1 MỤC LỤC PHẦN 1 : KINH TẾ VIỆT NAM 2013 VÀ TRIỂN VỌNG 2014 1. TS.Trần Du Lịch: Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2013 và triển vọng 2014...............................................................................................................................4 2. TS.Nguyễn Mạnh Hùng: Cập nhật tình hình kinh tế thế giới năm 2013 và triển vọng năm 2014 ............................................................................................................12 3. TS.Nguyễn Thắng & Phạm Minh Thái: Việc làm và thu nhập 6 tháng đầu năm 2013.............................................................................................................................. 23 4. TS.Đặng Kim Sơn: Những thách thức mới đặt ra trong khu vực nông nghiệp...........................................................................................................................37 5. TS.Tô Ánh Dƣơng: Quản lý thị trường vàng: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam........................................................................................................ 46 6. PGS.TS.Ngô Trí Long: Chính sách điều hành thị trường vàng năm 2013 và những khuyến nghị...................................................................................................................56 7. TS.Nguyễn Minh Phong: Vàng và quản lý thị trường vàng ở Việt Nam năm 2013..............................................................................................................................77 8. TS.Đinh Tuấn Minh: Vấn đề sở hữu chéo và đầu tư chéo trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng tại Việt Nam........................................................................102 9. TS.Vũ Nhữ Thăng: Những vấn đề về chính sách tài khóa và đầu tư công……...114 10. TS.Vũ Sỹ Cƣờng: Bàn về tính bền vững và kỷ luật trong chính sách tài khóa............................................................................................................................129 11. TS.Nguyễn Ngọc Anh & TS.Tô Trung Thành: Những vấn đề về cơ cấu thương mại quốc tế tại Việt Nam............................................................................................144 12. TS.Phạm Thị Thu Hằng: Hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam trong chiến lược tái cấu trúc nền kinh tế và vai trò của ba đột phá chiến lược............................161 13. GS.TSKH.Đặng Hùng Võ: Thị trường bất động sản và những giải pháp cần thiết.............................................................................................................................174 14. Đặng Đức Thành: Vì sao giá nhà đất ở Việt Nam cao? Làm gì để đất đai trở thành nguồn lực quý giá của quốc gia?.....................................................................191 15. Nguyễn Văn Cao: Thừa Thiên Huế- Những nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội...............................................................................................................................202 PHẦN 2 : TRIỂN KHAI CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƢỢC 1. PGS.TS. Lê Xuân Bá: Tổng quan về các đột phá chiến lược tại Việt Nam..........215 2. TS. Bùi Văn Thạch: Tổng quan về các khâu đột phá chiến lược tại Việt Nam.............................................................................................................................237 3. GS. Nguyễn Quang Thái: Ba đột phá chiến lược: Suy nghĩ từ kinh nghiệm quốc tế............................................................................................ .....................................244
341
Embed
MỤC LỤC - hoangthachlan.files.wordpress.com · mức “căn bệnh” của nền kinh tế; sự thực thi các giải pháp ngắn hạn nhằm đối phó với tình hình
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
MỤC LỤC
PHẦN 1: KINH TẾ VIỆT NAM 2013 VÀ TRIỂN VỌNG 2014
1. TS.Trần Du Lịch: Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2013 và triển vọng
[http://www.markiteconomics.com/Survey/PressRelease.mvc/3dfe42c71a6748fe820a89f97aa15696] 5 WB. 2013. Đã dẫn, trang 33 6 http://www.markiteconomics.com/Survey/PressRelease.mvc/760ccbef0b1742ed8fc69acc37857228 7 http://www.markiteconomics.com/Survey/PressRelease.mvc/b34defd79f914b46b82892783a0205ec 8 Chỉ số tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 48,0 điểm trong tháng 7/2013 lên 50,6 điểm trong tháng 8/2013
khiến cho tỷ lệ lạm phát giảm ở nhiều nước ĐPT, đặc biệt là những nền kinh tế có thu
nhập thấp.
