân sách hàng năm cũng như
quản lý, điều hành NSNN. Mặt khác, việc thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái
cơ cấu kinh tế là một quá trình lâu dài, mặc dù không đề cập tới các chi phí cho việc
thực hiện các đột phá chiến lược cũng như thực hiện tái cơ cấu kinh tế nhưng cũng có
thể thấy rằng để thực hiện các mục tiêu này cũng đòi hỏi phải có những nguồn lực
nhất định. Điển hình là việc thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng với nhu cầu vốn lớn trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế đang chậm lại, huy
động thêm nguồn lực vào ngân sách khó khăn và việc thực hiện huy động vốn theo
84 Trừ năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính
122
mô hình đối tác công tư mặc dù đã được thí điểm áp dụng85
nhưng trên thực tế vẫn
chưa có khung khổ pháp lý thích hợp có hiệu quả.
Để thực hiện một số mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mang tính chất ngành,
lĩnh vực, trong nhiều năm qua Chính phủ đã ban hành và thực hiện các chương trình
mục tiêu quốc gia và chương trình mục tiêu nhằm đạt được các mục tiêu trong từng
ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, các chương trình mục tiêu hiện đang có xu hướng trở thành
một nội dung chi hàng năm (chi NSNN cho các CTMTQG khá lớn, chiếm 3,52% tổng
chi NSNN) trong khi kết quả từ việc đầu tư từ ngân sách thực hiện các mục tiêu lại chưa
rõ ràng, nhiều mục tiêu đạt thấp so với kế hoạch đề ra86
, một số chương trình có các nội
dung trùng lắp. Tỷ trọng chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách cho các chương
trình mục tiêu cũng đang có xu hướng tăng lên dẫn tới sự không rõ ràng trong thực hiện
các mục tiêu phát triển. Hơn thế, việc hình thành các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân
sách nhằm thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể cũng đang làm phân tán nguồn lực tài
chính nhà nước.
- Bội chi ngân sách kéo dài
Bội chi NSNN sau một số năm tăng cao đã có sự cải thiện hơn trong những
năm gần đây. Bội chi NSNN năm 2013 được Quốc hội thông qua là 4,8%, bội chi
NSNN năm 2012 thực hiện bằng mức Quốc hội phê duyệt 4,8% GDP (tính theo GDP
kế hoạch) và bằng 4,3% GDP (tính theo GDP thực tế). Bội chi NSNN năm 2011 (theo
số quyết toán) là 4,4% GDP, giảm đáng kể so với mức bình quân 5,2% của giai đoạn
2001-2010. Có thể thấy, để hạn chế sự gia tăng của nợ công và từng bước mở rộng
không gian tài khóa, trong những năm gần đây Việt Nam đã chủ động thực hiện một
số biện pháp để giảm dần mức bội chi ngân sách, trong đó có việc sử dụng một số
khoản tăng thu để ưu tiên bù đắp bội chi NSNN. Với mức bội chi NSNN năm 2013 là
4,8% GDP, dự kiến đến 31/12/2013 dư nợ công khoảng 56% GDP, dư nợ Chính phủ
khoảng 43,5% GDP và dư nợ quốc gia khoảng 45,2% GDP. Nhìn chung, quy mô nợ
công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia hiện đều nằm trong giới hạn quy
định, đảm bảo an toàn, an ninh tài chính quốc gia.
Tuy nhiên, bội chi NSNN kéo dài ngay cả trong những năm có tốc độ tăng thu
cao sẽ là thách thức đối với công tác quản lý, điều hành ngân sách do không gian tài
khóa bị thu hẹp. Hơn nữa, sự gia tăng của nợ Chính phủ và nợ công trong điều kiện
bội chi ngân sách kéo dài dễ tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn đối với nền kinh tế. Đồng
thời khi dư nợ công cao sẽ gây khó khăn cho công tác huy động vốn của Chính phủ,
chi phí huy động sẽ cao hơn, mức độ tín nhiệm sẽ giảm đi. Như vậy, để đảm bảo khả
năng tích lũy, mở rộng không gian tài khóa thì cần sử dụng nguồn tăng thu nhiều hơn
cho việc giảm nợ Chính phủ, nợ công. Đặc biệt là tái khởi động việc nghiên cứu và
triển khai xây dựng Quỹ kích thích kinh tế theo Nghị quyết 36/2009/QH12 để tạo cơ
sở vững chắc cho điều hành chính sách tài khóa “nghịch chu kỳ”.
- Nợ công hiện nằm trong giới hạn quy định nhưng đã tiệm cận ngưỡng
Tính đến cuối năm 2012, các chỉ số về nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài
của quốc gia vẫn trong giới hạn quy định, mặc dù khi xem xét nghĩa vụ trả nợ so với
85 Quyết định 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối
tác công tư.
86 Ví dụ như mục tiêu về số làng nghề đang bị ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng của Chương trình khắc
phục ô nhiễm và cải thiện môi trường chỉ đạt 8,5% mục tiêu giai đoạn 2012-2015.
123
tổng thu thường xuyên trong những năm gần đây có xu hướng giảm nhưng xét về số
tuyệt đối lại tăng lên. Đặc biệt khi xem xét xu hướng vay nợ trong thời gian qua cùng
với các chỉ tiêu về nợ công dự kiến cho giai đoạn 2013-2015 theo Quyết định 689/QĐ-
TTg ngày 04/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình quản lý nợ trung hạn
cho thấy giới hạn nợ đã tiệm cận ngưỡng (dự kiến đến 2015 nợ công so với GDP là
62,6%; nợ Chính phủ so với GDP là 48,5%). Điều này chỉ ra rằng không gian tài khóa
cho việc vay nợ bị giới hạn, đồng nghĩa với điều này là việc mở rộng chính sách tài
khóa thông qua tăng vay nợ và chi tiêu ngân sách là hạn hẹp trong thời gian tới. Đây
chính là thách thức lớn trong điều kiện tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại, sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp khó khăn, đầu tư tư nhân giảm sút và đòi hỏi nhu cầu
đầu tư từ khu vực nhà nước tăng lên.
- Cơ chế giằng co giữa trung ương và địa phương trong việc phân cấp ngân
sách
Bên cạnh những kết quả tích cực trong thực hiện Luật NSNN năm 2002 thời
gian qua cũng cho thấy những hạn chế trong việc thi hành Luật NSNN 2002. Trong đó,
việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong quá trình phân cấp
NSNN và quan hệ giữa các cơ quan trung ương trong quá trình phân công thực hiện
nhiệm vụ về NSNN. Cùng với sự mở rộng về số tuyệt đối của quy mô thu ngân sách
chung, quy mô các khoản thu mà NSĐP được hưởng 100% và các khoản thu phân chia
giữa NSTW và NSĐP có xu hướng tăng. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế những năm
gần đây khó khăn, tốc độ tăng của các khoản thu mà NSĐP được hưởng 100% có xu
hướng chậm hơn so với tốc độ tăng các khoản thu ngân sách chung nhưng xét theo tỷ lệ
tương đối, tỷ trọng thu NSĐP trong tổng thu NSNN đã có xu hướng tăng đáng kể kể từ
sau khi có Luật NSNN (2002), từ 24% năm 2003 lên 38% năm 2010 (không bao gồm
số bổ sung từ NSTW cho NSĐP). Số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tự cân đối
được ngân sách và có điều tiết về trung ương trong thời kỳ ổn định 2011-2015 là 13 địa
phương. Tổng chi NSĐP trong tổng chi NSNN đã tăng từ 47,5% năm 2003 (trước thời
điểm thực hiện Luật NSNN (2002) lên 52,1% năm 2010 (bao gồm cả số bổ sung cân
đối), ngược lại, quy mô chi của NSTW giảm đáng kể, từ 52,5% xuống 46,9% trong
cùng giai đoạn.
Tuy nhiên, sự chủ động của chính quyền địa phương trong việc huy động nguồn
thu còn hạn chế vì các sắc thuế được phân chia 100% cho NSĐP có hiệu suất thu thuế
thấp và chính quyền địa phương bị hạn chế về khả năng tăng nguồn thu cho mình ngoài
các chính sách thu do trung ương quy định. Hơn nữa, ngoài các loại phí, lệ phí do trung
ương thống nhất ban hành, địa phương chỉ có quyền quyết định một số loại phí, lệ phí
theo phân cấp của Chính phủ và được quy định mức thu một số loại phí, lệ phí trong
khung pháp luật quy định. Do đó, phần lớn ngân sách cho chính quyền địa phương là
nguồn thu phân chia và số bổ sung từ NSTW, trong đó có nhiều tỉnh đang phải dựa
đáng kể vào bổ sung từ NSTW. Trong khi đó, nhu cầu tăng chi của các cấp chính quyền
địa phương không ngừng được mở rộng, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn. Theo cơ chế hiện hành, các tỉnh có số thu ngân sách tăng được tăng chi
trong thời kỳ ổn định ngân sách (hiện nay là 5 năm, trước đây là 3 năm). Cách làm này
là có lợi đối với những tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, có tiềm năng tăng
thu lớn trong những giai đoạn nền kinh tế phát triển tốt, trong khi đó những tỉnh có số
thu thấp lại rất ít được hỗ trợ thêm từ nguồn tăng thu ngân sách chung do nguồn tăng
thu ngân sách chỉ được tập trung một phần về NSTW (theo tỷ lệ phân chia). Hơn nữa,
việc khống chế các tỷ lệ cứng (mức sàn) đối với chi cho giáo dục đào tạo, chi khoa học
124
công nghệ… có ưu điểm là thể hiện trọng tâm và ưu tiên chi NSNN cho các lĩnh vực
này, song thực tế thực hiện có thể tạo ra sự cứng nhắc và kém linh hoạt đối với các địa
phương. Số ngân sách được phân bổ cho các lĩnh vực này có thể không sử dụng hết
trong khi lại không điều chuyển được cho các lĩnh vực khác do bị khống chế về tỷ lệ
chi. Vì thế, đã hạn chế sự chủ động cho địa phương trong việc đưa ra các quyết định
phân bổ ngân sách để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ trên địa bàn.
- Tài chính của chính quyền địa phương còn nhiều bất cập
Vấn đề nợ đọng trong xây dựng cơ bản tại nhiều địa phương hiện vẫn là vấn đề
nổi cộm87
đòi hỏi cần phải được giải quyết để vừa tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp,
vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương và thực hiện tái cơ cấu đầu tư công hiệu
quả. Tuy nhiên, như trên đã đề cập, việc huy động nguồn lực nói chung và nguồn lực tài
chính nói riêng của chính quyền địa phương hiện đang gặp nhiều khó khăn do những
cản trở của cơ chế phân cấp, đặc thù địa phương cũng như năng lực quản lý và điều
hành,… Ngoài ra, tình trạng manh mún, yếu kém cả về quy mô và tiềm lực của các quỹ
đầu tư phát triển địa phương, quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ,… cũng
cản trở quá trình tái cấu trúc tại các địa phương.
- Kỷ luật tài khóa lỏng lẻo, vấn đề công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình mặc dù đã có những tiến bộ nhưng cần được tăng cường hơn nữa
Kỷ luật tài khóa lỏng lẻo được thể hiện rõ khi tình trạng chi NSNN vượt dự
toán còn xảy ra phổ biến ở nhiều bộ, ngành và địa phương cũng như trong từng đơn vị
ngân sách88
với mức độ lớn và có xu hướng tăng theo thời gian (hình 1, 2); vấn đề nợ
xây dựng cơ bản của các địa phương khá phổ biến nhưng đặc biệt hơn là có nhiều tỉnh
ngưỡng nợ xây dựng cơ bản đã vượt quá tỷ lệ quy định, việc nợ xây dựng cơ bản
không chỉ ở cấp tỉnh mà có cả ở cấp xã. Nguyên nhân có nhiều lý do cả ở khía cạnh
chính sách cũng như thực hiện chính sách và công tác dự báo còn nhiều hạn chế…
Vấn đề chế tài xử phạt còn chưa nghiêm càng làm cho việc thực hiện kỷ luật tài khóa
bị hạn chế.
Hình 1: Chi NSNN: Số dự toán và quyết
toán (Đvt: tỷ đồng)
Hình 2: Chi NSTW và chi NSĐP: số dự
toán và quyết toán (Đvt: tỷ đồng)
87 Kiểm toán Nhà nước đã công bố con số nợ đọng xây dựng cơ bản của 63 địa phương đến hết năm 2011 là
91.273 tỉ đồng. Đặc biệt có 15/63 địa phương nợ vốn đầu tư XDCB ở mức trên 100% kế hoạch vốn đầu tư
XDCB năm 2011 là Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Hải Dương, Quảng Ninh, Thái Bình, Bắc Ninh, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang (Nguồn: Kiểm toán nhà nước).
88 Báo cáo kiểm toán năm 2012 về kết quả Kiểm toán nhà nước niên độ ngân sách năm 2011 cho thấy: đối với
việc sử dụng kinh phí sai chế độ, tiêu chuẩn, định mức, KTNN đã xác định sử dụng sai nguồn kinh phí hơn
1.840 tỷ đồng; chi hỗ trợ không đúng chế độ, nhiệm vụ chi 41,6 tỷ đồng; chi không đúng chế độ, tiêu chuẩn,
định mức 196 tỷ đồng; sử dụng nguồn dự phòng ngân sách sai mục đích 238,6 tỷ đồng; cho vay sai quy định 33
tỷ đồng; tạm ứng sai quy định 1.125 tỷ đồng; cho vay, tạm ứng chậm thu hồi 3.008 tỷ đồng trong khi hằng năm
NSNN vẫn phải đi vay và trả lãi. Tình trạng sử dụng nguồn tăng thu và dự toán không đúng quy định vẫn chưa
có chuyển biến, vẫn còn sử dụng sai 325 tỷ đồng nguồn tăng thu để chi thường xuyên, mua tài sản, hỗ trợ các
đơn vị, chi trả nợ tạm ứng vốn nhàn rỗi của KBNN. Chi chuyển nguồn sai quy định là 103,8 tỷ đồng; chi ứng
trước dự toán vượt tỷ lệ quy định khá lớn.
125
Nguồn: Bộ Tài chính Nguồn: Bộ Tài chính
Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình tài khóa đã được cải thiện đáng
kể trong thời gian gần đây nhưng mới chỉ ở dạng đưa ra các số liệu tổng thể về dự toán
và quyết toán NSNN trong khi quá trình thực hiện cũng như vấn đề trách nhiệm giải
trình lại chưa được thể hiện rõ. Việc công khai và giải trình không đúng và đủ, thiếu rõ
ràng, chính xác sẽ gây nguy hiểm ở chỗ dễ dẫn tới việc đánh giá không đúng tình hình,
không dự báo chính xác xu hướng, đưa ra nhận định sai dẫn tới các quyết sách, chủ
trương không phù hợp và đưa ra giải pháp chính sách không chuẩn. Từ đó, rủi ro trong
ban hành chính sách sẽ rất lớn, hệ quả là chi phí thực hiện chính sách kém hiệu quả, ảnh
hưởng nghiêm trọng tới việc thực hiện nhiệm vụ tài chính-NSNN nói riêng và nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Tất cả những bất cập và thách thức nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà
trong đó có thể kể tới là: (i) thể chế chưa được hoàn thiện. Sự chậm trễ trong ban hành
các văn bản quản lý cũng như sự dùng dằng và xung đột giữa các văn bản luật càng
làm cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và thực
hiện tái cơ cấu nền kinh tế nói riêng bị ảnh hưởng. Điển hình là việc sửa đổi Hiến
pháp còn chậm trễ đã ảnh hưởng tới việc xây dựng và ban hành các văn bản luật liên
quan như Luật NSNN sửa đổi; sự xung đột, không rõ ràng về phạm vi điều chỉnh cũng
như mối quan hệ giữa các luật trong ban hành các văn bản Luật như Luật Đầu tư công,
Luật NSNN, Luật Xây dựng,… đã gây ảnh hưởng lớn tới kết quả thực hiện các nhiệm
vụ đề ra; (ii) cơ chế tài chính trong một số lĩnh vực chưa được giải quyết triệt để như
cơ chế giá, cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp,…; (iii) cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan, đơn vị trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ tài chính – NSNN; cơ chế
giám sát, kiểm tra, thanh tra còn nhiều bất cập đòi hỏi cần phải được tăng cường hơn
nữa; (iv) chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế cũng là
nhân tố tác động trực tiếp tới quá trình định hướng và điều hành thực hiện nhiệm vụ
tài chính-NSNN nói riêng, nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội nói chung;…
3. Định hƣớng giải pháp
Để giải quyết những tồn tại, thách thức nêu trên đòi hỏi phải có những giải
pháp trước mắt và lâu dài nhằm giải quyết các vấn đề tồn tại, qua đó thúc đẩy và nâng
cao hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính nhà nước, đảm bảo thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Việc điều chỉnh CSTK trong thời gian
qua cho thấy không gian để chính sách tài khóa mở rộng là rất hạn chế. Việc phát huy
tác dụng hoặc mang lại những tác động tạo nên “sức bật mới” cho tăng trưởng từ việc
thực hiện chính sách tài khóa theo Nghị quyết 01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP
đòi hỏi phải có thời gian. Mặt khác, các giải pháp về thuế đã được khai thác và triển
126
khai áp dụng gần như triệt để nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu tiếp tục thực hiện các giải pháp về miễn, giảm, giãn thời hạn nộp
thuế của một số sắc thuế, khoản thu NSNN như giai đoạn vừa qua sẽ gây khó khăn
trong công tác điều hành tài chính-ngân sách của Chính phủ, nhất là trong bối cảnh
thu NSNN đang gặp nhiều khó khăn. Nợ chính phủ, nợ công đã ở mức cao, dư địa so
với ngưỡng an toàn không còn nhiều, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng đạt thấp so
với dự kiến sẽ đẩy tỷ lệ nợ công và nợ Chính phủ so với GDP tăng.
Do vậy, giải pháp trước mắt là: (1) Cần tập trung thực hiện có hiệu quả các giải
pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo các Nghị quyết của Quốc hội,
Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ. Đồng thời, tiếp
tục hướng dẫn, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ
thị 09/CT-TTg ngày 24/5/2013 về tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ
tài chính – NSNN năm 2013, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/6/2013 về tăng cường
quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn NSNN và trái phiếu Chính
phủ. Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng sức mua, tăng
tổng cầu nền kinh tế và đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa thông qua việc đánh giá tình hình
thực hiện các giải pháp về thuế và chi tiêu ngân sách trong thời gian qua, từ đó rà soát
lại các chính sách thu, chi ngân sách, thực hiện cơ cấu lại thu, chi NSNN, trong đó đối
với chính sách chi NSNN cần: (i) tập trung đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông
thôn nhằm tạo ra tác động lan tỏa thúc đẩy tăng trưởng trong khu vực này, từ đó kích
thích tăng tổng cầu ; (ii) đẩy nhanh việc ứng trước một phần ngân sách cho địa
phương giải quyết nhu cầu nhà ở tái định cư; (iii) đảm bảo nguồn lực giải ngân vốn
đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là những dự án quan trọng, cấp bách, những dự án có thể
hoàn thành sớm và đưa vào sử dụng ; (iv) Trong quản lý chi tiêu ngân sách, cần quán
triệt việc không ban hành các chính sách, chế độ, định mức làm tăng chi NS mà không
có nguồn đảm bảo, thực hiện kiểm soát chi tiêu ngân sách chặt chẽ, hiệu quả. Ngoài
ra, để thúc đẩy cầu cần đảm bảo ngân sách để thực hiện các chương trình xúc tiến đầu
tư cùng với việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối tác nhằm củng cố và mở
rộng thị trường, phát triển thị trường trong và ngoài nước, trong đó đối với thị trường
trong nước cần chú trọng khu vực nông thôn; (2) Trong đầu tư công, cần rà soát lại
các chương trình, dự án đầu tư công hiện hành để xác định thứ tự ưu tiên. Đối với các
chương trình mục tiêu quốc gia cần có đánh giá và rà soát cụ thể, đặc biệt là những
chương trình kém hiệu quả, mục tiêu đạt thấp, các chương trình đã được thực hiện
tương đối dài (khoảng trên 10 năm mà vẫn chưa thực hiện xong nhiệm vụ) có thể xem
xét kết thúc, các nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình cần tiếp tục thực hiện có thể
chuyển sang hoạt động thường xuyên của ngành. Trong đầu tư xây dựng cơ bản cần
tập trung giải quyết nợ đọng trong XDCB. Xác định lộ trình và thứ tự ưu tiên hợp lý
để xử lý nợ đọng XDCB, đặc biệt là quán triệt tinh thần của Chỉ thị 27/CT-TTg ngày
10/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về những giải pháp chủ yếu khắc phục tình
trạng nợ đọng XDCB tại các địa phương; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/6/2013 về
tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn NSNN và
TPCP. Thực hiện rà soát và phân loại nợ XDCB. Các bộ, ngành, địa phương phải ưu
tiên bố trí vốn để xử lý nợ đọng XDCB trong kế hoạch phân bổ vốn đầu tư từ NSNN,
bảo đảm hàng năm phải xử lý được ít nhất 30% khối lượng nợ đọng XDCB, hướng tới
không còn nợ đọng XDCB. Các địa phương chỉ được bố trí vốn cho các dự án mới sau
khi đã bố trí đủ vốn để xử lý nợ đọng theo kế hoạch. Những địa phương có nợ đọng
XDCB lớn không được bố trí vốn cho việc khởi công mới các dự án. Trường hợp cần
thiết thực hiện đình hoãn một số dự án để xử lý nợ đọng trong XDCB.
127
Xét về dài hạn, để phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả với trọng tâm là thực
hiện ba khâu đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng cần ưu tiên tập trung rà soát và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, thực hiện cải cách
hành chính. Thể chế rõ ràng, minh bạch mới có thể thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã
hội phát triển, tạo niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân trong thực hiện các cải cách. Do
vậy, trong thời gian tới cần hoàn thiện hệ thống thể chế trong lĩnh vực tài chính –
NSNN, đặc biệt là giải quyết tốt mối quan hệ giữa các luật trong lĩnh vực tài chính –
NSNN với các lĩnh vực liên quan khác, tránh tình trạng dùng dằng về mặt thể chế.
Trong đó Hiến pháp sửa đổi cần sớm hoàn thiện và thông qua tạo cơ sở cho việc xây
dựng và ban hành Luật NSNN sửa đổi.
Trên cơ sở hoàn thiện hệ thống thể chế, trong lĩnh vực tài chính – NSNN cần
thực hiện cải cách căn bản phương thức quản lý NSNN theo hướng hoàn thiện cơ chế
phân cấp NSNN giữa trung ương và địa phương, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của người đứng đầu trong việc sử dụng nguồn lực công cùng với việc đẩy
mạnh cơ chế giám sát. Nghiên cứu và xây dựng thực hiện có lộ trình việc chuyển đổi
phương thức quản lý ngân sách từ kiểm soát đầu vào sang quản lý gắn với kết quả
cũng như triển khai xây dựng khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện khuôn khổ tài
chính và khuôn khổ chi tiêu trung hạn, đảm bảo việc phân bổ ngân sách gắn với các
mục tiêu, ưu tiên chiến lược trong từng thời kỳ. Ngoài ra, cần tăng cường kỷ luật tài
khóa. Kỷ luật tài khóa chặt chẽ, minh bạch, đảm bảo CSTK không chỉ hướng tới tăng
trưởng mà còn giúp thị trường, người dân hiểu nền kinh tế, tạo ra sự ổn định lâu dài
cho đất nước. Bên cạnh việc tăng cường kỷ luật tài khóa cần phải công khai, minh
bạch và tăng trách nhiệm giải trình tài khóa. Các thông tin về chính sách công, chi
tiêu, thâm hụt ngân sách… phải được công khai, minh bạch, giúp thị trường hiểu trạng
thái thực của nền kinh tế. Bởi đó là nguồn gốc của sự đồn đoán, nguồn gốc gây mất
niềm tin. Điều hành vĩ mô sẽ rất khó khăn khi thị trường mất niềm tin. Do vậy, thực
hiện tốt công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình tài khóa sẽ góp phần tạo niềm
tin trong công chúng, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ của chính sách tài khóa.
Trong tái cấu trúc nền kinh tế, quá trình tái cấu trúc là một quá trình lâu dài nên
chính sách tài khóa, dưới góc độ là chính sách thu và chi ngân sách, CSTK phải có đủ
tầm nhìn trung và dài hạn. Với tầm trung và dài hạn, CSTK sẽ tạo ra sự tiên lượng về
chính sách đối với thị trường do vậy CSTK phải: (i) đảm bảo được ngân sách bền
vững, ổn định, đặc biệt là phải tạo được một nền tảng không lấn át khu vực tư nhân,
hiệu quả cho khu vực kinh tế công, từ đó thúc đẩy chung hiệu quả của nền kinh tế; (ii)
toàn bộ nền kinh tế hướng tới các khoản đầu tư, thị trường bất động sản và chứng
khoán sẽ phát triển lên, các điều kiện kinh tế nở rộ, CSTK nên theo nguyên tắc nghịch
chu kì. Khi cả thị trường trong “cơn say” đầu tư và chi tiêu, Chính phủ cần giảm chi
tiêu và giữ thặng dư ngân sách, để trong tương lai nếu nền kinh tế gặp trục trặc, Chính
phủ có dư địa về chính sách để can thiệp; (iii) sự phối hợp giữa CSTK và chính sách
tiền tệ là tối quan trọng trong đảm bảo sự cân đối, ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Khi
CSTK chi tiêu quá nhiều, chính sách tiền tệ phải có biện pháp giảm sự hưng phấn đó.
Ngược lại, khi chính sách tiền tệ tăng lượng cung tiền tín dụng quá lớn, CSTK phải lùi
lại một chút, tức là phải có sự điều phối giữa hai chính sách này. Do vậy cần đẩy
nhanh việc thực hiện Đề án cải cách cơ chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh
tế vĩ mô tại Quyết định 1317/QĐ-TTg ngày 06/8/2013.
128
Tài liệu tham khảo
Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã
hội, trọng tâm là thực hiện ba khâu đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 và dự kiến kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Báo cáo 6278/BC-BKHĐT ngày 26/8/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về sơ
kết 3 năm (2011-2013) về thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia.
Báo cáo 6279/BC-BKHĐT ngày 26/8/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về
tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2013, tình hình triển khai
thực hiện Nghị quyết só 01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP ngày
07/01/2013 của Chính phủ.
Báo cáo ngân sách nhà nước hàng tháng của Bộ Tài chính.
129
BÀN VỀ TÍNH BỀN VỮNG VÀ KỶ LUẬT TRONG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
TS. Vũ Sỹ Cƣờng 89
Dẫn nhập
Sau khi lạm phát tăng mạnh vào năm 2011 thì năm 2012 lạm phát chỉ ở mức
thấp (6,81%) và lần đầu tiên xuất siêu kể từ năm 1993, lãi suất giảm dần và tỷ giá ổn
định được coi là những thành công bước đầu trong ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên
sự sụt giảm tăng trưởng (chỉ đạt 5,03 % năm 2012 và dự kiến năm 2013 cũng chỉ đạt
5,3-5,5%) với khó khăn của nhiều doanh nghiệp đã khiến cho nhiều khoản thu ngân
sách không đạt dự toán. Chính sách tài khóa 2013 cũng như trong ngắn và trung hạn
đang đứng trước những thách thức rất lớn để có thể vừa đáp ứng được yêu cầu duy trì
tăng trưởng kinh tế hợp lý, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội là
bài toán khó trong điều hành của Chính phủ.
Bài viết này sẽ đánh giá lại tình hình thực hiện thu chi ngân sách của năm 2012
và giai đoạn gần đây, trong đó tập trung vào: (i) đánh giá về thu ngân sách theo các
sắc thuế, phân tích tính bền vững của thu ngân sách nhà nước; (ii) đánh giá về chi
ngân sách theo các khoản chi: chi thường xuyên, chi đầu tư. Từ phân tích thực trạng
của chính sách tài khóa, bài viết sẽ cố gắng nêu lên một số vấn đề còn tồn tại trong
chính sách những năm gần đây, tập trung vào tính bền vững và kỷ luật tài chính. Đồng
thời, bài viết cũng sẽ thảo luận những gợi ý chính sách nhằm gia tăng kỷ luật tài khóa
và cải thiện tính bền vững của ngân sách.
1. Quy mô thu ngân sách cao và không bền vững
Thu NSNN là một trong các nhiệm vụ quan trọng của ngành tài chính để tạo
nguồn quỹ cho thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.
Ngoài ra, thực hiện các nhiệm vụ thu cũng đồng thời chi phối các hành vi của người
sản xuất cũng như tiêu dùng trong xã hội và do vậy sẽ tác động tới việc thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể.
Có thể thấy quy mô thu NSNN của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh trong
giai đoạn từ 2001 -2008, chỉ sụt giảm nhẹ trong 2 năm 2009 và 2012 do những khó
khăn về kinh tế và do việc áp dụng các biện pháp kích cầu nhằm kích thích tăng
trưởng kinh tế. Nếu sử dụng số liệu của IMF thì tổng thu NSNN của Việt Nam giai
đoạn 2006-2012 đạt trên 28 % GDP, một mức khá cao so với các nước đang phát
triển. Chẳng hạn nếu so sánh mức thu này với các nước đang phát triển có thu nhập
thấp thì quy mô thu ngân sách của Việt Nam là tương đương mức trung bình các nước
có xuất khẩu dầu và cao hơn nhiều mức độ trung bình của nhóm các nước có thu nhập
thấp (trung bình 2006-2011 thu thuế /GDP là khoảng 23,7 % )90
. Ngay cả khi kinh tế
gặp khó khăn như năm 2012 thì tổng thu cân đối NSNN so với GDP vẫn đạt 25,3 %,
cao hơn mức trung bình của các nước đang phát triển châu Á giai đoạn 2006-2011
(quy mô thu ngân sách đạt 21,4 % GDP).
Hình 1. Thu Ngân sách nhà nƣớc giai đoạn 2001-2012
89 Học Viện Tài chính
90 Nguồn : tính toán từ số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Fiscal Monitor (2012).
130
(Tính toán từ số liệu Bộ Tài chính và Tổng cục thống kê)
Cần lưu ý là việc so sánh đơn giản quy mô thu ngân sách với GDP có thể khó
thuyết phục khi điều kiện mỗi quốc gia có sự khác biệt về cơ cấu kinh tế và cách tính
toán quy mô ngân sách (có tính gộp ngân sách địa phương hay không). Tuy nhiên
trong đa số các quốc gia thì số liệu của IMF là quy mô thu ngân sách chung của chính
phủ (gồm cả chính quyền trung ương và địa phương, thu ngân sách được định nghĩa
bao gồm thu từ thuế và các nguồn khác)91
. Vì vậy việc so sánh với quy mô thu trung
bình của các nhóm nước cũng cho phép đánh giá nhanh về quy mô thu ngân sách của
Việt Nam.
Xác định quy mô thu ngân sách hợp lý là vấn đề đã được các nhà kinh tế quan
tâm từ lâu. Tuy nhiên vấn đề này vấp phải nhiều khó khăn vì không có mô hình lý
thuyết kinh tế nào chỉ ra chính xác cần thu ngân sách bao nhiêu. Vì vậy để ước tính
quy mô ngân sách hợp lý, các nhà kinh tế đã phải sử dụng các mô hình thực nghiệm
qua đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới khả năng thu ngân sách của một quốc
gia.Những mô hình nghiên cứu định lượng về các nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân
sách mà đặc biệt là thu thuế đã được bắt đầu từ Lotz và Morss (1970), (Bahl R.W.
1971), sau đó tiếp tục được phát triển bởi các tác giả khác như (Tanzi V. và Zee H.H.
2000), (Teera J.M. và J. Hudson 2004), (Chambas G. và cộng sự, 2005).
Các mô hình ước lượng thu ngân sách hợp lý này được thực hiện dựa trên nhận
định là quy mô thu ngân sách hợp lý phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ nhất định như thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế, mức độ đô
thị hóa, mức độ mở cửa, xuất khẩu dầu thô hay không, năng lực quản trị của chính
quyền…92
.
Sử dụng phương pháp này cho thấy quy mô ngân sách nhà nước của Việt Nam
giai đoạn 2006-2012 cao hơn mức quy mô hợp lý khoảng 14-26 % tùy từng năm. Nói
cách khác, với đặc điểm hiện nay về thể chế, cơ cấu kinh tế, xã hội thì Việt nam chỉ
nên thu cân đối ngân sách khoảng 23-24,5 % GDP. Cần lưu ý là quy mô thu ngân sách
hợp lý thay đổi theo sự thay đổi của thu nhập bình quân, cơ cấu kinh tế, năng lực quản
trị công..
91 Xem thêm IMF‟s Government Finance Statistic Manual (2001) 92 Xem thêm Vũ Sỹ Cường (2009) “Ước lượng quy mô ngân sách hợp lý : trường hợp của Việt nam” – Tạp chí
Nghiên cứu Kinh tế số 8/2009.
131
Hình 2. So sánh quy mô thu ngân sách thực tế và hợp lý (1996-2012)
(Nguồn: tính toán của tác giả)
Quy mô thu ngân sách cao sẽ ảnh hưởng đến tiết kiệm của khu vực tư nhân,
làm giảm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của khu vực này. Gánh nặng thuế cao
có thể khuyến khích các hành vi gian lận, trốn thuế và vì vậy gây tình trạng thất thu
thuế và tạo ra những méo mó trên thị trường do hành vi cạnh tranh không bình đẳng.
Tình trạng chuyển giá trốn thuế của các doanh nghiệp FDI là một minh chứng. Hơn
nữa gánh nặng thuế cao còn là môi trường tốt cho các hành vi tham nhũng của những
người thực thi công vụ khi mà thỏa thuận cho gian lận và trốn thuế có lợi hơn nhiều
nộp thuế. Quy mô thu ngân sách cao của Việt Nam còn có bất lợi là Chính phủ còn rất
ít không gian để có thể giảm thâm hụt ngân sách qua tăng thuế mà còn phải làm ngược
lại.
Phân tích cơ cấu thu ngân sách nhà nước theo sắc thuế cho thấy thu NSNN đến
từ 3 nguồn chính là thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
và thuế trên hàng hóa xuất nhập khẩu (gồm thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT và thuế
tiêu thụ đặc biệt trên hàng nhập khẩu). Có thể thấy thuế với hoạt động xuất nhập khẩu
vẫn giữ vai trò rất quan trọng khi cung cấp trung bình hơn 20 % số thu NSNN trong 5
năm gần đây dù nhiều dòng thuế đã được cắt giảm, nguồn thu này tăng lên chủ yếu do
kim ngạch hàng hóa XNK tăng mạnh và công tác hải quan được cải thiện hơn. Tuy
nhiên nguồn thu này sẽ giảm đi khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết với WTO,
do vậy cần phải tìm kiếm nguồn thu thay thế để đảm bảo ngân sách không bị thâm hụt
trầm trọng hơn.
Bảng 1. Cơ cấu thu ngân sách nhà nƣớc theo sắc thuế, phí (%)
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
TỔNG thu cân đối NSNN 100 100 100 100 100 100 100
Thuế GTGT hàng sản xuất trong nước 13,3
5 14,2
3 13,9
2 17,1
4 16,7
8 17,2
0 19,3
9
Thuế TTĐB hàng sản xuất trong nước 5,95 5,16 5,09 6,38 6,34 6,04 6,05
Thuế XK, NK, VAT và TTĐB hàng XNK
14,8
1
17,9
2
21,0
4
22,6
5
22,1
5
22,1
2
19,6
9
Thuế thu nhập doanh nghiệp
34,5
1
31,0
9
31,5
7
24,0
5
25,2
6
26,1
9
29,3
7
Thuế tài nguyên 9,21 6,38 6,06 4,09 4,47 5,58 4,99
Thuế thu nhập cá nhân 1,79 2,21 2,98 3,07 4,47 5,46 6,63
132
Thuế sử dụng đất nông nghiệp 0,04 0,03 0,02 0,01 0,01 0,01 0,01
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (thuế nhà
đất) 0,21 0,21 0,21 0,26 0,24 0,23 0,16
Thuế chuyển Quyền sử dụng đất 0,43 0,69 0,69 0,06
Thuế Môn bài 0,27 0,26 0,23 0,25 0,23 0,21 0,20
Lệ phí trước bạ 1,16 1,68 1,69 2,07 2,14 2,23 1,53
Thu phí xăng dầu (từ 2012 là thuế môi trường) 1,37 1,33 1,04 1,92 1,79 1,59 1,72
Thu phí và lệ phí 1,72 1,93 1,79 2,01 1,70 1,17 1,41
Thu tiền thuê đất 0,56 0,65 0,81 0,72 0,64 0,79 0,73
Thu tiền sử dụng đất 5,33 8,53 7,27 8,08 8,39 7,19 4,99
Thu bán nhà thuộc SHNN 0,69 0,74 0,30 0,41 0,37 0,34 0,11
Thu Khác 5,86 5,17 3,14 5,12 3,00 2,62 2,14
Thu viện trợ 2,73 1,79 2,17 1,70 2,02 1,02 0,88
(Nguồn: Bộ Tài chính, quyết toán NSNN nhiều năm, năm 2012 là ước tính)
Liệu Việt Nam có thể kỳ vọng vào loại thể nào để giúp đảm bảo nhu cầu thu
NSNN? So sánh đơn giản ở hình 3 sau đây cho thấy tỷ lệ thu thuế VAT, thuế TNDN
và thuế XNK của Việt Nam trong tổng thu NSNN đã cao hơn mức trung bình của các
nước đang phát triển châu Á nên những nguồn thuế này khó có thể tiếp tục tăng lên.
Ngược lại, để cạnh tranh Việt Nam cần giảm thuế suất với thu nhập doanh nghiệp khi
mức thuế 25% tuy không cao nhưng lại được áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp
trong khi hầu hết các nước trong khu vực áp dụng thuế suất thuế TNDN đa dạng với
nhiều mức thuế suất từ 10-30 % thậm chí 2 % như ở Philippine trong một số trường
hợp.
Có 3 loại thuế mà Việt Nam có thể kỳ vọng tăng thu trong tương lai là thuế thu
nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế với bất động sản. Hiện nay thu thuế từ bất
động sản (không tính lệ phí trước bạ) chỉ chiếm 0,17 % tổng thu NSNN so với mức
trung bình trên 1 % ở các nước đang phát triển trong khi đây là nguồn thu rất quan
trọng cho ngân sách địa phương.
Hình 3. So sánh cơ cấu thu thuế của Việt Nam với các nƣớc đang phát triển châu
Á (giai đoạn 2005-2011)
133
(Nguồn: Bộ Tài chính và thống kê GFS của IMF)
Thuế thu nhập cá nhân cũng là nguồn thu thuế mà Việt Nam có thể kỳ vọng để
thay thế cho các khoản thu bị sụt giảm khi mà tỷ lệ thuế TNCN trong thu ngân sách
mới chủ bằng khoảng ½ các quốc gia khác. Song trước khi có thể hy vọng nguồn thu
này tăng lên thì cần phải có cơ chế để kiểm soát được các nguồn thu nhập và nhất là
nâng cao thu nhập của người dân nhờ vào tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.
Để xem xét tính bền vững trong cơ cấu thu ngân sách có thể sử dụng phân loại
theo thống kê của Việt Nam là nguồn thu và đối tượng nộp ngân sách. Có thể phân
chia thu NSNN thành 4 nguồn thu : thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa, thu
từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu và thu từ viện trợ.
Bảng 2 Cơ cấu thu cân đối ngân sách theo nguồn và khu vực (%)
2001-
05
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Thu cân đối NSNN 100 100 100 100 100 100 100 100
1 Thu nội địa 51,98 52,0 55,8 55,8 52,0 54,6 62,2 64,4
Trong đó
Thu từ doanh nghiệp
nhà nước
19,04 16,58 15,30 16,68 18,48 19,06 17,5 19,3
Thu từ doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước
ngoài (không kể thu từ
dầu thô)
6,77 9,25 9,84 10,21 11,17 11,03 10,7 11,3
Thu từ khu vực ngoài
quốc doanh
6,79 7,90 9,51 10,11 10,53 11,90 11,7 12,62
Thu tiền sử dụng đất 5,52 8,75 7,34 8,29 8,39 7,19 6,10
2 Thu từ dầu thô 25,05 29,82 23,98 20,81 13,44 11,76 15,30 15,10
3 Thu từ hoạt động
XNK
20,79 15,32 18,38 21,24 23,23 22,15 21,58 19,65
134
4 Thu viện trợ không
hoàn lại
1,77 2,83 1,83 2,19 1,74 2,02 1,02 0,87
(Nguồn: Bộ Tài chính, quyết toán NSNN các năm, 2012 là số ước tính lần 2)
Từ bảng trên cho thấy, thu nội địa có xu hướng tăng liên tục theo thời gian, thu
xuất nhập khẩu sau khi sụt giảm 2 năm 2006-2007 thì tăng và ổn định trên 20 % thu
cân đối NSNN còn thu dầu thô và thu viện trợ thì có biến động nhiều. Nếu như năm
2012, tổng thu cân đối NSNN lớn gấp 7 lần so với năm 2001 thì tương ứng số thu từ
nội địa là gấp 9 lần, thu xuất nhập khẩu: 6,3 lần, thu dầu gấp 4,2 lần và thu khác gấp
3.2 lần. Như vậy, số thu NSNN từ khu vực kinh tế trong nước là nguồn thu có tốc độ
tăng lớn nhất trong số các khoản thu của NSNN.
Vai trò tăng lên của thu nội địa những năm gần đây cho thấy thâm hụt ngân
sách có nguy cơ tăng lên khi kinh tế gặp khó khăn, sự phá sản của nhiều doanh nghiệp
sẽ làm giảm nguồn thu này và điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tính bền vững
của thu ngân sách nhà nước. Thu NSNN năm 2012 thể hiện rõ rất điều này khi tốc độ
tăng thu ngân sách nội địa so với cùng kỳ năm 2011 chỉ tăng 5,23 %, con số thấp hơn
cả năm 2009 là giai đoạn có ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng kinh tế thế giới vì mức
tăng thu NSNN từ nội địa trung bình giai đoạn 2006-2012 là 22 % mỗi năm. Thu
NSNN từ nội địa năm 2012 cũng không đạt được như dự toán. Do vậy thu NSNN
2013 sẽ có nhiều khó khăn khi tăng trưởng chưa được cải thiện và hàng loạt các biện
pháp cắt giảm thuế được chính phủ thực hiện và áp dụng luật thuế TNCN mới (giảm
thu NSNN ước khoảng hơn 6000 tỷ). Số liệu Bộ tài chính ước tính đến 31/7/2013,
tổng thu ngân sách nhà nước mới đạt 429.165 tỷ đồng, bằng 52,6% dự toán,
Có thể thấy nguồn thu NSNN không thực sự bền vững khi số thu từ các nguồn
tài nguyên không thể tái tạo như đất đai và dầu thô vẫn chiếm khoảng 20 % thu cân
đối NSNN trong giai đoạn 2009-2012. Đây là các khoản thu hoặc là một lần hoặc là
không bền vững, không nên kỳ vọng vào chúng để giảm thâm hụt ngân sách trong
tương lai. Giá dầu cao có thể giúp cho NSNN thu vượt dự toán như năm 2012 ước đạt
166 % dự toán song cũng có những hạn chế khi Việt Nam vẫn phải nhập khẩu gần 70
% xăng dầu làm nhiên liệu và nhập khẩu hầu hết các nguyên liệu đầu vào được chế
biến từ dầu thô.
Trong thu nội địa có một nhóm các khoản thu giữ vai trò rất quan trọng là thu
từ nhà đất, chiếm tỷ lệ trung bình 9,6 % số thu NSNN giai đoạn 2006-2011. Tuy nhiên
chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm này lại là một khoản thu có tính chất một lần là thu từ
giao quyền sử dụng đất (chiếm trung bình 7,6 %) trong khi thuế từ nhà đất chỉ chiếm
0,2 % tổng thu NSNN. Sự phụ thuộc lớn vào các khoản thu không bền vững như thu
từ giao đất là một lý do khiến cho thu NSNN 2012 từ nội địa không đạt dự toán vì thu
từ đất đai của cả nước chỉ đạt xấp xỉ dự toán. Cũng cần lưu ý là giai đoạn từ 2003-
2011 thì thu NSNN từ đất đai luôn vượt dự toán rất nhiều, năm 2007 và năm 2010
còn đạt gấp hơn 2 lần dự toán và là một trong những lý do giúp thu NSNN vượt dự
toán.
Khi thu NSNN vẫn còn trông chờ nhiều vào các nguồn tài nguyên không thể tái
tạo thì nền kinh tế dễ bị rơi vào một tình trạng mà các nhà kinh tế gọi là “căn bệnh Hà
lan”93
. Mặc dù thu NSNN Việt nam không phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu tài
93 Căn bệnh Hà lan là thuật ngữ để chỉ tình trạng một nền kinh tế chỉ tập trung vào khai thác lợi thế tự nhiện sẵn
có nhất là phục vụ cho xuất khẩu mà bỏ qua việc phát triển các ngành nghề khác dẫn đến nguy cơ bất ổn kinh tế
trong dài hạn. Xem thêm Corden, W. Max và J. Peter Neary. 1982. "Booming Sector and De-Industrialisation
in a Small Open Economy." The economic journal, 92(368), 825-48
135
nguyên song với việc nhiều tỉnh tập trung một nguồn lực lớn cho phát triển dựa vào
đất đai, tài nguyên thiên nhiên cũng là yếu tố cho thấy Việt nam có những biểu hiện
ban đầu của căn bệnh này.
Phân tích sâu hơn các khoản thu nội địa có thể thấy doanh nghiệp Nhà nước
(DNNN) vẫn tiếp tục là khu vực đóng góp nhiều nhất cho ngân sách nhà nước. Khu
vực các DNNN đóng góp trung bình 31 % số thu nội địa trong giao đoạn 2006-2012,
trong khi các doanh nghiệp FDI và khu vực kinh tế tư nhân đóng góp trung bình 18,6
% số thu nội địa cùng kỳ. Điều đáng lưu ý là trong 3 năm gần đây 2010-2012 thì tỷ lệ
đóng góp ngân sách của khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng tăng lên trong khi khu
vực doanh nghiệp FDI lại có xu hướng giảm đi.
Khi so sánh thêm với cơ cấu GDP thì dường như khu vực DNNN chịu gánh
nặng thuế cao nhất. Tỷ lệ nộp ngân sách /GDP so với tỷ lệ trong GDP của DNNN là
khoảng 1/5,5 trong khi của khu vực kinh tế tư nhân là 1/14 (khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh chiếm 47,5 % GDP nhưng chỉ nộp ngân sách chiếm 3,3 % GDP giai đoạn
2009-201194
) và của các doanh nghiệp FDI là 1/6,2 .
Trong những năm kinh tế gặp khó khăn từ 2009 – 2012, tỷ lệ thu NSNN từ các
doanh nghiệp nhà nước lại tăng cao hơn giai đoạn 2001-2005. Điều này một phần
được giải thích là các biện pháp miễn, giảm thuế trong giai đoạn khó khăn thường
được áp dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khi các DNNN thường có quy
mô lớn nên ít được hưởng lợi. Mặc dù hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN còn đang
bị đặt câu hỏi song với mức đóng góp lớn vào ngân sách thì vai trò của DNNN không
nên bị xem nhẹ.
Nhìn về xu hướng thì tỷ lệ thu NSNN từ khu vực FDI và DN ngoài QD đã tăng
lên trong giai đoạn từ 2001-2012 nhưng vẫn chưa tương xứng với tỷ lệ của 2 nhóm
này trong GDP, một phần là do tình trạng trốn thuế ở 2 khu vực này diễn ra phổ biến
hơn trong các DNNN.
Vai trò quan trọng của khu vực kinh tế nhà nước với ngân sách cho thấy quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ cần phải đi cùng với cải thiện hiệu quả
thu ngân sách ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nếu không muốn sự sụt giảm nguồn
thu NSNN trong tương lai. Chủ trương tái cơ cấu nâng cao hiệu quả hoạt động của các
DNNN sẽ có ảnh hưởng tích cực tới đóng góp NSNN từ các doanh nghiệp này.
2. Chi ngân sách có quy mô lớn, tăng nhanh nhưng kỷ luật tài khóa thấp Mô hình tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn vừa qua chủ yếu nhờ vào đầu tư,
đặc biệt là đầu tư ở khu vực nhà nước. Do vậy không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam
có quy mô chi NSNN khá lớn. Có thể thấy là tốc độ tăng chi cân đối NSNN trong 5
năm gần đây là rất cao (20,4% mỗi năm) và đạt trung bình 29,2% GDP.
Việt Nam hiện sử dụng 2 hệ thống báo cáo số liệu NSNN, một theo phân loại
quốc tế và một theo phân loại của Việt Nam nên dễ gây nhầm lẫn nếu so sánh mà không
sử dụng cùng một cách phân loại. Ví dụ, chi thường xuyên của NSNN theo phân loại
quốc tế năm 2011 là 498.122 tỷ đồng trong khi theo phân loại của Việt Nam là 467.017
tỷ đồng. Nếu sử dụng số liệu chi cân đối NSNN theo phân loại của Việt Nam thì quy
mô chi NSNN của Việt Nam từ 2005 đến nay đều đã vượt 30 % GDP (trung bình 2008-
2012 là 31,6 %), trong đó năm 2009 đạt gần 34 % GDP khi Chính phủ phải sử dụng
một nguồn lực NSNN lớn phục vụ cho kích cầu.
94 Có thể tính toán này đánh giá thấp vai trò của kinh tế tư nhân vì khu vực kinh tế tư nhân trong tính GDP
không trùng hoàn toàn với phân loại thu của Bộ Tài chính
136
Bảng 3 : Chi cân đối Ngân sách Nhà nƣớc 2002-201295
Năm Giá trị Tốc độ tăng % GDP
(1000 tỷ) ( %)
2001 129,7 27,0
2002 148,2 114,3 27,7
2003 162,2 109,4 26,4
2004 187,4 115,6 26,2
2005 229,1 122,2 27,3
2006 268,4 117,2 27,6
2007 336,3 125,3 29,4
2008 411,8 122,5 27,9
2009 508,0 123,4 30,6
2010 586,3 115,4 29,6
2011 706,4 120,5 27,8
2012 850,4 120,4 28,8
(Nguồn: Bộ Tài chính, số liệu theo phân loại quốc tế, năm 2012 là ước tính)
Các lý thuyết kinh tế vĩ mô đều thống nhất rằng khi chi tiêu Chính phủ vượt
qua một ngưỡng nào đó thì sẽ trở nên kém hiệu quả vì khi đó nguồn lực của nền kinh
tế sẽ không được phân bố một cách hiệu quả. Nghiên cứu của Tanzi và Schknecht
(1997) cho thấy nếu quy mô chi tiêu công trong các nước đang phát triển vượt quá
30% GDP thì tác động của nó với phát triển kinh tế và hiệu quả cung cấp hàng hóa
công giảm đi rõ rệt và ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. So sánh
quốc tế cho thấy Việt Nam đang chi tiêu từ NSNN cao hơn trung bình các nước đang
phát triển có cùng trình độ. Quy mô chi NSNN của Việt Nam thậm chí còn cao hơn
rất nhiều các nước có thu nhập cao như Singapore (khoảng 17,8 % GDP) hay Hàn
quốc (21,5%).
Hình 5: So sánh chi tiêu Ngân sách nhà nƣớc các nƣớc đang phát triển có thu
nhập thấp
95 Tính toán theo phân loại quốc tế, chi cân đối NSNN theo dự toán của Quốc hội có sự khác biệt khi tính thêm
chi trả nợ gốc . Tổng chi NSNN còn phải tính thêm chi chuyển nguồn cho cải cách tiền lương, chi chuyển nguồn
năm sau.
137
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
35.0
40.0
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Trung bình
Các nước sản xuất dầu
Châu Á
Mỹ La tinh
Châu Phi Sa ha ra
Khác
Việt nam
(Nguồn: IMF, 2013)
Quy mô chi tiêu công của các nước đang phát triển đều có xu hướng giữ
nguyên hay tăng rất ít trong giai đoạn từ 2000 đến nay (trừ 2009) thì Việt Nam chi
tiêu công lại tăng rất mạnh trong giai đoạn này. Thực tiễn trên thế giới cũng chỉ ra
rằng hiệu quả của chi tiêu công chứ không phải là quy mô chi tiêu mới là nhân tố ảnh
hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Khi thu nhập bình quân đầu
người thấp, trình độ quản trị của khu vực công còn nhiều tồn tại thì việc duy trì quy
mô chi NSNN cao trong khi hiệu quả của nó thấp là một trong những nguyên nhân
gây bất ổn kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Quy mô chi tiêu công lớn
cũng tạo ra sức ép lớn với việc thu NSNN, làm giảm tiết kiệm của khu vực tư nhân.
Phân tích cơ cấu chi tiêu NSNN để thấy rõ hơn chính sách chi tiêu của Chính
phủ trong giai đoạn gần đây là hướng vào những mục tiêu quan trọng nào và điều đó
cũng có thể giải thích cụ thể hơn về tính ổn định của ngân sách nhà nước.
Bảng 4 : Cơ cấu chi cân đối ngân sách Nhà nƣớc theo phân loại quốc tế
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Tổng chi cân đối NSNN 100 100 100 100 100 100 100 100
I Chi thƣờng xuyên 65,4 67,1 69,0 71,0 64,3 68,8 70,5 77,1
Trong đó
1 Chi quản lý hành chính 8,2 6,9 9,5 9,2 8,0 9,6 10,3 10,2
2 Chi sự nghiệp kinh tế 5,2 5,3 4,7 5,1 5,4 6,4 6,4 7,3
3 Chi sự nghiệp xã hội 26,8 29,1 27,4 27,7 29,3 30,8 31,5 37,9
Trong đó
Chi giáo dục và đào tạo 12,5 13,9 13,1 13,0 13,6 13,3 14,1 17,9
Chi Y tế 3,3 4,3 3,8 3,5 3,8 4,3 4,4 6,4
Chi khoa học công nghệ 1,1 0,9 0,9 0,8 0,8 0,7 0,8 0,9
Chi lương hưu và đảm bảo xã hội 7,7 8,3 8,1 9,0 9,9 11,0 11,1 11,4
4 Chi trả nợ lãi 2,9 3,0 3,8 4,1 4,0 4,3 4,2 5,1
5 Chi cải cách tiền lương 5,7 6,2 6,4 5,6 3,7 3,0 3,0 -
II Chi đầu tƣ phát triển 34,6 32,9 31,0 29,0 35,7 31,2 29,5 22,9
(Nguồn: Bộ Tài chính, 2012 là ước tính lần 2)
138
Từ số liệu của biểu trên cho thấy, khoản chi lớn nhất trong tổng chi NSNN chính
là chi thường xuyên, chi cho bộ máy nhà nước. Những năm từ 2001 - 2012, với mức
tăng lên không ngừng của GDP, thu nhập của dân cư cũng tăng theo và do vậy khu vực
hành chính, sự nghiệp liên tục mở rộng phạm vi hoạt động và cung cấp các dịch vụ
công cộng, điều đó đồng nghĩa với việc chi tiêu sẽ tăng lên. Ngoài ra, trong giai đoạn
này, Chính phủ cũng đang triển khai thực hiện chương trình cải cách tiền lương trong
các đơn vị hành chính, sự nghiệp cho phù hợp với tình hình thực tiễn nên chi thường
xuyên luôn giữ tỷ trọng lớn trong chi tiêu NSNN hàng năm. Tỷ trọng chi thường xuyên
đã tăng hơn 10 điểm % trong giai đoạn 2005- 2012. Sự gia tăng tỷ trọng chi thường
xuyên cũng có nghĩa là khó giảm thâm hụt ngân sách giai đoạn tới hơn vì chi thường
xuyên khó cắt giảm hơn chi cho đầu tư phát triển.
Có thể thấy rằng dù chưa thực hiện tái đầu tư công song tỷ lệ chi cho đầu tư phát
triển từ ngân sách nhà nước đang giảm dần. Tốc độ tăng chi tiêu cho đầu tư phát triển
dù vẫn đạt 17-18 % mỗi năm song thấp hơn nhiều tốc độ tăng cho chi thường xuyên
(đạt trung bình 25 % giai đoạn 2008-2012). Tái cơ cấu đầu tư công qua việc giảm dần
tỷ lệ đầu tư từ NSNN trong tổng đầu tư toàn xã hội là cần thiết song giảm mạnh và đột
ngột khoản đầu tư này chưa hẳn đã tốt vì: (i) hiện chưa có nguồn lực thay thế ngay
khoản đầu tư này và (ii) vấn đề của Việt Nam hiện nay là cải thiện chất lượng và hiệu
quả đầu tư nói chung trong đó có đầu tư của NSNN chứ không phải chỉ là giảm về số
lượng. Chi cho đầu tư phát triển, đặc biệt là các công trình công cộng là rất cần thiết cho
phát triển kinh tế xã hội, việc duy trì tỷ lệ chi đầu tư phát triển quá thấp sẽ không có lợi
cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Trong cơ cấu chi thường xuyên có thể thấy chi cho giáo dục và đào tạo, y tế
tăng lên rất nhanh. Duy trì tỷ lệ chi tiêu công cao cho giáo dục và y tế là nhất quán với
chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với công bằng xã hội của Việt Nam.
Chi tiêu cho quản lý hành chính liên tục tăng cho thấy Việt Nam không đạt
được kết quả tốt trong việc cải cách bộ máy hành chính để giảm chi tiêu công, tốc độ
tăng cho chi hành chính giai đoạn 2008-2012 là 31,7 % mỗi năm trong khi con số này
giai đoạn 2001-2005 chỉ là 17 %. Ví dụ riêng số chi quản lý hành chính cho các cơ
quan trung ương đã tăng hơn 11 lần từ 3000 tỷ năm 2004 lên 34.000 tỷ năm 2013 (dự
toán).
Chi cho lương hưu và đảm bảo xã hội ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong ngân
sách nhà nước, chiếm khoảng 11,3 % chi cân đối NSNN vào năm 2012. Tốc độ tăng
khoản chi này là hơn 30 % mỗi năm trong giai đoạn 2008-2012 so với chỉ 11,1 % mỗi
năm của giai đoạn 2011-2005. Tỷ lệ này còn tăng lên khi số người về hưu tăng lên.
Điều này cho thấy bất kỳ đợt cải cách nào về tiền lương sẽ cần được đánh giá một
cách đầy đủ vì tăng lương không chỉ tác động đến tổng cầu của nền kinh tế mà còn tác
động mạnh đến sự bền vững của ngân sách nhà nước.
Xem xét các khoản chi cụ thể cho thấy xu hướng chung là các khoản chi có tỷ
lệ cao trong NSNN thì có tốc độ tăng hàng năm cũng cao và những khoản chi có tỷ lệ
thấp thì lại tăng thấp. Hệ quả là tỷ lệ các khoản chi này trong NSNN giảm dần. Có thể
minh họa trường hợp chi cho khoa học công nghệ - lĩnh vực cần ưu tiên, tỷ lệ trong
chi tiêu công từ 1,1 % năm 2005 xuống còn trung bình 0,8 % giai đoạn 5 năm gần đây
nhất. Điều này cho thấy khoa học công nghệ vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng
mức như trong chiến lược phát triển.
Một trong những khoản chi có vai trò ngày càng lớn trong tổng chi NSNN là
chi trả nợ (gồm cả lãi và gốc). Với nhiều khoản vay từ những năm 1990 thì đến nay đã
bắt đầu tới hạn trả nợ, do vậy hàng năm số nợ phải trả đã chiếm tỷ trọng khoảng 10 –
139
12% tổng chi NSNN. Về xu thế, số nợ này sẽ tăng dần lên trong những năm tới và
điều đó cũng có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong
tương lai. Trong những năm gần đây 2009-2012 chi NSNN cho trả nợ đã vượt qua
khoản thu bằng dầu thu, mặc dù trong giai đoạn 2003-2008, chi trả nợ chỉ chiếm
khoảng 60 % so với thu từ dầu thô.
Có nhiều lý do giải thích sự gia tăng nhanh chóng của các khoản chi NSNN
trong có lý do là kỷ luật tài khóa của Việt Nam khá thấp. Xem xét giữa số quyết toán
và dự toán của NSNN những năm gần đây có thể thấy rõ điều này.
Hình 6 : So sánh số chi Quyết toán và Dự toán hàng năm
(Nguồn: Bộ Tài chính)
Số liệu cho thấy chi đầu tư phát triển thường xuyên vượt dự toán và một số năm
có số vượt dự toán rất cao như 2009 là 60,8 % năm 2010 là 45, 9 %, năm 2011 là 27,5
%. Năm 2012 là năm có số chi cho đầu tư phát triển vượt dự toán thấp nhất trong 10
năm gần đây (ước khoảng 8 %) một phần do chính sách thắt chặt chi tiêu từ nghị quyết
11/CP của Chính phủ và một phần do khó khăn từ nguồn thu ngân sách nhà nước (Năm
2012 thu NSNN ước chỉ đạt 100,1 % dự toán trong đó thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
và thu nội địa (trừ dầu thô) không đạt dự toán).
Xem xét sâu hơn các khoản chi thường xuyên cho thấy khoản chi có số vượt dự
toán lớn nhất là chi quản lý hành chính (trung bình giai đoạn 2005-2012 vượt 25,7 %
mỗi năm) tiếp theo là chi sự nghiệp kinh tế là 9,9 % mỗi năm, chi cho sự nghiệp xã
hội (y tế, giáo dục, văn hóa…) chỉ là vượt trung bình 1,9 % mỗi năm. Điều này cho
thấy kỷ luật tài khóa trong chi tiêu công chưa được tôn trọng và khu vực thường
xuyên vượt dự toán lại là lĩnh vực đang có chủ trương cải cách mạnh mẽ là hành chính
công. Như vậy không chỉ tăng nhanh về quy mô mà kỷ luật tài khóa của các khoản chi
cho quản lý nhà nước cũng là kém nhất. Số liệu giữa dự toán và quyết toán của chi
cho khoa học công nghệ cung cấp một nhận xét đáng buồn là khoản chi này thường
xuyên không đạt dự toán với tỷ lệ trung bình 2005-2012 là 89, 8 %. Phải chăng chúng
ta không tìm được đề tài khoa học thích hợp để đầu tư hay thủ tục để thực hiện cho
nghiên cứu khoa học là quá phức tạp, làm nản lòng những người làm khoa học nên số
dự toán chi cho khoa học không thể giải ngân hết.
Nếu tính toán theo phân loại của Việt Nam thì trong tổng chi cân đối NSNN có
một khoản chi chiếm tỷ lệ cao hàng năm là chi chuyển nguồn, chi đã xuất quỹ chuyển
quyết toán năm sau. Khoản chi này chiếm đến hơn 21 % tổng chi NSNN vào năm
2008, năm 2010 và năm 2011. Chi chuyển nguồn lớn hàng năm làm cho tính chính
xác, minh bạch về chi tiêu và thâm hụt NSNN không phản ánh đúng với thực tế từ đó
140
sẽ ảnh hưởng không tốt tới việc triển khai các giải pháp trong điều hành kinh tế vĩ mô.
Chi chuyển nguồn tăng lên hoàn toàn là nguyên nhân chủ quan, là cách thức quản lý,
điều hành chi tiêu, cho nên nếu muốn các chính sách của chính phủ có hiệu lực hiệu
quả tốt hơn thì không nên để chi chuyển nguồn tăng cao trong những năm tới96. Kỷ
luật tài khóa không tốt sẽ tạo ra những nguy cơ tác động tiêu cực tới tính bền vững
của ngân sách nhà nước.
Phương pháp hạch toán, thống kê ngân sách của Việt Nam với việc không tính
toán đầy đủ một số khoản thu và chi liên quan đến NSNN cũng là lý do dẫn đến việc
kỷ luật tài khóa không được tôn trọng. Hiện nay, ngoài ngân sách nhà nước, còn có
trên 50 quỹ tài chính tập trung hoặc chuyên dùng cũng là ngân quỹ nhà nước, thuộc
phạm vi tài chính nhà nước, bộ phận cấu thành của tài chính quốc gia. Trong số đó, có
nhiều quỹ tài chính ngoài ngân sách quản lý số tiền lên tới hàng ngàn tỷ đồng, thậm
chí là hàng chục ngàn tỷ đồng, nhưng trên thực tế, Quốc hội chưa bao giờ được báo
cáo về nguồn hình thành, tình hình sử dụng và kết quả sử dụng của các quỹ tài chính
nhà nước. Việc tồn tại các quỹ ngoài ngân sách nhà nước mà việc quy định sử dụng
chúng không rõ ràng là một bằng chứng về kỷ luật ngân sách lỏng lẻo.
3. Thâm hụt ngân sách kéo dài, nợ công ở mức cao
Với quy mô chi tiêu ngân sách cao và liên tục tăng lên, Việt Nam phải đối mặt
với tình trạng mất cân bằng ngân sách cao và kéo dài bất chấp việc quy mô thu NSNN
cũng được duy trì ở mức rất cao như phân tích ở trên. Thống kê của Bộ Tài chính cho
thấy trong nhiều năm Việt Nam luôn rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước97
(chi nhiều hơn thu). Cụ thể, thâm hụt ngân sách (không bao gồm chi trả nợ gốc) trong
giai đoạn 2004-2006 chỉ là khoảng 1 % nhưng đến giai đoạn 3 năm gần nhất thì đã lên
tới 2,6 %. Thâm hụt ngân sách tổng thể (bao gồm cả chi trả nợ gốc) theo thống kê của
Bộ tài chính kể từ 2001 đến nay luôn tiệm cận ngưỡng 5 % (có năm 2009-2010 cao
hơn 5%). Thâm hụt ngân sách năm 2012 theo ước tính là khoảng 4,8 % GDP là tỷ lệ
thấp nhất trong 5 năm gần đây.
Một điểm nữa cần nhắc tới là bội chi NSNN ngày càng có xu hướng tăng so
với chi trả nợ. Trong giai đoạn 2003-2008, bội chi NSNN luôn tiệm cận với chi trả nợ,
nhưng những năm gần thì bội chi ngày càng tăng mạnh, điều này chắc chắn sẽ tạo
gánh nặng lên phía thu NSNN.
Sự khác biệt về phương pháp thống kê, hạch toán ngân sách dẫn đến tình trạng
số liệu về cân bằng ngân sách và nợ công của Việt Nam và các tổ chức quốc tế có sự
khác nhau đáng kể.
Bảng 5. Cán cân ngân sách nhà nƣớc của Việt nam qua các năm (% GDP)
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
MOFa - - -4,9 -4,9 -4,9 -5 -5,7 -4,6 -4,9 -5,6 -4,4 -4,8*
MOFb -4,9 -4,9 -1,8 -1,1 -0,9 -0,9 -1,8 -1,8 -3,7 -2,8 -1,2 -2,8*
IMF -3,8 -3,3 -4,8 -1,2 -3,3 0,3 -2,2 -0,5 -7,2 -3,1 -3,2 -5,2*
ADB -3,5 -2,3 -2,2 0,2 -1,1 1,3 -1,0 0,7 -3,9 -4,5 -2,5*
Ghi chú : MOFa (Bộ Tài chính) - Cán cân ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc
96 Năm 2011 , Bộ Tài chính đã ban hành thông tư 177/2011/TT-BTC nhằm quy định chặt chẽ hơn với các khoản chi được chuyển nguồn. Quy định này là cần thiết nhằm tăng cường kỷ luật tài khóa. 97 Thống kê Việt nam sử dụng từ bội chi NSNN để chi tình trạng thâm hụt ngân sách và thuật ngữ bội thu
NSNN để chỉ tình trạng thặng dư NSNN. Trong bài viết chúng tôi sử dụng thuật ngữ “thâm hụt” khi chi lớn hơn
thu và “ thặng dư” trong trường hợp ngược lại.
141
MOFb - Cán cân ngân sách bao gồm chi trả nợ gốc. Số liệu có dấu * là số ước tính
Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính, IMF (Fiscal Monitor, 2013) và ADB (Key Economic Indicators,
2012)
Do vậy, so sánh quốc tế về cân bằng ngân sách và nợ công của Việt Nam với các
nước khác là không dễ dàng. Tuy nhiên có thể thấy rằng nếu sử dụng nguồn số liệu của
cùng một tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) hay
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) thì Việt nam đều ở trong tình trạng có mức mất cân
bằng ngân sách cao so với các nước trong khu vực.
Số liệu mới nhất của IMF (2013) cho thấy trong 5 năm gần đây Việt Nam luôn
có tỷ lệ thâm hụt NSNN cao hơn trung bình các nước đang phát triển có thu nhập thấp
trên thế giới và cao hơn tỷ lệ trung bình của tất cả các nhóm nước đang phát triển thấp
chia theo khu vực. Đây là vấn đề cần lưu ý vì thâm hụt ngân sách cao, liên tục có ảnh
hưởng tiêu cực đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế như tăng trưởng kinh tế, lạm
phát, lãi suất, cán cân thanh toán, tỷ giá.
Hiện nay Việt Nam vẫn áp dụng phương pháp cũ trong quản lý ngân sách là
mọi khoản thu chi đều được lập dự toán và quyết toán hàng năm nên đã tạo ra những
ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững tài khóa và rủi ro tăng thâm hụt ngân sách. Điều
này được giải thích như sau:
(i) Hiện cả thu và chi NSNN đều được lập dự toán hàng năm dựa cơ bản trên số
liệu danh nghĩa năm hiện hành. Do vậy nếu đó là năm có lạm phát cao thì dễ thổi làm
thổi phồng cả số thu NSNN vì thuế phụ thuộc khá nhiều vào mức giá.
(ii) Khi tổng thu NSNN được dự báo cao chúng ta cũng tiếp tục dự báo tổng
chi NSNN ở mức cao và mặc dù đã giới hạn tỷ lệ bội chi ngân sách/ GDP thì chúng
ta vẫn sẽ có một con số bội chi về tuyệt đối rất cao. Số liệu về NSNN những năm
gần đây cho thấy rất rõ là ngay cả khi tỷ lệ bội chi/GDP đã được ấn định thì con số
tuyệt đối về bội chi NSNN vẫn có thể liên tục tăng lên. Hệ quả là tốc độ tăng vay nợ
và vay nội địa cần thiết để bù đắp bội chi lại tăng mạnh trong vài năm gần đây. Điều
này có nguy cơ gây ra những bất ổn kinh tế và gia tăng gánh nặng nợ công.
(iii) Các khoản chi cho các dự án đầu tư thường xuyên vượt dự toán và phải
thực hiện chi chuyển nguồn nhiều năm vì hiện chưa có cơ chế cho việc lập kế hoạch
tài chính cho trung và dài hạn.
Thâm hụt NSNN ở mức cao, liên tục sẽ dẫn tới việc tăng nợ công. Cũng như số
liệu về thâm hụt NSNN, số liệu về nợ công của Việt Nam cũng không nhất quán giữa
các tổ chức song đều phản ánh xu hướng tăng nhanh của nợ công.
Bảng 6: Nợ công của Việt nam từ 2006-2012 (%GDP)
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
MOF 52,6 56,3 54,9 55,6
Trong đó: Nợ nước ngoài 31,4 32,5 29,8 39 42,2 41,5
IMF 41.8 44.6 42.9 51.2 54.0 50.4 52.1
(Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính và IMF)
Từ 2009, nợ công đã vượt qua ngưỡng 50 % GDP và tăng đến 56,3 % vào năm
2010 trước khi giảm nhẹ xuống 55,6% vào năm 2012. Nợ nước ngoài chiếm tỷ lệ cao
trong tổng nợ công của Việt Nam (chiếm 76 % tổng nợ công năm 2011). Về mặt số
liệu thì tổng nợ công vẫn còn dưới ngưỡng an toàn 65 % của Bộ Tài chính và IMF
cũng cho rằng nợ công của Việt Nam chưa nguy hiểm. Kế hoạch trả nợ hàng năm
khoảng 14%-16% tổng thu ngân sách nhà nước (thấp hơn giới hạn cảnh báo là dưới
30%), bằng khoảng 4,5% kim ngạch xuất khẩu (thấp hơn giới hạn cảnh báo là dưới
142
15%). Đây được coi là các chỉ tiêu an toàn, và chỉ số nợ công của Việt Nam được xếp
loại ở mức trung bình so với các nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm, song
nợ công của Việt Nam vẫn có nhiều vấn đề cần lưu ý.
Thứ nhất, các khoản nợ công của Việt Nam vẫn chưa tính đủ các gánh nặng nợ
tiềm tàng từ hoạt động của khu vực ngoài ngân sách như hoạt động của Bảo hiểm xã
hội, Bảo hiểm Y tế, khu vực ngân hàng và đặc biệt là khu vực DNNN.
Thứ hai, ngay cả khi nợ công không rơi vào ngưỡng nguy hiểm thì nền kinh tế
vẫn có thể gặp bất ổn khi tổng số nợ quá cao. Bài học kinh nghiệm của Argentina năm
2001 cho thấy, do vay nợ tràn lan trong khi Chính phủ không kiểm soát được khả
năng thu thuế, kim ngạch xuất khẩu thấp (chỉ chiếm khoảng 10% GDP), nên không có
nguồn để trả nợ, cộng với tệ nạn tham nhũng, sự bùng nổ vay nợ của chính quyền địa
phương nên cuối cùng đã rơi vào tình trạng vỡ nợ. Vào thời điểm Chính phủ
Argentina tuyên bố vỡ nợ, nợ công của nước này cũng chỉ bằng 69% GDP, chưa phải
là lớn so với nhiều nước.
Thứ ba, tỷ lệ nợ công/GDP là thước đo tốt về quy mô nợ công song nó chưa
hẳn là chỉ số tốt để đánh giá rằng nợ công đang an toàn và không có rủi ro. Với một
nền kinh tế có nhiều chỉ số vĩ mô không ổn định như Việt Nam thì tỷ lệ nợ công tăng
cao luôn luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ.
Kết luận và khuyến nghị chính sách
Chính sách tài khóa có vai trò quan trọng trong ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Những phân tích trong bài viết cho thấy đã đến lúc Việt Nam cần có sự đổi mới mạnh
mẽ, toàn diện nhằm hướng tới việc xây dựng một ngân sách bền vững, hiệu quả. Dù
hiện nay quy mô nợ công của Việt Nam vẫn được coi là trong ngưỡng an toàn song
với việc duy trì thâm hụt ngân sách nhiều năm ở mức xấp xỉ 5 % GDP trong khi hiệu
quả chi tiêu công ngày càng kém thì nguy cơ mất ổn định tài khóa không chỉ là cảnh
báo. Trong bối cảnh Việt Nam đang có những thảo luận về thay đổi Hiến pháp và
Luật ngân sách nhà nước thì cần thiết phải có những thảo luận sâu về đổi mới chính
sách tài khóa trong cả thu và chi ngân sách nhà nước.
Với các khoản thu NSNN, cải cách hệ thống thuế nhằm giảm bớt gánh nặng
thuế khóa, tạo nguồn thu ngân sách ổn định và cân bằng cần được coi là quan điểm
chủ đạo. Để làm được điều này ngoài các giải pháp mang tính kỹ thuật như giảm thuế
suất hay thay đổi phạm vi tính thuế… thì phải cải thiện hiệu quả của công tác quản lý
thuế. Hiện nay vai trò của DNNN trong đóng góp NSNN vẫn rất lớn trong khi đóng
góp của các khu vực kinh tế khác chưa tương xứng với tiềm năng. Vì vậy cần tiếp tục
nâng cao hiệu quả thu thuế từ các khu vực kinh tế ngoài nhà nước – một công việc
không đơn giản.
Để giảm được sức ép thu thuế thì tất yếu phải giảm quy mô chi tiêu công và thu
hẹp vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Song việc cắt giảm các khoản chi tiêu nên
dựa trên việc đánh giá hiệu quả và mức độ ưu tiên của chi tiêu công chứ không nên
thực hiện cắt giảm đồng loạt theo tỷ lệ cố định.
Nhằm nâng cao vai trò của Quốc hội trong phê duyệt dự toán NSNN thì có thể
xem xét thay đổi các Nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách thành các luật
ngân sách hàng năm. Điều này cho phép tăng cường tính kỷ luật ngân sách và hạn chế
tính trạng chi chuyển nguồn như hiện nay. Với các khoản chi được thực hiện trong
nhiều năm thì việc áp dụng Khuôn khổ chi tiêu trung hạn là rất cần thiết. Điều này
cũng cho phép cải thiện hiệu quả chi NSNN cho các dự án đầu tư khi phương pháp
143
này đòi hỏi khi lập các dự án thì phải có thứ tự ưu tiên, chỉ rõ các kết quả đầu ra thay
vì chỉ dựa trên nguồn lực sẵn có như hiện nay.
Cắt giảm quy mô chi tiêu NSNN cũng sẽ cho phép làm giảm thâm hụt, từng
bước cân bằng ngân sách nhà nước. Với tỷ lệ ngày càng lớn trong ngân sách thì sẽ khó
có thể thực hiện điều này nếu không thực hiện cải cách hành chính, tiết kiệm chi tiêu.
Chính phủ cần có những giải pháp mạnh mẽ hơn với việc cắt giảm chi tiêu trong quản
lý hành chính và cải thiện hiệu quả làm việc của bộ máy. Sự gia tăng nhanh chóng của
số lượng công chức những năm gần đây, nhất là ở cấp xã là rào cản rất lớn cho việc
cắt giảm chi tiêu công.
Với những khoản chi tiêu cho khu vực sự nghiệp, có thể xem xét thay đổi cơ cấu
chi tiêu theo nguyên tắc Nhà nước chỉ bao cấp những dịch vụ công cơ bản, cần thiết và
tăng dần sự tham gia của các thành phần kinh tế khác vào cung cấp dịch vụ. Xã hội hóa
các dịch vụ công đang được coi là chủ trương cần đẩy mạnh song cần đi đôi với việc
nhà nước phải kiểm soát tốt chất lượng các dịch vụ xã hội hóa.
Tài liệu tham khảo
ADB (2012) Key Indicators for Asie and Pacific
Bahl R.W. (1971) "A regression approach to tax effort and tax ratio analysis." Staff
paper-IMF, vol. 18, pp. 570-612.
Burgess, Robert and Nicolas Stern. 1993. "Taxation and Development." Journal of
economic literature, 31(No.2), pp. 762-830.
Chambas Gérard và cộng sự. (2005). Afrique du sud du Sahara : Mobiliser des
ressources fiscales pour le développement. Paris: Economica, 305 p.
Corden, W.M., & Neary, J.P. 1982. “Booming sector and de-industrialisation in a
small open economy”. The economic journal, 92, 825-848.
IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) (2001) Government Finance Statistic Manual
IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) (2013) "Fiscal Monitor – Fiscal Adjustment in uncertain
world" – World Economic and Financial Survey 4/2013
Lotz, Joergen R. và Elliott R. Morss. 1970. "A Theory of Tax Level Determinants
for Developing Countries." Economic Development and cultural change, 18(3), pp.
328-41.
Ngân hàng thế giới (2013) “Doing Bussiness” – Báo cáo của NHTG (WB)
Nhóm tƣ vấn (MAG) Ủy ban Kinh tế Quốc hội – (2012) “Từ bất ổn vĩ mô đến con
đường tái cơ cấu” – Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012.
Tanzi Vito. 1987. "Quantitative characteristics of tax systems of developing
coutries," in The theory of taxation for developing countries. David Newbery and
Nicholas Stern (eds). Oxford. Oxford University Press, pp. 205-41.
Tanzi Vito và L. Schknecht (1997). "Reforming government: An overview of recent
experience." European Journal of Political economy, vol. 13, pp. 395-417.
Tanzi Vito và Zee Howell H. (2000). "Tax Policy for Emerging Markets: Developing
Countries." National-Tax-Journal, vol. 53(2), pp. 299-322.
144
Teerra J.M. và Hudson J. (2004). "Tax performance: a comparative study." Journal
of International Development, vol. 16(6), pp. 785-802.
Vũ Sỹ Cƣờng (2012) “Quan hệ giữa lập dự toán và thưc hiện ngân sách nhà nước
với lạm phát” – Tạp chí Ngân hàng số 2/2012.
Vũ Sỹ Cƣờng (2009) “Ước lượng quy mô thu ngân sách hợp lý: trường hợp Việt
nam” – Tạp chí nghiên cứu Kinh tế số 9/2009.
145
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CƠ CẤU THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Ngọc Anh – Tô Trung Thành
Bài viết này nghiên cứu cơ cấu xuất nhập khẩu (cơ cấu hàng hóa, cơ cấu chủ thể,
cơ cấu thị trường) để đánh giá tổng thể về thương mại quốc tế trong những năm qua, từ
đó nhận định được những thách thức chính của ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn
sắp tới.
Diễn biến khái quát thƣơng mại quốc tế
Việt Nam đã thực hiện một loạt các cải cách trong lĩnh vực kinh tế kể từ sau Đổi
mới (1986). Đối với thương mại quốc tế, cải cách được thể hiện ở việc giảm thuế và dỡ
bỏ các hàng rào thương mại, tham gia các liên minh thuế quan trong khu vực và trên thế
giới. Đối với thuế quan, Việt Nam đã thực hiện quá trình giảm thuế đáng kể sau khi
tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) cũng như các hiệp định hợp tác song phương và đa phương khác. Theo cam kết
với WTO, Việt Nam phải giảm mức thuế nhập khẩu bình quân đơn giản xuống 11.4%
nhưng thuế bình quân năm 2010 đã đạt mức thấp hơn 9.8%. Đối với ngành nông nghiệp
được bảo hộ nhiều nhất, Việt Nam cũng đã cắt giảm thuế nhỏ hơn yêu cầu của WTO
(17% và 18.5%)98
. Đối với ngành công nghiệp cũng cắt giảm thuế tối đa từ mức 16.2%
xuống 8.7%. Theo cam kết với ASEAN, Việt Nam tiếp tục thực hiện CEPT giai đoạn
2008-2013 với một số điều chỉnh, bao gồm đẩy nhanh việc giảm thuế cho 1600 dòng
sản phẩm hải sản, dệt may, sản phẩm công nghệ thông tin về mức 0% vào năm 2012.
Đối với một số dòng sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm, thuế sẽ được giảm từ mức 20-
10% xuống 10-5%. Thuế suất bình quân sẽ chỉ còn 1.88%, 1.77% và 1.69% trong các
năm 2012, 2013, và 2014. Theo cam kết ASEAN- China, Việt Nam cam kết đưa 3700
dòng thuế trong 8900 dòng thuế trong bảng MFN về mức thấp hơn 5% so với mức thuế
MFN. Đáng chú ý khoảng 600 dòng thuế với các nhóm hàng nhạy cảm sẽ giảm về mức
MFN vào gia đoạn 2015-2018. Theo cam kết ASEAN- Hàn Quốc, việc cam kết giảm
thuế sẽ được thực hiện kể từ năm 2015 trở đi. Đối với các biện pháp phi thuế quan, về
hạn ngạch xuất nhập khẩu, Việt Nam đã từng bước dỡ bỏ hạn ngạch tuyệt đối và
chuyển sang dùng hạn ngạch thuế quan, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn vào năm 2015. Các
biện pháp về vệ sinh dịch tễ (SPSs) và hàng rào kĩ thuật (TBTs) được sử dụng thường
xuyên hơn trong ngắn hạn dưới dạng giấy phép xuất khẩu, đặc biệt trong năm 2011, với
mục tiêu bình ổn kinh tế vĩ mô và bảo hộ sản xuất trong nước.
Bảng 1: Diên biên cán cân thƣơng mại giai đoan 1996-2012
Năm
Xuât khâu Nhâp khâu Cán cân thƣơng mại Độ mở thƣơng
mại
(XK+NK)/GDP tr. USD,
FOB %GDP
triêu USD,
CIF %GDP tr. USD %GDP
1996 7255,9 29,43 11143,6 45,19 -3887,7 -15,77 74,62
1997 9185,0 34,22 11592,3 43,18 -2407,3 -8,97 77,40
1998 9360,3 34,40 11499,6 42,26 -2139,3 -7,86 76,66
98http://stat.wto.org/TariffProfile/WSDBTariffPFView.aspx?Language=E&Country=VN
146
1999 11541,4 40,24 11742,1 40,94 -200,7 -0,70 81,17
2000 14482,7 46,56 15636,5 50,16 -1153,8 -3,70 96,62
2001 15029,2 45,98 16218 49,62 -1188,8 -3,64 95,60
2002 16706,1 47,64 19745,6 56,31 -3039,5 -8,67 103,96
2003 20149,3 50,94 25255,8 63,85 -5106,5 -12,91 114,80
2004 26485.,0 58,30 31968,8 70,37 -5483,8 -12,07 128,67
2005 32447,1 61,32 36761,1 69,47 -4314,0 -8,15 130,79
2006 39826,2 65,38 44891,1 73,70 -5064,9 -8,31 139,08
2007 48561,4 68,38 62764,7 88,38 -14203,3 -20,00 156,76
2008 62685,1 68,81 80713,8 88,60 -18028,7 -19,79 157,42
2009 57096,3 58,75 69948,8 71,98 -12852,5 -13,23 130,73
2010 72236,7 67,87 84838,6 79,72 -12601,9 -11,84 147,59
2011 96905,7 78,40 106749,9 86,37 -9844,2 -7,96 164,77
2012 114631,0 80,71 114347,0 80,91 284 0,20 161,63
Nguồn: TCKT
Với chính sách thương mại có nhiều cải cách theo hướng dỡ bỏ các rào cản
thương mại, hướng đến tự do hóa thương mại, trong hơn một thập niên qua, kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có mức tăng trưởng ấn tượng. Giá trị xuất
khẩu/GDP tăng từ 46% năm 2001 lên tới 80,7% năm 2012, nhập khẩu/GDP tăng từ
49% lên đến 80,9% trong cùng thời kỳ, khiến tổng giá trị thương mại/GDP tăng từ
dưới 100% lên đến 161,63%, thể hiện độ mở rất lớn của nền kinh tế, và là mức rất cao
so với Trung Quốc và một số nước ASEAN.
Tuy nhiên, trước năm 2011, do tốc độ tăng nhập khẩu nhanh hơn nhiều so với
xuất khẩu, cán cân thương mại thâm hụt lớn. Nhập siêu bắt đầu được coi là nghiêm
trọng kể từ năm 2003, khi đạt mức 12,9% GDP, và đặc biệt căng thẳng vào năm 2008
(ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO), với mức thâm hụt tới 14,1 tỷ USD, tức gần
20% GDP và tỷ lệ này tiếp tục duy trì ở các năm tiếp theo. Nếu giai đoạn 2001-2005,
nhập siêu trung bình ở mức 9,1% GDP thì giai đoạn 5 năm tiếp theo (2006-2010),
nhập siêu đã tăng tới 14,7% GDP99
, và ở mức gần 8% GDP trong năm 2011. Trong
khi đó, Trung Quốc và các nước ASEAN như Indonesia, Thái Lan hay Malaysia đều
có thặng dư thương mại, thậm chí ở mức rất cao (như Malaysia 22% GDP).
Nếu như năm 2011, nhập siêu vẫn ở mức 9,8 tỷ đôla Mỹ (gần 8% GDP) thì đến
năm 2012, nền kinh tế đã xuất siêu 284 triệu (tương đương 0.2% GDP), Việt Nam đạt
thặng dư thương mại lần đầu tiên trong vòng 20 năm (kể từ năm 1993). Nguyên nhân chủ
yếu là do suy giảm sản xuất và tiêu dùng trong nước khiến nhu cầu nhập khẩu giảm tốc,
tốc độ tăng chỉ dừng lại 6,6% (với chỉ số giá nhập khẩu giảm 0,33%), so với tốc độ tăng
25,83% của năm 2011 (với chỉ số giá nhập khẩu tăng 20,2%), theo đó, tốc độ tăng thực tế
99
Tình trạng còn căng thẳng hơn nếu loại bỏ vàng ra khỏi cán cân thương mại hàng hóa. Trong 2 năm 2009 và
2010, Việt Nam xuất siêu 2,24 tỷ và 1,72 tỷ USD vàng (được ghi là vàng phi tiền tệ trong thống kê của TCTK).
Nếu loại trừ vàng thì nhập siêu hàng hóa trong 2 năm này lên đến 15,1 tỷ USD và 14,3 tỷ USD (chiếm 15,5% và
13,5% GDP).
147
là tương đương năm 2011, so với con số tăng thực tế trung bình ước tính cho giai đoạn
2005-2010 (loại bỏ năm 2009 trong giai đoạn suy thoái) là 17,3%. Trong khi đó, sự gia
tăng đột biến của mặt hàng điện thoại, máy vi tính và linh kiện (chủ yếu từ nhà sản xuất
Samsung) đã khiến tốc độ tăng xuất khẩu duy trì ở mức cao 18,2% mặc dù chỉ số giá xuất
khẩu giảm 0,54%. Diễn biến 8 tháng đầu năm 2013 cũng cho thấy xu hướng nói trên.
Tính chung tám tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 84,8 tỷ USD, tăng 14,7% so
với cùng kỳ năm trước, trong khi kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 85,4 tỷ USD, tăng
14,9% so với cùng kỳ năm trước, theo đó, nhập siêu 8 tháng đầu năm năm 2013 là 577
triệu USD.
Hình 1. Tôc đô tăng giá trị xuất nhập khẩu và chỉ số giá xuất nhập khẩu (%)
Nguôn: TCTK.
Cơ câu hang hoa xuât nhâp khâu
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Xét theo tiêu chuẩn ngoại thương , xuât khâu cua Viêt Nam đa co xu hương
giảm dần tỷ trọng các mặt hàng thô hoặc mới sơ chế (tư nhom 1 đến 5 theo tiêu chuân
SITC). Nêu như năm 1995, tỷ trọng của các nhóm hà ng nay chiêm tơi xâp xi 70% thì
tơi năm 2010 đa giam xuông dươi 40%. Xuất khẩu cũng co sư dich chuyên theo
hương giam ty trong san phâm nông , lâm, thủy sản và tăng dần tỷ trọng sản phẩm
hàng công nghiệp . Năm 1996, sản phẩm nông, lâm thuy san chiêm hơn 40% tông gia
trị xuất khẩu thì đến năm 2012 con sô nay đa giam môt nưa (20,8%). Cùng với đó là
sư tăng nhanh chong cua hang hoa chê biên công nghiêp như điên thoai va linh kiên ,
điên tư may tính, dêt may, da giay....
Hình 2. Cơ câu hang hoa xuât khâu theo SITC
Nguôn: TCTK
148
Hình 3. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo nhóm hàng, 2000 – 2011
Nguồn: WITS, 2013.
Tuy nhiên, khi so sanh vơi môt sô nươc trong khu vưc như Trung Quôc và ASEAN,
cơ câu hang xuât khâu cua Việt Nam vân thiên vê cac măt hang thô sơ hoăc mơi sơ chê.
So vơi Trung Quôc va Malaysia, tỷ trọng hàng xuất khẩu là máy móc, phương tiên vân tai
và phụ tùng của Việt Nam thâp hơn rât nhiêu va chi tương đương vơi Indonesia. Thay vao
đo, Việt Nam vân co thê manh trong xuât khâu lương thưc thưc phâm, đăc biêt la lua gao,
so vơi cac nươc trong khu vưc, vơi ty trong nhom hang hoa nay chiêm tơi 20% tông gia
trị xuât khâu.