Lạm phát dự kiến của châu Á trong năm 2013 là 3,5%.17
Tại Đông Á, lạm phát
ở các nước như Trung Quốc và một số nước ASEAN (Malaixia, Việt Nam, Philíppin
và Inđônêxia) tiếp tục được kiểm soát trong mức mục tiêu của ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) dự báo lạm phát của nhóm ASEAN5
sẽ tăng nhẹ, từ 3,9% năm 2012 lên 4,0% năm 2013.18
Bảng 2: Lạm phát ở một số nƣớc châu Á (%)
Nước/vùng Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Các nền kinh tế
đang phát triển ở
châu Á
5,9 4,0 3,5 3,7
Trung Á 8,9 5,4 6,7 6,8
Đông Á 5,0 2,9 2,4 2,7
Trung Quốc 5,4 3,0 2,5 2,7
Nam Á 9,4 8,3 6,7 6,9
Ấn Độ 8,9 7,9 6,5 6,6
Đông Nam Á 5,5 4,0 4,3 4,2
ASEAN5 5,6 3,9 4,2 4,0
ASEAN5 gồm: Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Thái lan và Việt Nam
Nguồn: ADB. 2012. Asian Development Outlook Supplement, December 2012.
ADB. 2013. Asian Development Outlook Supplement, July 2013
Giá cả của những hàng hóa cơ bản trong năm 2013 có xu hướng giảm: Trao
đổi thương mại của các mặt hàng máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu sản xuất vẫn
còn gặp khó khăn trong năm 2013 do sản xuất công nghiệp và hoạt động đầu tư trì trệ.
Giá một số mặt hàng nông sản như lúa mỳ, gạo, cà phê đã có những phiên giảm khá
sâu như trong quý I/2013. Giá một số kim loại như đồng và bạc giảm so với năm
2012, chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc giảm khi hoạt động sản xuất
công nghiệp của nước này gặp khó khăn. Giá dầu mỏ vẫn có những phiên biến động
khá mạnh, tăng cao vào tháng 2/2013, sau đó đã hạ nhiệt nhưng lại có xu hướng tăng
kể từ tháng 7/2013. Trong ngắn hạn, giá năng lượng trong đó có giá dầu của thế giới
vẫn biến động chủ yếu tùy thuộc vào bất ổn chính trị ở Trung Đông (như cuộc xung
đột ở Syria) nên có những thời điểm tăng mạnh ngay cả khi nhu cầu của thế giới vẫn ở
mức thấp. Nhìn chung, giá vàng có xu hướng giảm, tụt xuống dưới mức 1600
USD/ounce kể từ tháng 3/2013,19
song vẫn còn biên độ dao động khá lớn.
Biểu đồ 1: Diễn biến giá dầu thô và giá vàng
17 ADB. 2013. Asian Development Outlook Supplement, July 2013 18 ADB. 2013. Đã dẫn 19 http://www.nasdaq.com/markets/commodities.aspx
16
Nguồn: http://www.nasdaq.com/markets
Thị trường tài chính thế giới đã vững mạnhhơn: Dòng vốn đổ vào các nền
kinh tế ĐPT và mới nổi đã tăng do các nền kinh tế PT thực thi chính sách nới lỏng
định lượng và giữ lãi suất ở mức thấp.20
WB ước tính, dòng vốn tư nhân ròng chảy
vào các nền kinh tế ĐPT sẽ tăng từ mức 1.178,3 tỷ USD năm 2012 lên 1250,2 tỷ USD
năm 2013, trong đó dòng vốn FDI ròng tăng từ 670,0 tỷ USD năm 2012 lên 719,3 tỷ
USD năm 2013.21
Trong nửa đầu năm 2013, theo đánh giá của WB, thị trường chứng khoán
(TTCK) của các nền kinh tế PT đã khởi sắc mạnh mẽ hơn TTCK của các nền kinh tế
ĐPT.22
Mặc dù dòng vốn đổ vẫn đổ vào các thị trường mới nổi song khả năng dòng
vốn này rút đi vào những tháng cuối năm là rất lớn khi các nền kinh tế PT có thể giảm
dần quy mô nới lỏng định lượng. Kinh tế Mỹ đang hồi phục hé lộ khả năng giảm dần
quy mô nới lỏng định lượng khiến cho đồng đôla Mỹ tăng giá so với nhiều đồng tiền
khác trong năm 2013.