Hình 3. Cơ câu xuât khâu cac nƣơc theo tiêu chuân SITC giai đoan 2006-2010
Nguôn: Nguôn: TCTK, National Bureau of Statistics of China, BPS- Statistics Indonesia, Department
of Statistics Malaysia
Bên cạnh việc xem xét cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo các nhóm hàng, phân tích
cơ cấu thương mại theo hàm lượng công nghệ để làm rõ cấu trúc sản xuất và xuất
khẩu, qua đó cho thấy sự chuyển dịch để theo đuổi lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
149
trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trong 10 năm qua, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các loại
hàng hóa cơ bản và có hàm lượng công nghệ thấp. Tỷ trọng dầu thô xuất khẩu đã giảm
hơn một nửa (từ khoảng 25% năm 2000 xuống còn xấp xỉ 10% trong năm 2011),
trong khi các loại hàng hóa cơ bản hầu như giữ nguyên tỷ trọng. Nhóm hàng hóa có
hàm lượng công nghệ thấp, và dựa trên tài nguyên không có thay đổi nhiều về tỷ
trọng, lần lượt ở mức 30% và 10%. Sự đóng góp của nhóm hàng hóa công nghệ cao
và trung bình có sự cải thiện nhỏ trong tổng lượng hàng hóa xuất khẩu. Cụ thể, nhóm
hàng hóa công nghệ cao đã tăng từ 5% năm 2000 đến khoảng 10% trong năm 2011.
Sự chuyển dịch này phần nào chứng tỏ cơ cấu các ngành hàng xuất khẩu của Việt
Nam cũng đã có cải thiện nhất định trong thập kỷ qua.
Hình 4. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hàm lƣợng công nghệ, 2000 – 2011
Nguồn: WITS, 2013
Khi so sánh với một số quốc gia trong bảng 2 dưới đây (chỉ tính với hàng hóa
xuất khẩu công nghiệp), sau 10 năm, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam dường như cùng
chiều hướng với Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng tỏ ra khác hẳn so với một số nước
ASEAN. Với Trung Quốc, nhóm hàng công nghệ thấp và dựa vào tài nguyên trong cơ
cấu xuất khẩu đã giảm gần 15% trong từ năm 2000 đến 2010, trong khi đó, Ấn Độ
cũng giảm khoảng 10% trong cùng thời kỳ. Đối với các nước ASEAN nói chung,
nhóm hàng trên lại tăng lên đến 10% (từ 30.61% năm 2000 lên 40.91% năm 2010).
Nhóm hàng có hàm lượng công nghệ trung bình đều có sự cải thiện ở hầu hết các
nước. Ngoài ra, trong khi Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ xuất khẩu nhiều hơn
nhóm hàng hóa công nghệ cao thì Indonesia, Thái Lan và các nước ASEAN có xu
hướng giảm tỷ trọng nhóm hàng này.
Bảng 2. So sánh cơ cấu xuất khẩu Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ và ASEAN
Phần trăm
Việt Nam Trung Quốc Ấn Độ ASEAN Indonesia Thái Lan
2000 2010 2000 2010 2000 2010 2000 2010 2000 2010 2000 2010
Resource-based 13.87 12.58 9.15 8.26 34.42 45.42
15.81 26.48 33.73 49.72 18.54 23.50
Low tech 64.67 59.43 45.36 31.22 46.90 26.33 14.80 14.43 31.88 21.23 21.86 14.68
Medium tech 10.32 13.79 24.29 28.33 13.34 20.34 20.75 25.53 19.53 22.41 27.16 39.23
High tech 11.14 14.19 21.20 32.19 5.34 7.90 48.64 33.57 14.87 6.64 32.43 22.59
150
Nguồn: WITS, 2013
Tuy nhiên, xu hướng trên chưa mạnh mẽ và có nhiều đột phá. Hàm lượng công
nghệ xuất khẩu Việt Nam chủ yếu là công nghệ thấp (khoảng 60% và 12-13% ngành
sử dụng công nghệ cao) và hầu như ít thay đổi trong hơn thập niên qua. Trong khi đó
các nước như Trung Quốc, và một số nước ASEAN thì tỷ trọng ngành sử dụng công
nghệ cao đã lên tới trên 30%. Điều này phản ánh sự tụt hậu của Việt Nam so với các
nước khác trong việc xác lập năng lực cạnh tranh.
Trong thực tế, Việt Nam đã có chủ trương nâng cao năng lực cạnh tranh nền
kinh tế nói chung, đối với các mặt hàng xuất khẩu nói riêng. Mục tiêu của Đề án tổng
thể tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2013-2020 do Thủ tướng chính phủ phê duyệt đặt mục
tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh là một trong những mục tiêu đầu tiên bên cạnh mục
tiêu nâng cao năng suất lao động, năng suất các yếu tố tổng hợp. Trong thời gian qua,
chủ trương nâng cao năng lực cạnh tranh thể hiện rõ nét nhất qua các chính sách công
nghiệp, nhằm nâng cao hàm lượng công nghệ trong các mặt hàng, phát triển hoạt động
sản xuất chế tạo, đặc biệt đối với các mặt hàng xuất khẩu. Theo một nghiên cứu gần
đây, từ năm 1995 đến nay, Việt Nam đã xây dựng khoản 80 chiến lược phát triển, quy
hoạch tổng thể và kế hoạch cho các ngành công nghiệp (Kim & Nguyen, 2011) với
nội dung các chính sách trong từng giai đoạn được thể hiện trong biểu đồ dưới.
Biểu đồ 1. Chính sách phát triển ngành công nghiệp
Nguồn: Kim & Nguyen, 2011
Những chính sách công nghiệp trên đã có ảnh hưởng tích cực tới năng lực cạnh
tranh của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, thể hiện qua sự tăng lên về xếp hạng Chỉ
số năng lực cạnh tranh CIP toàn cầu. Năm 2009, Việt Nam đứng thứ 58, tiến lên được
14 bậc chỉ trong vòng 4 năm và trở thành một trong những nước tiến bộ nhất trên thế
151
giới. Tăng trưởng giá trị gia tăng của hoạt động chế tạo của Việt Nam tăng đáng kể từ
5.8 tỷ USD năm 2000 lên 15.4 tỷ USD năm 2009.
Hình 5. Giá trị gia tăng của hoạt động chế tạo của Việt Nam và ASEAN,
2000-2009 (tỷ USD)
Nguồn: World Development Indicators
Tuy nhiên, xét về cơ cấu hàng xuất khẩu, Việt Nam thặng dư thương mại đối với
nhóm các sản phẩm chế tạo sử dụng công nghệ thấp trong khi thâm hụt thương mại đối
với nhóm các sản phẩm chế tạo sử dụng công nghệ trung bình và cao100
. So với các
nước trong khu vực, tỷ trọng của ngành sử dụng công nghệ trung bình và cao trong tổng
giá trị gia tăng sản phẩm chế tạo chỉ khoảng trên 20% và không thay đổi trong những
năm gần đây. Trong khi các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ thấp và thâm dụng
lao động chủ yếu là cụm công nghiệp dệt may, da giầy chiếm chủ yếu. Điều này cho
thấy các chính sách phát triển công nghiệp, gia tăng hàm lượng công nghệ và nâng cao
năng lực cạnh tranh chưa đạt được thành tựu trong nỗ lực chuyển dịch cơ cấu công nghệ
của sản phẩm chế tạo xuất khẩu.
Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu
Nhập khẩu Việt Nam vẫn chủ yếu là nhập khẩu tư liệu sản xuất, bao gồm: máy
móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và nguyên nhiên vật liệu. Tỷ lệ này luôn chiếm trên
90% tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu, keo dài liên tục trong các năm mà không có dấu
hiệu thay đổi. Phần lớn các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam là mặt hàng gia công,
bởi thế khi xuất khẩu tăng cũng đồng nghĩa với nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu cũng
tăng theo . Xét theo tiêu chuẩn ngoại thương (SITC), nhâp khâ u hang hoa cua Viêt
Nam cung co sư khac biêt tương đôi vơi môt sô nươc trong khu vưc . Nêu như trong
xuât khâu , so vơi T rung Quôc hay Malaysia , Viêt Nam chu yêu xuât khâu cac hang
hóa thô hoặc mới sơ chế thì trong nhập khẩu lại ngược lại , Viêt Nam chu yêu phai
nhâp cac may moc , phương tiên vân tai , và đặc biệt là hàng hóa chế biến và các hóa
chât trong nươc không thê san xuât đươc.
Hình 6: Cơ cấu nhập khẩu phân theo nhóm hàng
100 Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh công nghiệp 2011.
152
Nguồn: TCTK
Hình 7. Cơ câu hang nhâp khâu theo SITC cac nƣơc giai đoan 2006-2010
Nguôn: TCTK; National Bureau of Statistics of China; BPS-
Statistics Indonesia; Department of Statistics Malaysia
Một trong những nguyên nhân của tình trạng các mặt hàng nhập khẩu của Việt
Nam phần lớn là dành cho nguyên liệu đầu vào, thiết bị, phụ tùng và máy móc phục vụ
sản xuất trong nước, có xu hướng ngày càng gia tăng cả về trị giá và tỷ trọng trong cơ
cấu hàng nhập khẩu là do thực trạng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt
Nam101
chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong nước, thể hiện qua việc. Kể cả đối
với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, giày dép... thì tỷ lệ
nội địa hóa sản phẩm vẫn thấp. Đối với ngành điện tử, nguồn nguyên liệu và linh kiện
chủ yếu nhập từ nước ngoài hoặc đối với doanh nghiệp liên doanh thì được cung cấp từ
các cơ sở thuộc mạng lưới sản xuất và phân phối toàn cầu của chính hãng sản xuất,
khiến cho Việt Nam không vượt ra khỏi giai đoạn gia công lắp ráp, công đoạn mang lại
giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị.
101Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 22 tháng 02 năm 2011 Về chính sách phát triển một số ngành công
nghiệp hỗ trợ trong đó quy định rõ các ngành hàng công nghiệp hỗ trợ là các ngành công nghiệp sản xuất vật
liệu, phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản
phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
153
Trong thời gian gần đây, chính phủ Việt Nam đã có chủ trương hỗ trợ các ngành
công nghiệp hỗ trợ, đưa ra nhiều chính sách cụ thể để doanh nghiệp công nghiệp phụ
trợ trong nước phát triển chế tạo và sản xuất. Cụ thể Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg
ngày 22 tháng 02 năm 2011 Về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ
trợ, kèm theo nó là Quyết định số 1483/QĐ-TTg ra ngày 26/8/2011 về việc ban hành
Danh mục CNHT ưu tiên phát triển; Quyết định số 34/2007 của Bộ Công thương phê
duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Nhìn
chung, hướng hỗ trợ của Chính phủ chủ yếu về tài chính, nhân lực và kỹ thuật. Những
giải pháp khuyến khích phát triển về mặt tài chính như ưu đãi ở mức cao nhất về đất
đai, thuế; về nhân lực như áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để đào tạo, thu
hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực công nghệ cao; về kỹ thuật như cơ chế linh hoạt,
dành ngân sách và áp dụng cơ chế đặc thù để thực hiện các chương trình, dự án về
công nghệ cao, nhập khẩu một số công nghệ cao có ý nghĩa quan trọng đối với phát
triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh. Bên cạnh đó, khuyến khích nâng cao công
nghệ trong ngành công nghiệp hỗ trợ thông qua các hoạt động triển lãm, hội thảo trao
đổi công nghệ.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy các kết quả còn rất hạn chế. Số lượng doanh nghiệp
tham gia vào chuỗi ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam chỉ khoảng 1000 doanh
nghiệp vào năm 2013102
. Các doanh nghiệp cung cấp linh kiện, bán sản phẩm hiện nay
chủ yếu là các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc đang đầu tư vào Việt Nam, tiếp theo
là các doanh nghiệp Đài Loan, cuối cùng mới là các doanh nghiệp Việt Nam. Có sự gia
tăng số lượng của các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT nhưng tỷ lệ gia tăng giữa số
doanh nghiệp sản xuất chính và số lượng doanh nghiệp CNHT là không tương quan (ví
dụ như trong ngành giày dép – Hình 8). Trong khi đó, quy mô doanh nghiệp trong lĩnh
vực công nghiệp hỗ trợ chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Với số lượng doanh
nghiệp ít, quy mô chủ yếu là nhỏ và vừa khiến lượng cung ứng cho ngành phụ trợ trong
nước không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư
vào Việt Nam, và không có sự khác biệt nhiều đối với trước và sau khi triển khai các
chính sách liên quan (Hình 9).
Hình 8. Số lƣợng doanh nghiệp trong ngành giày dép
Nguồn: Tính toán theo số liệu Tổng điều tra DN của Tổng cục thống kê
102 Theo http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/quan-diem/cong-nghiep-phu-tro-viet-nam-co-nhieu-tiem-
nang-2837512.html
154
Hình 9. Tình hình nhập khẩu nguyên liệu các ngành (triệu USD)
a. Ngành may mặc
Nguồn: Tổng cục thống kê
b. Ngành da giày
155
Bên cạnh đó, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp CNHTcòn khá lạc hậu,
đặc biệt khi vào giai đoạn hội nhập, công nghiệp hỗ trợ Việt Nam còn đang ở trình độ
thấp, còn khoảng cách lớn về trình độ so với các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ các
nước trong khu vực. Từ nhiều năm nay, lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao
của Việt Nam chủ yếu nằm trong tay các doanh nghiệp FDI. Công nghiệp hỗ trợ công
nghiệp cao của Việt Nam chủ yếu là lắp ráp, không tạo ra giá trị sản phẩm.
Qua xem xét các chỉ tiêu đánh giá năng lực phát triển công nghiệp hỗ trợ trước và
sau khi ban hành chính sách, có thể nhận thấy các chính sách chưa có tác động mạnh
mẽ tới ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Một nguyên nhân quan trọng là các hỗ trợ
chưa đến tay các doanh nghiệp. Ví dụ, trên thực tế, theo kết quả điều tra của dự án
“Điều tra khảo sát hoạt động công nghiệp hỗ trợ tại thành phố Hồ Chí Minh, Đồng
Nai và Bình Dương” cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp được thụ hưởng chính sách ưu đãi
khá thấp, chỉ có 45% doanh nghiệp hưởng chính sách miễn giảm thuế và tiền thuê đất
bình quân, trong đó doanh nghiệp FDI là 52,4%, doanh nghiệp tư nhân là 32,8%; và
chỉ 5,1% doanh nghiệp được hưởng chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực103
. Bên cạnh
đó, đối với những hỗ trợ cho vay ưu đãi lãi suất, các doanh nghiệp sản xuất hàng phụ
trợ của Việt Nam cũng rất khó để tiếp cận được các nguồn vốn trên.
Cơ câu chu thê xuât nhâp khâu
Hình 10. Tỷ trọng xuất nhập khẩu khu vực kinh tế trong nƣớc (%)
Nguồn: TCTK
Trong giai đoạn từ năm 1996 đến 2012, cả xuất khẩu và nhập khẩu của khu vực
kinh tế trong nước có xu hướng giảm dần và ổn định hơn trong những năm gần đây.
Trong khi đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động xuất khẩu. Tư mưc chi chiêm 29,7% giá trị xuất khẩu năm 1996
và trung bình giai đo ạn 1996-2000 là 35,4%, thì đến năm 2001 tỷ trọng của khu vực
này đạt 45,23% giá trị xuất khẩu và kể từ năm 2003 trơ đi đa vươt mưc 50%. Không
những thế, nhập khẩu khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn hơn. Nhập khẩu của khu vực này bắt đầu tăng mạnh và đóng góp
lớn vào tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá kê t ừ năm 2000 với tốc độ gia tăng lên tới
103 Theo http://petrotimes.vn/news/vn/kinh-te/tao-suc-bat-cho-cong-nghiep-ho-tro.html
156
24,59%/năm (tính cả năm 2009 nhập khẩu giám 6,5% do tác động của khủng hoảng
tài chính toàn cầu). Điêu nay đa giup tăng ty trong nhâp khâu hang hoa cua khu vưc
có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 10% sau môi môt giai đoan.
Hình 11. Cán cân thƣơng mại theo chủ thể
Nguồn: TCTK.
Trong năm 2012, nhập siêu của khu vực trong nước giảm xuống còn 11,7 tỷ (so
với 16,1 tỷ đôla Mỹ năm 2011) nhưng hiện tượng nhập siêu liên tục ở quy mô lớn của
khu vực này trong nhiều năm đã phản ánh năng lực cạnh tranh và khả năng tham gia
chuỗi giá trị toàn cẩu của các doanh nghiệp trong nước là yếu kém. Trong khi đó,
đóng góp lớn cho cán cân thương mại đến từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (khu
vực ít chịu tác động trực tiếp hơn từ nhu cầu trong nước suy giảm bởi chủ yếu sản
xuất dành cho xuất khẩu và đã tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu nằm trong
tổng thể chiến lược đầu tư của các công ty đa quốc gia). Trong năm 2012, khu vực
này đã xuất siêu khoảng 12 tỷ đôla M ỹ, gần gấp đôi so với năm 2011, chủ yếu từ
“hiện tượng” Samsung (xuất khẩu tăng từ 6 tỷ đôla Mỹ năm 2011 lên 12 tỷ đôla Mỹ
năm 2012).
Điều này cũng đồng nghĩa với vai trò quan trọng hơn của nhóm ngành xuất
khẩu hàng gia công, lắp ráp trong năm 2012, cụ thể là nhóm hàng điện thoại và linh
kiện xuất khẩu (12,6 tỷ đôla Mỹ, tăng 197,7% so với năm 2011) và nhóm hàng điện
tử, máy tính và linh kiện (khoảng 7,9 tỷ đôla Mỹ tăng 69,1%). Tuy nhiên, mặc dù kim
ngạch xuất khẩu cho cả 2 nhóm hàng trên là 20,5 tỷ đôla Mỹ nhưng giá trị nhập khẩu
điện tử, máy tính, linh kiện và các yếu tố đầu vào khoảng 13,1 tỷ đôla Mỹ (so với 7,2
tỷ năm 2011, tăng 67%) khiến giá trị gia tăng xuất khẩu của các nhóm hàng này
không lớn. Đây là vấn đề không mới tại Việt Nam, với đặc thù tập trung vào các mặt
hàng gia công và phải nhập khẩu phần lớn đầu vào sản xuất do cơ cấu trong nước mất
cân đối và thiếu tính bền vững, đặc biệt là sự thiếu vắng và yếu kém của các ngành
công nghiệp hỗ trợ.
Trong 8 tháng đầu năm 2013, xu hướng nêu trên vẫn tiếp diễn. Trong khi xuất
khẩu khu vực kinh tế trong nước đạt 28,7 tỷ USD, chỉ tăng 3,1% thì khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 56,1 tỷ USD, tăng 21,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tương tự, nếu như nhập khẩu khu vực kinh tế trong nước đạt 37,1 tỷ USD, chỉ tăng 4%
thì khu vực FDI đạt 48,3 tỷ USD, tăng 25,1%. Theo đó, khu vực kinh tế trong nước nhập
siêu 8,4 tỷ USD trong khi khu vực FDI xuất siêu 7,8 tỷ USD.
157
Cơ câu thị trƣờng xuât nhâp khâu
Xét theo đối tác xuất khẩu , trươc nhưng năm 2000 đôi tac nhâp khâu chinh cua
Viêt Nam chu yêu la EU , ASEAN va Nhât Ba n. Trong nhưng năm 1996-1999, giá trị
xuât khâu sang 3 thị trường này luôn đạt mức xấp xỉ 60% tông gia tri xuât khâu. Tư sau
năm 2001, Hiêp đinh thương mai Viêt - Mỹ được ký kết và bắt đầu có hiệu lực, thương
mại giữa Việt Nam va Hoa Ky băt đâu phat triên manh , giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ
liên tuc tăng nhanh qua cac năm va dân trơ thanh thi trương xuât khâu lơn thư hai cua
Viêt Nam sau EU . Năm 2012, xuất khẩu Việt Nam tiếp tục phụ thuộc nhiều vào một
nhóm các quốc gia, khu vưc như EU (chiếm tỷ trọng cao nhất 17,7%), Mỹ (17,2%),
ASEAN (14,9%) và Nhật Bản (11,4%), với kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường
này tiếp tục tăng cao, phản ánh những khó khăn kinh tế nói chung trên thế giới không
ảnh hưởng quá lớn đến nhu cầu hàng Việt Nam. Điều này có thể giải thích bởi hàng hóa
xuất khẩu ở Việt Nam vẫn thuộc chuỗi giá trị thấp, đáp ứng nhu cầu bình thường của
các nước, trong khi Trung Quốc đang dần dời bỏ chuỗi sản xuất này để chuyển sang
chuỗi giá trị cao hơn và dần nhường lại thị phần cho các nước Đông Nam Á khác, trong
đó có Việt Nam.
Hình 12. Cơ cấu xuất khẩu phân theo nƣơc , khôi nƣơc chinh
Nguôn: TCTK
Hình 13: Cơ câu nhâp khâu chia theo nƣơc , khôi nƣơc chinh
Nguôn: TCTK
158
Vơi thi trương hang nhâp khâu, hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu đến
tư cac nươc khu vực Đông A va Đông Nam A . Khác với xuất khẩu có sư đa dang hoa
đôi tac thi nhâp khâu cua Viêt Nam ngay cang phu thuôc vao nhom nươc này đặc biệt
là sự lệ thuộc ngày càng lớn vào Trung Quốc . Nêu như nhưng năm 1996-1999 hàng
hóa xuất khẩu của Trung Quốc chỉ chiếm tỷ trọng r ất nho trong cơ câu hang hoa nhâp
khâu cua Viêt Nam thi cho đên năm 2012, con sô này đã lên tới 25,3% tông kim ngach
nhâp khâu . Chính điều này đã dẫn tới tình trạng thâm hụt song phương với Trung
Quôc ngay cang tăng nhanh . Trung Quốc hiện đang là thị trường nhập khẩu lớn nhất
của Việt Nam, theo đó, thâm hụt song phương với quốc gia này đã lên tới 16,7 tỷ đôla
năm 2012 (tăng từ 13,5 tỷ đôla Mỹ năm 2011), tiếp tục mang lại rủi ro cho sự bền
vững của thương mại cũng như sản xuất nội địa. Do “hiện tượng” Samsung, Hàn
Quốc vươn lên trở thành thị trường Việt Nam nhập siêu lớn thứ 2 (khoảng 10 tỷ đôla
Mỹ).
Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu bị tác động lớn bởi các hiệp định thương mại.
Hiện nay, Việt Nam đã kí kết và tham gia 8 khu vực mậu dịch tự do (FTA) gồm có
ASEAN, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Australia, New Zealand, ASEAN-Hàn Quốc,
ASEAN-Nhật Bản, ASEAN-Trung Quốc và các hiệp định thương mại song phương
với Nhật Bản, và Chile104
. Xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đã ký hiệp
định có mức tăng trưởng cao. Cụ thể, trong năm 2012, 33,6% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu sang các thị trường có FTA với Việt Nam, tương đương 18 tỉ USD, hưởng
các ưu đãi thuế quan, trong đó nhiều nhất là xuất khẩu tới các thị trường Hàn Quốc,
Nhật Bản và Trung Quốc105
.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đang tiến hành đàm phán các hiệp định thương mại đa
phương và song phương như ASEAN+6, ASEAN-EU, Hiệp định đối tác Kinh tế Chiến
lược xuyên Thái Bình-TPP, EU, Hàn Quốc, Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu EFTA và
Liên minh Hải quan (Nga, Belarus, Kazakhstan) với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, và góp
phần cải thiện cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam3.
Hình 14. Cán cân thƣơng mại Việt Nam và một số đối tác FTA (1997-2011)
104http://www.trungtamwto.vn/fta 105,3http://www.vietnam.vn/Thongtin/Tan-Dung-Fta-Thanh-Loi-The-Cho-Doanh-Nghiep.html
159
160
Nguồn: WITS, 2013
Hình 14 cho thấy việc tham gia vào các khu vực mậu dịch tự do nhìn chung giúp
tăng trưởng cả xuất khẩu và nhập khẩu, nhưng dường như tác động xấu đến cán cân
thương mại. Việt Nam có xu hướng nhập khẩu nhiều hơn từ các nước đối tác, và thâm hụt
thương mại có chiều hướng nới rộng. Như thị trường Trung Quốc, từ vị trí thặng dư
thương mại trước năm 2001, Việt Nam nhập siêu liên tục từ Trung Quốc và biên độ có xu
hướng tăng. Đối với thị trường Nhật Bản, cán cân thương mại khá cân bằng trước năm
2008 nhưng Việt Nam lại đang có xu hướng nhập siêu trở lại. Trường hợp Chilê, Việt
Nam cũng chuyển từ xuất siêu sang nhập siêu. Nguyên nhân có thể do ngành công nghiệp
hỗ trợ còn nhiều yếu kém, do bản thân doanh nghiệp chưa biết và chưa tận dụng được cơ
hội ưu đãi thuế. Ngoài ra, các đối tác Việt Nam đã kí hiệp định song phương hoặc đa
phương chủ yếu nằm trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, gần gũi về địa lý, thuận
161
lợi cho các hoạt động thương mại nhưng lại đều có chung định hướng xuất khẩu, cạnh
tranh lẫn nhau106
.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy cơ cấu thương mại Việt Nam đang đứng
trước một số thách thức chính như: i) mặc dù nhập siêu đang có xu hướng giảm dần
nhưng không bền vững, ii) hàng xuất khẩu Việt Nam vẫn chủ yếu là các mặt hàng thô
và sơ chế, hàm lượng công nghệ trong các mặt hàng công nghiệp còn thấp, năng lực
cạnh tranh không cao, iii) hàng nhập khẩu chủ yếu là đầu vào sản xuất, phản ánh
ngành công nghiệp phụ trợ yếu kém, giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp, iv) khu vực
DN trong nước nhập siêu quy mô lớn phản ánh năng lực cạnh tranh và khả năng tham
gia chuỗi giá trị toàn cẩu của các doanh nghiệp trong nước là yếu, v) lệ thuộc vào một
số thị trường như Trung Quốc gây lo ngại về rủi ro đối với thương mại quốc tế, trong
khi Việt Nam chưa tận dụng được các hiệp định thương mại để cải thiện cán cân
thương mại. Những vấn đề này kéo dài qua nhiều năm những chưa có cải thiện đáng
kể, cho thấy các biện pháp đưa ra chưa thực sự có hiệu quả. Trong giai đoạn tới, giải
pháp căn bản là phải quyết liệt chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền
kinh tế, theo đó, giảm được chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm quốc gia, và đảm bảo
được những cân đối vĩ mô lớn của nền kinh tế. Khung khổ chung trong quá trình này
là chuyển sang mô hình tăng trưởng bền vững, nâng cao hiệu quả và tăng trưởng theo
chiều sâu, cắt giảm dần tổng tỷ trọng đầu tư của xã hội, đồng thời nâng cao hiệu quả
và chống lãng phí trong đầu tư (đặc biệt là đầu tư công). Cũng cần có những chính
sách để tăng cường tỷ lệ tiết kiệm nội địa của nền kinh tế. Một mặt cần thực thi chính
sách tài khóa thận trọng để duy trì thâm hụt ngân sách ở mức thấp, mặt khác cần tái
cấu trúc mạnh mẽ hệ thống tài chính ngân hàng để không những gia tăng được tỷ lệ
tiết kiệm ròng của khu vực hộ gia đình, mà còn kiểm soát có hiệu quả tốc độ gia tăng
dư nợ tín dụng phục vụ cho đầu tư của khu vực doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần
những giải pháp hiệu quả hơn để nâng cao được năng lực cạnh tranh công nghệ quốc
gia, xây dựng công nghiệp hỗ trợ mạnh và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
106http://www.thoibaonganhang.vn/tin-tuc/5-fta-va-cuoc-ruot-duoi-cua-xuat-khau---nhap-sieu-8107.html
162
HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG CHIẾN LƢỢC TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ VÀ
VAI TRÒ CỦA BA ĐỘT PHÁ CHIẾN LƢỢC
TS. Phạm Thị Thu Hằng
Tổng thƣ ký, Phòng Thƣơng mại
và Công nghiệp Việt Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến nay, đã có nhiều báo cáo nghiên cứu, đánh giá diễn biến kinh tế Việt
Nam trong những năm gần đây, thống nhất nhận định về mức độ khó khăn của nền
kinh tế Việt Nam và những nguyên nhân của nó. Theo đánh giá của các chuyên gia,
bên cạnh nguyên nhân từ bên ngoài, thì thực trạng hiện nay của nền kinh tế nước ta do
ba lớp nguyên nhân nội tại: Lớp nguyên nhân trực tiếp chính là chuyển trọng tâm
chính sách, thực hiện kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô (thắt chặt tài khóa; thắt
chặt tiền tệ và tín dụng; lãi suất cao; hạn chế, khống chế vốn tín dụng cho các ngành
nhạy cảm, “phi sản xuất”…). Lớp thứ hai chính là do áp lực của đẩy mạnh tăng
trưởng, Việt Nam đã chú trọng gia tăng đầu tư dẫn đến sai lệch lớn giữa cung - cầu
thực của nền kinh tế trên các mặt quy mô, buộc Việt Nam phải thay đổi trọng tâm
chính sách bằng Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những
giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh
xã hội và Kết luận số 02/KL-TW của Bộ Chính trị ngày 16/3/2011 về tình hình kinh tế
- xã hội năm 2011… ; Lớp nguyên nhân thứ ba, nguyên nhân cơ bản là yếu kém của
cơ cấu và lạc hậu của mô hình tăng trưởng với hệ thống thể chế không còn phù hợp,
hệ thống khuyến khích thiên về thúc đẩy hành vi “trục lợi địa tô” thay vì đầu tư tạo ra
lợi nhuận, nâng cao giá trị gia tăng.
Phân tích của các chuyên gia cũng cho thấy kết quả hoạt động của nền kinh tế
ở giai đoạn này có phần do chính sách, cách thức điều hành kinh tế và có phần do
trách nhiệm của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp quy mô lớn. Xét về chính
sách và thể chế, thì phân bố nguồn lực chủ yếu do Nhà nước dẫn dắt (gồm nhà nước
trung ương, địa phương và doanh nghiệp nhà nước), và theo chỉ dẫn hành chính. Động
lực đầu tư là “đầu cơ” tạo và tìm kiếm địa tô hơn là tìm kiếm lợi nhuận. Hệ thống nói
trên khuyến khích và dung dưỡng dòng tiền chu chuyển T-T-T với mức rủi ro đạo đức
lớn; mà không khuyến khích và nuôi dưỡng đầu tư phát triển sản xuất tạo năng lực sản
xuất mới, tạo lợi nhuận và giá trị gia tăng cho xã hội (ECNA, 2013).
Nhận định này hoàn toàn có cơ sở, tuy nhiên nó lại chưa phản ánh được vì sao
thể chế hiện hành về phân bố nguồn lực của Nhà nước lại dẫn đến hành vi trên. Trong
quá trình thực hiện thể chế này, cần xem xét doanh nghiệp (DN) và động cơ kinh
doanh của họ như là một chủ thể tích cực có vai trò nhất định trong quá trình phân bổ
nguồn lực đó thay vì chỉ xem xét DN như là hệ quả của sự phát triển. Nói một cách
khác DN là một trong các nhóm tác nhân tạo nên mô hình tăng trưởng. Trong phạm vi
bài nghiên cứu này, tác giả đề cập tới vấn đề đánh giá hoạt động của DN hiện này, và
vai trò của chúng, nhìn từ góc độ như những chủ thể mà thông qua đó, các đột phá
kinh tế có thể tạo nên những hiệu quả lớn.
163
I. Về tình hình phát triển doanh nghiệp hiện nay
Theo thống kê của Bộ kế hoạch và Đầu tư về tổng số DN còn hoạt động trong
nền kinh tế, tính đến hết ngày 31/12/2012, trong tổng số 694.500 DN đã được thành
lập, cả nước còn 475.776 DN đang hoạt động (chiếm 68,5%), 19.104 DN đăng ký
ngừng hoạt động, 111.145 DN dừng hoạt động nhưng không đăng ký, 88.475 DN đã
giải thể.
Trong 6 tháng đầu năm 2013 đã có có 38.908 DN thành lập mới với tổng vốn
đăng ký gần 194.000 tỉ đồng. Mặc dù số DN thành lập mới trong 4 tháng đầu năm
giảm 1,2%; nhưng sau 5 tháng đã tăng 4,8%; 6 tháng tăng 7,6%. Tuy nhiên, theo đánh
giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số vốn đăng ký của DN thành lập mới vẫn có xu
hướng giảm do những khó khăn của nền kinh tế và khả năng huy động vốn của nhà
đầu tư. Tỷ lệ giảm số vốn đăng ký của DN thành lập mới so với cùng kỳ (cụ thể: 4
tháng giảm 14,1%; 5 tháng giảm 16,3%; 6 tháng giảm 19,9%) cho thấy trước những
khó khăn của nền kinh tế, buộc người thành lập DN đã thận trọng hơn với mỗi đồng
vốn của mình. Ước 8 tháng đầu năm, số DN đăng ký thành lập mới tăng 9,5% (cùng
kỳ giảm 11,5%).
Hoạt động sản xuất, kinh doanh vẫn còn nhiều khó khăn nhưng đang có chuyển
biến bước đầu. Tổng số DN giải thể, ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh trong 6 tháng
đầu năm 2013 là 26.324 DN. Số DN giải thể giảm so với cùng kỳ: 3 tháng giảm 14%; 4
tháng giảm 4,8%; 5 tháng giảm 0,9%. Số DN ngừng hoạt động tuy tăng so với cùng kỳ
nhưng tốc độ tăng đang có xu hướng giảm dần: 4 tháng tăng 16,9%; 5 tháng tăng 13%; 6
tháng tăng 12,3%. Bên cạnh đó, số DN tạm ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động cũng
tăng dần qua từng tháng: 4 tháng khoảng 8.300 DN, 5 tháng khoảng 8.800 DN và 6 tháng
đã tăng lên khoảng 9.300 DN. Trong 8 tháng đầu năm 2013, đã có khoảng 10.649 DN
tạm dừng hoạt động quay trở lại hoạt động.
Trong cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 2013 vừa qua, Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam đã tiến hành khảo sát nhanh động thái DN Việt Nam 6 tháng
đầu năm 2013 đối với DN trên toàn quốc để đánh giá cảm nhận của DN về tình hình
sản xuất kinh doanh của DN 6 tháng đầu năm và dự cảm nhận cho 6 tháng cuối năm
2013. Một số kết quả khảo sát chính như sau:
Nhìn chung, tổng quan tình hình sản xuất kinh doanh của các DN trong 6 tháng
đầu năm 2013 được các DN cảm nhận là xấu hơn nhiều so với 6 tháng cuối năm 2012.
Tuy nhiên, các DN dự cảm rằng một số yếu tố của tình hình sản xuất kinh doanh 6
tháng cuối năm 2013 sẽ khởi sắc hơn.
Vấn đề hàng tồn kho vẫn tiếp tục là mối lo ngại của DN trong giai đoạn này
(gần 69,2 % số DN có ý kiến) cho thấy việc giải quyết đầu ra, khai thác thị trường cho
DN vẫn còn là bài toán lớn chưa có lời giải đối với DN. Những nỗ lực của DN tìm các
giải pháp để thoát khỏi tình trạng này vẫn chủ yếu là các giải pháp truyền thống như:
giải pháp tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới (được nhiều DN áp dụng nhất), tiếp đó là
giải pháp giảm giá bán, thực hiện các chương trình quảng cáo, khuyến mại, đưa hàng
về nông thôn. Hiện cũng có đến 27, 6% DN găp phai vân đê t ồn kho thanh toán trong
6 tháng đầu năm 2013. Trong nhưng DN vương vao tinh trang tôn kho thanh toan , tỷ
lệ DN có tôn kho công nơ tư khu v ực DN nhiêu hơn so vơi tỷ lệ DN có tôn kho công
nơ từ khách hàng mua lẻ và từ khu vực công.
164
Trong 6 tháng đầu năm 2013, có xấp xỉ 54% DN trong diện điều tra có nhu cầu
vay vốn cua ngân hang , trong khi tỷ lệ này vào cuối năm 2012 là 57,3%. Như vậy,
nhu cầu vay vốn ngân hàng của DN vẫn đang ở xu hướng giảm so với năm 2012.
Trong những DN có nhu cầu vay vốn, có khoang 41 % DN đã được ngân hàng đáp
ứng vốn vay. Mục đích của việc vay vốn, chủ yếu là nhằm thực hiện phương án kinh
doanh mới, trang trải các chi phí lưu động như trả lương, trả cho nhà cung cấp và cũng
có DN vay để trả nợ các khoản nợ đến hạn trả của các ngân hàng khác. Giải thích cho
việc không vay được vốn ngân hàng, DN nêu lý do như: lãi suất quá cao, không co tai
sản thế chấp; thủ tục phức tạp; chi phi giao dich cao; DN có nơ xâu... Bên cạnh những
khó khăn về lãi suất và các điều kiện khác, việc khó khăn trong đáp ứng như cầu vốn
dài hạn của DN vẫn còn tiếp diễn. Việc quá phụ thuộc vào tài sản thế chấp là bất động
sản cũng chính là nguyên nhân khiến cho việc giải quyết nợ xấu, phát mãi tài sản thế
chấp tại các ngân hàng trong điều kiện hiện nay trở nên ngày càng gian nan. Việc sử
dụng tải sản hình thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn đã bắt đầu phổ biến, xong việc
sử dụng các hình thức khác như thấu chi, sử dụng Quỹ bảo lãnh tín dụng vẫn còn rất
hạn chế. Báo cáo của Bộ Tài chính về thực trạng hoạt động của các Quỹ bảo lãnh tín
dụng gần đây cho thấy sau 12 năm triển khai Quyết định số 193/2001/ TTg ngày
20/12/2001 về quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho
DN nhỏ và vừa, mới có 10 địa phương thành lập được Quỹ bảo lãnh tín dụng, với tổng
số vốn điều lệ là 512 tỷ đồng. Tính đến 31/12/2012, các quỹ này đã có doanh số bảo
lãnh luỹ kế là 2976 tỷ đồng, số dư bảo lãnh ước đạt trên 344 tỷ đồng.
Cảm nhận về tổng thể môi trường chính sách và điều hành vĩ mô cải thiện rất
lớn vào 6 tháng đầu năm 2013, trong khi chỉ số này được đánh giá là xấu năm 2012.
Đáng chú ý là mức độ đồng đều trong cảm nhận khi đánh giá sự ổn định của các yếu
tố cấu thành nên chất lượng của chính sách kinh tế vĩ mô. Mặc dù vậy vẫn còn rất
nhiều quan ngại về tình trạng nợ xấu, tăng trưởng đầu tư sụt giảm.
Đánh giá của các DN về tính hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong sản
xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu tại Nghị quyết số 01/NQ-CP
và Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ cho thấy, dường như các giải pháp, hỗ trợ
thị trường và đầu tư chưa giải thoát cho DN thoát khỏi nỗi ám ảnh về hàng tồn kho.
Không thể phủ nhận tác dụng tích cực của các biện pháp chính sách thông qua công
cụ thuế (miễn, giảm, giãn thời gian nộp thuế), tuy nhiên, rõ ràng các biện pháp này
cũng chưa thể nói là đã đủ để giúp các DN vực dậy sau những khó khăn vừa qua107
.
Cộng đồng DN cũng đặc biệt quan ngại về những chính sách được ban hành
thiếu lộ trình như: tăng giá xăng, tăng lương tối thiểu trong điều kiện khó khăn hiện
nay. Các thủ tục hành chính và các giấy phép con, điều kiện kinh doanh bắt đầu xuất
hiện ngày càng nhiều, nhất là trong những lĩnh vực như: giao thông vận tải, dán tem
hàng hóa lên nguyên vật liệu xây dựng...
II. Chiến lƣợc kinh doanh của doanh nghiệp và tái cấu trúc doanh nghiệp
Yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng được đặt ra
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 mà Đại hội Đảng
lần thứ XI đã thông qua, trong đó xác định rõ: thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng
107 Năm 2012, Nhà nước đã gia hạn khoảng 9.198 tỷ đồng tiền thuế và sử dụng đất, bao gồm 5.021 tỷ đồng
thuế giá trị gia tăng phát sinh trong tháng 6/2012, 4.177 tỷ đồng sử dụng đất năm 2012 đối với các dự án có khó
khăn về tài chính trong thời hạn tối đa 12 tháng
165
tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất và dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu
lại DN và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng
và sức cạnh tranh của sản phẩm, DN và của nền kinh tế; phát triển kinh tế trí thức; gắn
phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường phát triển kinh tế xanh. Chiến lược xác định:
“Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển
hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao
chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”.
Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (Khóa XI) tháng 10/2011 xác
định 3 nội dung tái cơ cấu cần tập trung triển khai trong giai đoạn từ 2012 đến 2015
là: tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu các định chế tài chính, trọng
tâm là các ngân hàng thương mại; tái cơ cấu DN, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và
tổng công ty nhà nước.
Đích đến của tái cơ cấu nền kinh tế là: trên phạm vi ngành lớn là quá trình
chuyển dịch tỷ trọng giữa các ngành, kéo theo sự dịch chuyển cơ cấu lao động trong
nền kinh tế quốc dân. Trong nội bộ từng ngành tiến trình tái cơ cấu gắn với chuyển
đổi mô hình tăng trưởng nhằm tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có
hàm lượng tri thức kỹ thuật lớn, tăng năng suất, chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm, bảo đảm hiệu quả và phát triển bền vững.
Tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế tuy nhiên lại phụ thuộc vào chiến lược kinh
doanh của các DN, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước (DNNN), DN ngoài nhà nước
và DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Xây dựng được chiến lược kinh doanh tức là
tạo lập sức cạnh tranh mới nhằm chiếm lĩnh thị trường trên cơ sở chuyển dịch các lợi
thế so sánh, nhất là lợi thế so sánh động (gắn liền với khả năng ứng dụng và phát triển
công nghệ); sự thay đổi của thị trường; và sự thay đổi chi phí sản xuất giữa các quốc
gia và DN. Sự tinh tế trong chiến lược kinh doanh của DN sẽ tạo ra năng suất và hiệu
quả kinh doanh.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tạo được những động lực thúc đẩy sự chuyển
dịch trong chiến lược kinh doanh của DN đồng hướng và đồng tốc với chuyển dịch cơ
cấu của nền kinh tế như mong muốn. Việc Chính phủ hoạch định ra các chiến lược phát
triển các ngành kinh tế nếu chỉ là những ngành Chính phủ muốn mà DN không quan
tâm thì sẽ không thu hút được đầu tư và như vậy, chiến lược sẽ không thành. Dưới đây
là một số minh chứng về sự chuyển dịch cơ cấu của các DN Việt Nam trong những năm
gần đây với những vấn đề mà khiến nó đã diễn ra trên thực tế không như những gì mà
các nhà hoạch định chính sách mong đợi:
1. Sự bế tắc về công nghệ
Trong “Báo cáo thường niên DN Việt Nam 2010, chủ đề năm: Về một số xu
hướng tái cấu trúc DN” (VCCI, 2011), số liệu về số DN tham gia các lĩnh vực sản
xuất và dịch vụ được sử dụng để đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Bởi lẽ, ngoài
yếu tố vốn thì ý chí kinh doanh và quyết định khởi nghiệp hoặc gia nhập hoặc mở
rộng thị trường nói lên nhiều điều về sự „thăng trầm‟ của các lĩnh vực, cũng như môi
trường kinh doanh của các lĩnh vực đó. Theo số liệu thống kê ở thời điểm 2009, về
dịch chuyển lao động, ngành có tốc độ gia tăng trung bình hàng năm lớn nhất là các
ngành: dịch vụ hộ gia đình, thông tin truyền thông, giáo dục đào tạo, dịch vụ chuyên
môn và khoa học công nghệ, tài chính ngân hàng, kinh doanh bất động sản, nông lâm
thuỷ sản, bán lẻ. Đây là các lĩnh vực thu hút nhiều lao động mới. Tuy nhiên, hầu hết
các lĩnh vực này là lĩnh vực mới phát triển, chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu lao
166
động của các DN khu vực tư nhân. Chiếm tỷ trọng lớn vẫn là các lĩnh vực truyền
thống như: chế biến chế tạo, xây dựng, bán buôn bán lẻ, vận tải kho bãi, nông lâm
thuỷ sản, dịch vụ hành chính và hỗ trợ kinh doanh, lưu trú và ăn uống. Tuy nhiên, xét
khía cạnh suất đầu tư thì các lĩnh vực tài chính ngân hàng, kinh doanh bất động sản
vẫn là hai lĩnh vực có mức thâm dụng vốn cao.
Theo đánh giá của các chuyên gia, sự hấp dẫn đang dịch chuyển khỏi các lĩnh
vực truyền thống vốn chiếm tỷ trọng lớn như: chế biến và chế tạo, khai khoáng, xây
dựng, vận tải kho bãi, lưu trú ăn uống. Sự “hấp dẫn” ở đây đối với DN là khả năng
sinh lời. Khả năng sinh lời có thể bị ảnh hưởng khi DN không thể chịu được sức ép
cạnh tranh về giá; thị trường của Việt Nam tuy nhỏ nhưng độ mở cao, DN trong nước
không thể cạnh tranh với các DN nước ngoài trên thị trường nội địa, do đó số lượng
DN tư nhân trong nước rút lui hoặc không gia nhập thị trường chắc chắn sẽ gia tăng.
Như vậy, thực chất vấn đề ở đây là “bế tắc” về công nghệ. Các DN không thể cải thiện
được công nghệ để đáp ứng nhu cầu thị trường, giảm giá thành sản phẩm để cạnh
tranh với hàng nhập khẩu.
Thực tế đã chứng minh về sự chuyển dịch cơ cấu một cách rất không bền vững
như đã nêu ở trên. Năm 2011-2013 đã chứng kiến sự lao đao của các DN kinh doanh tài
chính ngân hàng, kinh doanh bất động sản. Xu hướng quay trở lại lĩnh vực truyền thống
là tất yếu. “Báo cáo thường niên DN Việt Nam năm 2012, chủ đề năm: 10 năm phát
triển DN và tiếp cận thị trường (VCCI, 2013)” cho thấy có đến gần 3/4 tổng số lao
động tập trung trong 3 lĩnh vực là công nghiệp chế biến, xây dựng và thương nghiệp,
sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy. Tuy nhiên, câu chuyện “hàng tồn kho” một lần
nữa chứng minh sự “ bế tắc” về công nghệ khiến cho các DN không thể cải thiện được
công nghệ để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường, giảm giá thành sản
phẩm để cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
2. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa không lớn được
Có một sự bất cân xứng tiếp theo đó là xét theo quy mô lao động, nếu phân loại
DN theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, tỷ lệ các DN quy mô nhỏ và siêu nhỏ có xu
hướng tăng lên trong giai đoạn 2002-2011, từ 90% lên 95,6%. Có đến gần 2/3 các DN
Việt Nam là các DN siêu nhỏ, dưới 10 lao động. Tỷ trọng của DN siêu nhỏ đã ngày
càng tăng, từ 53,1% năm 2002 lên 65,6% năm 2011. Tỷ trọng của các DN có quy mô
vừa và lớn luôn chiếm một tỷ lệ nhỏ và có xu hướng giảm đi. Năm 2011, chỉ có 2,1%
các DN có quy mô vừa và 2,4% DN có quy mô lớn.
Xét theo quy mô vốn, tỷ lệ DN nhỏ cũng luôn chiếm đa số, nhưng có xu hướng
giảm dần, từ 89,7% năm 2002 xuống còn 84,1% năm 2011. Các DN vừa và lớn tuy có
tỷ trọng vẫn nhỏ, nhưng có xu hướng ngày càng tăng lên, tương ứng lần lượt là 7,3%
lên 11,5% đối với DN vừa và 3% lên 4,4% đối với DN lớn. Đáng chú ý là tỷ lệ các
DN chuyển dịch từ nhóm DN siêu nhỏ sang nhóm DN nhỏ, từ nhóm DN nhỏ sang
nhóm DN có quy mô vừa, và từ DN có quy vừa sang lớn là rất khiêm tốn. Với quy mô
kinh doanh nhỏ các DN có thể linh hoạt trong chuyển dịch, nhưng đây cũng là cản trở
chính khiến cho khu vực này kinh doanh không có hiệu quả cao và khó áp dụng được
công nghệ.
Bảng 1: Xu hƣớng chuyển dịch phân theo quy mô DN
trong giai đoạn 2002-2011
167
Loại hình DN
Tỷ trọng DN (%) Tỷ trọng lao động
(%)
Tỷ trọng nguồn
vốn
(%)
2002 2011 2002 2011 2002 2011
DN siêu nhỏ 53,1 65,6 4,2 10,1 3,3 10,9
DN nhỏ 36,9 29,9 21,2 29,9 14,3 18,4
DN vừa 3,5 2,1 7,3 7,7 6,6 6,4
DN lớn 6,5 2,4 67,3 52,3 75,8 64,3
Tổng cộng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nguồn: Xử lý dữ liệu từ khảo sát DN hàng năm của GSO
3. Vai trò hạn chế của doanh nghiệp trong tạo động lực phát triển kinh tế vùng
Với vị trí tự nhiên và điều kiện xã hội thuận lợi, DN Việt Nam thường tập trung
chủ yếu ở hai vùng là Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Hồng. Khu vực Đông Nam Bộ,
nơi có TP. Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế của Việt Nam, luôn chiếm tỷ trọng cao nhất
về DN và tỷ trọng này có xu hướng tăng lên, từ 31,6% năm 2002 lên 38,8% năm 2011,
trong đó tỷ trọng DN tại TP. Hồ Chí Minh đã tăng từ 23,1% lên 31,5%. Như vậy, TP. Hồ
Chí Minh là nơi hoạt động của gần 1/3 số lượng DN cả nước tính đến năm 2011, và với
xu hướng này, số lượng DN tại đây sẽ ngày càng cao. Đứng thứ hai trong các vùng thu
hút nhiều DN là Đồng bằng sông Hồng, trong đó có thủ đô Hà Nội. Các vùng khác trong
cả nước chiếm tỷ lệ DN thấp và có xu hướng giảm đi dù số lượng DN vẫn tăng đều qua
các năm (Xem: Hình 1). Điều này đặt ra câu hỏi về những “động lực thúc đẩy” việc tái cơ
cấu kinh tế vùng mà điều này sẽ được đề cập tiếp theo tại phần phân tích về tái cơ cấu đầu
tư công sau này.
Hình 1: Chuyển dịch DN theo vùng địa lý giai đoạn 2002-2011
168
Nguồn: Xử lý dữ liệu từ khảo sát DN hàng năm của GSO
4. Cơ cấu xuất khẩu và bẫy thu nhập trung bình
Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, tuy nhiên, có nhiều
dấu hiệu cho thấy Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Việt Nam
vẫn đang thực hiện chiến lược công nghiệp hóa theo định hướng xuất khẩu, tập trung
vào các ngành mà Việt Nam có lợi thế như dệt may, da giầy, linh kiện điện tử… Do từ
trước đến nay Việt Nam đã luôn xác định lợi thế cạnh tranh là chi phí lao động rẻ, nên
các chính sách đã luôn hướng tới phát triển các ngành tận dụng nhiều lao động với chi
phí thấp, nhưng lại chủ yếu là lao động giản đơn. Các sản phẩm xuất khẩu của Việt
Nam chủ yếu là sản phẩm của các ngành công nghiệp lắp ráp, vì thế giá trị gia tăng
thấp, rất dễ khiến Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Năm 2012 là năm lần
đầu tiên kể từ năm 1993, Việt Nam đã xuất siêu 284 triệu USD. Tuy nhiên, việc xuất
siêu chủ yếu do sự suy giảm của sản xuất và tiêu dùng trong nước, dẫn đến nhập khẩu
tăng thấp hơn nhiều so với xuất khẩu. Đáng chú ý là xuất siêu hàng hóa chủ yếu ở khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức xuất siêu đạt gần 12 tỷ USD, tập trung ở nhóm
hàng gia công lắp ráp. Ngược lại, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 11,7 tỷ USD.
Quyết định số 1043/QĐ-TTg của Thủ tường Chính Phủ ngày 01/7/2013 phê
duyệt “Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam
- Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030” (sau đây gọi tắt là Chiến lược CNH)
là một minh chứng rất cụ thể về sự tham gia của các DN - chủ thể thực hiện chiến
lược trong quá trình triển khai xây dựng chiến lược. Chiến lược đặt mục tiêu phát triển
vượt bậc sáu ngành công nghiệp ưu tiên, bao gồm: điện tử, máy nông nghiệp, chế biến
nông, thủy sản, đóng tàu, môi trường và tiết kiệm năng lượng, sản xuất ô tô và phụ
tùng ô tô thành những ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, có giá trị gia tăng
cao và năng lực cạnh tranh quốc tế. Các ngành được ưu tiên phát triển trong Chiến
lược CNH giữ vai trò dẫn dắt về thúc đẩy thu hút đầu tư của DN trong và ngoài nước,
nhưng trước hết lại là thu hút DN Nhật Bản, tạo lan tỏa công nghệ và lan tỏa kỹ năng
đối với ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Đây là cách
thức để Việt Nam xây dựng chiến lược phát triển các ngành chủ lực trong những năm
tới.
III. Tái cấu trúc doanh nghiệp với ba nội dung trọng tâm tái cấu trúc
kinh tế
Khẳng định việc việc lựa chọn 3 nội dung tái cơ cấu nền kinh tế thực hiện từ
2012-2015 là đúng đắn, bài viết này sẽ cố gắng phân tích tác động của chúng tới tiến
trình tái cấu trúc tại các DN, nhất là trong việc tạo nên một môi trường kinh doanh
thuận lợi cũng như nguồn lực để các DN thực thi chiến lược kinh doanh hiệu quả của
mình.
1. Về nội dung thứ nhất, tái cơ cấu đầu tư trong đó có đầu tư công -vấn đề
quyết định hình thành kết cấu hạ tầng kinh tế, sự dịch chuyển nguồn lực và chiếm tỷ
trọng rất cao trong GDP nhưng hiệu quả thấp.
Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 đã đặt ra nhiệm vụ xử lý một số vấn
đề cấp bách trong đầu tư công, trong đó chủ yếu giải quyết mâu thuẫn giữa các dự án
đầu tư và khả năng bảo đảm nguồn vốn, góp phần sắp xếp lại các dự án đầu tư. Chỉ thị
đã góp phần loại bỏ những dự án kém hiệu quả, tình trạng đầu tư phân tán, đầu tư dở
169
dang chậm đưa vào khai thác gây lãng phí nghiêm trọng. Trong quá trình thực hiện tái
cấu trúc đầu tư, nhất là đầu tư công nổi lên một số vấn đề sau:
Một là, hiện nay dư nợ của chính quyền địa phương đối với DN đã lên tới gần
100.000 tỷ đồng.
Hai là, vai trò của DN trong quá trình lập quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội gắn với quy hoạch phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ được bố trí
trên địa bàn lãnh thổ trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng, thúc đẩy liên kết vùng
rất mờ nhạt.
Ba là, hệ thống phân cấp đầu tư gắn với phân cấp ngân sách chưa khuyến khích
chuyển dịch đầu tư của các DN về những vùng kém phát triển. Cho đến này số tỉnh tự
cân đối ngân sách cũng mới chỉ đạt 13/63. Tính chủ động của các tỉnh, thành trong vấn
đề tạo nguồn lực đầu tư phát triển rất hạn chế, như đã đề cập tại mục II.3.
Bốn là, cơ chế hợp tác công tư chưa được triển khai mạnh mẽ, quá trình thử
nghiệm kéo dài và chưa có tổng kết thành những bài học để nhân rộng. Rất ít DN Việt
Nam hiểu và có thể vận dụng được cơ chế này.
2. Về nội dung thứ hai, tái cơ cấu DNNN - một khu vực đang sử dụng nguồn
lực rất lớn của quốc gia, bao gồm nguồn tín dụng nhưng hiệu quả còn kém, là một
trong những lực cản lớn trong việc hình thành thể chế kinh tế thị trường.
Điều tra của VCCI đối với 700 DN vào giữa năm 2013 cho thấy việc triển khai
thực hiện đề án tái cấu trức DNNN chưa mang lại hiệu quả cao. Có 23,5% số DN
đánh giá Đề án có hiệu quả thấp và rất thấp, 53% DN đánh giá Đề án có hiệu quả
trung bình và 23,5 % số DN đánh giá Đề án có hiệu quả cao và rất cao.
Một trong những vấn đề rất đáng quan tâm đó là việc tái cơ cấu các tập đoàn
kinh tế và tổng công ty nhà nước – trọng tâm của Đề án Tái cấu trúc DNNN. Đề án
mới chỉ tập trung giải quyết vấn đề cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước khỏi các ngành
nghề không phải là ngành nghề kinh doanh chính, phân công lại trách nhiệm thực hiện
vai trò chủ sở hữu nhà nước theo hướng lập lại mô hình Bộ chủ quản. Đề án chưa trả
lời được các câu hỏi như:
- Liệu chiến lược kinh doanh của các Tập đoàn tổng công ty đã khai thác được
lợi thế cạnh tranh và phù hợp với chiến lược phát triển ngành theo cơ cấu kinh tế
mong muốn của Chính phủ?
- Liệu chiến lược Công ty và chiến lược kinh doanh với việc xác định nguồn
lực thông qua xác định tỷ lệ cổ phần của Nhà nước, thâu tóm, sát nhập, huy động
vốn... có được thực hiện theo kỷ luật của thị trường?
- Chiến lược kinh doanh và chiến lược công ty của các DNNN được hình thành
như thế nào để các DNNN này có thể đóng vai trò dẫn dắt các DN nhỏ và vừa trong
chuỗi cung ứng, tạo những đầu tàu kinh tế trong một nền kinh tế thị trường mở chứ
không phải chỉ bó hẹp trong nội bộ tập đoàn kinh tế?
- Cuối cùng, có hay không những nguy cơ tiềm tàng về “bong bóng” giá trị do
sự hình thành các tập đoàn kinh tế để đảm bảo không bị mất cân xứng về thông tin
trong bối cảnh kinh tế khó khăn, thị trường chứng khoán sụt giảm?
170
Hình 2. Chiến lƣợc kinh doanh và Chiến lƣợc công ty
Nguồn: Phillippe Lasserre, 2009
3. Về nội dung thứ ba, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng.
Trong thời gian qua, các tổ chức tín dụng tuy phát triển nhanh nhưng chất lượng
hoạt động kém, không bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế, tình trạng sở hữu chéo và đầu tư
chéo khá phổ biến rủi ro cao, nợ xấu lớn gây nguy cơ đổ vỡ và khủng hoảng hệ thống.
Theo đánh giá của một số chuyên gia, Đề án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng gần như là
một văn bản định hướng nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tuy
nhiên, Nhà nước có thể đưa ra rất nhiều công việc cụ thể gắn với tái cơ cấu các tổ chức
tín dụng (mà công ty có tính chất đặc thù như Công ty Quản lý và khai thác tài sản Việt
Nam VAMC là một ví dụ).
Cho đến nay, đã có 9 ngân hàng yếu kém đang cần cơ cấu lại theo hướng hợp
nhất, sáp nhập với ngân hàng khác hoặc tự cơ cấu. Điểm khác biệt trong quá trình tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng đó là, có vẻ như quá trình tái cơ cấu này đang được thực
hiện từ dưới lên chứ không hoàn toàn từ trên xuống. Đây sẽ là điểm thuận lợi để một
khi các phương án mà những ngân hàng đưa ra sau khi được Thủ tướng Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước nhất trí thì các ngân hàng thương mại cổ phần sẽ chủ động hơn
trong quá trình triển khai.
Chiến lƣợc kinh doanh Chiến lƣợc công ty
THAM VỌNG
KHẢ NĂNG
VÍ TRÍ
TỔ CHỨC
Cạnh tranh trong một ngành Cạnh tranh trong một số
ngành và/hoặc một ngành
• Nhiệm vụ/tầm nhìn
• Sự tăng trƣởng/phần đóng góp
• Khả năng sinh lợi
• Tính xã hội
• Nhiệm vụ/tầm nhìn • Sự tăng trƣởng/tầm cỡ
• Khả năng sinh lợi
• Tính xã hội
• Thành phần khác hàng nào?
• Các quốc gia nào?
• Phần giá trị của chúng ta là gì?
• Ngành kinh doanh đang
nằm ở ĐỊNH VỊ nào?
• Mức độ hội nhập
• Những quốc gia nào? • Nguyên tắc cạnh tranh
của chúng ta?
• Những đầu tƣ chủ
chốt?
• mua lại, sáp
nhập,liên
• doanh, liên minh?
• Phân bố nguồn trong
các ngành kinh doanh
• Sáp nhập, mua lại,
liên minh?
• Cách thâm nhập/ra khỏi
mới? • Phát triển HRM
• Cơ cấu
• Quy trình
• Chính sách
• Văn hoá
• Quản lý nội bộcông ty
• HRM Công ty
• Cơ cấu
• Chính sách
• Văn hoá
171
Tương tự như câu hỏi được đặt ra khi thực hiện tái cấu trúc DN, vấn đề là
“chiến lược kinh doanh” và “chiến lược công ty”. Ngân hàng phải xác định được
chiến lược kinh doanh, trước khi đi đến tái cấu trúc vốn, hợp nhất, sáp nhập, cải tiến
công tác quản trị, bộ máy lãnh đạo trong hệ thống ngân hàng.
Quá trình hế thống tái cơ cấu các tổ chức tín dụng như vậy sẽ không chỉ động
chạm đến các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, mà nó là quá trình tự thân của
tất cả các tổ chức tín dụng. Nhà nước chỉ tạo ra những công cụ để thúc đẩy quá trình
này và can thiệp vào những địa phận yếu kém. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình, các tổ chức tín dụng của Việt Nam cần phải quan tâm hơn nữa đến khác hàng,
nhất là khách hàng DN, DN có quy mô nhỏ, phát triển các loại hình dịch vụ khác
(ngoài dịch vụ tín dụng) để mang lại nhiều giá trị gia tăng và tạo niềm tin cho khách
hàng.
Có thể nói, cả ba nôi dung tái cơ cấu nêu trên: đầu tư, DNNN, hệ thống các tổ
chức tín dụng, vừa là chủ thể tiếp nhận và là nơi chuyển tải nguồn lực trong một mô
hình tăng trưởng kém hiệu quả nhiều năm vừa qua, chưa làm được vai trò là bộ lọc
cho việc hình thành một cơ cấu kinh tế mới và một mô hình tăng trưởng mới. Rõ ràng,
trong quá trình này, sự tương tác giữa DN với những chủ thể còn lại chưa được hiệu
quả. Điều này có thể dẫn đến những nội dung định hướng của các đề án tái cấu trúc có
thể không đặt được mục tiêu nếu không có sự quan tâm đúng đắn đến tư duy chiến
lược của các DN.
IV. Về những giải pháp đột phá - nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp và tái cấu trúc kinh tế
Để có thể tái cơ cấu kinh tế, phải bảo đảm các tiền đề như: ổn định kinh tế vĩ
mô; hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, tạo lập môi trường cạnh tranh bình
đẳng; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Chất lượng nguồn nhân lực là sức
cạnh tranh dài hạn của một quốc gia cũng như của từng DN. Ngoài ra, xây dựng một
hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ là giảm chi phí nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế cũng là yếu tố hỗ trợ quá trình tái cơ cấu.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này tác giả chỉ đề cập trước hết đến một khía
cạnh liên quan đến mũi đột phát: (1) “phát triển nhân nguồn nhân lực chất lực cao, gắn
kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN)”,
đặc biệt là ở tầm vi mô; (2) những nhân tố về môi trưởng thể chế; và (3) cơ sở hạ tầng
đồng bộ để có thể hiện thực hoá được đột phát thứ nhất nêu trên.
Liên quan đến đột phá thứ nhất: Bảng 2 cho thấy sự thay đổi đánh giá của các
Nhà quản lý cao cấp (kết quả phỏng vấn 2000 nhà quản lý trên thế giới về vai trò của
các yếu tố phát triển liên quan đến năng lực cạnh tranh của DN, xếp theo thứ tự quan
trọng (1 là quan trọng nhất). Lần đầu tiên, năm 2012, yếu tố khoa học công nghệ được
coi là quan trọng số 1 đối với các DN trên thế giới. Cũng sau nhiều năm đứng ở vị trí
hàng đầu, yếu tố thị trường đã được xếp hạng thứ 3, sau cả kỹ năng lao động. Giờ đây,
khoa học công nghệ đang tạo ra thị trường.
Phần II của bài viết này đã chỉ rõ: để tránh bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam
cần phải nâng cao giá trị gia tăng trong các sản phẩm xuất khẩu. Để làm được điều
này Việt Nam cần đẩy mạnh việc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, hiệu
quả kinh tế cũng như năng lực cạnh tranh của các DN và sản phẩm của Việt Nam.
172
Chính vấn đề công nghệ đã tác động không nhỏ đến việc chuyển dịch ngành trong thời
gian qua.
Các lập luận trên một lần nữa khẳng định, thúc đẩy quá trình tái cơ cấu là sự
tiến bộ của công nghệ và sự thay đổi của thị trường làm thay đổi chi phí sản xuất trong
phạm vi quốc gia cũng như trong từng DN. Trong thời đại ngày nay, khoa học công
nghệ phát triển rất nhanh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tiến trình tái cơ cấu
diễn ra khắp nơi. Điều đó cũng giải thích tại sao sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong
thời đại ngày nay nhanh hơn bất cứ thời đại nào trước đó và nói rộng hơn tiến trình
công nghiệp hóa được rút ngắn.
Bảng 2. Đánh giá tầm quan trọng của các yếu tố đối với DN
Năm
2004
Năm
2006
Năm
2008
Năm
2010
Năm
2012
6 3 3 2 1 Các yếu tố công nghệ
2 2 2 2 2 Ký năng lao động
1 1 1 1 3 Các yếu tố thị trƣờng
2 6 6 3 4 Các yếu tố kinh tế vĩ mô
5 4 5 5 5 Quy định phập luật liên quan
4 5 4 6 6 Toàn cầu hoá
7 7 8 8 7 Các yếu tố kinh tế xã hội
8 8 7 7 8 Các vấn đề môi trƣờng
9 9 9 9 9 Các nhân tố địa chính trị
Nguồn: IBM, Key Discovery
Liên quan đến đột phát thứ 2: Điểm cốt lõi trong tiến trình tái cơ cấu là thay
đổi sự phân bố nguồn lực theo cơ chế thị trường, để nguồn lực đến được những lĩnh
vực địa bàn có thể khai thác tối đa lợi thế so sánh, tạo ra sức cạnh tranh mới. Trong
bối cảnh như vậy, các yếu tố liên quan đến phát triển khoa học công nghệ cũng được
hình thành và tác động đến DN không ngoài quy luật trên. Hay nói cách khác, để có
những đột phát về công nghệ hay giáo dục đào tạo thì các thể chế kinh tế thị trường
cũng phải được xây dựng phủ hợp để các sản phẩm khoa học công nghệ, các DN khoa
học công nghệ hoạt động và việc ứng dụng chuyển giao công nghệ một cách thuận lợi.
Cụ thể như:
- Sự phân bổ đầu tư (nhất là đầu tư công cho khoa học công nghệ) phải hợp lý.
Cơ chế khuyến khích DN đầu tư vào khoa học công nghệ phải thực sự đổi mới và
đáng kể.
- Các hình thức chuyển giao phổ biến, khoa học công nghệ phải phù hợp với
quy mô DN nhỏ và vừa.
- Hệ thống đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải phù hợp với nhu cầu phát
triển của DN.
- Đẩy mạnh các hoạt động phổ biến thông tin, hỗ trợ chuyển giao công nghệ,
phát triển thị trường khoa học công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN tiếp cận
và chuyển giao công nghệ phù hợp.
173
- Bảo hộ sản phẩm trí tuệ phải được coi như yêu cầu tối thượng của mọi quốc
gia trong thời đại kinh tế tri thức. Cần có những chế tài thật mạnh để chặn đứng nạn
ăn cắp sản phẩm trí tuệ.
Liên quan đến đột phá thứ 3: Một khi việc phân bố nguồn lực theo cơ chế thị
trường thì việc xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ sẽ đỏi hỏi:
- Công khai minh bạch và luật hoá việc quy hoạch.
- Xóa hết sự phân biệt đối xử, áp dụng luật chơi bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, trên thị trường cũng như trong đấu thầu các khoản mua sắm công (trừ mua
sắm cho an ninh quốc phòng). Mọi DN được bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực,
tài nguyên, vốn, thị trường.
- Tăng cường hợp tâc công tư.
- Tăng cường vai trò của các Hiệp hội DN trong việc thực hiện một số dịch vụ
công, phản biện chính sách và xây dựng quan hệ lao động hài hoà.
Như vậy, có thể nói các “đột phá” có mối quan hệ mật thiết, đan xen, bổ trợ
và tạo điều kiện cho nhau. Do vậy chúng cần được tiến hành một cách đồng bộ các
cấp: DN, Hiệp hội DN, ngành/địa phương, vùng và quốc gia. Các quy định liên
quan đến thể chế không được triệt tiêu động lực phát triển ở mối cấp mà phải tích
lũy các giá trị gia tăng ở từng mắt xích phát triển. Chỉ trên cơ sở đó, năng lực cạnh
tranh quốc gia mới có thể có được sự bứt phá mạnh mẽ trong tương lai gần.
______________________________
Tài kiệu tham khảo:
1. Kỷ yếu hội thảo diễn đàn kinh tế mùa xuân 2012.
2. Goerge Soros, Mô thức mới cho thị trường tài chính và ý nghĩa của nó, cuộc
khủng hoàng tín dụng 2008 và ý nghĩa của nó, NXB. Tri thức, 2008.
3. Phillip Lasserre, Chiến lược kinh doanh - Bài giảng trong Chương trình
VCCI-CIEBS, 2009.
4. Trương Đình Tuyển, Tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
- hai quá trình thuận chiều và hỗ trợ lẫn nhau, Nguồn: http://daibieunhandan.vn.
23/4/2013
5. VCCI, Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2010,chủ đề năm: một
số xu hướng tái cấu trúc doanh nghiệp, NXB. Thông tin và truyền thông, 2011.
6. VCCI, Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2012, chủ đề năm:
Chặng đường mười năm phát triển doanh nghiệp và năng lực tiếp cận thị trường. Nhà
xuất bản thông tin và truyền thông, 2013.
7. http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/140199/se-khong-co--bua-dai-tiec--
cho-viet-nam.html.
174
THỊ TRƢỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THIẾT
GS.TSKH. Đặng Hùng Võ
I. Nhìn lại thị trƣờng bất động sản giai đoạn kinh tế chuyển đổi
Thị trường BĐS Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật phát triển của các
nước có nền kinh tế chuyển đổi. Quy luật này bị chi phối bởi cách tiếp nhận lý luận
kinh tế - chính trị học về đất đai. Giá đất bằng "0" trong giai đoạn kinh tế bao cấp
chuyển dần sang giá đất do thị trường quyết định trong giai đoạn kinh tế thị trường.
Hơn nữa, quy luật quán tính của thị trường còn làm tốc độ tăng giá đất quá hơn so với
giá trị thật treen thị trường. Ngoài ra, nếu quản lý không tốt thì đầu cơ đất đai còn làm
cho giá trị bị "thổi phồng" lên hơn nữa. Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế diễn ra
như một quy luật tất yếu. Nếu quản lý nhà nước theo kịp nhu cầu thì vướng mắc
không nhiều, nếu nhận thức hoặc chuyên môn hoặc đạo đức không theo kịp thì tổn
thất trở nên rất đáng kể.
Lấy ví dụ như khủng hoảng bất động sản và khủng hoảng tài chính năm 1997 ở
Đông Nam Á, các nhà kinh tế Thái Lan đã đưa ra nhận định rằng nguyên nhân khủng
hoảng là do giá trị định giá các BĐS thế chấp bị đẩy cao hơn giá trị thực do nghiệp vụ
định giá quá kém (có thể kém về kỹ thuật hoặc kém về đạo đức). Từ đó, các nhà quản lý
thị trường BĐS Thái Lan đã tập trung nỗ lực vào xây dựng hệ thống dịch vụ định giá
đất theo hướng chuyên nghiệp. Ví dụ tương tự gần đây nhất là khủng hoảng tài chính
thế giới từ thị trường BĐS ở Mỹ, việc không kiểm soát được sự phát triển của thị
trường thế chấp thứ cấp đã tạo ra sốt giá BĐS. Ngay ở những nước phát triển cũng còn
thiếu chuyên nghiệp trong quản lý thị trường BĐS.
Theo mốc thời gian, Nhà nước ta quyết định đổi mới vào năm 1986 (Đại hội
Đảng lần thứ VI), tiếp nhận cơ chế thị trường vào năm 1991 (Đại hội Đảng lần thứ
VII), cho phép hộ gia đình, cá nhân thực hiện giao dịch đất đai từ năm 1993 (Luật Đất
đai 1993), thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 1994 (Nghị
quyết Trung ương 7, Khóa VII), cắt bỏ cơ chế bao cấp về nhà ở và phát triển thị
trường nhà ở vào năm 1994 (Nghị định 61-CP), cho phép vận hành thị trường BĐS
vào năm 1996 (Đại hội Đảng lần thứ VIII), cho phép thực hiện các dự án xây dựng
kinh doanh nhà ở để bán và cho thuê vào năm 1998 (Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Đất đai năm 1998), cho phép hình thành thị trường quyền sử dụng đất
và quy định giá đất của Nhà nước phải phù hợp với giá đất thị trường vào năm 2003
(Luật Đất đai 2003), tạo khung pháp lý về nhà ở và phát triển thị trường nhà ở vào
năm 2005 (Luật Nhà ở 2005), tạo khung pháp lý về kinh doanh BĐS vào năm 2006
(Luật Kinh doanh BĐS năm 2006). Đến nay, kể cả vấn đề đất đai cũng như nhà ở và
rộng hơn là thị trường BĐS đang còn khá nhiều vấn đề chưa phù hợp cơ chế thị
trường.
Trên thực tế ở Việt Nam từ sau "Đổi Mới", giá đất đai và BĐS ở các đô thị nước
ta đã tăng nhanh (rơi vào "sốt giá") trong 2 giai đoạn: 1991 - 1993, 2001 - 2003, cách
nhau khoảng 10 năm. Tại các đô thị lớn, trong mỗi giai đoạn, giá đất đã tăng tới 10
lần. Như ở trung tâm Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, giá đất tăng từ 2,5 chỉ trên một mét
vuông lên 2,5 cây vàng trong giai đoạn 1991 - 1993 và tăng tiếp từ 2,5 tới 25 cây vàng
trong giai đoạn 2001 - 2003. Đây chính là quá trình tăng giá do hệ quả của việc
chuyển đổi cơ chế kinh tế. Mặt khác, việc chuyển đổi cơ chế kinh tế luôn gặp một hạn
175
chế về chuẩn bị văn hóa và tính chuyên nghiệp khi tiếp nhận một cơ chế kinh tế khác.
Thiếu tính chuyên nghiệp luôn thể hiện hầu hết các nơi, khâu quản lý thiếu chuyên
nghiệp, nhà đầu tư thiếu chuyên nghiệp và người tiêu dùng cũng thiếu chuyên nghiệp.
Trong hoàn cảnh thiếu chuyên nghiệp và chưa chuẩn bị tốt về văn hóa thị trường, hiện
tượng đầu cơ đất đai và thói quen trữ tiền vào đất đai tăng lên quá nhanh, từ đây tạo ra
ngữ cảnh cung nhà ở cao cấp tăng mạnh phục vụ nhu cầu ảo của đầu cơ và tích trữ
BĐS. Trung khu vực quản lý, mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào vốn đầu tư cũng
làm cho các dự án nhà ở giá cao phát triển rất nhanh. Những hiện tượng này đang để
lại hậu quả nghiêm trọng cho thị trường BĐS ngày nay.
Từ 2004, thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng trưởng mạnh, hút vốn đầu tư
từ thị trường BĐS làm cho thị trường BĐS rơi vào "đóng băng". Tới đầu 2007, thị
trường chứng khoán giảm mạnh ở trạng thái "vỡ bong bóng" đã tạo cơ hội cho thị
trường BĐS "sốt" trở lại. Lần "sốt" BĐS thứ ba ở Việt Nam xẩy ra từ đầu 2007 và kết
thúc vào quý 3 năm 2008 khi kinh tế Việt Nam có biểu hiện rõ về lạm phát. Từ Quý 4
năm 2008, giá BĐS bắt đầu chững lại và suy giảm. Các công cụ kiềm chế lạm phát mà
chủ yếu là giảm cung tiền ra thị trường luôn hạn chế cung vốn cho phát triển BĐS.
Đây là hệ quả tất yếu của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhưng thị
trường BĐS và thị trường chứng khoán lại thăng trầm theo kiểu tự do.
Vào năm 2009, gói kích cầu của Chính phủ cho thị trường với một phần đáng kể
để phát triển nhà ở xã hội đã làm ấm lại thị trường BĐS. Nhưng tới cuối 2010, lạm
phát quay lại, các chính sách kiềm chế lạm phát lại được áp dụng và thị trường BĐS
lại rơi vào thiếu vốn. Tình trạng giao dịch ít trong khu vực BĐS cao cấp, nhà đầu tư
thiếu vốn từ tín dụng, người tiêu dùng thiếu niềm tin vào thị trường, thiếu cung nhà ở
giá rẻ xẩy ra ở hầu hết các đô thị và thừa cung dẫn đến tồn đọng nhiều nhà ở giá trung
bình và cao. Đây là tình trạng chung trong suốt giai đoạn từ 2011 cho tới nay và còn
tiếp tục trong một vài năm tiếp theo. Nghịch lý cơ bản đã xẩy ra trong thị trường BĐS
Việt Nam, cung thừa và cầu lớn nhưng đường cung và đường cầu không gặp nhau.
Đây cũng là hệ quả tất yếu của quá trình đầu tư nóng đẩy tăng trưởng kinh tế lên cao
nhưng hiệu quả đầu tư không được kiển soát tốt, thị trường BĐS gắn mật thiết với đầu
cơ và trữ tiền tiết kiệm vào BĐS. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính
dẫn tới lạm phát và cũng là sự trả giá tất yếu của phát triển nóng trong thị trường
BĐS.
Từ thực tế của Việt Nam và kinh nghiệm của nhiều nước có nền kinh tế chuyển
đổi, có thể đưa ra một số đặc điểm của thị trường BĐS của một đất nước có nền kinh
tế chuyển đổi như sau:
1. Đổi mới tư duy về quản lý kinh tế luôn chậm hơn so với yêu cầu của cơ chế
kinh tế thị trường, từ đó cho thấy hệ thống quản lý thiếu tính chuyên nghiệp và thường
sử dụng cơ chế bao cấp để giải quyết các vấn đề trợ giúp của Nhà nước.
2. Việc tiếp nhận cơ chế thị trường đối với các nguồn lực như đất đai và tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động, vốn tài chính thường khó khăn, rất chậm và vẫn
mang một tỷ lệ bao cấp rất cao; từ đó dẫn đến tính thiếu chuyên nghiệp của thị trường
gắn với các cơ hội tham nhũng.
3. Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế luôn gắn với quá trình tăng giá đất từ "0"
tới giá thị trường; đây là quá trình luôn gắn khả năng tạo siêu lợi nhuận từ kinh doanh
đất, tích trữ tiền vào đất và đầu cơ đất đai vượt giới hạn; tất yếu dẫn tới tình trạng giá
176
đất "sốt rất cao", người có thu nhập thấp khó có nhà ở, và cũng tất yếu dẫn tới tình
trạng thị trường BĐS "đóng băng" và xuống giá mạnh.
II. Tác động của kinh tế vĩ mô vào thị trƣờng BĐS
Như phần trên về một số quy luật của thị trường BĐS tại các nước có nền kinh tế
chuyển đổi, có thể thấy quy luật giá trị trong kinh tế thị trường đã đưa giá BĐS từ rất
thấp (không có giá đất) lên giá khá cao với giá đất phù hợp thị trường và còn cao hơn
thị trường. Sở dĩ có việc cao hơn thị trường vì các lý do chủ yếu bao gồm:
1. Do giá có xu hướng tăng với tốc độ cao làm cho mọi người có cảm giác đầu tư
tiền tiết kiệm vào BĐS là giải pháp tốt nhất nên đây là thị trường thu hút vốn đầu tư rất
mạnh, tạo sức nóng cao cho thị trường BĐS. Trong hoàn cảnh có sức nóng cao thì luôn
xuất hiện tham nhũng trong quản lý và đầu cơ hàng hóa BĐS. Ở nước ta, đã có lúc thị
trường BĐS hút tới 50% tổng vốn đầu tư của cả nước tạo nên tình trạng mất cân đối.
Hầu hết các doanh nghiệp lớn với nhiều ngành nghề khác nhau đều tham gia đầu tư
trong thị trường BĐS và coi đó là hoạt động chủ yếu về kinh doanh. Sức nóng cao của
thị trường BĐS tạo ra ngữ cảnh "cầu ảo" (cầu kinh doanh mua đi - bán lại chứ không
phải cầu cho người có nhu cầu sử dụng thật) và cung chạy theo đáp ứng cho "cầu ảo"
này. Hoàn cảnh này tất dẫn tới tình trạng "bong bóng" trong BĐS (giá trị thị trường cao
hơn giá trị tạo lập) và ế thừa BĐS trong tương lai. Nhiều người biết như vậy nhưng lợi
nhuận thực tế rất lớn đã làm cho người ta không thể dừng lại. "Bong bóng" BĐS là một
trong những nguyên nhân gây nên tình trạng lạm phát năm 2008 và lạm phát trở lại năm
2011.
2. Nền kinh tế chuyển đổi luôn gặp một khó khăn rất lớn trong quản lý do phải
chuyển các tư duy quản lý trong nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Quan
niệm về vai trò quản lý của Nhà nước có thay đổi: từ người điều khiển trực tiếp hệ
thống sản xuất - kinh doanh sang người tạo "sân chơi" cho sản xuất - kinh doanh; từ
người xếp đặt mọi việc trong các hoạt động xã hội sang người cung cấp các dịch vụ
hành chính. Việc quản lý thị trường BĐS cũng rơi vào tình trạng thiếu tính chuyên
nghiệp. Hệ thống pháp luật có nhiều khoảng trống, khoảng chồng chéo và khoảng
xung đột; hệ thống quy hoạch thường mang tính hình thức, thiếu khả thi, không phản
ảnh được ý nguyện của mọi người, chưa hướng được tới một quy hoạch cho phát triển
bền vững; hệ thống tài chính dễ bị chi phối, thiếu chủ động, nhất là không điều chỉnh
thuần thục "van" của kênh liên hệ vốn giữa thị trường tài chính và thị trường BĐS, chi
phí huy động vốn cho phát triển thị trường BĐS luôn ở mức khá cao; hệ thống hành
chính phức tạp, chứa đựng tính quan liêu và nhũng nhiễu khá cao, độ minh bạch và
công khai rất yếu.
3. Thị trường nói chung và thị trường BĐS nói riêng cũng thiếu tính chuyên nghiệp:
thông tin thị trường thiếu đầy đủ, thiếu chính xác, thiếu cập nhật; gần như không có khả
năng dự báo thị trường làm cho hoạt động của thị trường chỉ yếu là tự phát; hầu hết các rủi
ro trong giao dịch thị trường không thể kiểm soát, nhất là các rủi ro trong phương thức
"mua bán nhà trên giấy" hoặc góp vốn giữa người mua nhà trong tương lai và chủ các dự
án đầu tư; nhiều nhà đầu tư BĐS thiếu khả năng khi bước vào thị trường kể cả khả năng
quản lý, khả năng tài chính, khả năng công nghệ, v.v...
Trong ngữ cảnh của một đất nước có nền kinh tế chuyển đổi, sự phát triển của thị
trường BĐS Việt Nam cũng có những ngữ cảnh riêng. Hai lần sốt giá trong giai đoạn
1991 - 1993 và 2001 -2003 hoàn toàn do đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi tạo thành,
đây là quá trình tăng giá từ nền BĐS bao cấp chuyển sang thị trường BĐS. Lần sốt giá
177
tiếp theo 2007 - 2008 có nguyên nhân khác, đó là sự thay đổi phương thức kinh doanh
chuyển vốn đầu tư sang thị trường BĐS sau khi "bong bóng" của thị trường chứng
khoán Việt Nam bị vỡ.
Cũng vào năm 2008, kinh tế Việt Nam có biểu hiện lạm phát và Chính phủ đã phải
đưa ra gói giải pháp kiềm chế lạm phát, trong đó chủ yếu là các giải pháp tài khóa và
tiền tệ trong kinh tế vỹ mô nhằm giảm độ nóng của phát triển kinh tế, cụ thể hơn là
giảm tăng trưởng. Giải pháp tài khóa là giảm đầu tư công, rà soát lại các dự án đầu tư
bằng vốn ngân sách để cắt giảm các dự án chưa cần thiết. Giải pháp tiền tệ là giảm cung
tiền ra thị trường bằng cách tăng lãi suất tín dụng để hút tiền về các ngân hàng thương
mại và giảm cho vay tín dụng, thâm chí không cung vốn của các ngân hàng thương mại
cho một số khu vực, trong đó có thị trường BĐS. Vào cuối năm 2008, thị trường BĐS
đứng trước khó khăn rất lớn về vốn vì các nhà đầu tư đến hạn phải trả lại các khoản tín
dụng cả vốn lẫn lãi. Lúc đó, thị trường BĐS rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn. Nhiều nhà
đầu tư đã phải giảm giá BĐS bán trên thị trường. Giá đất đai và nhà ở bắt đầu hạ, nhất
là ở TP.Hồ Chí Minh.
Đến đầu năm 2009, lạm phát có biểu hiện bị đẩy lùi và Chính phủ lại có giải pháp
"đốt nóng" nền kinh tế sau khi phải chững lại do đối phó với lạm phát. Gói kích cầu
khoảng 1 tỷ USD đã được Chính phủ sử dụng để kích thích kinh tế mà một phần rất
đáng kể được sử dụng để kích thích thị trường BĐS thông qua thực hiện các dự án nhà
ở xã hội. Vì vậy, thị trường BĐS như được tiếp sức vì đã có thêm vốn, hơi ấm đã trở lại
và áp lực vốn đã giảm đáng kể lên các nhà đầu tư BĐS.
Đến đầu 2011, lạm phát lại quay trở lại và Chính phủ lại phải sử dụng các chính
sách kiềm chế lạm phát như trước đây gồm giải pháp tài khóa và giải pháp tiền tệ.
Trong một thời gian khá dài, Bộ Xây dựng cũng như các nhà đầu tư BĐS cố gắng
thuyết minh BĐS cũng là một ngành sản xuất chứ không phải phi sản xuất nên không
phải chịu cảnh không được tiếp cận vốn tín dụng. Hệ quả của qúa trình kiềm chế lạm
phát này là thị trường BĐS rơi vào trầm lắng và Chính phủ đã có Nghị quyết số 02 với
gói giải pháp toàn diện cho thị trường BĐS.
III. Tác động của Luật pháp, quy hoạch và Nhà nƣớc tới thị trƣờng BĐS
Hiện nay, Việt Nam có một hệ thống luật pháp khá nhiều tác động vào thị trường
BĐS, trong đó phải kể tới Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS, Luật Xây
dựng, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Giá, Luật Công chứng, Bộ luật Dân sự, v.v. Như
nhiều ý kiến đã nói, hệ thống luật pháp thì nhiều nhưng vẫn tồn tại khoảng trống,
khoảng chồng chéo khá lớn, có thể lấy một số ví dụ cụ thể dưới đây.
Ví dụ 1: Chính sách phát triển thị trường nhà ở không có một lộ trình nhất quán
Trong thời kỳ bao cấp, người dân được phép mua bán nhà ở nhưng không có
khái niệm thị trường BĐS, Nhà nước bao cấp hoàn toàn về nhà ở cho mọi người làm
việc cho Nhà nước. Nghị định 61-CP năm 1994 đã cắt bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp về
nhà ở và đưa ra chủ trương giải quyết toàn bộ nhà ở bằng cơ chế thị trường, Nhà nước
bán nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước cho người đang ở. Năm 1991, cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước bắt đầu chính thức được áp dụng (Đại hội Đảng khóa
VII). Năm 1996, thị trường BĐS được xác lập trên nguyên tắc quản lý chặt về đất đai
và giải quyết tốt vấn đề nhà ở cho người lao động (Đại hội Đảng khóa VIII). Năm
1998, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai công nhận đất ở được sử
dụng không thời hạn và cho phép các nhà đầu tư trong nước thực hiện các dự án xây
dựng kinh doanh nhà ở; Chính phủ cho phép thực hiện thí điểm 2 dự án phát triển nhà
ở do nhà đầu tư nước ngoài thực hiện. Năm 2003, Luật Đất đai sửa đổi mở rộng quyền
178
giao dịch đất đai của các tổ chức kinh tế trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, chính
thức cho phép nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án xây dựng kinh doanh nhà ở.
Năm 2005, Luật Nhà ở đưa ra cơ chế thiết lập nhà ở công vụ và nhà ở xã hội trên
nguyên tắc Nhà nước bao cấp một phần và đến năm 2009 Chính phủ mới bắt đầu khởi
động một số dự án đầu tiên về nhà ở xã hội.
Ví dụ 2: Luật Kinh doanh BĐS không điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ
tài chính đối với thị trường BĐS
Luật kinh doanh BĐS được thông qua đã tạo hành lang pháp lý cho kinh doanh
BĐS. Luật này đã điều chỉnh khá nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ hỗ trợ thị trường,
nhưng rất đáng tiếc là không điều chỉnh đối với hoạt động dịch vụ tài chính BĐS. Trong
suốt thời gian vừa qua, hình thức góp vốn trước để mua BĐS hình thành trong tương lai
được cả nhà đầu tư lẫn người tiêu dùng ưu thích, áp dụng và được coi như một kênh
huy động vốn hiệu quả, nhưng những rủi ro gắn liền vẫn chưa có cơ chế quản lý hiệu
quả. Những rủi ro về chất lượng, tiến độ, diện tích, dịch vụ nhà chung cư, v.v. luôn luôn
gây lo lắng cho những người đã góp vốn. Luật Kinh doanh BĐS xem xét phương án
"mua bán nhà trên giấy" dưới góc độ quản lý hành chính chứ không sử dụng công cụ tài
chính nên các rủi ro hầu như vẫn còn nguyên trên thực tế. Ngoài ra, các dịch vụ tài
chính khác về BĐS như thế chấp, cầm cố, thế chấp thứ cấp, bảo đảm giao dịch, v.v...
không được đề cập trong Luật này.
Ví dụ 3: Hiện nay đang có 2 hệ thống quản lý dịch vụ định giá đất đai và tài sản
gắn liền.
Từ trước khi Quốc hội thông qua Luật Kinh doanh BĐS, Bộ Tài chính đã xây dựng
và vận hành một hệ thống quản lý dịch vụ định giá đất đai và tài sản gắn liền "dưới ô" của
Luật Giá với các quy định khá cụ thể về đào tạo nghề, cấp phép hành nghề, hoạt động dịch
vụ, tiêu chuẩn định giá, v.v... Sau khi Luật Kinh doanh BĐS được Quốc hội thông qua, Bộ
Xây dựng lại vận hành một hệ thống quản lý dịch vụ định giá BĐS khác với các nội dung
tương tự nhưng có nhiều quy định khác với các quy định do Bộ Tài chính đã ban hành như
các quy định về đào tạo nghề, cơ quan cấp phép hành nghề, tiêu chuẩn của người được
phép hành nghề, tiêu chuẩn của tổ chức được cung cấp dịch vụ định giá, v.v... Đây là một
khoảng chồng chéo có xung đột rất đang kể trong phạm vi quản lý một dịch vụ mới mẻ và
rất quan trọng trên thị trường BĐS.
Ví dụ 4: Một số quy định về cơ chế Nhà nước thu hồi đất và trách nhiệm thực
hiện bồi thường, hỗ trợ giữa Luật Đất đai và Luật Xây dựng
Luật Đất đai 2003 và Luật Xây dựng được Quốc hội thông qua trong cùng một kỳ
họp Quốc hội tháng 11 năm 2003 nhưng lại có một số quy định khác nhau về cơ chế
Nhà nước thu hồi đất và trách nhiệm thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi
đất. Luật Xây dựng quy định là Nhà nước không thu hồi đất cho các dự án vì mục đích
kinh doanh và trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ thuộc chủ đầu tư dự án; trong khi đó Luật
Đất đai 2003 quy định là cơ chế Nhà nước thu hồi đất được áp dụng cho một số loại dự
án vì mục đích kinh doanh và trách nhiệm thực hiện bồi thường, hỗ trợ thuộc Nhà nước.
Theo chuẩn mực quốc tế về chuyển dịch đất đai và bồi thường thì Luật Xây dựng tiến
bộ hơn nhưng các quy định của Luật Đất đai 2003 lại được vận hành trên thực tế.
Ví dụ 5: Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính của dân về đất đai quy định
trong Luật Đất đai khác với các quy định trong Luật Khiếu nại và tố cáo
Luật Khiếu nại và tố cáo (trước đây) được thông qua năm 1998 và được sửa đổi,
bổ sung 2 lần vào năm 2004 và 2005, trong đó quy định trách nhiệm giải quyết khiếu
nại lần thứ hai của các Bộ, cơ quan ngang bộ khi trách nhiệm giải quyết lần đầu thuộc
UBND cấp tỉnh. Luật Đất đai 2003 lại quy định không cho khiếu nại tràn lên các cơ
179
quan ở trung ương. Đây là một xung đột pháp luật khá lớn mà Luật Đất đai đã kéo lùi
sự tiến bộ pháp luật, mãi tới năm 2011 xung đột này mới được Luật Tố tụng hành
chính loại bỏ.
Về quy hoạch đối với BĐS, khiếm khuyết hiện nay còn quá nhiều, có thể kể ra
một số điểm chủ yếu như sau:
1. Quá trình đô thị hóa chưa được xem xét đồng bộ giữa chuyển dịch vốn đầu
tư, đất đai, lao động. Nhiều đô thị đã hình nhưng không có khả năng thu hút cư dân vì
thiếu khả năng tạo việc làm hoặc thiếu hạ tầng ở mức tối thiểu để bảo đảm cuộc sống
đô thị. Thành phố Vạn tường thuộc khu kinh tế Dung Quất là một ví dụ cụ thể, thành
phố có khả năng thu hút cư dân vì có khả năng tạo việc làm từ khu kinh tế nhưng
không đủ hạ tầng xã hội nên các cư dân lại quay lại các khu dân cư nông thôn để sinh
sống. Ngược lại, nhiều khu kinh tế cửa khẩu cũng như khu kinh tế ven biển có kết cấu
hạ tầng được dầu tư khá tốt nhưng mọi hoạt động kinh tế lại rất chậm nên không tạo
được việc làm để thu hút dân cư.
2. Quy hoạch sử dụng đất chỉ làm nhiệm vụ đặt ra chỉ tiêu diện tích các loại đất
được sử dụng cho mục đích phát triển BĐS trong giai đoạn 10 năm (trong quy hoạch)
và 5 năm (trong kế hoạch), không chỉ ra được không gian cụ thể. Nói cách khác, quy
hoạch sử dụng đất chưa xác định cách tiếp cận quy hoạch không gian nên rất hạn chế
trong trợ giúp phát triển thị trường BĐS. Trên thực tế, khi thị trường BĐS rơi vào tình
trạng "phát triển nóng" thì hầu như chỉ tiêu đất ở cho 10 năm được thực hiện ngay
trong 2 hoặc 3 năm đầu.
3. Quy hoạch xây dựng có một phần về quy hoạch sử dụng đất lại tiếp cận theo
hướng phân bố không gian sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất vẫn được thực hiện tại
cả những đô thị đã có quy hoạch đô thị chi tiết được phê duyệt. Đây là một biểu hiện
chồng chéo về nhiệm vụ quy hoạch, vừa gây lãng phí, vừa tạo ra bức tranh phức tạp
trong quản lý.
4. Trong thời gian thị trường BĐS phát triển nóng, tính đồng bộ trong quy
hoạch thường bị lãng quên. Một khu nhà chung cư được quy hoạch không đồng bộ với
quy hoạch hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đã gây nên tình trạng nhà ở không gắn với
nơi ở. Đây là một trong nhiều lý do tạo ra tình trạng nhiều khu dân cư bị bỏ hoang sau
khi đã hoàn thành.
5. Do nhu cầu phát triển mở rộng đô thị nên nhiều địa phương cấp tỉnh đã vạch
ranh giới hành chính đô thị quá rộng, rộng hơn cả quy hoạch phát triển. Tại nhiều tỉnh,
địa bàn phường còn nguyên khung cảnh nông thôn miền núi. Đây là tình trạng đang
gây khó khăn cho quản lý: nhiều vùng chậm phát triển nhưng đang đuợc quản lý theo
cách quản lý đô thị.
6. Công cụ quy hoạch đang thể hiện khá nhiều khiếm khuyết, do cách nhìn quy
hoạch bị chia cắt, tính chuyên nghiệp trong quy hoạch còn thiếu, lợi ích từ quy hoạch chưa
được quản lý sao cho minh bạch, sự tham gia của cộng đồng vào quy hoạch chưa cao,
thông tin trong quá trình xây dựng và thông tin về quy hoạch đã được phê duyệt chưa được
công khai đầy đủ, điều chỉnh quy hoạch còn thiếu các căn cứ xác đáng.
7. Nhiều dự án đầu tư khu dân cư chỉ tập trung vào phần đầu tư nhà ở để bán và
thường chậm thực hiện hoặc xin không thực hiện một số hạng mục đầu tư hạ tầng như
nơi vui chơi, hồ điều hòa, chỗ để xe, v.v.
180
Quyền của Nhà nước quyết định đối với đất đai thông qua cơ chế "Nhà nước thu
hồi đất" là một yếu tố có tác động khá lớn tới thị trường BĐS. Đây là nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới nguy cơ tham nhũng về đất đai và khiếu kiện nhiều của dân về đất đai. Cơ
chế thị trường đã được tiếp nhận và vận hành, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất.
Về nguyên lý, nhà đầu tư cần đất cho mục tiêu đầu tư của mình thì phải tiếp cận thị
trường quyền sử dụng đất. Người đang sử dụng đất có thể muốn chuyển nhượng hoặc
không muốn, rất không muốn chuyển nhượng. Vấn đề đặt ra là cơ chế chuyển dịch đất
đai như thế nào và Nhà nước tác động như thế nào cho phù hợp với cơ chế thị trường,
để giảm tham nhũng và khiếu kiện. Tất nhiên, cơ chế Nhà nước can thiệp vào nguồn lực
đất đai theo kiểu bao cấp là không phù hợp. Nhà nước chỉ nên là người đưa ra điều kiện
"chuyển quyền sử dụng đất đai bắt buộc để thực hiện quy hoạch sử dụng đất" và cách
thức chuyển quyền phải do nhà đầu tư thỏa thuận với "cộng đồng những người đang sử
dụng đất", trong đó có cả hình thức chuyển quyền và giá trị chuyển quyền.
Hiện nay Quốc hội đang chuẩn bị thông qua Luật Đất đai sửa đổi và bắt đầu khởi
động quá trình sửa đổi Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh BĐS. Quốc hội cũng đã giao
cho Chính phủ xây dựng Luật Quy hoạch hướng tới tính đồng bộ của hệ thống quy
hoạch. Trong dự thảo Luật Đất đai sửa đổi chưa có nhiều yếu tố hỗ trợ thị trường BĐS,
trong đó có phương thức hợp lý để Nhà nước tác động vào thị trường.
Chính phủ và UBND cấp tỉnh đang có chủ trương rà soát lại quy hoạch có liên
quan tới phát triển BĐS. Những yêu cầu đồng bộ giữa quy hoạch phát triển nhà ở và
phát triển hạ tầng đang được đặt ra cả dưới góc độ quy hoạch và thực hiện quy hoạch.
IV. Nghịch lý hiện tại và những vấn đề cần giải quyết của thị trƣờng BĐS
Việt Nam
Quá trình "sốt" giá đất đã tạo nên những nghịch lý của thị trường BĐS hiện nay,
cụ thể bao gồm:
Nghịch lý 1: Giá nhà ở trung bình cao gấp 25 lần thu nhập trung bình năm của người
lao động (trong khi ở các nước khác tỷ lệ này là 2 - 4 lần), nếu người lao động tiết kiệm được
25% thu nhập thì cũng phải 100 năm sau mới mua được nhà. Đến nay, tỷ lệ này đã giảm tới
mức 10 lần trong khu vực nhà ở thương mại giá thấp và nhà ở xã hội.
Nghịch lý 2: Thừa cung nhà ở giá cao đã tạo nên kho BĐS tồn đọng gắn với nợ xấu
mà không có cầu, trong khi đó thiếu cung trầm trọng đối với nhà ở giá thấp có cầu rất cao.
Đây là nghịch lý của sự không gặp nhau giữa đường cung và đường cầu trong hoàn cảnh cả
cung và cầu đều rất cao. Tổng cung và tổng cầu lúc này không có nghĩa.
Nghịch lý 3: BĐS tồn đọng nhiều nhưng giá BĐS chỉ hạ tới mức nhất định,
không có hiện tượng phá giá vì vốn tồn đọng chủ yếu từ vốn góp của người tiêu dùng
trong phương thức "mua nhà trên giấy", vốn tín dụng từ ngân hàng chiếm tỷ lệ không
cao và có một lượng vốn khá lớn từ các ngân hàng thương mại đầu tư trực tiếp cho thị
trường BĐS chứ không thông qua cơ chế vay tín dụng.
Kho BĐS giá cao tồn đọng gắn với nợ xấu của các ngân hàng thương mại đang
tồn tại và coi đây là một điểm trong tâm cần tháo gỡ cho thị trường. Nhà đầu tư dự án
đã giảm giá tới "mức sàn" nhưng vẫn không có giao dịch. "Kho tồn đọng" này tiếp tục
tồn tại chờ Nhà nước cứu giúp. Nhà đầu tư kêu ca nhiều nhưng chỉ có rất ít nhà đầu tư
chủ động tìm giải pháp cho mình.
Trong ngữ cảnh này, có 2 đặc điểm của thị trường BĐS Việt Nam cần được nhìn
nhận thật rõ ràng. Thứ nhất, nợ xấu trong BĐS nhà ở không phải chủ yếu từ nguồn tín
181
dụng của các ngân hàng thương mại mà có thể ước tính có khoảng 50% từ nguồn tiền
góp vốn của người tiêu dùng và các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Chính vì vậy mà nhiều nhà đầu
tư kêu ca rất thảm thiết về giá BĐS xuống dốc nhưng họ vẫn chấp nhận để BĐS tồn
đọng mà không chịu hạ giá. Tình trạng xung đột giữa các nhà đầu tư và người góp vốn
đang xẩy ra khá phổ biến ở nhiều nơi. Chính vì vậy mà nợ xấu ước tính từ các ngân
hàng thương mại trong BĐS tồn đọng vẫn chỉ khoảng 6% tổng dư nợ tín dụng nhưng
nhiều ý kiến cho rằng nợ xấu trong BĐS cao hơn rất nhiều. Thứ hai, các hoạt động
của thị trường BĐS vẫn diễn ra bình thường kể cả về giao dịch nhà giá thấp, hoạt
động xây dựng, hoạt động tín dụng và đầu tư từ nước ngoài. Nhiều nhà đầu tư đang
tập trung vào khu vực giá thấp, nhà ở xã hội và nhà ở cho thuê.
Theo nghiên cứu của Dragon Capital, tổng BĐS tồn đọng của cả Hà Nội và Tp.
Hồ Chí Minh đã lên tới 70.000 căn hộ, mỗi nơi có khoảng hơn 35 nghìn căn hộ sẵn
sàng để bán mà không có giao dịch. Nếu mức giá là 1,5 tỷ đồng mỗi căn thì ước tính
tổng số vốn bị tồn đọng trong BĐS tồn đọng lên tới 100.000 tỷ đồng. Nhiều chuyên
gia đã ước tính rằng thông thường để giải quyết số lượng tồn kho BĐS này phải mất ít
nhất 7 năm.
Nghịch lý 4: Các nhà đầu tư BĐS nói rằng rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn, gần
như phá sản nhưng trên thực tế vẫn có tới 80% đang kinh doanh có lãi, thực - hư quả
khó lường. Các nhà đầu tư BĐS kêu cứu thảm thiết nhưng số lượng M&A không cao.
Nghịch lý 5: Giá nhà ở xã hội với nhiều ưu đãi của Chính phủ có giá cao hơn
nhà ở thương mại giá thấp cùng loại, nhà ở xã hội đang được quản lý theo cơ chế
thuần túy bao cấp trong khi giá nhà ở thương mại được hình thành từ cạnh tranh trên
thị trường.
Nhiều chuyên gia cho rằng thị trường BĐS hiện nay không đóng băng hoàn toàn
vì vẫn có nhiều giao dịch trong phân khúc nhà ở giá thấp. Tại khu vực Hà Nội, trước
đây là dự án Xa La ở quận Hà Đông với giá khoảng 14 triệu đồng/m2 và gần đây là dự
án Đại Thanh cũng ở gần dự án Xa La với giá chỉ 10 triệu đồng/m2. Cả 2 dự án giá
thấp này đều bán hết hàng ngay trong một thời gian rất ngắn. Theo thông tin của hệ
thống sàn BĐS Tp. Hồ Chí Minh, lượng giao dịch thành công đối với những sản phẩm
BĐS giá trung bình và giá thấp tăng lên khá cao, biểu hiện xu hướng thị trường ấm lại
trong phân khúc này.
Khi dự án Đại Thanh chào giá 10 triệu đồng/m2, đã nổ ra một cuộc thảo luận với
nhiều ý kiến trái chiều. Một phía khẳng định đây là cách làm phù hợp, một chiến lược
kinh doanh đúng hướng, thậm chí có thể đưa giá xuống mức thấp hơn. Một phía khác
lại khẳng định đây là một hành vi phá giá thị trường. Cuộc tranh luận này đã thu hút rất
mạnh sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng. Đến nay, cuộc tranh luận về
giảm giá nhà ở thương mại đã kết thúc. Rất nhiều nhà đầu tư đã chuyển hướng kinh
doanh như dự án Đại Thanh đã làm và có khả năng đưa giá xuống thấp hơn. Từ góc
nhìn khác, giá nhà ở xã hội cao hơn 10 triệu đồng/m2 vẫn đang là một thách thức với các
cơ quan quản lý. Sự thực, giá nhà ở xã hội đang được quản lý theo kiểu bao cấp nên giá
không có động lực tác động từ thị trường.
Hiện nay, nhà ở xã hội đang được nhiều người quan tâm, cả khu vực quản lý của
Nhà nước, cả những người lao động chưa có nhà ở và cả các nhà đầu tư. Việc đưa giá
BĐS giá rẻ xuống mức thấp hơn được coi như một quy luật tất yếu của thị trường
nhưng lại gây khó khăn đáng kể cho giá nhà ở xã hội do cơ quan Nhà nước xét duyệt
giá. Giá nhà ở xã hội của Nhà nước, được hình thành với nhiều ưu đãi của Nhà nước
182
hiện cao hơn giá các nhà ở thương mại giá rẻ. Sự thực, để giải quyết tình trạng này
không khó vì giá cả nhà ở luôn phụ thuộc vào công nghệ xây dựng, vật liệu xây dựng,
chi phí quản lý, chi phí huy động vốn, v.v... Giá nhà ở xã hội cũng sẽ giảm nếu có
những thay đổi tốt hơn về xây dựng, quản lý và huy động vốn.
Nghịch lý 6: Gói tín dụng ưu đãi cho người có thu nhập thấp mua nhà đã sẵn
sàng với giá trị lên tới 21.000 tỷ đồng nhưng người có nhu cầu rất khó tiếp cận vốn,
chưa biết bao giờ mới giải ngân xong và liệu người có thu nhập thấp thực sự có tiếp
cận được ưu đãi này.
Những nghịch lý này nghe ra có vẻ bất thường nhưng thực sự lại rất bình thường
trong thị trường BĐS hiện nay. Tất cả do tính thiếu chuyên nghiệp của thị trường
BĐS, từ quản lý tới nhà đầu tư và tới người tiêu dùng. Thông tin không đầy đủ, thiếu
chính xác. Các rủi ro gần như không được quản lý.
Như vậy, từ cuối năm 2012 tới nay có 2 việc cần làm cho thị trường BĐS nước
ta: một là tăng cung cho khu vực giá rẻ gồm cả nhà ở xã hội nhằm thỏa mãn cầu rất
cao của những người lao động có thu nhập thấp; và hai là giải quyết kho BĐS tồn
đọng có giá cao và giá trung bình. Bên cạnh 2 việc này còn có một số việc khác cần
làm nhằm tái cơ cấu khu vực kinh tế BĐS.
V. Gói giải pháp hiện nay của Nghị quyết 02
Những dữ liệu thực tế nói trên đã mô tả đúng thực trạng nghịch lý của thị trường
BĐS hiện nay. Trong tình trạng này, hầu hết các nhà đầu tư BĐS đều cho rằng Nhà
nước phải giải cứu thị trường BĐS. Hầu hết các Bộ có liên quan và Ngân hàng Nhà
nước đã vào cuộc giải cứu này với nhiều đề xuất giải pháp khác nhau.
Bên cạnh các giải pháp này là một luồng ý kiến hoàn toàn khác, không cần giải
cứu thị trường BĐS. Trước hết là các ý kiến của các đại biểu Quốc hội trong Ủy ban
Kinh tế của Quốc hội khi xem xét vấn đề giải cứu thị trường BĐS. Hầu hết các ý kiến
đều cho rằng không phải giải cứu thị trường BĐS vì đây không phải là vấn đề có tác
động lớn tới nền kinh tế, các nhà đầu tư phải tự tìm giải pháp cho mình.
Tiếp theo là sự ồn ã quanh chuyện tranh luận giữa Ts. kinh tế Allan Phan và Câu
lạc bộ BĐS Hà Nội. Ts. Allan Phan nói rằng không phải giải cứu thị trường BĐS vì sự
cố BĐS ở Việt Nam hiện nay là hệ quả tất yếu do chính các nhà đầu tư BĐS tạo ra,
khi lãi nhiều thì không ai trợ giúp chính phủ nhưng khi lỗ thì lại kêu chính phủ phải
giải cứu. Điều quan trọng hơn là Ts. Allan Phan đã chỉ ra được tính tích cực của
khủng hoảng BĐS hiện nay, đừng nhìn chỉ với con mắt tiêu cực. Sự khủng hoảng tất
yếu là cơ hội để thị trường BĐS lột xác để có một cơ thể khỏe mạnh hơn. Ý kiến của
Ts. Allan Phan có lý ở một góc nhìn khái quát nhất định. Ngược lại, Câu lạc bộ BĐS
Hà Nội thì vẽ ra một bức tranh BĐS Việt Nam toàn mầu đen như cảnh tượng con tầu
BĐS chìm sẽ kéo theo thị trường hàng hóa, vật liệu xây dựng, việc làm của người lao
động, vốn của dân, vốn của doanh nghiệp, hạ tầng kinh tế, v.v... và không thể để thị
trường BĐS rơi tự do. Ts. Phạm Sỹ Liêm thì cho rằng xin mời các nhà đầu tư cứ rơi tự
do như quy luật của thị trường.
Sự thực, trong tình trạng của thị trường BĐS nước ta hiện nay, không nên dùng
từ "giải cứu" mà chỉ nên dùng từ "tháo gỡ khó khăn cho thị trường". Về nguyên tắc,
một số nước như Mỹ, Thái Lan, Singapore trước đây cũng đã từng giải cứu thị trường
BĐS. Nhưng các quốc gia này chỉ ra tay khi thị trường BĐS tác động xấu gây nên
khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế trên tầm quốc gia, khu vực hoặc toàn
183
cầu. Họ đặt ra vấn đề giải cứu vì hệ lụy phát sinh chứ không phải vì bản thân thị
trường BĐS.
Ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ có thị trường BĐS chịu khó khăn về vốn khi Nhà
nước kiềm chế lạm phát chứ chưa nhìn thấy khả năng thị trường BĐS là ra khủng hoảng
tài chính quốc gia. Tất nhiên mới có một số ít doanh nghiệp mới bước chân vào thị
trường BĐS là gặp khó khăn thực sự. Vấn đề giải cứu chỉ được đặt ra khi sự suy biến của
thị trường bất động sản làm nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. Thị trường là một "cuộc
chơi" kinh tế, vào thị trường phải chấp nhận "luật chơi", thắng có tiền bỏ túi, thua phải
đành chấp nhận mất tiền. Hơn nữa, bao nhiêu tiền có thể cứu được thị trường BĐS và liệu
có thể giải cứu được không. Chúng ta hãy nhìn vào sự thăng trầm của thị trường chứng
khoán để tìm hành động cho thị trường BĐS.
Trước tình hình kinh tế nước ta đang gặp khó khăn, các doanh nghiệp đều rơi
vào tình trạng thiếu vốn, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày
07/01/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị
trường, giải quyết nợ xấu. Các giải pháp có liên quan tới thị trường BĐS, doanh
nghiệp BĐS bao gồm:
1. Gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng đối với
các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (sử dụng dưới 200 lao động làm việc toàn bộ
thời gian và có doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng); doanh nghiệp sử dụng nhiều
lao động (sử dụng trên 300 lao động) trong lĩnh vực xây dựng các công trình hạ tầng
kinh tế - xã hội; mọi doanh nghiệp đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua)
nhà ở.
Trình Quốc hội thông qua từ ngày 01/7/2013 áp dụng mức thuế thu nhập doanh
nghiệp 20% đối với doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ; 10% đối với thu nhập từ đầu
tư - kinh doanh nhà ở xã hội; giảm 50% số thuế giá trị gia tăng đầu ra đối với hoạt
động đầu tư - kinh doanh nhà ở xã hội; giảm 30% số thuế giá trị gia tăng đầu ra đối
với hoạt động đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua) nhà ở là căn hộ có
diện tích sàn dưới 70 m2 với giá bán dưới 15 triệu đồng/m
2.
2. Giảm tiền thuê đất năm 2013, năm 2014 đối với các tổ chức kinh tế, hộ gia
đình, cá nhân được nhà nước cho thuê đất tới mức bằng 2 lần tiền thuê đất phải nộp
của năm 2010. Cho phép nộp tiền sử dụng đất theo tiến độ thanh toán tiền bán hàng
đối với các chủ đầu tư dự án đã được Nhà nước giao đất nhưng chưa hoàn thành nghĩa
vụ về nộp tiền sử dụng đất do có khó khăn về tài chính.
3. Các ngân hàng thương mại nhà nước dành một lượng vốn hợp lý tối thiểu
khoảng 3% tổng dư nợ để cho các đối tượng được tiếp cận nhà ở xã hội và nhà ở thương
mại có diện tích nhỏ hơn 70 m2 với giá bán dưới 15 triệu đồng/m
2 với lãi suất thấp, kỳ
hạn trả nợ phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng và cho vay đối với các doanh
nghiệp xây dựng nhà ở xã hội, doanh nghiệp chuyển đổi công năng của dự án đầu tư
sang dự án nhà ở xã hội với lãi suất hợp lý và kỳ hạn trả nợ phù hợp với kỳ hạn của
nguồn vốn và khả năng trả nợ của khách hàng. Dành từ 20 - 40 nghìn tỷ đồng (con số
thực tế là 30.000) thông qua tái cấp vốn với lãi suất hợp lý và thời hạn tối đa 10 năm tùy
theo đối tượng sử dụng vốn vay để hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại của Nhà nước
để phục vụ cho vay đối với các đối tượng này.
184
4. Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân tham gia phát triển nhà ở
xã hội, có chính sách tín dụng ưu đãi để người thuộc diện được tiếp cận nhà ở xã hội
có thể tiếp cận được nhà ở xã hội.
5. Rà soát tất cả các dự án phát triển nhà ở để phân loại các dự án được tiếp tục
thực hiện, các dự án cần tạm dừng, các dự án cần điều chỉnh cơ cấu, loại hình nhà ở,
chuyển đổi sang phát triển nhà ở xã hội cho phù hợp với nhu cầu của thị trường và
nguồn lực xã hội.
Hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp bất động sản chủ động điều chỉnh hoạt động
kinh doanh, tái cơ cấu doanh nghiệp cho phù hợp, giảm giá bán, điều chỉnh cơ cấu hàng
hóa cho phù hợp với khả năng chi trả của thị trường, chuyển sang nhà ở xã hội, thực hiện
công khai, minh bạch, đúng cam kết tiến độ, tạo niềm tin với khách hàng.
Tổng kết Nghị quyết số 19/2008/NQ-QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc hội về thí
điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam để báo cáo
Quốc hội xem xét, quyết định việc mở rộng đối tượng và điều kiện mua và sở hữu nhà
ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
6. Các Bộ, cơ quan nghiên cứu để sớm hình thành các định chế tài chính mới
như dạng Quỹ Tiết kiệm nhà ở, Quỹ Đầu tư BĐS, Cơ quan tái cho vay thế chấp nhà ở,
tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn cho thị trường BĐS.
7. Rà soát, đánh giá lại nợ xấu; tiến hành phân loại các khoản nợ xấu theo loại
hình doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, đối tượng vay vốn và theo các loại tài sản bảo
đảm, nợ xấu trong bất động sản, nợ xây dựng cơ bản... và đánh giá thực trạng tài sản
đảm bảo, nguồn gốc pháp lý, giá trị thị trường, khả năng thanh khoản của các tài sản
này để có các giải pháp xử lý phù hợp với từng loại hình nợ xấu.
Chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động triển khai các giải pháp tự xử lý nợ xấu
như đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi; tiếp tục cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh
nghiệp tiếp cận được vốn vay, bán nợ xấu cho các công ty quản lý tài sản, mua bán
nợ; kiểm soát chặt chẽ và tiết giảm chi phí hoạt động để tích cực trích lập, sử dụng dự
phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; triển khai các giải pháp hạn chế nợ xấu phát sinh trong
tương lai.
Hoàn thiện Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng và Đề án thành
lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam.
Hiện nay, ngân sách xuất ra 30.000 tỷ đồng để trợ giúp vốn vay ưu đãi cho cả
người có thu nhập thấp mua nhà ở và cho cả các doanh nghiệp BĐS có nhu cầu
chuyển đổi dự án sang khu vực giá rẻ hoặc nhà ở xã hội đã được quyết định. Dự kiến
sẽ triển khai từ 15 tháng 4 nhưng phải lùi lại tới cuối tháng 5 mới có hướng dẫn cụ
thể. Trong quá trình thảo luận, tỷ lệ bao nhiêu phần trăm để trợ giúp cho cung và bao
nhiêu phần trăm để trợ giúp cho cầu cũng là một đề tài nóng. Cuối cùng, tỷ lệ 70%
cho cầu và 30% cho cung cũng đã được thống nhất giữa Bộ Xây dựng và Ngân hàng
Nhà nước.
Song song là các giải pháp về rà soát quy hoạch, rà soát dự án, loại bỏ một số dự
án và cho chuyển đổi một số dự án sang nhà ở xã hội, một số dự án được thay đổi
công năng sử dụng sang kinh doanh dịch vụ. Xa hơn là các giải pháp tài chính giải
quyết nợ xấu nói chung và nợ xấu trong BĐS nói riêng. Xa hơn nữa là các giải pháp
về đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, xây dựng và thị trường BĐS.
185
Nhìn lại nội dung của Nghị quyết 02, có thể thấy đây là gói giải pháp giúp cho các
doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính để vượt qua khó khăn, điều chỉnh lại cung
- cầu trên thị trường, giúp cho người có thu nhập thấp sớm có nhà ở và giải quyết khối
lượng vốn đang tồn đọng trong thị trường BĐS. Đây không phải là "giải cứu" thị trường
BĐS mà là sự can thiệp hợp lý của Nhà nước vào thị trường.
VI. Nhìn lại việc thực hiện các giải pháp cho thị trƣờng BĐS theo Nghị
quyết 02
Như trên đã nói rất rõ, có 2 việc phải làm cho thị trường BĐS hiện nay: một là
giải quyết kho BĐS tồn đọng để giải phóng khối lượng nợ xấu đang tồn đọng; hai là
tăng cung cho khu vực nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ để giải quyết nhà ở cho
người lao động có nhu cầu về chỗ ở. Giải pháp cho cả 2 việc này đã được đề cập khá
rõ trong Nghị quyết 02.
VI.1. Giải pháp Nhà nước hỗ trợ tín dụng với gói 30.000 tỷ đồng
Đến nay, các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa thông tin rằng tiêu chí
người thu nhập thấp chưa rõ ràng, người có thu nhập thấp đi vay tiền ở ngân hàng
cũng rất khó khăn và nguồn cung nhà ở xã hội và nhà ở thương mại giá rẻ cũng chưa
tăng được bao nhiêu. Từ đây, nhiều ý kiến hoài nghi về hiệu quả thực hiện gói trợ
giúp tín dụng 30.000 tỷ đồng. Cơ chế thực hiện vẫn là bài toán cần quan tâm hiện nay.
Một vấn đề đang tồn tại là:
1. Các quy định về mức thu nhập, việc xác nhận thu nhập và xác nhận tình trạng
thiếu nhà cho các đối tượng được mua nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ đang gặp
khó khăn, nhiều cơ quan có trách nhiệm không xác nhận với lý do không biết rõ. Với
những ách tắc này, Bộ Xây dựng đã có những hướng dẫn chi tiết: (a) mức thu nhập
thấp là mức thu nhập dưới mức chịu thuế thu nhập; (b) cơ quan sử dụng lao động có
trách nhiệm xác nhận thu nhập; và (c) diện tích nhà ở hiện tại được xác định chỉ tại
nơi đang đăng ký hộ khẩu chính thức. Trong hoàn cảnh hiện nay khi chưa có công cụ
quản lý thu nhập của người lao động tại một đất nước tiêu tiền mặt là chủ yếu và hồ sơ
địa chính về nhà đất đang được quản lý chia cắt theo địa bàn huyện, chắc cũng không
có giải pháp khá hơn so với giải pháp đưa ra của Bộ Xây dựng, mặc dù ai cũng biết
rằng các giải pháp đang hướng dẫn chưa có độ chính xác cao. Sự thực, xác định đúng
được đối tượng được hưởng ưu đãi tín dụng theo thứ tự ưu tiên là một việc bất khả thi
ở nước ta hiện nay.
2. Việc bắt người có thu nhập thấp muốn vay tiền phải chứng minh khả năng trả
nợ tại các ngân hàng thương mại đang có biểu hiện thiếu khả thi. Đã là người có thu
nhập thấp thì khó có thể chứng minh được thu nhập của mình có khả năng để ra một
phần thu nhập cho nhà ở. Tất nhiên, việc đòi hỏi của các ngân hàng thương mại là chính
đáng vì không thể để khoản tín dụng này lại rơi vào nợ xấu. Đây là những lý do chính
làm cho việc giải ngân đối với 70% gói 30 nghìn tỷ đồng trợ giúp tín dụng cho người có
thu nhập thấp mua nhà ở. Theo phương thức hiện nay - phương thức cho người nghèo
vay tiền giống như cho người giầu vay tiền (phải có tài sản thế chấp và chứng minh
được khả năng trả nợ), việc trợ giúp chỉ chỉ có thể đến với nhóm thu nhập tầng trên của
những người có thu nhập thấp. Bộ Xây dựng cũng đã có thống nhất với các ngân hàng
thương mại về việc kết hợp cho người mua nhà vay tiền với các dự án thuộc diện được
vay tín dụng ưu đãi. Đây cũng là sáng kiến giúp cho việc đẩy tiến độ giải ngân nhanh
186
hơn và chắc hơn. Tất nhiên, những sáng kiến này chưa giải quyết tận gốc bài toán cho
người nghèog vay tiền.
Ở các nước khác, người ta sử dụng cộng đồng những người có thu nhập thấp tại
một địa phương hoặc tại một nhóm cơ quan là cơ chế trợ giúp cho việc xác nhận thu
nhập, tình trạng nhà ở và khả năng trả nợ tiền vay. Bên cạnh cộng đồng này là một tổ
chức xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội tình nguyện trợ giúp cho họ. Cách trợ giúp là
tìn cơ hội tăng thu nhập, tìm nhiều nguồn trợ giúp xã hội khác và bảo đảm trả nợ từ
khoản vay cho cả cộng đồng. Ở một số nước, người ta đã áp dụng cơ chế cộng đồng
vay tiền để xây dựng nhà ở cho mình dưới sự bảo trợ của một tổ chức xã hội, họ là
người thuê nhà thầu xây dựng và họ đứng ra quản lý quá trình xây dựng.
Ngân hàng Grameen ở Bangladesh cùng với người sáng lập là Gs. Muhammad
Yunus đã được nhận Giải thưởng Nobel vì hòa bình năm 2006 do sáng kiến về cơ chế
cho người nghèo vay tiền dựa vào cộng đồng mà không cần các cơ chế vay tiền ngân
hàng như thông lệ. Vào năm 1998, Ngân hàng này cũng đã được nhận Giải thưởng
Môi trường sống Thế giới do vận hành hiệu quả Chương trình nhà ở giá thấp.
Trên thực tế, cơ chế cấp tín dụng ưu đãi cũng như việc rà soát cho chuyển đổi dự
án mới chỉ được thực hiện nhằm tăng cung cho khu vực nhà ở xã hội, nhà ở thương mại
giá rẻ, mới chỉ tác động được tới một số dự án nhà ở giá trung bình có khả năng chuyển
sang nhà ở giá thấp hoặc nhà ở xã hội, chưa động tới bản chất của khu vực nhà ở giá
cao, giá trung bình đang tồn tại và tồn đọng. Đến nay, việc tăng cung cho khu vực giá rẻ
là nhìn thấy khá rõ tính khả thi trên thực tế, nhưng việc giải quyết kho BĐS tồn đọng
vẫn chưa thấy rõ những hoạt động cụ thể. Việc chuyển đổi dự án cũng chủ yếu tập trung
vào các dự án còn trên giấy hoặc mới bắt đầu.
VI.2. Giải pháp cho khu vực BĐS tồn đọng
Giải quyết các BĐS giá cao, giá trung bình đang tồn đọng hiện vẫn đang trong giai
đoạn chuẩn bị giải pháp cụ thể. Các tổ chức, thể chế mua bán nợ xấu vẫn chưa được
thảo luận ở mức độ chi tiết, và càng chưa có chương trình cụ thể về việc thành lập công
ty quản lý tài sản tồn đọng. Việc rà soát để sửa đổi pháp luật mới chỉ đang tập trung vào
đề xuất của Bộ Xây dựng về mở rộng diện người nước ngoài được mua nhà ở tại Việt
Nam như người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng có thời hạn (hoặc hai lần 50
năm hoặc một lần 70 năm). Nội dung sửa đổi Luật Đất đai cũng chưa có điểm nhấn đối
với phát triển lành mạnh và hiệu quả của thị trường BĐS. Các luật khác còn ở vị trí xa
hơn nữa, chưa trong tầm tay với để xem xét.
1. Giải pháp mở rộng diện người nước ngoài được mua nhà ở tại Việt Nam
Ngày 03/6/2008, Quốc hội Khóa 12 đã thông qua Nghị quyết số 19/2008/QH12
về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Diện được mua nhà ở gồm: (a) cá nhân nước ngoài có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam
hoặc được thuê giữ chức danh quản lý doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam; (b)
cá nhân nước ngoài có công đóng góp cho Việt Nam; (c) cá nhân nước ngoài đang
làm việc trong lĩnh vực kinh tế - xã hội có trình độ và người có kiến thức, kỹ năng đặc
biệt mà Việt Nam có nhu cầu; (d) cá nhân nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam;
(đ) doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam theo pháp
luật về đầu tư không có chức năng kinh doanh bất động sản, có nhu cầu về nhà ở cho
những người đang làm việc tại doanh nghiệp đó ở. Các đối tượng này phải được phép
cư trú tại Việt Nam từ một năm trở lên và không thuộc diện được hưởng quyền ưu đãi,
187
miễn trừ ngoại giao. Thời hạn được sở hữu nhà ở đối với cá nhân tối đa là 50 năm, khi
hết thời hạn sở hữu thì phải bán hoặc tặng cho nhà ở đó trong thời hạn 12 tháng. Thời
hạn được sở hữu nhà ở đối với doanh nghiệp là thời hạn hoạt động đầu tư tại Việt
Nam. Nhà ở được sở hữu thuộc loại nhà chung cư và chỉ được sử dụng vào mục đích
để ở.
Ngày 18/6/2009, Quốc hội Khóa 12 cũng đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung
Điều 126 của Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai với nội dung mở rộng diện
người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Diện người
Việt Nam định cư ở nước ngoài có quyền sở hữu nhà ở bao gồm: (a) người có quốc
tịch Việt Nam; (b) người gốc Việt Nam về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, người có
công đóng góp cho đất nước, là nhà khoa học, nhà văn hoá và người có kỹ năng đặc
biệt mà Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam, người có vợ hoặc chồng
là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước; (c) người gốc Việt Nam được cơ quan
có thẩm quyền cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam. Các đối
tượng này phải được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên. Nhà ở được sở hữu
gồm cả nhà riêng lẻ gắn với đất và nhà chung cư, có thời hạn sử dụng lâu dài như
người Việt Nam trong nước.
Trước hết, quy định đối với người nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam
chỉ mang tính thí điểm và chỉ có quyền sử dụng để ở cho mình và gia đình, không có
các quyền liên quan tới giao dịch bất động sản. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
có diện được sở hữu nhà rộng hơn, loại nhà ở và thời hạn sử dụng cũng rộng hơn,
tương đương như người Việt Nam trong nước. Trên thực tế, số lượng người nước
ngoài cũng như người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam cũng
chưa nhiều. Một phần vì Việt Nam chưa tạo được niềm tin về sự ổn định pháp lý,
phần quan trọng hơn vì thủ tục làm giấy chứng nhận chủ quyền còn đang có nhiều
vướng mắc trên thực tế.
Bộ Xây dựng đã đưa ra kiến nghị sửa đổi pháp luật về nhà ở trên nguyên tắc diện
được sở hữu nhà ở cho người nước ngoài tương đương như người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, loại nhà ở cũng tương đương nhưng có thời hạn và cũng có phương án đề
xuất mở rộng quyền giao dịch BĐS.
Giải pháp này trước hết mới chỉ tính đến mở rộng cầu có khả năng thanh toán đối
với cung đang tồn đọng. Vấn đề sở hữu nhà cho người nước ngoài còn phải xem xét
nhiều mặt khác nữa như quy tắc tương đương trong ngoại giao và cơ chế quản lý hoạt
động của cư dân nước ngoài tại Việt Nam. Việt Nam chỉ có thể cho quyền công dân nước
ngoài tương đương như nhà nước đó cho quyền đối với công dân Việt Nam. Như vậy,
việc sở hữu nhà cũng cần xem xét cho từng nhóm nước theo quan hệ ngoại giao đã được
thiết lập cũng như pháp luật của nước đó. Việc tiếp theo cần làm là phải bổ sung ngay
những quy định về quản lý cư dân, cộng đồng người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam.
Thị trường BĐS Việt Nam đang thiếu vốn do nợ xấu liên quan tới các BĐS tồn
đọng. Cơ chế giải quyết kho tồn đọng này bằng nguồn vốn nào là điều cần tìm kiếm.
Khi pháp luật đã cho phép người nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam thì cơ chế
cho phép thế chấp bằng BĐS ở Việt Nam tại các ngân hàng nước ngoài cần được xem
xét để đổi mới. Đây chính là 2 vấn đề mang tính đối ngẫu về pháp lý, hoặc không thừa
nhận cả hai, hoặc cho phép cả hai. Khi cơ chế thế chấp này được pháp áp dụng thì
chúng ta sẽ khai thông luồng vốn để giải quyết các BĐS sản tồn đọng bằng cơ chế thế
chấp tại các ngân hàng nước ngoài. Nếu còn gì băn khoăn thì trước mắt, việc thế chấp
188
như vậy cần đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước về đối tượng nhận
thế chấp và Bộ Xây dựng về đơn vị BĐS đem ra thế chấp.
2. Giải pháp giải quyết BĐS tồn đọng thông qua cơ chế xử lý tài sản gắn với vốn
Việc hình thành một doanh nghiệp quản lý các BĐS tồn đọng gắn với nợ xấu đã
được đưa ra trong Nghị quyết 02 nói trên. Hình thái công ty như thế nào, cơ chế tạo
vốn để xử lý và biện pháp xử lý cụ thể vẫn chưa được đặt ra.
Trước hết, khi kiểm đếm các BĐS tồn đọng lại cho thấy có tới 2/3 là đất nền mà
chỉ có 1/3 là đất và nhà ở gắn liền. Như vậy, thông tin thực tế đã khác với tư duy trước
đây là BĐS tồn đọng chủ yếu là nhà ở đã hoàn thành. Những thông tin thực cần biết
chính xác để đưa ra quyết định xử lý gồm: (a) số lượng vốn tồn đọng là bao nhiêu,
trong đó bao nhiêu là tiền đất và bao nhiêu là nhà ở; (b) cơ cấu vốn tồn đọng như thế
nào, bao nhiêu là vốn của chủ đầu tư, bao nhiêu là vốn góp từ dân, bao nhiêu từ nguồn
tín dụng của các ngân hàng thương mại qua thế chấp, bao nhiêu là vốn đầu tư trực tiếp
từ các ngân hàng thương mại và bao nhiêu là các dạng vốn khác bị tồn đọng. Khi có
câu trả lời chính xác cho các câu hỏi trên thì mới có thể đưa ra giải pháp phù hợp.
Các giải pháp có thể cần được xem xét bao gồm: (a) nếu chủ yếu là đất nền thì
đấu giá đất nền tồn đọng là một cơ chế hiệu quả đối với đất nền ở những khu vực
thuận lợi được nhiều người quan tâm; (b) thay đổi mục đích sử dụng đất nền cho phù
hợp với những dự án đầu tư khác có tiềm lực về vốn; (c) thế chấp để tạo vốn tại các
ngân hàng nước ngoài; (d) giải pháp thành lập các doanh nghiệp quản lý BĐS tồn
đọng như trước đây vẫn nghĩ.
Các giải pháp chưa thể quyết định khi chưa có số liệu thống kê BĐS tồn đọng
chính xác và chi tiết.
VI.3. Các giải pháp khác
1. Giải pháp cải cách thực hiện thủ tục hành chính
Song song với các giải pháp trọng tâm nêu trên, Hà Nội cũng như nhiều tỉnh,
thành khác đang cho đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận cho người mua nhà ở thuộc
nhiều nhóm khác nhau. Đây là việc làm muộn so với quy định của pháp luật nhưng
thế cũng là tốt. Một mặt để thực hiện tốt nhiệm vụ hoàn thành cơ bản việc cấp giấy
chứng nhận vào cuối năm 2013, nhưng mặt khác có tác động tích cực cho việc tăng
niềm tin vào thị trường BĐS. Người bỏ rất nhiều tiền ra mua BĐS được Nhà nước bảo
hộ về tài sản thông qua việc cấp giấy chứng nhận pháp lý.
2. Các sáng kiến tăng niềm tin đối với thị trường
Hiện nay, niềm tin của người dân vào nền kinh tế cũng như niềm tin của những
người đang tham gia góp vốn đầu tư BĐS đang chưa được khôi phục. Nhiều người đã
góp vốn vào dự án đầu tư nhưng đang rơi vào hoàn cảnh chủ đầu tư không thực hiện
dự án, thậm chí dự án chưa có bảo đảm pháp lý. Người góp vốn đang rơi vào tình
trạng hoang mang và mất niềm tin thực sự vào thị trường. Việc lấy lại niềm tin vào thị
trường phải bắt đầu từ các chủ đầu tư dự án và sau đó là các cơ quan quản lý ở Trung
ương và địa phương. Đây là việc khó nhưng có thể làm được, chỉ cần các nhà đầu tư
hãy nghĩ đến thương hiệu lâu dài của mình. Trường hợp không thể giữ thì một phương
án M&A cần được xem xét và quyết định. Các cơ quan quản lý cần hướng các chủ
đầu tư tới những giải pháp lấy lại niềm tin cho thị trường.
189
Các nhà đầu tư hiện nay tiếp tục lâm vào tình trạng thiếu vốn, muốn làm nhưng
không có vốn. Khi người tiêu dùng thiếu niềm tin vào thị trường thì khó khăn do thiếu
vốn được nhân lên nhiều lần. Như vậy, giải pháp vốn là một bài toán khó trong hoàn
cảnh khó khai thác nguồn vốn trong dân do mất lòng tin vào lợi ích từ thị trường.
Chúng ta lưu ý rằng hiện nay nhiều nhà đầu tư vẫn đang huy động được vốn từ dân,
gốc của vấn đề là chữ tín của nhà đầu tư với người tiêu dùng.
3. Sửa đổi pháp luật, nâng cao chất lượng quy hoạch và tái cấu trúc thị trường
Sự trầm lắng của thị trường BĐS là một hệ quả tất yếu của quá trình phát triển đã
qua trong ngữ cảnh của nền kinh tế chuyển đổi, trong đó tính chuyên nghiệp còn rất
thiếu. Thị trường BĐS đã qua những cơn sốt nhà đất tất yếu khi chuyển từ cơ chế bao
cấp sang cơ chế thị trường. Hệ thống pháp luật của ta chưa có cơ chế điều tiết quỹ đất
khi rơi vào "sốt giá" hoặc "đóng băng". Khi "sốt giá" thì Nhà nước đưa thêm đất vào thị
trường thông qua đấu giá, khi "đóng băng" thì Nhà nước chủ động mua BĐS dư thừa từ
thị trường. Hệ thống pháp luật hiện nay mới chỉ tính đến cơ chế Nhà nước thu hồi đất
mang tính đặc trưng của cơ chế bao cấp. Công cụ pháp luật đất đai cần được đổi mới
sau cho giảm được tham nhũng và khiếu kiện của dân; công cụ pháp luật BĐS phải tập
trung vào công cụ tài chính để quản lý rủi ro cho mọi người yên tâm tham gia thị
trường.
Quy hoạch là một lĩnh vực luôn được coi là yếu kém ở Việt Nam, cụ thể gồm:
(a) mối quan hệ giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất và
quy hoạch xây dựng chưa được xác lập trong mối quan hệ hữu cơ; (b) nội dung các
loại quy hoạch còn nhiều chồng chéo, gây lãng phí và còn tồn tại quá nhiều loại quy
hoạch khác nhau; (c) phương pháp luận về quy hoạch không gian chưa được áp dụng
đầy đủ, nhất là quy hoạch sử dụng đất; (d) quy hoạch thường mang tính chủ quan hơn
là các giải pháp khả thi trên cơ sở chấp nhận thực tế.
Tái cấu trúc thị trường BĐS để có một thị trường hợp lý, tránh tư tưởng thả cho
thị trường phát triển tự do không được điều chỉnh và cũng cần tránh tư tưởng áp đặt
theo kiểu bao cấp lên thị trường. Các doanh nghiệp BĐS cần được cấu trúc lại để loại
bỏ đi kiểu kinh doanh "tay không bắt giặc". Tiêu chí của doanh nghiệp BĐS cần được
xác lập, chỉ số thị trường cần được thống kê thường xuyên. Muốn vậy, thị trường BĐS
phải bảo đảm tính minh bạch.
4. Giải pháp từ phía nhà đầu tư BĐS
Cổ nhân đã có câu "cùng tắc biến, biến tắc thông", câu này rất phù hợp với cách
hành xử đối thị trường BĐS nước ta hiện nay. Nói như vậy không có nghĩa là nhà đầu
tư ngồi chờ để thị trường BĐS "sẽ thông". Trong quy luật này đã chứa đựng nỗ lực tự
giải cứu của người trong cuộc là các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư phải tìm cách cứu
mình trước khi tính đến các khả năng trợ giúp của Nhà nước. Tại điểm trầm lắng cùng
cực của thị trường BĐS sẽ xuất hiện một thị trường BĐS mới hiệu quả hơn, phát triển
vì mục tiêu có nhà ở cho tất cả mọi người và cũng mang lại lợi ích xứng đáng cho các
nhà đầu tư.
VII. Kết luận
Sự phục hồi của thị trường BĐS phụ thuộc chủ yếu vào các chính sách của Nhà
nước, sự nỗ lực của các nhà đầu tư và niềm tin của người tiêu dùng vào thị trường. Từ
phía các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương cũng như địa phương, cần tôn trọng
nguyên tắc minh bạch và công bằng để thực hiện tốt Nghị quyết 02. Mọi tư duy về tư
190
lợi đều làm hại chung cho thị trường BĐS đang yếu ớt hiện nay. Nỗ lực tiếp theo của
các cơ quan nhà nước là sớm nhất rà soát hệ thống pháp luật, quy hoạch để tạo cơ hội
mới cho thị trường BĐS.
Tất cả mọi việc cần tập trung vào nhiệm vụ tái cấu trúc thị trường BĐS, trong đó
nhiều việc đã được đưa ra trong Nghị quyết 2 từ việc đổi mới pháp luật, thể chế tới
quy hoạch, chuyển đổi dự án, giải pháp huy động vốn, v.v. Các nhà đầu tư cũng cần
tính tới việc tái cấu trúc doanh nghiệp mình trên cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh
thông qua một lộ trình dài hạn.
Người tiêu dùng với lượng vốn ước tính khoảng 400 tấn vàng còn trữ trong dân
sẽ có vai trò rất lớn trong phục hồi thị trường BĐS nếu niềm tin được khôi phục. Bên
cạnh đó, cơ chế phù hợp để động viên vàng tham gia vào thị trường BĐS cũng cần tới
một sự khôn ngoan về chính sách. Người dân thấy có lợi là tham gia khi vàng đang
không có đường lưu thông để trở thành vốn.
Chúng ta hãy xem khủng hoảng thị trường BĐS hiện nay như đang trong cơn
đau sinh nở, một mầm non BĐS mới khỏe mạnh sắp xuất hiện. Nghị quyết 02 như
một phương án đỡ đẻ tốt, bà đỡ cụ thể là các cơ quan quản lý nhà nước và các cán bộ
quản lý nhà nước. Người đẻ chính là các nhà đầu tư BĐS cần vận dụng cao nhất sự
thông minh của người trong cuộc để "vượt cạn" dễ dàng.
191
VÌ SAO GIÁ NHÀ ĐẤT Ở VIỆT NAM CAO?
LÀM GÌ ĐỂ ĐẤT ĐAI TRỞ THÀNH NGUỒN LỰC QUÝ GIÁ CỦA QUỐC GIA?
CEO. Đặng Đức Thành
Ủy viên BCH Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam
Trong những nỗ lực đột phá chiến lược về kinh tế (3 đột phá căn bản: thể chế,
cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực), đột phá phát triển thị trường bất động sản
rất quan trọng. Khi phát triển thị trường bất động sản sẽ tác động kéo theo nhiều thị
trường phát triển, trong đó: vật liệu xây dựng, thị trường lao động, thị trường tài chính
- ngân hàng, v.v… sẽ phát triển theo. Quan trọng nhất là giải quyết công ăn việc làm
cho hàng triệu người lao động đảm bảo an sinh xã hội.
Từ nhìn nhận sự việc cần hoàn thiện thể chế; cần tập trung sớm điều chỉnh
những luật lệ còn gây ách tắc cho thị trường bất động sản phát triển ổn định và lành
mạnh. Để có thể thấy được tầm quan trọng của thị trường bất động sản cần đi sâu
nghiên cứu, phân tích: “Vì sao giá nhà đất ở Việt Nam cao? Và làm gì để đất đai trở
thành nguồn lực quý giá của quốc gia?”
I. Vì sao giá nhà đất ở Việt Nam cao?
Trong một báo cáo nghiên cứu của UBKT Quốc hội đã đưa ra ý kiến (vào đầu
năm 2013) giá nhà đất ở Việt Nam cao gấp 5 lần so với khu vực và thế giới, cao gấp
25 lần thu nhập của người dân và cao gấp 100 lần so với hơn 20 năm trước đây.
Những yếu tố tác động làm giá nhà, đất ở Việt Nam tăng cao hơn so với khu
vực và thế giới.
1. Lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng Việt Nam cao kéo dài
Năm 2010, 2011 lãi suất cho vay của ngân hàng xoay quanh 18%/năm; năm
2012 xoay quanh 15% và 3 tháng đầu năm 2013 lãi suất cho vay của hệ thống ngân
hàng xoay quanh 14%/năm, như vậy cho thấy giá lãi suất còn khá cao so với khu vực
và thế giới. Đây là yếu tố tác động mạnh nhất đối với các công ty kinh doanh bất động
sản làm chi phí tăng cao. Trong khi đó lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng khu
vực và thế giới cao nhất chỉ xoay quanh 7%/ năm.
2. Chi phí đóng quyền sử dụng đất
Để đất có thể đưa vào sử dụng, hiện nay nhà đầu tư kinh doanh bất động sản phải
đóng quyền sử dụng đất căn cứ theo Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 “quy
định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định
cư”; trong đó có phần vướng mắc rất lớn là tính quyền sử dụng đất theo giá thị trường
làm ảnh hưởng mạnh đến tăng giá cả nhà đất ở Việt Nam.
3. Chi phí “hành chính” trong quá trình xin cấp Giấy phép đầu tư xây dựng
Nhiều trường hợp xin giấy phép kéo dài từ 3 năm đến 5 năm mới hoàn thành.
Do thời gian kéo dài, cùng với nhiều loại chi phí hành chính đã góp phần làm tăng giá
cả nhà đất tại Việt Nam (đối với những dự án lớn liên quan đến đền bù đất đai, đặc
biệt kéo dài trên 5 năm).
4. Việc cấp phép đầu tư dự án bất động sản thời gian trước đây của từng địa
phương, Trung ương chưa chặt chẽ
192
Từ việc cấp giấy phép chưa chặt chẽ dẫn đến sự phát triển không nhịp nhàng,
cân xứng là một nguyên nhân quan trọng gây biến động mạnh giá cả bất động sản.
Tại các tỉnh và thành phố lớn đất đai hầu như đã bị “xí phần” bằng nhiều dự án
được cấp có thẩm quyền duyệt khác nhau; kể cả có nhiều nhà đầu tư nước ngoài (FDI)
tham gia “xí phần” với số lượng đất rất lớn, hàng trăm; hàng ngàn ha đất cho một đơn vị.
Các cấp các ngành chưa chú trọng việc kiểm tra (chưa có quy trình kiểm tra)
năng lực tài chính của nhà đầu tư.
Quy mô được cấp phép đầu tư dự án quá lớn. Nhà đầu tư thực hiện dự án kéo
dài, chậm trễ (kể cả có ý đầu cơ chia nhỏ dự án và bán dần); trong khi đó trên 500.000
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam cần đất làm văn phòng, nhà xưởng sản xuất rất
khó khăn.
Trong khi đó một số nhà đầu tư chào bán dự án với giá đẩy lên cao, hoặc bán
dưới hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài.
Đất làm sân golf, đất làm khu công nghiệp, kể cả một số khu công nghiệp được
cấp giấy phép đầu tư đã trên 4 năm nhưng số lượng nhà đầu tư vào thuê đất xây dựng
nhà xưởng rất ít. Trong số đó, có khu công nghiệp tại tỉnh Vĩnh Long, Tiền Giang, Củ
Chi (TP. HCM), Bình Thuận, Ninh Thuận, v.v… Nhà đầu tư vào khu công nghiệp
chưa được ¼ diện tích đất khu công nghiệp; trong khi đó nhu cầu đất làm nông nghiệp
thì không có (đất bỏ hoang) như thế là không cân xứng.
5. Giá cả bất động sản Việt Nam còn biến động tùy thuộc chính sách của
Nhà nước theo từng thời gian (trong đó có chính sách tiền tệ - tín dụng)
Khi Ngân hàng Nhà nước áp dụng chính sách thắt chặt tín dụng - tiền tệ, việc
huy động nguồn tiền khó khăn điều này cũng tác động một phần làm giá bất động sản
chững lại và nhiều trường hợp đẩy giá xuống. Và ngược lại, khi thực hiện chính sách
tiền tệ - tín dụng nới lỏng thì ngay lập tức tác động đến thanh khoản của nhiều thị
trường (trong đó có thị trường chứng khoán), giá bất động sản có khuynh hướng tăng
lên.
Nhà nước quản lý các tập đoàn, tổng công ty chưa chặt chẽ, đã xảy ra tình trạng
tập trung lượng tiền lớn hàng chục ngàn tỷ VNĐ đầu tư trái nghành nghề, phần lớn
đầu tư vào lĩnh vực bất động sản đẩy giá lên cao.
Chủ trương cho người dân mua nhà để ở được vay dài hạn với lãi suất ổn định
(người mua nhà lần đầu) còn chưa rõ ràng và chưa áp dụng còn gây tác động kém
thanh khoản ở thị trường bất động sản.
Tại các thành phố lớn, quy hoạch “treo” kéo dài không thực hiện gây tác động
mạnh biến động giá cả bất động sản.
6. Thông tin thị trƣờng bất động sản Việt Nam chƣa công khai, minh bạch
Nhiều ý kiến cho rằng thị trường bất động sản hiện nay tại Việt Nam là thị
trường của người bán, thông tin về quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch không được
công bố hoặc công bố không rõ ràng (chưa có quy trình, quy định công bố thông tin
quy hoạch và thông tin có liên quan đến thị trường bất động sản rõ ràng, minh bạch).
Người dân có nhu cầu cần nhà ở, đất ở, v.v… cần biết thông tin rất khó. Hầu
hết nắm thông tin không chính xác. Hệ thống cung cấp thông tin còn xây dựng chưa
hoàn chỉnh.
193
7. Nhà nước còn chưa chặt chẽ, dễ dàng cho phép nhà đầu tư kinh doanh
bất động sản mua bán, sang nhượng khi chưa xây dựng hoàn thiện căn hộ chung
cư, gây rủi ro rất lớn cho người mua nhà
Tại các nước tiên tiến như Trung Quốc, Úc, v.v… chỉ cho phép nhà đầu tư
được bán khi căn hộ đã được hoàn thiện. Khi đó, chỉ những nhà đầu tư có thực lực tài
chính mạnh mới làm được; tránh được việc “tranh mua, tranh bán”; tránh rủi ro cho
người mua nhà.
Hiện nay nhà đầu tư kinh doanh bất động sản Việt Nam chỉ cần xây dựng xong
phần móng là được quyền bán với nhiều hình thức khác nhau, kể cả việc nhà đầu tư
đem đất thế chấp ngân hàng, trong khi phần căn hộ xây dựng đất lại bán cho người mua
nhà (với hình thức góp vốn kinh doanh), toàn bộ rủi ro người mua nhà gánh chịu hết.
8. Nhà nước quản lý ngân hàng chưa chặt chẽ
Đã có nhiều trường hợp nhà đầu tư kinh doanh bất động sản vay số tiền rất lớn
hàng ngàn tỷ VNĐ đầu tư kinh doanh bất động sản, vượt gấp hàng chục lần so với vốn
tự có của đơn vị, trong số đó đa phần là công ty con, công ty cháu của ngân hàng (sân
sau của ngân hàng). Những công ty này đã dễ dàng đẩy giá cả thị trường bất động sản
lên cao với số lượng tiền rất lớn.
9. Nhu cầu mua bán, cho thuê bất động sản (nhà, đất) tại Việt Nam là nhu
cầu thật và ngày càng tăng
Cùng với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất nước trong thời gian qua Việt
Nam đã vượt qua ngưỡng các nước nghèo, bình quân theo đầu người khoảng 1600
USD/năm. Các khu đô thị mới và các khu công nghiệp mới hình thành ngày càng nhiều,
đã tạo sự dịch chuyển lao động nông thôn ra thành thị, cư dân đến ở tại khu đô thị mới
hoặc các khu công nghiệp hiện nay vẫn còn đang tiếp tục tăng mặc dù tốc độ đầu tư xây
dựng có giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến Việt Nam.
Bên cạnh đó, còn do một phần dân số Việt Nam tăng liên tục trong thời gian
hơn 10 năm trở lại đây (cả nước đã trên 90 triệu dân).
Còn do quá trình tăng trưởng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (FDI)
qua các năm tăng lên, nhu cầu nhà ở cho các chuyên gia, nhu cầu nhà xưởng cho sản
xuất ngày càng tăng góp phần làm cho thị trường mua bán bất động sản sôi động theo
từng thời gian.
10. Do không nghiên cứu kỹ thị trường và sử dụng vốn vay ngân hàng quá
mức. Nhà đầu tư kinh doanh bất động sản chạy theo lợi nhuận tập trung đầu tư
xây dựng căn hộ cao cấp từ đó gây đóng băng thị trường bất động sản
Trong khi nhu cầu thật là căn hộ giá bình dân và nhà cho người có thu nhập
thấp thị trường rất cần thì không đủ cung cấp cho thị trường. Điển hình là công ty cổ
phần đầu tư xây dựng Nam Long với dòng sản phẩm E.Hom (1,2,3…) bán rất chạy;
với giá khoảng 10 triệu đồng/m2 ,và một số công ty khác.
Bên cạnh đó là đã có thời gian (2007) hàng ngàn công ty kinh doanh bất động
sản đầu tư theo phong trào, đầu tư xây dựng căn hộ cao cấp với số lượng lớn đẩy giá
thị trường nhà đất tăng cao. Trong khi thanh khoản thị trường không có gây nợ xấu
bất động sản ngày càng tăng đến nay chưa giải quyết được.
194
Rất nhiều công ty kinh doanh bất động sản sử dụng vốn vay ngân hàng quá
mức đầu tư mang tính chất “đầu cơ” gấp hàng chục lần so với vốn điều lệ đã gây nợ
xấu BĐS, đóng băng thị trường BĐS trong thời gian qua.
**Tóm lại: Kể từ đỉnh điểm tăng giá bất động sản Việt Nam vào cuối năm
2007 đến nay, giá cả bất động sản nhà đất Việt Nam đã liên tục giảm do khách quan
và chủ quan giảm có đến hơn 50%. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đã bị
lỗ nặng thậm chí phải phá sản.
Trường hợp hiện nay mặt bằng giá cả nhà đât Việt Nam khó có thể giảm hơn
nữa. Trong trường hợp muốn cho giá nhà đất Việt Nam giảm tiếp tục phù hợp với mặt
bằng giá, Nhà nước cần điều chỉnh 8 yếu tố tác động đến giá thành đầu vào bất động
sản (trong 10 nguyên nhân tác động giá lên cao, có 8 yếu tố thuộc về tác động điều
chỉnh của Nhà nước).
II. Làm gì để đất đai trở thành nguồn lực quý giá của quốc gia?
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Khóa VII ngày 12/3/2003 về tiếp tục đổi mới
chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước đến nay tuy đã có tác động rất tích cực ban đầu trong khai thác đất đai phục
vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh lương thực, cân bằng
hệ sinh thái, bảo vệ môi trường, an ninh quốc phòng, đồng thời đóng góp nguồn thu
quan trọng cho ngân sách nhà nước. Song thực tiễn hơn 10 năm qua từ khi Nghị
Quyết đi vào cuộc sống, vẫn còn không ít những bất cập,hiệu quả kém trong công tác
quản lý và sử dụng đất đai Và vì vậy sử dụng và quản lý đất đai luôn là vấn đề nóng
bỏng trong đời sống cũng như trên các phương tiện truyền thông hiện nay.
Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội Khóa 11 thông qua và ban hành vào
ngày 26/11/2003 đã tạo cơ sở pháp quy cho việc quản lý và khai thác có hiệu quả
nguồn tài nguyên đất đai. Thế nhưng từ ấy đến nay Nhà nước vẫn chưa khai thác và
tận dụng những cơ chế đặc thù và tập trung cho việc quản lý tài sản này một cách thỏa
đáng. Việc sử dụng đất đai, giao đất, thu hồi đất không dựa trên quy hoạch dài hạn mà
bị động, chạy theo việc đã rồi hoặc bị chi phối bởi những lợi ích cục bộ địa phương,
những lạm dụng phát sinh tiêu cực. Rõ ràng là đất đai chưa được quản lý và sử dụng
như là nguồn vốn, tài sản có khả năng sinh lợi một cách hiệu quả trong phát triển
nền kinh tế quốc gia.
Trong cuộc Hội thảo“Lấy ý kiến quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế
hoạch sử dụng đất 5 năm (2011- 2015)” do Ủy ban kinh tế của Quốc hội Khóa XIII tổ
chức ngày 27/9/2011, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhiều mặt yếu kém cũng
được nêu ra:
- Chất lượng kém trong dự báo nhu cầu quỹ đất phát triển các ngành, các lĩnh
vực, các dự án đầu tư. Việc khai thác sử dụng đất ở nhiều địa phương còn chưa được
tính toán khoa học, chưa sát với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của
thị trường bất động sản. Và điều này đã dẫn đến tình trạng vừa thiếu, vừa thừa quỹ đất
và buộc phải liên tục điều chỉnh quy hoạch.
- Quy hoạch đất chủ yếu thiên về mục tiêu quản lý hành chính mà chưa tính tới
hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường, chưa phát huy được tiềm năng đất đai. Nhiều địa
phương chưa thực hiện đúng chủ trương tiết kiệm đất nông nghiệp. Trong 10 năm
270.000 ha đất lúa nước được chuyển mục đích khác trong khi diện tích này hoàn toàn
có thể bố trí trên các loại đất khác trên cùng địa bàn.
195
- Phổ biến tình trạng sử dụng không hiệu quả đất xây dựng khu công nghiệp,
khu kinh tế, sân bay, cảng nước sâu, sân golf và khu nghĩ dưỡng, v.v… Có những con
số cũng được nêu ra minh họa cho thực trạng của việc quy hoạch tùy tiện, tự phát là:
260 khu công nghiệp hiện có với 71.000 ha đất mà tỉ lệ lắp đầy chỉ đạt 46%. Với chỉ
tiêu Quốc hội cho phép giao đất là 44.000 ha vào năm 2010, thực tế các địa phương đã
giao mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp cho các doanh nghiệp lên tới
93.000ha (vượt 211,26%). Điều này cũng xảy ra với khu kinh tế, khu công nghệ cao
trên địa bàn cả nước dẫn đến tình trạng giữ nhiều đất nhưng triển khai chậm vì không
thu hút được đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu yếu kém nên không tạo được động lực
phát triển.
- Tình trạng đất đai bị “xí phần” dưới hình thức các dự án được các cấp có
thẩm quyền duyệt với hàng ngàn ha trong tình trạng xây dựng dở dang hoặc bị bỏ
hoang phế vì chưa thể triển khai được. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế, cộng thêm
việc các nhà đầu tư dự án có năng lực tài chính và trình độ chuyên nghiệp yếu kém,
chắc chắn rằng các dự án này sẽ “trùm mền” một thời gian dài với biết bao lãng phí,
thất thoát cho nguồn thu ngân sách nhà nước .
- Với đất lâm nghiệp cũng vấp phải tình trạng mất kiểm soát do việc tùy tiện
phá rừng, trồng cây công nghiệp, tình trạng chuyển đổi, mua bán rừng, đất rừng ,
tranh chấp do quản lý chồng chéo, nhập nhằng, v.v…
Trong khi đó, có nhiều nhà đầu tư có năng lực tài chính, có trình độ chuyên
nghiệp (chuyên ngành) cần đất để đăng ký đầu tư thì không còn đất tại vị trí tốt để
làm. Người dân thường xuyên bị phập phồng sợ di dời và qui hoạch treo lơ lửng, quá
bất hợp lý và phải chịu rất nhiều thiệt thòi, phiền toái do quy hoạch treo gây ra (nếu
đem đất đai, nhà cửa tại khu vực có quy hoạch treo đi cầm cố vay mượn ngân hàng sẽ
bị giảm giá trị, thậm chí không được ngân hàng chấp nhận). Tình trạng sống trong lo
sợ di dời kéo dài nhiều năm làm khổ sở, gây tâm lý bất an trong dân kể cả không dám
đầu tư sửa chữa xây dựng.
Cần công bằng và phải nhìn nhận thực tế, qua các năm trước đây khi Việt Nam
chưa gia nhập tổ chức thương mại thế giới (thời gian trước tháng 1/2007), để có thể
mời gọi được nhà đầu tư quốc tế tham gia đầu tư tại Việt Nam, đôi khi Nhà nước phải
chấp nhận những yêu cầu (cả những đòi hỏi vô lý) của nhà đầu tư; thậm chí phải dễ
dãi trong việc kiểm tra năng lực tài chính của công ty đầu tư. Nhưng đến nay, trong
thực tế đã thấy việc giao đất dễ dàng cho các nhà đầu tư “xí phần” đã gây thiệt hại rất
lớn cho phát triển nền kinh tế quốc gia. Chúng ta cần sửa đổi và quản lý chặt chẽ,
nâng cao hiệu quả sử dụng “đất đai” để “đất đai” trở thành nguồn lực thật sự cho phát
triển nền kinh tế quốc gia.
1. Phần chênh lệch do giá đất tăng cao, ai được hưởng lợi nhiều nhất?
Qua phân tích trên, đất đai không phải tự nhiên tăng giá trị và tăng giá. Nguồn
gốc chính là do nhà nước phải bỏ công sức, tiền của rất lớn để tổ chức đầu tư cơ sở hạ
tầng (kể cả tổ chức quy hoạch kêu gọi các nhà đầu tư tham gia), hàng năm nhà nước
vay ODA, và nhiều nguồn khác nhau (phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước và
quốc tế, v.v…) để đầu tư công, đầu tư cơ sở hạ tầng mức độ rất cao “Nợ công tăng từ
mức 33,8 % GDP năm 2007 lên 57,3% năm 2010; trong năm 2011 nợ công giảm
196
xuống mức 54,6% GDP”108
. Chính sự hoàn thành những công trình đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng đưa vào sử dụng đã đẩy giá trị đất, giá cả đất đai (khu vực có công trình
đầu tư) tăng cao.
Ai được hưởng lợi nhiều nhất?
Sự tăng giá trị đất, tăng giá cả đất đai đột biến đem lại phần chênh lệch siêu lợi
nhuận; nhưng do phần đất đai đã bị “xí phần” hầu hết và như vậy phần siêu lợi nhuận
này nhà nước không được hưởng. Ngoại trừ, người dân được hưởng lợi (lợi ích từ các
công trình hạ tầng được đưa vào sử dụng. Hiện nay nhà nước tổ chức thu các loại thuế
trước bạ, thuế giá trị gia tăng, thuế chuyển quyền sử dụng đất, v.v… Riêng phần thuế
để thu thêm trong phần chênh lệch siêu lợi nhuận hiện nay chưa ban hành được.
Như vậy, chỉ còn nhà đầu tư “xí phần” và những người thực sự có “đất“ sẽ là
người tham gia hưởng lợi nhiều nhất trong phần chênh lệch siêu lợi nhuận này và
cũng từ việc “xí phần” và thay đổi giá trong thực tế làm rối loạn sự phát triển của thị
trường bất động sản (giảm hẳn nguồn “cung” do các đơn vị “ôm” hàng ngàn ha đất);
khi thì sốt “nóng”, khi thì sốt “lạnh” trong thời gian các năm qua. Gọi là nhà đầu tư
nhưng thực chất đó là nhà đầu tư cơ đất.
Tóm lại, trong khi cả nước phải huy động vốn (phát hành trái phiếu Chính phủ
bằng ngoại tệ và đồng Việt Nam); vay quốc tế, bán tài nguyên, v.v… trong khi hàng
năm bội chi ngân sách quốc gia tăng lên đến mức báo động (bội chi ngân sách tăng
lên mức 5,6% GDP giai đoạn 2006-2012)109
thì nguồn “vốn” rất lớn và vô cùng quý
giá của VN hiện nay là “đất đai “ thì đa phần đã giao cho người khác nắm giữ và khai
thác.
Để minh chứng cho sự việc nêu trên, có thể dẫn ra đây trường hợp của nhà đầu
tư khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng (Nam Sài Gòn, TP. HCM). Với năng lực tài chính và
kinh nghiệm đầu tư quốc tế nhưng phải mất đến 18 năm, nhà đầu tư mới chỉ đầu tư
xây dựng được 2/3 khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng (quy mô khoảng 600 ha đất). Trong
khi đó, nhà đầu tư công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng được nhà nước giao 600 ha đất
sạch (không phải tổ chức đền bù, giải tỏa – nếu không thời gian này sẽ kéo dài thêm
nhiều năm nữa vì nhà đầu tư phải tự lo giải phóng mặt bằng).
Trên thực tế thời gian qua, trong số các dự án đã được các cấp có thẩm quyền
duyệt (kể cả cho nhà đầu tư trong nước và quốc tế); nhiều dự án chiếm hàng ngàn ha đất
vẫn chưa thể triển khai trong thời gian dài (hàng chục năm). Nhà đầu tư nếu không tính
đến việc tổ chức chia nhỏ dự án “bán” dần mà trực tiếp đầu tư, phát triển dự án theo đúng
quy hoạch thì muốn hoàn thành việc triển khai đầu tư dự án hàng ngàn ha đó sẽ mất rất
nhiều năm sau mới có thể hoàn thành (từ vài chục năm đến hàng trăm năm).
2. Đất đai trở thành nguồn lực quý giá của quốc gia bằng cách nào?
a. Đổi đất lấy cơ sở hạ tầng
Thời gian qua nhiều địa phương với sự cho phép của các cấp có thẩm quyền đã
dùng quỹ đất để đổi lấy các công trình cơ sở hạ tầng (cầu, đường, khu đô thị, v.v…)
điển hình là Thành phố Hồ Chí Minh đã giao cho công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng
108 Tr.11 Báo cáo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2012-2013 của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia tháng
12/2011. 109 Tr. 11 Báo cáo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2012-2013 của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia tháng
12/2011.
197
(đơn vị quốc tế Đài Loan) bỏ vốn đầu tư 117 km2 đường Nguyễn Văn Linh nối liền
Bắc Nhà Bè – Nam Bình Chánh, đổi lại thành phố giao cho công ty 600 ha đất xây
dựng thành khu đô thị Phú Mỹ Hưng.
Sau 18 năm đơn vị đã xây dựng hoàn thành 2/3 khu đô thị kiểu mẫu Phú Mỹ
Hưng, con đường Nguyễn Văn Linh đã đưa vào sử dụng nhiều năm nay, nhà nước thu
về ngân sách từ việc đầu tư xây dựng khu đô thị nhiều tỷ VNĐ (thu thuế trước bạ,
thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế lợi tức doanh nghiệp công ty liên doanh Phú Mỹ
Hưng, v.v…). Tuy nhiên phương thức này còn rất mới mẻ cần phải được nghiên cứu
hoàn thiện tránh những tiêu cực phát sinh từ đây.
b. Đổi đất lấy dịch vụ công
Nhà nước tổ chức cho các đơn vị trong nước và quốc tế bỏ vốn ra thi công các
công trình cơ sở hạ tầng (cầu, đường, v.v…) và đổi lại nhà đầu tư được quyền thu phí
qua lại cần đường bao nhiêu năm; điển hình là việc công ty CP Cầu Phú Mỹ đã bỏ vốn
ra đầu tư công trình cầu Phú Mỹ (Q.7, TP. HCM) và được tổ chức thu phí cầu đường
qua các năm.
c. Nhà nước thu các loại thuế
Thông qua việc cho phép các đơn vị, nhà đầu tư cá nhân tổ chức đầu tư dự án
khai thác sử dụng đất đai; khu công nghiệp; xây dựng khu đô thị, xây dựng nhà ở,
v.v… Nhà nước có thể thu các loại thuế, phí khác nhau.
Nguồn thu ngân sách từ đất đai năm 2010 đạt 67.700 tỷ VNĐ, chiếm 11,21%
tổng thu ngân sách nhà nước. Tại Hội thảo khoa học “Khai thác nguồn lực tài chính từ
đất đai và tài sản nhà nước phục vụ phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2012”
theo ý kiến của đại diện Bộ Tài chính cho biết: “Nguồn thu ngân sách từ đất còn có
thể tăng lên từ 80.000 tỷ VNĐ đến hơn 100.000 tỷ VNĐ nếu chúng ta biết khai thác
tận dụng”.
d. Khai thác nguồn lực từ quản lý tài sản nhà nước
Tài sản nhà nước gồm có những tài sản chính thông thường như sau:
- Nhà cửa
- Kho tàng
- Bến bãi, cầu đường
- Cảng biển, cảng sông …
Hiện nay Nhà nước giao phần lớn tài sản nhà nước cho Bộ, ban ngành (cơ quan
nhà nước) và các doanh nghiệp nhà nước quản lý những tài sản này. Tuy nhiên công tác
quản lý và khai thác tài sản thời gian qua còn nhiều bất cập; nhiều nơi còn để lãng phí
đất đai tài sản chưa tận dụng khai thác sử dụng có hiệu quả cao.
3. Thông qua quy hoạch cụ thể, quy hoạch chi tiết kế hoạch sử dụng đất Nhà nƣớc tổ chức đấu thầu, đấu giá quyền sử dụng đất và quyền đầu tƣ các dự án khai thác sử dụng đất đai (kể cả đất đai đã do nhà nƣớc vùng kinh phí ngân sách tổ chức đền bù giải phóng mặt bằng; và cả những dự án chƣa đền bù đất đai)
Trong thời gian qua, nhiều địa phương đã tổ chức đấu thầu, đấu giá quyền sử
dụng đất và quyền đầu tư các dự án; khai thác sử dụng các dự án đất đai và thông qua
198
đó đã thu một phần tiền rất lớn về cho ngân sách nhà nước (cả cho ngân sách địa
phương). Điển hình nhất trong việc này là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà
Nội đã từng đấu giá nhiều khu đất vàng và kết quả phần thu rất lớn; nhất là tại những
khu vực vị trí “đắc địa”. Tuy nhiên, về phương pháp tổ chức đầu thầu, đấu giá cần
chặt chẽ, mức thu chênh lệch hợp lý để tránh phản ứng phụ là “đẩy giá đất lên quá cao
so với khu vực”.
Bên cạnh đó, việc tổ chức quản lý khai thác sử dụng đất đai của nhà nước còn
nhiều bất cập; chưa tận dụng khai thác tiềm năng “đất đai” đa phần “đất đai” của
chúng ta bị “xí phần” hầu hết bằng những dự án được các cấp có thẩm quyền duyệt.
Nhiều dự án “xí phần” được duyệt hàng ngàn ha kéo dài qua nhiều năm chưa triển
khai thực hiện đã phải thu hồi; trong khi đó nhà đầu tư thật sự cần “đất” tại những vị
trí thuận lợi để đầu tư không còn chỗ.
Hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước đã nhận thức được vần đề này và đã
tích cực thu hồi các dự án; đơn cử trong này là tỉnh Tây Ninh và Long An; theo báo cáo
6 tháng đầu năm 2010, tỉnh Long An đã thu hồi 21 dự án với diện tích 1450 ha110
.
Trong đó mộ số dự án quy mô lớn đã được tỉnh xóa quy hoạch để người dân tiếp tục
canh tác nông nghiệp; trong thời gian tới tỉnh sẽ ra quyết định thu hồi tiếp tục 14 dự án
nữa với tổng điện tích 1035 ha111
theo tác giả Ngọc Lan, Thời báo Kinh Tế Sài Gòn
ngày 06/10/2011: “Phản biện những đánh giá của Chính phủ, Ủy ban kinh tế của Quốc
hội dẫn ra một số ví dụ. Trong 10 năm, có 270.000 ha đất lúa nước được chuyển cho
mục đích khác, trong khi diện tích này hoàn toàn có thể bố trí trên các loại đất khác trên
cùng địa bàn. Tại sao không làm? Hoặc như đất khu công nghiệp đạt 100% chỉ tiêu quy
hoạch, nhưng việc đầu tư lại dàn trải, hiệu quả thấp, trong khi đất cơ sở sản xuất kinh
doanh vượt cao (hon 200%).
Việc lấy đất làm các khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu cũng rơi vào
tình trạnh dàn trải, thiếu đồng bộ. Bộ kế hoạch và đầu tư cho biết tỷ lệ sử dụng đất ở
15 khu kinh tế ven biển và 28 khi kinh tế cửa khẩu đạt khoảng 15%. Trong số 59 dự
án sân golf đã được giao đất trên cả nước, có 60% diện tích đất thuộc dự án làm du
lịch sinh thái, trung tâm thương mại và đất ở, v.v…
III. Một số vấn đề cần kiến nghị sửa đổi
Để có thể biến “đất đai” trở thành nguồn lực (nguồn vốn) cho quốc gia cần thiết
phải đổi mới và nâng cao hiệu quả việc sử dụng đất đai.
1. Quy mô dự án
Do thời kỳ khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới và bất ổn kinh tế vĩ mô tại
Việt Nam kéo dài các năm; năng lực tài chính của nhà đầu tư rất khó khăn. Không nên
xét cấp đất cho một dự án trên 100 ha (trừ trường hợp đặc biệt phải có quyết định của
Thủ tướng và Quốc hội thông qua).
- Tại sao 100 ha? Đó là vì nếu lượng quá ít sẽ ảnh hưởng đến nhà đầu tư khó
khăn trong việc đầu tư đồng bộ xây dựng qui hoạch hạ tầng trong đó bố trí trung tâm
thương mại, bệnh viện, v.v…
110 Trang 11, tạp chí thị trường giá cả BĐS & tài sản, số 260 ngày 27/08/2012.
111 Trang 54, Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 6/10/2011, tác giả Ngọc Lan.
199
- Trường hợp quy mô lớn cần liên kết vùng trong quy hoạch.
- Xem xét lại việc phân cấp xét duyệt cho những dự án đầu tư sử dụng từ 50 ha
đất trở lên 100 ha; cần thiết phải tập trung về trung ương (không phân quyền cho địa
phương) và giao đầu mối cho Bộ Kế hoạch & Đầu Tư quản lý. Mục đích tránh việc
nhiều nơi; đầu tư trùng lắp, cảng biển, sân bay quốc tế, nhà máy thép, v.v… gây lãng
phí và hiệu quả đầu tư kém.
2. Quy định phí đặt cọc
Cần phải quy định “phí” đặt cọc (ký quỹ) trong việc thực hiện dự án. Mục đích
để chứng minh năng lực tài chính của đơn vị đầu tư; hạn chế các nhà đầu tư cơ hội,
đồng thời qui định rõ trách nhiệm của nhà đầu tư. Khoản phí này sẽ không hoàn lại
khi nhà đầu tư vi phạm những cam kết trong việc triển khai dự án.
3. Xem xét luật “thuế” sử dụng đất
Xem xét đề xuất luật “thuế” sử dụng đất theo hướng hàng năm thu thuế trên
diện tích đất sử dụng. Biện pháp này sẽ tăng nguồn thu cho ngân sách đồng thời hạn
chế được nạn đầu cơ, “xí phần” đất.
4. Phân cấp xét duyệt dự án
Xem xét và quy định lại việc phân cấp xét duyệt dự án đối với các tỉnh, thành
phố theo hướng tập trung về Trung ương đối với các dự án có quy mô từ 50 ha đến
100 ha, đề nghị giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm tham mưu Chính phủ duyệt cấp.
5. Năng lực tài chính nhà đầu tư
Quy định chặt chẽ việc xem xét năng lực tài chính của nhà đầu tư đồng thời
quy định kiểm tra tiến độ triển khai thực hiện.
6. Định hướng cho vay
Do nguồn tiền còn eo hẹp (trong thời kỳ khủng hoảng tài chính thế giới và bất
ổn kinh tế vĩ mô kéo dài tại Việt Nam); Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần định
hướng cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cho vay đầu tư dự án theo
hướng chỉ tập trung vốn cho những đơn vị chuyên ngành (không cho vay các đơn vị
đầu tư ngoài ngành chính) đơn vị chuyên nghiệp. Đồng thời cần cho vay đầu tư dứt
điểm từng dự án công trình tránh dàn trải.
Cần thay đổi tư duy “vay để đầu tư là vay lành mạnh”, chú trọng khuyến khích
các đơn vị sử dụng nguồn vốn tự có (vốn huy động cổ phần, vốn hợp tác, vốn phát
hành trái phiếu doanh nghiệp, v.v…) thay vì sử dụng đa phần vốn ngân hàng rất rủi
ro.
7. Đấu thầu dự án
Nhà nước thường xuyên tổ chức đấu thầu công khai minh bạch đầu tư từng dự
án (kể cả cho doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia), cả những dự án đất sạch và
dự án đất chưa đền bù (tại những vị trí thuận lợi).
8. Vấn đề tiền sử dụng đất
Cần sửa đổi Nghị định 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
13/8/2009 quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư. Trong đó vướng mắc cần sửa đổi liên quan đến vấn đề
tính tiền sử dụng đất theo “giá thị trường”. Hiện nay hàng ngàn hồ sơ nộp thuế bị ách
200
tắc và đây là một nguyên nhân quan trọng góp phần đóng băng thị trường bất động
sản.
9. Sử dụng vốn “đất” của Nhà nước
Kiến nghị quy định thành luật khoản thu thuế “vốn” là tài sản đối với các đơn
vị sử dụng vốn (là tài sản) Nhà nước hàng năm phải đóng về cho ngân sách quốc gia.
Do cơ quan thẩm định giá nhà nước quy tài sản theo giá thị trường tại khu vực.
- Kiến nghị mức thu 6% năm trên tổng vốn đơn vị nhà nước sử dụng nếu “vốn”
là tài sản (ví dụ: như đất đai, kho bãi, v.v…) nhằm mục đích nâng cao tinh thần trách
nhiệm của từng đơn vị tránh lãng phí, thất thoát.
- Sẽ có nhiều trường hợp doanh nghiệp sẽ tự trả lại vốn cho ngân sách nhà
nước. Thay vì như hiện nay, nhiều trường hợp có quyết định điều chuyển kho bãi
nhưng đơn vị cố tình trì hoãn không thực hiện quyết định bàn giao tài sản.
10. Thuế đối với cá nhân, tổ chức giữ vốn nhà đất nhiều
Nghiên cứu ban hành tính thuế lũy tiến (hình thức thuế tài sản) hàng năm, đối
với người, tổ chức giữ số lượng nhà đất nhiều (diện tích từ 1000 m2 trở lên phải chịu
thuế tài sản hàng năm, nhà từ căn thứ 3 trở lên phải chịu thuế tài sản hàng năm). Đây là
một trong những biện pháp tăng nguồn thu từ nhà, đất (bất động sản) đồng thời chính là
biện pháp hữu hiệu chống đầu cơ đất đai, bất động sản.
11. Quy định thu “lệ phí hạ tầng”
Cần ban hành quy định thu “lệ phí cơ sở hạ tầng”, thuế này chỉ những người
đầu tư kinh doanh dự án bất động sản mới phải nộp. Do Nhà nước phải tốn rất nhiều
công sức, kinh phí cho đầu tư cầu đường, cơ sở hạ tầng (trung tâm thương mại, sân
bay quốc tế, bệnh viện, trường học, v.v…); và chính những công trình đầu tư này là
một trong những nguyên nhân làm bất động sản tại khu vực đó “lên giá”. Do vậy, cần
có quy định thu “lệ phí cơ sở hạ tầng” (lấy lại một phần nhỏ địa tô chênh lệch) đối với
dự án đầu tư kinh doanh bất động sản được thụ hưởng từ đầu tư hạ tầng này.
12. Cải cách thủ tục hành chính
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm thủ tục cấp phép đầu tư xây dựng,
thời gian hoàn thành cấp phép xây dựng cho một dự án không được quá 9 tháng (quốc
tế các nước chỉ 6 tháng).
IV. Kết luận
Ngay từ khi tổ chức quy hoạch tổng thể, chi tiết cầu, đường, khu đô thị mới,
v.v… Nhà nước cần quan tâm đặc biệt đến những vị trí đắc địa, đất dọc hai bên
đường, đất tại các khu trung tâm, v.v…
Đồng thời trong quá trình triển khai tổ chức thi công ưu tiên huy động mọi
thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng; tiến hành đấu thầu công khai “đất
đai” dự án đầu tư tại những vị trí đắc địa (kể cả đất do nhà nước bỏ tiền ra đền bù giải
phóng mặt bằng và “đất” còn đang trong quy hoạch chưa đền bù giải phóng mặt bằng.
Công khai đấu thầu “đầu tư” trên từng hạn mục công trình căn cứ theo quy hoạch đã
được cấp thẩm quyền duyệt thông qua.
Toàn bộ số tiền chênh lệch (siêu lợi nhuận) do việc tăng giá trị đất, tăng giá cả
đất sẽ được thu về ngân sách nhà nước. Một phần trong nguồn thu đặc biệt này, kiến
nghị sẽ dùng để đầu tư xây dựng nhả ở cho người thu nhập thấp “thuê”, xây dựng nhà
201
ở cho người tái định cư, đảm bảo thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội của Đảng và
Nhà nước.
202
THỪA THIÊN HUẾ - NHỮNG NỖ LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Nguyễn Văn Cao
Phó Bí thƣ Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế
Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội giai đoạn 2011 - 2020 với ba khâu đột phá, gồm: (i) Hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh
bình đẳng và cải cách hành chính; (ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân,
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ; và, (iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện ba đột phá chiến
lược, tạo tiền đề tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, gắn với thực
hiện Kết luận 48-KL/TW ngày 25/5/2009 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển
Thừa Thiên Huế và đô thị Huế đến 2020, tỉnh Thừa Thiên Huế đã chỉ đạo các cấp, các
ngành bám sát Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và định hướng chỉ đạo của
Trung ương để nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội, tập trung xây dựng đồng bộ kết cấu hạ
tầng theo hướng hiện đại, đầu tư phát triển các lĩnh vực văn hóa – du lịch, giáo dục –
đào tạo, y tế chuyên sâu, khoa học công nghệ xứng tầm là trung tâm của khu vực miền
Trung và cả nước.
Trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; cuộc khủng hoảng tài chính
– tiền tệ, suy thoái kinh tế, biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh, nhưng với sự chỉ đạo
đúng đắn, kịp thời, quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh và sự nỗ lực cố
gắng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Thừa Thiên Huế, nền kinh tế - xã hội địa
phương vẫn tiếp tục phát triển ổn định. Giai đoạn 2011 – 2013, tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân đạt 10,0%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ nét theo hướng dịch vụ -
công nghiệp – nông nghiệp. Huy động vốn đầu tư tăng khá; tổng vốn đầu tư toàn xã
hội trong ba năm 2011 – 2013 đạt hơn 37 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 14,2%/năm;
trong đó, vốn ngân sách nhà nước tăng trưởng bình quân 6,4%/năm và tỷ trọng trong tổng
vôn đầu tư có xu hướng giảm (thơi ky 2006 – 2010, chiếm 38%; đến nay chiếm khoảng
34%). Thu ngân sách nhà nước đạt mức tăng bình quân 16%/năm. Thu nhập bình quân
đầu người năm 2013 ước đạt 1.673 USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 6,5%.
Sự phát triển về kinh tế - xã hội đã góp phần thay đổi diện mạo các đô thị của
tỉnh. Hạ tầng đô thị thành phố Huế, thị xã Hương Thủy, Hương Trà, thị trấn Sịa, Thuận
An, các trung tâm tiểu vùng, giao thông kết nối liên vùng được quan tâm đầu tư phát
triển; hệ thống giao thông nông thôn được kiên cố hóa. Hệ thống di tích Cố đô Huế, di
tích lịch sử cách mạng được tu bổ, tôn tạo, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
Huế - văn hóa Việt Nam, hỗ trợ phát triển du lịch và xây dựng tỉnh thành trung tâm văn
hóa – du lịch. Trung tâm giáo dục đào tạo có bước phát triển. Đại học Huế tiếp tục
khẳng định vị thế của một trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao; duy
trì và giữ vững chất lượng giáo dục phổ thông; hệ thống trường dạy nghề phát triển khá.