Bảng 3: Dòng vốn vào, ra ở các nền kinh tế đang phát triển (tỷ USD)
2012 2013 2014
Dòng vốn vào 1192,4 1260,9 1297,4
Vốn tư nhân (ròng) 1178,3 1250,2 1290,7
+ Vốn cổ phiếu (ròng) 758,1 791,1 803,5
Vốn FDI vào (ròng) 670,0 719,3 715,7
Vốn cổ phiếu gián tiếp (ròng) 88,1 71,8 87,8
+ Vốn tín dụng tư nhân (ròng) 420,2 459,1 487,2
Dòng vốn ra - 365,4 - 371,3 -416,3
FDI ra - 238,0 - 275,0 -325,0
Vốn cổ phiếu gián tiếp - 12,4 - 17,3 -24,3
Nguồn: WB. 2013. Global Economic Prospect 2013. Volume 7 June 2013. Trang 6
20 ECB tiếp tục giữ tỷ lệ lãi suất tại mức thấp kỷ lục 0,75%; còn FED giữ tỷ lệ lãi suất ở mức 0-0,25%. 21 WB. 2013. Đã dẫn 22 WB. 2013. Đã dẫn. Trang 58
17
2. Cập nhật tình hình kinh tế của một số nƣớc và khu vực
Kinh tế EU và Eurozone: Năm 2013, tăng trưởng GDP của EU (27 nước) dự
kiến chỉ đạt -0,1% còn của Eurozone là -0,4%. Trong số các nền kinh tế đầu tàu của
EU, kinh tế Đức và Pháp dự kiến tăng trưởng 0,4% và -0,1%. Các nền kinh tế Italia và
Tây Ban Nha vẫn tiếp tục suy thoái với mức tăng trưởng -1,3% và -1,5% tương ứng.23
Tình hình kinh tế châu Âu đã từng rất nóng trong những tháng đầu năm 2013 với cuộc
khủng hoảng nợ công kéo theo cuộc khủng hoảng ngân hàng ở Cộng hòa Síp đẩy nền
kinh tế và xã hội nước này đến bên bờ sụp đổ nếu như không có sự cứu trợ kịp thời
của bộ ba: IMF, ECB và EU với 10 tỷ Euro kèm theo những điều khoản cải cách ngặt
nghèo. Điều này cũng thể hiện cam kết của Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) là
sẽ làm bất cứ điều gì để cứu đồng tiền chung.
Tháng 5/2012, khi ông François Hollande trở thành Tổng thống Pháp, tưởng
như trong EU đã xuất hiện sự khác biệt lớn hơn về chính sách ứng phó đối với cuộc
khủng hoảng giữa trường phái ủng hộ (Đức, Anh, Hà Lan, Phần Lan và Thụy Điển) và
trường phái phản đối (Pháp và những nước mới gia nhập) cắt giảm mạnh chi tiêu.
Thực tế cho thấy, ảnh hưởng của Pháp khá mờ nhạt so với Đức và trường phái cắt
giảm chi tiêu vẫn đang thắng thế. Tháng 2/2013, Hội nghị thượng đỉnh bàn về ngân
sách dài hạn của EU đã thông qua ngân sách của khối này trong 7 năm tới (2014-
2020) là 908 tỷ Euro. Đây là lần đầu tiên khối này cắt giảm ngân sách trong lịch sử 56
năm tồn tại.24
Nỗ lực thắt lưng buộc bụng và đẩy mạnh cải cách có vẻ bắt đầu đem lại những
tín hiệu tích cực cho EU. Những dấu hiệu đến thời điểm tháng 8/2013 cho thấy kinh tế
EU đã tươi sáng hơn và đang thoat ra khoi tinh trang suy thoái kéo dài 18 tháng qua.
GDP của 17 nền kinh tế thuộc Eurozone đã tăng 0,3% trong quý II/2013. Đức và Pháp
đều có tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn mong đợi, lần lượt là 0,7% và 0,5%.25
Ngày
01/8/2013, ECB cho biết, mặc dù thời gian tồi tệ nhất của Eurozone đã qua đi, ECB
vẫn tiếp tục duy trì lãi suất thấp 0,5% thêm một thời gian để tạo đà tăng trưởng.26
Kinh tế Nhật Bản: Tháng 12/2012, thắng lợi của Đảng Dân chủ Tự do trong
cuộc bầu cử quốc hội đã đưa ông Shinzo Abe trở lại nắm quyền. Thủ tướng mới của
Nhật Bản đã tiến hành những chính sách tiền tệ và tài khóa để vực dậy nền kinh tế với
ba mũi tên: i) kích thích bằng chính sách tiền tệ mạnh mẽ, bao gồm cả việc nâng mục
tiêu lạm phát của Ngân hàng trung ương Nhật Bản lên mức 2%; ii) kích thích tài khóa
dưới dạng tăng chi tiêu cho các công trình công cộng; và iii) thực hiện các cải cách dài
hạn từ phía cung nhằm mở rộng tiềm năng tăng trưởng.
Với việc vận hành “cỗ máy in tiền” đứng sau chính sách Abenomics nói trên,
ông Shinzo Abe đã đem lại cho nền kinh tế Nhật Bản những khởi sắc trong năm 2013.