Mạng lưới y tế cơ sở được đầu tư hoàn thiện. Bệnh viện Trung ương Huế và Trường
203
Đại học Y Dược Huế không ngừng phát triển theo hướng chuyên sâu, kỹ thuật cao đáp
ứng yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, xứng tầm là trung tâm y tế y tế chuyên sâu
trong khu vực và cả nước. Trung tâm khoa học công nghệ phát triển theo hướng khai
thác các thế mạnh về khoa học xã hội và nhân văn, y dược, công nghệ thông tin.
Mặc dù còn nhiều khó khăn và hạn chế; song những kết quả đạt được là rất quan
trọng, đánh dấu bước trưởng thành trong công tác chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Tỉnh,
sự nỗ lực của các cấp các ngành địa phương trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, đóng góp cho những thành tựu trên còn nhờ vào sự chỉ
đạo sát sao của Trung ương; trong đó có các định hướng lớn về “ba khâu đột phá chiến
lược” được đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
Tỉnh Thừa Thiên Huế đã nghiêm túc quán triệt, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh
tế, phát triển bền vững. Theo đó, tập trung vào ba nhiệm vụ trọng tâm: tái cơ cấu kinh
tế, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng.
I. Tái cơ cấu kinh tế
Nhằm bổ trợ cho việc thực hiện khâu đột phá chiến lược hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tỉnh đã nghiêm túc triển khai thực hiện các
chỉ thị, chủ trương, chính sách của Trung ương về tái cơ cấu kinh tế; trong đó, tập trung
vào ba trọng tâm: tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng và tái
cơ cấu doanh nghiệp.
Về tái cơ cấu đầu tư công, đã thực hiện các giải pháp huy động các nguồn lực đầu
tư ngoài ngân sách nhà nước. Duy trì tỷ trọng đầu tư nhà nước hợp lý, trung bình vốn đầu
tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội112
.
Đã nghiêm túc thực hiện Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng
Chính phủ, góp phần đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý sử dụng vốn. Nguồn vốn ngân
sách nhà nước cơ bản được phân bổ và quản lý đúng mục đích, mục tiêu, nâng cao được
hiệu quả sử dụng vốn. Số chương trình, dự án giao vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2011 –
2013 như sau: Dự án hoàn thành năm 2011 là 124 dự án, năm 2012 là 98 dự án, năm
2013 là 112 dự án; dự án khởi công mới năm 2011 là 100 dự án, năm 2012 là 75 dự án,
năm 2013 là 53 dự án (trong đó chương trình mục tiêu quốc gia hỗ trợ 21 dự án). So với
thời kỳ trước khi có Chỉ thị 1792/CT-TTg, kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn ngân
sách nhà nước giai đoạn 2011-2013 có số dự án khởi công mới ít hơn và số dự án hoàn
thành nhiều hơn.
Công tác giao kế hoạch vốn đã bám sát và tuân thủ đúng quy định của Chỉ thị
1792/CT-TTg, thứ tự ưu tiên bố trí như sau: (1) các dự án đã hoàn thành và bàn giao,
sử dụng trước ngày 31/12 nhưng chưa bố trí đủ vốn; (2) các dự án dự kiến hoàn thành
trong năm; (3) vốn đối ứng cho các dự án ODA theo tiến độ thực hiện dự án. Việc
giao kế hoạch đã đảm bảo tập trung, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, không có tình
trạng nợ đọng XDCB hoặc mất khả năng kiểm soát.
Đã ban hành nhiều cơ chế chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia đầu tư trong các lĩnh vực sản xuất, phát triển hạ tầng, các lĩnh vực văn hóa
112 Tỷ trọng vốn ngân sách nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội qua các năm 2011: 31,7%; năm 2012:
31,8%; ước năm 2013: 34,6%.
204
giáo dục...113
Nghiên cứu xúc tiến các hình thức đầu tư mới như đối tác công – tư
(PPP), BOT; cụ thể: triển khai dự án mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua tỉnh theo hình
thức BOT, đăng ký danh mục dự án đầu tư theo hình thức PPP đối với một số lĩnh vực
môi trường, cấp nước, năng lượng tái tạo,…
Về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng, đã tập trung xử lý nợ xấu; tích cực
tìm kiếm các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp cơ cấu lại nợ. Nhờ đó, tỷ lệ nợ xấu trong
tổng dư nợ giảm mạnh; trong năm 2012 và những tháng đầu năm 2013, nợ xấu chiếm
trung bình 4,8% - 5% trong tổng dư nợ, song trong tháng 6/2013 tỷ lệ nợ xấu chỉ
chiếm 2,81%.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp, đã hoàn thành phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước theo các Quyết định đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thực hiện sắp xếp cổ phần hóa 117/117 doanh nghiệp; trong đó: Chuyển thành công ty
TNHH Nhà nước 01 thành viên: 11 doanh nghiệp; cổ phần hoá: 58 doanh nghiệp;
chuyển sang đơn vị sự nghiệp: 07 doanh nghiệp; sáp nhập vào doanh nghiệp nhà nước
khác: 18 doanh nghiệp; chuyển về làm thành viên Tổng Công ty: 01 doanh nghiệp; giao
cho tập thể người lao động: 06 doanh nghiệp; bán 01 doanh nghiệp; giải thể: 10 doanh
nghiệp; phá sản: 05 doanh nghiệp.
Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của đơn vị, nhờ đó, hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước và các
nguồn vốn khác trong doanh nghiệp tăng lên đáng kể. Sau sắp xếp, bộ máy quản lý
doanh nghiệp gọn nhẹ, cơ chế quản lý thông thoáng, chủ động hơn; đồng thời có sự
kiểm tra, giám sát nội bộ chặt chẽ của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và các cổ
đông. Việc chuyển sang hình thức đa sở hữu đã nâng cao vai trò làm chủ và ý thức
trách nhiệm của người lao động trong việc theo dõi, quản lý và tham gia trực tiếp vào
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà
nước, của tập thể và của người lao động, tạo ra động lực để doanh nghiệp phát triển.
Các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp được duy trì hoạt động có hiệu
quả, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đúng định hướng và chủ
trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Sau sắp xếp đến nay còn 11 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước; dự kiến tiếp tục
sắp xếp trong giai đoạn 2013 - 2015. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp nhà nước tương đối ổn định; có tăng trưởng về doanh thu, lợi nhuận, vốn chủ
sở hữu tại doanh nghiệp, thu nhập người lao động và nghĩa vụ với ngân sách nhà
nước, và không có đầu tư ra ngoài ngành nghề sản xuất kinh doanh chính. Phần lớn
doanh nghiệp có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp
sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn một số doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh với hiệu quả thấp. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
một số đơn vị chưa thật sự năng động; chưa đổi mới phương thức quản trị để nâng cao
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh.
Bên cạnh việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tỉnh chú trọng thực hiện các
chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia vào quá trình phát triển
113 Ban hành Quyết định số 01/2013/QĐ-UBND ngày 05/01/2013 về quy định một số chính sách hỗ trợ và ưu
đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 31/2013/QĐ-UBND ngày 15/8/2013 về Quy định một số chính sách
khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể
thao, môi trường trên địa bàn tỉnh
205
của địa phương; từ đó, nâng cao khả năng huy động nguồn lực ngoài ngân sách. Nhờ
đó kinh tế ngoài quốc doanh không ngừng phát triển. Đến nay, toàn tỉnh có 4.743
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, với tổng vốn đăng ký đạt 21,9 nghìn tỷ đồng; riêng
doanh nghiệp tư nhân có 2.263 doanh nghiệp, chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp
ngoài nhà nước. Kinh tế đầu tư nước ngoài được quan tâm thu hút, trở thành động lực
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương. Toàn tỉnh có 53 doanh nghiệp
FDI với tổng vốn đăng ký 1.960 triệu USD; vốn đầu tư FDI hằng năm chiếm khoảng
15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là Hợp tác
xã tiếp tục có những chuyển đổi phù hợp với tình hình mới. Toàn tỉnh hiện có hơn 257
hợp tác xã và 1 Liên hiệp hợp tác xã, thu hút gần 250.000 xã viên tham gia. Nhìn
chung, các hợp tác xã cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ xã viên; đã duy trì được các
dịch vụ bắt buộc và mở rộng các dịch vụ mang tính thị trường như thu mua, chế biến
nông sản; tín dụng nội bộ, đem lại lợi ích thiết thực cho các xã viên.
II. Phát triển nguồn nhân lực
Việc xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm giáo dục -
đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao của cả nước tạo điều kiện phát triển
nguồn nhân lực của tỉnh. Đã duy trì và giữ vững chất lượng giáo dục phổ thông;
tỷ lệ học sinh khá , giỏi, tỷ lệ tốt nghiệp THPT hàng năm kha cao . Thực hiện tốt công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên; nhơ đo, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trên 99,4%.
Cơ sơ vât chât trương hoc đư ợc cải thiện cơ bản, đã co 228/591 trường đươc công
nhân đ ạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 38,6%114
; có 214 thư viện đạt chuẩn115
, 100%
trường ở các câp học được kết nối Internet.
Công tác đào tạo nghề được quan tâm; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang
thiết bị các cơ sở dạy nghề đạt chuẩn. Hê thông trương day nghê phat triên kha vơi 05
trường trung học chuyên nghiệp, 70 cơ sở dạy nghề, 14 trung tâm ngoại ngữ,
tin học và hơn 100 cơ sở đào tạo quy mô nhỏ do tư nhân tự tổ chức. Điển hình
là Trường Cao đẳng Du lịch trở thành nơi đào nguồn nhân lực phục vụ phát triển dịch
vụ du lịch, cung cấp lao động có tay nghề khá cao không những cho tỉnh mà các địa
phương khu vực miền Trung Tây Nguyên. Năm 2013, tỷ lệ lao động được đào tạo
nghề ước đạt 50%.
Giáo dục đại học và sau đại học được ưu tiên tập trung đầu tư. Đại học Huế với
lịch sử của 55 năm xây dựng và phát triển khẳng định vị thế Đại học trọng điểm quốc
gia. Đại học Huế có 7 trường đại học thành viên, Phân hiệu Đại học Huế tại tỉnh Quảng
Trị, 5 trung tâm với 98 chuyên ngành đào tạo bậc đại học, 67 chuyên ngành đào tạo thạc
sĩ và 27 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ, 62 chuyên ngành đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp
I, cấp II, bác sĩ nội trú và 15 chương trình liên kết đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ với
các trường đại học uy tín nước ngoài. Tỷ lệ giảng viên có học hàm, học vị giáo sư, phó
giáo sư, tiến sĩ đạt gần 20% số lượng giảng viên cơ hữu, 67% giảng viên có trình độ
thạc sĩ trở lên116
. Đại học Huế đã xây dựng chiến lược phát triển giai đoạn 2011-2015
và tầm nhìn đến 2020 với mục tiêu xây dựng thành trung tâm đào tạo đại học và sau đại
học, đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao, đạt chuẩn quốc gia và khu vực; là trung tâm
114 Mầm non: 50/196 trương, Tiểu học: 120/237 trương, THCS: 51/117 trương, THPT: 7/41 trường 115 Tiểu học 154 thư viên, THCS: 51, THPT: 9 116 Năm 2012: Đại học Huế có 3563 cán bộ, viên chức, hợp đồng lao động; số lượng trí thức có học hàm, học vị
đứng thứ 3 toàn quốc với 7 giáo sư, 138 phó giáo sư, 529 tiến sĩ, 1063 thạc sĩ, 76 nhà giáo nhân dân, nhà giáo
ưu tú; thầy thuốc ưu tú.
206
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ mạnh về các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, xã hội - nhân văn, giáo dục, quản lý, nông nghiệp, y dược, kỹ thuật công nghệ
cao. Đại học Huế và các trường thành viên đã thiết lập quan hệ với gần 100 trường Đại
học, viện nghiên cứu, các tổ chức khoa học của trên 30 quốc gia trên thế giới như Mỹ,
Úc, Pháp, Thái Lan, Nhật Bản,Ý... Hàng năm Đại học Huế thu hút 95.000 sinh viên;
cung cấp lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.
III. Xây dựng kết cấu hạ tầng
Xác định tầm quan trọng của việc xây dựng kết cấu hạ tầng, đồng thời hướng đến
mục tiêu xây dựng tỉnh cơ bản đạt tiêu chí đô thị loại 1, Tỉnh đã ưu tiên nguồn lực đầu tư hạ
tầng cho đô thị Huế và các đô thị vệ tinh.
- Thành phố Huế: Được tập trung nguồn lực để đầu tư cải tạo, nâng cấp, chỉnh
trang hệ thống giao thông nội thị, vỉa hè, thoát nước, điện chiếu sáng, cây xanh...
trong các phường nội thành; xúc tiến di dời, giải tỏa, tái định cư các hộ dân sống trong
vùng bảo vệ di tích; chỉnh trang, nạo vét một số sông chính (Ngự Hà, Đông Ba, An
Cựu, hồ Học Hải...), xử lý thoát nước các điểm ngập úng. Hoàn thành xây mới cầu Dã
Viên, cầu Ga, nâng cấp hệ thống cầu qua sông An Cựu, sông Đông Ba…; hoàn thành
chỉnh trang một số đường trục chính trong thành phố Huế và một số tuyến đường đến
các điểm di tích, làng đại học... Tiếp tục đầu tư một số trục giao thông chính trong khu
đô thị An Vân Dương. Xúc tiến giải toả, chỉnh trang khu vực hai bên Quốc lộ 1A đoạn
Huế -Tứ Hạ.
Đầu tư xây dựng các khu chung cư, khu nhà ở hình thành quỹ nhà ở xã hội;
hoàn thành cơ bản xây dựng các ký túc xá sinh viên Đại học Huế, Cao đẳng Y tế, Sư
phạm... Hệ thống công sở, trụ sở cơ quan được sắp xếp, cải tạo; hoàn thành xây dựng
khu hành chính tập trung thành phố Huế.
- Thị trấn Thuận An đang được ưu tiên đầu tư xây mới, nâng cấp các công trình
hạ tầng để đạt chuẩn đô thị loại IV. Các trung tâm tiểu vùng Bình Điền, Điền Lộc,
Thanh Hà, An Lỗ, La Sơn, Vinh Thanh đang được đầu tư đạt chuẩn đô thị loại V.
- Công tác xây dựng và chỉnh trang thị xã Hương Thủy, Hương Trà, thị trấn
Phú Đa, thị trấn Sịa và các đô thị khác được đẩy nhanh. Nhiều công trình công cộng
được ưu tiên đầu tư; hạ tầng giao thông, hệ thống cấp nước, thoát nước, nâng cấp hè
phố, điện chiếu sáng... đang được ưu tiên đầu tư xây dựng. Bước đầu hình thành các
khu đô thị mới Phú Mỹ Thượng, Thủy Dương.
Hạ tầng giao thông: Đã quan tâm phát triển giao thông kết nối liên vùng; phối
hợp và hỗ trợ Bộ Giao thông và Vận tải triển khai dự án nâng cấp đường phía Tây thành
phố Huế, nâng cấp cảng hàng không quốc tế Phú Bài; triển khai các dự án đền bù giải
phóng mặt bằng trên các tuyến Quốc lộ 1A và tuyến cao tốc Cam Lộ - Túy Loan, khởi
động các dự án Nâng cấp Quốc lộ 1A, 02 hầm đường bộ Phú Gia – Phước Tượng và
chuẩn bị khởi động dự án đường cao tốc Cam Lộ - Túy Loan qua địa bàn tỉnh.
Hệ thống giao thông kết nối các đô thị được tập trung đầu tư; hoàn thành nâng
cấp, mở rộng đường vào sân bay quốc tế Phú Bài; hình thành trục kết nối Huế - Tứ Hạ
- Bình Điền (đường Tỉnh lộ 16, 12B), đường Nguyễn Chí Thanh – Quảng Điền kết nối
đô thị ven biển phía Bắc với thành phố Huế... Triển khai đầu tư trục giao thông Thuỷ
Dương - Thuận An (đã hoàn thành đoạn Thủy Dương – Tỉnh lộ 10) kết nối đô thị
Thuận An với thành phố Huế và thị xã Hương Thủy. Hoàn thành đường La Sơn -
Nam Đông giai đoạn 1. Hệ thống giao thông nông thôn được đầu tư kiên cố hóa, hoàn
207
thành một số tuyến giao thông quan trọng phá thế chia cắt ở vùng đầm phá Tam Giang
- Cầu Hai như: Xây mới Cầu Tam Giang, tuyến Phong Điền - Điền Lộc, Thuỷ Phù -
Vinh Thanh; nâng cấp Tỉnh lộ 4, Tỉnh lộ 10 C,D.
Hạ tầng thủy lợi và ưng pho biến đổi khí hậu tiếp tục được ưu tiên đầu tư. Bình
quân 1 xã có 17,5 km kênh mương thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp; trong đó
kênh mương đã được kiên cố hóa bình quân 6,5 km/xã, tỷ lệ xã có hệ thống thủy lợi
cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh 58,6%; toàn tỉnh có 284 trạm bơm nước,
bình quân 1 xã có 2,5 trạm bơm nước. Đã hoàn dự án thuỷ lợi Tây Nam Hương Trà;
phối hợp đẩy nhanh tiến độ xây dựng hồ Tả Trạch, hồ chứa nước Thuỷ Yên - Thuỷ
Cam; hệ thống đê điều, hồ chứa, đập dâng, trạm bơm được tu bổ đảm bảo an toàn
trong lũ lụt. Tiếp tục đầu tư xử lý chống xói lở bờ sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu,
bờ biển Hải Dương - Thuận An; nâng cấp hệ thống đê sông Đại Giang, đê Tây phá
Tam Giang. Hoàn thành xây dựng bến neo đậu tàu thuyến Phú Hải, tiếp tục đầu tư khu
neo đậu tránh, trú bão kết hợp bến cá Cầu Hai; hạ tầng tái định cư vùng sạt lở và lũ
quét, các công trình khắc phục hậu quả lũ lụt được ưu tiên đầu tư.
Hệ thống cấp nước sinh hoạt trong đô thị Huế và vùng phụ cận được nâng cấp,
cải tạo; xây mới hệ thống cấp nước thị trấn Phú Lộc và các xã lân cận, hệ thống cấp
nước thị trấn Phong Điền; hoàn thành lắp đặt các tuyến cấp nước tập trung vượt phá
Tam Giang – Cầu Hai để cung cấp nước cho nhân dân các xã ven biển; nâng tỷ lệ dân
số được sử dụng nước hợp vệ sinh trên toàn tỉnh lên 93%; trong đó, tỷ lệ sử dụng
nước sạch đạt 72%.
Hệ thống cấp điện: thôn, bản đã có điện lưới; tỷ lệ hộ sử dụng điện là 99,5%.
Tỷ lệ đường phố chính đô thị đã được chiếu sáng 326,24 km trên tổng số 513,67 km,
đạt 63,51%; tỷ lệ ngõ hẻm đã có chiếu sáng là 78,86 km trên tổng số 539,2 km đường
ngõ hẻm, đạt 14,6 %.
Hạ tầng xử lý chất thải: Đã hoàn thành dự án cải thiện môi trường đô thị Lăng
Cô; đang triển khai xây mới khu xử lý chất thải phía Nam thành phố Huế; triển khai
dự án Cải thiện môi trường nước thành phố Huế. Hình thành hệ thống thu gom chất
thải rắn ở các huyện, xã; cơ bản hoàn thành các công trình vệ sinh trong trường học và
một số nơi công cộng.
Hạ tầng công nghệ thông tin được chú trọng đầu tư theo hướng xây dựng Thưa
Thiên Huê thanh trung tâm CNTT manh . Tất cả các đơn vị từ tỉnh đến xã, phường đã
được kết nối Internet; 100% xã có điểm giao dịch bưu đi ện và kết nối internet. Mở
rộng diện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức ba. Đưa vào sử dụng 05 phần mềm
dùng chung trong các sở, ban ngành và địa phương. Xây dựng các cơ sở dữ liệu
chuyên ngành và từng bước khai thác, ứng dụng một số kết quả của Hệ thống thông
tin địa lý Huế (GISHue).
Hạ tầng viễn thông và truyền thông được đầu tư theo hướng cáp quang, ngầm
hóa và dùng chung hạ tầng mạng vừa đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ ứng dụng có
chất lượng cao vừa đảm bảo mỹ quan môi trường đô thị và các khu dân cư; đã hoàn
thành ngầm hóa mạng cáp viễn thông và cáp truyền hình tại trung tâm thị xã Hương
Trà và Hương Thủy.
Quá trình tái cơ cấu kinh tế, phát triển nguồn nhân lực và đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng song song với việc thực hiện Kết luận 48, “Năm Đô thị 2013” và chương trình
phát triển nông thôn mới không những hỗ trợ phát triển nền kinh tế - xã hội tỉnh mà còn
208
làm thay đổi diện mạo bộ mặt đô thị và nông thôn của tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh có 01 đô
thị loại I, 02 đô thị loại IV, 08 đô thị loại V, tỷ lệ dân cư đô thị đến năm 2013 đạt 50,05%.
IV. Một số thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2013
Việc thực hiện các khâu đột phá chiến lược của Trung ương đã góp phần hỗ trợ
nền kinh tế địa phương chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại “dịch vụ - công
nghiệp – nông nghiệp”. Đến nay, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng; tỷ
trọng ngành dịch vụ chiếm hơn 48%; tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tăng
chiếm 37,8%; tỷ trọng ngành nông lâm thủy sản chiếm 14,2%.
- Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng trên 48% GDP của tỉnh; dự ước năm 2013
chiếm tỷ trọng 50,5% GDP. Việc đầu tư xây dựng bốn trung tâm lớn về du lịch – văn
hoá, y tế, giáo dục và khoa học công nghệ càng khẳng định hướng phát triển dịch vụ
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Du lịch phát triển vững mạnh và ổn định với nhiều hoạt động văn hóa - du lịch
có quy mô và chất lượng cao được duy trì. Thành công của sáu kỳ Festival Huế năm
chẳn và các Festival Nghề truyền thống năm lẻ đã khẳng định Thương hiệu Thành phố
Huế - Thành phố Festival, khẳng định vị thế của văn hóa, du lịch Huế với bạn bè trong
nước và quốc tế. Nhiều sản phẩm du lịch mới được đưa vào khai thác và phát huy hiệu
quả; công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch và đào tạo nguồn nhân lực được
chú trọng; phát triển quan hệ hợp tác du lịch trong vùng Duyên hải miền Trung, qua
đó góp phần nâng cao vị thế của một trung tâm văn hóa - du lịch. Cơ sở hạ tầng phục
vụ du lịch phát triển nhanh, nhiều khu du lịch mới đã đi vào hoạt động (Khu du lịch
nghỉ dưỡng Laguna của Tập đoàn Banyan Tree, Khu du lịch Tam Giang (Phú Vang);
khu du lịch sinh thái Vedana Lagoon (Phú Lộc)...
Tổng lượt khách du lịch năm 2013 dự ước đạt 2,4 triệu lượt, trong đó lượt khách
lưu trú đạt 1,8 triệu lượt. Hoạt động thương mại có chuyển biến rõ rệt, kim ngạch xuất
khẩu tăng bình quân 46,9%/năm; riêng năm 2013 ước đạt 540 triệu USD, đạt bình
quân 490 USD/người gần bằng mức chỉ tiêu phấn đấu của Chính phủ giao cho các địa
phương trong Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung. Các loại hình dịch vụ vận tải, tài
chính ngân hàng có tốc độ tăng trưởng cao. Dịch vụ vận tải tăng trung bình từ 15%-
20%. Dịch vụ tài chính ngân tăng trưởng khá; hệ thống tổ chức tín dụng phát triển
mạnh, góp phần làm phong phú sản phẩm tín dụng tài chỉnh, đáp ứng nhu cầu đạ dạng
của thị trường. Hiện nay, Tỉnh đang tích cực chuẩn bị cho Festival Huế 2014: Tổ chức
tuyên truyền, quảng bá; kết nối các đối tác tham gia; khảo sát địa điểm biểu diễn và
điều kiện kỹ thuật; làm việc với các địa phương về Lễ hội dân gian cộng đồng; tổ chức
đoàn công tác làm việc với một số đơn vị tài trợ truyền thống cho Festival…
Dịch vụ y tế tiếp tục khẳng định vai trò là Trung tâm y tế chuyên sâu miền
Trung đứng đầu là Bệnh viện Trung ương Huế - một trong bốn bệnh viện hạng đặc
biệt của cả nước. Dịch vụ giáo dục được đầu tư phát triển, khẳng định truyền thống
của một vùng “đất học”. Đại học Huế tiếp tục khẳng định vị thế của một trung tâm
đào tạo đại học và sau đại học lớn ở miền Trung, một trong 14 đại học trọng điểm
quốc gia. Dịch vụ khoa học công nghệ được quan tâm đầu tư về thiết chế như: Trung
tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng; Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học
- công nghệ; đưa vào hoạt động Quỹ phát triển khoa học - công nghệ. Thừa Thiên Huế
là một tỉnh mạnh về công nghệ thông tin, tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng lĩnh vực này
phục vụ hiệu quả cho công tác quản lý điều hành cũng như phục vụ sản xuất kinh
doanh. Đến nay, 100% các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh, UBND các huyện, thị xã,
209
thành phố Huế và 152 xã, phường, thị trấn đã kết nối mạng LAN phục vụ tốt công tác
điều hành, quản lý công việc; 90% doanh nghiệp kết nối Internet. Hoàn thành việc xây
dựng hệ thống thông tin địa lý tỉnh Thừa Thiên Huế (GISHue); hoàn thành xây dựng
một số cơ sở dữ liệu chuyên để đưa vào khai thác, sử dụng trên nhiều lĩnh vực.
- Lĩnh vực công nghiệp, duy trì tốc độ tăng giá trị sản xuất 13,9%/năm; hiện
chiếm tỷ trọng 37,8% GDP của tỉnh. Các KCN, cụm CN - TTCN, làng nghề được quy
hoạch và đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Đến nay, có 78 dự án còn hiệu lực đầu tư vào các
KCN với tổng vốn đăng ký đầu tư 15.571,5 tỷ đồng; trong đó, vốn đã thực hiện 4000
tỷ đồng, bằng 26% so vốn đăng ký. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN
chiếm 37,4% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và đóng góp 60% tổng giá trị xuất
khẩu của Tỉnh. Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô đến nay đã thu hút được 32 dự án
đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký hơn 35.474 tỷ đồng (tương đương 2,22 tỷ USD);
trong đó có 10 dự án FDI với tổng vốn 21.000 tỷ đồng (tương đương 1,31 tỷ USD), 22
dự án trong nước với tổng vốn đăng ký 14.000 tỷ đồng (tương đương 0,9 tỷ USD).
Năm 2013, sản xuất công nghiệp tiếp tục còn khó khăn do ảnh hưởng bởi thị
trường tiêu thụ hàng hóa không mở rộng, sức mua xã hội giảm sút. Chỉ số sản xuất
công nghiệp (IIP) tháng 8/2013 tăng 5,77% so cùng kỳ và giảm 1,1% so tháng trước.
Tính chung 8 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 5,03% so cùng
kỳ117
. Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá như: Đá xây dựng đạt 690,2 ngàn
m3, tăng 21,2%; sợi các loại 25.828 tấn, tăng 15,4%; bia lon Huda 45 triệu lít, tăng
44%; quần áo lót 150,3 triệu cái, tăng 26,6%; bê tông tươi 67,1 ngàn m3, tăng 7,7%;
mực đông lạnh 784,6 tấn, tăng 4,2%; men frit 32,3 ngàn tấn, tăng 14,1%,... Các sản
phẩm giảm so cùng kỳ: Quặng inmenit đạt 26,3 ngàn tấn, giảm 18,2%; Quặng Zincol,
rutin 14,2 ngàn tấn, giảm 2,6%; bia chai 94 triệu lít, giảm 16,3%; xi măng 822,2 ngàn
tấn, giảm 12,7%; điện sản xuất 293,4 triệu kwh, giảm 8,8%... Từ đầu năm đến nay đã
thu hút được 8 dự án, điều chỉnh tăng vốn cho 1 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư là
1.768,5 tỷ đồng; tăng 346,5% so với cùng kỳ. Giá trị sản xuất công nghiệp 8 tháng
đầu năm ước đạt 3.626,8 tỷ đồng, giá trị xuất khẩu đạt 270,5 triệu USD...
- Lĩnh vực nông, lâm, thủy sản: Tăng trưởng sản xuất bình quân 3,8%/năm, trong
điều kiện liên tuc găp kho khăn do thiên tai , dịch bệnh là thành tựu hết sức quan trọng;
hiện chiếm tỷ trọng 14,2% GDP của tỉnh. Nông nghiệp tăng 4%/năm, thủy sản tăng
2,7%, riêng lâm nghiệp tăng 7,5%. Tiếp tục giữ ổn định diện tích trồng lúa trên 50.000
ha, trong đó có 10.000 ha lúa chất lượng cao; diện tích cây công nghiệp dài ngày gần
10.000 ha (trong đó cây cao su 9.150 ha); diện tích nuôi trồng thuỷ sản 6.000ha; diện tích
đất có rừng 297,2 nghìn ha, độ che phủ rừng đạt 57,1%. Công tác xây dựng, phát triển
nông thôn mới có nhiều chuyển biến. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chuyển
dịch nhanh theo hướng phát triển ngành nghề phi nông nghiệp; tỷ trọng lao động trong
nông nghiệp còn 35%.
Trong 8 tháng đầu năm 2013, tổng diện tích gieo trồng vụ Hè Thu đạt 31.775
ha, tăng 0,6% so với cùng kỳ; trong đó cây lúa 26.458 ha, tăng 0,5%. Uớc tính năng
suất lúa Hè Thu năm 2013 đạt 49,4 tạ/ha, giảm 6 tạ/ha, giảm 10,9% so vụ Hè Thu năm
2012, nguyên nhân do trong giai đoạn lúa làm đòng, thời tiết diễn biến phức tạp, nắng
nóng xen kẻ các đợt mưa tạo điều kiện cho rầy gây hại nặng trên diện rộng, đồng thời
117 Dự ước giá trị sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2013 theo giá cố định 1994 ước đạt 5.768,6 tỷ
đồng(117), tăng 6,2% so cùng kỳ.
210
khi lúa trổ đại trà gặp thời tiết xấu nên tỷ lệ lúa lép hạt cao. Các địa phương đang tích
cực triển khai các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh; công tác tiêm phòng gia súc, gia
cầm vụ Thu tiếp tục được triển khai đạt 50-55% diện tiêm. Trồng rừng tập trung ước
đạt 1.429 ha, giảm 4,2% so cùng kỳ; khai thác gỗ ước đạt 151.210 m3 gỗ quy tròn,
tăng 2,8%, trong đó khai thác gỗ rừng trồng 149.379 m3, tăng 3,1%;... Tình hình vi
phạm quy định quản lý bảo vệ rừng 8 tháng đầu năm có 405 vụ vi phạm về quản lý,
bảo vệ rừng, giảm 44 vụ, giảm 9,8%. Tổng diện tích nuôi trồng 8 tháng đầu năm đạt
6.326 ha, tăng 4,9% so cùng kỳ; sản lượng nuôi trồng ước đạt 7.930 tấn, tăng 4,5%;
sản lượng khai thác ước đạt 24.017 tấn, tăng 3%; trong đó khai thác biển 21.398 tấn,
tăng 3,4%, khai thác sông đầm 2.619 tấn, giảm 0,1%...
- Về lĩnh vực văn hóa: Nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn của Đất nước, của Tỉnh và
mừng Xuân Quý Tỵ nhiều hoạt động văn hóa thể thao được tổ chức rộng khắp, tiêu biểu
như: kỷ niệm 83 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản, 38 năm ngày giải phóng Thừa
Thiên Huế, 123 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, chương trình nghệ thuật đêm
Giao Thừa ... Đăng khai tổ chức nhiều cuộc thi, liên hoan thu hút lượng lớn khán giả,
như: Hội thi "Tiếng hát dòng Hương" lần thứ nhất, Liên hoan dân ca khu vực Bắc Trung
bộ, Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc miền núi tỉnh... Trong khuôn khổ
Festival Nghề truyền thống Huế 2013, đã có nhiều hoạt động đặc sắc như: Triển lãm 80
mẫu dệt may độc đáo của 5 châu lục, không gian thư pháp Huế, hội đua thuyền... góp
phần xây dựng thương hiệu Thành phố Huế - Thành phố Festival. Công tác bảo tồn, phát
huy giá trị di sản văn hóa dân tộc được tập trung. Tiếp tục công tác trùng tu tôn tạo hệ
thống Kinh thành Huế118
; chống mối Làng cổ Phước Tích, chống xuống cấp các di
tích lịch sử cách mạng... Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
được duy trì; toàn tỉnh có 1.398 làng, thôn, bản, tổ dân phố được công nhận đạt chuẩn
văn hóa, đạt tỷ lệ 93,4% so với số lượng đăng ký. Thiết chế văn hóa cơ sở đang được
cải thiện; toàn tỉnh có 670 nhà sinh hoạt cộng đồng trong tổng số 1.530 làng, thôn,
bản, tổ dân phố (tỷ lệ 43,8%); 50 nhà văn hóa xã, phường trên tổng số 152 xã, phường
(tỷ lệ 32,9%).
- Hoạt động tài chính: Tổng thu ngân sách 8 tháng đầu năm ước đạt 3.125,7 tỷ
đồng, bằng 65,7% dự toán năm, bằng 91,3% so cùng kỳ; trong đó thu nội địa 2.533,9
tỷ đồng, bằng 65,2% DT, tăng 3,6%. Trong tổng thu nội địa: Thu doanh nghiệp nhà
nước Trung ương đạt 99,8 tỷ đồng, bằng 58,7%DT, tăng 15,7% so cùng kỳ; thu doanh
nghiệp nhà nước Địa phương 172,8 tỷ đồng, xấp xỉ cùng kỳ, bằng 54%DT; thu DN có
vốn đầu tư nước ngoài 939,2 tỷ đồng, xấp xỉ cùng kỳ, bằng 66%DT; thu ngoài quốc
doanh 452,2 tỷ đồng, bằng 68,5%DT, tăng 41,8%; thu thuế xuất nhập khẩu, thuế
TTĐB 341,5 tỷ đồng, bằng 59,9%DT, tăng 12,8%. Tổng chi ngân sách địa phương
ước đạt 4.217,5 tỷ đồng, bằng 60,4%DT, tăng 14,5%. Tổng nguồn vốn huy động của
các ngân hàng đến cuối tháng 8/2013 ước đạt 19.850 tỷ đồng, tăng 6,6% so với đầu
năm và tăng 1,1% so với đầu tháng; tổng dư nợ cho vay ước đạt 15.600 tỷ đồng, tăng
8% so với đầu năm và tăng 1,5% so với đầu tháng. Nợ xấu đến cuối tháng 8/2013 ở
mức 432 tỷ đồng; chiếm 2,77% trong tổng dư nợ.
- Tình hình đầu tư xây dựng: tổng vốn đầu tư trên địa 8 tháng đầu năm ước đạt
9.142 tỷ đồng, bằng 63% kế hoạch năm, tăng 6,2% so cùng kỳ; trong đó vốn Trung
ương quản lý 1.873 tỷ đồng, bằng 65,4% KH, tăng 63,8%, chiếm 20,5% tổng vốn; vốn
118 Các công trình được trùng tu: Thái Bình Lâu, Lăng Đồng Khánh, Lăng Gia Long, Đông Khuyết đài...
211
Địa phương quản lý 7.269 tỷ đồng, bằng 62,5% KH, bằng 97,4% so cùng kỳ, chiếm
79,5%. Trong tổng vốn đầu tư: vốn thuộc ngân sách nhà nước đạt 2.323,1 tỷ đồng,
bằng 65,9% KH, bằng 95,5% so cùng kỳ năm trước, chiếm 25,4% tổng vốn; vốn tín
dụng 3.166,8 tỷ đồng, bằng 63% KH, tăng 32,7%, chiếm 34,6%; vốn đầu tư của
doanh nghiệp 1.194,2 tỷ đồng, bằng 68,7% KH, tăng 37,9%, chiếm 13,1%; vốn viện
trợ 504,9 tỷ đồng, bằng 71,3% KH, bằng 96,7% so cùng kỳ, chiếm 5,5%; vốn đầu tư
nước ngoài 980 tỷ đồng, bằng 50,3% KH, bằng 64,8%, chiếm 10,7%. Bên cạnh nguồn
vốn ngoài nhà nước thuộc các dự án đầu tư của doanh nghiệp trong 8 tháng đầu năm
2013 được đẩy nhanh vượt tiến độ đề ra như: Dự án nâng cấp xây dựng Cảng Hàng
không Phú Bài, Nhà máy xi măng Đồng Lâm… thì nhiều dự án nguồn vốn ngân sách
nhà nước thực hiện tiến độ chậm so với kế hoạch như: Chỉnh trang mở rộng đường
Điện Biên Phủ, đường nối Phạm Văn Đồng đến đường Thủy Dương-Thuận An, cầu
Tây Phú Phong Điền, tuyến đường chính trong khu quy hoạch An Đông…
- Tình hình phát triển doanh nghiệp đã có dấu hiệu khả quan, trong tháng
8/2013 có 43 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 43% so tháng 8/2012, với
tổng vốn đăng ký 90 tỷ đồng, tăng 38,6%; nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký mới từ
đầu năm đến nay đạt 289 doanh nghiệp, giảm 4,3% so cùng kỳ với tổng vốn đăng ký
1.112,8 tỷ đồng, giảm 0,76%.
- Về quản lý tài nguyên môi trường: Hỗ trợ các địa phương lập Quy hoạch sử
dụng đất. Đẩy nhanh và hoàn thành cơ bản việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất vào năm 2013 theo Chỉ thị số
50/2012/CT-UBND ngày 28/12/2012; tính đến cuối tháng 8/2013 tỷ lệ diện tích được
cấp Giấy chứng nhận đối với các tổ chức đạt 56,7%; hộ gia đình, cá nhân đạt 66,8%.
Đã duy trì các chuyên mục bảo vệ môi trường trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Công tác kiểm tra và xử lý vi phạm môi trường trên địa bàn được tăng cường.
Trong tháng 8/2013 đã kiểm tra và phát hiện 18 vụ vi phạm về môi trường với 20 đối
tượng vi phạm, đã xử lý 18 vụ với tổng số tiền xử phạt trên 57 triệu đồng. Tính từ đầu
năm đến nay, phát hiện 129 vụ vi phạm về môi trường, đã xử lý 125 vụ với tổng số
tiền hơn 304 triệu đồng.
Nhìn chung, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, kinh tế - xã hội của tỉnh năm
2013 dự kiến không đạt được kế hoạch ở một số chỉ tiêu song vẫn có kết quả khá.
Việc tiếp tục thực hiện “Năm Đô thị - 2013” và Kết luận 48-KL/TW ngày 25/5/2009
của Bộ Chính trị đã góp phần cải thiện đáng kể bộ mặt các đô thị. Hoạt động du lịch
tăng là nỗ lực lớn trong điều kiện sân bay đóng cửa. Sản xuất nông nghiệp ổn định;
năng suất, sản lượng lúa Đông Xuân cao nhất từ trước đến nay. Kim ngạch xuất khẩu
tăng khá cao so kế hoạch đề ra. Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thông tin và
truyền thông… phát triển tốt. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội cơ bản được bảo đảm.
Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định.
IV. Một số nhiệm vụ trọng tâm 2014 và 2015
Bước sang năm 2014 và năm 2015 là những năm hết sức quan trọng trong tiến
trình xây dựng tỉnh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, Tỉnh sẽ tiếp tục kiên
định thực hiện những sách lược đổi mới của Trung ương, của Chính phủ. Mặt khác
tiếp tục nỗ lực xây dựng và phát triển hệ thống đô thị; phát triển kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng lấy dịch vụ làm nòng cốt; chú trọng thay đổi cơ cấu nội
ngành của từng khu vực theo hướng nâng cao chất lượng và có hàm lượng công nghệ
cao.
212
Phát triển các ngành dịch vụ có lợi thế, nhất là các lĩnh vực du lịch, y tế, giáo
dục, văn hóa, tài chính, viễn thông... phấn đấu giá trị các ngành dịch vụ tăng bình
quân 13 – 14%/năm. Liên kết các địa phương trong vùng, phát triển du lịch thành
ngành kinh tế mũi nhọn. Hỗ trợ nhà đầu tư sớm đưa các dự án du lịch vào khai thác sử
dụng. Tiếp tục kêu gọi đầu tư khai khai thác tuyến du lịch sinh thái biển – đầm phá.
Tổ chức tốt các Festival Huế năm chẵn và Festival nghề truyền thống năm lẻ. Tuyên
truyền quảng bá, mở rộng liên doanh, liên kết trong phát triển du lịch để tạo lập, mở
rộng tour, nối tuyến, thu hút khách và phát triển thị trường. Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực du lịch thông qua xã hội hoá hoạt động đào tạo và mở rộng các hình
thức liên kết đào tạo.
Phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại gắn với bảo vệ tài
nguyên và môi trường. Khuyến khích, vận động đầu tư vào các ngành công nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến tinh, các lĩnh vực công nghệ thông tin, sinh
học, điện tử, vật liệu mới, các ngành có lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ “sạch”,
hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Hỗ trợ phát triển nghề và làng nghề gắn với phát triển
du lịch và xuất khẩu, tận dụng nguồn nguyên liệu và nguồn nhân công tại chỗ. Xây
dựng các khu, cụm công nghiệp, các làng nghề gắn với quá trình đô thị hóa và bảo vệ
môi trường. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp -
TTCN và làng nghề trở thành các trung tâm thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiến
bộ khoa học. Phấn đấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng tăng bình quân 16
- 17%/năm.
Phát triển nông nghiệp toàn diện gắn với xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ ứng
dụng, chuyển giao khoa học, tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Thực hiện đề
án “cánh đồng mẫu lớn”; khôi phục và phát triển nghề, làng nghề; tạo chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở khu vực nông thôn. Đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng kỹ thuật ở khu vực nông thôn theo quy hoạch; phấn đấu đến năm 2015 có 28 xã
đạt tiêu chí nông thôn mới.
Về nhiệm vụ xây dựng và phát triển đô thị, tiếp tục quán triệt Kết luận 48-
KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 04-NQ-TU của Tỉnh ủy về Xây dựng Thừa
Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, các Nghị quyết chuyên đề của
Tỉnh ủy, các Chương trình và Kế hoạch hành động của UBND tỉnh đến cán bộ, đảng
viên, nhân dân, tạo quyết tâm phấn đấu để hoàn thành cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu xây
dựng và phát triển Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Tập trung
hoàn thành các quy hoạch, đề án phân loại, phân cấp đô thị; trong đó, chú trọng báo cáo
Chính phủ, Bộ Chính trị và Quốc hội thông qua Đề án đề nghị công nhận Thừa Thiên
Huế là đô thị loại I và Đề án thành lập thành phố Thừa Thiên Huế trực thuộc Trung
ương.
Tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đạt chuẩn đô thị, trong đó ưu
tiên: một số tuyến giao thông kết nối đô thị động lực và các đô thị vệ tinh; đầu tư, nâng
cấp, chỉnh trang hệ thống giao thông nội thị TP.Huế và các đô thị Hương Thủy, Hương
Trà, Thuận An, Bình Điền; đôn đốc đẩy nhanh các công trình công cộng; phát triển hệ
thống cây xanh khu vực nội thị các đô thị, cây xanh trên các trục đường, quảng trường,
các vườn hoa, công viên; tạo thêm các điểm xanh trong các khu vực đô thị; hoàn thành
các dự án chỉnh trang hai bên tuyến Quốc lộ 1A, Quốc lộ 49A; chỉnh trang, nạo vét các
sông hồ..., tạo sự thay đổi rõ về cảnh quan, môi trường ở các khu vực đô thị.
213
Xây dựng môi trường văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc và bản sắc văn hoá Huế gắn
với bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống; nghiên cứu, từng bước hoàn
thiện bản sắc văn hoá, đặc trưng văn hoá Huế; nâng cao chất lượng và hiệu quả các kỳ
Festival, tăng cường các hoạt động đối ngoại để quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam,
văn hoá Huế. Hỗ trợ xây dựng các thiết chế của trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực,
chất lượng cao; tiếp tục cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất mạng lưới trường phổ thông đạt
chuẩn Quốc gia. Hỗ trợ xây dựng các thiết chế của Trung tâm Y tế chuyên sâu; tiếp tục
đầu tư hoàn thiện cơ sở vất chất bệnh viện tuyến huyện, trạm y tế xã. Chú trọng xây
dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học - công nghệ; mở rộng hợp tác quốc tế
trong nghiên cứu khoa học - công nghệ; xúc tiến xây dựng khu công nghệ cao Thừa
Thiên Huế và tìm nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất Bảo tàng thiên nhiên Duyên
hải miền Trung.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ của các Ban, Bộ, ngành
Trung ương, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết tâm nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, tạo thêm thế và lực mới để “xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố
trực thuộc Trung ương, là trung tâm của khu vực miền Trung và một trong những trung
tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hoá, du lịch, khoa học và công nghệ, y tế chuyên
sâu và giáo dục - đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao”, góp phần vào tiến
trình xây dựng và phát triển đất nước hướng đến mục tiêu “Cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
214
PHẦN 2:
TRIỂN KHAI CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƢỢC
215
TỔNG QUAN VỀ CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƢỢC TẠI VIỆT NAM
PGS.TS. Lê Xuân Bá
Viện trƣởng Viện NCQLKTTW
Đặt vấn đề
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Việt
Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là
những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn
cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện, đạt bước
phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh,
đạt tốc độ bình quân 7,2%/năm. Năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu
người đạt 1.200 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Việt Nam tiếp tục
đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo. Công
tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả góp phần tạo môi
trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế
phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Huy động và
hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào
các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các
lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt còn bức xúc. Môi trường ở
nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân
lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt
Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ.
Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ
quyền quốc gia.
Nguyên nhân của những hạn chế chủ yếu là yếu tố chủ quan như tư duy phát
triển kinh tế - xã hội và phương thức điều hành chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu
cầu phát triển đất nước. Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực
còn bất cập. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế. Tổ chức
thực hiện còn nhiều yếu kém, chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết
có hiệu quả những khâu đột phá, then chốt.
Do vậy, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 với các đột phá chiến lược sau:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm
là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
- Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới toàn diện nền giáo dục quốc dân.
216
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại,
tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
I. Khái quát một số nội dung chính của các đột phá chiến lƣợc
1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính
Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách để các loại thị trường hàng hóa, dịch
vụ, tài chính, chứng khoán, bất động sản, lao động, khoa học công nghệ được tạo lập
đồng bộ và vận hành thông suốt, có tính cạnh tranh cao và gắn kết ngày càng tốt hơn
với thị trường thế giới, được quản lý và giám sát hiệu quả. Quá trình tạo lập đồng bộ
thể chế kinh tế thị trường phải gắn liền với việc hạn chế tối đa độc quyền kinh doanh
trên các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế. Xác định rõ những ngành nghề mà tính độc quyền còn cao để
có chính sách và giải pháp phù hợp, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia kinh
doanh. Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, đặt doanh nghiệp nhà nước vào
môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, loại bỏ các hình
thức ưu đãi và bao cấp còn tồn tại trên thực tế; minh bạch hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước theo các tiêu chí của doanh nghiệp đăng ký trên thị trường chứng khoán.
Đổi mới cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
theo hướng cơ quan hoạch định chính sách không đồng thời thực hiện chức năng chủ
sở hữu doanh nghiệp.
Tiến hành cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các nội dung:
thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính và tài chính công gắn với một hệ thống
phân cấp hợp lý, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng quản trị công - một trong những
điểm yếu trong quản lý ở nước ta. Nâng cao tính minh bạch và khả năng dự đoán của
chính sách để vừa giảm thiểu sự bất định, độ rủi ro đối với nhà đầu tư, vừa tránh đầu
cơ, ngăn chặn tham nhũng và giảm các chi phí giao dịch cho doanh nghiệp. Tăng
cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp vào quá trình xây dựng chính sách
và thể chế; đề cao vai trò phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình của các cơ quan
quản lý trong việc hoạch định chính sách và đánh giá hiệu quả thực thi.
Thay đổi tư duy và cách tiếp cận khi xác định vai trò của nhà nước và mối quan
hệ giữa nhà nước và thị trường. Chuyển mạnh từ nhà nước điều hành nền kinh tế sang
nhà nước kiến tạo phát triển trong đó nhà nước kiến tạo phát triển, chức năng của nhà
nước là xây dựng quy hoạch phát triển theo một chiến lược công nghiệp hóa hiện đại
hóa đúng đắn; tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi
tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; tăng cường giám sát để
phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn hệ
thống.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng rộng
mở và hiệu quả, hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế, bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả của tăng
trưởng.
2. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng
cao, tập trung vào việc đổi mới toàn diện nền giáo dục quốc dân.
Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...; gắn
kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
217
là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững. Đây là khâu quan trọng nhất trong ba khâu đột phá, có
vai trò chi phối việc thực hiện các đột phá khác, vì chính con người tạo ra và thực thi
thể chế, xây dựng bộ máy, quy hoạch và phát triển kết cấu hạ tầng.
Phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị
doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển
của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở
sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu
xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các
ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài;
đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
Xây dựng và triển khai chương trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý là khâu then chốt. Đặc biệt coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục
vụ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Lấy nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo làm trục xoay chính, kết hợp với mở rộng quy mô hợp lý. Quan tâm
giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập
nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính; thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở
tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa
nhà trường với gia đình và xã hội.
Điểm nhấn trong khâu đột phá chiến lược này là đặt việc phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát triển và ứng
dụng khoa học công nghệ. Điều này thể hiện tính hướng đích của sự phát triển khoa
học, công nghệ, bảo đảm chuyển tiềm năng trí tuệ của nguồn nhân lực thành những
thành quả ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ - động lực then chốt của quá
trình phát triển nhanh và bền vững.
Trọng tâm hoạt động khoa học công nghệ hướng vào phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, góp phần tăng nhanh năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có cơ chế, chính sách khuyến khích
các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, ưu tiên sử dụng các công nghệ tiết kiệm nguyên
liệu, năng lượng, thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế xanh.
3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Xây dựng kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại,
tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn là một khâu đột phá. Để thực
hiện tốt đột phá này, cần thay đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu
tiên đến phương thức huy động nguồn lực và thủ tục triển khai dự án.
Xây dựng quy hoạch theo sự phân bố lực lượng sản xuất và bố trí dân cư gắn
với quá trình đô thị hoá trên tầm nhìn cả nước. Nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng ở
các địa phương là rất lớn. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, quyết định đưa ra không
dựa trên nhu cần mà phải lựa chọn cái tốt nhất có thể nhằm giải tỏa nhanh các điểm
nghẽn vận tải, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, trong thời gian ngắn nhất. Theo
218
đó, việc phát triển kết cấu hạ tầng giai đoạn 2011 - 2015 sẽ thực hiện theo định hướng
sau:
- Tập trung đầu tư tuyến đường bộ Bắc - Nam. Ưu tiên phát triển hệ thống giao
thông ở những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, các địa bàn thuộc các cực tăng
trưởng, kết nối với các vùng miền, với khu vực và quốc tế, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh,
thúc đẩy tăng trưởng của cả nước. Hiện đại hóa và nâng cao năng lực các dịch vụ tổng
hợp của 3 cảng biển lớn ở 3 khu vực: Hải Phòng, TP.Hồ Chí Minh - Vũng Tàu và
Miền Trung; hình thành các trung tâm kinh tế biển lớn. Gắn việc phát triển kết cấu hạ
tầng trong nông nghiệp nông thôn với chương trình xây dựng nông thôn mới; quan
tâm giải quyết những yêu cầu bức xúc về sản xuất, lưu thông hàng hóa, đi lại, phòng
chống lũ quét trên địa bàn miền núi và vùng đồng bào dân tộc.
- Tập trung nâng cấp, phát triển đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống hạ tầng các
đô thị lớn gắn với bố trí, cơ cấu lại sản xuất và phân bố dân cư. Phát triển nhanh hệ
thống giao thông đô thị, nhất là giao thông công cộng. Tập trung giải quyết nạn ùn tắc
và úng ngập ở Thủ đô Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh.
- Phát triển nhanh hệ thống nguồn và truyền tải điện đi đôi với sử dụng công
nghệ tiết kiệm năng lượng, bảo đảm đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển của đất
nước và đời sống nhân dân.
- Phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thuỷ lợi, chú trọng xây
dựng và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, các công trình ngăn mặn và
xả lũ. Xây dựng các công trình phòng tránh thiên tai, các khu neo đậu tàu thuyền để
giảm nhẹ thiệt hại cho nhân dân. Hiện đại hoá ngành thông tin - truyền thông và hạ
tầng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu phát triển và góp phần nâng cao năng suất
lao động.
Cần tập trung hơn nữa hoàn thiện cơ chế, chính sách đầu tư trong đó tập trung
hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực, các quy định về thủ tục đầu tư và mua sắm
công, huy động ngày càng nhiều đầu tư của xã hội cho phát triển kết cấu hạ tầng, đẩy
mạnh xã hội hóa việc đầu tư, thực hiện đa dạng hoá hình thức đầu tư, khuyến khích và
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài tham gia phát triển
kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện các phương thức đầu
tư hiệu quả như xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao
(BT), nhất là phương thức hợp tác công - tư (PPP), đồng thời tiếp tục nghiên cứu, tiếp
thu kinh nghiệm quốc tế xây dựng các cơ chế, chính sách mới phù hợp, đồng bộ để
phát triển hạ tầng.
Đổi mới quy trình và thủ tục đầu tư nhằm vừa đẩy nhanh tiến độ triển khai dự
án vừa tăng cường chất lượng thiết kế thi công, tăng cường công tác giám sát, bảo
đảm chất lượng công trình và hiệu quả đầu tư.
II. Đánh giá việc thực hiện các đột phá chiến lƣợc
1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính
a. Các kết quả đạt được
- Thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện
+ Hệ thống văn bản liên quan đến thể chế kinh tế tiếp tục được bổ sung và hoàn
thiện
219
Một trong các nhiệm vụ quan trọng nhất được tiến hành là tổng kết thi hành
Hiến pháp 1992 và xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, trong đó có rất nhiều nội
dung liên quan đến việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta như tổ chức bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương, xác định vai
trò của các thành phần kinh tế.
Bên cạnh đó, một trong các nhiệm vụ quan trọng tiếp tục được ưu tiên thực
hiện là đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng xây dựng các luật, pháp lệnh cũng
như hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành. Thời gian qua, chất lượng chuẩn bị các
dự án luật, pháp lệnh đã được cải thiện. Trong các kỳ họp Quốc hội các năm 2011 -
2013 Quốc hội khóa XIII đã thông qua 35 luật, trong đó có khá nhiều luật liên quan
đến hoàn thiện thể chế kinh tế119
.
Các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các
luật và pháp lệnh đã từng bước được nâng cao chất lượng và trình đúng thời hạn, tình
trạng “nợ” nghị định hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã giảm đến mức thấp nhất so
với 10 năm trở lại đây, khắc phục một bước khá cơ bản việc luật phải chờ văn bản
hướng dẫn mới đi vào cuộc sống.
+ Tiếp tục phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục thực hiện chủ trương điều chỉnh giá các loại hàng hóa quan trọng như
điện, xăng dầu, than... và các dịch vụ công về giáo dục, y tế theo cơ chế thị trường với
lộ trình phù hợp cùng các biện pháp tuyên truyền, tránh gây tác động xấu đến thị
trường và tâm lý nhân dân... Tăng cường thể chế phục vụ hội nhập quốc tế như đàm
phán Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), các hiệp định
thương mại tự do đa phương và song phương.
+ Chế độ công chức, công vụ tiếp tục được cải cách:
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chế độ công chức, công vụ đáp ứng yêu cầu xây
dừng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức thực sự là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước,
sau khi Quốc hội khóa XII thông qua Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức, các
văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện Luật Cán bộ,
công chức và Luật Viên chức đến nay cơ bản đã hoàn thành.
Để xây dựng một nền công vụ “Chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh
bạch, hiệu quả”, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày
18/10/2012 phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức” và hiện
đang được tập trung triển khai thực hiện. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện các Đề án: “Thí
điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng”, “Tinh giản biên chế và cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức”, “Thí điểm thực hiện chế độ thực tập và tập sự lãnh
đạo, quản lý”... để trình Bộ Chính trị, ban Bí thư đảm bảo chất lượng và tiến độ.
Công tác quản lý cán bộ, công chức tiếp tục được đổi mới, kỳ thi nâng ngạch
công chức từ chuyên viên lên chuyên viên chính, từ chuyên viên chính lên chuyên viên
119 Bao gồm các luật: Đo lường, Bảo hiểm tiền gửi, Giáo dục đại học, Lao động, Giá, Quảng cáo, Tài nguyên
nước, Hợp tác xã, Sửa đổi, bổ sung một số Điều của luật Thuế thu nhập cá nhận, Sửa đồi, bổ sung một số điều
của luật Điện lực, Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế, Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế giá trị gia tăng, Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Khoa học và công nghệ
(sửa đổi).
220
cao cấp đã được tổ chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức. Đây là bước đột
phá trong công tác xây dựng, nâng cao chất lượng công chức ở nước ta. Chính phủ đã
ban hành văn bản quy định rõ tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm, cử người đại diện, kỷ luật đổi với người quản lý doanh
nghiệp và người đại hiện các doanh nghiệp nhà nước.
+ Xây dựng tổ chức bộ máy hành chính gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 36/2012/NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ; đến nay chức năng,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của hầu hết các bộ, cơ quan ngang bộ đều đã được thẩm
định theo nguyên tắc không tăng bộ máy, hạn chế đến mức thấp nhất việc nâng cấp
các tổ chức, không thành lập mới các cục, tổng cục.
Phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương tiếp tục được thực hiện có hiệu quả trên các lĩnh vực quản lý nhà
nước, bảo đảm tính tự chủ trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương và
phát huy sự năng động, sáng tạo trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước của bộ
máy hành chính các cấp ở địa phương. Thông qua đó đã giảm bớt các công việc có
tính sự vụ để các bộ, ngành Trung ương tập trung vào khâu xây dựng thể chế, hoạch
định chính sách và thực hiện thanh tra, kiểm tra, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với các ngành, lĩnh vực.
- Cải cách hành chính có bước tiến rõ rệt
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạnh 2011 - 2020. Theo đó, cải cách hành chính được tiến hành đồng bộ từ
Trung ương đến cơ sở trên tất cả các lĩnh vực như: thể chế; thủ tục hành chính; tổ
chức bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tài chính công và hiện
đại hóa hành chính, ở tất cả các cơ quan hành chính. Đến nay, việc triển khai Nghị
quyết 30c đã đem lại những kết quả tích cực, từng bước xây dựng nền hành chính dân
chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân và tổ chức.
Nhiều giải pháp, đề án quan trọng trong Nghị quyết 30c đã và đang được triển khai
như: Xác định Chỉ số cải cách hành chính của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đo lường sự hài long của người dân, tổ
chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước; tăng cường năng lực đội
ngũ công chức cải cách hành chính; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền cải
cách hành chính... Công tác cải cách thủ tục hành chính đã đạt được một số kết quả
nhất định120
Cơ chế một cửa, một cửa liên thông tiếp tục được triển khai có hiệu quả, tạo
thuận lợi cho người dân, tổ chức trong giao dịch với các cơ quan hành chính nhà
nước, qua đó thực hiện công khai, minh bạch và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước, từng bước xây dựng nền hành chính phục
120 Theo kết quả tổng hợp của Bộ Tư pháp, tính đến cuối năm 2012, các Bộ ngành, địa phương đã đánh giá tác động
2.114 thủ tục hành chính trong 560 dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, ban hành 3.089 Quyết định công bố
thủ tục hành chính và cập nhật các quy định mới vào cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, rà soát 7.955 thủ
tục hành chính quy định tại 1.800 văn bản quy phạm pháp luật trong đó có 24 nhóm thủ tục hành chính trọng tâm theo
Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 5/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu cắt giảm 30% chi phí tuân thủ thủ
tục hành chính, đơn giản hóa 3.281 thủ tục hành chính theo các Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ.
221
vụ121
. Bên cạnh đó, việc đẩu mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng tiêu chuẩn
quản lý chất lượng ISO đã đem lại những chuyển biến tích cực trong hoạt động của cơ
quan hành chính, từng bước hiện đại hóa nền hành chính.
b. Các hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những thành công kể trên, công tác xây dựng và hoạn thiện thể chế,
cải cách hành chính vẫn còn không ít điểm bất cập, hạn chế cần khắc phục:
- Nhiều dự án luật liên quan đến tái cơ cấu phải chờ thông qua trong các năm tới:
Mặc dù trong các năm 2011-2013 Quốc hội đã thông qua khá nhiều luật, nhưng
một số dự án luật quan trọng, có tác động lớn đến tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô
hình tăng trường vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu,hoàn thiện và chờ thông qua
trong các kỳ họp tới như Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư công, Luật Đô thị, Luật quản
lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Luật đất đai (sửa đổi) đã
được Quốc hội khóa XIII cho ý kiến vào kỳ họp thứ 5 và dự kiến thông qua vào kỳ
họp thứ 6. Một số dự án luật (sửa đổi) khác cũng đang trong quá trình chuẩn bị như
Luật đầu tư (sửa đổi); Luật doanh nghiệp (sửa đổi); Luật xây dưng (sửa đổi); Luật hải
quan (sửa đổi); Luật phá sản (sửa đổi); Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi); Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế; Luật bảo hiểm xã hội (sửa đổi).
- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh còn bị điều chỉnh nhiều, việc ban hành
các văn bản hướng dẫn chưa đảm bảo tiến độ, chất lượng
Chương trình xây dựng luật, pháo lệnh còn bị điều chỉnh nhiều do công tác
chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh chưa đảm bảo yêu cầu về chất lượng và tiến độ.
Xây dựng thể chế còn ở tình trạng pháp lý thuần túy, thiếu kiến thức liên ngành và
thực tiễn, phản ứng chính sách còn hạn chế; sự phối hợp giữa các ngành chưa chặt chẽ
và hiệu quả. Tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
luật , pháp lệnh chưa được khắc phục cơ bản nhất là việc ban hành các thông tư, thông
tư liên tịch; một số văn bản có nội dung quy định chi tiết chưa bám sát quy định của
luật, pháp lệnh hoặc có quy định còn thiếu tính khả thi, hợp lý dẫn đến vướng mắc,
kém hiệu lực trong triển khai thực hiện.
- Công tác cải cách hành chính vẫn chưa được quan tâm cao và chỉ đạo thực
hiện quyết liệt, cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu
Trong công tác cải cách hành chính, một số bộ, ngành, địa phương chưa thực
sự quan tâm nên chỉ đạo, điều hành chưa quyết liệt.
Cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều thủ tục hành chính
không còn phù hợp, chậm được sửa đổi. Kỷ cương hành chính chưa nghiêm, công tác
kiểm tra, giảm sát còn nhiều yếu kém, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành.
Một bộ phận cán bộ, công chức suy thoái , không làm tròn trách nhiệm, nhũng nhiễu,
tiêu cực, ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân.
2. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
121 Đến nay cả nước có 88,3% số cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, 98,4% đơn vị hành chính cấp huyện và 96,7%
đơn vị hành chính cấp xã đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông theo quy định; trong đó có
203 đơn vị hành chính cấp huyện của 42 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện cơ chế một
cửa, một cửa liên thông theo hướng hiện đại tại UBND cấp huyện.
222
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ
2.1 Giáo dục, đào tạo và dạy nghề
a. Các kết quả đạt được
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được hoàn thiện, công tác xây dựng
các chiến lược, quy hoạch và các đề án phát triển được triển khai tích cực
Nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng được xây dựng và trình ban
hành. Luật giáo dục đại học đã được Quốc hội thông qua vào năm 2012 với những
quy định mới góp phần nâng cao chất lượng đào tạo như phân tầng và xếp hạng cơ sở
giáo dục đại học, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, kiểm định chất lượng đào
tạo, xác định rõ tiêu chí phân biệt cơ sở giáo dục đại học tư thục không vì lợi nhuận.
Nghị định 73/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài
trong lĩnh vực giáo dục được ban hành.
Ngoài ra, nhiều văn bản chiến lược quan trọng đã được xây dựng, ban hành và
triển khai thực hiện, cụ thể như: Chiến lược phát triển nhân lực, Chiến lược giáo dục,
Chiến lược dạy nghề và Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020.
Quy hoạch phát triển nhân lực của cả nước giai đoạn 2011 - 2020 cũng đã được xây
dựng và phê duyệt. đồng thời Chính phủ chỉ đạo tổ chức, hướng dẫn, đôn đốc các Bộ
ngành và các tỉnh, thành phố xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 -
2020 của Bộ, ngành và địa phương. Đến nay đã có 29/31 Bộ ngành và 62/63 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành xây dựng quy hoạch và đang tổ chức
triển khai thực hiện. Một số quy hoạch phát triển ngành được triển khai xây dựng,
điều chỉnh trong đó Điều chỉnh Quy hoạch phát triển mạng lưới các trường đại học,
cao đẳng đã được phê duyệt, đang xây dựng Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở
dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020.
Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghía và hội nhấp quốc tế” đã được Hội nghị Trung ương khóa 6 (khóa VI) cho ý
kiến, hiện đang bổ sung, hoàn thiện trình Hội nghị Trung ương 8 xem xét, thông qua.
- Bước đầu thử nghiệm thành công một số giải pháp quản lý:
Về giáo dục phổ thông: Điều chỉnh nội dung giảng dạy theo định hướng giảm
tải. Tích cực đổi mới kiểm tra đánh giá đồng bộ với đổi mới phương pháp dạy học.
Đổi mới công tác tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng tăng cường
giao quyền chủ động trên cơ sở nâng cao tinh thần tự chủ và chịu trách nhiệm của các
sở giáo dục và đào tạo.
Về đào tạo nguồn nhân lực: Đổi mới công tác quản lý và chỉ đạo điều hành
(quy chế thi và tuyển sinh, việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng và trung
cấp chuyên nghiệp) theo hướng đảm bảo và từng bước nâng cao chất lượng và hiệu
quả, chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong toàn ngành. Đẩy mạnh giao
quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học trong xác định chỉ tiêu tuyển sinh, tổ
chức tuyển sinh, xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp.
- Mạng lưới trường học và đội ngũ nhân lực được phát triển
223
Mạng lưới trường mầm non, phổ thông tiếp tục phát triển và phân bố rộng khắp
cả nước122
. Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển theo quy hoạch123
. Giáo dục chuyên
nghiệp được tiếp tục duy trì124
. Mạng lưới các trường cao đẳng, đại học tiếp tục được
phát triển theo quy hoạch125
.
Đội ngũ nhân lực ngành giáo dục, đào tạo, nhất là đội ngũ giáo viên tiếp tục được
phát triển. Tổng số giáo viên đứng lớp của cả nước tính đến năm 2013 có 1.168.577
người, trong đó giáo dục mầm non có 229.724 người (tỷ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn đào
tạo là 96,2%), giáo dục tiểu học có 366.045 người (tỷ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn đào tạo
là 99,5%), giáo dục trung học cơ sở có 311.970 người (tỷ lệ đạt chuẩn trở lên 98,8*), giáo
dục tủng học phổ thông có 150.133(tỷ lệ đạt chuẩn trở lên là 99,4%), giáo dục thường
xuyên đạt chuẩn và trên chuẩn đào tạo là 98,39%
Đội ngũ giáo viên dạy nghề tăng về số lượng và trình độ được nâng cao. Về cơ
bản, giáo viên trong các trường nghề đã đạt chuẩn, trong đó tỷ lệ giảng viên có trình độ
Thạc sỹ trở lên ở cấp cao đẳng nghề là 20,7%, ở cấp trung cấp nghề là 6,4%.
Đội ngũ giáo viên trung cấp chuyên nghiệp có 19.956 người (tỷ lệ giá viên là
Tiến sỹ là 3%, thạc sỹ là 23%), giáo dục cao đẳng có 24.437 người (tỷ lệ giáo viên là
tiến sỹ là 3%, thạc sỹ là 31,2%) và giáo dục đại học có 59.672 người (tỷ lệ giáo viên
là tiến sỹ là 17,3% Thạc sỹ là 42,7%)
- Quy mô đào tạo được mở rộng
+ Đào tạo nghề
Hoạt động dạy nghề tiếp tục được mở rộng về quy mô, chất lượng, từng bước
được nâng lên và ngày càng gắn kết với nhu cầu của thị trường lao động. Tong 2 năm
2011 - 2012 cả nước đã tuyển mới dạy nghề 3.354,6 ngàn người, trong đó: tuyển mới
cao đẳng nghề, trung cấp nghề và dạy nghề dài hạn 733,2 ngàn người, tuyển mới sơ
cấp nghề và dạy nghề thường xuyên 2.620,2 ngàn người, góp phần đưa tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề đến cuối năm 2012 lên 32%
Nội dung và phương pháp dạy nghề tiếp tục được đổi mơi, phát triển gắn với nhu
cầu của thị trường lao động, doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động và từng bước hội
nhập quốc tế góp phần hình thành cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng phù hợp với nhu
cầu hoạt động sản xuất, kinh doanh, dinh vụ và nhu cầu của người học nghề, góp phần
thực hiện mục tiêu phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao. Cơ cấu ngành nghề đào tạo từng bước được điều chỉnh phù hợp với nhu cầu của
doanh nghiệp và tổ chức sử dụng lao động.
+ Đào tạo trung cấp chuyên nghiệp
122 Đến năm 2013, cả nước cớ 13.720 trường nầm non, 15.407 trường tiểu học, 10.837 trường trung học cơ sở
và 2.714 trường trung học phổ thông 123 Tính đến ngày 15/3/2013 cả nước cớ 1.330 cơ sở dạy nghề, gồm: 157 trường cao đẳng nghề, 304 trường
trung cấp nghề, 869 trung tâm dạy nghề, trong đó khu vực ngoài công lập có 469 cơ sở dạy nghề (ciếm
35,3%)gồm 41 trường cao đẳng nghề, 101 trường trung cấp nghề và 327 trung tâm dạy nghề. 124 Năm 2013 cả nước cớ 562 cơ sở có đào tạo học sinh trung học chuyên nghiệp trong đó có 267 trường trung
học chuyên nghiệp 125 Đến năm 2013, cả nước có 420 trường, trong đó 204 trường đại học và 216 trường cao đẳng. Có 83 trường
ngoài công lập (55 trường đại học và 28 trường cao đẳng)
224
Đào tạo trung cấp chuyên nghiệp được duy trì. Số lượng học sinh năm 2012 là
630,7 ngàn người. Hệ đào tào trung cấp chuyên nghiệp có nhiều cố gắng nâng cao
chất lượng đào tạo và gắn với nhu cầu sử dụng nhân lực
+ Đào tạo đại học cao đẳng
Tổng quy mô sinh viên đại học, cao đẳng năm 2011 - 2012 là 2.204 ngàn sinh
viên126
, đạt khoảng 250 sinh viên/ 10.000 dân (trong đó hệ chính quy là 1.962 ngành
sinh viên, số sinh viên các trường ngoài công lập có 331 ngàn sinh viên chiếm gấn
15,0% tổng số sinh viên)
Đã có chuyển biến tích cực trong công tác tuyển sinh như việc xác định chỉ tiêu
tuyển sinh của các cơ sở đào tạo năm 2013 về cơ bản đá sát với thực tế năng lực đội
ngũ giảng viên, cơ sở vật chất mỗi trường để đảm bảo chất lượng đào tạo
Để nâng cao chất lượng đào tạo và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, Chính phủ đã xác định và tiếp tục khai Chương trình xây dựng 16 trường
đại học trọng điểm (số sinh viên của 15 trường đại học trọng điểm - không tính Học
viện kỹ thuật quân sự - chiếm 35,2% tổng số sinh viên đại học của cả nước)127
. Thực
hiện dự án xây dựng các trường đại học xuất sắc128
.
+ Đào tạo sau đại học
Quy mô đào tạo Thạc sỹ, Tiến sỹ của các cơ sở giáo dục đại học năm 2012 là
96.370 học viên (tăng so với năm 2010), trong đó nghiên cứu sinh có 6.441 người, số
học viên cao học có 89.929 người. Quy mô đào tạo Thạc sỹ và Tiến sỹ tăng trung bình
khoảng 7% /năm.
b. Các hạn chế, tồn tại
- Nhận thức, tư duy về phát triển nhanh nguồn nhân lực, về đổi mới lý giáo
dục, đào tạo chậm được đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển của xã hội, của đất nước
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
- Một số Đề án quan trọng về phát triển nhân lực chưa được thông qua và đưa
vào thực hiện.
Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế” chưa được thông qua và Chỉ thị của Ban Bí thư về đào tạo
nghề trình độ cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế chưa được ban hành.
- Một số văn bản dưới luật có tác dụng đẩy nhanh phát triển và nâng cao chất
lượng NNL chậm được abn hành (hướng dẫn Luật giáo dục đại học), chưa có quy
định pháp lý đủ mạnh để quy định sự tham gia của doanh nghiệp vào đào tạo nhân
126 Năm 2010 có 2.162,1 ngàn sinh viên 127 Đó là các trường đại học: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Đại học Thái
Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Trường đại học sư phạm Hà Nội, Trường đại học sư phạm TP Hồ Chí
Minh, Trường đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường đại học nông nghiệp I Hà Nội, Trường đại học kinh tế quốc
dân HÀ Nội, Trường đại học Y Hà Nội, Trường đại học kinh tế Hồ Chí Minh, Trường đại học Y Hồ Chí Minh,
Trường đại học Cần Thơ, Học viện kỹ thuật quân sự và Trường đại học Vinh. 128 Đến nay đã thành lập trường đại học Việt - Đức (bắt đầu tuyển sinh từ năm 2009 - 2010, năm 2011 đã có 29
Thạc sỹ khóa đầu tốt nghiệp, năm 2012 đã có khóa cử nhân đầu tiên tốt nghiệp), Trường Đại học Khoa học và
Công Nghệ Hà Nội đã thành lập và tuyển sinh từ năm 2010 - 2011, năm 2012 đã có khóa Thạc sỹ đầu tiên tốt
nghiệp, Dự án Đại học công nghệ Việt - Nga đang được tích cực triển khai.
225
lực, nên vừa hạn chế huy động nguồn lực vừa khó giải quyết vấn đề gắn đào tạo với
nhu cầu sử dụng nhân lực.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang bị thiết bị của các cơ sở đào tạo nhân lực vẫn
còn trong tình trạng thiếu và yếu.
- Đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu và trình độ còn hạn chế (tỷ trọng
giảng viên đại học, cao đẳng có học vị Tiến sỹ và học hàm GS, PGS còn thấp)
- Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy còn lạc hậu, nên kiến thức và
kỹ năng của nhân lực được đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn và lạc hậu so với quốc
tế ảnh hưởng đến nâng cao chất lượng NNL, nhất là NNL chất lượng cao.
2.2.Khoa học và công nghệ
a. Các kết quả đạt được
- Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách phát
triển KH&CN
Hệ thống pháp luật, chính sách phát triển KH&CN được tiếp tục hoàn thiện
theo tinh thần đổi mới mạnh mẽ cơ chế, quản lý, tổ chức và hoạt động KH&CN.
Nhiều văn bản mang tính bản lề quan trọng được tập trung xây dựng và hoàn thành
trong 2 năm 2011 - 2012 tạo tiền đề pháp lý và kỹ thuật quan trọng và đồng bộ để
thực hiện các mục tiêu phát triển KH&CN129
. Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi)
đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 5 năm 2013.
Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ cấp nhà nước, Bộ, ngành và địa
phương bước đầu được tăng cường và đổi mới. Cơ chế quản lý và phương thức thực
hiện các nhiệm vụ KH&CN được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu đổi mới; xây dựng
các nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế đặt hàng, bước đầu tiến hành hỗ trợ việc đăng ký
quyền sở hữu trí tuệ, Quỹ phát triển KH&CN quốc gia áp dụng phương thức quản lý
mới trong việc tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ KH&CN...
Công tác chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang hoạt động theo cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm và hình thành doanh nghiệp KH&CN được tiển khai mạnh
(tính đến hệt năm 2012 đã có 267/585 tổ chức KH&CN của Bộ, ngành, địa phương
được phê duyệt phương án chuyển đổi)
- Tiềm lực và hạ tầng KH&CN tiếp tục được củng cố và phát triển
Nguồn lực tài chính cho KH&CN tiếp tục được đảm bảo 2% tổng chi ngân
sách nhà nước (tương đương 0,5 - 0,6% GDP), được phân bổ theo cơ cấu: 55% cho sự
nghiệp KH&CN và 45% cho đầu tư phát triển KH&CN. Đã hình thành các kênh tài
chính hỗ trợ cho các hoạt động KH&CN thông qua các Quỹ quốc gia về KH&CN
(Quỹ phát triển KH&CN quốc gia và Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia). Đã đổi mới
hệ thống tiêu chí phân bổ kinh phí KH&CN cho các địa phương.
Hệ thống các cơ sở nghiên cứu KH&CN tiếp tục phát triển, cả nước có hơn
1.600 tổ chức KH&CN, trong đó có tổ chức KH&CN ngoài công lập có xu hướng
ngày càng tăng so với các tổ chức công lập. Đã hình thành 2 Viện hàn lâm khoa học
129 Trong 2 năm 2011 - 2012 có 109 văn bản được ban hành, gồm 01 Nghị quyết TƯ, 31 văn bản do Quốc hội,
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành, 77 thông tư do Bộ trưởng và liên Bộ ban hành.
226
trên cơ sở 2 Viện khoa học quốc gia (Viện hàn lâm KHCN Việt Nam và Viện hàn lâm
KH&CN Việt Nam)
Nguồn nhân lực KH&CN được tiếp tục phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Đến đầu năm 2013 cả nước có khoảng 4,28 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại
học trở lên, trong đó 24,3 nghìn Tiến sỹ, 101 nghìn Thạc sỹ; tuổi bình quân là 38,5) là
lực lượng tiềm năng tham gia vào các hoạt động KH&CN
Đội ngũ nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của cả nước có
trên 62 nghìn người làm việc trong các tổ chức nghiên cứu và phát triển, trong đó số
nhân lực có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên có khoảng 50 nghìn người (trong đó
có gần 5 nghìn Tiến sỹ và trên 11 nghìn Thạc sỹ). Số cán bộ nghiên cứu và phát triển
đạt 7 người trên 1 vạn dân.
Hạ tầng kỹ thuật KH&CN và các khu công nghệ cao tiếp tục được xây dựng và
tăng cường. Đã hoàn thiện 15 phòng thí nghiệm trọng điểm. Ba khu công nghệ cao tại
Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng tiếp tục được quan tâm đầu tư xây dựng cà đưa
vào khai thác130
. Hạ tầng thông tin truyền thông KH&CN có bước phát triển về chất
trên cơ sở ứng dụng rộng rãi Internet, công nghệ số hóa và thư viện điện tử.
- Thị trường KH&CN có nhiều khởi sắc.
Thị trường KH&CN có nhiều khởi sắc với nhiều cấp (tỉnh, vùng, quốc gia và
quốc tế). Chợ Công nghệ và thiết vị quốc tế Việt Nam (tháng 9/2012) thu hút nhiều
đối tác từ các nước ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU, Liên bang Nga,
Israel... và hơn 500 đơn vị trong nước đã có 1.200 giao dịch được ký kết. Các
Techmart ảo năm 2012 thu hút gần 425 ngàn lượt truy cập. Tính chung trong 2 năm
2011 - 2012 đã có 7.144 giao dịch công nghệ với tổng giá trị hơn 4.000 tỷ đồng.
- Đã có một số kết quả KH&CN nổi bật.
Trong 2 năm 2011 - 2012 đã đạt được một số kết quả KH&CN nổi bật. Khoa
học xã hội và nhân văn tiếp tục cung cấp luận cứ cho việc hoạch định các chủ trương,
đường lối và chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước. Khoa học cơ bản tiếp tục thu
được những kết quả đáng ghi nhận trong một số lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh. Số
lượng song trình nghiên cứu có công bố và trích dẫn quốc tế năm 2011 là 1.556 và năm
2012 là 1.761 (năm 2012 tăng 13% so với năm 2011). Khoa học kỹ thuật và công nghệ
có bước phát triển mới: công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh ứng dụng ngày càng rộng
rãi (sản xuất vắc-xin phòng bệnh Vibriosis, vắc-xin cúm gà A-H5N1...); đã nghiên cứu
làm chủ và áp dụng nhiều công nghệ như: thiết kế, chế tạo hệ thống thủy công cho nhà
máy thủy điện công suất lơn, hệ thống thiết bị lọc bụi tĩnh điện cho nhà máy nhiệt điện
công suất 600 MW, dây truyền thiết sản xuất xi măng lò quay công suất 1 -2 triệu
tấn/năm... Nhiều tiến bộ KH&CN lĩnh vực y dược được ứng dụng thành công lần đầu ở
Việt Nam như nghiên cứu sử dụng tế bào gốc, ghép tim trên người lớn...
b. Các hạn chế, tồn tại
- Cơ chế, chính sách về khoa học - công nghệ còn bất cập
130
Tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc có 20 dự án đang hoạt động với kim ngạch xuất khẩu 87,6 triệu USD và 13
dự án đang triển khai xây dựng; khu CNC TP Hồ Chí Minh có 58 dự án được cấp giấy phép còn hiệu lực với
tổng vốn đầu tư 2.141,4 triệu USD. Khu CNC Đà Nẵng đã hoàn thành giải phóng mặt bằng và cấp giấy chứng
nhận đầu tư cho dự án đầu tiên
227
Công tác xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN các cấp
chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của doanh nghiệp. Việc
phân cấp quản lý và giao nhiệm vụ KH&CN chưa gắn với trách nhiệm của người
đứng đầu các Bộ, ngành, địa phương.
Chưa triển khai hiệu quả cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH&CN. Việc triển khai hệ
thống đánh giá KH&CN độc lập còn chậm.
Cơ chế cấp phát, thủ tục thanh quyết toán tài chính cho KH&CN còn nhiều bất
hợp lý, chưa đổi mới kịp thời, gây bức xúc cho cộng đồng KH&CN.
Việc chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chủ trách
nhiệm còn chậm, hiệu quả hoạt động sau chuyển đổi chưa cao.
Cơ chế chính sách thu hút, đãi ngộ, sử dụng cán bộ KH&CN còn mang nặng
tính bình quân, chưa tạo động lực cống hiến và phát huy năng lực sáng tạo của đội
ngũ trí thức KH&CN, nhất là người có trình độ cao, tài năng trẻ và người Việt Nam ở
nước nước ngoài.
- Tiềm lực KH&CN còn hạn chế
Hệ thống tổ chức KH&CN tuy có gia tăng về số lượng nhưng chưa được quy
hoạch thống nhất trong toàn quốc, phân bổ còn bất hợp lý giữa các vùng miền, hiệu
quả hoạt động chưa cao, còn chồng chéo chức năng, nhiệm vụ.
Đội ngũ nhân lực KH&CN tuy gia tăng về số lượng, nhưng chất lượng và năng
lực còn hạn chế, phân bổ và cơ cấu trình độ chưa hợp lý theo vùng miền và lĩnh vực
hoạt động; tình trạng hẫng hụt đội ngũ chưa được khắc phục
Cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng KH&CN còn thiếu, lạc hậu sử dụng chưa
hiệu quả. Các khu công nghệ cao còn chậm đi vào hoạt động do thiếu cơ chế đặc biệt
để thu hút đầu tư hoặc vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đặc biệt là ở Khu công
nghệ cao Hòa Lạc. Khu công nghệ cao Hòa Lạc và khu Công nghệ cao TP. Hồ Chí
Minh qua nhiều lần điều chỉnh quy hoạch và mô hình hoạt động nhưng đến nay nhìn
chung vẫn chưa trở thành các trung tâm KH&CN lớn của vùng, chưa có các kết quả
hoạt động thực sự nổi bật. Các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và khu công
nghệ thông tin tập trung chưa có quy hoạch, thiếu kết hợp với các vùng sản xuất tập
trung, quy mô hàng hóa lớn.
Hạ tầng thông tin KH&CN tuy có bước phát triển mạnh trong thời gian gần đây
nhưng chưa đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng của cộng đồng KH&CN và doanh
nghiệp. Công tác thống kê KH&CN chưa đáp ứng yêu cầu quản lý.
Đầu tư của xã hội cho KH&CN thấp, đầu tư từ ngân sách nhà nước còn dàn
trảu, phân tán, hiệu quả sử dụng chưa cao.
3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn
a. Các kết quả đạt được
- Công tác quy hoạch và xây dựng đề án phát triển kết cấu hạ tầng được triển
khai tích cực
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết số 13-NQ/TƯ,
các Bộ, ngành đã tích cực triển khai rà soat, điều chỉnh các quy hoạch phát triển kết
cấu hạ tầng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã có.
228
Về hạ tầng giao thông, đề án Điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, và điều chỉnh Quy hoạch phát triển giao
thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 202 và định hướng2030 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt; Đề án Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển giao thông vận
tải đường thủy nội địa đến năm 2020 và định hướng đến 2030 đã được Bộ Giao thông
vận tải phê duyệt. Các đề án Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển giao thông vận
tải đường sắt đến năm 2020 và định hướng đến 2030; Quy hoạch chi tiết đường sắt (khổ
1.435 mm) đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ; đề án Hiện đại hóa tuyến đường
sắt Bắc- Nam, Điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm
2020, định hướng đến năm 2030... đang được xây dựng và dự kiến được cấp có thẩm
quyền phê duyệt trong năm 2013.
Về hạ tầng cấp điện, quy hoạch phát triển điện lực giai đoạn 2011 - 2015, có
xét đến 2020 của 63 tỉnh/thành phố trong cả nước đã lập và được cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Đề án tổng thể “Cấp điện cho các thôn, bản chưa có điện giai đoạn 2011 -
2020” đang trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt. Chuẩn bị điều chỉnh, bổ
sung Quy hoạch điện 7 và dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt vào
năm 2014.
Về hạ tầng thủy lợi, đã thực hiện rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thủy
lợi trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng của các vùng, lưu vực song, quy
hoạch phòng chống ngập cho các thành phố lớn; quy hoạch hệ thống đê sông, đê biển
ứng phó với biến đổi khí hậu và kết hợp với giao thông. Đến nay, nhiều đề án, dự án
được lập và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như Quy hoạch tổng thể thủy lợi
vùng Đồng bằng song Cửu Long, Quy hoạch tổng thể thủy lợi vùng Đồng bằng song
Hồng và Quy hoạch tổng thể thủy lợi khu vực miền Trung trong điều kiện biến đổi khí
hậu, nước biển dâng; Quy hoạch thủy lợi chống ngập úng Thành phố Cần Thơ. Một số
đề án/dự án đang trong quá trình lập, thẩm định và phê duyệt như Quy hoạch tổng thể
thủy lợi vùng Đông Nam Bộ trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng; Điều
chỉnh quy hoạch đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam có tính tới biến đổi khí hậu
và kết hợp giao thông; Điều chỉnh quy hoạch phòng chống lũ và đê điều hệ thống
song Hồng - sông Thái Bình.
Một số đề án quan trọng về phát triển kết cấu hạ tầng được triển khai xây dựng.
Đề án Quy hoạch chung phát triển kết cấu hạ tầng cả nước đến năm 2020 và tầm nhìn
đến 2030, Đề án Khai thác nguồn lực tài chính từ đất và tài sản nhà nước phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, trong đó chủ yếu dành cho phát triển kết
cấu hạ tầng và Đề án thành lập Quỹ phát triển cơ sở hạ tầng (Quỹ đầu tư cơ sở hạ
tầng) đang được nghiên cứu và hoàn thiện.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư xây dựng theo hướng đồng
bộ, hiện đại, nhiều công trình trọng điểm được triển khai và hoàn thành
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế khi bước vào thực hiện Nghị
quyết Đại hội XI, các Bộ, ngành đã kịp thời rà soát, điều chỉnh kế hoạch, lập danh
mục các dự án tạm dừng, giãn tiến độ, ưu tiên dành vốn cho các dự án có khả năng
hoàn thành trong các năm 2011 - 2013, các dự án trọng điểm, cấp bách. Ngoài các dự
án sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính Phủ, ODA, nhiều công
trình được đầu tư xây dựng theo các hình thức BOT, PPP.
+ Một số công trình giao thông quan trọng được nâng cấp và hoàn thành, tạo
lập được sự kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và với quốc tế
229
Nhiều công trình giao thông quy mô lớn như các tuyến đường trục chính, cầu
lớn, sân bay đã được hoàn thành như: đường cao tốc TP Hồ Chú Minh - Trung Lương,
đường cao tốc Giẽ - Ninh Bình, QL 51 (mở rộng), cầu Bến Thủy II, đường vành đai 3
thành phố Hà Nội, cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải, nhà ga hành khách cảng hàng
không Đà Nẵng, cảng hàng không quốc tế Phú Quốc. Hàng loạt các công trình giao
thông trọng điểm có quy mô lớn đang được đẩy nhanh tiến độ thi công như: các tuyến
đường bộ cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Hà Nôi - Thái Nguyên, Hà Nôi - Hải Phòng,
Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Bến Lức - Long Thành, Đà Nẵng
- Quảng Ngãi, cảng cửa ngõ Hải Phòng (Lạch Huyện), nhà ga T2 Nội Bài...
Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, đến hết tháng 7/2013 đối
với các dự án quốc lộ 1 đã khởi công toàn bộ 17/17 dự án BOT, 6/18 dự án vốn trái
phiếu chính phủ; các dự án mở rộng đường Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên (Quốc lộ
14) đã khởi công 3/3 dự án BOT. Các dự án trái phiếu chính phủ còn lại để mở rộng
QL 1 và QL 14 sẽ được khởi công đồng loạt vào cuối quý III/2013. Phấn đấu đạt mục
tiêu hoàn thành mở rộng QL 1 và QL 14 vào năm 2016.
+ Nhiều công trình hạ tầng các đô thị lớn được đầu tư, tạo sự chuyển biến trong
phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị lớn
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị đã được quan tâm đầu tư, nhất là ở các thành
phố lớn. Nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị như giao thông, cấp nước, thoát
nước, chiếu sáng, cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn... được cải tạo, nâng cấp và
xây dựng mới.
Về giao thông đô thị, để cải thiện tình hình giao thông, các cầu vượt nhẹ,
đường trên cao được triển khai xây dựng tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều
cầu lớn đã hoàn thành hoặc đang triển khai xây dựng như cầu Nhật Tân (Hà Nội), cầu
Rồng, cầu Trần Thị Lý (Đà Nẵng), cầu Rào II, cầu Khuể (Hải Phòng). Để giải quyết
cơ bản tình trạng tắc nghẽn giao thông, tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đang
đầu tư phát triển giao thông vận tải khối lượng lớn như đường sắt đô thị (đã khởi công
một số dự án đường sắt đô thị như Hà Nội - Hà Đông, Nhổn - Ga Hà Nội tại Hà Nội,
Bến Thành - Suối Tiên tại thành phố Hồ Chí Minh), xe buýt nhanh (đã khởi công
chuyến BRT Kim Mã - Khuất Duy Tiến tại Hà Nội).
Mạng lưới hạ tầng cấp điện (mạng phân phối), hạ tầng thông tin, truyền thông
tại các đô thị được cải tạo một bước. Các hệ thống cáp truyền tải và phân phối điện,
mạng thông tin đã và đang được ngầm hóa, cải thiện đáng kể bộ mặt đô thị tại các
thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Đề án phát triển lưới điện thông
minh tại Việt Nam đã được triển khai thực hiện với mục tiêu ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống lưới điện trước hết tại các đô thị
lớn, nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Đã triển khai thực hiện các giải pháp chống ngập cho các đô thị lớn nhất là tại
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ. Kết quả chống ngập bước đầu đã giảm
đáng kể số điểm bị ngập và mức độ ngập.
Các dự án bảo vệ môi trường tại các đô thị được quan tâm đầu tư nhất là các khu xử
lý chất thải rắn, nghĩa trang, khu xử lý nước thải công nghiệp và đô thị...
+ Nhiều dự án hạ tầng năng lượng đã được đầu tư, tăng cười thêm năng lực cho
hệ thống năng lượng quốc gia
230
Nhiều dự án, công trình trọng điểm về nguồn và lưới điện được hoàn thành.
Đặc biệt là công trình thủy điện Sơn La lớn nhất Đông Nam Á công suất 2.400 MW
đã khánh thành tháng 12/2012, vượt trước thời hạn 3 năm so với Nghị quyết của Quốc
hội, đem lại hiểu quả kinh tế lớn cho đất nước. Đã đưa vào vận hành các tổ máy phát
điện của các nhà máy điện Đồng Nai 4, Kanak, Nhiệt điện Quảng Ninh 2. Khở công
nhà máy Nhiệt điện Ô Môn 1, Nhiệt điện Duyên Hải 3, Hoàn thành đóng điện 147
công trình lưới điện từ 110 - 500 KV với tổng dung lượng trạm biến áp tăng thêm trên
7.000 MVA, tổng chiều dài đường dây xây mới và cải tạo trên 2.000 km, tăng cường
năng lực truyền tải của toàn hệ t hống và khả năng cung ứng điện của lưới điện tại
nhiều khu vực. Đã khởi công 25 công trinh lưới điện 220-500 KV, trong đó có 8 công
trình lưới điện 500 KV.
Hoàn thành đầu tư và đưa vào vận hành 53 công trình dầu khí, trong đó có các
công trình quan trọng như: đưa vào khai tác 7 mỏ/công trình dầu khí mới; hoàn thành
đầu tư và đưua vào vận hành giàn khoan 90m nước; hạ thủy giàn khai thác mỏ Sư Tử
Trắng; hạ thủy khối lượng tầng giàn H4 Tê Giác Trắng, hạ thủy chân đế giàn Công
nghệ Trung tâm dự án biển Đông 1, hạ thủy thành công khối thượng tầng giàn xử lý
trung tâm mỏ Hải Thạch...
+ Hạ tầng thủy lợi được đầu tư góp phần quan trọng trong thúc đẩy phát triển
nông nghiệp, nông thôn
Trong các năm qua, hệ thống thủy lợi đã được tiếp tục đầu tư theo hướng đa
mục tiêu. Đến năm 2013 trên địa bàn cả nước có trên 900 hệ thống thủy lợi lớn và vừa
có quy mô diện tích phục vụ từ 200 ha trở lên. Các công trình thủy lợi đã phụ vụ tưới
trên 7 triệu ha diện tích gieo trông lúa, tăng 0,08 triệu ha so với năm 2010. Hàng năm
các công trình thủy lợi còn phục vụ tưới cho 1,5 triệu ha rau màu, cây công nghiệp;
tiêu nước cho trên 1,72 triệu ha đất nông nghiệp và cấp khoảng 6 tỷ m3
nước phục vụ
sinh hoạt và công nghiệp, tăng 3,35 tỷ m3 so với năm 2010.
Bằng nguồn vốn ODA, đã hoàn thành dự án thủy lợi lưu vực sông Hồng giai
đoạn 2 (ADB3), Dự án hỗ trợ thủy lợi Việt Nam (WB3), dự án thủy lợi miền Trung
(ADB4) và đang tiếp tục triển khai các dự án tăng cường Quản lý thủy lợi và Cải tạo
các hệ thống thủy nông (ADB5), Quản lý thủy lợi phục vụ phát triển nông thôn Đồng
bằng sông Cửu Long (WB6), Nâng cấp hệ thống thủy lợi Bắc Nghệ An (JICA2).
Nhiều công trình, dự án trọng điểm đa mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế, chủ
động phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu được đầu tư như: công
trình đầu mối hồ chứa nước Cửa Đạt (tỉnh Thanh Hóa), hồ chứa nước Phước Hòa
(Bình Phước) và tiếp tục thực hiện đầu tư Công trình hồ Tả Trạch, Ngàn Trươi - Cẩm
Trang, Bản Mồng; Hệ thống Kênh trục sông Nghèn (Vùng Bắc Trung bộ); Hệ thống
tưới Văn Phong, hồ Nước Trong; Hệ thống thủy lợi Tân Mỹ, Tà Pao, dự án tuosi Phan
Rí - Phan Thiết (vùng Nam Trung Bộ); hồ KRoong Buk hạ, KRoong Pach thượng, Ia
Mơ (vùng Tây Nguyên); hệ thống thủy lợi sông Ray, dự án Phước Hòa - giai đoạn 2
(Vùng Đông Nam Bộ); hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre, dụ án Bảo Định giai đoạn 2; hệ
thống công trình phân ranh mặn ngọt tỉnh Sóc Trăng - Bạc Liêu (vùng Đồng bằng
sông Cửu Long)
Một số công trình thủy lợi phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp
được ưu tiên bố trí vốn để khởi công mới như 03 công trình thủy lợi phục vụ nuôi
trồng thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng
thủy sản Đồng Đon, cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm xã Long Điền Đông - Long Điền
231
Tay và hệ thống thủy lợi phục vụ nuổi trồng thủy sản Tân Duyệt). Đã đầu tư 05 dự án
thủy lợi phục vụ sản xuất muối ở các tỉnh Bạc Liêu, Thanh Hóa, Quảng Bình, Ninh
Thuận và Sóc Trăng. Đến nay, dự án nâng cấp hệ thống thủy lợi muối xã Long Điền
Tay (Bạc Liêu) và dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng đồng muối Hải Hòa, huyện Hậu Lộc
(Thanh Hóa) đã cơ bản hoàn thành.
Hệ thống đê điều tiếp tục được đầu tư nâng cấp, các hệ thống phòng chống lũ hiện
có: 5.700 km đê sông (trong đó có trên 2.400km đê từ cấp III đến cấp đặc biệt).
+ Hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin được xây dựng rộng khắp, hiện
đại, hạ tầng viễn thông đã có bước phát triển vượt bậc
Hạ tầng viễn thông không ngừng được hiện đại hóa, đồng bộ, đạt chuẩn quốc tế
với độ bao phủ rộng khắp cả nước, chất lượng mạng tốt, dung lượng cao và ngày càng
đáp ứng tốt hơn nhu cầu người sử dụng, góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế, giúp
Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế, đảm bảo an ninh, quốc phòng và phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mạng truyền dẫn cáp quang đã phát
triển đến các huyện và đã sẵn sang phục vụ cho tuyến xã. Hạ tầng băng thông rộng
tăng trưởng nhanh chóng, phục vụ ADSL có mặt trên khắp 63 tỉnh, thành phố. Mạng
truyền số liệu chuyên dụng đã cung cấp kết nối đến các cơ quan Đảng, Nhà nước tại
Trung ương, các Bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thành ủy,
các Sở, ban, ngành, quận huyện trên toàn quốc. Tổng số điểm kết nối trên toàn quốc là
4.104 điểm, trong đó 2.967 điểm đã được sử dụng (chiếm tỷ lệ 72,3%). Vệ tinh
Vinasat - 2 đã phóng thành công ngày 16/5/2012, cùng với Vinasat - 1 đã góp phần
hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng thông tin truyền thông quốc gia, đưa
thông tin đến tất cả các vùng sâu, vùng xa, biên giới, miền núi và hải đảo, hỗ trợ hiệu
quả cho công tác quốc phòng, an ninh, phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai.
b. Các hạn chế, tồn tại
- Công tác quy hoạch, dự báo vẫn còn hạn chế, yếu kém
Trong việc điều chỉnh các quy hoạch, công tác dự báo còn hạn chế, đặc biệt là
các dự báo vĩ mô. Vốn đầu tư, các chính sách chung và giá cả thị trường còn nhiều
biến động (một phần do tác động của khủng hoảng thế giới thời gian qua) làm cho quá
trình triển khai các quy hoạch gặp khó khăn.
- Huy động các nguồn lực cho kết cấu hạ tầng chưa được nhiều, dẫn đến hệ
thống kết cấu hạ tầng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ
Do nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng không đạt mục tiêu đề
ra, nên nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
còn hạn chế. Ngoài ra để tránh dẫn đến khủng hoảng nợ công, nguồn vốn trái phiếu
chính phủ cũng được kiểm soát ở mức hợp lý. Việc huy động vốn ngoài ngân sách nhà
nước gặp nhiều khó khăn do các dự án kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông,
thường có tổng mức đầu tư lớn trong khi năng lực tài chính của các doanh nghiệp và
nhà đầu tư còn hạn chế.
Hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mạng lưới giao thông chưa kết nối
giữa các loại đường, giữa đường với cảng, giữa các vùng, nên chưa có khả năng phát
triển vận tải đa phương thức. Cung ứng điện co bản đáp ứng cho phát triển kinh tế - xã
hội nhưng hệ thống điện vận hành hầu như chưa có dự phòng, tiêu hao điện còn cao.
Công nghệ của hệ thống các nhà máy điện chỉ đạt trình độ trung bình so với trình độ
232
công nghệ của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Do thiếu vốn đầu tư
hoàn thiện cho các công trình lưới điện nên dẫn đến tình trạng quá tải đường dây và
trạm biến áp xảy ra ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, tập trung chủ yếu là miền Bắc và
miền Nam nơi có phụ tải tập trung cao. Tuy mạng viễn thông đã phát triển đến tất cả
các tỉnh, thành trên cả nước nhưng độ phủ của mạng không đồng đều, đặc biệt là tại
các địa điểm vùng sâu, vùng xa; mạng thông tin di động sóng kém, còn nhiều vùng
lõm sóng, mất sóng. Việc đảm bảo an toàn, an ninh mạng chưa cao, tối ưu hóa mạng
lưới còn thấp, các nhà khai thác, cung cấp dịch vụ chưa thực sự bắt tay sử dụng chung
cơ sở hạ tầng.
Hạ tầng đô thị thiếu đồng bộ, kém chất lượng và quá tải. Ùn tắc giao thông tại
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chưa khắc phục được triệt để, còn xảy ra vào giờ
cao điểm. Mạng lưới giao thông đô thị phát triển thiếu quy hoạch, vận tải bánh sắt
khối lượng lớn kịp triển khai, vận tải hành khách công cộng chủ yếu bằng xe buýt nên
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại.
Nhiều công trình thủy lợi xuống cấp, hệ thống kênh mương chưa đồng bộ, hệ
thống công trình nội đồng còn thiếu. Nhìn chung, hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn và chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông thôn. Đầu tư thủy lợi vẫn tập trung nhiều cho cây lúa, còn cây ăn quả, cây công
nghiệp và nuôi trồng thủy sản chưa được đầu tư đúng mức. Hệ thống đê điều đã được
đầu tư khá lớn nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, nhiều đoạn đê chưa đảm bảo tiêu
chuẩn thiết kế, hàng năm phải tu bổ khá lớn, hệ thống đê biển được củng cố nhưng
chưa đảm bảo tiến độ theo yêu cầu.
4. Đánh giá tổng quát
4.1 Các kết quả đạt được
Trong thời gian gần 3 năm qua, đất nước đã chủ động tranh thủ thời cơ, thuận
lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để thực hiện các mục tiêu chủ yếu về phát
triển kinh tế - xã hội của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, kết luận của Hội nghị
Trung ương 3, các Nghị quyết của Quốc hội và đã đạt được một số kết quả nhất định:
- Kinh tế vĩ mô từng bước ổn định (lạm phát giảm, kiểm soát ở mức 7%, mặt
bằng lãi suất huy động và cho vay giảm; tỷ giá về cơ bản ổn định; thị trường ngoại tệ
tự do bị thu hẹp; dự trữ ngoại hối nhà nước tăng mạnh...)
- An sinh xã hội được bảo đảm (tạo việc làm mới cho 1,5 - 1,6 triệu lao động
hàng năm, hệ thống bảo hiểm xã hội phát triển đồng bộ, đa dạng, số người tham gia
bảo hiểm xã hội được mở rộng, công tác giảm nghèo được triển khai tích cực, giảm tỷ
lệ hộ nghèo bình quân trên 2%/năm...)
- Tăng trưởng kinh tế được duy trì (tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ 6,24%
năm 2011 xuống 5,25% năm 2012 nhưng dự kiến đến năm 2013 tăng 5,3 - 5,5%; các
năm 2014 - 2015 tiếp tục tăng cao hơn)
- Các nhiệm vụ đột phá chiến lược được triển khai tích cực và đã có một số kết
quả bước đầu.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn
thiện (hệ thống văn bản liên quan đến thể chế kinh tế tiếp tục được bổ sung, tiếp tục
thực hiện chủ trương điều chỉnh giá các loại hàng hóa quan trọng như điện, xăng dầu,
than... và các dịch vụ công về giáo dục, y tế theo cơ chế thị trường với lộ trình phù
233
hợp; tăng cường thể chế phục vụ hội nhập quốc tế, cải cách hành chính có bước
tiến...). Công tác phát triển nguồn nhân lực được quan tâm, từng bước hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách về giáo dục đào tạo và khoa học - công
nghệ; bước đầu thử nghiệm thành công một số giải pháp quản lý giáo dục - đào tạo,
đã có một số kết quả khoa học và công nghệ nổi bật, nhất là trong nông nghiệp, y tế,
xây dựng công trình... Chú trọng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhiều
công trình giao thông quy mô lớn như các tuyến đường trục chính (cao tốc, quốc lộ),
cầu lớn, sân bay đã được hoàn thành.
Đạt được những thành tựu trên là nhờ có sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng
động, sáng tạo của toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là sự chỉ đạo, điều hành của Nhà nước.
4.2 Những hạn chế, tồn tại
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế bao gồm:
- Tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra (do chủ động ưu tiên nhiệm vụ
kiềm chế lạm phát, ổn dịnh kinh tế vĩ mô, thắt chặt tín dụng, giảm tỷ lệ đầu tư nên tốc
độ tăng trưởng 3 năm 2011 - 2013 thấp và khả năng hông đạt mục tiêu đề ra trong
Nghị quyết cho giai đoạn 2011 - 2015)
- Kinh tế phát triển chưa bền vũng, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn (nguy
cơ lạm phát tăng trở lại vẫn còn, dư nợ tín dụng thấp; doanh nghiệp khó tiếp cận được
nguồn vốn, thị trường bất động sản đình trệ, chưa có khả năng phục hổi, nợ xấu xử lý
còn chậm, khả năng kéo dài...); chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn thấp và chưa được cải thiện; các cân đối kinh tế vĩ mô chưa
thật vững chắc.
- Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển còn hạn chế. Tỷ lệ
huy động NSNN trên GDP và tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so GDP đạt thấp so với kế
hoạch đề ra. Nếu không có các đột phá về thể chế thì việc thu hút đầu tư từ khu vực tư
nhân và đầu tư nước ngoài sẽ rất khó khăn.
- Tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm, chưa đáp
ứng yêu cầu. Tiến độ sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước
chậm. Về tái cơ cấu đầu tư công, do trước đây phê duyệt nhiều dự án quá khả năng
cân đối vốn nên hiện nay vẫn chưa xử lý xong, nhất là khu vực địa phương quản lý...
Quá trình cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém gặp phải một số khó khăn, vướng mắc do
không có đủ nguồn lực để hỗ trợ tài chính, khuôn khổ pháp lý cho việc cơ cấu lại các
tổ chức tín dụng chưa hoàn chỉnh và vấn đề lợi ích nhóm trong các ngân hàng thương
mại cổ phần.
- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt còn nhiều bức
xúc. Công tác giải quyết việc làm vẫn còn hạn chế. Thị trường lao động phát triển vẫn
chưa đồng bộ. Một bộ phận người lao động còn thiếu việc làm hoặc việc làm không
ổn định. Tranh chấp lao động, đình công diễn biến phức tạp. Công tác bảo đảm an
sinh xã hội và giảm nghèo còn bất cập. Kết quả giảm nghèo vẫn chưa bền vững,
khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn. Chăm sóc sức khỏe
nhân dân chậm được cải thiện. Tình trạng quá tải bệnh viện chậm được khắc phục.
Quản lý giá thuốc và dịch vụ y tế chưa tốt. Việc xây dựng nền Văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc còn nhiều hạn chế.
234
- Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện. Ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng vẫn xảy ra ở một số khu, cụm công nghiệp, làng nghề, do hoạt động
khai thác khoáng sản. tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn, chất thải y tế, nước thải
sinh hoạt và công nghiệp đúng quy chuẩn còn thấp.
4.3 Nguyên nhân và những vấn đề rút ra sau 3 năm thực hiện Nghị quyết
Những hạn chế, yếu kém trên đây do cả nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Ngoài những vấn đề phát
sinh mới trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, những mặt
yếu kém vốn có của nền kinh tế vốn đã tồn tại từ nhiều năm trước chưa được giải
quyết đã bộc lộ ra một cách rõ rang, gay gắt hơn trước. Mục tiêu Nghị quyết Đại hội
XI được đưa ra chưa lường được các ảnh hưởng xấu của bối cảnh trong nước và quốc
tế.
Một trong các nguyên nhân quan trọng là cải cách thể chế tiến hành chậm và
chưa đạt được nhiều kết quả. Hế thống pháp luật và quản lý nhà nước trên một số lĩnh
vực còn bất cập. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều hạn chế. Tổ
chức thực hiện còn nhiều yếu kém, chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải
quyết có hiệu quả những khâu đột phá và những vấn đề xã hội bức xúc. Kỷ luật, kỷ
cương chưa nghiêm. Việc giải quyết những mặt yếu kém tồn đọng này đòi hỏi phải có
sự tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về tư duy phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh thế
giới mới.
Sau 3 năm thực hiện có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành cần bám sát tình hình thực tiễn; chủ
động, kịp thời điều chỉnh mục tiêu và điều hành linh hoạt. do nhận thấy bối cảnh quốc
tế không thuận lơi, tình hình trong nước có những khó khăn lớn, Trung ương Đang,
Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo kịp thời chuyển mục tiêu từ “phát triển kinh tế nhanh”
sang “ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, suy trì tăng trưởng ở mức hợp
lý; bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội”. Nhờ đó, kinh tế vĩ mô dần đi vào ổn
định, an sinh xã hội được bảo đảm, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ
vũng, chuẩn bị các điều kiện cho kinh tế tăng trưởng cao hơn ở các năm tiếp theo.
- Trong tình hình kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế
không cao, tốc dộ thu ngân sách nhà nước giảm vẫn cần tập trung các nguồn lực cho
công tác an sinh xã hội, nhờ đó công tác giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, chăm sóc
người có công, giải quyết việc làm... vẫn đạt được nhiều kết quả, góp phần ổn định xã
hội và có tác động hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khó khăn.
III. Định hƣớng một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc thực hiện các đột
phá chiến lƣợc
1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản liên quan đến thể chế kinh tế,
tập trung nghiên cứu và trình Quốc hội thông qua sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật
Đất đai (sửa đổi) và một số luật quan trọng liên quan trực tiếp đến tái cơ cấu kinh tế
như: Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi); Luật
Đầu tư (dửa đổi); Luật Doanh nghiệp (sửa đổi); Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước
đầu tư vào sản xuất, kinh doanh; Luật Xây dựng (sửa đổi)...
235
Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương điều chỉnh giá các loại hàng hóa quan
trọng như điện, xăng dầu, than,... và các dịch vụ công về giáo dục, y tế theo cơ chế thị
trường theo lộ trình phù hợp... Tập trung hoàn thành đàm phán một số hiệp định để
mở rộng hội nhập quốc tế như Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TTP), các hiệp định tự do đa phương và song phương khác.
Tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành
chính giai đoạn 2011 - 2020, tập trung vào đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận
ợi cho doanh nghiệp và nhân dân. Tích cực triển khai Đề án cải cách chế độ công vụ,
công chức; tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ. Cụ thể hóa các
mục tiêu về xây dựng Chính phủ điện tử trong mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước và xây
dựng kế hoạch triển khai thiết kế lập hệ thống thông tin kết nối bộ, ngành, địa phương,
đẩy mạnh mô hình một cửa.
2. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ
- Về phát triển giáo dục đào tạo:
Tiếp tục chuyển mạnh sang mô hình phát triển giáo dục và đào tạo dựa vào
chất lượng. Đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục, huy dộng ngày càng tăng và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Tiếp tục thực hiện chính sách tín
dụng dành cho học sinh, sinh viên. Đẩy nhanh tiến độ kiên cố hóa trường lớp học nhất
là ở vùng sâu, vùng xa, xây dựng ký túc xá sinh viên, nhà công vụ giáo viên và đầu tư
xây dựng giảng đường một số trường đại học lớn.
Tập trung triển khai thực hiện Luật giáo dục đại học, Chiến lược phát triển giáo
dục. Đẩy mạnh thực hiện xã hội học tập; chấn chỉnh tình trạng dạy thêm, học thêm,
liên kết đào tạo; nâng cao chất lượng giáo dục đại học, nhất là đại học ngoài công lập.
Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, nhất là giáo dục tiểu học, phổ thông cơ sở.
Tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống dạy nghề đáp ưng nhu cầu thị trường lao
động; phát triển nhanh về quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy nghề
theo 3 cấp trình độ. Tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý và nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo.
- Về phát triển khoa học công nghệ:
Tập trung thực hiện Nghị quyết số 20 - NQ/TW ngày 31/10/2012 của Hội nghị
Trung ương 6 (Khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020 và các chương trình quốc gia về khoa học và
công nghệ. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động
khoa học và công nghệ. Phát triển dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám định công nghệ và
thị trường khoa học công nghệ. Tăng cường quản lý bảo hộ sở hữu trí tuệ
Tiếp tục đầu tư và phát huy hiệu quả các khu công nghệ cao, vườn ươm công
nghệ. Có cơ chế, chính sách thu hút mạng các dự án đầu tư nghiên cứu và phát triển
các sản phẩm công nghệ cao. Phát triển mạnh dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám định
công nghệ và thị trường khoa học công nghệ. Tăng cường quản lý bảo hộ sở hữu trí
236
tuệ. Ban hành các chính sách thuế phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.
3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại, tập trung và hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn
Tập trung nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và hoàn thành dứt điểm các
công trình, dự án dở dang. Không khở công mới các công trình, dự án chưa thực sự cấp
bách. Sớm hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư theo mô hình hợp tác công - tư (PPP)
theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế cho các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thành các đoạn tuyến đường bộ cao tốc Hà Nôi - Hải
Phòng (dự kiến hoàn thành vào năm 2015); Hà Nội - Thái Nguyên; Hà Nôi - Lào Cai (dự
kiến hoàn thành vào cuối năm 2014); Bến Lức - Long Thành; Thành phố Hồ Chí Minh -
Long Thành - Dầu Giây (dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2014)...
Tiếp tục đầu tư nâng cấp, mở rộng quốc lộ 1 - đoạn Hà Nội - Cần Thơ (phấn
đấu hoành thành nâng cấp, cải tạo toàn tuyến vào năm 2016), quốc lộ 13 đoạn qua Tây
Nguyên, Nhà ga hành khách Quốc tế (Nhà ga T2) - Cảng HKQT Nôi Bài; tuyến
đường sắt Yên Viên - Hạ Long - Cái Lân, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông
(Hà Nội), tuyến đường Bến Thành - Suối Tiên (Thành phố Hồ Chí Minh); cảng cửa
ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng).
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các trung tâm điện lực, các dự án chống ngập các
đô thị lớn, các công trình thủy lợi phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hạ
tầng viễn thông...
237
TỔNG QUAN VỀ CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƢỢC
TẠI VIỆT NAM
TS. Bùi Văn Thạch
Phó trƣởng Ban Kinh tế Trung ƣơng
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược
giai đoạn 2011 - 2020 là: “(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành
chính; (2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn
kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ; (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn”131
.
Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã hội, trọng tâm là
thực hiện ba khâu đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng đã được triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện tương đối
khẩn trương từ Trung ương đến địa phương, cụ thể :
1- Về triển khai, quán triệt và thể chế hóa ba khâu đột phá chiến
lƣợc
- Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XI đã giành nhiều kỳ họp thảo
luận các đề án khác nhau cụ thể hóa nhiệm vụ thực hiện ba khâu đột phá chiến
lược, đã ban hành nhiều nghị quyết và kết luận như : Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 4 “Về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” và tại Hội nghị
Trung ương lần thứ 6 đã ban hành Nghị quyết “Về tiếp tục Đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”, Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Kết luận “Tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, Kết luận về “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”...
- Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về “Đẩy mạnh thực
hiện các đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng kinh tế” được Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành triển khai thực
hiện tương đối quyết liệt thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị, các chương trình
131 Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. NXB Chính trị quốc gia, 2011, trang 106.
238
hành động trong việc thực hiện các nội dung của ba khâu đột phá chiến lược thể
hiện trong các giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách hàng năm. Ngoài ra, các cơ quan nhà
nước đã ban hành một loạt văn bản liên quan đến thực hiện ba khâu đột phá
chiến lược132
.
- Đồng thời, Đảng bộ, chính quyền các tỉnh và thành phố trực thuộc
trung ương đều có nghị quyết, kết luận, chương trình hành động của mình để
thực hiện nghị quyết, chỉ thị, kết luận, chương trình của Đảng, Quốc hội,
Chính phủ về thực hiện chủ trương, giải pháp thực hiện ba khâu đột phá
chiến lược ở địa phương mình, cho thấy trong gần 3 năm qua việc quán triệt,
triển khai thực hiện ba khâu đột phá chiến lược đã đạt được một số kết quả
bước đầu quan trọng.
2- Khái quát về kết quả thực hiện ba khâu đột phá chiến lƣợc
Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã hội gần 3
năm qua, diễn ra trong tình hình quốc tế và khủng hoảng kinh tế, tài chính thế
giới diễn biến phức tạp hơn so với dự báo, tình hình kinh tế trong nước đã có
nhiều dấu hiệu bất ổn, những yếu kém vốn có của nền kinh tế dồn tích lại từ
nhiều năm chưa được giải quyết đã bộc lộ một cách rõ ràng, gay gắt đã buộc
chúng ta phải kịp thời chuyển nhiệm vụ trọng tâm sang ưu tiên ổn định kinh tế
vĩ mô, kiềm chế lạm phát và bảo đảm an sinh xã hội, không đặt nặng mục tiêu
tăng trưởng kinh tế là một “phản ứng chính sách” kịp thời, đúng đắn, có ý nghĩa
định hướng rất cơ bản và quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đưa
đất nước từng bước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và
đã đạt được một số kết quả nhất định. Trong đó việc thực hiện ba khâu đột phá
chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng tuy đã đạt
được kết quả bước đầu nhưng vẫn còn nhiều khuyết điểm, yếu kém, cụ thể là:
(a) Đột phá về thể chế:
Hệ thống văn bản liên quan đến thể chế kinh tế tiếp tục được bổ sung,
hoàn thiện. Công tác sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đang được triển khai và đề
cập đến nhiều nội dung liên quan đến việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta133
... Trong các năm 2011-2013, Quốc
hội đã thông qua 35 luật, trong đó có nhiều luật, văn bản liên quan đến hoàn
thiện thể chế kinh tế. Các chính sách thúc đẩy quá trình thị trường hóa như giá
132 Luật Giáo dục Đại học được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 3 ngày 18/6/2012; Chương trình
tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020 ban hành theo Quyết định số 30c/NQ-CP ngày
8/11/2011 của Chính phủ; Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011; Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn
2011- 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012; Chiến lược
phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (điều chỉnh) và Chiến lược phát triển giao
thông đường bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (điều chỉnh) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
các Quyết định số 355/QĐ-TTg và số 356/QĐ-TTg ngày 25/2/2013….
133 Như tổ chức bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương, xác định vai trò của các thành phần kinh tế.
239
các loại hàng hóa quan trọng (điện, xăng dầu, than...) và các dịch vụ công về
giáo dục, y tế…, từng bước thực hiện theo cơ chế thị trường. Cải cách hành
chính có bước tiến đáng kể. Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục được
quan tâm chỉ đạo gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI)
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Việc tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh
tế trong nền kinh tế tuy đã đạt được kết quả bước đầu, song sự phân biệt đối xử
vẫn tồn tại một cách dai dẳng khó xoá bỏ ở nhiều cấp độ đang là rào cản lớn đối
với phát triển nói chung. Những căn bệnh cũ của nền hành chính nhà nước vẫn
chưa được khắc phục một cách cơ bản đã và đang gây nhiều bức xúc xã hội cản
trở mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Hơn nữa, những yếu kém kéo dài
này gắn liền với tệ lãng phí, tham nhũng là một trong những nguyên nhân làm
mất lòng tin với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của Nhà nước.
(b) Đột phá về phát triển nguồn nhân lực:
Lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật và chiến lược, quy hoạch như Luật giáo dục đại học năm 2012,
Chiến lược phát triển nhân lực, Chiến lược giáo dục, Chiến lược dạy nghề, Quy
hoạch phát triển nhân lực… Nhiều chương trình thử nghiệm về nội dung và giải
pháp quản lý giáo dục được tổ chức thành công. Lĩnh vực khoa học và công
nghệ có nhiều khởi sắc. Hệ thống chính sách, pháp luật về khoa học và công
nghệ (KH&CN) được tiếp tục hoàn thiện theo tinh thần đổi mới mạnh mẽ cơ chế
quản lý, tổ chức và hoạt động KH&CN. Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 về
Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 6 về đổi mới khoa học và công nghệ
đi vào cuộc sống chậm; giáo dục - đào tạo vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng
đầu, chưa trở thành động lực quan trọng nhất cho phát triển. Nhiều hạn chế, yếu
kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban
Chấp hành trung ương Đảng khóa VIII vẫn chưa được khắc phục cơ bản, thậm
chí có mặt lại nặng nề hơn: chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp; mâu thuẫn
giữa tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo có xu hướng ngày càng trầm
trọng; nội dung giáo dục nặng về lý thuyết, chưa gắn với thực tế, nặng về dạy
chữ chưa chú trọng dạy người; phương pháp dạy và học chậm được đổi mới,
chưa thực sự hướng tới phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học; bất
bình đẳng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục - đào tạo có xu hướng gia tăng…
(c) Đột phá về kết cấu hạ tầng:
Từ nhiều năm nay, hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư xây
dựng theo hướng đồng bộ, hiện đại, nhiều công trình trọng điểm được triển khai
và hoàn thành. Đầu tư phát triển hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị luôn
được xác định là một trong những mục tiêu ưu tiên. Một số công trình giao
240
thông quan trọng được ưu tiên đầu tư nâng cấp và hoàn thành, tạo lập được sự
kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và với quốc tế, tại các đô thị lớn.
Ngoài nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương,
chính sách huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước dưới nhiều hình
thức khác nhau cho mục tiêu ưu tiên này.
Tuy nhiên, hệ thống kết cấu hạ tầng của nước ta vẫn thấp xa so với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là cản trở lớn của sự phát triển. So
với các nước tiên tiến trong khu vực, hệ thống giao thông của Việt Nam chỉ ở
mức dưới trung bình, tiêu chuẩn kỹ thuật ở mức thấp và lạc hậu; chưa bảo đảm
sự liên kết giữa các tuyến đường và các tuyến nối cảng biển, cảng hàng không,
cửa khẩu quốc tế; mạng đường sắt còn lạc hậu, mạng đường cao tốc còn sơ
khai.. Ngoài khó khăn về vốn đầu tư, hầu như tất cả các dự án phát triển giao
thông đều gặp khó khăn trong giải phóng, làm chậm trễ tiến độ thi công.
Hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, tại các đô thị lớn không theo kịp tốc
độ đô thị hóa nhanh, đang tồn tại nhiều bất cập cản trở phát triển kinh tế và bảo
đảm chất lượng cuộc sống của dân cư, trong đó nổi bật là hạ tầng giao thông,
cấp thoát nước và trường học các cấp. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô
thị lớn có xu hướng gia tăng.
(d) Nhận xét chung, Trong điều kiện phải tập trung xử lý các bất ổn của
kinh tế vĩ mô, cố gắng đảm bảo an sinh xã hội, nguồn thu ngân sách hạn hẹp do
tăng trưởng kinh tế thấp, cùng với những khó khăn, suy giảm trong sản xuất
kinh doanh…thì những kết quả đạt được trong thực hiện ba khâu đột phá chiến
lược là một cố gắng lớn, sẽ là không thực tế nếu đòi hỏi sau một thời gian ngắn
triển khai thực hiện ba nhiệm vụ trọng yếu này có thể có được những thay đổi
cơ bản. Tuy nhiên, chúng ta chưa có những đổi mới về tư duy, quan điểm phát
triển trong xây dựng và triển khai ba đột phá chiến lược. Tuy đã có nhiều cố
gắng xây dựng và sửa đổi hệ thống pháp luật, nhưng về cơ bản vẫn nằm trong
khung tư duy và quan điểm hiện nay, nên chỉ có tác dụng bổ sung cho đồng bộ
hơn, chưa có đột phá nào đáng kể. Mục tiêu sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực,
tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và nâng cao sức cạnh tranh chưa có nhiều
tiến bộ. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học và
công nghệ vẫn chưa có chuyển biến rõ nét, tác dụng rất hạn chế. Giáo dục và
đào tạo còn lúng túng trong đổi mới, chưa có chuyển biến đáng kể. Chưa có
những biện pháp quyết liệt nhằm nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ
quản lý, công chức cũng như cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút, sử dụng
nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng kết cấu hạ tầng, tuy đã đầu tư nhiều
nhưng còn rất bất cập về nhu cầu và khả năng, hiệu quả còn thấp.
3- Dự báo bối cảnh tình hình và định hƣớng chính sách
Trong một số năm tới, tình hình kinh tế thế giới chưa thể có những
chuyển biến mạnh, vẫn còn nhiều khó khăn trong ổn định kinh tế vĩ mô toàn
cầu. Các nền kinh tế phục hồi chậm, chưa bền vững, những biện pháp tái cấu
trúc nền kinh tế chưa đủ mức để tạo ra các nguồn lực tăng trưởng mới. Các biện
pháp kích thích kinh tế thường áp dụng như nới lỏng tiền tệ, tăng chi tiêu công
241
đều đã đến giới hạn. Động lực tăng trưởng của nền kinh tế thế giới là các nền
kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ… tốc độ tăng trưởng đã chậm lại, đồng
nội tệ mất giá và nguy cơ lạm phát trước khả năng dòng vốn tư nhân chảy
ngược lại các nền kinh tế phát triển. Các nguồn nguyên liệu chủ yếu của thế giới
dần cạn kiệt, giá dầu biến động cùng với sự bất ổn chính trị tại Trung Đông và
tranh chấp biển đảo tại Đông Nam Á... Bối cảnh tình hình thế giới như vậy sẽ
tác động tiêu cực không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, xét về dài hạn,
dự báo kinh tế thế giới sẽ được cải thiện đáng kể do các nền kinh tế lớn, mới nổi
vẫn đang tăng cường sử dụng các gói kích thích kinh tế cũng như đẩy mạnh tiến
trình tái cấu trúc nền kinh tế nhằm đối phó với tình trạng suy giảm kinh tế toàn
cầu và thúc đẩy tăng trưởng. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện ba
khâu đột phá chiến lược phải đặt trong sự kết hợp chặt chẽ với thực hiện nhiệm
vụ tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đề nghị trong thời
gian tới cần :
(a) Tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và phục hồi tăng trưởng
Cần tập trung lựa chọn xây dựng một một số chủ trương, giải pháp chính
sách đủ mạnh để phục hồi kinh tế, khôi phục niềm tin cho thị trường. Chính
sách chủ đạo chính là thực hiện chính sách "lạm phát mục tiêu", với mức tăng
trưởng CPI khoảng 7% mỗi năm cho 3 năm 2013-2015 như dự kiến của Chính
phủ (có thể dưới 5% cho các năm tiếp theo) và đặt mục tiêu tăng trưởng hợp lý
bằng khoảng 6% cho giai đoạn 2014-2015.
Chính sách tài khóa và tiền tệ phải phục vụ cho mục tiêu huy động tổng
đầu tư toàn xã hội khoảng 31-32% GDP trong 2 năm tới. Trước mắt trong hai
năm 2013 và 2014, cần mạnh dạn tăng đầu tư công dưới nhiều hình thức để kích
thích tổng cầu. Cân nhắc nâng mức bội chi ngân sách ở tỷ lệ hợp lý và phát
hành thêm trái phiếu chính phủ nhằm tập trung đầu tư cho các công trình trọng
điểm về giao thông, thủy lợi và bệnh viện. Sử dụng một phần thích đáng chi đầu
tư công để tham gia các dự án PPP, vốn đối ứng ODA (còn rất lớn nhưng chưa
giải ngân được do thiếu vốn đối ứng) và kinh phí giải phóng mặt bằng.
Tiếp tục đẩy nhanh việc thực hiện Nghị quyết 02 của Chính phủ, Nghị
quyết của Quốc hội, nghiên cứu kéo dài thời gian áp dụng, bổ sung giải pháp
mới để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường. Tăng cường huy
động các nguồn lực và sự đồng thuận của toàn xã hội để phục hồi nền kinh tế.
Nguồn lực vốn sẽ kích cả cung và cầu, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển và
tạo việc làm, nhưng quan trọng nhất là phải đủ mức độ và liều lượng cần thiết.
Cần chú trọng đầu tư nguồn lực để kích vào khu vực kinh tế thực, nhất là vào
khu vực “tam nông”. Nhà nước cần có vốn mồi, vốn đối ứng nhằm tạo khả năng
thu hút đầu tư, cứu các doanh nghiệp có tiềm năng phục hồi, phát triển.
(b) Về các đột phá chiến lược
Có giải pháp quyết liệt để đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế, khơi thông
những nút thắt thể chế để phục hồi tăng trưởng. Cần coi đột phá về thể chế và
cải cách hành chính là trọng tâm nhất hiện nay, có tác dụng lan tỏa đối với các
đột phá chiến lược khác. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
242
hướng xã hội chủ nghĩa, chú trọng giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và
thị trường cũng như các thể chế để giải phóng cao độ mọi lực lượng sản xuất,
củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất, trước hết là kinh tế hợp tác, các mô hình
liên kết để tạo động lực mới cho phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp.
Cần tăng cường động lực và cả áp lực trách nhiệm đối với cán bộ, công chức,
viên chức, nhất là đối với người đứng đầu; giao nhiệm vụ phải gắn với mục tiêu
cụ thể, rõ ràng; tăng cường kỹ luật - kỷ cương và trách nhiệm công chức - công
vụ; tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân và
doanh nghiệp.
(c) Về tái cơ cấu nền kinh tế
Triển khai quyết liệt Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế theo Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ và các Đề án tái cơ cấu 3 lĩnh vực bằng các
chương trình hành động, kế hoạch, đề án cụ thể; với những mục tiêu, địa chỉ rõ
ràng và lộ trình, bước đi phù hợp để vừa hỗ trợ ngay cho phục hồi tăng trưởng,
vừa đảm bảo chuyển đổi mô hình phát triển bền vững trong tương lai. Gắn kết
chặt chẽ giữa tính “tổng thể” và “3 trọng tâm” trong tái cơ cấu nền kinh tế.
Đối với tái cơ cấu đầu tư công, cần nâng cấp tính pháp lý bằng quyết định
của Thủ tướng Chính phủ hoặc Nghị quyết của Chính phủ đề cập đầy đủ hơn
trách nhiệm của chính quyền địa phương trong tái cơ cấu đầu tư và xử lý nợ
đọng xây dựng cơ bản, chế định mô hình hợp tác công tư (PPP) trong đầu tư...
Về tổng thể, cần nghiên cứu đầy đủ cấu trúc và động thái của thị trường
tài chính nước ta để xây dựng chính sách tài chính - tiền tệ theo hướng chuyển
dần chức năng cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn từ hệ thống ngân hàng
thương mại sang các định chế tài chính - tín dụng phi ngân hàng (thị trường
chứng khoán, thị trường vốn, các tổ chức tài chính vi mô...).
Triển khai mạnh mẽ Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp và giải quyết bài
toán “tam nông”, nền tảng của công nghiệp hóa. Cùng với đề án tái cơ cấu
ngành nông nghiệp, cần xây dựng và triển khai các đề án tái cơ cấu ngành công
nghiệp, dịch vụ; trước hết là Đề án phát triển công nghiệp phụ trợ, chuyển nền
kinh tế từ gia công sang sản xuất để tham gia thực sự vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Làm rõ chức năng quản lý kinh tế của nhà nước ở cấp Trung ương và địa
phương trong điều kiện vận hành của cơ chế thị trường. Cần rà soát các quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các quy hoạch vùng và liên
kết vùng; rà soát, hoàn thiện phân cấp giữa Trung ương - Địa phương.
243
BA ĐỘT PHÁ CHIẾN LƢỢC:
SUY NGHĨ TỪ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
GS. Nguyễn Quang Thái
Tại Đại Hội lần thứ XI của Đảng (2011) đã thông qua Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội với ba đột phá chiến lƣợc:
(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
(2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại,
tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Dưới đây, xin trình bày mấy vấn đề kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách
cho Việt Nam với ba đột phá chiến lược nêu trên.
I. Thể chế kinh tế
Thể chế kinh tế134
là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế kinh tế - xã
hội, tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục, v.v…
Thể chế kinh tế nói chung gồm một hệ thống các luật lệ và quy phạm pháp luật nhằm
điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế.
Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh
tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà
nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền
kinh tế.
Thể chế kinh tế thị trƣờng là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và
hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao
dịch, trao đổi trên thị trường. Theo định nghĩa này, có thể thấy Thể chế kinh tế thị
trường bao gồm:
(1) “Ngƣời chơi”: các bên tham gia thị trường với tư cách là các chủ thể thị
trường, thực hiện các hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường theo các quy định.
(2) “Luật chơi”: cách thức thực hiện các quy tắc, luật lệ nhằm đạt được mục
tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn.
(3) “Sân chơi”: các thị trường – nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ
sở các yêu cầu, quy định của luật lệ (các thị trường quan trọng như hàng hóa và dịch
vụ, vốn, lao động, công nghệ, bất động sản, v.v…)
Thể chế kinh tế hiện đang là một khâu “yếu kém” nhất, cản trở nhất cho sự
phát triển kinh tế ở nước ta, cần có những đột phá mang tính chiến lược, như đã thực
134
Có thể xem thêm Geoffrey Hodgson (2006) “What Are Institutions?” Journal of Economic Issues,
XL:1, 1-25 và các tác giả khác.
244
hiện 30 năm trước qua khoán hộ trong nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Tuy nhiên,
muốn đột phá mới không phải dễ. Thể chế kinh tế cần làm rõ mối quan hệ giữa Nhà
nước và người dân, nhưng hiện đó lại là khâu yếu kém trước hết do cản trở về tư duy
phát triển. Hãy phân tích một số bất cập trong thể chế:
Về quan hệ Nhà nước và xã hội, người dân: do định kiến mơ hồ coi kinh tế
Nhà nước chủ đạo, dẫn tới tình trạng bất bình đẳng trong kinh doanh. Hơn thế, có
người vẫn nghĩ trong Hiến pháp chỉ cần quy định các quyền và nghĩa vụ của người
dân khi chịu sự quản lý của Nhà nước, mà “quên” không quy định rõ cả các quyền và
nghĩa vụ của Nhà nước, được người dân “ủy nhiệm” và “giao việc” thực hiện chức
năng quản lý. Do đó, thực hiện trong thực tế, dễ dẫn tới tình trạng lạm quyền. Thêm
vào đó, tình trang tham nhũng, cửa quyền, hành dân, v.v…. phổ biến và nghiêm trọng
hiện nay nên các cơ quan chính quyền và tổ chức Đảng nhiều nơi đã bị mất tín nhiệm,
do lời nói chưa đi đôi với việc làm, nhiều sự kiện cho thấy tự coi các cơ quan công
quyền và công chức đang đứng trên dân chứ không phải “phục vụ” dân, thậm chí còn
định ra nhiều luật lệ và quy định hành dân, mất lòng dân. Thậm chí dù đã ban hành rất
nhiều luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, v.v…. vẫn thiếu tính khả thi.
Về bình đẳng của người dân và vấn đề đất đai: những khác biệt trong tư duy
phát triển, không chấp nhận bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nên càng khó thực
hiện quyền dân chủ thực tế trong lĩnh vực phát triển kinh tế. Cũng vậy, trong vấn đề
cụ thể về đất đai cũng có những bất cập. Hiến pháp chỉ coi đất đai thuộc sở hữu toàn
dân, mà không phân biệt các phạm trù khác nhau về đất đai. Khi đất đai là lãnh thổ -
Tổ quốc thì đất đai là thống nhất và bất khả xâm phạm. Khi đất đai là nguồn tài
nguyên khan hiếm thì cần được phân bổ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm. Khi người dân
đã đầu tư ít nhiều vào phần đất đai được phép khai phá thì trong đất đai lúc đó đã hàm
chứa như một tài sản nhất định, do đó người dân cần có quyền sở hữu (có giới hạn)
đối với đất đai đó trong nền kinh tế thị trường, trước hết là quyền định đoạt và các
quyền khác đã được luật định. Nhưng vẫn thiếu hành lang pháp lý bình đẳng cho
người dân tự do kinh doanh, trong khi các cơ quan Nhà nước lại thích dùng các mệnh
lệnh hành chính hơn là tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của mọi
người dân.
Để hoàn thiện thể chế, cần tham khảo kinh nghiệm thành công và chưa thành
công của các nước.
Theo OECD, cải cách thể chế là tạo ra "các thay đổi nhằm nâng cao chất lượng
thể chế" và đặc biệt chú trọng tới tác động của thể chế về mặt kinh tế. Cải cách thể chế
rộng hơn nhiều so với cải cách hành chính, cải cách pháp lý và các loại cải cách khác
ở chỗ cải cách thể chế bắt đầu bằng việc xác định mối quan hệ và vai trò nên có giữa
Nhà nước và xã hội. Nói cách khác, cải cách thể chế xác định tính cần thiết và hình
thức can thiệp của Nhà nước, trong đó chú trọng tác động của can thiệp đối với xã hội
và nền kinh tế. Hành động can thiệp chỉ là công cụ. Chính cải cách thể chế mới giúp
xác định liệu quyết định can thiệp có cần thiết hay không và nên can thiệp như thế nào
để có hiệu quả nhất.
Trong một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho năm 2012 về đánh giá trình
độ phát triển các nước theo các chỉ tiêu của kinh tế tri thức KEI thì vấn đề thể chế
kinh tế thị trường được xem là tiêu chí hàng đầu. Kinh tế càng phát triển, thu nhập
bình quân đầu người cao thì dường như thể chế kinh tế cũng được coi trọng hơn
(thang điểm 10):
245
Hạng Các nền kinh tế
KEI
Chỉ số kinh tế
tri thức
Thể chế
kinh tế
Đổi mới
công nghệ Giáo dục ICT
Thu nhập cao 8.60 8.39 9.16 8.46 8.37
Thu nhập trung bình cao 5.10 5.18 6.21 4.72 4.28
Thu nhập trung bình thấp 3.42 3.32 4.90 2.84 2.62
Thu nhập thấp 1.58 1.61 2.13 1.54 1.05
104 Việt Nam 3.40 2.80 2.75 2.99 5.05
Thế giới 5.12 5.45 7.72 3.72 3.58
Tuy Việt Nam được xếp hạng trung bình của các nước có thu nhập thấp, nhưng
thể chế kinh tế đang là khâu yếu kém, thấp xa các nước thu nhập thấp, càng thấp xa
các nước trung bình trên thế giới, dù việc ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông
ICT là khá, thậm chí đạt mức cao hơn trung bình của các nước thế giới và các nước có
thu nhập trung bình cao.
Các chuyên gia quốc tế (OECD, USAID, v.v…) cũng phân tích cách thức điều
hành bằng các quy định của chính phủ và thấy có ba vấn đề: (i) chức năng hoạch định
chính sách; (ii) phối hợp chính sách; (iii) tính chuyên nghiệp của công tác xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật vốn được coi trọng trong các nền kinh tế phát triển lại
thường chưa được quan tâm đúng mức ở các nước đang phát triển. Hệ quả đã làm môi
trường thể chế không thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
và đời sống của người dân.
Kinh nghiệm các nước về xây dựng thể chế cho thấy: trong những năm 1960,
nhiều nhà nước trên thế giới, với hy vọng công nghiệp hóa, đã can thiệp sâu rộng vào
mọi khía cạnh của nền kinh tế. Sự can thiệp quá đà này đã gây ra nhiều vấn đề kinh tế
vĩ mô, mà đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng nợ năm 1982. Như là hậu quả, “hình ảnh
Nhà nước như là một yếu tố thay đổi” đã được biến thành “hình ảnh Nhà nước như là
cản trở chính của phát triển”. Rõ ràng, cần phải kiểm định các đặc tính nào của thể chế
nhà nước mạnh mà có ích cho tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Một số tác
giả đã nhấn mạnh các vấn đề sau đây:
246
Năng lực thể chế: sự thành công của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là nhờ
vào năng lực của toàn bộ hệ thống thể chế Nhà nước, trong một đất nước có nền dân trí
khá cao. Để xây dựng thể chế nhà nước tốt, các quốc gia này đã dựa vào việc tuyển chọn
các nhân viên có năng lực, cam kết cho phát triển quốc gia và tạo cơ hội nghề nghiệp lâu
dài như trong các tập đoàn kinh tế. Hệ thống thể chế mạnh của các quốc gia này đã điều
phối các thành phần khác nhau trong nước, đàm phán hiệu quả với các đối tác nước
ngoài. Từ đó tạo ra năng lực nội sinh của nền kinh tế và chủ động hấp thu có kết quả các
nguồn lực đa dạng từ bên ngoài. Cũng vậy, việc quản lý hiệu quả viện trợ nước ngoài,
thương mại quốc tế, đầu tư tư bản và các khoản vay phụ thuộc rất lớn vào năng lực của
thể chế nhà nước. Vì thế, các quốc gia này đã tập trung khá tốt “vào năng lực của các thể
chế nội địa để sử dụng nguồn lực ngoại nhập phục vụ cho sản xuất và đáp ứng nhu cầu ưu
tiên của quốc gia”.
Lựa chọn can thiệp: các quốc gia phát triển có thuận lợi lớn từ năng lực quản trị
mạnh của thể chế, và các nước này cũng hạn chế can thiệp của bộ máy vào các dự án
mang tính chiến lược và chuyển đổi (ngay tên lửa đạn đạo tầm xa của Hoa Kỳ cũng
được đặt hành cho hàng nghìn xí nghiệp giá công các chi tiết khác nhau, nhưng kiểm
soát Nhà nước được nhấn vào việc cấm xuất khẩu bí mật ra nước ngoài). Ngược lại ở
các nước đang phát triển có năng lực Nhà nước yếu kém nhưng lại thường can thiệp
một cách tràn lan dưới hình thức hành chính trực tiếp vào các hoạt động kinh tế nên
thường ít thành công, trong khi lại góp phần cho các bất ổn kinh té và cả những thất bại
tăng trưởng của nền kinh tế. Vì thế, Chính phủ ở các nước đang phát triển cần lựa chọn
đúng mức với phạm vi hạn chế sự can thiệp của mình vào hoạt động kinh tế, tránh làm
nền kinh tế bị méo mó và biến dạng vì năng lực yếu của bộ máy hoặc lợi ích nhóm.
“Bén rễ” trong xã hội: nhiều nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh đến sự gắn kết nhất
quán của hệ thống hành chính công của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (TQ), v.v…
Một mạng lưới các quan hệ xã hội giữa các thành viên đã tạo ra nền tảng cho sự tin
tưởng và giúp cho quá trình chuẩn bị và ra quyết định tốt hơn. Mạng lưới này giúp giảm
chi phí hoạt động và giao dịch giữa Chính phủ, giới kinh doanh và các thành phần xã
hội khác. Nó gắn kết Nhà nước với xã hội và cung cấp các kênh được thể chế hóa cho
quá trình đàm phán và tái đàm phán về các vấn đề liên quan đến chính sách và phát
triển. Có những tác giả cho rằng, một nền chính trị cố kết, cấu trúc quyền lực có chủ
đích và tập trung thường được “ăn sâu bén rễ” vào trong xã hội như là một điều kiện tất
yếu cho thành công của các thể chế nhà nước. Chính sự hòa nhập và bám rễ này đã đảm
bảo xã hội dân sự gắn kết trong bộ ba kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và xã
hội dân sự, trở thành một phần của giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển
xã hội.
Cởi mở và tính trách nhiệm: tiềm năng tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm
nghèo phụ thuộc rất lớn vào Nhà nước và các thể chế xã hội. Một trong những yếu tố
cần phải được nhận ra đó là tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các thể chế
nhà nước. Trong báo cáo phát triển của mình, UNDP nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc xây dựng các thể chế minh bạch và các cơ chế tham gia dân chủ. Đây chính
là điều kiện cho các thể chế của nhà nước triển khai các chính sách hiệu quả, không bị
tham nhũng hoặc lạm dụng quyền hành. Kết quả sẽ là cải thiện trong việc cung cấp
dịch vụ công của Chính phủ và thúc đẩy tăng trưởng của thành phần kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, việc xây dựng thể chế nhà nước là một nhiệm vụ khó khăn cho các
quốc gia đang phát triển cho dù có ủng hộ và tài trợ của các nhà tài trợ song phương,
các tổ chức đa phương và phi chính phủ quốc tế. Cải tổ thể chế có nghĩa là động chạm
247
đến hầu hết các khía cạnh của lĩnh vực công trong khi nguồn lực để triển khai luôn có
giới hạn. Thể chế của các nước đang phát triển rất yếu, dễ bị đổ vỡ và không hoàn
thiện. Quá trình ra quyết định về cải cách thể chế lại thường bị hạn chế bới các yêu
cầu của các nhà tài trợ với các mục đích khác nhau. Các nhân viên làm cho Chính phủ
được hình thành từ nhiều nguồn, nên có thể xem là ít được đào tạo theo đúng yêu cầu
của cải cách. Xã hội dân sự còn manh mún, chia rẽ và khả năng tham gia hiệu quả
cũng rất hạn chế. Một thách thức nữa đó là lợi ích nhóm dẫn đến những tranh chấp
cản trở quá trình cải cách thể chế. Các nhóm lợi ích thường thúc đẩy hoặc cản trở một
chính sách cải tổ nào đó tùy thuộc vào việc đó có lợi hay gây hại cho lợi ích của họ.
Trong nhiều trường hợp, các nhóm lợi ích đã thành công trong việc cản trở chính sách
cải tổ. Các nhóm lợi ích khác nhau thu được lợi trong ngắn hạn cũng có thể sẽ tìm mọi
cách để cản trở cải tổ cho dù cải tổ đó có thể mang lại lợi ích tuyệt đối lớn hơn cho họ
trong dài hạn. Như vậy, để cải tổ thành công thì phải thắng được các phản đối về cả
kinh tế lẫn chính trị của các lợi ích riêng lẻ, ngắn hạn. Thể chế phải được xây dựng
bởi một quá trình nội sinh. Không thể áp đặt việc xây dựng thể chế bằng ý chí chủ
quan từ bên trên hoặc áp đặt từ bên ngoài, nếu không, thể chế sẽ không bền vững và
dễ thích nghi với nhu cầu của người dân và xã hội và các biến động của thời cuộc.
Các nhà nghiên cứu cũng thấy không có một “khuôn mẫu” hoặc “cách làm phổ quát”
cho việc xây dựng thể chế. Tùy vào mỗi quốc gia xây dựng và triển khai quá trình cải cách
thể chế cho phù hợp với điều kiện và nhu cầu của mình. Đặc biệt nhấn mạnh đến kỷ luật, kỷ
cương thực hiện các quy định của thể chế đã ban hành, tránh tùy tiện.
Nhiều nhà nghiên cứu đã phê phán sự áp đặt bất cứ một mô hình thể chế nào lên
các quốc gia bởi các nhà tài trợ đa phương hay song phương. Đáng lưu ý là nhận xét cho
rằng mô hình thể chế của các nước phương tây là không phù hợp vì sự khác biệt về văn
hóa, chính trị và điều kiện kinh tế. Điều quan trọng là phải cổ xúy cho việc cải cách thể
chế nhằm giúp cải thiện được năng lực của công dân, các nhóm xã hội tự ra quyết định
cho mình hơn là thỏa mãn nhu cầu của các nhà tài trợ bên ngoài. Gần đây, một số tổ chức
tài chính quốc tế khi tổng kết việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ MDG đã cổ xúy cho
quan điểm về tăng trưởng “bao trùm” (inclusive growth)135
, tạo cơ hội phát triển cho tất cả
mọi người, trong đó có người nghèo.
Xây dựng thể chế có sự tham gia rộng rãi (kể cả phúc quyết Hiến pháp) sẽ là
điều kiện để ứng phó mềm dẻo hơn với các bất ổn của môi trường kinh doanh quốc tế
và trong nước, bảo vệ lợi ích cốt lõi của người dân. Đây là quá trình từng bước hoàn
thiện thể chế, không thể làm một lần là hoàn thiện.
Kinh nghiệm như Nhật Bản cũng đã từng bước xây dựng các thể chế đảm bảo
phát triển xã hội136
. Chính quyền mới của Nhật đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng
thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp, cam kết trách nhiệm xã hội lớn hơn từ phía chính
quyền như: Luật trợ giúp quốc gia năm 1946 (mở rộng tiêu chuẩn và đối tượng được
nhận trợ cấp nghèo khổ), Luật phúc lợi trẻ em năm 1947, Luật phúc lợi dành cho
người tàn tật năm 1948, Luật chuẩn mực lao động năm 1947, Luật bảo hiểm việc làm
năm 1947 và Luật đền bù cho người lao động năm 1947. Cùng với sự hồi phục kinh tế
vào những năm 1950 và 1960, chế độ phúc lợi ở Nhật Bản ngày càng được mở rộng.
Các đạo luật mới về chế độ đảm bảo xã hội cũng được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung
trong giai đoạn này như: Luật bảo hiểm y tế quốc gia năm 1958, Luật hưu trí quốc gia
135
Framework of Inclusive Growth Indicators 2012 và 2013 của ADB 136 Xem Trương Hồng Quang (2010): Kinh nghiệm Nhật Bản trong xây dựng thể chế.
248
năm 1959 (hai luật này quy định theo hướng mọi người dân Nhật đều được quyền
tham gia chương trình bảo hiểm y tế quốc gia và bảo hiểm hưu trí quốc gia). Nói cách
khác, nhờ quy định của hai đạo luật này, chế độ bảo hiểm toàn dân về y tế và hưu trí
đã được thiết lập. Cũng trong thời gian đầu thập niên 1960, Nhật Bản đã ban hành
Luật phúc lợi đối với người mắc bệnh tâm thần (năm 1960), Luật phúc lợi cho người
già năm 1963, Luật phúc lợi cho bà mẹ và trẻ em năm 1964, Luật trợ cấp nuôi trẻ em
do cha mẹ ly hôn hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (chẳng hạn bị khuyết tật) năm
1964, v.v…
Tỷ lệ chi tiêu cho các chương trình phúc lợi xã hội ở Nhật Bản cũng đã tăng
đáng kể trong những năm 1970 và 1980 từ mức 6% tổng thu nhập quốc dân năm 1970
lên mức 18% vào năm 1989. Năm 2000, tổng chi phí cho các chương trình bảo đảm xã
hội ở Nhật lên tới 78,127 ngàn tỷ Yên (tương đương khoảng 800 tỷ USD) và con số
ngày của năm 2004 là 85,647 ngàn tỷ Yên (tương đương khoảng 850 tỷ USD). Trong số
này, chi phí cho việc trả lương hưu chiếm khoảng 53,1%, chi phí cho các dịch vụ chăm
sóc y tế chiếm khoảng 31,7% và các khoản mục khác (như bảo hiểm tai nạn lao động,
trợ cấp cho các gia đình nuôi con, chi bảo hiểm thất nghiệp, v.v…) chỉ chiếm 15,1%.
II. Nguồn nhân lực chất lƣợng cao
Kinh nghiệm quốc tế đều cho thấy, nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là
một nhân tố của phát triển, mà còn có ý nghĩa quyết định đến năng lực nội sinh cho phát
triển lâu dài137
. Kinh nghiệm khôi phục sau chiến tranh của Nhật Bản, Hàn Quốc có thể
đạt tốc độ phát triển thần kỳ dù cơ sở hạ tầng bị tàn phá là do có nguồn nhân lực chất
lượng cao đã không bị tiêu diệt trong chiến tranh. Hơn thế, khi đất nước khó khăn, thì do
có nguồn nhân lực chất lượng cao, các nước này đã huy động và tạo ra sức đột phá từ bên
trong, ngay khi vốn vật chất còn rất thiếu thốn.
Vậy nguồn nhân lực này có những tiêu chí quan trọng gì cần bảo đảm cho phát
triển dài hạn. Các quy định này không thể là cứng nhắc mà cần biến chuyển, tiến hóa
theo thời gian. Chẳng hạn khi so sánh trình độ phát triển nguồn nhân lực qua giáo dục,
các nhà nghiên cứu của UNDP trong nhiều năm chỉ dùng chỉ tiêu biết chữ. Nhưng sau
2008, UNDP đã sử dụng thước đo mới là số năm đã đi học và số năm dự kiến đi học để
đo chất lượng nguồn nhân lực tốt hơn cùng với thu nhập và tuổi thọ. Hằng năm UNDP
lập các báo cáo về phát triển nguồn nhân lực và đưa ra chỉ số HDI rất nổi tiếng. Rất tiếc
là chỉ số này của nước ta còn rất khiêm tốn, được xếp ngoài thứ hạng dưới 100138
.
137 Thuật ngữ nguồn nhân lực (human resources) xuất hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX và sau đó xuất hiện chính thức trong Báo cáo hằng năm của UNDP khi đã có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý, sử dụng con
người trong kinh tế lao động. Nếu như trước đây phương thức quản trị nhân viên với các đặc trưng coi nhân viên là
lực lượng thừa hành, phụ thuộc, cần khai thác tối đa sức lao động của họ với chi phí tối thiểu thì từ những năm 80
đến nay với phương thức mới, quản lý nguồn nhân lực với tính chất mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn, tạo điều kiện tốt
hơn để người lao động có thể phát huy ở mức cao nhất các khả năng tiềm tàng, vốn có của họ thông qua tích lũy tự
nhiên trong quá trình lao động phát triển. Có thể nói sự xuất hiện của thuật ngữ "nguồn nhân lực" là một trong
những biểu hiện cụ thể cho sự thắng thế của phương thức quản lý mới đối với phương thức quản lý cũ trong việc
sử dụng nguồn lực con người. Từ đó cũng dẫn tới khái niệm về nguồn lực con người (human capital).
138 Theo UNDP Human Development Report 2013, Việt Nam được xếp hạng thứ 127 (thuộc nhóm nước có HDI
trung bình, nhưng dưới Trung Quốc thứ 101, Thái Lan thứ 103, Philippin 114, Indonesia thứ 121, v.v… ) trong
số 187 nước có so sánh. Phải vượt qua nhóm nước có HDI cao (47 nước, trong đó Malaysia thứ 64) và nhóm
nước có HDI rất cao (47 nước, trong đó có Nhật Bản thứ 10, Hàn Quốc thứ 12, Singapore thứ 18, Brunei thứ
30). Đây là chặng đường dài.
249
Stivastava M/P (Ấn Độ) trong cuốn “Human resource planning: Approach
needs assessments and priorities in manpower planning”; NXB Manak New Delhi
1997, đã đưa ra định nghia vê nguồn nhân lực dưới góc độ kinh tế như sau: “nguồn
nhân lực được hiểu là toàn bộ vốn nhân lực bao gồm thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề
nghiệp mà mọi cá nhân sở hữu. Vốn nhân lực được hiểu là con người dưới dạng một
nguồn vốn, thậm chí là nguồn vốn quan trọng nhất đối với quá trình sản xuất, có khả
năng sản sinh ra các nguồn thu nhập trong tương lai hoặc như là nguồn của cải có thể
làm tăng sự phồn thịnh về kinh tế. Nguồn vốn này là tập hợp những kỹ năng, kiến
thức, kinh nghiệm tích lũy được gắn vào quá trình lao động sản xuất. Do vậy, các chi
phí về giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng, v.v… để nâng cao khả
năng sản xuất của nguồn nhân lực được xem như chi phí đầu vào của sản xuất, thông
qua đầu tư vào con người”.
Trên cơ sở định nghĩa trên, tác giả đã chỉ ra những lợi ích lớn của đầu tư vào
nguồn nhân lực gồm:
- Đầu tư vào nguồn nhân lực có tỷ lệ thu hồi vốn cao, do vốn nhân lực càng
được sử dụng nhiều thì giá trị gia tăng càng tăng lên, càng tạo ra nhiều thu nhập. Vốn
nhân lực không mang đặc điểm có tính quy luật như các nguồn vốn khác, đó là khâu
hao vốn đã đầu tư vào các tài sản và loại hình vật chất khác;
- Đầu tư vào vốn nhân lực không gây áp lực về khối lượng vốn lớn cần huy
động trong khoảng thời gian ngắn, do quá trình đầu tư dài và sau khi đã đầu tư thì vốn
nhân lực tự duy trì và phát triển lên;
- Hiệu ứng lan tỏa của đầu tư vào vốn nhân lực là rất lớn, tạo ra những đột biến
không lường trước được đối với phát triển kinh tê, do đặc điểm của vốn nhân lực là
mang tính sáng tạo, tự phát huy tiềm năng mà các nguồn vốn khác không có.
Để phát triển nguồn nhân lực, Hoa Kỳ rất coi trọng môi trường sáng tạo và
khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh vực,
cả trong và ngoài nước. Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho Mỹ - nước duy
nhất trên thế giới, cơ hội thu hút nguồn chất xám rất lớn, đó là rất nhiều các nhà khoa
học, bác học giỏi từ châu Âu và nhiều nước khác đã nhập cảnh vào Mỹ. Thực tế này
trả lời cho câu hỏi, tại sao hiện nay Mỹ là một trong những nước có nhiều nhà khoa
học hàng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực.
Ở châu Á, Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong phát triển nguồn
nhân lực. Xuất phát từ việc xác định rằng, nước Nhật nghèo tài nguyên thiên nhiên, để
phát triển, chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật Bản, Chính phủ nước
này đã đặc biệt chú trọng tới giáo dục - đào tạo, thực sự coi đây là quốc sách hàng
đầu. Theo đó, chương trình giáo dục đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở là bắt
buộc; tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi được học miễn phí. Kết quả là, tỷ
lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ở nước này ngày càng nhiều. Nhật
Bản trở thành một trong những cường quốc giáo dục của thế giới. Về sử dụng và quản
lý nhân lực, Nhật Bản thực hiện chế độ lên lương và tăng thưởng theo thâm niên. Nếu
như ở nhiều nước phương Tây, chế độ này chủ yếu dựa vào năng lực và thành tích cá
nhân, thì ở Nhật Bản, hầu như không có trường hợp cán bộ trẻ tuổi, ít tuổi nghề lại có
chức vụ và tiền lương cao hơn người làm lâu năm.
Tại Hàn Quốc, chính sách giáo dục được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của
nền kinh tế. Đây là nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực
250
của quốc gia này. Năm 1950, Chính phủ Hàn Quốc chủ trương xóa mù chữ cho toàn
dân. Những năm sau đó, hệ thống giáo dục dần được đẩy mạnh như: phát triển giáo
dục hướng nghiệp trong các trường trung học (năm 1960); các trường dạy nghề kỹ
thuật (năm 1970); đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và giáo dục trên lĩnh vực khoa học
cơ bản và công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và học suốt đời. Năm 1992, Hàn
Quốc thực hiện cải cách giáo dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ thống giáo dục hiện có
thành một hệ thống giáo dục mới, bảo đảm cho người dân được học suốt đời. Tháng
12-2001, Chính phủ Hàn Quốc công bố Chiến lược quốc gia lần thứ nhất về phát triển
nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005. Tiếp đó, Chiến lược quốc gia lần thứ hai về phát
triển nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 được xây dựng và thực hiện hiệu quả. Nội
dung chính của các chiến lược này đề cập tới sự tăng cường hợp tác giữa các doanh
nghiệp, trường đại học và các cơ sở nghiên cứu; nâng cao trình độ sử dụng và quản lý
nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công;
xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; xây dựng kết
cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển thị trường
tri thức.
Tại Trung Quốc, Chính phủ đang hết sức quan tâm đến việc đào tạo và sử
dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có trong nước, nhằm nâng cao chất lượng nguồn
lực này khi chuyển dần sang kinh tế tri thức. Năm 2003, Trung Quốc đã đề ra Chiến
lược tăng cường hơn nữa công tác bồi dưỡng, đào tạo nhân tài nhằm thực hiện mục
tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả được đề ra trong Đại hội XVI của Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Nội dung của chiến lược là: lấy nhân tài chấn hưng đất nước, xây
dựng đội ngũ đông đảo nhân tài có chất lượng cao; kiên quyết quán triệt phương châm
tôn trọng lao động, trí thức, tôn trọng nhân tài và sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển
làm xuất phát điểm cơ bản của công tác nhân tài, điều chỉnh nhân tài một cách hợp lý,
lấy xây dựng năng lực làm điều cốt lõi, ra sức đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài,
kiên trì đổi mới sáng tạo, nỗ lực hình thành cơ chế đánh giá và sử dụng nhân tài một
cách khoa học.
Trong khu vực Đông Nam Á, Xin-ga-po được coi là hình mẫu về phát triển
nguồn nhân lực. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nhỏ bé này chỉ với 5 triệu dân và
700 km2 đã rất thành công trong việc xây dựng một đảo quốc có trình độ dân trí cao
và hệ thống giáo dục phát triển hàng đầu châu Á và luôn luôn xếp trong top đầu về
phát triển nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức. Hệ thống giáo dục của nước này rất linh
hoạt và luôn hướng đến khả năng, sở thích cũng như năng khiếu của từng học sinh
nhằm giúp các em phát huy cao nhất tiềm năng của mình. Bên cạnh việc ứng dụng các
tiến bộ của khoa học - công nghệ mới vào giảng dạy, chương trình đào tạo của Xin-
ga-po luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách, truyền thống văn hóa dân tộc. Chủ
trương thu hút sinh viên quốc tế đến học tập, Chính phủ Xin-ga-po miễn xét thị thực
cho du học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí học tập vừa
phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng. Nhà nước Xin-ga-
po chỉ đầu tư vào rất ít trường công lập để có chất lượng mẫu mực, có chính sách tín
dụng thích hợp để thu hút đào tạo nhân tài. Đối với khối ngoài công lập, Chính phủ
tạo điều kiện để phát triển, khuyến khích việc liên thông, liên kết với nước ngoài, mời
gọi các đại học quốc tế đặt chi nhánh.
Tại Cộng hòa Séc, tuy có quy mô nhỏ bé, nhưng để đón trước cơ hội và thúc
đẩy hội nhập thành công vào Liên minh châu Âu (EU), Séc đã xây dựng và hoàn
thành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực (tháng 12-2000). Chiến lược này là một
251
bộ phận cấu thành của Chương trình thị trường lao động và phát triển nguồn nhân lực
của đất nước. Trong các chiến lược thành phần, đáng chú ý có chiến lược phổ cập
tiếng Anh, chiến lược cải thiện nhân lực hành chính công, chiến lược phát triển giáo
dục đại học - cao đẳng và liên kết với hoạt động nghiên cứu, chiến lược phát triển đội
ngũ giáo viên, chiến lược phát triển học suốt đời.
Điểm nổi trội về ngoại ngữ của Ấn Độ đã cho phép nước này sử dụng thành
công các tiến bộ của công nghệ ICT, tạo thêm việc làm của người dân Ấn Độ trực tiếp
trên khắp thế giới, và cả gián tiếp qua hệ thống giao dịch trực tuyến Internet.
Đặc biệt, các nước đã rất chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực trong
quá trình hội nhập quốc tế. Rất nhiều quy định về hệ thống visa thống nhất ở EU và ở
các nước ASEAN cho thấy, các nước đã rất tranh thủ các nguồn nhân lực chất lượng
cao đến lao động và làm việc lâu dài.
Các kinh nghiệm quốc tế phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đã được vận
dụng nhiều mặt trong sự lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn ở nước ta. Việt Nam đã ban hành
rất nhiều chiến lược và chính sách về phát triển nguồn nhân lực, nhưng thường có
những quy định “hoành tráng”, nhưng thiếu sự chỉ đạo thống nhất và có phối hợp. Đó là
điều đáng tiếc lớn nhất: văn kiện ghi rất nhiều mỹ từ, còn trong chỉ đạo thực tiễn thì sự
phối hợp và kiểm tra rất yếu kém. Trong điều kiện thể chế phân cấp, mang tính chia cắt
và bệnh thành tích, các địa phương cũng đưa ra các con số xã rời thực tế, làm rối các
nhận định và đưa ra các quyết sách. Việc thiếu cập nhật đúng các quy định quốc tế
trong phát triển nguồn nhân lực cũng làm sai lạc nhiều quyết sách, cần rút kinh
nghiệm…
III. Kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại
Ngày 16/1/2012, thay mặt Ban chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020139
.
Từ quan điểm chung, đã nêu 4 mục tiêu cụ thể là:
1- Về hạ tầng giao thông, bảo đảm kết nối các trung tâm kinh tế lớn với nhau
và với các đầu mối giao thông cửa ngõ bằng hệ thống giao thông đồng bộ, năng lực
vận tải được nâng cao, giao thông được thông suốt, an toàn.
139
Quan điểm về phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam là: (1) quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội phải hiện đại, đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng và từng
địa phương, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; có phân kỳ đầu tư, ưu tiên những dự án quan trọng tạo sự đột phá và có tác động lan toả lớn. Tăng cường công tác quản lý trong
khai thác sử dụng công trình; (2) huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã hội, bảo đảm lợi ích hợp lý
để thu hút các nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; đồng thời tiếp tục dành vốn nhà nước tập trung đầu tư vào các công trình thiết yếu, quan trọng,
khó huy động các nguồn lực xã hội; (3) phát triển kết cấu hạ tầng là sự nghiệp chung, vừa là quyền lợi
vừa là nghĩa vụ của toàn xã hội, mọi người dân đều có trách nhiệm tham gia đóng góp, trước hết là
trong thực hiện chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng; bảo đảm lợi ích hài hoà giữa Nhà nước, người dân và nhà đầu tư; (4) phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm
quốc phòng, an ninh; thu hẹp khoảng cách vùng, miền; gắn với tiết kiệm đất canh tác, bảo vệ môi
trường, tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.
252
2- Về hạ tầng cung cấp điện, bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh
hoạt, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đi đôi với tiết kiệm,
giảm tiêu hao điện năng.
3- Về hạ tầng thuỷ lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm tưới, tiêu chủ
động cho diện tích lúa 2 vụ, các vùng cây công nghiệp và nguyên liệu, nuôi trồng thuỷ
sản tập trung. Chủ động phòng, tránh bão, lũ, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước
biển dâng.
4- Về hạ tầng đô thị lớn, từng bước phát triển đồng bộ và hiện đại, giải quyết
cơ bản tình trạng ách tắc giao thông, úng ngập; cung cấp ổn định điện, nước và xử lý
chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
Khi xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và một phần hiện đại, trọng tâm là giao
thông và đô thị, Việt Nam đã chú ý học tập kinh nghiệm của quốc tế.
Thật vậy, trình độ phát triển kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết định đến trình
độ phát triển đất nước. Trong Báo cáo hàng năm của Diễn đàn kinh tế thế giới WEF
có 12 trụ cột về cạnh tranh toàn cầu GCI, có trụ cột thứ 2 về phát triển kết cấu hạ tầng,
bao gồm: hạ tầng giao thông: đó là các chỉ tiêu về đường bộ, đường sẳt, đường biển,
đường hàng không và độ sẵn sàng của các chuyến bay, về hạ tầng phân phối liên quan
đến hệ thống logistisc…; hạ tầng viễn thông: điện thoại cố định, di động, kết nối
Internet; hạ tầng điện lực: chất lượng sản xuất và cung cấp điện năng hiện tại và cả
tương lai để tạo tiền đề cho phát triển lâu dài.
Trong các giai đoạn phát triển, dù ở trình độ thấp hay cao, vấn đề phát triển hạ
tầng (cùng với các vấn đề về thể chế, và nguồn nhân lực, KHCN) luôn luôn được chủ
ý với trọng số từ 60% và hạ dần khi trình độ phát triển cao hơn.
Kinh nghiệm các nước phát triển nhanh đều có những phát triển đi trước về năng
lượng và giao thông. Nước Đức từ trước chiến tranh II đã có hệ thống xa lộ nối khắp
nước. Tổng thống Pak Chung He cũng đã có những nỗ lực mạnh mẽ để làm hệ thống
giao thông cao tốc. Trung Quốc ngày nay cũng có hệ thống đường bộ và đường sắt cao
tốc tỏa khắp đất nước, tạo điều kiện cho phát triển nhanh. Muốn vậy, trong phát triển,
Trung Quốc dù tăng trưởng liên tục suốt 30 năm hơn 10%, nhưng đều dành mức tích
lũy cao gần 50%, có khi hơn, để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nhất là khu vực đô thị ven
biển phía Đông. Từ đó, phát triển dần ra cả nước, mà không làm đồng đều khắp nước vì
năng lực tài chính có hạn.
Muốn phát triển mạnh hệ thống hạ tầng, các nước đều rất chú trọng công tác
quy hoạch và xếp thứ tự ưu tiên, chứ không làm tràn lan như ở nước ta.
Cesar Calderon và Luis Serven (2004)140
sau khi nghiên cứu bộ dữ liệu của 121
nước trong thời kỳ 1960-2000 đã đưa ra hai kêt luận quan trọng là: (1) trình độ phát
triển kết cấu hạ tầng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tê; và (2) trình độ phát
triển kết cấu hạ tầng càng cao thì mức độ bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội càng
giảm.
140
Cesar Calderon và Luis Serven (2004). “The Effects of Infrastructure Development on Growth and Income
Distribution”. Draft for Discussion, March.
253
Naoyuki Yoshino và Masaki Nakahigashi (2000)141
đã nghiên cứu về vai trò
kết cấu hạ tầng đối với sự phát triển kinh tê các nước Đông Nam Á và đưa ra kết luận
rằng, kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế vì: (1) phát
triển kết cấu hạ tầng góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế và (2)
phát triển kết cấu hạ tầng có tác động rất tích cực đến giảm nghèo.
Kingsley Thomas (2004)142
cho rằng, kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng
không chỉ vì nó là điều kiện thiết yếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp cũng như đời sống của các hộ gia đình, mà kết cấu hạ tầng còn là lĩnh
vực kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của một nước. Đầu tư cho phát triển kết cấu
hạ tầng thường chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư và chiếm từ 40-60% đầu tư công ở
hầu hết các nước đang phát triển. Tính trung bình, lượng đầu tư này chiếm 4% GDP
của các nước đang phát triển, cá biệt có nước chiếm hơn 10%.
IV. Hàm ý cho Việt Nam từ một số bài học quốc tế
1. Về thể chế kinh tế
Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có
đầy đủ. Tại Hội nghị Trung ương 6 (Khóa X) Ban Chấp hành Trung ương đã thông
qua Nghị quyết quan trọng. Đến Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa X, Đảng mới ra Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30
tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số
22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị
quyết 21-NQ/TW.
Tuy nhiên, ngay khi ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW cũng đã nêu mục tiêu
trước, quan điểm sau, cho thấy việc xây dựng thể chế kinh tế này cũng còn chưa đạt
tới nhận thức chung đủ làm căn cứ cho hành động. Trong 5 quan điểm nêu ra, việc
xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở nước ta chủ yếu nhấn mạnh tính riêng có của
Việt Nam, gây khó khăn cho thực hiện. Trong số các quan điểm và mục tiêu này, có
một số quan điểm đã gây cản trở cho phát triển, nhất là mục tiêu phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các
loại hình doanh nghiệp, về đất đai là sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước, v.v… 143
. Tuy nhiên, cũng đã khẳng định vai trò tích cực của kinh tế thị trường, rằng “kinh
141 Naoyuki Yoshino và Masaki Nakahigashi (2000). “The Role of Infrastructure in Economic Development”,
Preliminary Version, November.
142 Kingsley Thomas (2004). “The Role of Infrastructure in Development”. The Lecture Programme 2004, The
Development Bank of Jamaica.
143 Mục tiêu đến năm 2010, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật bảo đảm cho nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi; phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi
với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; hình thành một số tập đoàn kinh
tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế; đổi mới cơ
bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công; phát triển đồng bộ, đa dạng các
loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới; giải
quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; nâng cao hơn hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn từ năm 2010 -
2020, tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế, hoàn thành về cơ bản mục tiêu
chung nêu trên.
254
tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới
chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa
tư bản”. Nghị quyết cũng cho rằng “thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy
sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ
nghĩa xã hội”. Quan điểm này hơi khiên cưỡng, vì thực ra theo quan điểm trước đây
thì kế hoạch và thị trường là khác nhau như nước với lửa. Nay công nhận kinh tế thị
trường như một sản phẩm của văn minh nhân loại, thì cũng tức là cần xem xét lại
nhiều quan điểm khác về xây dựng định hướng xã hội chủ nghĩa, còn khá mơ hồ.
Đánh giá sự chuyển biến về thể chế mấy năm qua ở nước ta, có thể thấy hầu hết
các chỉ tiêu cụ thể đều yếu hơn mức trung bình và có xu hướng giảm, tuy vấn đề tiếng nói
của người dân và tính giải trình được cải thiện nhất định. Đồng tình với quan điểm của
PGS.TS. Phạm duy Nghĩa (HCMC), Vũ Hùng Cường (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội)
và một số nhà nghiên cứu144
nhắc tới các vấn đề dưới đây liên quan đến các thể chế kinh
tế, tới đây cần được ghi nhận hoặc thay đổi cho phù hợp trong Hiến pháp của nước ta, tác
giả đồng tình với ý kiến của Phạm Duy Nghĩa:
Vấn đề 1: Chia cắt nền kinh tế thành nhiều thành phần: từ một nền kinh tế
căn bản dựa trên quốc doanh và kinh tế tập thể theo quy định của HP 1980, trong lần
sửa đổi 1992 đã có “nới rộng” hơn145
, nhưng dù đã cam kết các thành phần kinh tế
đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 22), song trong Hiến pháp 1992 lại có những quy
định mang tính phân biệt, ví dụ Điều 19 quy định kinh tế nhà nước là chủ đạo, đầu tư
nước ngoài được khuyến khích (Điều 25), trong khi lại không thấy khuyến khích kinh
tế tư bản tư nhân trong nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu hóa thì sự
chia cắt như vậy sẽ làm thui chột sáng kiến kinh doanh và làm hại cho nền kinh tế. Rõ
ràng là thực tế kinh tế và xu hướng ngày nay cho thấy không thể phân biệt đối xử như
vậy.
Bảng dưới đây khái quát chất lượng thể chế ở Việt Nam được đo lường liên tục
trong thập niên 2000-2010.
144
Vũ Duy Nghĩa (Đại Học Kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh) trong bài đóng góp cho Hiến Pháp
1992 và tái cấu trúc nền kinh tế; Vũ Hùng Cường (Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam) trong
nghiên cứu về thành phần kinh tế tư nhân.
145 Bản Hiến pháp 1992 đã ghi nhận nền kinh tế với các thành phần kinh tế, xem Điều16 của Hiến
pháp 1992 và được quy định chi tiết hơn cho kinh tế nhà nước (Điều 19), kinh tế tập thể (Điều 20),
kinh tế tư bản tư nhân (Điều 21), khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 25). Tuy nhiên,
kinh tế tư nhân đã bị lướt qua.
255
Vấn đề 2: Coi sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng, kinh tế nhà
nƣớc là chủ đạo? Các Điều 15, 19 của Hiến pháp 1992 nhấn mạnh vào vai trò chủ
đạo của nền kinh tế nhà nước (quốc doanh), đầu tư nhà nước và sở hữu toàn dân. Đây
là nội dung không đúng cả về lý luận và thực tiễn. Trong Hiến pháp không nên phân
chia thành phần, mà chỉ nên nói các loại hình sở hữu được đối xử bình đẳng. Còn quy
định kinh tế nhà nước là chủ đạo sẽ không thích hợp với các quy định quốc tế và thực
tế cho thấy sẽ làm nền kinh tế tiếp tục trì trệ.
Vấn đề 3: Thực hiện sở hữu toàn dân. Trên thực tế, trong đất nước có đa sở
hữu thì sở hữu toàn dân là cần thiết tồn tại. Nhưng tất cả lại giao về cơ quan quản lý,
thậm chí giao cho người đứng đầu các địa phương, các Bộ, ngành, với các quy định mơ
hồ và thiếu trach nhiệm giải trình, thì trên thực tế đã biến của chung thành của riêng,
với tư duy nhiệm kỳ rất phổ biến hiện nay. Hơn nữa, sở hữu tư nhân đã phát triển mạnh
mẽ, sở hữu của các nhà tư bản, cư dân đô thị đã được bảo vệ ngày càng vững chắc,
nhưng quyền sử dụng đất của người nông dân còn khá mong manh, đất đai của nông
dân dễ dàng bị thu hồi vĩnh viễn với giá do nhà nước ấn định. Trên thực tế, các tài sản
trên đất và kế sinh nhai gắn liền đã bị coi nhẹ. Nghịch lý này tạo ra bất công xã hội lớn,
một mặt hạn chế đầu tư lâu dài vào khu vực nông nghiệp và nông thôn, biến nông dân
trở thành lực lượng xã hội gánh chịu chi phí cho quá trình cải cách, mặt khác tạo cơ hội
cho tham nhũng và băng hoại đạo đức công chức và uy tín của chính quyền.
PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa nhấn mạnh rất đúng rằng, Hiến pháp sửa đổi phải
tuyên bố mạch lạc hơn, buộc chính quyền phải bị giám sát chặt chẽ hơn khi can thiệp
vào tài sản tư của người dân. Quan chức nhà nước, các tập đoàn kinh tế nhà nước,
những doanh nghiệp có cơ hội tiệp cận các nguồn tài nguyên quốc gia, từ hầm mỏ, khai
khoáng, đất đai, bờ biển, mua sắm công cho đến đấu thầu đăng ký xuất khẩu (ví dụ
gạo), những độc quyền kinh tế (ví dụ phân phối xăng dầu, điện lực) trên thực tế là
những người có ưu thế kiểm soát các tài nguyên kinh tế ở Việt Nam. Đảm bảo công
bằng, quá trình này cần được minh bạch và bị kiểm soát, làm cho mọi người dân đều có
cơ hội tiệp cận rộng rãi hơn với những cơ hội này, đây cần là một tuyên bố chính trị
nhằm kiểm soát và phân phối phúc lợi một cách công bằng. Sở hữu công cộng, kiểm
soát đầu tư công, khuyến khích và bảo đảm cạnh tranh cần được đánh giá để thể hiện
thành một tuyên bố mạch lạc hơn, thể hiện sự chấp nhận rộng rãi hơn nguyên tắc cạnh
tranh và tự chịu trách nhiệm trong đời sống kinh tế.
Vấn đề 4: Xem xét lại vấn đề quyền đại diện sở hữu toàn dân của Chính phủ
(Điều 112.4 Hiến pháp 1992): Cụ thể hóa các Điều 16, 17 và Khoản 4 Điều 112 Hiến
pháp 1992, theo Khoản 6 Điều 9 Luật tổ chức Chính phủ 2001, Chính phủ trở thành chủ
thể thực thi quyền quản lý và sử dụng tài sản thuộc sở hữu toàn dân và tài nguyên quốc
gia, trong đó bao gồm: (i) thực thi quyền chủ sở hữu đối với toàn bộ tài nguyên đất đai,
(ii) thực thi quyền sở hữu đối với các doanh nghiệp có phần vốn góp của Nhà nước, (iii)
thực thi các quyền đầu tư công từ tài sản quốc gia. Đây là những quyền lực cực kỳ to
256
lớn, cần được thảo luận có nên trao cho Chính phủ hay những thiết chế ủy thác giám sát
công sản khác thực hiện.
Vấn đề 5: Tăng cƣờng bảo hộ sở hữu tƣ nhân. Sở hữu tư nhân của người
dân cần được Nhà nước bảo hộ một cách hiệu quả, đặc biệt là các tài sản có giá trị như
nhà đất và các tài sản do lao động và đầu tư từ nhiều năm mà có (kể cả đầu tư nước
ngoài). Cam kết không quốc hữu hóa, hoặc trưng mua, trưng dụng vì lý do an ninh,
quốc phòng, lợi ích quốc gia của Điều 23 là một đảm bảo tốt, song cần được đẩy
mạnh thành thái độ bảo hộ sở hữu tư nhân của Nhà nước, ví dụ thể hiện qua hệ thống
đăng ký vật quyền thống nhất. Chế độ sở hữu hiện hành, ví dụ nhà đất, hiện nay được
quản lý phân tán, đăng ký quyền sử dụng đất tách với các giao dịch bảo đảm liên quan
đến sở hữu nhà ở, từ đây cần nhấn mạnh trách nhiệm bảo đảm sở hữu tư nhân của Nhà
nước. Cũng như vậy, quyền sử dụng đất của nông dân được bảo hộ yếu, dễ bị thu hồi
vì các lý do được định nghĩa rộng hơn nhiều quy định tại Điều 23 Hiến pháp 1992,
ngoài ra cần lưu ý nhà, công trình xây dựng của nông dân là tài sản tư nhân, nếu chiểu
theo Điều 23 Hiến pháp 1992 không thể thu hồi, di dời và đền bù, mà phải tuân theo
các quy định khắt khe của trưng mua.
Vấn đề 6: Giới hạn điều tiết (hành chính) của Nhà nƣớc đối với nền kinh
tế. Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp bằng các luật lệ và công cụ thông qua chính
sách điều tiết hoặc các chính sách thuế, song cần nhấn mạnh kỷ luật thị trường như
quy định trong Hiến pháp. Sự điều tiết của Nhà nước phải được đặt vào những giới
hạn146
, Nhà nước chỉ can thiệp khi thị trường thất bại, mục đích can thiệp nhằm phân
bổ phúc lợi, Nhà nước khuyến khích và tôn trọng tự do cạnh tranh, coi đó là sức ép tự
điều tiết tốt nhất của nền kinh tế trong bối cảnh mới.
Những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và thực thi thể chế kinh tế cho Việt
Nam nhiều bài học quý, nhưng phải làm từng bước, ngày càng hoàn thiện.
2. Về nguồn nhân lực và khoa học công nghệ
Điểm mới trong tư duy của Đại hội Đảng lần thứ XI là, một mặt, khẳng định
vai trò chủ thể của con người. Mặt khác, chỉ rõ để con người có điều kiện phát triển
toàn diện và thực sự là chủ thể, cần phải có cơ chế thích hợp. Cơ chế đó là mở rộng
dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy tối đa quyền
làm chủ của mình. Bởi lẽ, dân chủ là một trong những điều kiện căn bản nhất để phát
huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người. Đồng thời, một khi dân chủ được bảo đảm
đầy đủ sẽ tạo ra sự đồng thuận xã hội cao, đó là yếu tố không thể thiếu để tạo động lực
phát triển đất nước.