Niềm tin của các doanh nghiệp Nhật Bản đang được cải thiện, sản lượng tại các nhà
máy gia tăng, giá trị xuất khẩu hồi phục và nhiều việc làm đang được tạo ra. Bên cạnh
đó, đồng Yên giảm giá là yếu tố then chốt để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Tình
trạng giảm phát của Nhật Bản đang dần được khắc phục. Dấu hiệu mới nhất là trong
tháng 6/2013 lần đầu tiên trong hơn một năm qua, giá tiêu dùng tại Nhật Bản đã tăng,
23 http://epp.eurostat.ec.europa.eu/tgm/table.do?tab=table&init=1&plugin=1&language=en&pcode=tec00115 24 So với con số 960 tỷ Euro dự kiến ban đầu, tương đương với 1,01 % GDP của toàn khối 25 www.tradingeconomics.com/euro-area/gdp-growth 26 www.bloomberg.com/.../draghi-policy-pause-seen-as-sign
18
mặc dù hầu hết là do giá điện tăng và đồng yên mất giá.27 IMF dự báo kinh tế Nhật
Bản sẽ tăng trưởng 2,0% trong năm 2013. Theo các số liệu mới công bố, sau khi đạt
mức 4,1% trong quý I/2013, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản đã tụt xuống còn 2,6%
trong quý II. Chi tiêu công và xuất khẩu đóng góp mạnh nhất cho tăng trưởng trong
quý II/2013 trong khi đầu tư tư nhân giảm sút. Thông tin về tăng trưởng chậm hơn
cùng với mức thâm hụt thương mại tăng trong quý II/2013 tăng áp lực đòi Thủ tướng
Shinzo Abe đẩy mạnh cải cách hơn nữa, bước sang giai đoạn III của chính sách
Abenomics là tái cơ cấu để cải thiện khả năng cạnh tranh của Nhật Bản và duy trì tăng
trưởng dài hạn.
Kinh tế Mỹ: Trong năm 2013, kinh tế Mỹ vẫn giữ đà khởi sắc, mặc dù mức
tăng trưởng đã chậm lại, dự báo chỉ đạt 1,7% (so với 2,2% trong năm 2012).28 Thị
trường nhà đất tiếp tục xu hướng phục hồi và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống. Tâm lý lo
ngại bao trùm trong những tháng cuối năm 2012 khi kinh tế Mỹ phải đối mặt với nguy
cơ “vách đá tài khóa” có thể gây ra một cuộc suy thoái mới đã qua đi khi chính phủ và
quốc hội Mỹ đã đạt được thỏa thuận về cách thức tạm thời xử lý vấn đề này.29 Tuy
nhiên, kể từ ngày 1/3/2013, chính quyền Mỹ vẫn phải thực hiện cắt giảm ngân sách 85
tỷ USD theo thủ tục “bảo lưu ngân sách” và việc cắt giảm này đã tác động ít nhiều đến
tăng trưởng, việc làm và các chương trình xã hội ở Mỹ.
Các số liệu mới công bố cho thấy, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ trong
quý II/2013, đạt 1,7% (so cùng kỳ năm 2012), sau khi chỉ tăng 1,1% trong quý I/2013.
Tăng trưởng cao hơn trong quý II/2013 chủ yếu là do xu hướng tăng đầu tư kinh
doanh, xuất khẩu và tăng tiêu dùng. Mặc dù chuyển biến của thị trường lao động
không nhanh như kỳ vọng, số lượng việc làm trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ tiếp
tục tăng.30 Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 7,6% trong tháng 6/2013 xuống còn 7,4%
trong tháng 7/2013.
Cụ dự trữ liên bang (FED) tiếp tục duy trì lãi suất mục tiêu ở mức 0%- 0,25%
do tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở trên mức 6,5% và lạm phát nằm dưới ngưỡng 2,5%. Từ giữa
tháng 6/2013, FED đã tuyên bố có thể giảm dần chương trình mua tài sản tài chính
trong năm 2013 nếu nền kinh tế Mỹ cải thiện tốt. Tuyên bố của FED đã khiến cho
TTCK tụt dốc mạnh. Vì thế, có những lo ngại rằng thay đổi chính sách tiền tệ quá
nhanh của FED có thể ảnh hưởng đến ổn định của thị trường tài chính.