Đại Hội XI đã xác định phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao, là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay
đến năm 2020. Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã chỉ rõ, để thực hiện thắng
lợi công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tức là, chuyển hướng chiến lược phát triển
nguồn nhân lực theo chiều rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng chất lượng của
nguồn nhân lực. Song, Đại hội Đảng lần thứ X cũng như các kỳ đại hội trước chưa xác
định đó là khâu đột phá, là những khâu trọng yếu của sự phát triển. Lựa chọn đúng
146
Mấy năm qua cho thấy, sự can thiệp hành chính, chỉ thị hành chính quá nhiều đã làm ảnh hưởng đến vai
trò “tự động” pháp luật và các quy định của thể chế kinh tế. Nó không chỉ làm cho quản lý xã hội bị rối mù, mà có thể bị các Nhóm lợi ích và một số quan chức xấu có thể sẽ lợi dụng.
257
khâu đột phá sẽ tạo ra những tiền đề, những điều kiện và môi trường thuận lợi để giải
phóng mọi tiềm năng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Trong ba
khâu đột phá chiến lược mà Đảng ta xác định thì “phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được xem là khâu đột phá thứ hai.
Đại Hội XI cũng nêu nhiệm vụ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Trong điều kiện khoa học -
công nghệ và kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng, những nước có trình độ phát triển
thấp vẫn có thể tận dụng thời cơ, ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ
hiện đại để vươn lên tránh nguy cơ tụt hậu và tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững. Điều
đó chỉ trở thành hiện thực nếu có sự gắn kết chặt chẽ giữa đầu tư gia tăng nhanh chóng
chất lượng nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến.
Điều rất đáng tiếc là nhiều vấn đề về phát triển nguồn nhân lực và khoa học
công nghệ đã chưa ra nổi nghị quyết, chưa ban hành được Luật giáo dục mới mang
tính đổi mới toàn diện, chứ chưa nói tới xây dựng chương trình hành động, dù Chính
phủ đã thông qua một số quy hoạch phát triển nguồn nhân lực dài hạn147
. Về khoa học
công nghệ, tuy đã ban hành Luật mới, nhưng triển khai thực tế còn rất hạn chế, vì
KHCN còn tách rời cuộc sống, mới chủ yếu chú ý đến khoa học công nghệ “quốc
doanh”, dùng vốn Nhà nước, mà chưa tính đến khoa học công nghệ quốc dân, được
huy động nguồn lực nhiều mặt của các thành phần kinh tế, của doanh nghiệp FDI và
Việt kiều ở nước ngoài. Về giáo dục và đào tạo, chúng ta còn ham dạy chữ, nhưng
việc đào tạo người, đào tạo nghề và đào tạo suốt đời lại chưa được chú ý đúng mức.
Do đó, chất lượng các chỉ tiêu lao động qua đào tạo còn rất hình thức.148
3. Về kết cấu hạ tầng đồng bộ
Đối chiếu với hoàn cảnh nước ta, đầu tư hạ tầng giao thông, năng lượng, cấp
thoát nước, viễn thông chiếm khoảng 9-10% GDP, và tỷ trọng lớn hơn trong đầu tư
công và sử dụng vốn ODA. Nhờ đó, hệ thống năng lượng điện, giao thông, viễn
147 Chiến lược và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực đến 2020 ghi rõ: phấn đấu đến năm 2020 đạt được một số
chỉ tiêu chủ yếu phát triển nguồn nhân lực là: tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề
là 55%; số sinh viên đại học - cao đẳng là 400 sinh viên/10.000 dân; có hơn 10 trường dạy nghề và trên 04
trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế. Về chỉ tiêu nâng cao thể lực nhân lực, phấn đấu tuổi thọ trung bình của lao
động là 75 tuổi, chiều cao trung bình của thanh niên là 1,65m, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi nhỏ hơn
5%. Với quan điểm chỉ đạo phát huy vai trò quyết định của yếu tố con người, phát triển nhân lực là khâu đột phá
để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; phát triển nhân lực toàn diện về thể lực, tri thức,
kỹ năng, hành vi và ý thức chính trị, xã hội tuy nhiên vẫn cần phải có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng phát triển
nhân tài, xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành. Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành cần phải chú trọng đến các
giải pháp thiết thực để phát triển nhân lực, đào tạo nhân lực phải gắn với nhu cầu xã hội, nhu cầu của thị trường
lao động; sử dụng, đánh giá và đãi ngộ nhân lực phải dựa vào năng lực và kết quả, hiệu quả công việc; khắc
phục tâm lý và hiện tượng quá coi trọng, đề cao “bằng cấp” một cách hình thức trong tuyển dụng và đánh giá nhân lực…. Thủ tướng cũng giao các Bộ, ngành, các địa phương và đơn vị, tổ chức xây dựng quy hoạch, đề án
phát triển nhân lực thuộc phạm vi quản lý; lồng ghép các mục tiêu, quan điểm và giải pháp phát triển của Chiến
lược vào quy hoạch, chương trình và đề án phát triển nhân lực của ngành, địa phương và đơn vị, tổ chức. 148
Theo kế hoạch 5 năm và Chiến lược 10 năm hiện nay, số lao động qua đào tạo tăng thêm mỗi năm
trung bình 1,5 triệu người, tức là bằng toàn bộ lực lượng lao động tăng thêm, nhưng được đào tạo theo
chương trình nào, tại cơ sở đào tạo nào chưa được làm rõ! Thậm chí, số lao động thất nghiệp cũng được thống kê thiếu chính xác do vận dụng khái niệm “thất nghiệp” của các nước không phù hợp.
Ngay việc xuất khẩu lao động cũng là nhằm tăng thu nhập là chính, còn việc học tập để nâng cao trình
độ về phục vụ đất nước lau dài cũng chưa được chú ý đúng mức. Việc chuyển giao công nghệ tại các dự án FDI cần được quan tâm hơn.
258
thông, cấp thoát nước đã được cải thiện đáng kể về điện lực149
, giao thông (đường bộ,
dường sắt, đường thủy, đường hàng không và đường ống)150
, viễn thông, cấp thoát
nước và đô thị, v.v...
Các mục tiêu này được định ra, kèm theo các định hướng và giải pháp khá đầy
đủ. Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai, có thể thấy một số điểm có thể góp ý:
Về mục tiêu hạ tầng giao thông:
Việc xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông đã được lưu ý, nhưng các quy hoạch còn
thiếu đồng bộ. Trong điều kiện ngân sách phân cấp khá triệt để như hiện nay và chia cắt
mạnh ngân sách theo các tỉnh (sử dụng đến 70% toàn bộ ngân sách từ các nguồn) thì sự
phối hợp trên phạm vi từng vùng lãnh thổ rất kém151
. Đặc biệt sự phối hợp đồng bộ của các
phương thức vận tải trong vùng và xét trong điều kiện hội nhập chưa được tính đến đầy đủ
(như các tuyến đường của tiểu vùng sông Mekong GMS hay kết nối với các nước trong
vùng với Trung Quốc trong hội nhập)152
.
149
Hệ thống điện Việt Nam gồm có các nhà máy điện, các lưới điện, các hộ tiêu thụ được liên kết
với nhau thành một hệ thống để thực hiện 4 quá trình sản xuất, truyền tải, phân phối và tiêu thụ điện năng trong lãnh thổ Việt Nam. Các yếu tố quan trọng là các Nhà máy điện và Lƣới điện, làm nhiệm
vụ truyền tải và phân phổi điện năng từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Ở Việt Nam lưới hệ thống do
A0 quản lý, vận hành ở mức điện áp 500 KV. Lưới truyền tải bao gồm từ 110-220KV; lưới phân phối đến các trạm phụ tải (trạm phân phối). Lưới phân phối trung áp (6-35kV)do sở điện lực tỉnh quản lý
và phân phối hạ áp (380/220V). 150
Hệ thống đƣờng bộ
Hệ thống đường bộ chính tại Việt Nam bao gồm các con đường quốc lộ, nối liền các vùng, các tỉnh cũng
như đi đến các cửa khẩu quốc tế với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Tổng chiều dài các con đường kể trên là
14.790,46 km, trong khi đó toàn bộ các tuyến quốc lộ của Việt Nam có tổng chiều dài khoảng 17.300 km, với gần 85% đã tráng nhựa. Ngoài các đường quốc lộ còn có các đường tỉnh lộ, nối các huyện trong tỉnh, huyện lộ
nối các xã trong huyện. Các tuyến tỉnh lộ có tổng chiều dài khoảng 27.700 km, với hơn 50% đã tráng nhựa.
Hệ thống đƣờng sắt :
Hệ thống đường sắt Việt Nam có tổng chiều dài khoảng 2600 km, trong đó tuyến đường chính nối Hà Nội –
Thành phố Hồ Chí Minh dài 1726 km, toàn ngành có 302 đầu máy, 1063 toa tàu chở khách và 4986 toa tàu chở
hàng. Các tuyến đường sắt từ Hà Nội: Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh: 1726 km, được gọi là Đường sắt Bắc Nam; Hà
Nội - Thái Nguyên; Hà Nội – Lào Cai: 296 km; Hà Nội – Hải Phòng: 102 km; Hà Nội – Đồng Đăng: 162 km; Hà
Nội - cảng Cái Lân: 180 km (chở hàng). Đường sắt Việt Nam hiện gồm có hai loại đội tàu hỏa là tầu khách và tầu
hàng. Hiện nay phần lớn đường sắt Việt Nam (khoảng 2249 km) dùng khổ rộng 1,0 m, và toàn tuyến đường sắt
Bắc Nam dùng khổ 1,0 m. Có 180 km dùng khổ 1,435 m là tuyến đường Hà Nội - cảng Cái Lân dùng cho tàu chở
hàng.
Hệ thống đƣờng thủy
Các tuyến đường thủy nội địa dựa theo các con sông chính như: sông Hồng, sông Đà ở miền Bắc; sông
Tiền, sông Hậu ở miền Tây Nam Bộ và sông Đồng Nai, sông Sài Gòn ở miền Đông Nam Bộ. Tổng chiều dài của
tất cả các loại sông, kênh, rạch trên lãnh thổ Việt Nam khoảng 42.000 km (sông Hồng với khoảng 541 km; sông
Đà khoảng 543 km….). Hệ thống đường thủy Việt Nam hiện đang đảm nhiệm 30% tổng lượng hàng hóa lưu
chuyển trong nước, riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đảm nhiệm tới 70% lưu thông hàng hóa trong vùng.
Các cảng biển chính hiện nay gồm: cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân ở miền Bắc, cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn ở
miền Trung và cảng Sài Gòn, cảng trên sông Thị Vải ở miền Nam...
Hệ thống đƣờng hàng không
Hệ thống đường hàng không Việt Nam bao gồm cơ sở hạ tầng là các sân bay quốc tế và các sân bay nội địa.
Các hãng hàng không của Việt Nam và một số quốc gia khác cùng khai thác. Các sân bay quốc tế gồm: Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, Sân bay quốc tế Nội Bài, Sân bay quốc tế Đà Nẵng, Sân bay quốc tế Phú Bài, Sân bay quốc
tế Cam Ranh, Sân bay quốc tế Cát Bi, Sân bay quốc tế Trà Nóc… Việt Nam hiện nay có khoảng gần 30 sân bay
các loại có bãi đáp hoàn thiện, trong đó có 8 sân bay có đường băng dài trên 3.000 m có khả năng đón được các
máy bay loại cỡ trung trở lên như Airbus A320, Airbus A321… 151 Trong số 15 Khu kinh tế ven biển đã tập trung xây dựng cho 5 khu, nhưng chất lượng cũng rất yếu kém. Đến nay
lại có chủ trương tập trung cho phát triển 4 khu hành chính kinh tế thì sợ nguồn lực còn phân tán hơn. 152
Khi quy hoạch phát triển ngành năng lượng hay cảng hàng không, một số người có ý kiến chưa tán
thành căn cứ tổng cầu của Việt nam, mà chưa tính đến Việt Nam cần tính chiến lược phát triển trong hội nhập, có thể gắn kết với cả vùng Đông Nam Á.
259
Về mục tiêu điện và năng lƣợng:
Cân đối năng lượng cùng với giao thông có thể xem là những chỉ tiêu quan
trọng nhất phản ánh trình độ phát triển đất nước. Và nếu không có đột phá chiến lược
trong các lĩnh vực này thì cũng có thể biến chúng thành các khâu “thắt cổ chai” trong
phát triển. Hiện nay, tiêu dùng điện bình quân đầu người thấp, nhưng Việt Nam không
chỉ chưa chú ý phát triển nguồn và lưới, mà còn chưa chú ý đến tiết kiệm năng lượng,
trong điều kiện đô thị hóa nhanh.
Về mục tiêu thủy lợi:
Dường như còn mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ, quy định chia cắt mà chưa gắn
kết nhiều với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Chẳng hạn nêu thủy lợi là nhằm
đảm bảo lúa 2-3 vụ, nhưng trồng lúa như vậy, thậm chí quy định cứng 3,8 triệu ha
trồng lúa đã thích ứng với thị trường chưa, đã bảo đảm hiệu quả cao nhất cho Việt
Nam chưa, khi chưa gắn kết lĩnh vực tồng lúa với cả chuỗi giá trị từ sản xuất đến thu
hoạch, tồn trữ, chế biến, tiêu thụ trong và ngoài nước.
Về mục tiêu đô thị:
Do nóng vội trong phát triển, quá trình đô thị hóa đã thực hiện một cách vội vã.
Tốc độ đô thị hóa nhanh, việc chuyển đổi cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế diễn ra
quá nhanh, nhưng việc tạo kế sinh nhai cho nông dân hết ruộng, nhưng chưa thể thành
thị dân còn rất gian khó, đặc biệt ở vùng ven đô, vùng nông dân mất hết ruộng đất…
Việc xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và có một số mặt hiện đại đòi hỏi có quy
hoạch đúng và số vốn đầu tư lớn, vốn duy tu bảo dưỡng không nhỏ. Dường như các
vấn đề này đã chưa được đưa lên bàn tính một cách nghiêm túc, khi tốc độ đô thị hóa
rất nhanh chóng.
4. Đột phá chiến lƣợc và bƣớc đi
Đột phá chiến lược là các khâu trọng yếu cần xử lý để tạo điều kiện cho phát
triển. Phân tích đã nêu cho thấy, tuy mọi việc đều quan trọng, nhưng không thể thực
hiện mọi việc ngay một lúc. Nói cách khác, Chính phủ cần định ra lộ trình và bước đi
cho các đột phá này.
Trong khi vấn đề xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao và đẩy mạnh ứng
dụng khoa học công nghệ đòi hỏi thời gian dài và làm rộng khắp, thì việc xây dựng
kết cấu hạ tầng cần đồng bộ, từng bước hiện đại, phù hợp với khả năng tích lũy của
nền kinh tế từ mọi nguồn. Riêng vấn đề cải cách thể chế cần làm sớm trên tư duy phát
triển được đổi mới căn bản. Một số luận điểm có tính chất giáo điều, thậm chí quá
“quen thuộc” nhiều năm trước đây cần được tư duy lại để hướng tới cách làm mới phù
hợp hơn trong giai đoạn hội nhập quốc tế (như đất đai và vấn đề sở hữu, vấn đề thành
phần kinh tế và vai trò của khu vực công, v.v…)153
.
153
Cho đến nay các dự luật về đầu tư công, chi tiêu công, nợ công,… vẫn chưa được bàn luận một
cách thấu đáo, bám sát thông lệ quốc tế.
260
CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ VÀ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
ĐỂ TẠO LẬP MÔI TRƢỜNG CẠNH TRANH BÌNH ĐẲNG
TS. Lê Đăng Doanh
1. Đại Hội XI về đổi mới chính trị và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 được Đại hội XI của Đảng
thông qua (1.2011) đã khẳng định:
“Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với
đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong
xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”154
Chiến lược khẳng định coi “ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách
hành chính.” là khâu độc phá chiến lược số 1.
Chiến lược cũng nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật
pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế” và : “Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế. “
Trong khi Cương lĩnh vẫn nhấn mạnh “Kinh tế nhà nước là chủ đạo” thì Chiến
lược KT-XH chỉ đề cập đến “ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty.
Sớm hoàn thiện thể chế quản lý hoạt động của các tập đoàn, các tổng công ty nhà
nước” mà không nhắc đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tuy vậy, trong các văn kiện Đại Hội Đảng từ Đại IX đến nay không hề đề cập
đến yêu cầu kiểm soát độc quyền trong kinh tế.
Rất tiếc rằng những định hướng đúng đắn nêu trên đã không được thực hiện
trong thời gian qua.
Hiện nay, chưa có một công trình khoa học độc lập phân tích một cách có hệ
thống, toàn diện các mặt mạnh và yếu của thể chế ở Việt Nam, bao gồm cả Đảng, Nhà
nước và các Đoàn thể. Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước “Thể chế hiện đại”, 2010 chỉ
đề cập đến nhà nước, không đề cập đến hệ thống Đảng và các tổ chức chính trị-xã
hội155
. Báo cáo này đã chỉ rõ những vấn đề, hạn chế và yếu kém của thể chế nhà nước
về trách nhiệm giải trình, nhất là trách nhiệm giải trình trong quá trình phân cấp và
giao quyền hạn cho các địa phương, chế độ tiền lương và hệ thống trợ cấp phức tạp,
hệ thống tuyển dụng và đề bạt, hệ thống luật pháp và tư pháp, giám sát.
154 http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2011/3/253252/
155 Ngân Hàng Thế Giới, Báo cáo phát triển Việt Nam 2010, Các thể chế hiện đại, Hà Nội, tháng 12.2009.
261
Trong khi Việt Nam đang hội nhập sâu sắc về rất nhiều mặt vào kinh tế thế giới,
những giá trị chung như quyền con người, lợi ích chung trên thế giới và khu vực, luật lệ
quốc tế v.v... thì thể chế chính trị đã không thay đổi kịp thời để phát huy các mặt mạnh của
dân tộc và đất nước, hạn chế, bổ sung cho những khuyết tật của kinh tế thị trường và toàn
cầu hóa.
Có thể dễ dàng nhận thấy sự song hành của hệ thống Đảng và Nhà nước, trong đó
Đảng nắm quyền lãnh đạo, dẫn đến nhiều vấn đề thiếu rõ ràng về thể chế. Ví dụ cụ thể là đã
có Chủ tịch nước chính thức đề nghị Quốc hội xác định quyền của Chủ tịch Nước được
hiến định là tổng tư lệnh quân đội trong khi Tổng bí thư là Bí thư quân ủy trung ương thì
thực hiện thế nào.
Điều này dẫn đến thực tế là lãnh đạo ở các cấp phải bàn bạc, thảo luận nhiều lần ở
các cấp Đảng, Chính quyền, Quốc hội về một vấn đề trước khi đi đến quyết định, quá trình
quyết định chậm trễ, không đáp ứng yêu cầu của phản ứng nhanh nhạy. Quá trình quyết
định tập thể làm cho việc quy trách nhiệm cá nhân trở nên rất khó khăn vì cá nhân mắc sai
phạm có thể viện dẫn trách nhiệm tập thể do các chủ trương, nghị quyết đều được tập thể
thông qua.
Nghị quyết của Đảng có hiệu lực cao hơn luật pháp, chỉ đạo việc xây dựng luật
pháp, chỉ đạo hành động của Chính phủ nhưng chưa có quy định chặt chẽ về hiệu lực pháp
lý về nghị quyết của Đảng trong khi nghị quyết thường là kết quả dung hòa của các ý kiến
khác nhau.
Việc giám sát quyền lực trong hệ thống Đảng thông qua Ban Kiểm tra Đảng
còn nhiều hạn chế, vừa không ngăn cản được vi phạm mà cũng ít phát hiện ra sai
phạm, dẫn đến kỷ luật không nghiêm. Chính Lê nin đã đề xuất ý tưởng Đại hội Đảng
trực tiếp bầu ra Ban Kiểm tra của Đảng có quyền lực như BHC Trung ương, chịu
trách nhiệm giám sát Bộ Chính trị và BCH TW. Rất tiếc ý tưởng đó của Lê nin không
được thực hiện.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ngày 29.06 2012 đã nhận định: “Hiện tượng hư
hỏng, tham nhũng, tiêu cực đúng là lắm lúc nghĩ hết sức sốt ruột, nhìn vào đâu cũng thấy,
sờ vào đâu cũng có, song phải có cái nhìn khách quan, biện chứng để không mất phương
hướng... “156
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan ngày 11.09.2013 cũng nhận định:
“Đến tiền của các cháu dân tộc thiểu số mà hiệu trưởng cùng với một số cán
bộ còn biển thủ đến gần 3 tỷ, vừa rồi mới khởi tố. Cái liều vacxin tiêm cho một cháu,
nhưng lại san ra tiêm cho hai cháu ngay tại Hà Nội… Tôi càng đi càng thấy buồn, ăn
của dân không từ một cái gì”.157
Song, chính Phó Chủ tịch ngày 5.11.2011 lại khẳng định trên báo Nhân Dân:
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà nước pháp
quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về bản chất
và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản” 158
156
http://vneconomy.vn/20120629030348661P0C9920/tong-bi-thu-het-suc-sot-ruot-truoc-tham-nhung-hu-hong.htm 157
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/568432/pho-chu-tich-nuoc--an-cua-dan-khong-tu-mot-cai-gi.html 158 Nhân Dân, ngày 5.11.2011
262
Những nhận định khác nhau như vậy cho thấy rất cần có một sự đánh giá khoa
học-thực tiễn đầy đủ về hệ thống thể chế hiện nay.
Đổỉ mới chính trị đã không có “một lộ trình thích hợp” và không “đồng bộ với
đổi mới kinh tế” như Đại hội XI đã yêu cầu. Trong các Hội nghị Trung Ương và các
dịp khác nhau, lãnh đạo Đảng đã nhiều lần chỉ rõ nguy cơ tham nhũng đe dọa sự tồn
vong của chế độ và của Đảng, “lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ” nhưng những biện
pháp đề xuất chỉ hạn chế vào phê bình và tự phê bình, chỉnh đốn tổ chức Đảng v.v...,
thiếu hẳn các biện pháp cải cách về thể chế như thực hiện công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình (accountability), giám sát quyền lực, phát huy vai trò của người dân
và báo chí trong đấu tranh chống tiêu cực và tham nhũng v.v... Việc tổ chức thực hiện
các biện pháp đã đề ra như “phê bình và tự phê bình”, “thương yêu đồng chí” v.v...
hoàn toàn không đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Tham nhũng tiếp tục phát triển
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và xếp hạng về “Chỉ số cảm nhận tham nhũng”
(Corruption Perception Index) của Tổ chức Minh bạch Thế giới tiếp tục bị tụt hạng từ
112 (2011) xuống 123 (2012).
Chỉ số cảm nhận tham nhũng trong khu vực
Đa số quần chúng thăm dò đều cho phòng chống tham nhũng là không hay kém
hiệu quả:
263
Dân đánh giá chống tham nhũng kém hiệu quả
(IT 09.07.2013 Global Corruption Barometer )
Đáng chú ý là những ngành, lĩnh vực bị dân nêu lên là tham nhũng thì chưa có
bất kỳ giải pháp nào trước các kêt quả thăm dò được công bố, riêng ngành cảnh sát thì
cho đó chỉ là “tiêu cực chứ không phải là tham nhũng”:
Tiếp xúc và tham nhũng trên các lĩnh vực
Vai trò của nhà nước trong bảo đảm thực thi pháp luật trong xã hội, bảo đảm các quyền
và lợi ích của công dân đã được Hiến định chưa được thực hiện tốt. Các hiện tượng lừa
đảo trong y tế (như vụ tiêm ăn bớt vaccine ở Hà Nội, vụ nhân bản xét nghiệm máu ở
Bệnh viện đa khoa huyện Hoài Đức v.v...), giáo dục trong các cơ sở công lập được phát
hiện ngày càng nhiều, vụ lương khủng của các lãnh đạo doanh nghiệp công ích ở
TPHCM, nhiều vụ việc sử dụng hóa chất độc hại trong thực phẩm chậm được phát hiện
264
cùng với việc nhiều vụ tham nhũng được xử án treo v.v... cho thấy sự yếu kém đến bất
lực của một bộ phận không nhỏ bộ máy nhà nước.
2. Kinh nghiệm quốc tế về cải cách thể chế
Kinh nghiệm của Hàn Quốc, Đài Loan và Myanmar cho thấy cải cách thể chế
là bước đi cần thiết để đưa đất nước tiếp tục phát triển.
Hàn Quốc và Đài Loan đều chịu sức ép phải phát triển để tồn tại sau khi chiến
tranh Triều Tiên kết thúc và Quốc Dân Đảng bị thua trận ở đại lục và rút ra Đài Loan.
Hàn Quốc và Đài Loan đã từng bước chuyển từ chế độ toàn trị sang một chế độ dân
chủ hơn, cho phép người dân trực tiếp bầu ra tổng thống, tham gia vào công cuộc phát
triển đất nước và đượng hưởng lợi từ công cuộc phát triển đó.
Từ GDP/người năm 1960 chỉ có 79 $ đến năm 2012 đã đạt 22.670 $/người
trong khi không hề có tài nguyên đáng kể nào.
Tương tự như vậy, Đài Loan cũng phát triển rất nhanh, GDP/người năm 2012 đạt
20.386$.
Gần đây, Myanmar cũng có bước cải cách thể chế chính trị rất ngoạn mục một
cách hòa bình, không đổ máu, chuyển từ chế độ cai trị của quân đội sang chế độ dân
chủ, chấp nhận đối thoại với phe đối lập. Myanmar đã vượt qua được sự phong tỏa và
cô lập và đang phát triển kinh tế mạnh mẽ.
Acemoglu trong cuốn “Tại sao các quốc gia thất bại”159
đã phân tích sự phát
triển rất khác nhau giữa Nam và Bắc Triều Tiên và đi đến kết luận “Các nước khác
nhau về thành công kinh tế của họ bởi vì các thể chế khác nhau của họ, các quy tắc
ảnh hưởng đến nền kinh tế hoạt động như thế nào, và các khuyến khích làm động cơ
thúc đẩy người dân”.
Acemoglu đã nhận xét: “Các thể chế kinh tế dung hợp hay công bằng
[inclusive], ví dụ như các thể chế ở Nam Hàn hay ở Hoa Kỳ, là các thể chế mà cho
phép và khuyến khích sự tham gia của đông đảo người dân vào các hoạt động kinh tế,
mà lợi dụng tốt nhất tài năng và kỹ năng của họ và cho phép các cá nhân đưa ra các
lựa chọn họ muốn. Để là bao gồm, các thể chế kinh tế phải đề cao quyền tài sản tư
nhân an toàn, một hệ thống luật pháp không thiên vị, và một sự cung ứng các dịch vụ
công mà tạo ra một sân chơi bằng phẳng trong đó người dân có thể trao đổi và [thỏa
thuận, ký kết] hợp đồng; nó cũng phải cho phép sự gia nhập của các doanh nghiệp
mới và cho phép người dân lựa chọn sự nghiệp của mình.” Thể chế này kiểm soát
quyền lực của các chính trị gia, bảo đảm thực thi pháp luật đối với tất cả các công dân,
không có đặc quyền, đặc lợi.
Trái lại, Acemoglu đã định nghĩa thể chế bóc lột hay tước (chiếm) đoạt
(extractive) là những thể chế tập trung trong tay một thiểu số, không có đối trọng và
kiểm soát quyền lực, pháp luật không được áp dụng bình đẳng đối với mọi người. Thể
chế này dẫn đến không có pháp luật và trật tự, quyền sở hữu không được bảo đảm, rào
cản được dựng lên đối với người dân trong khi đặc quyền, đặc lợi lại được ban phát
cho môt thiểu số, tạo ra một xã hội có nhiều bất bình đẳng về cơ hội và thu nhập.
Acemoglu đi đến kết luận đáng chú ý sau:
159 D.Acemoglu, Tại sao các quốc gia thất bại, NXB Trẻ, 2013.
265
“Trong cuốn sách này, chúng tôi chứng minh rằng trong hầu hết mọi trường
hợp, một nước sở dĩ nghèo là do họ có các thể chế kinh tế chiếm đoạt, bắt nguồn từ
các thể chế chính trị chiếm đoạt. Còn các nước giàu sở dĩ giàu là bởi vì họ có các thể
chế chính trị dung hợp, với nhà nước mạnh và có trách nhiệm giải trình, và quyền lực
chính trị được phân phối một cách rộng rãi, và nhờ đó tạo ra các thể chế kinh tế dung
hợp.”
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng cải cách thể chế, xây dựng thể chế bao
dung là chìa khóa cho sự thịnh vượng của các quốc gia. Nghị quyết Đại hội XI về cải
cách thể cần được triển khai thực hiện.
3. Thể chế kinh tế thị trƣờng, cạnh tranh bình đẳng và kiểm soát độc quyền
Đại hội XI cũng đã yêu cầu phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là “bảo đảm cạnh tranh bình đẳng và cải cách
hành chính”.
Thực tế cho thấy không thể hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nếu không cải
cách thể chế nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng.
Ngày 4.09.2013, Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố Báo cáo Cạnh tranh Toàn
Cầu 2013-2014, trong đó xếp hạng của Việt Nam tăng 5 bậc, từ 75 lên 70 trên 148 nền
kinh tế.
Về thể chế, Việt Nam xếp hạng thứ 98, thấp xa so với tổng xếp hạng của cả nền kinh tế.
Sau đây, xin điểm qua một số nét về cạnh tranh bất bình đẳng và độc quyền ở
nền kinh tế nước ta.
Cạnh tranh lành mạnh, theo pháp luật đã được thừa nhận là một nguyên tắc
hoạt động cơ bản của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao
hiệu quả, năng suất, dẫn đến đào thải nhưng doanh nghiệp yếu kém. Nếu như trong
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung các doanh nghiệp nhà nước sẽ tồn tại và hoạt động
266
không cần cạnh tranh thì trong kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, cạnh tranh diễn ra
trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trước viễn cảnh cuối năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ được thiết
lập, 10 nước ASEAN sẽ hình thành một thị trường thống nhất và Việt Nam đang tích cực
đàm phán để gia nhập Hiệp định Hợp tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) việc thực hiện
cạnh tranh lành mạnh, theo pháp luật là động lực cần thiết để nâng cao hiệu quả và sức
mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiệp định TPP liên quan đến nhiều vấn đề cốt lõi
của thể chế kinh tế thị trường và thể chế nhà nước như bảng sau đây tóm tắt những chủ đề
chính của TPP:
Các vấn đề TPPwww.ustr.gov
• Cạnh tranh
• Hợp tác và Xây dựng nănglực
• Dịch vụ xuyên biên giới
• Hải quan
• Thương mại điện tử• Môi trường
• Dịch vụ tài chính
• Mua sắm chính phủ• Sở hữu trí tuệ• Đầu tư
• Doanh nghiệp nhà nước
64
• Lao động
• Các vấn đề pháp lý
• Tiếp cận thị trường đối với hànghóa
• Quy tắc Xuất xứ• Tiêu chuẩn kiểm dịch động thực vật
(SPS)
• Rào cản kỹ thuật đối với Thươngmại (TBT)
• Viễn thông
• Nhập cảnh tạm thời
• Quần áo – dệt may
• Chế tài thương mại
Đối với doanh nghiệp nhà nước, TPP đòi hỏi phải đối xử công bằng (fairness),
công khai, minh bạch, chấm dứt các ưu đãi, thiên vị. Nếu bị phát hiện, vụ việc có thể
được đưa ra tòa án để xem xét và phán quyết..
Đây vừa là cơ hội cho cải cách vừa là thách thức đối với các nhóm lợi ích đang
tồn tại hiện nay.
Luật Cạnh tranh đã có hiệu lực tư 1.1.2005 và ngày 09/01/2006, Chính phủ ban
hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh.
Theo quy định của Luật Cạnh tranh, đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, Cục
Quản lý cạnh tranh đảm nhận vai trò điều tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên
quan đến vụ việc, còn việc xét xử, xử lý, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có
liên quan đến vụ việc cạnh tranh thì do Hội đồng cạnh tranh (Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh) đảm nhận. Hội đồng cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập gồm từ
11 đến 15 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của
Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương). Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh
cũng được Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm trong số thành viên của Hội đồng cạnh
tranh theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Ngày 09/01/2006, Chính phủ ban
hành Nghị định số 05/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh. Ngày 12/06/2006, theo đề nghị
267
của Bộ trưởng Bộ Thương mại, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 843/QĐ-
TTg bổ nhiệm 11 thành viên Hội đồng cạnh tranh. Thành viên Hội đồng cạnh tranh là
đại diện của các bộ: Bộ Thương mại, Bộ Tư Pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư,…
Hội đồng cạnh tranh gồm 01 Chủ tịch, giúp việc cho Chủ tịch có 02 Phó Chủ tịch. Để
giúp việc cho Hội đồng, ngày 28/08/2006, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã có Quyết định
số 1378/QĐ-BTM thành lập Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh. Ban Thư ký gồm 8
người làm việc chuyên trách. Tháng 01/2009, Thủ tướng Chính phủ đã bổ nhiệm thêm
5 thành viên nâng tổng số thành viên Hội đồng cạnh tranh lên 16 người.
Mặc dầu có nỗ lực rất lớn đáng trân trọng, song tác dụng của Luật Cạnh tranh nói
chung và của Cục Quản lý Cạnh tranh và Hội Đồng Cạnh tranh nói riêng vẫn có nhiều
hạn chế. Trước hết, vị trí pháp lý của Hội Đồng và Cục trực thuộc Bô Công Thương còn
nhiều hạn chế. Các vấn đề liên quan đến tranh chấp của các tập đoàn và công ty lớn đều
không được trình lên và xét xử tại Hội Đồng Cạnh trạnh và Cục Cạnh tranh mà trình lên
Thủ Tướng Chính phủ để giải quyết theo đường hành chính.
Người ta còn nhớ là đã có sự bảo đảm rất hùng hồn với Quốc Hội từ tháng 11.
2002 là ngành viễn thông "đã hoàn toàn cạnh tranh" để rồi đến năm 2005 mới lộ ra vụ
VNPT và Viettel và Thủ Tướng Chính phủ có ý kiến về vai trò của Bộ trong việc kết nối
giữa hai doanh nghiệp.
Trường hợp giữa VNPT và Viettel vừa qua là một ví dụ điển hình của hiệu lực hạn
chế của Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Thay vì phải đưa ra xem xét tại Cục
Quản lý Cạnh tranh và độc quyền và tại Hội Đồng Nhà Nước về Cạnh tranh, vụ việc đã
được xử lý bằng con đường hành chính qua bộ quản lý ngành và Văn Phòng Chính Phủ.
Luật Cạnh tranh và Cục Cạnh tranh chưa được vận dụng trong trường hợp này.
Mới đây, việc độc quyền trên lĩnh vực truyền hình cũng đã được Cục Quản lý
Cạnh tranh đề cập đến nhưng đại diện Cục cho biết: ”Để giải quyết hiện tượng khá phổ
biến là doanh nghiệp truyền hình trả tiền thỏa thuận với chủ đầu tư khu đô thị để cung
cấp dịch vụ độc quyền, bà Trần Phương Lan nêu Luật cạnh tranh của VN chưa quy định
hành vi này, dù nó gây hạn chế cạnh tranh. “Chúng tôi đang kiến nghị sửa đổi bổ sung
để bảo vệ doanh nghiệp, quyền lợi người tiêu dùng” .160
Về việc để thế độc quyền lâu như vậy, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng thẳng thắn
thừa nhận: “Bộ Công thương đúng là chưa làm hết trách nhiệm, còn thiếu sự kiểm tra,
đôn đốc và kiến nghị với TƯ để tránh độc quyền với DN”.161
Có thể đánh giá là Cục Quản lý Cạnh tranh chưa có được vị thế pháp luật đủ mạnh để
thực thi các quyền hạn được giao. Các tập đoàn kinh tế nhà nước có chủ tịch và tổng giám
đốc do Thủ Tướng bổ nhiệm không sẵn sàng để Cục Quản lý Cạnh trạnh điều tiết những vấn
đề liên quan đến lợi ích to lớn do vị thế độc quyền đem lại.
Cũng có ý kiến cho rằng “Cục Quản lý Cạnh tranh được quy định “ôm đồm”
quá nhiều chức năng, từ điều tra xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, điều
tra các hành vi hạn chế cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng đến quản lý nhà nước về
chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại
quốc tế. Có một thực tế là không một cơ quan quản lý cạnh tranh nào trên thế giới
được quy định nhiều chức năng, đặc biệt là bao gồm cả các chức năng thực thi pháp
160 http://tuoitre.vn/chinh-tri-xa-hoi/568353/truyen-hinh-tra-tien-lo-ro-the-doc-quyen.html#ad-image-0 161http://xangdau.net/tin-tuc/thi-truong-xang-dau-viet-nam/doc-quyen-dien-xang-bo-cong-thuong-nhan-loi-
24735.html
268
luật về các biện pháp đảm bảo công bằng trong thương mại quốc tế như Việt Nam.
Điều này đã dẫn đến tình trạng quá tải cho hoạt động của Cục quản lý cạnh tranh
trong thời gian qua.”162
Tác giả này cũng nêu lên nhiều câu hỏi nghiêm túc về tư cách pháp lý của của
Hội đồng Cạnh tranh:
Thứ nhất, xét về mặt tổ chức, chúng ta chưa xác định được Hội đồng cạnh tranh
trực thuộc Chính phủ hay Bộ Công thương. Nghị định số 05/2006/NĐ-CP chỉ quy định
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập mà chưa khẳng
định rõ ràng nó trực thuộc cơ quan nào trong bộ máy hành pháp. Với tình trạng lấp
lửng này, những cuộc tranh luận về tổ chức của Hội đồng cạnh tranh đến nay vẫn chưa
thể kết thúc .
Thứ hai, các luận thuyết nền tảng của pháp luật cạnh tranh đã khẳng định rằng
tính độc lập và tự quyết tạo nền tảng vững chắc cho các cơ quan quản lý cạnh tranh
hoạt động độc lập và có hiệu quả . Dựa vào nội dung của Nghị định số 05/2006/NĐ-CP
khó có thể khẳng định được sự độc lập của Hội đồng cạnh tranh. Việc Bộ trưởng Bộ
Công thương có khả năng: đề nghị Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên và chủ
tịch Hội đồng cạnh tranh; quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Ban thư
ký Hội đồng cạnh tranh – bộ phận giúp việc cho Hội đồng; phê duyệt quy chế tổ chức
và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh sẽ dẫn đến khả năng chi phối đối với việc tổ
chức và hoạt động của cơ quan này. Ngoài ra, kinh phí hoạt động của Hội đồng cạnh
tranh được bố trí theo dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công thương . Với những
ràng buộc này, các ý định đưa Hội đồng cạnh tranh thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Bộ
Công thương là rất mong manh. Dù biết rằng, do sự hạn chế về khả năng lựa chọn
nhân sự và những non kém về kinh nghiệm trong việc thực thi pháp luật cạnh tranh đã
làm chúng ta không có nhiều khả năng lựa chọn những phương án tối ưu, song điều đó
không thể là cơ sở để trao toàn bộ khả năng thi hành đạo luật này cho Bộ Công thương.
Nhất là trong điều kiện hiện nay, Bộ này vẫn còn đóng vai trò chủ quản của một số
công ty nhà nước quan trọng và những nghi ngờ về tính khách quan trong hoạt động
của các cơ quan quản lý cạnh tranh vẫn còn cơ sở.
Thứ ba, về sự phân định thẩm quyền giữa Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng
cạnh tranh. Vấn đề này có nhiều điểm chưa thực sự hợp lý. Căn cứ vào các quy định
tại Mục 4 và 5 Chương V của Luật Cạnh tranh 2004 có thể thấy rằng, trong một vụ
việc về hành vi lạm dụng, cơ quan có thẩm quyền xử lý là Hội đồng cạnh tranh, song
gần như tất cả các hoạt động tố tụng đều do Cục quản lý cạnh tranh tiến hành. Hội
đồng cạnh tranh chỉ có thẩm quyền tổ chức phiên điều trần và ra quyết định xử lý vụ
việc, giải quyết các khiếu nại các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh về hành vi hạn
chế cạnh tranh. Như vậy, cho dù là cơ quan có quyền cao nhất, nhưng kết quả xử lý
của Hội đồng cạnh tranh gần như phải lệ thuộc vào kết quả của các hoạt động tố tụng
trước đó của Cục quản lý cạnh tranh. Nếu có bất cứ nghi ngờ gì về kết quả điều tra
thì phải trả lại hồ sơ để cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại. Rõ ràng, cách thiết kế
cơ chế phân quyền theo các quy định hiện hành có vẻ đảm bảo sự chuyên môn hoá
cao độ song lại làm mờ nhạt đi vai trò rất quan trọng của Hội đồng cạnh tranh là xử
162 Trương Hồng Quang (Tạp chí NCLP, số 6, 3/2011)
269
lý vụ việc . Điều này đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải xây dựng lại cơ chế phân quyền
này.
Thứ tư, trên thực tế, hoạt động của Hội đồng cạnh tranh trong thời gian qua
khá mờ nhạt, dường như trở thành “cái bóng” của Cục Quản lý cạnh tranh. Số lượng
vụ việc hạn chế cạnh tranh đã xử lý dừng ở mức khiêm tốn: một vụ (điều đó còn phụ
thuộc vào số lượng hồ sơ vụ việc mà Cục Quản lý cạnh tranh chuyển sang và Hội
đồng chỉ có chức năng xử lý chứ không có chức năng điều tra). Hội đồng cạnh tranh
cũng gặp những khó khăn như: hầu hết các thành viên đều kiêm nhiệm, bộ máy còn
chưa hoàn chỉnh về nhân sự và biên chế.
Bên cạnh đó, Hội đồng chưa có những hoạt động nổi bật về các chức năng còn
lại (quảng bá, tuyên truyền pháp luật cạnh tranh, học hỏi kinh nghiệm xây dựng, tổ
chức của các nước trên thế giới, hoàn thiện pháp luật cạnh tranh,…). Vì vậy, mô hình
tổ chức cũng như hoạt động của Hội đồng cạnh tranh Việt Nam chỉ mới dừng lại ở
mức còn sơ khai, chưa hoàn thiện.”
Khảo sát gần đây của Cục Cạnh tranh cho thấy đến trên 30% doanh nghiệp không
biết về Luật Cạnh tranh, số khác phát hiện cạnh tranh không lành mạnh nhưng ngại khiếu
kiện.163
Thực tế cạnh tranh không lành mạnh ở nước ta còn rất phổ biến, gây thiệt hai
nhiều mặt cho người tiêu dùng nhưng liên quan đến sự hoạt động của các cơ quan nhà
nước các cấp. Có thể đơn cử vài ví dụ:
Bộ trưởng Đinh La Thăng cũng đã công khai nêu nghi vấn về sự “bảo kê” của các
cán bộ giao thông vận tải đối với các doanh nghiệp vận tải vi phạm pháp luật164
.
Bộ trưởng cũng đã thẳng thắn chỉ ra hiện tượng xã hội đen thao túng nguyên
vật liệu xây dựng:
“Theo Bộ trưởng Thăng, khó khăn lớn nhất là giải phóng mặt bằng và nguồn vật
liệu để làm đường. Riêng về vật liệu xây dựng, người đứng đầu ngành giao thông cho
hay, hầu như nguồn vật liệu ở địa phương đã cấp cho doanh nghiệp tư nhân khai thác.
Đặc biệt, đã có tình trạng giang hồ cát cứ, xã hội đen, thế giới ngầm ở địa phương thâu
tóm nguồn cung vật liệu xây dựng, vượt ngoài tầm kiểm soát của chính quyền. Chính
điều này làm cho nguồn cung vật liệu cho các nhà thàu thi công gặp khó khăn, giá tăng
cao, tiến độ chậm, chất lượng không đảm bảo.
“Nguồn vật liệu khai thác tại chỗ, ở địa phương thì được cung cấp, còn đưa chỗ
khác đến thì lực lượng này không cho vào hoặc nếu vào mà muốn mua được lại phải
nộp tiền”, ông Thăng nói.” 165
Được biết ý kiến này của Bộ trưởng Thăng không được một số địa phương xác
nhận và đồng tình.
163 http://phapluattp. thuong-nhan-loi-24735.htmlvn/20130614115224605p1014c1070/doanh-nghiep-chua-ro-luat-canh-tranh.htm 164 http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/138182/khong-do-dau--bao-ke-moi-giam-tieu-cuc-tren-duong.html 165 http://vnexpress.net/tin-tuc/xa-hoi/xa-hoi-den-thau-tom-nguon-vat-lieu-xay-dung-tai-dia-phuong-
2839350.html
270
Tuy vậy, có thể thấy tình trạng cạnh tranh không lành mạnh rất đa dạng, phức
tạp, diễn ra ở rất nhiều lĩnh vực như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, vận tải,
sữa nhập khẩu, dược phẩm v.v... đều liên quan đến cơ quan nhà nước có trách nhiệm
thực thi pháp luật. Nếu “lợi ích nhóm” không được kiểm soát thông qua công khai
minh bạch, trách nhiệm giải trình, giám sát của dân, báo chí, cơ quan pháp luật thì tình
trạng cạnh bình đẳng theo pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp và nền
kinh tế còn xa vời. Chừng nào giá nguyên vật liệu còn do xã hội đen kiểm soát và
nâng giá thì chừng đó chi phí xây dựng đường cao tốc còn chưa kiểm soát được và sẽ
tiếp tục là gánh nặng đối với nền kinh tế. Tương tự như vậy, giá sữa cao hơn giá nhập
khẩu 5 lần nhưng Cục Quản lý giá lại nói đấy là sản phẩm dinh dưỡng, thực phẩm bổ
sung nên không thuộc loại sản phẩm bình ổn giá.166
Giá sữa cao trực tiếp đánh vào trẻ
nhỏ và người bệnh, người già gây bức xúc trong công luận đã trường diễn từ lâu
nhưng chưa thấy có phương án giải quyết.
Lâu nay, vấn đề doanh nghiệp nhà nước độc quyền thường được công luận chú ý nhiều
nhất:
Các lĩnh vực độc quyền của DNNN
25.330Xuất khẩu
6570Tín dụng ngân hàng TM
90N/AHàng không
100N/AĐƣờng sắt
100N/AXăng dầu
99N/AHóa chất cơ bản
100N/ASản phảm hóa dầu
69N/ACao su
90N/APhân bón hóa học
5264Thép
5559Xi măng
N/A63Thuốc lá
7050Giấy
9897Than
9294Điện
Tỷ trọng (2003, %)Tỷ trọng (1999,%)Công nghiệp
Trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước có vị thế thống lĩnh thị trường và độc
quyền địa phương còn nhiều hơn nữa.
Lộ trình áp dụng cơ chế thị trường cho ngành điện và các ngành khác tiếp tục
kéo dài trong khi Cục Quản lý cạnh tranh rất khó có thể giám sát các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước này.
Nhiều tỉnh, thành phố đã mặc nhiên cho phép hình thành “độc quyền địa
phương” bằng cách chỉ định một công ty duy nhất xuất khẩu gạo của tỉnh hay quy
định hành chính trong phạm vi địa giới của tỉnh chỉ dùng bia do doanh nghiệp của tỉnh
sản xuất. Những hành vi này không phù hợp với Luật Cạnh tranh nhưng chưa thấy
được xử lý.
166 http://dantri.com.vn/kinh-doanh/sua-nhap-ngoai-gia-ban-le-gap-5-lan-gia-nhap-khau-776746.htm
271
Gần đây, việc lãnh đạo một số công ty nhà nước công ích của TP.Hồ Chí Minh
nhận lương “khủng” đã bộc lộ những lỗ hổng trong hoạt động của tổ chức Đảng, Công
Đoàn, đoàn thể ở cơ sở cũng như những sai sót của cơ quan quản lý cấp trên của các
doanh nghiệp đó.167
Các doanh nghiệp này có vị thế “độc quyền” trên lĩnh vực được giao.
Song, tình trạng độc quyền cũng đã lan sang cả truyền hình trả tiền và những dịch vụ
khác.168
Bức tranh chưa đầy đủ và chưa có hệ thống trên đây cho thấy muốn hoàn thiện
cơ chế thị trường, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, theo pháp luật rất cần cải cách thể
chế, bảo đảm các cơ quan chính quyền nhà nước các cấp không tùy tiện can thiệp
hành chính vào thị trường và có cơ chế giám sát lợi ích nhóm.
Sau đây, xin đề xuất một số kiến nghị.
4. Kiến nghị
1. Quốc hội nên xem xét ra Nghị quyết về cải cách thể chế, thực hiện các
nguyên tác cơ bản của bộ máy như trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch, mỗi
vị trí đều phải có quy định về chức năng, nhiệm vụ rõ ràng. Việc bổ nhiệm những
chức danh chủ chốt phải có chương trình hành động, phải được thông qua giám định
và xét duyệt công khai của các Ủy ban của Quốc hội (ở trung ương) hay các ban của
Hội đồng Nhân dân cấp tương ứng. Hiện nay cải cách thể chế đã quá chậm và gây ra
nhiều tiêu cực, đã đến lúc Quốc hội cần thực hiện quyền hiến định về lĩnh vực này.
2. Xem xét việc nâng cấp Cục Quản lý cạnh tranh thành một cơ quan có đủ
thẩm quyền, hoạt động độc lập theo pháp luật dưới sự giám sát của Quốc hội (hay của
Chính phủ), không nên để tiếp tục trực thuộc Bộ Công Thương và chấm dứt việc hoạt
động của Cục và Hội đồng Quản lý cạnh tranh như hiện nay. Trong đó, cần quy định
quyền hạn điều tra, giám sát và xử lý các hành vị độc quyền, lạm dụng vị thế thống
lĩnh thị trường. Không nên tách rời chức năng điều tra và xử lý về cạnh tranh như hiện
nay.
3. Phát huy vai trò của báo chí và các tổ chức xã hội, trước hết là Hội bảo vệ
người tiêu dùng.
167
http://nld.com.vn/20130829112539762p0c1002/giam-doc-nhan-luong-khung-3-so-chong-lung.htm 168 http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/568353/truyen-hinh-tra-tien-lo-ro-the-doc-quyen.html#ad-image-0
272
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC HƢỚNG TỚI
TĂNG TRƢỞNG BỀN VỮNG
TSKH. Võ Đại Lƣợc
Trung tâm Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dƣơng
Đối với mọi quốc gia nguồn nhân lực luôn có vai trò hết sức quan trọng, nhưng
đối với những quốc gia tài nguyên thiên nhiên không dồi dào, thì nguồn nhân lực
càng có tầm quan trọng hơn. Việt Nam thuộc những nước không có nhiều tài nguyên,
do vậy nguồn nhân lực càng có vị thế vượt trội đối với sự tăng trưởng và phát triển
bền vững. Báo cáo này sẽ đề cập tới một số vấn đề chung về nguồn nhân lực, một số
kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện
nay.
I. Những vấn đề chung về phát triển nguồn nhân lực
Trước hết phải xác định nguồn nhân lực là gì?
Ngân hàng thế giới cho rằng: “nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp … của mỗi cá nhân”. Theo tổ chức lao
động quốc tế: “nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi
có khả năng tham gia lao động”. Hai định nghĩa này gắn nguồn nhân lực với lực lượng
tham gia lao động, nghĩa là theo nghĩa hẹp. Nhưng nguồn nhân lực có thể hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ dân cư của một quốc gia, không những là người lao
động, mà cả học sinh, sinh viên, trẻ em, người già, nghĩa là những người sẽ đang lao
động, sẽ tham gia lao động và đã hết tuổi lao động. Đây là một loại “tài nguyên đặc
biệt”, giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các nguồn lực phát triển của mọi quốc gia, là
cơ sở cơ bản nhất cho sự phát triển bền vững. Nguồn nhân lực hiểu theo nghĩa rộng
không chỉ là lực lượng lao động mà còn là lực lượng tiêu dùng những của cải do lao
động làm ra.
Nguồn nhân lực có thể xét về mặt cơ cấu, theo tuổi tác, theo giới tính, theo
nghề nghiệp, theo trình độ, theo tài năng. Một quốc gia có tỷ trọng người trẻ tuổi cao,
tỷ trọng tri thức lớn, số người tài hội tụ về nhiều.- đó là một quốc gia có tiềm năng
phát triển lớn.
Phát triển nguồn nhân lực, theo quan điểm của liên hiệp quốc bao gồm giáo dục,
đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội và
nâng cao chất lượng cuộc sống. Cũng có quan điểm cho rằng phát triển nguồn nhân lực
phải nhằm gia tăng giá trị vật chất, tinh thần, cả trí tuệ và tâm hồn, kỹ năng nghề
nghiệp, đạo đức, phẩm chất và nhân cách, kể cả cơ chế chính sách của nhà nước đảm
bảo sử dụng khai thác, phân bổ, phát huy hiệu quả cao nhất nguồn nhân lực của đất
nước.
Phát triển nguồn nhân lực không chỉ hướng vào thị trường trong nước, mà còn
phải hướng ra thị trường quốc tế, phải nâng cao khả năng cạnh tranh của nguồn nhân
lực đất nước. Một thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao,
đặc biệt là các nhân tài đang được tự do di chuyển.
273
Như vậy phát triển nguồn nhân lực phụ thuộc vào ba nhân tố chủ yếu: người
lao động phải tự rèn luyện phấn đấu gia tăng giá trị tổng thể của bản thân mình; nhà
nước phải có chính sách giáo dục đào tạo tốt, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực; thị
trường giữ vai trò phân bố nguồn lực hợp lý; các doanh nghiệp đào tạo, sử dụng các
nguồn lực có hiệu quả.
Trong 3 yếu tố đó, Nhà nước luôn có vai trò chủ đạo. Nếu Nhà nước có chính
sách giáo dục tốt, co các trường học đẳng cấp cao, có thể đào tạo được những nhân lực
có chất lượng cao; Nhà nước có chính sách trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài hội tụ
về đất nước và sử dụng họ có hiệu quả, thì đó là cơ hội lớn cho đất nước. Nhà nước có
chính sách lương bổng hợp lý, chính sách bảo vệ sức khỏe tốt, sẽ có tác dụng bồi dưỡng
các nguồn lực cho phát triển v.v… Trong các chính sách của Nhà nước, chính sách
nhân tài là quan trọng nhất – “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Nếu Nhà nước trọng
dụng được các nhân tài thì chính các nhân tài đó sẽ có cách sử dụng có hiệu quả lực
lượng lao động của đất nước. Trong nguồn lực lao động – những người nắm quyền
quản trị quốc gia là lực lượng quan trọng nhất, quyết định nhất đến vận mệnh của quốc
gia. Đây là lực lượng có vai trò chế định, thực thi, giám sát việc thực thi thể chế. Do vậy
cơ chế tuyển dụng chọn những người có tài vào bộ máy quản trị quốc gia từ Trung
ương đến địa phương là một cơ chế quan trọng nhất. Nếu bộ máy quản trị của một quốc
gia không có người tài, không có nguyên khí quốc gia ở đó, thì quốc gia đó khó có thể
phát triển. Trong điều kiện hiện nay đời sống của dân chúng ngày càng được cải thiện
và nâng cao, do vậy tuổi thọ của các nước đều tăng, ở nhiều nước phát triển tuổi thọ
trung bình đã tới trên 80 tuổi – một làn sóng “tóc bạc” đang đe dọa các nền kinh tế này,
vì số người không làm việc ngày càng tăng cao so với số người làm việc. Do vậy chính
sách dân số phải thích ứng với tình hình mới. Không chỉ hạn chế sinh đẻ, mà phải
khuyến khích thích hợp, để đảm bảo số người lao động cần thiết không được giảm.
Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nguồn lực rất đa dạng, nhưng nói chung các
nước đều xem đây là quốc sách hàng đầu theo hướng: luôn luôn đổi mới, chính sách
giáo dục và đào tạo, chính sách thu dụng nhân tài cả trong và ngoài nước, chính sách
thị trường lao động tự do, chính sách an sinh xã hội …
Mỹ là nước có chính sách giáo dục đại học được đánh giá cao như: đa dạng hóa
các nguồn kinh phí giáo dục đại học, các trường đại học đã huy động kinh phí từ nhiều
nguồn: từ nhà nước, các tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế tư nhân, các tổ
chức tôn giáo, v.v… Với nguồn kinh phí khá dồi dào, các trường đại học Mỹ có thể
xây dựng các cơ sở trường lớp hiện đại, thuê được các thầy giáo giỏi, lập các quỹ hỗ
trợ sinh viên. Lĩnh vực giáo dục đại học ở Mỹ thực sự là một thị trường cạnh tranh
cao. Chất lượng các trường cao thì khả năng thu hút được các sinh viên giỏi càng lớn.
Do vậy thương hiệu nhà trường ở Mỹ là một vấn đề mà không trường nào có thể lơ là.
Các trường đại học ở Mỹ là các trường đại học nghiên cứu đẳng cấp cao. Các phát
minh sáng chế chủ yếu là ở các trường đại học. Thời gian cho nghiên cứu khoa học
của các thầy giáo luôn được các trường đại học Mỹ xem trọng. Môi trường làm việc ở
Mỹ được đánh giá cao, do vậy đã có sức thu hút các nhân tài trên thế giới về Mỹ làm
việc. Hầu hết các học giả được giải Nobel đều tập trung ở Mỹ. Các trường đại học ở
Mỹ có sức thu hút mạnh mẽ các sinh viên trên khắp thế giới.
Nhật Bản là một trong những nước đi đầu ở châu Á trong việc phát triển nguồn
nhân lực. Nhật Bản hầu như rất nghèo về tài nguyên, do vậy để phát triển chỉ có thể
trong chờ vào nguồn nhân lực. Chính phủ Nhật đã thực hiện chính sách giáo dục bắt
buộc đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở, tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6-15 tuổi
274
được miễn phí học tập. Kết quả là tỷ lệ thi đỗ vào các trường đại học và cao đẳng ở
nước này ngày càng nhiều. Ngay từ bậc trung học cơ sở các học sinh đã được dậy nghể
đủ mức để họ ra trường có thể vào làm công nhân trong các nhà máy. Chế độ đào tạo và
quản lý nhân lực trong các xí nghiệp Nhật Bản cũng rất nổi bật, hướng người lao động
hợp tác với nhau với giới chủ, bằng các chế dộ lương thưởng theo thâm niên, trọng
dụng những người làm việc lâu năm có kinh nghiệm.
Hàn Quốc là một quốc gia rất xem trọng phát triển nguồn nhân lực. Tháng
12/2001, Chính phủ đã công bố chiến lược phát triển nguồn nhân lực lần thứ nhất giai
đoạn 2001-2005, tiếp đó chiến lược quốc gia phát triển nguồn nhân lực thời kỳ 2006-
2010 lại được xây dựng và dã được thực hiện có hiệu quả. Các chiến lược này đều
nhắm tới mục tiêu tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, trường đại học và các
cơ sở nghiên cứu, nâng cao trình độ sử dụng và quản lý nguồn nhân lực; nâng cao tính
chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công; xây dựng hệ thống đánh giá
và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho
phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển thị trường tri thức; phát triển giáo
dục hướng nghiệp cho các trường trung học, các trường dạy nghề kỹ thuật, đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng.
Cộng hòa Séc đã rất chú trọng tới việc hoạch định chiến lượcc phát triển nguồn
nhân lực. Séc đã hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực (2000)
với các định hướng phổ cập tiếng Anh, cải thiện nguồn nhân lực hành chính công,
phát triển giáo dục đại học - cao đẳng liên kết với hoạt động nghiên cứu, phát triển đội
ngũ giáo viên, phát triển hệ thống học tập suốt đời.
Trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực Trung Quốc đặc biệt chú trọng chiến
lược bồi dưỡng, đào tạo nhân tài. Nội dung của chiến lược này là “lấy nhân tài chấn
hưng đất nước; xây dựng đội ngũ nhân tài đông đảo và có chất lượng cao; tôn trọng
lao động tri thức, tôn trọng nhân tài và sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển làm xuất
phát điểm cơ bản của công tác nhân tài, điều chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây
dựng năng lực làm điều cốt lõi, ra sức đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài, kiên trì
đổi mới sáng tạo, nỗ lực xây dựng cơ chế đánh giá, sử dụng nhân tài một cách khoa
học”.
Singapore được xem là một quốc gia có chính sách phát triển nguồn lực rất nổi
bật, với hệ thống các trường phổ thông, đại học, cao đẳng cấp cao, hướng tới phát huy
khả năng sở thích năng khiếu của từng học sinh, giúp phát huy cao nhất tiềm năng của
mỗi học sinh. Chương trình đào tạo hiện đại, chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách,
truyền thống, văn hóa. Có chính sách thu hút học sinh nước ngoài, không chỉ nhằm
mục tiêu kiếm lời, mà chủ yếu nhằm thu hút nhân tài với chính sách tín dụng cho sinh
viên, khuyến khích các trường liên thông, liên kết với bên ngoài, mời gọi các đại học
danh tiếng đến Singapore đặt chi nhánh.
Một chính sách rất đáng chú ý của các nước là chính sách lương bổng đối với
các nhân tài, nói chung hầu hết các nước phát triển đều có mức lương tương đương
nhau đối với các nhân tài. Trung Quốc đã thực hiện chính sách giữ nguyên lương cho
các chuyên gia cao cấp nếu từ nước ngoài về Trung Quốc làm việc. Singapore còn
tăng lương cao hơn, cạnh tranh hơn. Lương của các bộ trưởng Singapore còn cao hơn
lương của Tổng thống Mỹ, đề không chỉ khuyến khích họ làm việc tốt, mà còn là một
rào cản chống tham nhũng.
275
Từ kinh nghiệm thực tế của một số quốc gia trên thế giới, ta có thể rút ra một
số nhận xét:
- Tất cả đều xem trọng việc phát triển nguồn nhân lực, xem đó là quốc sách
hàng đầu.
- Một số quốc gia đã hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho từng
giai đoạn, những quốc gia không hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực
theo hướng hiện đại và quốc tế, trên thực tế họ cũng đi theo những định hướng phát
triền phù hợp.
- Tất cả đều chú trọng công tác giáo dục từ phổ thông, dạy nghề đến giáo dục
cao đẳng đại học.
- Một số quốc gia đã có cả chính sách đào tạo trọng dụng, thu hút nhân tài.
- Lương cao, điều kiện làm việc tốt, được xem trọng và tôn vinh - cũng là một
chính sách được nhiều quốc gia chú ý.
II. Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam - Hiện trạng, vấn đề và giải pháp
* Hiện trạng
Chính sách phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đã có nhiều đổi mới theo
hướng như Đại hội Đảng XI đã nêu “Phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt”. Chính sách này đang đi vào cuộc sống, nhưng chậm trễ.
Nguồn nhân lực ở Việt Nam có số lượng xếp vào hạng thứ 2 ở Đông Nam Á
với 51,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động, chiếm tới 58,5% tổng
dân số - 87,84 triệu (theo tổng cục thống kế -2011), trong đó lực lượng lao động của
khu vực nông thôn chiếm 70,3%. Trong tổng số 51,4 triệu lao động chỉ có 7,8 triệu
người đã được đào tạo, chiếm 15,4 %; ở thành thị số lao động được đào tạo chiếm
30,9%, trong khi ở nông thôn chỉ có 9%. Đây là sự chênh lệch quá lớn, tác động tiêu
cực tới sự phát triển kinh tế.
Đội ngũ tri thức khá đông về số lượng: cả nước đến năm 2010 có trên 15 ngàn
tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, mục tiêu đến năm 2020 sẽ tăng lên tới 20.000. Số sinh viên
đại học và cao đẳng đến tháng 2/2011 đã có tới 2 triệu người.
Tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện còn bất cập so với nhu
cầu của thị trường, thể hiện ở chỗ:
- Có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm vì phần đông cử nhân ra
trường mơ hồ về định hướng nghề nghiệp, lý tưởng sẽ đạt tới, thiếu kiến thức thực tế
và kỹ năng hành nghề, yếu về khả năng tư duy sáng tạo, kỹ năng thuyết trình và làm
việc nhóm, v.v… Một lý do nữa là cơ cấu nghề nghiệp đào tạo không khớp với cơ cấu
nhu cầu của thị trường.
- Số lao động chưa được đào tạo, chưa có kỹ năng nghề nghiệp lớn, không
khớp với nhu cầu lao động của thị trường, do vậy có tình trạng thiếu lao động kỹ
năng, thừa lao động giản đơn.
- Số học sinh tốt nghiệp ra trường nếu được tiếp nhận về các công ty kinh
doanh, cũng chưa làm việc được ngay, mà phải mất tới 1-2 năm đề đào tạo lại.
276
Không chỉ chất lượng đào tạo có vấn đề, mà thị trường lao động Việt Nam còn
có những điểm nghẽn rất đáng quan tâm.
Thứ nhất, lương bổng không đủ đảm bảo cuộc sống của người lao động, đặc
biệt là những người làm việc trong bộ máy công quyền, mức lương tuy trung bình
khoảng 4 triệu - 5 triệu đồng/tháng cho các cán bộ công quyền trên, nhưng thực tế đã
không đáp ứng được các nhu cầu của gia đình họ. Do vậy họ phải tìm các nguồn thu
nhập khác ngoài lương. Đây là một trong các lý do dẫn đến tệ nạn tham nhũng, làm
việc không tận tâm, kém hiệu quả. Bộ máy đông nhân viên nhưng hoạt động kém.
Thứ hai, tệ nạn chạy chọt, đút lót để được vào biên chế nhà nước là khá phổ
biến, tuy không thể phát hiên ra, vì những người chạy chọt đút lót để con vào biên chế
nhà nước đã không tố cáo. Tệ nạn này làm cho bộ máy công quyền ngày càng thiếu
những người làm việc có năng lực. Có thể dẫn Hà Nội là một ví dụ. Đã có một cán bộ
lãnh đạo Hà Nội công bố công khai “phải mất 100 triệu mới chạy được 1 chỗ làm việc
trong các cơ quan Hà Nội”. Tuy nhiên việc này đã không thể xác minh được. Trong 9
năm qua kể đến trước năm 2012, Hà Nội đã tuyên dương 973 thủ khoa, nhưng chỉ có
100 thủ khoa về công tác tại các cơ quan của Hà Nội, và cũng chưa có xác minh 100
người này có mấy người còn làm việc tại Hà Nội. Điều này chứng tỏ là phải chạy chọt
mới vào làm việc tại các cơ quan của Hà Nội, nên những người giỏi không dễ có thể
được tiếp nhận.
Thứ ba, tình trạng “chạy chức chạy quyền” khá phổ biến biến. Muốn lên chức to nhỏ
đều phải có “phong bao”, chức to thì phong bao lớn, chức nhỏ thì phong bao nhỏ hơn, nhưng
nếu không có phong bao, rất khó lên chức. Tệ nạn này đã dẫn đến những hệ quả rất tiêu cực.
Do phải mất tiền mới lên được chức, nên khi có chức quyền họ phải thu lại bằng rất nhiều thủ
đoạn đa dạng như lại “bán” các chức có thể bán, tăng các khoản thu có thể thu, gây khó dễ
cho cấp dưới và dân để “cầu lợi”, v.v…
Thứ tư, hệ thống giáo dục ở Việt Nam từ mẫu giáo đến đại học và sau đại học
đang có nhiều vấn đề phải nghiên cứu xử lý. Các trường đại học mở phân tán trên tất
cả các tỉnh thành trái nguyên tắc phát triển tập trung của giáo dục đại học. Các trường
đại học trên thế giới đều tập trung ở một số trung tâm, chứ không phát triển đồng đều
khắp mọi nơi, vì các thầy đại học giỏi không nhiều nếu quá phân tán sẽ không có thầy
giỏi, do vậy chất lượng sẽ kém. Nhiều trường đại học ở các tỉnh xa trung tâm Hà Nội
và Hồ Chí Minh đã không có đến 1 tiến sĩ, làm sao có chất lượng được. Các giáo
trình, giáo khoa kém cập nhật hiện đại. Phương pháp giảng dạy nặng về “nhồi nhét”
tri thức, nhẹ về phát huy tri sáng tạo của sinh viên. Các chương trình giảng dạy nặng
về kiến thức, nhẹ về kỹ năng nghề nghiệp. Đây là những vấn đề đã được đề cập trên
các báo chí, những chậm được sửa chữa.
Thứ năm, tệ nạn tham nhũng khá phổ biến, ai cũng cảm nhận được, nhưng khó
tố cáo, vì tham nhũng đẻ ra từ cơ chế “xin- cho”. Hầu như dân muốn xin chính quyền
gì, thì phải có phong bì phong bao.
Thứ sáu, tình trạng tụt hậu về tư duy, bảo thủ giáo điều, thiếu tinh thần đổi mới
sáng tạo. Ở nước ta hiện có nhiều tư duy trái với thực tế Việt Nam và thế giới, những
vẫn tồn tại. Chẳng hạn về cả lý luận và thực tế, không một nền kinh tế thị trường nào
kinh tế nhà nước có thể giữ được vai trò chủ đạo một cách có hiệu quả, kiểm toán
doanh nghiệp nhà nước nào cũng thấy có vấn đề, nhưng tư duy này vẫn tồn tại. Một
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên thế giới cũng chưa có, vì bản
thân khái niệm xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn đang được các
277
Hội đồng lý luận nghiêm cứu nhiều năm mà vẫn chưa sáng tỏ. Ấy thế nhưng chúng ta
vẫn khẳng định là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những điểm nghẽn trên đây trong sự phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đang
là một lực cản to lớn cần được tháo gỡ.
* Các giải pháp
1. Nguồn nhân lực Việt Nam phải được bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng, đánh giá
theo các nguyên tắc của thị trường, Thị trường cần gì, ta phải đào tạo theo để đáp ứng.
Thị trường đánh giá chất lượng lao động. Lựa chọn, đề bạt phải có tính cạnh tranh, dù
Đảng cử người vào các chức danh quan trọng, nhưng không cử một mà nên vài ba ứng
viên để họ cạnh tranh và phấn đấu, và dân có quyền tham gia lựa chọn. Những chức
danh quan trọng nên để bầu trực tiếp.
2. Chính sách hội nhập là quan trọng. Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay,
nguồn nhân lực Việt Nam phải cạnh tranh với nguồn nhân lực của các quốc gia khác,
cạnh tranh từ những người đứng đầu nhà nước đến dân chúng. Do vậy phải có cơ chế
tuyển chọn những người lãnh đạo quốc gia có thể đối mặt với cạnh tranh quốc tế. Phải
có chính sách phổ cập tiếng Anh để có công cụ hội nhập, đồng thời phải có chính sách
thu hút nhân tài ngoài vào Việt Nam.
3. Chính sách trọng dụng nhân tài là một chính sách rất cơ bản. Nhân tài chỉ
chiếm 1 tỷ lệ rất nhỏ trong dân cư của các quốc gia – vào khoảng 2-3%. Nếu số nhân
tài nhỏ bé này không được trọng dụng, thì sẽ không có nhân tài quản lý sử dụng đông
đảo những người lao động còn lại. Nông thôn Việt Nam rộng lớn, chiếm tới 70% lao
động cả nước, nhưng về nông thôn không thấy nhân tài, họ tập trung về các đô thị, do
vậy nông thôn không thể phát triển được. Chính sách nhân tài phải có tính cạnh tranh
cao với các quốc gia khác về các mặt đãi ngộ, tạo điều kiện làm việc, giao cho họ
những trọng trách xứng với tài năng, v.v… Thị trường nhân tài là thị trường hiện đang
được quốc tế hóa mạnh nhất, do vậy quốc gia nào có cơ chế chính sách tốt sẽ thu hút
được nhân tài và ngược lại.
4. Chính sách lương bổng hợp lý. Chế độ lương của Việt Nam hiện quá bất hợp lý
- lương không đủ sống, nhưng vẫn sống đàng hoàng. Đổi mới chính sách tiền lương phù
hợp với trình độ phát triển, có tính cạnh tranh quốc tế. Phải giảm mạnh biên chế của bộ
máy công quyền, xã hội hóa các dịch vụ công có thể, giảm các doanh nghiệp nhà nước,
v.v… để có thể có tiền tăng lương cho cán bộ, công nhân viên.
6. Đối mới hệ thống giáo dục theo hướng hiện đại và cạnh tranh quốc tế:
- Xây dựng các trung tâm đại học ở các vùng, thay vì phân tán ở các tỉnh. Bộ
Giáo dục và Đào tạo phải trực tiếp quản lý các trung tâm đại học cấp vùng, chứ không
phải giao cho các tỉnh quản lý hiên nay.
- Chương trình và giáo trình phải hiện đại, cập nhất, liên kết, liên thông với thế giới.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy trí sáng tạo tự chủ của
học sinh thay cho cách học nhồi nhét tri thức.
- Khuyến khích các trường đại học cao đẳng cấp quốc tế trong tốp 200 đặt chi
nhánh tại Việt Nam.
- Các trường phổ thông đổi mới theo hướng gắn nhiều hơn với giáo dục nghề.
278
7. Có chính sách hợp lý đối với lao động nhập cư vào các thành phố vể cả hộ tích, các
chế độ an sinh xã hội phù hơp với xu hướng đô thị hóa đang gia tăng ở Việt Nam.
8. Phải có chính sách thu hút người tài về nông thôn để phát triển nông thôn,
nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
9. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực với tầm nhìn 30 năm theo
hướng hiện đại và quốc tế.
III. Kết luận:
Phát triển nguồn nhân lực đã được Đảng và Nhà nước ta xem là quốc sách hàng
đầu. Tuy nhiên cơ chế, chính sách cụ thể đang bất cập với quốc sách hàng đầu đó. Do vậy
cần phải có quyết tâm đổi mới mạnh mẽ từ tư duy, quan điểm phát triển, đến các chính
sách và phương thức điều hành cụ thể thì mới có thể giải quyết được các bất cập đó.
Tài liệu tham khảo
1. Viện chiến lược phát triển, “Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến 2010, tầm nhìn 2020”, NXB. Chính trị
Quốc gia, 2001, HN.
2. “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo”, HN 5/2002.
3. Hội đồng lý luận TW, “Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong
tình hình hiện nay, Tập II, NXB Chính trị Quốc gia, 2010.
4/ Văn Đình Tấn, “Nguồn nhân lực trong công cuộc CNH, HĐH ở nước ta”,
http://chươngtima.gov.vn.
5. Lê Ái Lâm, “Phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người và mối quan hệ
với phát triển kinh tế”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6, 8/2002.
6. Thông tin những vấn đề lý luận, “Nền kinh tế mới” đòi hỏi một nền giáo dục
mới, số 17, 9/2004, Học viện Chính trị Quốc gia HCM.
7. Võ Đại Lược, “Bối cảnh quốc tế và kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001 đến
2010”, NXB KHXH, 2013, HN.
279
ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ TRI THỨC
Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
BÙI TRINH
DẪN NHẬP
Đến này hầu như không có một định nghĩa chính xác tuyệt đối về trí thức hoặc
kinh tế trí thức, mỗi một bộ phân dân cư hoặc thậm chí mỗi con người đều có những
định nghĩa riêng cho mình về tri thức. Đối với đa số thì những người có địa vị tronng
xã hội hoặc có học hàm học vị mặc nhiên được coi là trí thức, nhưng đối với một bộ
phân khác họ lại không coi là như vậy; tỷ như một vị giáo sư khi đọc truyện Kiều thì
cười phá lên và một bà cụ bán rau khi đọc truyện Kiều thì rơm rớm nước mắt. Như
vậy hỏi ai có tri thức hơn ai? Những vị quan văn thời xưa (và cả thời nay) đều là
những người đỗ đạt cả, mũ cao áo dài nhưng chỉ chăm chăm lựa ý bề trên, nói và viết
những điều bề trên thích mà trà đạp lên sự thật, những người đó có phải trí thức hay
không? Vậy phải chăng đặc tính của những người trí thức là luôn phản biện? Phản
biện mà không có cơ sở khoa học thì cũng không phải trí thức. Hoặc những người
luôn thay đổi quan điểm theo phía mạnh hơn lại càng không được xem là tri thức. Như
vậy có thể thấy đây là một ý niệm, một chuẩn mực cho riêng từng cá nhân. Người xưa
nói đại ý “Người phụ nữ làm đẹp vì người mình yêu; người quân tử dốc sức vì tri kỷ”
Tuy nhiên mục tiêu của chuyên chỉ nhằm đưa ra được thực trạng nền kinh tế tri
thức dựa trên phương pháp đánh giá trình độ phát triển kinh tế tri thức tại Việt Nam,
so sánh với các quốc gia Châu Á và trên thế giới, thông qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
bảo đảm đầy đủ bốn trụ cột của kinh tế tri thức là: (1): Môi trường kinh doanh và thể
chế; (2): Hệ số đổi mới; (3): Giáo dục và nguồn nhân lực; (4): Công nghệ thông tin và
truyền thông.
Trên cơ sở nghiên cứu của Chuyên đề 1 về “Các phương pháp và chỉ số đánh
giá trình độ phát triển Kinh tế tri thức”, nhóm nghiên cứu đề xuất bộ chỉ tiêu đánh giá
nền kinh tế tri thức của Việt Nam theo những nghiên cứu và đánh giá của một số tổ
chức quốc tế, đồng thời vận dụng và tính toán một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nhằm đưa
ra đánh giá phân tích về thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2000-
2012 dưới góc nhìn của kinh tế tri thức.
280
PHẦN I
CÁC CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ KINH TẾ TRI THỨC CỦA VIỆT NAM ĐƢỢC MỘT
SỐ TỔ CHỨC QUỐC TẾ CÔNG BỐ VÀ ĐÁNH GIÁ
I. NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WORLD BANK)
Hàng năm, Ngân hàng thế giới đều có chương trình thu thập thông tin thống kê
của nhiều quốc gia trên thế giới và vùng lãnh thổ nhằm đánh giá tổng quan về trình độ
phát triển kinh tế tri thức của các quốc gia trên thế giới.
Chỉ số kinh tế tri thức KEI được xây dựng như là trung bình giản đơn của các
chỉ số trụ cột trong bảng cơ bản và đưa ra một chỉ số tổng hợp đại diện cho mức độ
tổng thể của sự phát triển của một quốc gia hoặc khu vực trong nền kinh tế tri thức, và
tổng hợp 4 trụ cột của nền kinh tế tri thức để so sánh đánh giá giữa các nước và đánh
giá qua các năm.
Phương pháp đánh giá trình độ phát triển kinh tế tri thức của Ngân hàng thế
giới (World Bank) luôn được coi là chuẩn mực và dựa trên 4 trụ cột chính, đó là:
1/ Môi trường kinh doanh và thể chế;
2/ Hệ số đổi mới;
3/ Giáo dục và nguồn nhân lực;
4/ Công nghệ thông tin và truyền thông.
Các tiêu chí này được chuẩn hóa trên thang điểm từ 0 đến 10 so với các nước
khác trong nhóm các nước so sánh.
1. Chỉ số Môi trƣờng kinh doanh và thể chế:
Đây là 1 trong 4 trụ cột của chỉ số kinh tế tri thức, với ba biến đại diện:
- Hàng rào thuế quan và phi thuế quan: Đây là điểm được gán cho mỗi quốc
gia dựa trên phân tích của thuế quan và các hàng rào phi thuế quan đối với thương
mại, chẳng hạn như lệnh cấm nhập khẩu và hạn ngạch, yêu cầu cấp phép... Chỉ số
được dựa trên điểm số Tự do Thương mại của Heritage Foundation;
- Chất lượng quản lý: chỉ số này đo lường tác động của các chính sách thị trường
không thân thiện như kiểm soát giá cả, giám sát ngân hàng lỏng lẻo, ý thức về các chi phí
sinh ra do quan ly qua ngăt ngheo ngoai thương va phat triên doanh nghiêp;
- Nên phap tri : gôm môt sô chi sô đo đac mưc đô an tâm cua ngươi môi giơi
vào quy định của pháp luật như tính hiệu quả và tính lường trước được của các phán
quyêt do bô may tư phap đưa ra, tính bắt buộc thực thi của các hợp đồng...
Bảng 01: Kết quả đánh giá chỉ số môi trƣờng kinh doanh và thể chế của các quốc
gia Châu Á năm 2000-2012
Nƣớc Xếp hạng Điểm
2012 2000 2012 2000
Singapore 1 3 9.66 9.16
Hong Kong, China 2 2 9.57 9.25
281
New Zealand 3 6 9.09 8.38
Australia 4 4 8.56 9.06
Taiwan, China 5 5 7.77 8.64
Japan 6 1 7.55 9.4
Korea, Rep. 7 7 5.93 6.83
Malaysia 8 9 5.67 6.11
Thailand 9 8 5.12 6.67
Philippines 10 10 4.32 5.74
Mongolia 11 14 4.30 2.82
China 12 15 3.79 2.79
Indonesia 13 11 3.47 4.56
Vietnam 14 16 2.80 2.74
Cambodia 15 13 2.28 3.44
Fiji 16 17 1.96 2.49
Lao PDR 17 12 1.45 3.81
Myanmar 18 18 0.17 0.45
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng thế giới 2012
Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng thế giới (World Bank) dựa trên ba biến
đại diện (1- Hàng rào thuế quan và phi thuế quan; 2- Chất lượng quản lý ; 3- Nên
pháp trị) cho giai đoạn từ năm 2000-2012, chỉ số môi trường kinh doanh và thể chế
của Việt Nam đã tăng được 2 bậc trong tổng số 18 nước Châu Á, từ vị trí 16 trong
năm 2000 lên vị trí thứ 14 trong năm 2012. Còn thứ hạng trong 146 quốc gia và vùng
lãnh thổ thì vẫn ở nhóm cuối bảng xếp hạng. Chỉ số môi trường kinh doanh và thể chế
của Việt Nam trong năm 2000 là 112/146; năm 2012 có tăng lên vị trí thứ 108/146.
Tuy là có tăng được 4 bậc nhưng vẫn là rất thấp.
2. Hệ số đổi mới:
Ba biến đại diện cho hệ số Đổi mới bao gồm:
- Tiền phí và tiền nhận được từ bản quyền và giấy phép: tổng chi và thu từ tiền
bản quyền và giấy phép;
- Ứng dụng bằng sáng chế được cấp bởi phòng sáng chế và thương hiệu Hoa Kỳ;
- Bài báo đăng trên tạp chí khoa học kỹ thuật: đề cập đến bài báo khoa học và kỹ
thuật được công bố trong các lĩnh vực: vật lý, sinh học, hóa học, toán học, y học lâm sàng,
nghiên cứu y sinh học, kỹ thuật và công nghệ, và trái đất và khoa học không gian.
Bảng 02: Kết quả đánh giá Hệ số đổi mới của các quốc gia Châu Á năm 2000-2012
Nƣớc Xếp hạng Điểm
2012 2000 2012 2000
Singapore 1 4 9.49 8.92
Taiwan, China 2 5 9.38 8.83
Hong Kong, China 3 3 9.10 9.14
Japan 4 7 9.08 7.93
282
Australia 5 1 8.92 9.31
Korea, Rep. 6 2 8.80 9.29
New Zealand 7 6 8.66 8.58
Malaysia 8 8 6.91 6.62
China 9 9 5.99 5.74
Thailand 10 13 5.95 2.84
Fiji 11 11 4.65 4.35
Philippines 12 10 3.77 5.13
Indonesia 13 12 3.24 4.05
Mongolia 14 14 2.91 2.4
Vietnam 15 15 2.75 2.26
Cambodia 16 17 2.13 1.54
Lao PDR 17 16 1.69 1.68
Myanmar 18 18 1.30 1.08
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng thế giới 2012
Trong giai đoạn 2000-2012, đánh giá về hệ số đổi mới của Việt Nam trong 18
nước Châu Á vẫn không có gì thay đổi về thứ hạng (đứng thứ 15/18 nước). Còn trong
tổng số 146 quốc gia và vùng lãnh thổ thì Việt Nam tăng được 3 bậc, từ vị trí 116/146
của năm 2000 lên vị trí 113/146 vào năm 2012.
3. Giáo dục và nguồn nhân lực:
Ba biến đại diện cho hệ số giáo dục và nguồn nhân lực bao gồm:
- Số năm học trung bình: (từ 15 tuổi trở lên);
- Tuyển sinh trung học (% tổng): Tỷ lệ tổng số học sinh trung học bất kể tuổi
tác chia cho dân số trong độ tuổi tương ứng với trình độ giáo dục trung học;
- Tuyển sinh đại học (% tổng): Tỷ lệ tổng số sinh viên đại học bất kể tuổi tác
chia cho dân số trong độ tuổi tương ứng với trình độ giáo dục đại học.
Bảng 03: Kết quả đánh giá Giáo dục và nguồn nhân lực của các quốc gia Châu Á năm 2000-2012
Nƣớc Xếp hạng Điểm
2012 2000 2012 2000
New Zealand 1 2 9.81 9.65
Australia 2 1 9.71 9.78
Korea, Rep. 3 4 9.09 8.71
Taiwan, China 4 7 8.87 6.23
Japan 5 5 8.43 8.58
Hong Kong, China 6 6 6.38 6.34
Mongolia 7 3 5.83 9.06
Fiji 8 9 5.27 5.41
Malaysia 9 12 5.22 4.44
Singapore 10 11 5.09 4.86
Philippines 11 13 4.64 3.36
283
Thailand 12 8 4.23 5.99
China 13 10 3.93 5.35
Indonesia 14 15 3.20 2.82
Vietnam 15 14 2.99 2.84
Lao PDR 16 17 2.01 1.57
Myanmar 17 18 1.88 1.41
Cambodia 18 16 1.70 2.1
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng thế giới 2012
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, Việt Nam đã có sự tụt hạng so với các
nước trong khu vực và trên thế giới từ năm 2000 đến năm 2012. Trong tổng số 18
nước Châu Á, Việt Nam đứng thứ 15/18 nước. Còn trong tổng số 146 quốc gia và
vùng lãnh thổ, Việt Nam đứng thứ 106/146.
4. Công nghệ thông tin và truyền thông:
Ba biến đại diện cho hệ số công nghệ thông tin và truyền thông bao gồm:
- Số người sử dụng điện thoại trên 1.000 người (bao gồm người dùng cố định
và di động);
- Số người sử dụng máy tính trên 1.000 người;
- Số người sử dụng internet trên 1.000 người.
Bảng 04: Kết quả đánh giá Công nghệ thông tin và truyền thông của các quốc gia Châu Á năm
2000-2012
Nƣớc Xếp hạng Điểm
2012 2000 2012 2000
Taiwan, China 1 6 9.06 9.02
Hong Kong, China 2 3 9.04 9.21
Singapore 3 5 8.78 9.11
Australia 4 1 8.32 9.37
New Zealand 5 7 8.30 8.72
Japan 6 2 8.07 9.26
Korea, Rep. 7 4 8.05 9.21
Malaysia 8 8 6.61 7.34
Thailand 9 9 5.55 5.03
Vietnam 10 13 5.05 3.82
Mongolia 11 11 4.63 4.8
Fiji 12 10 3.87 4.95
China 13 12 3.79 4.41
Philippines 14 15 3.03 2.92
Indonesia 15 14 2.52 3.54
Lao PDR 16 16 1.84 2.1
Cambodia 17 17 0.74 2.1
284
Myanmar 18 18 0.48 2.1
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng thế giới 2012
Riêng về chỉ số này thì Việt Nam lại có sự tăng bậc đáng kể trên bảng xếp hạng
đánh giá của Ngân hàng thế giới. Năm 2012, Việt Nam đứng thứ 10/18 nước Châu Á
(so với vị trí 13/18 vào năm 2000). Còn trong tổng số 146 quốc gia và vùng lãnh thổ
thì Việt Nam đứng thứ 75/146 trong năm 2012 (thứ bậc này là 113/146 vào năm
2000).
5. Chỉ số tri thức (KI):
Về mặt toán học, KI là trung bình đơn giản của các chỉ số trong 3 trụ cột của
nền kinh tế tri thức: (1) Công nghệ thông tin và truyền thông; (2) Hệ số đổi mới; (3)
Giáo dục và nguồn nhân lực.
Ý nghĩa của chỉ số KI nhằm đáng giá tiềm năng phát triển kiến thức quốc gia,
từ đó có thể so sánh giữa các quốc gia và qua các giai đoạn.
Bảng 05: Kết quả đánh giá chỉ số tri thức (KI) của các quốc gia Châu Á năm 2000-2012
Nƣớc Xếp hạng Điểm
2012 2000 2012 2000
Taiwan, China 1 2 9.10 9.20
Australia 2 1 8.98 9.27
New Zealand 3 3 8.92 8.99
Korea, Rep. 4 7 8.65 7.84
Japan 5 5 8.53 8.87
Hong Kong, China 6 6 8.17 8.30
Singapore 7 4 7.79 8.95
Malaysia 8 8 6.25 6.46
Thailand 9 10 5.24 5.07
Fiji 10 13 4.60 3.84
China 11 12 4.57 4.17
Mongolia 12 9 4.46 5.36
Philippines 13 11 3.81 4.60
Vietnam 14 15 3.60 2.71
Indonesia 15 14 2.99 2.88
Lao PDR 16 17 1.85 1.74
Cambodia 17 18 1.52 1.73
Myanmar 18 16 1.22 1.76
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng thế giới 2012
Thứ hạng của Việt Nam về chỉ số tri thức KI trong số 18 nước Châu Á cũng
tăng được 1 bậc, từ vị trí 15/18 lên vị trí 14/18 từ năm 2000 đến năm 2012. Còn đối
với thứ hạng trong tổng số 146 quốc gia và vùng lãnh thổ thì Việt Nam tăng được 13
bậc, từ vị trí 113 năm 2000 lên vị trí 100 vào năm 2012.
6. Đánh giá tổng quan chung về chỉ số kinh tế tri thức (KEI):
285
Xét trong giai đoạn 2000-2012, xếp hạng về chỉ số kinh tế tri thức KEI của
Việt Nam tăng được 1 bậc trong 18 nước Châu Á, từ vị trí 15 lên vị trí 14, tăng tương
ứng từ 2.72 điểm năm 2000 lên 3.40 điểm năm 2012. So sánh với những nước trong
khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng trên 4 nước: Indonexia, Lào, Cambodia và
Myanma. Các nước khác đứng trên Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á là
Singapore, Malaysia, Thái Lan và Philipin. Tuy nhiên, điểm số KEI của Việt Nam so
với những nước đứng trên là rất xa: Singapore là 8.26 điểm; Malaysia là 6.10 điểm;
Thái Lan là 5.21 điểm; và Philipin là 3.94 điểm.
Bảng 06: Kết quả đánh giá chỉ số Kinh tế tri thức (KEI) của các quốc gia Châu Á năm 2000-2012
Nƣớc Xếp hạng KEI
2012 2000 2012 2000
New Zealand 1 2 8.97 9.19
Australia 2 1 8.88 9.27
Taiwan, China 3 3 8.77 8.83
Hong Kong, China 4 7 8.52 8.15
Japan 5 4 8.28 8.81
Singapore 6 5 8.26 8.57
Korea, Rep. 7 6 7.97 8.42
Malaysia 8 8 6.10 6.37
Thailand 9 9 5.21 5.47
Mongolia 10 12 4.42 4.31
China 11 13 4.37 3.83
Philippines 12 10 3.94 4.72
Fiji 13 11 3.94 4.59
Vietnam 14 15 3.40 2.72
Indonesia 15 14 3.11 3.02
Lao PDR 16 17 1.75 1.92
Cambodia 17 16 1.71 2.25
Myanmar 18 18 0.96 1.43
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng thế giới 2012
Trong tổng số 146 nước và vùng lãnh thổ, Việt Nam xếp thứ 104/146 trong
năm 2012, tăng được 9 bậc so với xếp hạng 113/146 vào năm 2000.
Nhìn chung qua đánh giá của tổ chức Ngân hàng thế giới, thứ hạng của Việt
Nam về chỉ số kinh tế tri thức KEI tăng lên là do chủ yếu ở chỉ số Công nghệ thông tin
và truyền thông. Chỉ số KEI thực chất là bình quân giản đơn của 4 chỉ số trên do vậy
vẫn chưa đánh giá được thực chất sự phát triển của nền kinh tế tri thức cho một quốc
gia. Lấy ví dụ của Việt Nam, chỉ cần có sự đầu tư mạnh vào lĩnh vực công nghệ thông
tin và truyền thông, vô hình chung điểm bình quân KEI đã tăng lên đáng kể từ năm
2000 đến năm 2012. Trong khi đó, để phát triển nền kinh tế tri thức theo chiều sâu, cần
phải có được sự phát triển và định hướng đồng bộ với cả 3 tiêu chí trụ cột khác, đó là
(1) Môi trường kinh doanh và thể chế; (2) Hệ số đổi mới; (3) Giáo dục và nguồn nhân
lực.
286
II. CHỈ SỐ MÔI TRƢỜNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THẾ GIỚI
Chỉ số môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới là kết quả điều tra, khảo sát
của một nhóm chuyên gia WB được thực hiện hàng năm về các quy định của các nước
có tác dụng thúc đẩy hoặc kiềm chế hoạt động kinh doanh tại nước đó. Chỉ số đưa ra
các chỉ tiêu định lượng nhằm đánh giá các vấn đề cụ thể được cho là quan trọng nhất
trong việc hình thành và tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh của một nước trên cơ
sở tính điểm và so sánh trong mối tương quan giữa 144 quốc gia (nền kinh tế) được
khảo sát. Trên cơ sở đó, tổng hợp thành mức xếp hạng cho từng lĩnh vực riêng lẻ và
mức xếp hạng tổng hợp cho từng nước. Chỉ số chung được tổng hợp từ các chỉ số đánh
giá riêng lẻ phản ánh các chính sách quy định về kinh doanh và vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu tài sản được so sánh 144 quốc gia qua thời gian, phản ánh cụ thể qua 10 lĩnh vực
sau:
Thành lập doanh nghiệp (Starting a business),
Tiếp cận với nguồn điện (Getting electricity),
Xin giấy phép xây dựng (Dealing with construction Permits),
Đăng ký quyền sở hữu tài sản (Registering Property),
Tiếp cận tín dụng (Getting credit),
Bảo vệ nhà đầu tư (Protecting Investors),
Nộp thuế (Paying taxes),
Giao thương qua biên giới (Trading Across Boders),
Thực hiện hợp đồng (Enforcing Contracts),
Giải thể doanh nghiệp (Resolving Insovency).
Ngân hàng thế giới cũng đã có dự báo cho năm 2013 cho các quốc gia trong báo
cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới.
Bảng 07: Điểm và xếp hạng 1 số quốc gia Châu Á về chỉ số môi trƣờng kinh
doanh 2012 và dự báo 2013
Nƣớc Xếp hạng Điểm
2013 2012 2013 2012
Singapore 2 2 5.86 5.96
Taiwan, China 10 11 5.48 5.47
Korea, Rep. 11 12 5.47 5.46
Hong Kong, China 14 13 5.46 5.40
Australia 18 17 5.26 5.29
New Zealand 20 14 5.25 5.36
Japan 21 18 5.24 5.25
Malaysia 30 29 4.80 4.82
China 58 51 4.11 4.03
Mongolia 59 63 3.95 4.01
Thailand 74 77 3.78 3.86
287
Indonesia 76 80 3.75 3.84
Vietnam 84 83 3.70 3.74
Philippines 86 86 3.64 3.73
Cambodia 106 108 3.32 3.34
Nguồn: Báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới
So với các nước trên thế giới và trong khu vực, Việt Nam vẫn là một nước có
chỉ số môi trường cạnh tranh rất không tốt, kém Indonexia 8 bậc, kém Thái Lan 20
bậc, và kém Malaysia 54 bậc. Kết quả này dẫn đến thực trạng là môi trường kinh
doanh ở Việt Nam thật sự không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, và ngay
cả với các nhà đầu tư trong nước.
III. TỔ CHỨC SỞ HỮU TRÍ TUỆ TOÀN CẦU (WIPO)
Chỉ số Sáng tạo Toàn cầu (Global Innovation Index) được đưa ra năm 2007 bởi
Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn cầu (World Intellectual Property Organization viết tắt là
WIPO, thuộc Liên Hiệp Quốc). Mục đích của chỉ số này là đưa ra các đánh giá về độ
sáng tạo/đổi mới của mỗi quốc gia một cách toàn diện nhất.
Cách đánh giá:
Chỉ số Sáng tạo Toàn cầu (GII) được đưa ra dựa trên hai nhóm chỉ số: nhóm
chỉ số đầu vào, và nhóm chỉ số đầu ra.
Nhóm chỉ số đầu vào gắn chặt với các yếu tố quốc dân, làm nền tảng và tiền đề
cho các hoạt động đổi mới/sáng tạo. Gồm 5 chỉ số cơ bản:
Tổ chức (Institutions);
Nguồn nhân lực và nghiên cứu (Human capital and research);
Cơ sở hạ tầng (Infrastructure);
Độ chín của thị trường (Market sophistication);
Mức hoàn thiện kinh doanh (Business sophistication)
Nhóm chỉ số đầu ra biểu thị cho kết quả của quá trình đổi mới/sáng tạo. Gồm 2
chỉ số cơ bản:
Kết quả khoa học (Scientific outputs);
Thành quả sáng tạo (Creative outputs).
Thứ bậc Việt Nam trên bảng xếp hạng trí tuệ toàn cầu: Năm 2011 trên bảng chỉ
số Đổi mới/sáng tạo toàn cầu Việt Nam xếp hạng trên trung bình và đứng thứ 51 trong
125 nước. Tuy nhiên đến năm 2012 nước ta tụt sâu xuống nửa dưới, xếp thứ 76 trên
141 nước.
Bảng 08: Điểm và xếp hạng 1 số quốc gia Châu Á về chỉ số sáng tạo toàn cầu năm 2012
Nƣớc Xếp hạng thế giới Điểm
Singapore 3 63.50
New Zealand 6 60.50
Hong Kong, China 8 58.70
288
Korea, Rep. 21 53.90
Australia 23 51.90
Japan 25 51.70
Malaysia 32 45.90
China 34 45.40
Mongolia 35 68.00
Thailand 57 36.90
Vietnam 76 33.90
Philippines 95 29.00
Indonesia 100 28.10
Fiji 101 27.90
Cambodia 129 23.40
Lao PDR 138 20.20
Nguồn: Báo cáo của Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn cầu 2012
PHẦN II
VẬN DỤNG MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ ĐỂ ĐÁNH GIÁ NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM DƢỚI GÓC NHÌN CỦA KINH TẾ TRI THỨC
Để có được cái nhìn tổng quan về nền kinh tế tri thức và những nhân tố ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế tri thức tại Việt Nam thì không chỉ dựa vào
một số đánh giá của các tổ chức quốc tế, mà phải đi sâu phân tích thêm những chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô liên quan. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu đề xuất phân tích và đánh giá
thêm những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô sau:
1. Định hƣớng sai lầm về phát triển kinh tế:
“Theo quan điểm định hướng phát triển của Đảng, đến năm 2020, Việt Nam cơ
bản trở thành một nước công nghiệp, và phát triển cơ cấu kinh tế với ưu tiên Công
nghiệp, Dịch vụ và Nông nghiệp”.
Do vậy, hầu hết tỉnh/thành phố nào cũng đặt mục tiêu phát triển kinh tế theo
“lối mòn” như vậy. Tuy nhiên, với một nền kinh tế như Việt Nam, vấn đề cần thiết
phải xác định được ngành trọng điểm, vùng kinh tế trọng điểm, chọn ra những ngành
ưu tiên phát triển, những ngành có độ lan tỏa (ảnh hưởng) đến sự phát triển của những
ngành khác, đồng thời không đòi hỏi nhiều về nhập khẩu, nhằm tận dụng lợi thế so
sánh vốn có của tỉnh/thành phố, vùng kinh tế và của cả quốc gia.
Nghiên cứu đã có những phân tích chuyên sâu dựa trên cấu trúc bảng I-O 2011
(updated) nhằm tính toán những chỉ số này để đưa ra cấu trúc thực tế của nền kinh tế
Việt Nam.
289
Bảng 09: Chỉ số liên kết xuôi, liên kết ngƣợc và chỉ số kích thích nhập khẩu của
138 ngành kinh tế năm 2011
STT Liên kết xuôi Liên kết ngƣợc
Chỉ số kích thích
nhập khẩu
2011 2007 2011 2007 2011 2007
1 Thóc 0.803 0.901 3.451 3.289 0.879 0.880
2 Mía cây 0.803 0.945 0.913 1.017 0.879 0.946
3 Cây hàng năm khác 0.803 0.987 1.465 1.557 0.879 0.977
4 Cao su mủ khô 0.749 0.769 0.602 0.625 0.852 0.929
5 Cà phê nhân xô 0.749 0.872 0.992 0.924 0.852 1.080
6 Chè lá và chè búp tươi 0.749 0.779 0.656 0.661 0.852 0.944
7 Cây lâu năm khác 0.749 0.859 1.803 2.138 0.852 1.061
8 Trâu, bò 1.482 1.149 0.716 0.727 0.798 0.724
9 Lợn 1.482 1.794 1.109 1.096 0.798 0.752
10 Gia cầm 1.482 1.616 0.918 0.890 0.798 0.748
11
Các sản phẩm chăn nuôi
khác 1.482 1.591 0.728 0.712 0.798 0.747
12
Dịch vụ nông nghiệp và
các sản phẩm nông
nghiệp khác chưa được phân vào đâu 1.230 1.484 1.205 1.601 0.807 0.796
13 Gỗ tròn (gỗ khai thác) 0.663 0.932 0.788 0.906 0.814 0.974
14
Sản phẩm lâm nghiệp
khác; Dịch vụ lâm
nghiệp, dịch vụ trồng
rừng và chăm sóc rừng 0.656 0.853 0.730 0.933 0.797 0.858
15 Thuỷ sản khai thác 0.762 0.764 0.855 0.882 1.081 1.665
16 Thủy sản nuôi trồng 1.226 1.694 0.875 0.926 0.797 0.771
17
Than khai thác các loại
(than sạch) 0.976 1.042 1.972 1.959 0.989 1.058
18 Dầu thô 0.643 0.660 1.010 0.845 0.904 0.770
19 Khí đốt tự nhiên 0.656 0.692 0.589 0.611 0.920 1.218
20 Đá, cát, sỏi, đất sét 0.872 0.849 0.841 1.136 0.992 1.062
21
Các loại khoáng sản khai
khoáng khác còn lại 0.812 0.873 0.690 0.748 0.884 0.930
22
Dịch vụ hỗ trợ khai thác
mỏ và quặng 1.268 1.377 0.618 0.639 0.807 0.789
23
Thịt đã qua chế biến và
bảo quản; các sản phẩm
từ thịt 1.884 2.034 1.211 1.167 0.799 0.743
24
Thủy sản đã qua chế
biến và bảo quản; các sản phẩm từ thủy sản 1.512 1.713 0.922 0.960 0.847 0.782
25
Rau, quả đã qua chế biến
và bảo quản 1.439 1.516 1.031 1.085 0.893 0.848
26 Dầu mỡ động thực vật 1.031 1.102 0.952 1.022 1.341 1.276
290
27
Sữa và các sản phẩm từ
sữa 1.121 1.191 0.827 0.860 0.938 0.885
28 Gạo 1.603 1.535 1.841 1.419 0.780 0.733
29 Bột các loại 1.540 1.480 0.612 1.098 0.779 0.805
30 Đường 1.241 1.265 0.821 0.856 0.909 0.854
31
Cacao, sôcôla và mứt
kẹo, các sản phẩm bánh
từ bột 1.241 1.430 0.630 0.647 0.909 0.911
32 Cà phê đã qua chế biến 1.241 1.013 0.600 0.626 0.909 0.802
33
Các loại thực phẩm khác
còn lại (mì ống, mỳ sợi
và các sản phẩm tương
tự; các món ăn, thức ăn
chế biến sẵn; gia vị,
nước chấm, giấm, men
bia…) 1.241 1.421 0.993 0.944 0.909 0.904
34 Thức ăn chăn nuôi 1.459 1.636 2.873 3.073 0.882 0.828
35 Rượu 1.123 1.129 0.622 0.654 0.968 0.958
36 Bia 1.123 1.151 0.625 0.645 0.968 0.969
37
Đồ uống không cồn,
nước khoáng 1.123 1.132 0.645 0.675 0.968 0.959
38 Thuốc lá điếu 1.194 1.229 0.677 0.712 0.923 0.921
39 Sợi các loại 1.154 1.213 1.498 1.614 1.131 1.076
40 Sản phẩm dệt các loại 1.154 1.203 0.705 0.863 1.131 1.070
41 Trang phục các loại 0.907 0.875 0.666 0.814 1.328 1.123
42
Da, lông thú đã thuộc, sơ
chế; vali, túi xách, yên đệm và các loại tương
tự. 0.875 0.945 0.864 0.903 1.260 1.176
43 Giày, dép các loại 0.988 0.860 0.708 0.678 1.215 1.055
44
Gỗ (đã qua chế biến) và các sản phẩm từ gỗ 1.069 1.100 1.307 1.233 0.984 0.901
45
Giấy và các sản phẩm từ
giấy 1.156 1.132 2.322 2.106 1.069 1.021
46
Các sản phẩm in ấn, sao
chép bản ghi các loại 1.143 1.070 0.941 1.148 1.055 0.982
47
Than cốc và các sản
phẩm phụ khác từ lò
luyện than cốc 0.976 0.809 0.667 0.654 1.340 1.039
48 Xăng, dầu các loại 0.937 0.766 2.099 0.655 1.330 2.010
49
Các sản phẩm khác chiết
xuất từ dầu mỏ, khí đốt 0.955 0.795 1.428 0.684 1.359 2.065
50 Hoá chất cơ bản 0.999 0.982 0.940 0.869 1.244 1.434
51
Phân bón và hợp chất
nitơ 0.999 0.993 1.405 1.597 1.244 1.455
52
Plastic và cao su tổng
hợp dạng nguyên sinh 0.999 0.934 0.601 0.708 1.244 1.338
291
53
Sản phẩm hóa chất khác;
sợi nhân tạo 0.983 1.030 1.059 1.092 1.228 1.201
54
Thuốc, hoá dược và
dược liệu 0.987 0.984 0.925 0.906 1.108 1.065
55 Sản phẩm từ cao su 1.017 0.735 1.124 0.813 1.254 1.003
56 Sản phẩm từ plastic 0.851 0.811 2.453 1.852 1.382 1.165
57
Thủy tinh và sản phẩm
từ thủy tinh 0.837 0.777 0.595 0.649 1.324 1.255
58 Xi măng các loại 1.190 1.152 1.071 1.222 0.912 0.939
59
Sản phẩm từ khoáng phi
kim loại chưa được phân
vào đâu 1.190 1.074 1.608 1.295 0.912 0.880
60 Sắt, thép, gang 0.932 0.921 2.318 1.947 1.586 1.480
61
Các sản phẩm bằng kim
loại khác còn lại 0.917 0.873 1.624 1.396 1.469 1.379
62
Linh kiện điện tử; Máy
vi tính và thiết bị ngoại
vi của máy vi tính 1.359 1.327 1.717 1.442 1.040 1.024
63
Thiết bị truyền thông (điện thoại, máy fax, ăng
ten, modem…) 1.344 1.055 0.951 0.726 1.069 1.025
64
Sản phẩm điện tử dân
dụng 1.660 1.684 0.997 0.792 0.830 0.967
65
Sản phẩm điện tử khác
còn lại và sản phẩm
quang học 0.882 0.757 0.653 0.629 1.427 1.015
66
Mô tơ, máy phát, biến
thế điện, thiết bị phân
phối và điều khiển điện 1.078 0.770 1.084 0.943 1.288 0.895
67 Pin và ắc quy 1.100 0.790 0.830 0.722 1.114 0.901
68 Dây và thiết bị dây dẫn 1.186 0.787 1.588 1.321 1.196 0.868
69 Thiết bị điện chiếu sáng 0.999 1.009 0.710 0.750 1.202 1.117
70
Đồ điện dân dụng (tủ
lạnh gia đình, máy rửa
bát, máy giặt, máy hút
bụi,…) 1.360 1.376 0.929 0.976 1.009 0.968
71 Thiết bị điện khác 1.176 1.120 0.854 0.859 1.100 1.065
72 Máy thông dụng 0.989 0.855 0.773 0.779 1.344 1.087
73 Máy chuyên dụng 1.005 0.980 0.603 0.631 1.369 1.302
74 Ô tô các loại 0.900 0.885 0.588 0.614 1.428 1.362
75
Xe có động cơ rơ moóc
(trừ ô tô) 0.900 0.864 0.596 0.620 1.428 1.311
76 Tàu và thuyền 0.992 0.951 0.616 0.636 1.380 1.291
77 Môtô, xe máy 0.974 0.898 0.683 0.736 1.318 1.216
78 Phương tiện vận tải khác còn lại 0.974 0.914 0.590 0.614 1.318 1.245
79 Giường, tủ, bàn, ghế 1.127 1.023 0.671 0.701 0.998 0.862
292
80
Đồ kim hoàn, đồ giả kim
hoàn và các chi tiết liên
quan; Nhạc cụ; Dụng cụ
thể dục, thể thao; Đồ
chơi, trò chơi 1.073 0.768 0.782 0.642 1.232 1.118
81
Thiết bị, dụng cụ y tế,
nha khoa, chỉnh hình và
phục hồi chức năng 0.864 0.723 0.643 0.616 1.322 1.012
82
Sản phẩm công nghiệp
chế biến khác chưa được
phân vào đâu; Dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng
máy móc, thiết bị 1.035 0.791 1.742 1.300 1.191 0.969
83
Điện, dịch vụ truyền tải
điện 0.906 0.885 3.343 3.352 0.849 0.795
84
Khí đốt, phân phối nhiên
liệu khí bằng đường ống 0.902 0.844 0.737 0.715 0.847 0.807
85
Phân phối hơi nước,
nước nóng, điều hoà không khí và sản xuất
nước đá 1.059 0.912 0.628 0.668 0.848 0.776
86
Khai thác, xử lý và cung
cấp nước 0.843 0.835 0.832 0.758 0.873 0.820
87
Quản lý và xử lý nước
thải, rác thải 0.934 0.823 0.740 0.744 0.932 0.881
88 Xây dựng nhà các loại 1.016 1.048 0.733 0.779 0.969 0.957
89
Xây dựng công trình
đường sắt và đường bộ,
Xây dựng công trình
công ích, Xây dựng
công trình kỹ thuật dân
dụng khác 1.089 1.052 0.767 0.815 1.057 1.131
90 Xây dựng chuyên dụng 1.121 1.140 0.841 0.943 0.987 0.992
91
sửa chữa ô tô và xe có
động cơ khác, Bán, bảo
dưỡng và sửa chữa mô tô, xe máy, phụ tùng và
các bộ phận phụ trợ của
mô tô, xe máy 0.750 0.818 1.150 1.367 0.883 0.889
92
Bán buôn (trừ ô tô,
môtô, xe máy và xe có
động cơ khác), Bán lẻ
(trừ ô tô, môtô, xe máy
và xe có động cơ khác) 0.746 0.797 4.366 5.175 0.823 0.887
93
Vận tải hành khách
đường sắt 0.826 0.817 0.642 0.674 1.048 1.213
94
Vận tải hàng hóa đường
sắt 0.818 0.799 0.593 0.661 1.038 1.167
95
Vận tải bằng xe buýt;
Vận tải hành khách bằng
đường bộ khác 0.817 0.746 1.254 1.391 1.219 1.646
96 Vận tải hàng hóa bằng đường bộ; Vận tải 0.807 0.743 0.948 1.058 1.198 1.621
293
đường ống
97
Dịch vụ vận tải hành
khách đường thủy 0.830 0.760 0.597 0.623 1.201 1.542
98
Dịch vụ vận tải hàng hoá
đường thủy 0.818 0.765 0.903 1.054 1.179 1.573
99
Dịch vụ vận tải hành
khách hàng không 1.052 1.004 0.632 0.677 1.135 1.377
100 Dịch vụ vận tải hàng hoá hàng không 1.025 1.004 0.627 0.618 1.113 1.377
101
Dịch vụ kho bãi và các
dịch vụ hỗ trợ cho vận
tải 0.776 0.798 2.592 2.526 0.851 0.873
102
Bưu chính và chuyển
phát 0.996 1.099 0.819 0.913 0.846 0.821
103 Dịch vụ lưu trú 0.768 0.873 0.967 1.034 0.797 0.763
104 Dịch vụ ăn uống 1.353 1.043 0.994 1.107 0.824 0.737
105 Dịch vụ xuất bản 1.179 1.109 0.704 0.723 0.973 0.890
106
Điện ảnh, truyền hình,
ghi âm và xuất bản âm
nhạc 0.971 1.069 0.641 0.676 0.815 0.779
107 Phát thanh, truyền hình 0.819 0.930 0.618 0.642 0.779 0.743
108 Dịch vụ viễn thông 0.864 0.975 1.156 1.380 0.777 0.772
109
Dịch vụ lập trình máy vi
tính, dịch vụ tư vấn và
các dịch vụ khác liên
quan đến máy vi tính và
dịch vụ thông tin 0.821 0.983 0.708 0.758 0.789 0.757
110
Dịch vụ tài chính (Trừ
bảo hiểm và bảo hiểm xã
hội) 1.291 0.763 1.586 1.072 0.863 0.832
111
Bảo hiểm phi nhân thọ
và tái bảo hiểm 0.859 0.875 0.626 0.665 0.833 0.838
112
Bảo hiểm nhân thọ; Bảo
hiểm xã hội 0.859 1.139 0.595 0.619 0.833 0.933
113 Dịch vụ tài chính khác 0.796 0.923 0.810 0.847 0.802 0.814
114 Dịch vụ kinh doanh bất động sản 0.712 0.819 1.424 1.680 0.794 0.791
115
Dịch vụ pháp luật, kế
toán và kiểm toán 0.807 0.824 0.689 0.736 0.829 0.771
116
Dịch vụ của trụ sở văn
phòng; Dịch vụ tư vấn
quản lý 0.828 0.843 0.691 0.715 0.812 0.753
117
Dịch vụ kiến trúc, kiểm
tra và phân tích kỹ thuật 0.872 0.871 1.010 1.037 0.847 0.811
118
Nghiên cứu khoa học và
phát triển 0.850 0.767 0.653 0.668 0.894 0.787
119
Dịch vụ quảng cáo và
nghiên cứu thị trường 1.150 0.922 0.936 0.978 0.873 0.759
294
120
Dịch vụ chuyên môn,
khoa học và công nghệ
khác 0.912 0.980 0.694 0.706 0.972 0.970
121 Dịch vụ thú y 0.709 0.758 0.598 0.622 0.919 0.986
122
Cho thuê máy móc, thiết
bị (không kèm người
điều khiển); cho thuê đồ
dùng cá nhân gia đình;
cho thuê tài sản vô hình
phi tài chính 0.817 0.811 0.690 0.719 0.905 0.892
123
Dịch vụ lao động và việc
làm 0.883 0.917 0.620 0.651 0.854 0.805
124
Dịch vụ của các đại lý du lịch, kinh doanh tua
du lịch; Dịch vụ hỗ trợ
liên quan đến quảng bá
và tổ chức tua du lịch 0.793 0.843 0.611 0.638 0.896 0.999
125
Dịch vụ điều tra và đảm
bảo an toàn 0.671 0.750 0.611 0.634 0.799 0.791
126
Dịch vụ vệ sinh nhà cửa,
công trình cảnh quan 0.774 0.908 0.653 0.686 0.896 1.082
127
Dịch vụ hành chính, hỗ
trợ văn phòng và các
hoạt động hỗ trợ kinh
doanh khác 0.879 0.896 0.682 0.709 0.867 0.832
128
Dịch vụ do hoạt động
của Đảng cộng sản, tổ
chức chính trị - xã hội, quản lý nhà nước an
ninh quốc phòng; bảo
đảm xã hội bắt buộc
cung cấp 0.827 0.890 0.622 0.652 0.816 0.802
129
Giáo dục và đào tạo (trừ
đào tạo cao đẳng, đại
học và sau đại học) 0.780 0.874 0.658 0.694 0.804 0.784
130
Dịch vụ đào tạo cao
đẳng, đại học và sau đại
học 0.780 0.821 0.624 0.655 0.835 0.790
131 Dịch vụ y tế 0.847 0.884 0.629 0.657 1.015 0.979
132
Dịch vụ chăm sóc, điều
dưỡng tập trung và dịch
vụ trợ giúp xã hội không
tập trung 0.870 0.762 0.619 0.635 0.836 0.748
133
Sáng tác, nghệ thuật và giải trí; Dịch vụ của thư
viện, lưu trữ, bảo tàng và
các dịch vụ văn hoá
khác 0.859 0.958 0.658 0.707 0.847 0.821
134
Xổ số, cá cược và đánh
bạc 1.043 1.223 0.917 1.068 0.767 0.711
135
Thể thao; vui chơi giải
trí 0.836 0.934 0.610 0.640 0.813 0.799
295
136
Dịch vụ của các hiệp
hội, tổ chức khác 0.881 0.970 0.639 0.672 0.843 0.849
137
Dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và
gia đình và dịch vụ phục
vụ cá nhân khác 0.814 0.894 0.642 0.678 0.851 0.839
138
Dịch vụ làm thuê công
việc gia đình trong các
hộ gia đình; các sản
phẩm vật chất tự tiêu
dùng của hộ gia đình;
Dịch vụ của các tổ chức
và cơ quan quốc tế 0.693 0.692 0.741 0.722 0.969 1.253
Qua kết quả bảng trên, có thể thấy chỉ có 2 nhóm ngành có chỉ số lan toả (liên
kết xuôi và liên kết ngược) về kinh tế cao hơn 1 và chỉ số kích thích nhập khẩu nhỏ
hơn 1 là các nhóm ngành nông nghiệp và các nhóm ngành công nghiệp chế biến sản
phẩm từ nông nghiệp đáp ứng yêu cầu này. Hầu hết các ngành chế biến chế tạo có chỉ
số kích thích nhập khẩu rất cao. Điều này cho thấy các ngành này càng phát triển càng
kích thích nhập khẩu mạnh mẽ. Nhóm ngành dịch vụ có chỉ số kích thích nhập khẩu
thấp và chỉ số lan toả về kinh tế cũng thấp. Một nền kinh tế nặng gia công, sản xuất
trong nước rất yếu kém, do vậy nhiều nhóm ngành càng phát triển thì lại càng kích
thích nhập khẩu (phục vụ gia công cho nước ngoài), đặc biệt là trong những nhóm
ngành công nghiệp chế tạo).
Bảng 10: 20 ngành có chỉ số kích thích nhập khẩu lớn nhất
STT Chỉ số lan tỏa
Chỉ số kích thích
nhập khẩu
2011 2007 2011 2007
1 Sắt, thép, gang 0.932 0.921 1.586 1.480
2 Các sản phẩm bằng kim loại khác còn lại 0.917 0.873 1.469 1.379
3 Xe có động cơ rơ moóc (trừ ô tô) 0.900 0.864 1.428 1.311
4 Ô tô các loại 0.900 0.885 1.428 1.362
5 Sản phẩm điện tử khác còn lại và sản phẩm
quang học 0.882 0.757 1.427 1.015
6 Sản phẩm từ plastic 0.851 0.811 1.382 1.165
7 Tàu và thuyền 0.992 0.951 1.380 1.291
8 Máy chuyên dụng 1.005 0.980 1.369 1.302
9 Các sản phẩm khác chiết xuất từ dầu mỏ, khí
đốt 0.955 0.795 1.359 2.065
10 Máy thông dụng 0.989 0.855 1.344 1.087
11 Dầu mỡ động thực vật 1.031 1.102 1.341 1.276
12 Than cốc & các SP phụ khác từ lò luyện than
cốc 0.976 0.809 1.340 1.039
13 Xăng, dầu các loại 0.937 0.766 1.330 2.010
14 Trang phục các loại 0.907 0.875 1.328 1.123
15 Thủy tinh và sản phẩm từ thủy tinh 0.837 0.777 1.324 1.255
296
16 Thiết bị, dụng cụ y tế, nha khoa, chỉnh hình và
phục hồi chức năng 0.864 0.723 1.322 1.012
17 Phương tiện vận tải khác còn lại 0.974 0.914 1.318 1.245
18 Môtô, xe máy 0.974 0.898 1.318 1.216
19 Mô tơ, máy phát, biến thế điện, thiết bị phân
phối và điều khiển điện 1.078 0.770 1.288 0.895
20 Da, lông thú đã thuộc, sơ chế; vali, túi xách, yên
đệm và các loại tương tự. 0.875 0.945 1.260 1.176
Kết quả tính toán cho thấy những ngành liên quan đến khoa học công nghệ như
nghirn cứu khoa học và phát triển (118), dịch vụ chuyên môn khoa học và công nghệ
khác (120) có chỉ số lan toả và độ nhậy rất thấp cho thấy 2 mặt của vấn đề, những
nhóm ngành này không lan toả gì đến nền kinh tế và nền kinh tế cũng không cần đến
nó. Với cấu trúc kinh tế cơ bản là gia công và dựa vào bán tài nguyên thì việc tăng
cường đầu tư cho khoa học công nghệ trong khi chưa cấu trúc lại nền kinh tế và tư
duy kinh tế cũng là điều vô nghĩa. Như vậy có thể thấy gốc của vấn đề không phải là
đầu tư cho khoa học công nghệ bao nhiêu mà là cấu trúc kinh tế và tư duy kinh tế.
Trong nội dung nghiên cứu tiếp theo (nội dung 4), nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra kịch
bản với những chính sách phù hợp để phát triển bền vững dựa vào khoa học công
nghệ.
2. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tƣ (ICOR):
Hệ số ICOR hay còn gọi là hệ số tăng vốn-sản lượng (Incremental Capital-
Output Ratio, viết tắt là hệ số ICOR). Hệ số này phản ánh cần bao nhiêu đồng vốn
tăng thêm để tạo ra một đơn vị tăng thêm của GDP.
Hình 01: ICOR theo 3 khu vực sở hữu cho 3 giai đoạn từ 2000-2012
Nguồn: Số liệu Tổng cục Thống kê và tính toán của nhóm nghiên cứu
Xét cả 3 giai đoạn, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là khu vực hoạt
động kém hiệu quả nhất về mặt sử dụng vốn. Trong cả giai đoạn 2000-2012, để tạo ra
1 đồng giá trị tăng thêm, khu vực này phải bỏ ra 10.10 đồng vốn. Còn xét trong giai
đoạn 2007-2012, giá trị này phải là 14.42 đồng mới có được 1 đồng giá trị tăng thêm.
297
Trong nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy: khu vực FDI là khu vực có sự tăng
trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố khác như tận dụng nguồn nhân lực phổ thông, giá
rẻ, còn công nghệ chủ yếu là lạc hậu, đã khấu hao hết. Một điều đặc biệt nữa là mặc
dù bao gồm cả khai thác dầu khí (mà tài nguyên của Việt Nam), khu vực này hầu như
được ưu ái bởi chính quyền và cả ngân hàng về vốn; việc hiêu quả đầu tư của khu vực
này thấp, một phần là do các báo cáo lỗ, do việc chuyển giá giữa các công ty mẹ con
với nhau dường như khá phổ biến trong suốt những năm qua. Những việc này đẩy cao
chi phí sản xuất và dĩ nhiên là lợi nhuận (theo báo cáo) sẽ nhỏ đi thậm chí nhiều
doanh nghiệp FDI báo lỗ; có thể về thực sự họ vẫn lãi nhưng kết quả mà phía Việt
Nam nhận được là không thu được thuế từ các doanh nghiệp loại này. Đấy là chưa kể
đến những hệ luỵ khác về như môi trường, về mất đất nông nghiệp, mục đích thu hút
công nghệ và giải quyết việc làm cũng chẳng được bao nhiêu…
Đứng thứ 2 về mặt sử dụng vốn là khu vực Nhà nước. Trong cả giai đoạn 2000-
2012, khu vực này bỏ ra 8.20 đồng để có được 1 đồng giá trị tăng thêm. Trong giai
đoạn 2007-2012, hiệu quả đầu tư vẫn tiếp tục giảm đi khi phải đầu tư 9.30 đồng mới
tạo ra được 1 đồng giá trị tăng thêm.
Ấn tượng nhất vẫn là khu vực ngoài Nhà nước, mặc dù trong giai đoạn vừa qua, khu
vực này chịu tác động nhiều nhất của khủng hoảng kinh tế, chính sách thắt chặt tiền tệ của
Chính phủ, lãi suất ngân hàng tăng, tiếp cận nguồn vốn vay khó khăn... nhưng hiệu quả sử
dụng đồng vốn lại hiệu quả nhất. Ngay cả trong giai đoạn 2007-2012, mức đầu tư để tạo ra
1 đồng giá trị tăng thêm của khu vực này cũng chỉ là 3.89 đồng. Đây phải chăng là một
nghịch lý khi với đóng góp vào trong GDP lên đến khoảng 50%, thực chất có thể thấy khu
vực ngoài Nhà nước lại là đầu tàu kéo cả nền kinh tế dù không được ưu đãi về mặt chính
sách như khu vực doanh nghiệp Nhà nước và FDI ?
3. Hiệu quả kinh tế ngày càng kém đi thể hiện trong sự thay đổi tỷ lệ giá trị tăng
thêm trên giá trị sản xuất và tỷ lệ giá trị tăng thêm trên chi phí trung gian
Hình 02: Sự thay đổi tỷ lệ giá trị tăng thêm trên giá trị sản xuất (VA/GO) và tỷ lệ giá trị
tăng thêm trên chi phí trung gian (VA/IC)
Nguồn: Điều tra doanh nghiệp TCTK và tính toán của nhóm nghiên cứu
Trong giai đoạn 2000-2011, tỷ lệ giá trị tăng thêm trên giá trị sản xuất đã giảm
đi trên 13 điểm phần trăm. Hiệu quả tạo ra giá trị tăng thêm ngày càng sụt giảm, dẫn
đến muốn đạt được tăng trưởng trong tương lai thì nền kinh tế Việt Nam sẽ lại càng
phải phụ thuộc vào vốn đầu tư (mà thực chất là đi vay nước ngoài, phát hành trái
phiếu và in tiền…).
298
4. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP):
Một phương pháp phổ biến dùng để đánh giá đóng góp các nhân tố vào tăng
trưởng GDP là sử dụng hàm sản xuất, với hai yếu tố đầu vào cơ bản là vốn và lao
động. Sự gia tăng sản lượng trong nền kinh tế là do hai phần chính: (1) sự gia tăng của
các yếu tố đầu vào (Vốn - Lao động); (2) sự gia tăng về năng suất bằng hệ số năng
suất nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity - TFP).
Bảng 11: Đóng góp của K, L và TFP cho 2 giai đoạn 2000-2006 và 2007-2012
Vốn Lao động TFP
2000-2012 67.69% 23.07% 9.24%
2007-2012 69.33% 24.23% 6.44%
2000-2006 49.95% 27.42% 22.62%
Nguồn: Bảng I-O 2000-2007 và tính toán của nhóm nghiên cứu
Kết quả cho thấy tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam ngày càng dựa nhiều
vào yếu tố Vốn, đống góp của vốn vào tăng trưởng giai đoạn 2000-2006 là 49.95%;
tăng lên 69.33% trong giai đoạn 2007-2012. Trong khi đó một điểm quan trọng có thể
nhận thấy là yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp, yếu tố bao hàm “khoa học công
nghệ” của Việt Nam càng ngày càng giảm đi nhanh chóng, từ 22.62% xuống chỉ còn
6.44%. Cụm từ “đi tắt đón đầu” trong phát triển khoa học công nghệ xem ra vẫn
không hề đúng, phải chăng việc nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại của
nước ngoài có vấn đề ở khâu xác định năng lực quản lý và áp dụng triển khai vào Việt
Nam, hay phần nhiều vẫn chỉ là những công nghệ, máy móc thiết bị lạc hậu của thế
giới ?
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm sản xuất trong nước cần
thay đổi mô hình tăng trưởng, từ tăng trưởng dựa vào vốn dần chuyển sang dựa nhiều
hơn vào khoa học công nghệ và ngoài ra cũng cần thay đổi cách làm khoa học từ đó
mới có thể có nhiều bài báo khoa học trên các tạp chí Quốc tế dần nâng cao vị trí của
khoa học công nghệ nước nhà.
5. Chỉ số kích thích nhập khẩu, chỉ số lan toả và độ nhậy của ngành khoa
học công nghệ
Sử dụng phân tích I-O dựa trên các chỉ số kích thích nhập khẩu, chỉ số liên kết
ngược (backward linkages - BL) và liên kết xuôi (forward linkages - FL) áp dụng cho
ngành Khoa học & Công nghệ của Việt Nam.
Hàm ý của chỉ số kích thích nhập khẩu để đo lường nếu phát triển ngành này
thì sẽ kích thích nhập khẩu như thế nào.
Hàm ý của các hệ số (liên kết ngược - liên kết xuôi) này là các công cụ đo lường
mối liên hệ của một ngành với các ngành còn lại, với vai trò của một ngành sử dụng đầu
vào của các ngành khác hay của một ngành cung cấp đầu vào cho các ngành khác.
Tính toán 3 chỉ số này dựa trên cấu của các bảng cân đối liên ngành từ năm
2000 đến nay, kết quả đưa đến một thực trạng khá bất ngờ:
Bảng 12: Chỉ số kích thích nhập khẩu, chỉ số lan tỏa và độ nhậy của ngành khoa
học công nghệ
299
Giai đoạn Hệ số lan tỏa Độ nhậy Chỉ số kích thích
nhập khẩu
2000-2006 0.668 0.767 0.787
2007-2012 0.653 0.850 0.894
(Lớn hơn 1: tốt; Nhỏ hơn 1: không tốt)
“Chỉ số lan tỏa về kinh tế” lẫn “độ nhậy” của ngành khoa học công nghệ
trong cả 2 giai đoạn đều nhỏ hơn 1, điều này đồng nghĩa với việc có phát triển ngành
này cũng không đem lại nhiều tác động tích cực đến các ngành khác (thậm chí cả 2
chỉ số này còn có xu hướng kém đi khi so sánh 2 giai đoạn).
Ngoài ra, chỉ số kích thích nhập khẩu của ngành khoa học công nghệ tuy nhỏ
hơn 1 nhưng cũng là cao nhất trong 3 chỉ số này.
Từ kết quả trên có thể đưa đến kết luận là: “có hay không có” ngành khoa học
công nghệ của Việt Nam thì các ngành khác vẫn phát triển bình thường.
6. Tình hình Xuất nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 2000-2012
Hình 03: Nhập siêu hàng hóa và tăng trƣởng GDP giai đoạn 2000-2012
Nguồn: số liệu Tổng cục Thống kê và tính toán của nhóm nghiên cứu
Hình 04: Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2000-2012
Đơn vị tính: %
300
Nguồn: số liệu Tổng cục Thống kê và tính toán của nhóm nghiên cứu
Hình 05: Cơ cấu nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 2000-2012
Đơn vị tính: %
Nguồn: số liệu Tổng cục Thống kê và tính toán của nhóm nghiên cứu
Xét trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, nền kinh tế Việt Nam luôn trong tình
trạng nhập siêu cao. Đỉnh điểm là năm 2008, tổng mức nhập siêu hàng hóa là trên 18
tỷ USD. Với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, vấn đề nhập siêu cũng
không hẳn là không tốt, nếu các hàng hóa nhập khẩu phục vụ cho nhu cầu sản xuất và
tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên trên thực tế, các loại hàng hóa nhập khẩu lại chủ yếu
phục vụ cho khu vực FDI, một khu vực mà hầu hết máy móc, thiết bị, nguyên nhiên
vật liệu… dùng cho sản xuất chủ yếu phải nhập khẩu, rồi sau đó lại phục vụ cho xuất
khẩu. Những mặt hàng xuất khẩu như điện tử; máy tính và linh kiện; điện thoại và các
loại linh kiện; hàng dệt may; giày dép..., lại mang nặng tính lắp ráp gia công, hàm
lượng giá trị gia tăng thấp, hiệu quả thu về cho nền kinh tế cũng không nhiểu. Điều
này có thể thấy được qua nghiên cứu kỹ tình hình nhập siêu và tốc độ tăng trưởng
GDP trong giai đoạn 2000-2012 (Hình 03). Nhập siêu có cao hay thấp thì GDP vẫn
301
tăng trưởng khá trong giai đoạn này. Năm 2012, xuất siêu là 284 triệu USD thì tăng
trưởng GDP vẫn đạt được 5.03%, dù là thấp trong vòng 12 năm qua.
Xu hướng nhập khẩu và xuất khẩu của khu vực FDI cũng ngày càng “lấn lướt”,
dần dần chiếm lĩnh thị phần của khu vực kinh tế trong nước (Hình 04 - 05). Cơ cấu
xuất khẩu hàng hóa của khu vực kinh tế trong nước năm 2000 là 52.98%, giảm xuống
còn 36.93% năm 2012; khu vực FDI tăng lên tương ứng từ 47.02% năm 2000 lên
63.07% năm 2012. Cơ cấu nhập khẩu cũng có sự thay đổi đáng kể, khi mà khu vực
kinh tế trong nước phải “nhường” 24.9% thị phần cho khu vực FDI trong giai đoạn
2000-2012.
Từ những phân tích về tình hình xuất nhập khẩu nêu trên, có thể đưa đến một
kết luận quan trọng, đó là vấn đề “tự tái cấu trúc về sở hữu” của nền kinh tế Việt Nam
hiện nay. Nền sản xuất càng ngày càng phụ thuộc vào nhập khẩu, nhập khẩu phần lớn
chỉ để phục vụ cho xuất khẩu, và cuối cùng nền sản xuất trở thành “gia công toàn
diện”.
7. Tỷ lệ tích lũy tài sản của ngành khoa học công nghệ trên tổng tích lũy và Tỷ lệ
xuất - nhập khẩu của ngành khoa học công nghệ trên tổng giá trị xuất - nhập khẩu
Trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân, khoa học công nghệ được định
nghĩa là một ngành kinh tế. Phần tích lũy tài sản của ngành này chính là hàm lượng
chất xám kết tinh trong những phát minh, sáng chế được cấp bằng bảo hộ; số văn bằng
sở hữu công nghiệp được cấp… của một quốc gia.
Giá trị nhập khẩu của ngành khoa học công nghệ cũng chính là giá trị của những
bằng phát minh, sáng chế, số văn bằng sở hữu công nghiệp… được nhập khẩu của nước
ngoài; còn phần xuất khẩu là phần của Việt Nam bán cho nước khác.
Dựa trên bảng I-O 2000 và 2007, nhóm nghiên cứu tính toán được tỷ lệ này của
Việt Nam qua 2 giai đoạn 2000-2006 và 2007-2012.
Bảng 13: Tỷ lệ TLTS - xuất khẩu - nhập khẩu của ngành khoa học công nghệ so với
tổng tích lũy tài sản, tổng xuất khẩu và tổng nhập khẩu (%)
2000-2006 2007-2012
Giá trị TLTS của ngành KHCN trên tổng tích lũy tài sản 0.76 0.92
Xuất khẩu KHCN trên tổng xuất khẩu 0.15 0.15
Nhập khẩu KHCN trên tổng nhập khẩu 0.26 0.18
Nguồn: Bảng I-O 2000 và 2007 và tính toán của nhóm nghiên cứu
Qua bảng 11, nhóm nghiên cứu nhận thấy giá trị Tích lũy tài sản của ngành
khoa học công nghệ vẫn còn quá thấp (chưa đến 1% cho giai đoạn 2007-2012). Đối
với các nước phát triển, tỷ lệ này lên đến vài chục phần trăm.
Giá trị nhập khẩu và xuất khẩu trên tổng nhập khẩu và xuất khẩu của ngành này
cũng còn thấp hơn nữa và không có xu hướng tăng lên. Định hướng phát triển kinh tế
dựa trên xuất khẩu cũng phải đồng nghĩa với việc tăng giá trị xuất khẩu của ngành
khoa học công nghệ trong tương lai (xuất khẩu bằng phát minh, sáng chế, số văn bằng
sở hữu công nghiệp….).
8. Luồng tiền chi trả nƣớc ngoài ròng
Hiện nay khi nói đến tình hình kinh tế thường được gắn chặt với chỉ tiêu GDP,
GDP ở Việt Nam hiện nay không chỉ được tính toán mà còn được nhìn nhận về ý niệm
302
từ phía cung, tức là cộng tất cả phần giá trị gia tăng của các ngành trong nền kinh tế và
thuế nhập khẩu (trong giá trị gia tăng theo cách tính toán của cơ quan Thống kê Việt
Nam bao gồm cả thuế sản phẩm) theo nguyên tắc thường trú, chẳng hạn một doanh
nghiệp FDI hoạt động trên lãnh thổ Việt nam trên một năm thì toàn bộ phần giá trị gia
tăng của doanh nghiệp đó được tính vào GDP của Việt Nam, một doanh nghiệp FDI
khai thác tài nguyên ở Việt Nam cũng được tính toán theo nguyên tắc trên; như vậy việc
tăng trưởng về quy mô cũng như về số lượng của chỉ tiêu GDP thực ra không phản ánh
được đầy đủ bức tranh của nền kinh tế, chẳng hạn như doanh nghiệp FDI chuyên về
khai thác tài nguyên họ sẽ chuyển phần lợi nhuận về nước họ sẽ không được thể hiện
trong GDP. Trong Hệ thống các tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm nhiều chỉ tiêu kinh
tế tổng hợp nhưng trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ đưa ra một chỉ tiêu nữa nhằm
phảm ánh thực chất hơn về nền kinh tế, đó là chỉ tiêu Tổng thu nhập Quốc gia (GNI-
Gross National Income), Tổng thu nhập quốc gia (GNI) được xác định bằng Tổng sản
phẩm tronng nước (GDP) cộng với thu nhập từ sở hữu trừ đi chi trả về sở hữu. Nếu
phần chi trả sở hữu lớn hơn phần thu nhập từ sở hữu, thì GNI sẽ nhỏ hơn GDP và
ngược lại.
Xem lại số liệu trong 11 năm từ 2000 - 2010 ta thấy:
+) Về quy mô GDP năm 2010 tăng gấp 4,5 lần năm 2000 và bình quân hàng
năm tăng 16,2%;
+) GDP đã loại trừ yếu tố giá năm 2010 tăng so với 2000 là 2 lần và bình quân
hàng năm tăng 7,3%.
Tuy nhiên, nếu xét về GNI theo giá thực tế năm 2010 so với 2000 chỉ tăng 4,3
lần và nếu lấy chỉ số giảm phát GDP (GDP deflactor) để loại trừ yếu tố giá của tổng
thu nhập quốc gia, thì GNI chỉ tăng 1,96 lần và bình quân hàng năm giai đoạn 2000 –
2010 chỉ tăng 6,7%. Nếu xét theo 2 giai đoạn 2000-2005 và 2006-2010 thì tổng sản
phẩm trong nước và tổng thu nhập Quốc gia tăng bình quân tương ứng theo 2 giai
đoạn là 7,5% và 7,3% và 6,7% và 5,7%. Nếu năm 2000 tỷ lệ giữa GNI và GDP là
99% thì đến năm 2010 tỷ lệ này chỉ còn là 94%; điều này cho thấy luồng tiền ra ngày
càng lớn do thu nhập từ sở hữu thuần ngày càng nhỏ đi đáng kể.
Nếu xét theo giá hiện hành thì mức độ chi trả sở hữu cho bên ngoài của năm
2010 so với 2000 tăng khoảng 13 lần (trong khi GDP tăng 4,5 lần); tốc độ chi trả sở hữu
thuần ra nước ngoài tăng bình quân hàng năm khoảng 22% (trong khi tốc độ tăng GDP
bình quân hàng năm chỉ là 7,26%). Sơ đồ sau biểu thị khoản chi trả sở hữu ra nước
ngoài thuần (chi trả sở hữu – thu nhập từ sở hữu) từ năm 2000-2010 (Hình 5). Tốc độ
tăng trưởng của chỉ tiêu này đặc biệt tăng từ năm 2005 đến 2010.
Hình 06: Chi trả sở hữu thuần ra nƣớc ngoài theo 2 loại giá (Đơn vị tính tỷ đồng)
303
Nguồn: Niên giám Thống kê và tính toán thêm của tác giả
Ngoài ra có thể nhận thấy tuy không hoàn toàn tại khu vực FDI nhưng rõ ràng
khu vực có vốn đầu tư trực tiếp góp phần quan trong làm luồng tiền đi ra khỏi đất
nước ngày một lớn, và hình 2 cho thấy mức độ liên quan của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến luồng tiền ra.
Hình 07: So sánh chi trả sở hữu ra nƣớc ngoài và vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (Tỷ
đồng)
Nguồn: Niên giám Thống kê và tính toán thêm của tác giả
Điều này cho thấy ngoài việc thâm hụt thương mại kinh niên thì việc chi trả sở
hữu ra nước ngoài cũng đáng báo động không kém, phải chăng đây là hậu quả của
việc kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách quá thoải mái và không có định
hướng, ngoài ra cung do việc quá chú trọng đến chỉ tiêu GDP mà quên mất rằng cái
nước ta được hưởng sau cùng là thu nhập Quốc gia. Cùng với việc thâm hụt thương
mại cao đây là một lý do cơ bản khiến đồng tiền Việt Nam ngày càng mất giá và điều
này cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP rất ít ý nghĩa trong việc phản ảnh tình trạng thực
sự của nền kinh tế. Điều này không chỉ liên quan đến vấn đề khai thác tài nguyên, mà
về tổng thể chúng ta phải có những ràng buộc với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài (FDI) để hạn chế tình trạng luồng tiền chảy ra ngoài càng ngày càng nhiều.
Cũng do GNI ngày càng nhỏ so với GDP (năm 2000 tỷ lệ này là 98,6% GDP,
đến năm 2010 tỷ lệ này giảm xuống còn 94% GDP) mà tỷ lệ tiết kiệm (nguồn để đầu
304
tư) từ nền kinh tế giảm xuống một cách nhanh chóng đặc biệt từ 2006 đến nay (từ
36% xuống còn 29% GDP). Tiết kiệm của nội bộ nền kinh tế là nguồn cơ bản để đầu
tư mà tỷ lệ này giảm rất mạnh từ 87% trong tổng vốn đầu tư trong năm 2006 xuống
chỉ còn 67% trong năm 2009. Tức là trong vòng 4 năm tỷ lệ này giảm khoảng 20 điểm
phần trăm. Nhưng điều đáng ngại hơn cả là tỷ lệ đầu tư trên GDP không hề suy giảm
và thường xuyên chiếm trên 40% GDP. Điều này cho thấy không thể nói chung chung
giảm tăng trưởng để ổn định vĩ mô mà cần xác định ổn định vĩ mô là ổn định cái gì?
Và tái cơ cấu kinh tế không thể theo hình quả mít như hiện nay mà cần có những định
hướng tổng quát về phân phối lần đầu cần tái cơ cấu theo ngành và theo sở hữu ra
sao? Về phân phối lại thu nhập cần phải thay đổi thế nào để đất nước đỡ thiệt thòi.
9. Chi cho nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn
so với tổng chi ngân sách nhà nƣớc:
Đây là tổng chi phí của các cơ sở kinh tế (bao gồm doanh nghiệp, các cơ quan
nghiên cứu của Nhà nước, các doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp FDI) trong
năm 2011 đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ (lấy từ nguồn ngân
sách Nhà nước), bao gồm chi phí cho công tác nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, cải tiến
công nghệ, cải tiến quản lý, chi phí cho đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ (kể cả
chi mua phát minh, mua bản quyền nhãn mác...). Mục tiêu nghiên cứu chỉ tiêu này
nhằm đánh giá mức độ đầu tư cho nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào
thực tiễn so với tổng chi ngân sách. Hàng năm, Nhà nước phải đầu tư rất nhiều tiền Chi
đầu tƣ phát triển và Chi phát triển sự nghiện kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tổng chi
cho sự nghiệp khoa học, công nghệ (bao gồm cả môi trường) cũng chưa đến 2%.
Bảng 14: Chi cho sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trƣờng
so với tổng chi ngân sách Nhà nƣớc
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012
(Dự toán)
Tổng chi (Tỷ đồng) 399402 494600 584695 661370 796000 903100
Chi sự nghiệp khoa học, công
nghệ và môi trường 7604 7744 10196 5139 6483 7160
So với tổng chi ngân sách (%) 1.90% 1.57% 1.74% 0.78% 0.81% 0.81%
Nguồn: Niên giám Tổng cục Thống kê
Có thể thấy tỷ lệ chi cho sự nghiệp khoa học và công nghệ là rất thấp, tổng chi
cho sự nghiệp khoa học, công nghệ và cả về môi trƣờng mới chỉ chiếm chưa được
2% trong tổng chi ngân sách.
10. Số lƣợng và kết quả hoạt động của các đơn vị khoa học công nghệ
trong nền kinh tế
Thống kê số lượng các đơn vị hoạt động trong các ngành liên quan đến khoa
học công nghệ của khu vực Nhà nước, ngoài nhà nước và FDI trong toàn nền kinh tế.
Kết quả hoạt động R&D và đổi mới công nghệ trong năm 2011 bao gồm số đề tài/dự
án nghiên cứu đã triển khai; số sáng chế được cấp bằng bảo hộ; số văn bằng sở hữu
công nghiệp được cấp; số sáng kiến, giải pháp kỹ thuật được áp dụng.
Bảng 15: Kết quả hoạt động của các đơn vị khoa học công nghệ năm 2011
Số đề tài/dự Số sáng chế Số văn bằng sở hữu Số sáng kiến, giải pháp
305
án nghiên cứu
đã triển khai
đƣợc cấp
bằng bảo hộ
công nghiệp khác
đƣợc cấp
kỹ thuật đƣợc áp dụng
Tổng số 2040 53 613 5662
Nguồn: Số liệu điều tra doanh nghiệp 2012
Tổng số lượng doanh nghiệp của toàn Việt Nam năm 2011 là trên 325 nghìn
doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên có thể thấy là kết quả hoạt
động của các đơn vị liên quan đến lĩnh vực khoa học công nghệ còn rất nghèo nàn. Số
lượng đề tài/dự án đã triển khai vốn rất ít nhưng đi vào thực tế không được bao nhiêu.
Số bằng sáng chế hay văn bằng sở hữu công nghiệp cũng có con số rất khiêm tốn với
một nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
11. Chi cho nghiên cứu và triển khai các công trình nghiên cứu khoa học
vào thực tiễn so với tổng vốn đầu tƣ của khu vực doanh nghiệp
Chỉ tiêu này nhằm thống kê tổng chi phí cho nghiên cứu và triển khai các công
trình nghiên cứu của khu vực doanh nghiệp trong năm 2011 so với tổng vốn đầu tư
của toàn xã hội.
Bảng 16: Chi phí cho hoạt động R&D và đổi mới công nghệ của khu vực doanh nghiệp
năm 2011
Giá trị Tỷ trọng
Tổng chi phí 12111653.7 100.00
I. Chi cho hoạt động R&D 4599129.5 37.97
+ Tự thực hiện 529649.6 4.37
+ Chi ngoài Doanh nghiệp 39431.9 0.33
II. Chi cho đổi mới công nghệ 7512524.2 62.03
+ Mua máy móc, thiết bị 2345498.1 19.37
+ Công nghệ 326018.7 2.69
+ Chi mua, khai thác sáng chế 144396.4 1.19
Nguồn: Số liệu điều tra doanh nghiệp 2012
Theo kết quả cuộc Tổng điều tra cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp năm 2012
do Tổng cục Thống kê công bố, tổng chi phí cho hoạt động nghiên cứu và triển khai
các công trình nghiên cứu khoa học vào thực tiễn của khu vực doanh nghiệp chỉ vào
khoảng 12 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 1.38% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đặc biệt trong tổng chi phí cho hoạt động nghiên cứu và triển khai các công
trình nghiên cứu khoa học vào thực tiễn của khu vực doanh nghiệp, thì chi cho đổi
mới công nghệ, mua và khai thác bằng phát minh sáng chế chỉ chiếm 3.88% trong
tổng chi phí. Với 1 quốc gia đi sau về công nghệ so với thế giới như Việt Nam, việc
đẩy mạnh đầu tư mua sắm cho đổi mới công nghệ, bằng phát minh sáng chế cần được
đẩy mạnh hơn nữa, có như vậy mới tận dụng được lợi thế “đi tắt đón đầu” các nước
phát triển.
12. Tỷ lệ cán bộ làm nghiên cứu và triển khai công nghệ của khu vực
doanh nghiệp so với tổng số lao động của khu vực doanh nghiệp năm 2011
306
Cán bộ làm công tác nghiên cứu và triển khai công nghệ là những người do
doanh nghiệp quản lý, sử dụng và trả lương, được giao nhiệm vụ và trực tiếp tham gia
các đề tài/dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công
nghệ và các hoạt động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.
Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá tổng số lao động làm trong lĩnh vực
nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ trên tổng số lao động trong khu vực doanh
nghiệp năm 2011.
Bảng 17: Số lƣợng lao động làm R&D và triển khai công nghệ của khu vực doanh
nghiệp năm 2011
Số lao động
(Ngƣời)
Số cán bộ làm R&D và triển
khai công nghệ (Ngƣời) Tỷ lệ (%)
Tổng chung 11063047 10404 0.001
DN Nhà nước 1465229 2859 0.002
DN ngoài Nhà nước 7003275 5341 0.001
DN có vốn ĐTNN 2594543 2204 0.001
Nguồn: Số liệu điều tra doanh nghiệp 2012
“Phát triển khoa học công nghệ” luôn được ƣu tiên và được coi là mục tiêu
then chốt cho phát triển kinh tế trong tương lai, tuy nhiên số liệu thực tế cho thấy tỷ
lệ cán bộ làm công tác nghiên cứu & phát triển và triển khai công nghệ là “cực ít”
trong khu vực doanh nghiệp, đấy là chưa kể đến hiệu quả đem lại của những con
người làm nghiên cứu này mang lại được bao nhiêu cho nền kinh tế.
13. Một số chỉ tiêu ứng dụng công nghệ thông tin trong khu vực doanh
nghiệp năm 2011
Thống kê số lượng máy tính dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp có sử dụng kết nối Internet phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ áp dụng công nghệ thông tin của
khu vực doanh nghiệp vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bảng 18: Ứng dụng công nghệ thông tin của khu vực doanh nghiệp năm 2011
Số doanh
nghiệp
(DN)
Số máy tính
(Chiếc)
Số DN có kết
nối Internet
(DN)
Số máy
tính/1 doanh
nghiệp
(chiếc)
Tỷ lệ DN
dùng
Internet
(%)
Tổng chung 329044 1890443 260172 5.7 79.1
Chia ra:
DN Nhà nước 3394 242229 3137 71.4 92.4
DN ngoài Nhà nước 316642 1346192 248803 4.3 78.6
DN có vốn ĐTNN 9008 302022 8232 33.5 91.4
Nguồn: Số liệu điều tra doanh nghiệp 2012
Có thể thấy một điều là các doanh nghiệp Nhà nước được đầu tư về mặt công
nghệ cao nhất so với doanh nghiệp ngoài Nhà nước, ngay cả các doanh nghiệp FDI
cũng không sánh bằng. Tuy nhiên, một nghiên cứu về hiệu quả đầu tư (ICOR) lại cho
thấy điều ngược lại: khu vực kinh tế ngoài nhà nước là khu vực có hiệu quả nhất, thứ
307
hai là khu vực doanh nghiệp Nhà nước, và cuối cùng, kém hiệu quả nhất là khu vực
FDI.
14. Cách nhìn về phát triển kinh tế tri thức ở khu vực doanh nghiệp thông
qua một số chỉ tiêu cơ bản của cuộc điều tra cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp
năm 2007 và 2012 do Tổng cục Thống kê công bố
Đây là 2 cuộc Tổng điều tra được Tổng cục Thống kê triển khai thu thập thông tin
và công bố tính đến thời điểm 01/07 của 2 năm 2007 và 2012, đối tượng điều tra bao gồm
toàn bộ các đơn vị sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp, hợp tác xã và cơ sở trực thuộc
doanh nghiệp trong nước, chi nhánh/văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, cơ
sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông, lâm nghiệp và thủy sản), các cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, đoàn thể, hiệp hội, đơn vị sự nghiệp, cơ sở tôn giáo và tín ngưỡng.
So sánh kết quả của 2 cuộc Tổng điều tra này, chúng ta sẽ thấy rõ nét nhất những
mặt được và những tồn tại của khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là với góc nhìn của kinh tế
tri thức về phát triển lao động trình độ cao, và công nghệ thông tin.
14.1. Trình độ chuyên môn được đào tạo của lao động trong các đơn vị kinh tế,
hành chính sự nghiệp năm 2012 có tăng lên so với năm 2007
So với năm 2007, cơ cấu lao động theo trình độ được đào tạo đã có sự thay đổi
đáng kể. Tỷ lệ lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên tăng từ 11.1% năm 2007 lên
17.9% năm 2012, lao động trình độ trên đại học tăng từ 0.57% lên 4.1%. Tỷ trọng lao
động được đào tạo từ đại học trở lên trong những ngành dịch vụ cao hơn so với ngành
sản xuất. Điều này thể hiện rõ nhất trong khu vực hành chính, sự nghiệp: tỷ lệ lao
động có trình độ đại học là 61%, trên đại học là 22.8% (tương ứng với 31% và 2.5%
năm 2007), phần lớn tập trung ở các ngành hoạt động chuyên môn và khoa học công
nghệ, dịch vụ hành chính và phụ trợ, hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị
xã hội, giáo dục đào tạo, nghệ thuật vui chơi giải trí… Đối với khu vực doanh nghiệp
là các ngành: thông tin truyền thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hoạt
động kinh doanh bất động sản, hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ….
Trong khi đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo là ngành cần đội ngũ lao
động có trình độ đào tạo cao thì chỉ có 9.7% số lao động có trình độ từ đại học trở lên
và có tới 72.2% số lao động chưa qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo nhưng không được
cấp chứng chỉ. Điều này phản ánh phần nào lý giải hàng hóa sản xuất của Việt Nam
chưa có tính cạnh tranh cao trong khu vực và chưa đáp ứng nhu cầu lao động có trình
độ cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa của đất nước. Trong các cơ sở SXKD cá thể, tỷ
lệ lao động chưa được đào tạo còn khá cao, chiếm 67.2% tổng số lao động của khu
vực này (tuy nhiên có giảm so với tỷ lệ 85% của năm 2007) và chiếm 61% tổng số lao
động chưa được đào tạo của tổng thể các đơn vị kinh tế, hành chính sự nghiệp.
Đến thời điểm 01/07/2012 xét theo nhóm độ tuổi, có sự khác nhau về cơ cấu
giữa các loại hình cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp, trong đó lực lượng lao động trẻ
từ 15-34 tuổi chiếm tỷ trọng cao nhất tới 66.9% lao động của khu vực doanh nghiệp;
trong khi các đơn vị hành chính sự nghiệp có nhóm lao động từ độ tuổi 35-55 chiếm
tỷ trọng cao nhất (49.7%), đồng thời khu vực này cũng cho thấy sự trẻ hóa lực lượng
khi tỷ trọng của nhóm tuổi 15-34 tăng lên so với trước đây.
Bảng 19: Lao động của các đơn vị kinh tế, HCSN phân theo độ tuổi và trình độ chuyên
môn đƣợc đào tạo
308
Tổng
số
Doanh
nghiệp
Hợp
tác
xã
Cơ sở
SXKD
cá thể
Đơn
vị
CSN
Cơ sở tôn
giáo tín
ngƣỡng
1. Phân theo độ tuổi 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
- Dưới 15 tuổi 0.3 3.5
- Từ 15-34 tuổi 46.4 66.9 32.7 31.6 46.4 24.6
- Từ 35-55 tuổi 49.7 31.0 57.3 56.7 49.7 31.8
- Từ 56-60 tuổi 3.4 1.8 8.0 6.3 3.4 13.3
- Trên 60 tuổi 0.5 0.3 1.9 5.0 0.5 26.7
2. Phân theo trình độ chuyên môn
đƣợc đào tạo 100.0 100.0 100.0 100.1 100.0 100.0
- Chưa đào tạo 34.7 24.3 45.2 67.2 0.6 53.1
- Đã qua đào tạo nhưng không có
chứng chỉ 19.0 24.9 16.0 19.4 0.2 10.3
- Sơ cấp nghề 6.8 9.6 13.9 5.3 0.4 13.4
- Trung cấp, trung cấp nghề 9.7 12.8 14.3 5.2 8.6 5.6
- Cao đẳng, cao đẳng nghề 4.9 7.0 2.7 1.1 5.7 10.8
- Đại học 17.9 15.2 3.8 1.6 61.0 2.0
- Trên đại học 4.1 0.8 0.1 0.1 22.8 4.8
- Trình độ khác 2.9 5.4 4.0 0.2 0.7
Nguồn: Số liệu Tổng điều tra cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp, Tổng cục Thống kê năm
2012
14.2. Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp và đơn vị
hành chính sự nghiệp của năm 2012 đã có sự nâng lên so với năm 2007:
So với năm 2007, số lượng các đơn vị có sử dụng máy tính đã tăng từ 6.4% lên
9.9%, số cơ sở có kết nối internets tăng từ 1.8% lên 2.6%.
Các tỷ lệ này đặc biệt cao trong khu vực doanh nghiệp, có tới 87% và 80%
trong tổng số doanh nghiệp có sử dụng máy tính và có kết nối internet (so với 78% và
42% năm 2007); khu vực hành chính sự nghiệp đạt tỷ lệ 88.8% và 76.4% (so với 50%
và 15% năm 2007). Do tính chất hoạt động, việc ứng dụng công nghệ thông tin khu
vực sản xuất kinh doanh cá thể nhìn chung chưa phát triển, chỉ đạt tỷ lệ 2.3% và 1.8%
trong tổng số cơ sở cá thể có sử dụng máy tính và có kết nối internet.
Tuy mức độ ứng dụng công nghệ thông tin được nâng lên so với năm 2007,
nhưng hiệu quả ứng dụng cũng là vấn đề cần quan tâm khi hiện tại số doanh nghiệp có
website riêng và thực hiện các giao dịch thương mại điện tử còn thấp. Sự kết nối tác
nghiệp giữa các đơn vị hành chính sự nghiệp, đặc biệt là các đơn vị liên quan đến thủ
tục đăng ký, khai báo của người dân còn chưa được thiết lập rộng rãi nhằm hạn chế thủ
tục giấy tờ, thời gian đi lại của người dân, đồng thời xây dựng cơ sở dữ liệu lưu trữ
thông tin khai báo, trao đổi và kết nối giữa cácđơn vị phục vụ, cho nhiều mục đích quản
lý.
309
14.3. Số lượng và lao động của doanh nghiệp tăng nhanh về số lượng, nhưng chủ yếu
vẫn là quy mô nhỏ và vừa:
Bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2011, số lượng doanh nghiệp tăng 21%,
trong đó tăng nhanh nhất là khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước với 21.7%; khu
vực FDI tăng 16.4%; riêng khu vực doanh nghiệp Nhà nước, mỗi năm giảm 2.5% do
chủ trương cổ phần hóa, đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp.
Lao động làm việc cho khu vực doanh nghiệp thời điểm cuối năm 2011 đạt gần
11 triệu người, tăng 67% so với năm 2006. Nhìn chung số lao động của khu vực doanh
nghiệp tăng, nhưng chủ yếu ở một số ngành lớn như công nghiệp chế biến, chế tạo
(chiếm tỷ trọng 44.6%); xây dựng (16%); thương nghiệp (14%); vận tải kho bãi (4.7%);
hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ (3.2%). Khu vực doanh nghiệp ngoài
nhà nước thu hút nhiều lao động nhất với 6.7 triệu người (chiếm 61.3%) gấp 2.1 lần so
với năm 2006, bình quân giai đoạn 2006-2011 mỗi năm thu hút thêm 16.7% lao động.
Doanh nghiệp FDI có 2.6 triệu lao động (chiếm 22%), gấp 1.8 lần năm 2006, bình quân
giai đoạn 2006-2011 mỗi năm thu hút thêm 12% lao động. Khu vực doanh nghiệp Nhà
nước có số lao động giảm, chỉ còn 1.66 triệu lao động (chiếm 15.3%), giảm 12.4% so
với năm 2006, bình quân giai đoạn 2006-2011 mỗi năm giảm 2.6% lao động.
14.4. Doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên vẫn thu hút
được nhiều lao động, tạo ra lợi nhuận và đóng góp nhiều nhất cho ngân sách nhà nước
Theo kết quả cuộc Tổng điều tra tại thời điểm 31/12/2011, khu vực doanh
nghiệp công nghiệp và xây dựng thu hút 7.1 triệu lao động, chiếm 65% tổng số lao
động toàn khu vực doanh nghiệp; lợi nhuận trước thuế đạt 176.3 nghìn tỷ đồng, chiếm
49.8% và đóng góp cho ngân sách Nhà nước (thuế và các khoản phí, lệ phí) đạt 292.8
nghìn tỷ đồng, chiếm 56.6%. Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp của khu vực công nghiệp
và xây dựng đã giảm dần trong giai đoạn 2006-2011. Cụ thể so với năm 2006, tỷ trọng
đóng góp của khu vực này trong năm 2011 như sau: số doanh nghiệp giảm 4.5%; số
lao động giảm 5.4%; nguồn vốn giảm 6%; doanh thu giảm 2.4%; lợi nhuận giảm
11.5% và nộp ngân sách nhà nước giảm 6.5%. Sự sụt giảm tỷ trọng của khu vực
doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng năm 2011 so với năm 2006 cho thấy, trong
giai đoạn kinh tế toàn cầu suy giảm, các doanh nghiệp khu vực công nghiệp và xây
dựng gặp nhiều khó khăn hơn các loại doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh
khác do thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu bị thu hẹp, tồn kho sản phẩm cao
và kéo dài.
14.5. Doanh nghiệp dịch vụ chiếm tỷ lệ cao nhất về số doanh nghiệp, nguồn vốn và
doanh thu, đồng thời là khu vực phát triển nhanh:
Trong khu vực doanh nghiệp dịch vụ, tỷ trọng nhiều chỉ tiêu cơ bản năm 2011
đều tăng so với năm 2006; trong khi các khu vực còn lại là Nông, lâm nghiệp và thủy
sản, công nghiệp và xây dựng đều giảm.
Số doanh nghiệp đang hoạt động của khu vực này tại thời điểm 31/12/2011 là
212.4 nghìn doanh nghiệp, chiếm 67% toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Các ngành có
mức phát triển số lượng doanh nghiệp cao hơn nhiều so với tổng thể gồm: vận tải kho
bãi (3 lần); thông tin và truyền thông (3.6 lần); hoạt động kinh doanh bất động sản
(3.8 lần); hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ (4.1 lần); dịch vụ hành chính
và hỗ trợ (3.8 lần) y tế (3.4 lần) giáo dục (3.1 lần)…
310
Nguồn vốn huy động vào khu vực này năm 2011 đạt 9.758 nghìn tỷ đồng,
chiếm 65.7% tổng nguồn vốn của khu vực doanh nghiệp; doanh thu thuần đạt 5.870
nghìn tỷ đồng, chiếm 56.2%. Đồng thời tỷ trọng đóng góp của khu vực này có chiều
hướng tăng lên trong giai đoạn 2006-2011. Cụ thể: số doanh nghiệp của khu vực này
tăng 5.4% (từ 62.4% lên 67.8%); số lao động tăng 7% (từ 25.4% lên 32.5%); nguồn
vốn tăng 6.7% (từ 59% lên 65.7%); doanh thu thuần tăng 2.8% (từ 52.8% lên 55.5%);
lợi nhuận trước thuế tăng 10.1% (từ 33% lên 43.1%) và nộp ngân sách nhà nước tăng
6.6% (từ 35.7% lên 42.3%).
14.6. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhìn chung chưa cao và
có xu hướng thấp hơn năm 2006:
Theo kết quả của cuộc Tổng điều tra kinh tế hành chính sự nghiệp năm 2012,
tỷ lệ số doanh nghiệp kinh doanh có lãi là 53.9% (năm 2006 là 65.7%).
Tỷ lệ số doanh nghiệp kinh doanh không lãi, không lỗ là 3.2%, tương đương
với năm 2006.
Còn lại 42.9% số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, cao hơn tỷ lệ 31.1% của
năm 2006, nguyên nhân chủ yếu do năm 2011 nền kinh tế toàn cầu và kinh tế Việt
Nam đang trong giai đoạn khủng hoảng và suy giảm.
Xét theo thành phần kinh tế, doanh nghiệp Nhà nước là khu vực có tỷ lệ số
doanh nghiệp kinh doanh có lãi trong năm 2011 đạt cao nhất với 80.8%; còn lại là hai
khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và FDI, với tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có
lãi tương ứng là 53.7% và 53.8%.
Bảng 20: Hiệu quả sử dụng lao động, chỉ số nợ và chỉ số quay vòng vốn của doanh
nghiệp năm 2006 và 2011
Hiệu suất sử dụng
lao động (lần) Chỉ số nợ (lần)
Chỉ số quay vòng
vốn (vòng)
2006 2011 2006 2011 2006 2011
Tổng số 18.2 17.9 2.2 2.1 0.81 0.85
Chia theo loại hình kinh tế
- DN nhà nước 16.6 18.6 3.3 3.1 0.64 0.82
- DN ngoài nhà nước 20.4 19.1 1.8 1.9 0.63 0.97
- DN có vốn ĐTNN (FDI) 17.5 14.5 1.3 1.5 1.52 0.85
Chia theo khu vực kinh tế
- Nông, lâm nghiệp, thủy sản 4.3 4.4 0.4 0.5 0.36 0.58
- Công nghiệp và xây dựng 13.3 13.6 1.5 1.6 0.25 0.76
- Dịch vụ 29.3 25 3.4 2.5 0.32 0.59
Nguồn: Số liệu Tổng điều tra cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp, Tổng cục Thống kê năm 2012
Xét theo khu vực kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là khu vực có
tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi năm 2011 đạt cao nhất với 61.5%, tiếp đến là khu
vực công nghiệp và xây dựng 59.3% và cuối cùng là khu vực dịch vụ với 51.3%.
Xét về hiệu suất sử dụng lao động (tính bằng doanh thu bình quân/thu nhập bình
quân một lao động) năm 2011 chung cho toàn khu vực doanh nghiệp đạt 17.9 lần, hay
311
nói cách khác, doanh nghiệp chi trả 1 dồng cho thu nhập của người lao động thì tạo ra
17.0 đồng doanh thu (thấp hơn mức 18.2 lần của năm 2006).
Chỉ số nợ (tính bằng tổng nợ phải trả/tổng vốn chủ sở hữu) tại thời điểm
31/12/2011 của toàn khu vực doanh nghiệp là 2.1 lần (thấp hơn mức 2.2 lần của năm
2006). Chỉ số nợ năm 2011 cao nhật là khu vực doanh nghiệp Nhà nước (với 3.3 lần);
tiếp đến là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước (1.8 lần); và cuối cùng là khu vực
FDI (1.3 lần). Xét theo khu vực kinh tế, thì khu vực dịch vụ là khu vực có chỉ số nợ
cao nhất với 2.5 lần, trong khi khu vực công nghiệp và xây dựng chỉ có 1.6 lần; và
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ có 0.5 lần.
Chỉ số quay vòng vốn (tính bằng tổng doanh thu /tổng nguồn vốn) năm 2011
của toàn khu vực doanh nghiệp đạt 0.85 vòng (cao hơn mức tăng 0.81 vòng của năm
2006). Chia theo thành phần kinh tế, thì khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có chỉ
số quay vòng vốn cao nhất (0.97 vòng); tiếp đến là khu vực FDI (0.85 vòng); và khu
vực doanh nghiệp Nhà nước (0.81 vòng). Chia theo khu vực kinh tế, khu vực công
nghiệp và xây dựng là khu vực có chỉ số quay vòng vốn cao nhất (0.76 vòng); còn lại
là hai khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và dịch vụ có chỉ số quay vòng vốn
tương ứng là 0.58 vòng và 0.59 vòng.
Hiệu suất sinh lời trên tài sản (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản)
trong năm 2011 của khu vực doanh nghiệp đạt 2.5% (thấp hơn mức 5.5% của năm
2006). Khu vực kinh FDI là khu vực có hiệu suất sinh lời trên tài sản cao nhất trong
năm 2011 (4.8%); tiếp đến là khu vực doanh nghiệp Nhà nước (3.2%) và thấp nhất là
khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước (1.2%).
Hiệu suất sinh lời trên doanh thu (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng
doanh thu của toàn khu vực doanh nghiệp năm 2011 cũng chỉ đạt 3.2% (thấp hơn mức
6.1% của năm 2006).
14.7. Thực trạng phát triển của khu vực doanh nghiệp trong 10 năm qua (2002-2011)
Theo báo cáo Thường niên do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) công bố cho năm 2012, xét trong giai đoạn 10 năm từ 2002 đến 2011, doanh
nghiệp Việt Nam có xu hướng “ngày càng nhỏ về lao động nhưng lớn về vốn, trong
đó, vào thời điểm 31/12/2002, số lao động bình quân 1 doanh nghiệp là 74 người,
giảm xuống còn 34 người đến cuối năm 2011; còn nguồn vốn bình quân 1 doanh
nghiệp tăng từ 23 tỷ đồng lên 47 tỷ đồng bình quân 1 doanh nghiệp”. Nếu nhìn
thoáng qua, chắc ai cũng sẽ mừng vì quy mô phát triển doanh nghiệp Việt Nam đang
ngày càng đi vào chiều sâu (ít nhân công đi, vốn tăng lên), nhưng thực chất có đúng
như vậy không?
Bảng 21: Quy mô nguồn vốn của khu vực doanh nghiệp theo giá thực tế
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Bình quân
chung
Doanh nghiệp
Nhà nƣớc
Doanh nghiệp
ngoài Nhà nƣớc
Doanh nghiệp
FDI
2002 22.90 166.91 4.30 133.53
2003 23.95 210.24 5.23 139.64
2004 23.56 264.70 5.90 142.36
2005 23.68 355.04 6.68 142.81
312
2006 25.75 470.09 7.97 155.32
2007 30.99 615.67 12.38 171.87
2008 32.86 886.36 13.84 193.17
2009 35.50 975.02 17.66 203.47
2010 41.09 1151.71 22.37 262.80
2011 47.00 1584.00 25.00 270.00
Nguồn: Số liệu Tổng cục Thống kê
Về nguyên tắc, để đảm bảo tính so sánh một chỉ tiêu liên quan đến tiền tệ giữa
các thời kỳ (như nguồn vốn, doanh thu, lợi nhuận….), phải loại trừ ảnh hưởng của yếu
tố giá để đưa chỉ tiêu cần phân tích về cùng một mặt bằng giá để đảm bảo tính so
sánh. Báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã bỏ qua
yếu tố này! Từ đó có thể dẫn đến những ngộ nhận và đôi khi là các nhận định sai lầm.
Để tính toán chỉ số giảm phát cho chỉ tiêu nguồn vốn của doanh nghiệp là rất
phức tạp, tác giả tạm dùng chỉ số lạm phát của giai đoạn 2002-2011 (Bảng 02) nhằm
đưa chỉ tiêu này về mặt bằng giá của năm 2002, kết quả lại đưa đến một thực trạng
hoàn toàn khác.
Bảng 22: Chỉ số lạm phát giai đoạn 2002-2011
Năm Chỉ số lạm phát
2002 3.9
2003 3.18
2004 7.71
2005 8.26
2006 7.34
2007 8.3
2008 22.97
2009 6.88
2010 9.19
2011 8.58
Nguồn: Số liệu Tổng cục Thống kê
Xét trong giai đoạn 2002 đến 2011 (tính theo giá năm 2002), nguồn vốn bình
quân 1 doanh nghiệp giảm từ 22.9 tỷ đồng xuống chỉ còn khoảng 8.3 tỷ đồng 1 doanh
nghiệp. Trong đó, quy mô doanh nghiệp Nhà nước tăng từ 167 tỷ đồng lên mức 279 tỷ
đồng 1 doanh nghiệp; doanh nghiệp ngoài Nhà nước dường như vẫn “dậm chân tại
chỗ” với 4.3 tỷ đồng bình quân 1 doanh nghiệp năm 2002 và 4.4 tỷ đồng bình quân 1
doanh nghiệp năm 2011; còn doanh nghiệp FDI thì lại có sự sụt giảm lớn, từ 134 tỷ
đồng vốn bình quân 1 doanh nghiệp năm 2002 xuống chỉ còn 47 tỷ đồng 1 doanh
nghiệp năm 2011 theo giá của năm 2002. Nguồn vốn bình quân 1 lao động của toàn
313
khu vực doanh nghiệp cũng có sự sụt giảm đáng kể, từ 0.31 tỷ đồng bình quân 1 lao
động năm 2002 xuống còn 0.24 tỷ đồng vào năm 2011.
Bảng 23: Quy mô nguồn vốn của khu vực doanh nghiệp theo giá năm 2002
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Bình quân
chung
Doanh
nghiệp
Nhà nƣớc
Doanh
nghiệp
ngoài Nhà
nƣớc
Doanh
nghiệp
FDI
2002 22.9 166.9 4.3 133.5
2003 23.2 203.6 5.1 135.2
2004 21.0 235.9 5.3 126.9
2005 19.1 287.1 5.4 115.5
2006 18.9 345.6 5.9 114.2
2007 20.2 401.5 8.1 112.1
2008 13.9 374.4 5.8 81.6
2009 12.6 344.8 6.2 71.9
2010 10.8 301.4 5.9 68.8
2011 8.3 278.6 4.4 47.5
Nguồn: Số liệu Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả
Tính riêng khu vực doanh nghiệp Nhà nước, số lượng doanh nghiệp chỉ chiếm
khoảng 1%, nhưng lại chiếm tới trên 30% nguồn vốn của toàn bộ khu vực doanh
nghiệp. Quy mô doanh nghiệp của khu vực này nếu xét theo yếu tố vốn vẫn tăng rất
cao dù là đã tính toán theo mặt bằng giá 2002. Bắt đầu từ năm 2007, quá trình cổ phần
hóa các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra mạnh mẽ, tuy nhiên vẫn có thể thấy đây là
khu vực được hưởng lợi rất nhiều từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước nên vẫn “vô tư
phát triển về quy mô”.
Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước là khu vực luôn được hô hào phát triển,
tuy nhiên mới chỉ về mặt số lượng và chưa có một định hướng nào thật sự rõ ràng. Bất
cập xảy ra khi mà ngày càng có nhiều doanh nghiệp được “khai sinh” thì cũng có rất
nhiều doanh nghiệp “chết đi”. Tuy nhiên, vốn mà khu vực này bỏ ra cho sản xuất kinh
doanh lại là thực chất và đóng góp vào trong tăng trưởng là nhiều nhất (chiếm tỷ trọng
gần 50% trong tổng GDP).
Theo nghiên cứu về hiệu quả đầu tư (ICOR) như trên đã trình bày: xét theo 3
giai đoạn 2000-2012; 2000-2006 và 2007-2012: Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn
là khu vực đầu tư hiệu quả nhất, tiếp đến là khu vực kinh tế Nhà nước và cuối cùng là
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng yếu
đi, kèm theo hiệu quả đầu tư cũng của khu vực này cũng không hề được cải thiện, kể
cả về lao động chất lượng cao và khoa học công nghệ cũng không tốt.
Trong vòng 10 năm, số lượng doanh nghiệp tăng hơn 4.5 lần, từ 69 nghìn doanh
nghiệp năm 2002 lên con số 312 nghìn doanh nghiệp vào năm 2011. Nguồn vốn của
314
doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ giá trị bằng tiền của tài sản cố định và tài sản lưu
động đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng với thực trạng phát triển và quy
mô nguồn vốn bình quân 1 doanh nghiệp như hiện nay thì dường như việc phát triển
doanh nghiệp một cách ồ ạt trong thời gian qua đã bộc lộ quá nhiều bất cập. Khi nền
kinh tế bắt đầu gặp khó khăn, tổng cầu của nền kinh tế yếu đi, tổng cung vốn đã yếu lại
càng yếu. Vấn đề tái cấu trúc doanh nghiệp là cần thiết, nhưng cần có định hướng dài
hạn về ngành, vùng trọng điểm. Và quan trọng là phải có được “sự bình đẳng thật sự
giữa các thành phần kinh tế” để cùng phát triển. Quy mô khu vực doanh nghiệp Nhà
nước cần đi vào thực chất, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước phải có định hướng
rõ ràng và chọn lọc, còn khu vực doanh nghiệp FDI cũng không cần thiết phải thu hút
đầu tư bằng mọi giá.
Một điểm cần nhấn mạnh là, vấn đề "Lo sức khỏe" của nền kinh tế được nhiều
đại biểu đề cập tại Hội thảo "Diễn biến giá cả, thị trường Việt Nam 6 tháng đầu năm
và dự báo 6 tháng cuối năm 2013" do Viện Kinh tế- Tài chính, Học viện Tài chính tổ
chức ngày 11-7. Một số ý kiến cho rằng Chính phủ cần phải có chính sách về kích
cầu, thậm chí có vị giáo sư còn cho rằng “một chương trình kích cầu tổng hợp và dài
hạn là cần thiết để tạo đà tăng trưởng cao trong chu kỳ vận động mới khi tình trạng
tăng trưởng chấm dứt..” mới thấy hình như người ta không hiểu rõ thế thế nào là "kích
cầu" và quản lý cầu (demand management). Vào những thập niên 30 của thế kỷ trước,
lý thuyết tổng quát của J.M.Keynes được đưa ra nhằm giải thích hiện tượng khủng
hoảng kinh tế thế giới, ông cho rằng khi làm tăng các nhân tố ở phía cầu sẽ kích thích
phía cung tăng trưởng. Cách làm này thực ra không phải là không tốt nhưng chỉ trong
ngắn hạn và mang tính nhất thời; và một câu nói nổi tiếng của ông đại ý “trong dài
hạn tất cả mọi người đều chết” và khủng hoẳng thế giới trong thời ký đó là khủng
hoảng về cầu. Ở Việt Nam từ năm 2007 đến nay triền miên với những chính sách về
quản lý cầu hết kiềm chế lạm phát lại kích thích tăng trưởng trong khi nền sản xuất
trong nước (phía cung) ngày càng yếu kém thì việc tăng cường từ phía cầu chỉ làm gia
tăng về giá cả mà thôi. Hơn nữa khi gia tăng phía cầu sẽ dẫn đến đòi hỏi mạnh mẽ từ
phía cung, với nền công nghiệp chế biến trong nước hầu như chỉ là gia công thì nhu
cầu nhập khẩu sẽ tăng cao khi có sự gia tăng ở phía cầu; như vậy việc gia tăng cầu
ngoài việc dẫn đến lạm phát còn dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại, từ đó dẫn đến
căng thẳng về tỷ giá và vòng xoáy lạm phát - suy trầm lại tiếp diễn và tất nhiên càng
về sau thì mức độ tăng trưởng càng nhỏ hơn (dù có gia tăng cầu) và lạm phát cao hơn.
Hiện nay có ý kiến của một số vị trong Hội đồng tiền tệ Quốc gia muốn tăng đầu tư
công 200 - 300 nghìn tỷ (khoảng trên 10 tỷ USD) để kích cầu thì không khác gì tự sát.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa của lạm phát chính là do hiệu quả đầu
tư mà đầu tư công là kém hiệu quả nhất, nếu trong giai đoạn 2000 – 2006 để tăng lên
1 đồng giá trị gia tăng cần 4,9 đồng thì đến giai đoạn 2007 – 2011 tỷ lệ tăng lên 7,7 và
khu vực Nhà nước có hiệu quả đầu tư kém và ngày càng kém hơn (từ 7,1 trong giai
đoạn 2000 – 2006 lên 9,9 trong giai đoạn 2007 – 2011), ngoài ra tính toán từ bảng
cân đối liên ngành cho thấy cơ cấu về nhu cầu nhập khẩu giữa các yếu tố của cầu sản
phẩm sản xuất trong nước thay đổi rõ rệt. Trong giai đoạn 2007 đến nay đầu tư kích
thích nhập khẩu nhiều nhất đặc biệt đầu tư công. Nếu đầu tư tăng thêm 1 đơn vị sản
phẩm sẽ kích thích đến nhập khẩu 1,69 đơn vị sản phẩm và đầu tư công là 1,8. Điều
này có thể thấy càng đầu tư không hiệu quả không chỉ gây tăng giá mà còn càng kích
thích nhập khẩu mạnh và đầu tư công là yếu tố gây nên thâm hụt thương mại mạnh
nhất, trong khi cung trong nước dường như đình trệ thì việc kích cầu từ đầu tư công
chẳng khác nào lấy tiền của dân ra để kích thích cho nước khác? Ngoài ra thu ngân
315
sách năm nay hụt rất lớn, theo báo chí thì riêng Hà Nội hụt thu khoảng 40 nghìn tỷ
(trong khi GDP tăng 7 -8% - Nghịch lý – Vì GDP nếu từ phương pháp thu nhập là cấu
thành của 3 yếu tố chính, thu nhập từ lao động, thu nhập từ vốn và thuế gián thu; nếu
thuế gián thu âm thì 2 yếu tố thu nhập của lao đông và thăng dư sẽ phải tăng xấp xỉ
20% nếu không loại trừ yếu tố giá, mà về cơ bản cơ quan thống kê tính toán giá trị
tăng thêm/GDP từ báo cáo quyết toán của doanh nghiệp. Như vậy nếu GDP của Hà
Nội tăng 7% thì không thể có chuyện hụt thu?), đó là chưa kể khi kích cầu từ tiền
ngân sách sẽ dẫn đến gia tăng nợ nần trong khi (theo tính toán của chuyên gia kinh tế
Vũ Quang Việt thì nợ công đã là 106% GDP); hơn nữa cần chú ý rằng nếu bỏ lượng
kiều hối ra thì để dành chỉ còn khoản 20% GDP. Như vậy nếu CP VN không khẩn
trương quay sang tình thần trọng cung thì nền kinh tế này là vô phương cứu chữa.
Kích cầu trong lúc này không khác gì cho bệnh nhân ưng thư uống thuốc bổ tưởng
người bệnh khoẻ ra nhưng thực chất là nuôi khối u nhanh phình hơn, vỡ ra và chết.
15/ Ngành Thống kê và kinh tế trí thức
Về nguyên tắc ngành Thống kê là nơi cung cấp nguồn số liệu giúp các nhà hoạch
định chính sách, các nhà nghiên cứu đưa ra những nhận định và quyết sách để phát triển
và chấn hưng đất nước, như vậy nơi đây là nơi cần phát triển tri thức và trí tuệ của nhân
loại đầu tiên. Trong vài năm lại đây nhiều ý kiến đóng góp và bình luận về phương
pháp, nguồn thông tin, cách thức công bố số liệu, độ tin cậy, tính hợp lý của sô liệu
Thống kê xuất hiện ngày càng nhiều; nhưng ý kiến này dù lời lẽ, cách hành văn có năng
nhẹ khác nhau nhưng cơ bản là những ý kiến chân thành và xây dưng. Có một điều cần
được nhìn nhận là ngay việc thừa nhận sai lầm cũng là một nét văn hóa169
tùy theo mực
độ văn hóa của người tiếp nhân phê bình..