Kinh tế Trung Quốc: Tháng 3/2013 kỳ họp thứ nhất Đại hội đại biểu nhân dân
toàn quốc Trung Quốc khóa 12 đã lựa chọn ra ban lãnh đạo kinh tế mới của Trung
Quốc do Thủ tướng Lý Khắc Cường đứng đầu. Ông Chu Tiểu Xuyên, người ủng hộ
chính sách tự do hóa lãi suất và tỷ giá linh hoạt, được bầu lại chức vụ Thống đốc
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Đây là một tín hiệu cho thấy ban lãnh đạo mới của
Trung Quốc sẽ tiếp tục đưa hệ thống tài chính đi theo định hướng thị trường. Tháng
7/2013, Hội nghị thường vụ Quốc vụ viện đã thông qua nguyên tắc "Phương án tổng
thể khu thử nghiệm thương mại tự do Thượng Hải". Đây sẽ trở thành nơi thử nghiệm
27http://www.cnbc.com/id/100954796 28 IMF. 2013. Đã dẫn. 29 “Vách đá tài khóa” dùng để chỉ khi các biện pháp cắt giảm được áp dụng từ thời cựu Tổng thống George
Bush sẽ hết hiệu lực và kế hoạch tự động cắt giảm chi tiêu chính phủ và tăng thuế sẽ có hiệu lực vào đầu năm
2013. Trong những thỏa thuận quan trọng có việc quốc hội Mỹ chấp thuận lùi thời hạn cắt giảm chi tiêu thêm 2 tháng, chương trình hỗ trợ người thất nghiệp mở rộng được gia hạn đến hết 2013, và vẫn thực hiện tăng thuế đối
với những người có thu nhập cao. 30Kinh tế Mỹ tăng thêm 162.000 việc làm trong tháng 7/2013 và điều chỉnh giảm 26.000 việc làm so với tháng
6/2013
19
cho những thay đổi chính sách lớn theo hướng tự do hóa, trói cho lãi suất nội địa,
nhằm ghi lại dấu ấn trong thời kỳ cầm quyền của Thủ tướng Lý Khắc Cường.
Sau nửa năm đầu tương đối trì trệ, các hoạt động sản xuất trong tháng 8/2013 đã
có dấu hiệu phục hồi. Điều này cho thấy một số chính sách kích thích kinh tế “mini”
như giảm thuế cho các công ty nhỏ, hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu gặp khó khăn, gia
tăng đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị và đường sắt thời gian qua đã mang lại kết quả
khả quan. Nền kinh tế đã ổn định trở lại và có thể đạt mục tiêu tăng trưởng 7,5% trong
năm 2013 – tuy đây sẽ là mức tăng trưởng thấp nhất của Trung Quốc trong vòng 23
năm.
Kinh tế Trung Quốc vẫn phải đối mặt với nhiều rủi ro. Thị trường nhà đất tiếp
tục nóng lên bất chấp biện pháp kiềm chế của nhà nước. Nền kinh tế có sự mất cân
xứng rất lớn giữa tiêu dùng và đầu tư. Trong khi đó, mức lương đang tăng lên khiến
Trung Quốc đang mất dần lợi thế cạnh tranh dựa vào lao động giá rẻ. Kết quả là lợi
nhuận đầu tư sẽ giảm mạnh kéo theo giá trị đầu tư giảm.31
Sụt giảm đầu tư ở Trung
Quốc tác động tiêu cực đến tăng trưởng của nền kinh tế nước này và quan hệ thương
mại, đầu tư của Trung Quốc đối với phần còn lại của thế giới (đặc biệt đối với châu Á
trong đó có Việt Nam).
3. Triển vọng kinh tế toàn cầu 2014 và một số vấn đề trung hạn
Kinh tế toàn cầu sẽ khởi sắc hơn trong năm 2014, mặc dù tốc độ tăng trưởng
còn thấp song các điều kiện vĩ mô sẽ ổn định hơn. IMF dự báo kinh tế toàn cầu sẽ
tăng trưởng 3,8%; thương mại toàn cầu tăng trưởng 5,4%. Các nền kinh tế PT tăng
trưởng 2,1%, còn các nền kinh tế ĐPT tăng trưởng 5,4%. Kinh tế Mỹ tăng trưởng
2,7%, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 1,2%, kinh tế Eurozone thoát ra khỏi suy thoái và
đạt mức tăng trưởng 0,9%.32
Các kịch bản cho kinh tế Trung Quốc vẫn còn khá bấp
bênh và tương đối khác biệt. IMF dự đoán nền kinh tế nước này sẽ tăng trưởng 7,7%
(thấp hơn năm 2013), trong khi WB dự báo là 8,0% (cao hơn năm 2013).33
Tốc độ tăng trưởng thấp của kinh tế thế giới có nguyên nhân là do tác động
chính sách. Kinh tế thế giới đang trong quá trình điều chỉnh từ giai đoạn tăng trưởng
không bền vững trước đây để trở về quỹ đạo cân bằng hơn bằng cách giảm mức độ sử
dụng các đòn bẩy tài chính và rơi vào vòng xoáy của “bẫy tăng trưởng thấp”.34
Đây là
tác động kết hợp của chính sách thắt lưng buộc bụng, cắt giảm tiêu dùng và đầu tư của
chính phủ, các công ty và hộ gia đình trong bối cảnh nợ công tăng, khu vực tài chính
yếu kém và thất nghiệp cao. Kết quả là cả sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng
đều giảm sút. Trong khi đó, vấn đề khủng hoảng niềm tin vẫn chưa được khắc phục.