Trên thế giới từ trước đến nay có hai hệ thống thống kê kinh tế Quốc dân, đó là
hệ thống các bảng cân đối vật chất (Material Product System – MPS) và hệ thống
các tài khoản Quốc gia (System of National Accounts – SNA). Hệ thống MPS được
các nước xã hội chủ nghĩa trước đây sử dụng và nay chỉ còn Bắc Hàn và Cu Ba vẫn
còn áp dụng; phần còn lại của thế giới áp dụng thống kê kinh tế theo hệ thống SNA.
Ngày 25/12/1992 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký quyết định 183/TTg, trong đó
điều 1 ghi rõ “Bắt đầu từ năm 1993, áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia trên phạm vi
cả nước thay cho hệ thống bảng cân đối kinh tế quốc dân và các chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp tương ứng”. Điều này có nghĩa chỉ tiêu tổng hợp của hệ thống MPS như thu nhập
Quốc dân được thay bằng chỉ tiêu tương ứng GDP. Trong khi thu nhập Quốc dân
được tiếp cận từ phía cung (tức là cộng tất cả sản lượng thuần túy của các ngành vào
với nhau) thì chỉ tiêu GDP đưa ra bởi kinh tế gia J. M. Keynes được tiếp cận từ phía
cầu (C,G,I, E, -M). Tuy nhiên, do SNA các phiên bản đều lấy bảng I/O của Leontief
làm trung tâm nên thì dù tiếp cận từ phía cung hay phía cầu đều ra một con số là GDP,
nhưng về mặt ý niệm cần hiểu GDP là tổng cầu cuối cùng. Hiện nay cơ quan Thống
kê Việt nam sau 20 năm có quyết định 183/TTg vẫn chưa có cơ cấu tổ chức thông tin
để có thể tính toán một cách trực tiếp và độc lập GDP từ phía cầu cuối cùng. Ngay
trong các niên giám TK cũng thường định nghĩa GDP in hệt thu nhập Quốc dân cộng
thêm phần dịch vụ
Khi người dùng tin muốn sử dụng số liệu Thông kê thường bối rối vì không
biết số liệu trong website của ngành Thông kê hay số liệu trong cuốn niên giám được
169 Văn hóa ở đây là văn hóa của một con người, một tổ chức; không phải là những người có học hàm học vị
hoặc năm giữ những vị trí cao trong xã hội
316
in ra giấy là số liệu chính thức170
? Ngành Thống kê thường coi số liệu trong cuốn niên
giám Thống kê được phát hành bằng giấy và được cơ quan Thông kê bán mới là chính
thức còn số liệu trong niên giám TK là chưa chính thức. Điều này khiến không ít
người băn khoăn tại sao số liệu được công bố trên website cho toàn thể Nhân dân lại
không phải là chính thức trong khi vài trăm cuốn sách được bán ra lại là chính thức?
Không phải ai cũng biết chỗ bán mà mua! Mà tai sao lại là bán trong khi hàng năm
Nhà nước chi cho nganh Thống kê hàng trăm tỷ để điều tra để làm ra số liệu (không
phải hàng trăm tỷ Nhà nước chi ra cho ngành Thống kê cũng chính là tiền thuế của
nhân dân đó sao?)
Trong niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê công bố hàng năm một số
định nghĩa về các cgir tiêu không thống nhất với nội dung số liệu
Hiện nay việc áp dụng luật Thống kê dường như là một chiều, các cơ quan, các
đơn vị sản xuất phải có trách nhiệm báo cáo với cơ quan Thông kê và chỉ cơ quan
Thông kê được quyền “xào nấu” và công bố các số liệu tổng hợp về kinh tế - xã hội.
vậy, ai, cơ quan nào giám sát những những số liệu này? Đã có không ít trường hợp
biết là không chính xác nhưng vẫn phải dùng vì nó có tính pháp lý. Luật Thống kê cần
hướng tới tính minh bạch, trung thực và khoa học của số liệu Thống kê. Số liệu Thống
kê cần được sử dụng không chỉ để làm đẹp các báo cáo mà còn có ích trong việc phân
tích, dự báo và đưa ra những chính sách mang lại lợi ích cho đất nước.
KẾT LUẬN
Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy thực trạng nền kinh tế (hay nền sản xuất)
của Việt Nam qua góc nhìn của kinh tế tri thức là rất kém, cả về năng suất lao động,
chất lượng đầu ra, và hiệu quả đầu tư.
Với mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, quan điểm về
các mục tiêu tổng thể của chính sách phát triển công nghiệp của đất nước đã được thể
hiện rõ ràng:
a) Duy trì mức tăng trưởng của ngành công nghiệp, thực hiện tái cơ cấu để ứng
phó với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế;
b) Tập trung vào phát triển lợi thế cạnh tranh và các ngành công nghiệp thâm dụng
lao động như công-nông nghiệp, thực phẩm, máy móc, cơ khí và vật liệu xây dựng;
c) Phát triển hơn nữa của các ngành công nghiệp chủ đạo, như năng lượng, hóa
chất, luyện kim và cơ khí;
d) Thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ để cải thiện chất lượng công nghiệp hóa và đẩy
mạnh phát triển công nghệ.
Tuy mục tiêu, chiến lược phát triển nền kinh tế và công nghiệp nước nhà thì rất
rõ ràng, nhưng trên thực tế, kinh tế Việt Nam trong suốt những năm qua đã yếu lại
càng yếu hơn cả về tổng cung lẫn tổng cầu, hết chú trọng tăng trưởng lại quay sang
giải quyết bài toán kiềm chế lạm phát. Vòng luẩn quẩn như vậy cứ tái diễn thì cũng
thật sự rất khó để có nguồn lực tập trung cho những mục tiêu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đặc biệt là kinh tế tri thức.
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng yếu đi, cũng không phải toàn bộ là do
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mà vấn đề là ở chỗ, trong thời gian qua hầu hết các
170 Số liệu ở hai nơi này đôi khi rất khác nhau
317
chuyên gia và các nhà tư vấn về các chính sách của Nhà nước tập trung vào vấn đề
tiền tệ nhằm ngăn cản sự gia tăng mạnh của giá cả mà bỏ qua các yếu tố khác. Ngay
cả vấn đề lạm phát thì giải quyết cũng chỉ là giải quyết phần ngọn của vấn đề. Nguyên
nhân sâu xa của lạm phát lại là do việc sản xuất và đầu tư thiếu hiệu quả và năng suất
nhân tố tổng hợp (TFP) giảm mạnh. Hệ số ICOR tiếp tục tăng, từ 5 trong giai đoạn
2000 - 2006 tăng lên trên 7 trong giai đoạn 2006 - 2012. Trong khi đó, đóng góp của
năng suất nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng GDP vào khoảng 22% trong giai đoạn
2000 - 2006 thì đến giai đoạn 2007 - 2012 đóng góp của yếu tố này vào tăng trưởng là
khoảng 6.4% (có tính toán cho rằng đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp vào tăng
trưởng chỉ khoảng 1%). Bên cạnh đó, nếu tính toán từ hệ số giá trị gia tăng trên giá trị
sản xuất nếu trong giai đoạn 2000 đến nay tỷ lệ này ngày càng nhỏ đi. Năm 2000 sản
xuất ra 10 đồng sẽ tạo ra trên 4 đồng giá trị gia tăng, thì đến giai đoạn hiện nay sản
xuất 19 đồng giá trị sản xuất chỉ tạo ra chưa đến 3 đồng giá trị gia tăng. Như vậy một
lượng tiền bỏ ra để sản xuất nhưng lại tạo ra một lượng hàng hoá ít hơn sẽ làm phá vỡ
quan hệ tiền - hàng và góp phần làm tăng chi phí đẩy của hàng hoá sản xuất trong
nước. Ngoài ra tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thông qua chỉ tiêu để dành (saving) ngày
càng giảm sút. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chiếm trong GDP khoảng 36% trong giai
đoạn 2000 - 2006, chỉ tiêu này giảm xuống chiếm trong GDP chưa tới 30% trong giai
đoạn 2007 - 2011, trong khi đầu tư hàng năm ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong
GDP, điều này cho thấy nợ nần ngày càng gia tăng mà sử dụng đồng tiền đi vay
không hiệu quả là một rủi ro rất lớn về lâu dài.
318
Bảng 24: Một số so sánh vĩ mô của giai đoạn 2000-2006 và 2007-2012
2007 - 2012
(%)
2000 - 2006
(%)
Tổng nguồn (cung) 100.00 100.00
Sản phẩm sản xuất trong nước 73.82 79.25
Nhập khẩu 26.18 20.75
Tổng cầu 100.00 100.00
Cầu trung gian 45.32 42.99
Cầu cuối cùng 54.68 57.01
Tiêu dùng ( C + G) 21.28 26.42
Đâu tư/ tích lũy 12.25 10.75
Xuất khẩu 21.15 19.85
Hệ số chi phí trung gian/giá trị sản xuất 62 54
Hệ số giá trị tăng thêm/ giá trị sản xuất 38 46
ICOR 7.09 4.92
Đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế 2.3 23
Tỷ lệ tiết kiệm trên đầu tư 28 36
Tăng trưởng GDP 6.5 7.5
Tỷ trọng đầu tư trên GDP 41 38.5
Việc đánh giá nền kinh tế tri thức tại Việt Nam đã được nhiều nhà nghiên cứu, các
tổ chức trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, khi kết hợp các đánh giá
của các tổ chức có uy tín trên thế giới (World Bank, WIPO....), đồng thời đánh giá nền
kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn của kinh tế tri thức, chúng ta sẽ thấy rõ hơn thực trạng
của nền kinh tế tri thức của Việt Nam hiện nay ra sao.
Từ những nhận định đánh giá về kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn của kinh tế tri
thức như trên, nhóm nghiên cứu đề xuất những giải pháp với mục tiêu nâng cao năng
suất lao động và hiệu quả đầu tư, trọng tâm phát triển kinh tế theo chiều sâu, đồng thời
phải xác định ngành kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế trọng điểm, kết hợp với các
chính sách phát triển kinh tế vĩ mô hợp lý cho từng thời kỳ, có như vậy mới đảm bảo
được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, hiệu quả, và đảm bảo phát triển kinh tế
tri thức Việt Nam dựa trên bốn trụ cột cơ bản:
(1) Môi trường kinh doanh và thể chế:
Xác định lại chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phải ưu tiên cho mục tiêu phát
triển bền vững, đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt cần xem xét lại các chiến lược phát triển ngành,
vùng trọng điểm dựa trên lợi thế so sánh vốn có của tỉnh và vùng đó, không phải tỉnh
nào và vùng nào cũng đặt ra mục tiêu phát triển theo thứ tự Công nghiệp, Dịch vụ và
319
Nông lâm nghiệp. Ưu tiên chú trọng phát triển khu vực kinh tế tư nhân, và quan trọng
là phải có được “sự bình đẳng thật sự giữa các thành phần kinh tế” để cùng phát triển.
(2) Hệ số đổi mới:
Tập trung phát triển lĩnh vực khoa học nghiên cứu cơ bản làm nền tảng phát triển
khoa học công nghệ của nước nhà. Thuê, mua, ứng dụng các bằng phát minh sáng chế
của thế giới, tận dụng lợi thế của nước đi sau trong phát triển khoa học công nghệ.
(3) Giáo dục và nguồn nhân lực:
Thứ nhất, Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc
tế. Thứ hai, song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát triển
nguồn nhân lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người
trong thời đại hiện nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri thức;
có ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có văn
hóa, có lý tưởng. Đây cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, rất cần được tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với
thế hệ trẻ. Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm
sóc sức khỏe người dân, chính sách lương - thưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Cần cụ
thể hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt
và yêu cầu cường độ lao động cao. Thứ tư, cải thiện và tăng cường thông tin về các
nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho mọi người thấy được tầm
quan trọng của vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta và trên thế giới. Thứ năm,
cần có sự nghiên cứu, tổng kết thường kỳ về nguồn nhân lực Việt Nam. Thứ sáu, cần
đổi mới tư duy, có cái nhìn mới về con người, nguồn nhân lực Việt Nam.
(4) Công nghệ thông tin và truyền thông:
Ưu tiên phát triển công nghệ thông tin như một phương thức phát triển mới, đạo tạo
và tận dụng nguồn nhân lực về công nghệ thông tin của nước nhà. Để công nghệ thông
tin thực sự trở thành nền tảng của phương thức phát triển mới. Tại Diễn dàn Cấp cao
Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam 2013, Thủ tướng Chính phủ cũng đã
yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia cùng
triển khai 7 nội dung nội dung nhiệm vụ giải pháp, gồm:
- Nâng cao nhận thức, quán triệt quan điểm công nghệ thông tin là một nền tảng
của phương thức phát triển mới trong các cấp quản lý, các ngành kinh tế xã hội, trong
mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong
sản xuất, kinh doanh và quản lý hướng tới mục tiêu nâng cao toàn diện năng lực cạnh
tranh quốc gia, coi đây là con đường ngắn nhất để Việt Nam tiến kịp các nước phát
triển - tiến kịp thời đại.
- Xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia, ban hành chuẩn thông tin quốc
gia bảo đảm khả năng kết nối liên thông, đồng bộ, chú trọng công tác an ninh, an toàn
và bảo mật thông tin quốc gia.
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, làm chủ các bí quyết, giải pháp công nghệ
mới. Ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin của từng ngành,
lĩnh vực, từng địa phương, doanh nghiệp và của cả quốc gia.
320
- Xây dựng cơ chế chính sách tạo thuận lợi và hiệu quả cao nhất nhằm bảo đảm
việc ứng dụng công nghệ thông tin trở thành một yêu cầu tiên quyết trong mọi ngành,
mọi lĩnh vực, mọi công trình, dự án đầu tư trong tiến trình phát triển.
- Tạo môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường công nghệ thông tin, hỗ trợ
các doanh nghiệp phát triển, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và xây
dựng năng lực canh tranh vươn ra thị trường nước ngoài.
- Tăng cường hợp tác quốc tế, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguôn lực của
người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển công nghệ thông tin.
- Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin được coi là nhiệm vụ quan trọng của
toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội. Người đứng đầu tất cả các cấp, các ngành trực
tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về triển khai ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin
vì mục tiêu phát triển nhanh, bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo thường niên 2012, Ngân hàng thế giới (World bank).
2. Báo cáo của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế 2012 (OECD).
3. Báo cáo của Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn cầu 2012, WIPO.
4. Báo cáo của Tổ chức Liên minh viễn thông quốc tế 2012.
5. Báo cáo của Tổ chức phát triển liên hợp quốc 2012, UNDP.
6. Báo cáo điều tra năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2005, 2008, 2012, phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI).
7. Bảng Input-Output 2000, 2007, 2011 (updated), Tổng cục Thống kê.
8. Báo cáo kết quả Tổng điều tra cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp 2012, Tổng
cục Thống kê.
9. Trang web của Tổng cục Thống kê: www.gso.gov.vn.
321
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG TẠI VIỆT NAM
VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN THÁCH THỨC ĐẶT RA
Vụ Kết cấu hạ tầng và đô thị
Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ
I. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng ở nƣớc ta trong thời gian vừa qua
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã dành sự quan tâm
lớn đến đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) kinh tế - xã hội. Nguồn lực
đầu tư phát triển CSHT ngày càng lớn và đa dạng. Trong 10 năm qua, tỷ lệ vốn đầu tư
phát triển CSHT chiếm khoảng 24,5% tổng đầu tư xã hội, bằng khoảng 9% GDP,
trong đó vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước
chiếm 65%. Cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa dạng, ngoài nguồn lực nhà nước, đã và
đang mở rộng sự tham gia của toàn xã hội, đặt biệt là sự tham gia đóng góp tự nguyện
của nhân dân với nhiều hình thức đa dạng trong phát triển hạ tầng nông thôn. Nhiều
hình thức đầu tư phát triển CSHT cùng các mô hình, phương thức đầu tư, kinh doanh
các dịch vụ hạ tầng được đa dạng hóa, mở rộng, các doanh nghiệp đầu tư vào các dự
án giao thông theo hình thức BOT, BTO và BT ngày càng nhiều. Nhờ có sự đầu tư
trên, hệ thống CSHT ở nước ta có bước phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu,
cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, góp phần bảo đảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giảm nhẹ thiên tai và bảo đảm
an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các
vùng, miền. Nhiều công trình hiện đại đã được đầu tư xây dựng đạt tiêu chuẩn quốc
tế, tạo diện mạo mới của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Năng lực công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực trên các lĩnh vực
xây dựng, quản lý và vận hành kết cấu hạ tầng được nâng lên. Sự phát triển của hệ
thống CSHT được thể hiện trên các mặt sau:
1. Hạ tầng giao thông
) Về đường bộ
Trong giai đoạn 2000-2010, tổng chiều dài đường bộ tăng 39.300 km từ
217.100 km năm 2000 lên 256.500 vào năm 2020, trong đó, đường cao tốc từ 24 km
năm 2000 tăng lên khoảng 150 km năm 2010, quốc lộ tăng từ 15.500 km lên 17.000
km. Trong 10 năm, đã phát triển thêm 16.700 km đường xã và 12.400 km đường
huyện, hơn 5.000 km đường tỉnh. Mạng lưới đường bộ đã được cải thiện rõ rệt, mật
độ đường bộ tăng lên đáng kể từ 0,66 km/km năm 2000 lên 0,77 km/km vào năm
2010. Hàng loạt các công trình giao thông quy mô lớn, nhiều tuyến đường trục giao
thông chính yếu, nhiều cầu lớn đã và đang được nâng cấp, xây dựng mới, bước đầu
thiết lập được mạng lưới đường huyết mạch tương đối đồng bộ, nâng cao đáng kể
năng lực vận tải phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và bảo đảm
quốc phòng, an ninh của đất nước.
) Về đường sắt
Đã có bước cải thiện về chất lượng và tổ chức vận tải. Tổng chiều dài đường
sắt đạt 2.654 km gồm 3 loại: đường khổ 1.000 mm chiếm 85%, đường khổ 1.435 mm
322
chiếm 6% và đường lồng chiếm 9%. Một số tuyến chính đã được cải tạo, nâng cấp,
nâng cao an toàn và rút ngắn thời gian chạy tàu (tuyến đường sắt Bắc - Nam đã rút
ngắn từ 42 giờ xuống còn 29 giờ).
) Về cảng biển
Cả nước hiện có 49 cảng phân bố khắp chiều dài ven biển từ Bắc vào Nam,
trong đó có 17 cảng loại I, 23 cảng loại II, 9 cảng loại III, tổng cộng có 166 bến cảng
các loại, khoảng 332 cầu bến với tổng chiều dài 39.951 m. Hệ thống cảng biển với
quy mô và loại hình khác nhau, khai thác được lợi thế tự nhiên của quốc gia và các địa
phương ven biển, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều cảng biển tổng
hợp như các cảng Cái Lân, Hải Phòng, Cửa Lò, Vũng Áng, Tiên Sa, Quy Nhơn, Nha
Trang, Sài Gòn, Cần Thơ từng bước được đầu tư, nâng cấp. Đang xây dựng 2 cảng
cửa ngõ quốc tế là Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa-Vũng Tàu) và Lạch Huyện (Hải
Phòng). Tổng lượng hàng qua cảng tăng nhanh từ 82,4 triệu tấn năm 2000 lên 254,9
triệu tấn năm 2010, tăng bình quân 11,2%/năm.
) Về hàng không
Cả nước hiện có 22 cảng hàng không đang hoạt động, trong đó có 8 cảng hàng
không quốc tế. Nhiều cảng hàng không đã được chuyển đổi mục đích từ phục vụ quân
sự sang khai thác lưỡng dụng. Đã và đang đầu tư cải tạo, nâng cấp các cảng hàng
không Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Điện Biên Phủ, Cát Bi, Vinh, Đồng Hới, Phú Bài, Đà
Nẵng, Chu Lai, Phù Cát, Cam Ranh, Buôn Ma Thuột, Pleiku, Liên Khương, Cần Thơ
và Phú Quốc, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa ngày càng tăng.
) Về đường thủy nội địa
Hiện nay, đã quản lý và khai thác được 15.436 km trên tổng chiều dài sông,
kênh có thể khai thác được là 41.900 km. Vận tải đường thủy nội địa đã duy trì và
giữ vững được thị phần ở mức 22% về hàng hóa và 17% về hành khách. Đã hoàn
thành nâng cấp 2 tuyến đường thuỷ phía Nam (TP. Hồ Chí Minh - Cà Mau, TP. Hồ
Chí Minh - Kiên Lương); phát triển tuyến vận tải thủy phục vụ thủy điện Sơn La, tuyến
vận tải thủy Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên; kênh Chợ Gạo; các tuyến sông
chính yếu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng...
) Về giao thông nông thôn
Hệ thống đường giao thông nông thôn được chú trọng đầu tư nâng cấp, là khâu
đột phá trong xây dựng nông thôn mới. Đến đầu năm 2010, cả nước có khoảng 272.900
km đường giao thông nông thôn (gồm đường huyện, đường xã, đường thôn xóm, chưa
tính đường ra đồng ruộng) chiếm 82% tổng chiều dài mạng đường bộ, trong đó: đường
huyện 47.600 km, chiếm 14,30%; đường xã 148.300 km, chiếm 44,58%; đường thôn
xóm khoảng 77.000 km, chiếm 23,16%. Tỷ lệ rải mặt nhựa, bê tông xi măng đạt 28,1%
(tương đương 76.600 km, mục tiêu đề ra đến hết năm 2010 là 30%).
2. Hạ tầng năng lƣợng
Hệ thống hạ tầng năng lượng đã được đầu tư phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Tiêu thụ
năng lượng sơ cấp tăng từ 32 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2000 lên khoảng 61 triệu
tấn dầu quy đổi vào năm 2010.
Trong 10 năm qua, đã đầu tư mới và đưa vào khai thác hơn 13.361 MW công
suất nguồn điện, trong đó: thủy điện là 3.991 MW, nhiệt điện là 4.723 MW, đưa tổng
323
công suất lên 21.500 MW vào cuối năm 2010, công suất khả dụng đạt 19.713 MW;
đồng thời đầu tư và đưa vào sử dụng khoảng 86.000 km đường dây truyền tải và
63.500 MVA công suất các trạm biến áp lưới truyền tải và phân phối trung cao áp,
đưa tổng công suất lên 21.500 MW, công suất khả dụng đạt 19.713 MW và tổng chiều
dài lưới truyền tải và phân phối điện lên 377.000 km. Tổng lượng điện sản xuất tăng
từ 26,6 tỷ kWh năm 2000 lên 100 tỷ kWh năm 2010, tăng 3,76 lần, đáp ứng nhu cầu
phụ tải điện tăng nhanh với tốc độ bình quân 14,5%/năm.
Hệ thống năng lượng được phát triển theo hướng đa dạng hóa nguồn cung cấp,
từ chỗ phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thủy năng, than sang cơ cấu nguồn đa dạng gồm
năng lượng than, dầu khí, thủy năng và các dạng năng lượng khác. Tỷ trọng năng lượng
tái tạo đã được khuyến khích phát triển, chiếm 3% vào năm 2010. Các nguồn năng
lượng sơ cấp đã và đang được thăm dò, nâng cao trữ lượng xác minh nhằm bảo đảm
yêu cầu phát triển. Việc đầu tư các công trình khai thác, vận chuyển và chế biến dầu khí
đã làm giảm đáng kể sự phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu và đẩy nhanh quá trình đa
dạng hóa các nguồn cung cấp năng lượng.
Hệ thống khai thác, chế biến vận chuyển và phân phối khí có hai mạng đường
ống vận chuyển khí tự nhiên và đồng hành từ các mỏ khí khu vực Nam Côn Sơn,
Bạch Hổ (Bà Rịa - Vũng Tàu) và ở vùng biển Tây Nam (Cà Mau), cung cấp khí đốt
cho các cơ sở sản xuất, chế biến khí, các cơ sở nhiệt điện khí, các nhu cầu phát triển
công nghiệp và đáp ứng một phần khí đốt cho dân dụng.
3. Hạ tầng thủy lợi
Tổng năng lực của các hệ thống hạ tầng thủy lợi đã bảo đảm tưới trực tiếp 3,45
triệu ha đất canh tác, tạo nguồn cho 1,13 triệu ha, tưới tiêu 1,72 triệu ha, ngăn mặn
cho 0,87 triệu ha và cải tạo chua phèn 1,6 triệu ha; cấp nước cho sinh hoạt, công
nghiệp và dịch vụ khoảng 5,5-6 tỷ m3/năm. Các công trình thủy lợi đã góp phần cải
tạo môi trường, phát triển các vùng chuyên canh, phát triển nhanh và ổn định diện tích
canh tác, năng suất, sản lượng lúa... đồng thời tạo điều kiện phát triển bền vững nuôi
trồng thủy sản. Đến nay, cả nước đã có gần 100 hệ thống thủy lợi vừa và lớn, trong đó
có 1.967 hồ chứa có dung tích trên 0,2 triệu m3, 10.000 trạm bơm (công suất 24,8 triệu
m3/h), 1.000 km kênh trục lớn, 5.000 cống tưới tiêu lớn và 23.000 km đê bao các loại.
Các hệ thống công trình phòng chống lũ và ứng phó với nước biển dâng, hiện có:
5.700 km đê sông, 3.000 km đê biển, 23.000 km bờ bao và hàng ngàn cống dưới đê, hàng
trăm km kè và các hồ chứa lớn tham gia chống lũ cho hạ du. Hệ thống đê biển ở Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ có thể ngăn mặn và chịu được bão cấp 9 đồng thời với triều cường tần suất
10%. Hệ thống đê Trung Bộ, bờ bao Đồng bằng sông Cửu Long chống được lũ sớm và lũ
tiểu mãn để bảo vệ sản xuất vụ Hè Thu và Đông Xuân.
Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 7.000 km bờ bao chống lũ bảo vệ cho vụ
lúa Hè - Thu. Đang đầu tư củng cố, nâng cấp 450km đê biển, 1.290 km đê sông và
khoảng 7.000 km bờ bao ven các kênh rạch nội đồng để ngăn mặn cho vùng ven biển.
Có hơn 200 km đê bao giữ nước chống cháy cho các khu rừng tràm tập trung.
Các công trình hồ chứa lớn và vừa ở thượng lưu đã từng bước bảo đảm chống
lũ cho công trình và tham gia cắt lũ cho hạ du. Các công trình chống lũ ở Đồng bằng
sông Hồng vẫn được duy tu, củng cố thường xuyên bảo đảm chất lượng và an toàn
trong hoạt động.
Cấp nước sinh hoạt và bảo vệ môi trường cho khu vực nông thôn đã có bước
324
tiến bộ. Tính đên cuôi năm 2010 đã có 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh
hoạt hợp vệ sinh, hầu hết nhà trẻ, trường học, trạm xá và các công trình công cộng
khác ở nông thôn có đủ nước hợp vệ sinh; giảm thiểu ô nhiễm môi trường các làng
nghề. Quy mô, công nghệ cấp nước cũng được cải thiện, chuyển dần từ các công trình
cấp nước nhỏ lẻ theo hộ gia đình thành các công trình cấp nước tập trung. 15% số xã,
6% số thôn có hệ thống thoát nước thải chung.
Hạ tầng thuỷ sản được đầu tư xây dựng các cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh
trú bão cho tàu cá, các vùng sản xuất giống thuỷ sản, hạ tầng các vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung, các cơ sở nghiên cứu, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, các công trình
quan trắc và cảnh báo môi trường, cơ sở khảo nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm
soát chất lượng thuỷ sản…, tạo điều kiện cho tăng trưởng bền vững ngành thuỷ sản.
Việc hình thành hệ thống cảng cá, bến cá dọc 28 tỉnh ven biển đã phát huy được đầu
mối hậu cần nghề cá, đặc biệt là các cảng cá khu vực đã thu hút được nhiều lượt tàu cá
ra, vào cập cảng. Đến hết năm 2010, đã hoàn thành 6 khu neo đậu tránh trú bão cấp
vùng gồm khu neo đậu tránh trũ bão Lạch Hới (Thanh Hóa), Thọ Quang (Đà Nẵng),
Tam Quan (Bình Định), Hòn La (Quảng Bình), Hòn Rớ (Khánh Hòa), Ninh Trữ (Ninh
Thuận) và nhiều khu neo đậu của các địa phương. Các khu neo đậu tránh trú bão đã
bảo đảm an toàn cho tàu thuyền hoạt động nghề cá, nhiều nơi còn kết hợp là khu dịch
vụ hậu cần nghề cá bảo đảm tiện ích cho ngư dân.
4. Hạ tầng đô thị
Hơn 10 năm qua, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, nhiều công trình hạ tầng kỹ
thuật đô thị như giao thông, cấp nước, thoát nước, chiếu sáng, cây xanh, thu gom và
xử lý chất thải rắn… đã được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới. Tỷ lệ đô thị hoá tăng
từ 24,1% năm 2000 lên 30% vào năm 2010. Mô hình khu đô thị mới hiện đại, đồng bộ
hơn về hạ tầng góp phần làm thay đổi diện mạo đô thị theo hướng văn minh, hiện đại,
nhất là tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Về giao thông đô thị, hệ thống giao thông đô thị từng bước được cải thiện, nhiều
công trình hạ tầng giao thông như các trục giao thông chính, các tuyến hướng tâm,
tuyến giao thông đối ngoại, các cửa ô, các nút giao cắt, các đường vành đai được tập
trung đầu tư nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới tương đối đồng bộ với hệ thống thoát
nước, hè đường, chiếu sáng và cây xanh, trong đó có một số dự án trọng điểm tại Hà
Nội và TP. Hồ Chí Minh như: cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy, vành đai III, cầu vượt ngã
tư Sở, ngã tư Vọng, hầm Kim Liên, đại lộ Thăng Long; đại lộ Đông Tây, hầm Thủ
Thiêm... Đã khởi công một số dự án đường sắt đô thị như Hà Nội - Hà Đông, Nhổn -
Ga Hà Nội, Bến Thành - Suối Tiên. Tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đang triển khai
xây dựng giao thông vận tải công cộng khối lượng lớn như tàu điện ngầm, tàu điện trên
cao, xe buýt nhanh.
Về cấp nước, đến năm 2010, cả nước có 420 hệ thống cấp nước tập trung với
tổng công suất thiết kế cấp nước đô thị đạt 6,2 triệu m3/ngày-đêm, tăng gấp 3 lần năm
1998 (2,1 triệu m3/ngày-đêm); tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước đạt khoảng 76%;
mức sử dụng nước sạch đô thị đạt 90 lít/người/ngày; tất cả các thành phố, thị xã đều đã
có các dự án đầu tư cải tạo mở rộng hệ thống cấp nước; 45% thị trấn có hệ thống cấp
nước tập trung với quy mô từ 500 - 5.000 m3/ngày-đêm. Tỷ lệ nước cấp cho sinh hoạt
chiếm khoảng 60 - 70%, cho nhu cầu sản xuất công nghiệp từ 20 - 25% và cho các dịch
vụ khác khoảng 10 - 15% lượng nước sản xuất.
Về thoát nước đô thị, có bước phát triển, tỷ lệ chiều dài tuyến cống trên đầu
325
người các đô thị lớn đạt 0,2 - 0,25 m/người, các đô thị nhỏ khác đạt từ 0,05 - 0,08
m/người. Hầu hết các thành phố, thị xã là tỉnh lỵ cơ bản đã có hệ thống thoát nước.
Tại các khu công nghiệp và các khu đô thị mới đều đã và đang xây dựng hệ thống
thoát nước và xử lý nước thải tập trung. Đến 2010 đã có 8 đô thị xây dựng trạm xử lý
nước thải tập trung với tổng công suất xử lý đạt khoảng 315.000 m3/ngày-đêm, hơn 30
đô thị đang xây dựng hoặc chuẩn bị xây dựng trạm xử lý nước thải. Nhiều dự án thoát
nước lớn tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ bước đầu đã
phát huy hiệu quả, góp phần làm giảm mức độ ngập úng vào mùa mưa. Tính đến hết
năm 2010, cả nước có 47 dự án ODA về thoát nước và xử lý rác thải với tổng mức
đầu tư khoảng 42.000 tỷ đồng.
Về xử lý rác thải rắn, tổng lượng rác thải sinh hoạt phát sinh tại các đô thị
khoảng 29.000 - 30.000 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom và xử lý trung bình đạt khoảng 83%.
Nhiều thành phố đã có quy hoạch xây dựng các cơ sở xử lý rác thải, nhưng chủ yếu
vẫn áp dụng các biện pháp truyền thống (tập trung, chôn lấp…).
Về truyền tải, phân phối điện và thông tin liên lạc, các hệ thống truyền tải,
phân phối điện và thông tin liên lạc được đầu tư nâng cấp và đang ngầm hóa, cải thiện
bộ mặt đô thị tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí
Minh.
5. Hạ tầng thông tin và truyền thông
Hệ thống CSHT thông tin được xây dựng rộng khắp, tương đối hiện đại. Hệ
thống mạng viễn thông, thông tin quốc gia phát triển nhanh, với công nghệ tiên tiến,
bao phủ rộng khắp cả nước, kết nối với thông lượng lớn tới các nước trong khu vực và
thế giới. Đến năm 2010, số thuê bao internet/100 dân đạt 30 và số máy điện thoại/100
dân đạt 180, vào loại cao trên thế giới. Hệ thống kết nối với quốc tế phát triển đa dạng
cả về phương thức truyền dẫn và tốc độ kết nối, bao gồm các hệ thống cáp quang
dưới biển, trên đất liền và các trạm thông tin vệ tinh mặt đất, hình thành siêu xa lộ
thông tin trong nước và liên kết quốc tế. Việc phóng thành công vệ tinh viễn thông
Vinasat-1 đã đưa Việt Nam trở thành nước thứ 93 trên thế giới và nước thứ 6 trong
khu vực có vệ tinh riêng. Vinasat-1 giúp hoàn thiện hơn CSHT thông tin liên lạc,
không còn phụ thuộc địa hình, đồng thời nâng cao năng lực mạng lưới, chất lượng
dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin, phát thanh, truyền hình của Việt Nam. Lĩnh
vực viễn thông và Internet băng rộng phát triển mạnh, cung cấp nhiều loại hình dịch
vụ với chất lượng ngày một tốt hơn, giá cước giảm mạnh, tạo được thị trường cạnh
tranh.
Ứng dụng công nghệ thông tin đã trở thành hoạt động thường xuyên, được triển
khai tích cực ở các ngành, lĩnh vực kinh tế và trong các cơ quan quản lý nhà nước, gắn
kết chặt chẽ với cải cách thủ tục hành chính, góp phần quan trọng vào việc nâng cao
năng suất lao động xã hội. Một số hệ thống thông tin chuyên ngành có quy mô quốc
gia đã được triển khai và đưa vào sử dụng như hệ thống dự báo thời tiết, thông tin tài
chính, thuế, hải quan và hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Các dịch vụ công
cộng (giáo dục, đào tạo từ xa, chẩn đoán bệnh từ xa, thư viện điện tử...) đã đạt nhiều
thành tựu. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả
và năng lực cạnh tranh. Thương mại điện tử phát triển nhanh đã hỗ trợ kinh doanh và
mở rộng thị trường. Công nghệ thông tin cũng được ứng dụng nhiều trong các hoạt
động của xã hội.
6. Hạ tầng khu công nghiệp
326
Phát triển khu công nghiệp tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng công nghiệp
mới, hiện đại, có giá trị lâu dài. Tại các khu công nghiệp, hệ thống CSHT kinh tế - kỹ
thuật nói chung khá hoàn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá, kho
bãi, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm. Tại các địa phương có các khu công nghiệp đã hoàn thành đầu tư cơ
bản và đi vào hoạt động, kết cấu hạ tầng được đầu tư tương đối đồng bộ và hoàn thiện
thực sự góp phần thay đổi diện mạo của địa phương, điển hình là một số tỉnh thuộc
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như Đồng Nai, Bình Dương, Long An...
Đến năm 2010, có 267 khu công nghiệp được thành lập, trong đó 176 khu công
nghiệp đã hoàn thành, hoặc cơ bản hoàn thành xây dựng CSHT và đi vào hoạt động.
Số khu công nghiệp còn lại được thành lập trong thời gian gần đây còn đang trong quá
trình đầu tư xây dựng cơ bản. Tổng lượng vốn đăng ký của các dự án đầu tư xây dựng
hạ tầng khu công nghiệp (lũy kế) đạt 2,7 tỷ USD và khoảng 120.000 tỷ đồng. Các khu
công nghiệp đã thu hút được 4.041 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký là
56,5 tỷ USD; 4.521 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký là 365.000 tỷ đồng;
đóng góp khoảng 35% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp và 20% giá trị xuất
khẩu của cả nước; tạo được 1,616 triệu việc làm.
7. Hạ tầng thƣơng mại
Hạ tầng xuất - nhập khẩu được đầu tư phát triển tại các cảng cửa khẩu, các khu
kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu, các đô thị lớn. Đến 2010, cả nước có khoảng 800 - 900
doanh nghiệp kinh doanh logistics đáp ứng được khoảng 1/4 nhu cầu cung cấp dịch vụ
xuất nhập khẩu.
Hạ tầng bán buôn hàng hoá phát triển mạnh loại hình chợ truyền thống, thường
ở vị trí trung tâm ở các đô thị.
Hạ tầng bán lẻ tiếp tục phát triển trên các loại hình bán lẻ truyền thống, chiếm tới
70 - 80% thị phần tổng mức bán lẻ trên thị trường cả nước. Đang phát triển mạnh các
hình thức bán lẻ hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, nhất là
ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Đến nay, cả nước đã có khoảng 450 siêu thị. 14 tỉnh,
thành phố có trung tâm hội chợ triển lãm thương mại.
Hạ tầng thương mại điện tử có bước phát triển nhanh cả về CSHT công nghệ,
nguồn nhân lực và các giao dịch thương mại. Các doanh nghiệp đã ngày càng quan tâm
và đầu tư nhiều hơn vào phát triển CSHT thương mại điện tử trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Phương thức thanh toán và giao hàng cũng được các doanh nghiệp thực
hiện rất linh hoạt, đáp ứng hầu hết các yêu cầu của người mua từ thanh toán trực tuyến,
chuyển khoản sau khi đặt hàng cho đến thanh toán khi nhận hàng. Chi phí đầu tư cho
thương mại điện tử và công nghệ thông tin chỉ chiếm khoảng 5% tổng chi phí, nhưng
trung bình 33% doanh thu của doanh nghiệp là từ các đơn đặt hàng qua phương tiện
điện tử và doanh nghiệp cũng dành bình quân 28% chi phí mua hàng cho việc đặt hàng
qua các kênh điện tử.
8. Hạ tầng giáo dục, đào tạo
Cơ sở vật chất - kỹ thuật cho giáo dục, đào tạo được cải thiện nhiều. Nhà nước
đầu tư nhiều hơn cho giáo dục, đào tạo, kể cả đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái
phiếu Chính phủ. Thông qua chương trình kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ
cho giáo viên cùng các chương trình khác đã làm đổi thay căn bản cơ sở vật chất giáo
dục phổ thông trên phạm vi cả nước. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh,
327
huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội. Đến năm 2010, cả nước có trên 41.000
trường và 620.000 phòng học, trong đó có 11.930 trường mầm non (tăng 1,5 lần sau
10 năm), 15.400 trường tiểu học, 10.800 trường trung học cơ sở và 2.900 trường trung
học phổ thông. Số trường mầm non đạt chuẩn quốc gia là 15,8%; tiểu học là 36,6%,
trung học cơ sở 17,7% và trung học phổ thông là 9,5%. Hơn 80.000 phòng học các cấp,
gần 25.000 nhà công vụ đã được xây dựng kiên cố, đáp ứng yêu cầu kiên cố bền vững
và các tiêu chuẩn về diện tích, ánh sáng theo quy định hiện hành, tạo điều kiện cho các
trường phấn đấu đạt chuẩn quốc gia và hoàn thiện dần mạng lưới trường học ở các địa
phương. Hệ thống các trường ngoài công lập phát triển mạnh.
Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng phát triển nhanh. Đến nay cả nước có
414 trường đại học, cao đẳng, tăng 261 trường so với năm 2000, trong đó, có 2 đại
học cấp quốc gia, 6 đại học cấp vùng, 22 trường khối quân sự, 8 trường khối công an,
19 đại học địa phương, 80 đại học và 22 học viện. Số đại học dân lập, tư thục là 56
trường, 4 trường dự bị đại học và 190 trường cao đẳng.
Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển nhanh, đến năm 2010, cả nước có trên
2.300 cơ sở dạy nghề (tăng 2,71 lần so với năm 2000), trong đó có 123 trường cao
đẳng nghề, 300 trường trung cấp nghề, 864 trung tâm dạy nghề và hơn 1.000 cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có dạy nghề. Năng lực đào tạo nghề tăng trên 2,2 lần so
với năm 2000. Một số trường đã xây dựng được các phòng thí nghiệm, thực hành hiện
đại, đáp ứng được nhiệm vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học; 100% trường
được đầu tư, trang bị phòng máy vi tính và nối mạng internet; 69,4% số trường có sử
dụng phần mềm ứng dụng trong công tác giảng dạy và học tập; 66,3% trường có
website riêng; nhiều trường đã đầu tư xây dựng được thư viện điện tử hiện đại, đạt
tiêu chuẩn thư viện trong nước và thế giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ trên
16% năm 2000 lên 40% năm 2010.
9. Hạ tầng y tế
Mạng lưới cơ sở khám chữa bệnh và y tế dự phòng được đầu tư mở rộng. Tỷ lệ
xã có trạm y tế tăng từ 96% năm 2000 lên 99% năm 2010. Trong đó đạt chuẩn quốc
gia là 79%, tất cả các huyện đều có bệnh viện đa khoa. Tại các tỉnh, thành phố ngoài
bệnh viện đa khoa, một số nơi đã có thêm bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện y học cổ
truyền, sản - nhi, ung bướu,…Các bệnh viện tuyến trung ương được đầu tư, nâng cấp
mở rộng và nâng cao năng lực khám chữa bệnh. Nhiều cơ sở y tế ngoài công lập đã
được phát triển (hiện có 90 bệnh viện tư/5.600 giường). Tổng số giường bệnh năm
2010 là 246.300 giường, tăng thêm 54.400 giường so với năm 2000, chủ yếu tăng
thêm là số giường bệnh viện. Số giường bệnh trên 1 vạn dân tăng từ 24,7 giường năm
2000 lên 27 giường năm 2010, cao hơn trung bình của nhiều nước. Đã đầu tư xây
dựng ba trung tâm y tế chuyên sâu ở Hà Nội, Huế và TP. Hồ Chí Minh.
Trong 10 năm đã tăng thêm 300 cơ sở y tế, trong đó có 210 bệnh viện, các bệnh
viện đều tăng mạnh về quy mô khám, chữa bệnh. Nhiều kỹ thuật, thiết bị tiên tiến trong
chẩn đoán và điều trị bệnh được đầu tư, kể cả việc nhập khẩu và sản xuất trong nước.
Đến nay sản xuất trong nước đã đáp ứng được 50% nhu cầu về thuốc chữa bệnh. Một số
loại thuốc, vaccine có thương hiệu đã được xuất khẩu.
10. Hạ tầng văn hóa, thể thao, du lịch
Các thiết chế văn hoá, hạ tầng thể thao từ Trung ương đến địa phương có sự
đổi mới, cơ sở vật chất được tăng cường; một số công trình văn hoá, thể thao như nhà
328
văn hóa, rạp hát, sân vận động, nhà thi đấu đa năng, công viên… có quy mô khá lớn,
hình thức kiến trúc đẹp đã được đầu tư xây dựng. Các thiết chế văn hoá như: thư viện,
bảo tàng, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng, điểm bưu điện văn hóa xã, các điểm
vui chơi giải trí, các đơn vị biểu diễn nghệ thuật và các hoạt động dịch vụ văn hoá
khác từng bước được đầu tư phát triển. Hệ thống các trường văn hoá nghệ thuật, các
cơ sở đào tạo vận động viên thể thao từ Trung ương đến địa phương được chú trọng
đầu tư.
Hạ tầng du lịch phát triển mạnh, đến năm 2010 đã có 12.000 cơ sở lưu trú với
235.000 phòng, trong đó có 388 cơ sở lưu trú du lịch được xếp hạng 3 sao trở lên với
40.052 phòng. Đã hình thành nhiều khu du lịch cao cấp tại các bãi biển miền Trung,
Phú Quốc và một số bãi biển phía Bắc. Lượng khách du lịch tăng nhanh từ 14 triệu
lượt năm 2001 (khách quốc tế 2,33 triệu) lên 33 triệu lượt năm 2010 (khách quốc tế 5
triệu); sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng, phong phú.
II. Những khó khăn, thách thức đặt ra
Một là, hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Mạng lưới giao thông chưa kết nối giữa các loại đường, giữa đường với cảng,
giữa các vùng, nên chưa có khả năng phát triển vận tải đa phương thức. Tình trạng kỹ
thuật của hệ thống đường bộ chưa cao, chất lượng đường bộ còn thấp và lạc hậu.
Đường cấp I, II, II chiếm 48,3%; đường cấp IV chiếm 31,3% và đường cấp V chiếm
20,4%. Năng lực thông qua hạn chế, đường 4 làn xe chỉ chiếm gần 4%, đường 2 làn xe
chiếm 36%. Tỷ lệ quốc lộ có tiêu chuẩn kỹ thuật cao và trung bình mới chiếm 47%, tỷ
lệ đường cao tốc mới chỉ đạt 0,1% trong khi ở Thái Lan là 13,3%, Malaysia là 2,1% và
Hàn Quốc là 3,3%. Chất lượng đường giao thông nông thôn thấp, giao thông vùng sâu,
vùng xa còn nhiều khó khăn. Công tác quản lý, bảo trì đường bộ còn chưa được coi
trọng đúng mức. Cơ cấu đầu tư cho xây dựng cơ bản và vốn bảo trì chưa hợp lý, vốn
đầu tư cho công tác bảo trì mới chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu bảo trì của hệ
thống đường bộ.
Đường sắt chủ yếu là đường đơn khổ 1.000 mm, lại hạn chế về kỹ thuật nên tốc
độ chạy tàu thấp, kém an toàn, khai thác mới chỉ đạt 60 - 70% năng lực. Năng lực vận
chuyển thấp, chưa có tuyến nào vượt quá 25 đôi tàu/ngày-đêm, trong khi đó ở các nước
tiên tiến con số này là 40 - 45 đôi tàu/ngày-đêm. Trong tổng số trên 2.600 km đường
sắt, chỉ có 237 km khổ 1.435 mm. Đường sắt nối vào các cảng biển chưa được chú
trọng đầu tư. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên chưa có đường sắt.
Hệ thống cảng biển quy mô, công nghệ kỹ thuật thấp, số cầu cảng tiếp nhận
được tàu 50.000 DWT chỉ chiếm có 1,4%, tỷ lệ bến chuyên dùng cho hàng container
còn thấp trong khi nhu cầu vận tải hàng này tăng rất nhanh. Chưa có cảng trung
chuyển quốc tế lớn, hiện đại, mặc dù đã có những hải cảng quốc tế như Cảng Sài Gòn,
Đà Nẵng, Hải Phòng đón nhận các tàu lớn, song dịch vụ của các cảng này chưa đáp
ứng yêu cầu. Quy hoạch bến bãi chưa tốt, không gian bến chưa hợp lý, quản lý khai
thác thiếu tính chuyên nghiệp nên hiệu quả bốc xếp container tại các cảng Việt Nam
thấp hơn mức trung bình của các cảng trong khu vực. Hệ thống cảng sông còn rất lạc
hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hệ thống logistics còn yếu, tuy đã có một số cảng cạn (ICD) cho hàng
container song chưa phát huy được vai trò trung tâm tiếp nhận phân phối, trung
329
chuyển hàng hóa. Phí dịch vụ hàng hóa qua cảng cao, thời gian thông quan kéo dài,
chưa có cảng container trung chuyển quốc tế.
Trong 22 cảng hàng không, chưa có cảng hiện đại tầm cỡ quốc tế, chưa có sân
bay đạt tiêu chuẩn loại 4F hiện đại. Nhiều cảng hàng không chưa đủ khả năng tiếp
nhận máy bay vào ban đêm hoặc khi thời tiết xấu, 40% số cảng hàng không chỉ có khả
năng khai thác máy bay nhỏ. Năng lực vận tải hành khách và hàng hóa bằng đường
hàng không còn thấp so với các nước trong khu vực.
Công nghệ của hệ thống các nhà máy điện chỉ đạt trình độ trung bình so với trình
độ công nghệ của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Hệ thống lưới điện chất
lượng thấp, tổn thất điện năng lớn so với các nước trong khu vực và trên thế giới (của
Việt Nam là 9,6%, trong khi đó bình quân của thế giới là 8,4%).
Nhiều công trình thủy lợi chưa đồng bộ, hiệu quả thấp, nhiều công trình xây
dựng đã lâu ít được duy tu, bảo dưỡng, đang bị xuống cấp nghiêm trọng, chỉ có 19%
kênh mương được kiên cố hoá.
Hạ tầng các khu công nghiệp chưa đồng bộ, còn thiếu các công trình hạ tầng xã
hội thiết yếu, chậm đầu tư các công trình xử lý chất thải.
Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển nhanh nhưng chưa thực sự bền vững,
độ phủ sóng của mạng viễn thông không đồng đều, chất lượng và mạng lưới dịch vụ chưa
đáp ứng tốt yêu cầu của người sử dụng. Mật độ băng rộng vẫn còn thấp so với nhiều nước
trên quốc tế và trong khu vực. Công nghệ thông tin chưa được phát triển như một ngành
hạ tầng phục vụ cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Mức độ tin học hóa trong các
ngành, lĩnh vực còn rất thấp, công nghệ thông tin chưa thấm sâu vào từng sản phẩm của
mỗi ngành, đóng góp của công nghệ thông tin cho giá trị gia tăng trong cấu thành sản
phẩm còn ít. Quy mô công nghiệp công nghệ thông tin còn nhỏ, năng lực hoạt động và
khả năng cạnh tranh còn yếu. Công nghiệp phần mềm còn manh mún, năng lực nghiên
cứu và phát triển chưa cao, đội ngũ nhân lực còn thiếu về số lượng và yếu về các kỹ năng
chuyên sâu cũng như ngoại ngữ. Tỷ lệ nội địa hoá và hàm lượng giá trị gia tăng của công
nghiệp phần cứng, điện tử không cao, chỉ chiếm khoảng hơn 10% tổng doanh thu. Công
nghiệp nội dung số và công nghiệp dịch vụ vẫn còn mang tính sơ khai.
Công trình kết cấu hạ tầng đa mục tiêu còn ít, hiệu quả đầu tư thấp do thiếu sự
phối hợp trong quy hoạch và quản lý quy hoạch giao thông với thủy lợi, thủy điện,
kinh tế biển, dịch vụ, du lịch…
Hai là, hạ tầng đô thị thiếu đồng bộ, chất lượng kém và quá tải
Giao thông đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tỷ lệ đất dành cho giao
thông quá thấp (Hà Nội mới chỉ đạt 6 - 7%, TP. Hồ Chí Minh 8%, trong khi tiêu chí
quy định là 20 - 25%). Mật độ đường tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng chỉ đạt 4 - 5 km/km2. Trong mạng lưới, các đường giao
thông chính, đường xuyên tâm, các tuyến vận tải công cộng khối lượng lớn như hệ
thống đường sắt ngầm, đường sắt trên cao và đường vành đai chưa được xây dựng
hoàn thiện, khép kín, ảnh hướng lớn đến tổ chức và giải quyết các vấn đề giao thông.
Vận tải công cộng chưa đáp ứng kịp nhu cầu (xe buýt Hà Nội chỉ đáp ứng khoảng
15%; TP. Hồ Chí Minh 10%, Đà Nẵng và Hải Phòng khoảng 3%). Tỷ lệ đất dành cho
giao thông tĩnh rất thấp, chỉ khoảng dưới 1%, Hà Nội chỉ có 0,23% và TP. Hồ Chí
Minh 1% so với diện tích đất xây dựng đô thị (yêu cầu là 3 - 5%). Hệ thống bến bãi,
điểm đỗ xe thiếu về số lượng, kém về chất lượng phục vụ.
330
Thiêu hê thông đương vanh đai liên kêt vung và hê thông giao thông công cô ng
liên vung. Hê thông giao thông k ết nối giữa các đô thị lớn với các đầu mối giao thông
liên vùng và quốc tế còn hạn chế, tổ chức vận tải chưa hợp lý. Việc tin học hóa tổ
chức vận tải đa phương thức chưa được áp dụng.
Chất lượng cấp điện khu vực đô thị còn kém, thiếu ổn định. Tỷ lệ đường dây
được ngầm hóa còn thấp.
Cấp nước chưa đáp ứng được nhu cầu. Tỷ lệ thất thoát nước sạch đô thị ở mức
cao khoảng 30%, riêng ở TP. Hồ Chí Minh là 39%; tỷ lệ dân cư đô thị được cấp nước
của Hà Nội mới đạt khoảng 88,5% và TP. Hồ Chí Minh khoảng 87%.
Hệ thống thoát nước còn hạn chế, lạc hậu. Phổ biến nhất ở các đô thị là hệ thống
thoát nước chung cho cả 3 loại nước thải sinh hoạt, nước thải sản xuất và nước mưa.
Hầu hết các đô thị đều không có trạm xử lý nước thải tập trung, nước thải sinh hoạt,
bệnh viện, công nghiệp không qua xử lý mà xả thẳng vào hệ thống cống thành phố, hồ
ao, kênh rạch, sông ngòi… gây ô nhiễm nặng nề. Tại các khu công nghiệp và các khu
đô thị mới đều đang xây dựng hệ thống thoát nước riêng, tuy vậy vẫn chưa triệt để.
Tình trạng ngập úng đang là vấn đề lớn cần phải giải quyết của các thành phố
lớn. Các dự án cải tạo và xây dựng hệ thống thoát nước của Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh trong thời gian vừa qua chưa giải quyết một cách tổng thể cho hệ thống thoát
nước thành phố. Ở Hà Nội, các dự án mới dừng ở cải tạo hệ thống nước mưa cho 4
quận nội thành cũ, hệ thống hồ điều hòa, các tuyến mương, cống chưa hoàn chỉnh theo
quy hoạch được duyệt. Triển khai các dự án chống ngập cho TP. Hồ Chí Minh còn
chậm.
Chất thải rắn hầu hết đang sử dụng biện pháp chôn lấp, tốn nhiều diện tích đất,
không có khả năng tái chế, thu hồi và sử dụng lại nguồn nguyên liệu từ rác thải phát sinh
(Hà Nội khoảng 5.000 tấn/ngày, TP. Hồ Chí Minh khoảng 6.300 - 7.200 tấn/ngày).
Ba là, hạ tầng xã hội chưa đồng bộ, chất lượng thấp, hiệu quả sử dụng chưa
cao, chưa đáp ứng yêu cầu
Hạ tầng giáo dục, đào tạo vẫn còn thiếu về số lượng, kém về chất lượng chưa
đáp ứng yêu cầu dạy và học tích cực, nhất là hệ thống trường mầm non, mẫu giáo. Số
trường đạt chuẩn quốc gia chiếm tỷ trọng thấp (cao nhất là đối với tiểu học, đạt
36,6%). Thiếu các cơ sở đào tạo đại học chất lượng cao đạt trình độ quốc tế. Phòng thí
nghiệm, cơ sở thực nghiệm, thư viện, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học
còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường đại học. Ký túc xá cho học sinh, sinh viên
còn thiếu. Hệ thống giáo dục đào tạo chưa đồng bộ, liên thông, chưa cân đối giữa giáo
dục nghề nghiệp với giáo dục trung học phổ thông và giáo dục đại học.
Hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng yêu cầu, cơ sở khám
chữa bệnh còn thiếu, nhất là ở các vùng đông dân cư và vùng sâu, vùng xa. Tình trạng
quá tải ở các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh chậm được khắc phục. Đầu tư
cho y tế còn thấp, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước đạt khoảng 8,5%. Xã hội hóa trong
lĩnh vực y tế còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ giường bệnh khu vực bệnh viện tư còn thấp,
mới chỉ chiếm 3,8% tổng số giường bệnh. Trang bị của các cơ sở y tế còn thiếu và
chưa hiện đại, đặc biệt là đối với các cơ sở y tế tuyến địa phương, làm tăng áp lực, quá
tải đối với các cơ sở tuyến Trung ương. Vẫn chưa có những cơ sở y tế chất lượng cao
tầm cỡ khu vực và thế giới.
331
Hạ tầng văn hóa, thể thao, du lịch phát triển chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của nhân dân. Chất lượng công trình và hiệu quả khai thác, sử dụng còn thấp.
Bốn là, hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển còn chưa đồng đều, nhất là ở
các tỉnh miền núi và Đồng bằng sông Cửu Long
Gần 20% số xã ở Tây Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long chưa có đường ô tô
đến trung tâm xã. Kết cấu hạ tầng các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, đào
tạo còn thiếu và yếu. Nhiều vùng còn thiếu nước sinh hoạt gay gắt vào mùa khô, tỷ lệ
dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh mới chỉ đạt 83% vào năm 2010, chất
lượng nước sinh hoạt mới được khoảng 30% đạt tiêu chuẩn y tế. Điện dùng cho nông
nghiệp, nông thôn chưa được bảo đảm ổn định, tỷ lệ hộ nông dân được cung cấp điện
mới chỉ đạt 95,4%. Tính đến năm 2011 cả nước vẫn còn 1,7 triệu hộ dân chưa có điện,
trong đó có 0,7 triệu hộ nông dân.
Năm là, nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội là rất lớn,
xong tiềm lực tài chính của đất nước còn nhiều hạn chế
Việt Nam đang tiến hành thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2011-
2015 và Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2011-2020 với mục tiêu đến năm 2020
Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có hệ thống CSHT tương đối
hiện đại và đồng bộ. Ngày 16/01/2012, Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN đã thông
qua Nghị quyết số 13-NQ/TW về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm
đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Nghị quyết này đã phác thảo bức tranh tổng thể của CSHT Việt Nam vào năm 2020,
với nhiều dự án hạ tầng quan trọng có tính chất đột phá. Trong giai đoạn từ nay đến
năm 2020, Việt Nam phấn đấu hoàn thành đường cao tốc Bắc - Nam, các tuyến cao
tốc kết nối đến các cảng hàng không, cảng biển lớn, phát triển hệ thống đường sắt đô
thị tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; nâng cấp hệ thống lưới điện, xây dựng nhà máy
điện hạt nhân tại Ninh Thuận và nhiều nhà máy điện khác; xây dựng và nâng cấp hệ
thống thủy lợi, đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; hiện đại hoá và mở
rộng công suất các bệnh viện tuyến Trung ương… Ước tính nhu cầu vốn đầu tư cho
phát triển kết cấu hạ tầng của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020 là rất lớn, khoảng
400 tỷ USD, trong đó cho hạ tầng giao thông là 154 tỷ USD, cho hạ tầng y tế là 8 tỷ
USD, cho hạ tầng thủy lợi là 11 tỷ USD, cho hạ tầng cấp điện là 45 tỷ USD, cho hạ tầng
đô thị khoảng 20 tỷ USD, cho hạ tầng cấp thoát nước và vệ sinh môi trường là 16 tỷ
USD, cho hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông là 14 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện
nay quy mô của nền kinh tế Việt Nam còn nhỏ bé. Khả năng cân đối vốn từ nguồn
NSNN cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng là rất hạn chế, chỉ đáp ứng được khoảng
50% nhu cầu.
III. Một số khuyến nghị nhằm phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng ở Việt Nam
Một là, cần tránh đầu tư dàn trải, tập trung đầu tư cho các công trình quan trọng
có tính chất đột phá.
Hai là, sớm ban hành Luật Đầu tư công để tăng hiệu quả đầu tư, tránh thất
thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng CSHT.
Ba là, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài
nước cho đầu tư phát triển CSHT. Thực hiện đa dạng hóa phương thức đầu tư, đặc
biệt đẩy mạnh đầu tư theo hình thức PPP.
332
Bốn là, tiếp tục tranh thủ các nguồn vốn ODA cho đầu tư phát triển CSHT nhất
là các công trình giao thông quy mô lớn.
Năm là, đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ mới trong đầu tư xây dựng và
quản lý vận hành công trình CSHT nhằm rút ngắn trình độ phát triển với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Sáu là, tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành trong đầu tư xây dựng
CSHT nhằm bảo đảm sự đồng bộ của cả hệ thống.
Bảy là, đẩy mạnh huy động sự đóng góp của nhân dân trong phát triển hệ thống
giao thông nông thôn./.
333
CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH TĂNG TRƢỞNG CỦA TP.HỒ CHÍ MINH ĐẾN
2020 TẦM NHÌN 2030: CÁC GIẢI PHÁP NGẮN, TRUNG VÀ DÀI HẠN
PGS.TS Nguyễn Văn Trình
Phó Hiệu Trƣởng Trƣờng Cán bộ TP.HCM
Ths. Lê Trƣơng Hải Hiếu
Bí thƣ kiêm Chủ tịch UBND
phƣờng Bến Thành, Quận 1, TP HCM
Đặt vấn đề
Nghị quyết số 16 của Bộ Chính trị (khóa XI) về phương hướng, nhiệm vụ phát
triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 đã khẳng định: “Thành phố Hồ Chí Minh
là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học
công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu và là động lực, có sức thu
hút và sức lan tỏa lớn của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan
trọng của cả nước”. Trong những năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được
những thành quả nhất định trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
hạn chế trong quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế như: “Tăng trưởng kinh tế
chưa tương xứng với vị trí, vai trò và tiềm năng của Thành phố. Cơ cấu nội bộ các
ngành kinh tế chuyển dịch còn chậm; chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh
chưa cao; tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng cao còn thấp;
...”. Để đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng tăng trưởng kinh tế của Thành phố trong
thời gian tới cần thiết phải có những giải pháp đột phá và thực hiện quyết liệt. Trên
tinh thần đó bài viết này của nhóm tác giả xin tham gia một số giải pháp để đẩy mạnh
chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Thành phố góp phần chuyển đổi mô hình tăng
trưởng của cả nước.
1. THỰC TRẠNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.1 Những thành tựu đạt đƣợc trong mô hình tăng trƣởng kinh tế hiện nay
của Thành phố
2.1.1 Về tăng trƣởng kinh tế:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao qua nhiều năm:
+ Giai đoạn 2001 – 2005: tăng trưởng GDP bình quân đạt 11%
+ Giai đoạn 2006 – 2010: tăng trưởng GDP bình quân 11,2%
Nhận xét, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Thành phố luôn tăng cao
hơn mức tăng trung bình chung của các tỉnh trong khu vực Vùng Kinh tế trọng điểm
phía Nam (bằng 1,2 lần) và của cả nước (bằng 1,5 lần)
- Chất lượng tăng trưởng:
Hiệu quả đầu tư vốn thể hiện qua hệ số ICOR. Trong giai đoạn 2001 – 2011 hệ
số ICOR của Thành phố là 3,42 trong khi ICOR của cả nước là 5,65. Điều đó thể hiện
hiệu quả đầu tư vốn của Thành phố cao hơn cả nước.
- Về GDP bình quân đầu người:
334
GDP bình quân đầu người của Thành phố luôn gia tăng qua các năm. Nếu năm
2002 GDP bình quân đầu người của Thành phố là 1.116 USD, đến năm 2011 GDP
bình quân đầu người đã tăng lên 3.286 USD, nghĩa là đã tăng 2,94 lần so với năm
2002 và cao hơn 2,4 lần so với GDP bình quân đầu người cả nước. Mức tăng GDP
bình quân đầu người cũng thể hiện mức sống của người dân Thành phố đã được nâng
lên và cải thiện tốt hơn trước.
- Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Bước đầu, cơ cấu kinh tế của Thành phố đã chuyển dịch theo hướng hiện đại
hóa (cơ cấu kinh tế hiện đại là: Dịch vụ - Công nghiệp – Nông nghiệp)
Cụ thể: Tỷ trọng của các ngành trong GDP thực tế Thành phố tính theo giá
năm 2010 (trước đây tính theo giá 1994) là:
- Năm 2007: Dịch vụ: 54,6%; Công nghiệp: 44,1%; Nông nghiệp: 1,3%
- Sơ bộ Năm 2012: Dịch vụ: 57,43%; Công nghiệp: 41,59%; Dịch vụ: 0.98%.
Như vậy, ta thấy giá trị do ngành dịch vụ làm ra ngày càng gia tăng tỷ trọng
trong GDP, còn ngành công nghiệp và nông nghiệp ngày càng giảm tỷ trọng cho thấy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố ngày càng theo đúng hướng cơ cấu kinh tế
hiện đại của một đô thị lớn, phát triển theo hướng hiện đại, văn minh.
1.1.2 Về mặt xã hội:
Những mặt thành tựu về mặt xã hội đã được thể hiện rất rõ qua việc thực hiện
các chính sách an sinh xã hội và phát triển văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục của Thành
phố trong thời gian qua.
2.1.3 Về mặt bảo vệ môi trƣờng
Những thành tựu của Thành phố trong bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp của
Thành phố qua kết quả thực hiện các chính sách, biện pháp bảo vệ môi trường thời
gian qua như: Cải tạo các dòng kênh, chỉnh trang các khu dân cư ổ chuột thành các
khu đô thị, di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào cụm công nghiệp, khu công
nghiệp, tăng cường cây xanh, các dự án chống ngập nước, biện pháp bảo vệ và phát
triển rừng ngập mặn Cần Giờ….
2.2 Những mặt tồn tại trong mô hình tăng trƣởng của TP hiện nay
2.2.1 Về tốc độ tăng trƣởng và chất lƣợng tăng trƣởng
- Tốc độ tăng trưởng:
Giai đoạn 2006 – 2010 tốc độ tăng trưởng GDP trung bình có tăng hơn so với
gia đoạn 2001 – 2005 (11,2% so với 11%), tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Thành phố đã giảm liên tiếp trong hai năm 2011 (10,3%), 2012 (9,2%). Mặc dù do
khó khăn chung của kinh tế thế giới và kinh tế cả nước đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng của Thành phố, tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng mô hình tăng trưởng của
Thành phố còn phụ thuộc vào vốn đầu tư và nguồn lực tự nhiên (tăng trưởng theo
chiều rộng), nên khi vốn đầu tư giảm đã làm giảm tốc độ tăng trưởng, cũng như khi
nguồn lực đất đai bị hạn chế do thị trường bất động sản đóng băng đã làm tốc độ tăng
trưởng giảm.
-Chất lượng tăng trưởng:
Chất lượng tăng trưởng chưa cao, thể hiện:
335
Một là, Hệ số Hiệu quả đầu tư vốn (ICOR) của Thành phố ngày càng cao thể
hiện hiệu quả đầu tư vốn ngày càng thấp. (Mặc dù, so với các tỉnh trong khu vực và so
với cả nước hiệu quả đầu tư vốn của Thành phố cao hơn như phần trên đã trình bày.
Ví dụ: Nếu xét riêng hiệu quả đầu tư công của Thành phố so với cả nước thì hiệu quả
đầu tư công của Thành phố cũng cao hơn. Chỉ số R: Mức dóng góp của đầu tư từ
nguồn Ngân sách Nhà nước vào tăng trưởng GDP. Giai đoạn 2006 – 2011: R của
Thành phố là 0,45; R của cả nước là 1,35. Nghĩa là: Thành phố chỉ cần bỏ ra 0,45
đồng vốn ngân sách nhà nước đã góp phần làm tăng thêm 1 đồng GDP, còn cả nước
phải bỏ ra đến 1,35 đồng mới làm tăng được 1 đồng GDP).
Nếu xem xét hiệu quả đầu tư vốn của các khu vực thành phần kinh tế trên địa bàn
TP.HCM thì: Hiệu quả đầu tư vốn của Khu vực Kinh tế Nhà nước thấp nhất (ICOR là
8,31); Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước (ICOR là 2,65); cao nhất là Khu vực kinh tế có
vốn nước ngoài (ICOR 2,46) (tính cho cả giai đoạn 2001 – 2011).
Hai là, chất lượng tăng trưởng chưa cao còn thể hiện ở chỗ: Đóng góp của yếu
tố Vốn đầu tư và Lao động vào tăng trưởng GDP còn cao hơn Các nhân tố tổng
hợp (TFP) (TFP bao gồm các yếu tố: hiệu quả đầu tư, năng suất lao động, ứng dụng
tiến bộ khoa học – công nghệ…) (theo các chuyên gia kinh tế ước tính: Đóng góp của
yếu tố Vốn vào GDP Thành phố khoảng 55%; Lao động khoảng 25%; Các nhân tố
tổng hợp – TFP khoảng 20%) (Nhưng TFP của Thành phố cao hơn nhiều so với cả
nước, nghĩa là chất lượng tăng trưởng của Thành phố cao hơn cả nước. Theo tính
toán của chuyên gia kinh tế Bùi Trinh (Tổng Cục thống kê VN) thì đóng góp của các
nhân tố vào GDP cả nước giai đoạn 2000 – 2010 như sau: Vốn: 75%; Lao động:
16%; TFP: 9%. Như vậy cả hai yếu tố vốn và lao động đã chiếm đến 91%, TFP chỉ
chiếm 9%, thể hiện chất lượng tăng trưởng của cả nước còn rất thấp, chủ yếu tăng
trưởng theo chiều rộng)
2.2.2 Về mặt xã hội
Mặc dù quản lý xã hội về các mặt của Thành phố đã đạt được thành tựu rất tốt,
tuy nhiên, vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của toàn xã hội. Thể
hiện:
-Y tế: Chất lượng phòng bệnh, khám chữa bệnh vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu
cầu của người dân về tất cả các mặt: Cơ sở vật chất, chất lượng dịch vụ phòng, khám
chữa bệnh. Do đó vẫn còn hiện tượng: Dịch bệnh, quá tải bệnh viện, thức ăn không
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, nhiễm hóa chất độc hại; giá thuốc tăng cao; y đức
đôi chỗ bị xuống cấp (hiện tượng phong bì cho y, bác sỹ, kê toa thuốc theo gợi ý của
công ty Dược…)….
-Giáo dục: Chất lượng giáo dục, đào tạo trên địa bàn chưa cao, thể hiện: Cơ sở
vật chất còn thiếu thốn, nhất là các quận nội thành; chất lượng giảng dạy của thầy cô
giáo còn thấp, chưa đạt chuẩn khu vực và quốc tế; chương trình đào tạo còn lạc hậu,
nặng nề chưa theo kịp với tiến bộ của khu vực và thế giới. Từ đó đưa đến hiện tượng:
Chạy trường, chạy lớp; đạo đức nhà giáo đôi chỗ xuống cấp; cung cấp nguồn nhân lực
còn chưa phù hợp với yêu cầu của xã hội….
-Văn hóa: Thiếu thốn cơ sở vui chơi, giải trí lành mạnh; công tác định hướng
hưởng thụ văn hóa lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc cho xã hội còn hạn chế; văn hóa
đối xử trong xã hội còn thiếu văn minh; văn hóa tâm linh, tôn giáo nhiều nơi nhiều chỗ
336
còn bị lợi dụng của thế lực thù địch bên trong và bên ngoài, còn biểu hiện kinh doanh
tôn giáo và còn hiện tượng mê tín dị đoan…trong xã hội.
-Xã hội: Phân tầng xã hội ngày càng gia tăng thể hiện: Chênh lệch trong thu
nhập ngày càng gia tăng, phân hóa giàu nghèo càng cao cả trong nội thành và ngoại
thành.
2.2.3 Về môi trƣờng
Việc thực hiện vệ môi trường ở Thành phố cũng còn những tồn tại cần phải
tích cực khắc phục trong thời gian tới. Đó là:
-Việc tuyên truyền vận động toàn dân bảo vệ môi trường ở nhiều địa bàn của
Thành phố còn hạn chế, yếu kém, đáng chú ý là một bộ phận người dân nhập cư, tạm
trú trên địa bàn khu dân cư chưa tích cực tham gia.
-Vẫn còn hiện tượng gom rác của Công ty Môi trường đô thị Thành phố và tổ
rác dân lập chưa kịp thời, đúng giờ, chưa đảm bảo vệ sinh chung.
-Vẫn còn hiện tượng các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ xả nước
thải trực tiếp ra kênh rạch, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn đối phó với các cơ quan
chức năng bằng cách xây dựng hai hệ thống xả thải để qua mặt các cơ quan chức năng
khi bị kiểm tra.
- Lượng khói thải độc hại của các loại xe máy, ô tô trên các tuyến đường Thành
phố còn quá lớn, nhất là vào các giờ cao điểm, tan tầm.
- Công tác phối hợp bảo vệ môi trường giữa các cơ quan chức năng, các địa
phương nhiều nơi, nhiều lúc vẫn chưa được tốt, một số dự án chậm được triển khai
hoặc triển khai chưa đúng tiến độ như: Dự án cải tạo kênh Tham lương, kênh Tân trụ,
dự án ngăn triều cường… đã gây ngập lụt rất nhiều tuyến đường.
- Ở các địa phương ngoại thành người dân vẫn còn chăn nuôi nhỏ lẻ, theo kiểu
truyền thống, dẫn đến chất thải chăn nuôi chưa được xử lý mà xả thải gây ô nhiễm
môi trường trầm trọng ở các địa phương này
- Một hiện tượng góp phần gây ô nhiễm môi trường Thành phố là khi tiến hành
thi công các công trình ngầm như thoát nước, dẫn nước sạch, đặt cáp điện, điện thoại
ngầm…các đơn vị thi công đã đào các tuyến đường này lên, nhưng nhiều đơn vị thi
công còn thiếu ý thức, chưa đảm bảo an toàn, vệ sinh.
Tóm lại, qua thực trạng đánh giá mô hình tăng trưởng của Thành phố, nhận
thấy Thành phố đang chuyển đổi mô hình tăng trường từ chiều rộng sang chiều sâu và
tăng trưởng bền vững. Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong
chuyển đổi mô hình, nhưng nhìn chung mô hình tăng trưởng của Thành phố vẫn mang
nặng mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình
chuyển đổi mô hình tăng trưởng Thành phố trong thời gian tới để Thành phố sớm có
mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, tăng trưởng bền vững (kể cả Tăng trưởng Xanh).
2. MÔ HÌNH TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ TRONG NGẮN HẠN, TRUNG
HẠN VÀ DÀI HẠN CỦA TP.HỒ CHÍ MINH
Từ những phân tích ở phần trên có thể xem xét mô hình tăng trưởng của Thành
phố trong thời gian tới như sau:
3.1 Trong ngắn hạn:
337
Ngắn hạn được hiểu từ một đến hai năm. Như vậy, đến năm 2015 được xem là
ngắn hạn.
3.1.1 Về tốc độ tăng trƣởng và chất lƣợng tăng trƣởng
Ta thấy các vấn đề như sau:
Theo kế hoạch của Thành phố đến năm 2020 phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân cả giai đoạn là 12% mỗi năm. Trong trung hạn 2011 – 2015, tốc độ tăng
GDP trung bình mỗi năm cũng phải đạt mức 12%. Nhưng thực tế các năm qua tốc độ
tăng GDP của Thành phố chưa đạt mục tiêu đó, năm 2011 chỉ tăng trưởng 10,3%, năm
2012 thấp hơn, chỉ tăng 9,2%. Năm 2013, cố gắng lắm cũng chỉ tăng 10%. Như vậy,
các năm 2014, 2015 tăng trưởng của Thành phố phải giữ tốc độ rất cao cho mỗi năm
thì mới có thể đạt kế hoạch đặt ra. Có thể nói khó có thể nào đạt được mức tăng
trưởng này trong điều kiện tình hình kinh tế trong nước và thế giới phục hồi qua chậm
chạm như hiện nay.
Tôi xin nêu các tình huống sau:
Một là, giữ nguyên các chỉ tiêu tăng trưởng như trên.
Phƣơng án 1: Chỉ số ICOR bằng với mức trung bình giai đoạn trước là 3,42.
Tăng trưởng GDP = 15,25%
Để tăng trưởng GDP của năm 2014 là 15,25%, trong điều kiện ICOR khoảng
3,42 thì vốn đầu tư toàn xã hội của năm 2014 là khoảng 319.900 tỷ đồng (trong khi
vốn đầu tư toàn xã hội năm 2012 đạt khoảng 217.073 tỷ đồng).
Để tăng trưởng GDP của năm 2015 là 15,25%, trong điều kiện ICOR khoảng
3,42 thì vốn đầu tư toàn xã hội của năm 2015 là khoảng 368.690 tỷ đồng (trong khi
vốn đầu tư toàn xã hội năm 2012 đạt khoảng 217.073 tỷ đồng).
Như vậy, nếu hệ số ICOR không đổi, chỉ tiêu GDP như kế hoạch thì Thành phố
phải huy động được một lượng vốn đầu tư toàn xã hội rất lớn (năm 2014 vốn tăng hơn
năm 2012 là 1,47 lần; năm 2015 tăng 1,69 lần so với năm 2012).
Phƣơng án 2: Hệ số ICOR giảm xuống còn 2,5. Chỉ tiêu GDP như kế hoạch:
15,25% mỗi năm.
Để tăng trưởng GDP của năm 2014 là 15,25%, trong điều kiện ICOR khoảng
2,5 thì vốn đầu tư toàn xã hội của năm 2014 là khoảng 233.850 tỷ đồng (trong khi vốn
đầu tư toàn xã hội năm 2012 đạt khoảng 217.073 tỷ đồng).
Để tăng trưởng GDP của năm 2015 là 15,25%, trong điều kiện ICOR khoảng
2,5 thì vốn đầu tư toàn xã hội của năm 2015 là khoảng 269.500 tỷ đồng (trong khi vốn
đầu tư toàn xã hội năm 2012 đạt khoảng 217.073 tỷ đồng).
Theo phương án này thì Thành phố hoàn toàn có thể thu xếp vốn đầu tư. Tuy
nhiên, cái khó là làm sao để tăng hiệu quả đầu tư vốn toàn xã hội để kéo ICOR xuống
như mong muốn. Để đưa hệ số ICOR trung bình từ 3,42 xuống còn 2,5 trong ngắn hạn
là không phải dễ. Đòi hỏi các cấp lãnh đạo Thành phố phải tập trung toàn trí tuệ cho:
Nâng cao hiệu quả đầu tư (bao gồm đầu tư từ ngân sách Nhà nước, đầu tư từ các
doanh nghiệp ngoài nhà nước và đầu tư của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài);
phát triển mạnh các ngành nghề dịch vụ tạo giá trị gia tăng (GDP) cao mà tiêu hao ít
chi phí xã hội; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ trong tất cả các lĩnh
vực từ quản lý nhà nước cho đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong toàn bộ
338
nền kinh tế thì mới có thể đưa năng suất lao động tăng cao, mới có thể đạt được mức
đóng góp của Các nhân tố tổng hợp TFP vào GDP là 40% như kế hoạch của Thành
phố đặt ra.
Hai là, nếu không thực hiện được các vấn đề trên thì có thể điều chỉnh chỉ tiêu
tăng trưởng cho giai đoạn 2011 – 2015 xuống còn khoảng 10,5%. Như vậy, sức ép
cho thực hiện kế hoạch tăng trưởng GDP của năm 2014, 2015 sẽ không nặng nề lắm.
Nếu theo phương án này: giả định năm 2013 cố gắng đạt tăng GDP 10%, thì hai năm
2014, 2015 chỉ tăng trung bình mỗi năm là 11,5%. Vốn đầu tư toàn xã hội cũng không
đòi hỏi tăng cao và không thúc bách lắm trong việc kéo hệ số ICOR xuống nhanh và
có thời gian để đầu tư cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu quả đầu tư và năng suất lao
động xã hội.
-Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Theo kế hoạch, đến năm 2015 cơ cấu kinh tế Thành phố là: Dịch vụ đạt 57%;
Công nghiệp đạt 42% và Nông nghiệp đạt 1%. Nếu theo số liệu của Cục Thống kê
Thành phố báo cáo thì GDP năm 2012 của Thành phố tính theo giá năm 2010 đã có cơ
cấu đạt kế hoạch đề ra cho năm 2015, cụ thể: Dịch vụ: 57,43%; Công nghiệp: 41,9%
và Nông nghiệp: 0,98%. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại của Thành phố đã đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Tuy nhiên, để làm tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hóa của
giai đoạn sau Thành phố cần tiếp tục đẩy nhanh hơn tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đế năm 2015 cố gắng đạt cơ cấu: Dịch vụ: 60%; Công nghiệp: 39,2% và Nông
nghiệp: 0,8%
3.1.2 Về xã hội và môi trƣờng
Như phần thực trạng đã phân tích Thành phố đã thực hiện quá trình chuyển đổi
mô hình tăng trưởng đúng hướng nên tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách an
sinh xã hội, bảo vệ môi trường để đạt được mô hình tăng trưởng bền vững, tăng
trưởng xanh trong thời gian tới.
3.1.3 Giảp pháp ngắn hạn:
Các giải pháp chúng ta đặt ra trong thời gian qua đều đúng. Tuy nhiên, việc
triển khai thực hiện có phần chậm, còn nhiều lúng túng và thậm chí còn nhiều vướng
mắc với các quy định của Trung ương cũng như của luật pháp.
Theo tôi trong thời gian từ nay đến hết năm 2013, và trong hai năm 2014, 2015
chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau:
- Giải pháp hỗ trợ tốc độ tăng trưởng:
Hiện nay, mô hình tăng trưởng vẫn dựa chủ yếu vào vốn đầu tư. Nhưng chúng
ta vẫn bị kẹt vốn cho đầu tư do chính sách thắt chặt của Chính phủ về tiền tệ cũng như
về tài chính (cả đầu tư từ khu vực nhà nước lẫn đầu tư của tư nhân và nước ngoài).
Để khơi thông nguồn vốn theo tôi cần triệt để thực hiện các giải pháp đột phá
ngắn hạn trên địa bàn Thành phố như sau:
+ Ngân hàng Nhà nước Thành phố phải kiên quyết chỉ đạo để các Ngân hàng
thương mại thực hiện đẩy nhanh cho vay các lĩnh vực ưu tiên và nhanh chóng giải
ngân gói hỗ trợ thị trường bất động sản của Ngân hàng Nhà nước Trung ương.
339
+ Sở Tài chính tập trung giải ngân nhanh vốn cho các dự án đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng đã được phê duyệt bố trí vốn trong kỳ.
+ Nhanh chóng xin ý kiến Trung ương chấp thuận cho Thành phố phát hành
trái phiếu đô thị (bao gồm trái phiếu bằng VNĐ, bằng Đô la Mỹ và thậm chí trái
phiếu bằng vàng để huy động vốn trong dân đầu tư cho hạ tầng đô thị Thành phố).
+ UBND Thành phố cần nhanh chóng xem xét đề xuất các chính sách thông
thoáng nhằm khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các ngành
nghề thuộc nhóm trọng yếu của Thành phố.
+ Sở Tài chính cần xem xét giải quyết trả nợ đọng xây dựng cơ bản cho các
nhà thầu xây dựng thuộc các thành phần kinh tế đối với các công trình cơ sở hạ tầng
kỹ thuật và hạ tầng xã hội trên địa bàn Thành phố để làm gia tăng vốn sử dụng của các
doanh nghiệp, góp phần giải quyết khó khan về vốn cho các doanh nghiệp xây dựng
trên địa bàn.
- Các giải pháp nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng:
+ UBND Thành phố cần nhanh chóng chọn các doanh nghiệp có ngành nghề
thuộc nhóm các ngành dịch vụ chủ yếu, ngành công nghiệp trọng yếu và nông nghiệp
công nghệ cao để thực hiện bảo lãnh tín dụng ưu đãi nhằm giúp họ đầu tư đổi mới
trang thiết bị công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất…tạo cú hích cho gia tăng nhân
tố TFP trong giai đoạn sau nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng giai đoạn sau.
Ngoài ra, UBND Thành phố cần nhanh chóng xây dựng gói hỗ trợ tài chính cho
chuyển đổi mô hình tăng trưởng (gói này giá trị bao nhiêu thì phải bàn bạc tính
toán thật kỹ, tuy nhiên, phải làm nhanh, vì là bàn đạp cho cả giai đoạn sau).
+ Xây dựng ngay các loại phí được để lại ngân sách Thành phố để không phụ
thuộc vào các loại thuế và phí do Trung ương điều tiết. Mặc dù chúng ta đang kiến
nghị Trung ương giảm mức điều tiết và để lại cho ngân sách Thành phố nhiều hơn,
nhưng việc này cũng hơi khó vì ảnh hưởng đến ngân sách Trung ương nên Thành phố
cần chủ động xây dựng nguồn Thu bền vững cho Thành phố, trong đó chú trọng
đến các loại thuế và phí sau: thuế tài sản, phí về bảo vệ môi trường, phí hạn chế xe
máy vào trung tâm,…
+ Tập trung vốn cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ cho tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu (giải pháp này xuyên suốt trong tất cả các
giai đoạn).
3.2 Trong trung hạn
Trung hạn thường trong khoảng từ ba đến bảy năm. Như vậy đến năm 2020
được xem là trung hạn.
Theo tôi mô hình tăng trưởng trong trung hạn nên theo hướng sau:
3.2.1 Về tốc độ tăng trƣởng và chất lƣợng tăng trƣởng
-Tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 2016 – 2020: khoảng 12%/năm.
-Hệ số ICOR nên trong khoảng 2,5
-TFP: khoảng 30%
340
-Cơ cấu kinh tế: Dịch vụ: 65%; Công nghiệp: 34,3%; Nông nghiệp: 0,7% (Cơ
cấu kinh tế của Singapore năm 2010 là: Dịch vụ: 68,17%; Công nghiệp: 31,8%;
Nông nghiệp: 0,03%; GDP bình quân 39.850 USD)
3.2.2 Về xã hội và môi trƣờng
- Tăng mức sống của người dân thông qua GDP bình quân đầu người tăng gấp
hai lần rưởi so với năm 2012, đạt khoảng 8.500 USD vào cuối năm 2020.
- Rút ngắn chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
- Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ phòng, khám chữa bệnh. Trở thành trung tâm
khám chữa bệnh trong khu vực Đông Nam Á, thu hút khách du lịch quốc tế đến khám,
chữa bệnh ở các cơ sở y tế của Thành phố. Phát triển ngành y tế Thành phố thành ngành
kinh tế thu nhiều ngoại tệ và tăng GDP cho Thành phố và đất nước.
- Nâng cao chất lượng đào tạo, giáo dục trên địa bàn Thành phố, trở thành
trung tâm đào tạo, giáo dục trong khu vực Đông Nam Á, thu hút học sinh, sinh viên
quốc tế đến học tập ở các cơ sở giáo dục, đào tạo đạt chuẩn khu vực và quốc tế của
Thành phố. Phát triển ngành giáo dục - đào tạo Thành phố thành ngành kinh tế dịch
vụ thu nhiều ngoại tệ và tăng GDP cho Thành phố và đất nước.
- Phát triển nền văn hóa Thành phố đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp tinh hoa trên
thế giới. Biến ngành văn hóa thành ngành kinh tế dịch vụ thu hút khách du lịch trong và
ngoài nước đến Thành phố thưởng thức, tăng nguồn thu ngoại tệ và tăng GDP cho
Thành phố.
- Đẩy mạnh bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển rừng để vừa bảo vệ môi
trường vừa phát triển du lịch sinh thái thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến
Thành phố làm tăng thu ngoại tệ và tăng GDP cho Thành phố.
3.2.3 Giải pháp trung hạn
Trong trung hạn cần thực hiện các giải pháp cho tăng trưởng bền vững. Theo
tôi các giải pháp đó là:
- Thực hiện các chính sách để hướng toàn bộ các chủ thể kinh tế Thành phố
thực hiện đầu tư theo chiều sâu: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao năng suất
lao động, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động, tăng cường
ứng dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và quản lý (kể cả quản lý doanh
nghiệp và quản lý nhà nước). Cụ thể:
+ Đề xuất với Quốc hội ban hành những ưu đãi về thuế, phí cho các đơn vị
thực hiện đầu tư theo chiều sâu của Thành phố (hoặc có Quy chế đặc thù cho chính
quyền đô thị, Thành phố được quyền xây dựng các loại thuế, phí riêng và quyền quyết
định mức miễn giảm thuế, phí).
+ Xây dựng Quỹ hỗ trợ chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhằm tạo nguồn tài
chính hỗ trợ các đơn vị thực hiện đầu tư theo chiều sâu. Quy mô của Quỹ này phải đủ
lớn để có nguồn tài chính mạnh, đủ sức thực hiện các gói hỗ trợ có chất lượng, tránh
tình trạng hỗ trợ manh mún, không đủ chi phí để đổi mới công nghệ, trang thiết bị
hiện đại.
+ Tiếp tục tập trung vốn hoàn thiện cơ sở hạ tầng của Thành phố theo quy
hoạch, gắn kết với cơ sở hạ tầng liên vùng và cả nước. (Vốn từ nhiều nguồn, kể cả
341
nguồn trái phiếu đô thị như đề xuất ở giải pháp ngắn hạn, chú ý trái phiếu bằng
ngoại tệ và trái phiếu vàng).
+ Thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển mạnh hơn; các
ngành công nghiệp kỹ thuật cao sử dụng ít năng lượng, công nghệ thân thiện với môi
trường, nông nghiệp công nghệ cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm…
+ Tiếp tục tập trung vốn cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ cho tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu (gửi đi đào tạo cả trong và ngoài nước).
3.3 Trong dài hạn
Dài hạn thường trong khoảng từ trên mười năm trở đi. Như vậy, đến năm 2030
được xem là dài hạn.
Theo tôi mô hình tăng trưởng trong dài hạn nên theo hướng sau:
3.2.1 Về tốc độ tăng trƣởng và chất lƣợng tăng trƣởng
- Tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 2021 – 2030: khoảng 9 –
10%/năm.
- Hệ số ICOR nên trong khoảng 2
- TFP: khoảng 40% - 50%
- Cơ cấu kinh tế: Dịch vụ: 74,5%; Công nghiệp: 25%; Nông nghiệp: 0,5%
(Cơ cấu kinh tế của Singapore năm 2010 là: Dịch vụ: 68,17%; Công nghiệp:
31,8%; Nông nghiệp: 0,03%; GDP bình quân đầu người 39.850 USD; dân số 5,1
triệu).
3.3.2 Về xã hội và môi trƣờng
-Tăng mức sống của người dân thông qua GDP bình quân đầu người tăng gấp
hai lần rưởi so với năm 2030, đạt khoảng 17.000 USD vào cuối năm 2030.
Các vấn đề về xã hội, môi trường thực hiện tốt hơn giai đoạn 2016 – 2020.
3.3.3 Giải pháp
Tiếp tục thực hiện các giải pháp đã đề xuất trong trung hạn. Chú ý các giải
pháp ƣu đãi, khuyến khích sử dụng ít năng lƣợng, tiết kiệm năng lƣợng.
Kết luận
Thay đổi mô hình tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng là quá trình
phức tạp và lâu dài, đòi hỏi phải thường xuyên liên tục thực hiện các giải pháp đã đề
ra và kiên trì với các giải pháp đó. Hy vọng với sức sáng tạo của các cấp chính quyền
Thành phố trong điều hành, với sự hỗ trợ của các cấp lãnh đạo Trung ương, Thành
phố sẽ thực hiện thành công quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng
hiện nay, sang tăng trưởng theo chiều sâu, và thực hiện thành công chiến lược tăng
trưởng xanh để đưa Thành phố trở thành Thành phố văn minh, sạch đẹp và “đáng
sống” nhất cả nước./.
top related