Các nhà đầu tư và các hộ gia đình vẫn chưa tin rằng các nhà hoạch định chính sách có
khả năng hành động một cách quyết đoán, phối hợp với nhau tốt hơn để đưa các nền
kinh tế quay trở lại với lộ trình tăng trưởng mạnh và ổn định hơn.35
Để phá vỡ “bẫy tăng trưởng thấp”, các nền kinh tế PT đã thử nghiệm một số
biện pháp “phi truyền thống” chưa từng có từ trước tới nay, điển hình là chính sách
31 http://vneconomy.vn/20130723110033112P0C99/paul-krugman-kinh-te-trung-quoc-sap-dam-vao-van-ly-truong-thanh.htm 32 IMF. 2013. Đã dẫn. 33 WB. 2013. Đã dẫn 34 UN. 2012. World Economic Situation and Prospects 2013. Chapter 1. New York, 18 December 2012 35 WB. 2012. Điểm lại: Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam. Báo cáo của Ngân hàng thế giới tại Hội
nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, ngày 10/12/2012. Tr.5
20
nới lỏng định lượng của FED.36
Đến nay, hàng tháng FED mua vào tới 85 tỷ USD các
tài sản tài chính, trong đó bao gồm 40 tỷ USD để mua các chứng khoán được bảo lãnh
bằng thế chấp (MBS) và 45 tỷ USD để mua vào trái phiếu kho bạc dài hạn, nhằm kích
thích kinh tế phục hồi.
Những người phản đối chính sách nới lỏng định lượng (QE) từng cho rằng nó
sẽ không có hiệu quả do lãi suất dài hạn hiện nay đang ở mức rất thấp. Ngoài ra, tác
động làm suy yếu đồng tiền (kênh ngoại hối) của các biện pháp nới lỏng định lượng sẽ
bị giảm sút khi các ngân hàng trung ương lớn hiện nay đều đang áp dụng biện pháp
này. Kết quả là, chuỗi chính sách QE có thể trở thành một “trò chơi tổng bằng không”
do không phải tất cả các đồng tiền đều có thể giảm giá và không phải tất cả các cán
cân thương mại đều có thể được cải thiện. Khi đó, “cuộc chiến nới lỏng định lượng”
sẽ xuất hiện không khác gì một cuộc “chiến tranh tiền tệ” mới. Các hành động của
FED, ECB và BOJ cũng khiến các nền kinh tế mới nổi nới lỏng chính sách tiền tệ
hoặc thực hiện kiểm soát vốn nhằm tìm cách ngăn các dòng tiền "nóng" đổ vào để tìm
lợi tức cao hơn và ngăn chặn đồng nội tệ tăng giá. Tại châu Á, tỷ giá thực hữu hiệu
(REER) của đồng Yên đã giảm tới 18% trong giai đoạn từ tháng 7/2012 đến tháng
2/2013. Cũng trong khoảng thời gian này, tỷ giá thực hữu hiệu của đồng đôla Xingapo
tăng tới 4,8%, của đồng Won Hàn Quốc tăng 6,7% và của đồng Bạt Thái Lan tăng
8,8%.37
Ngược lại, Chủ tịch FED Ben Bernake tuyên bố các chương trình nới lỏng định
lượng ở các nền kinh tế phát triển không phải là hành động phá giá cạnh tranh. Xuất
khẩu của các nền kinh tế ĐPT sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực do nhu cầu nhập khẩu
của các nền kinh tế phát triển gia tăng sẽ bù lại việc đồng tiền của những nền kinh tế
ĐPT có thể tăng giá. Các chính sách nới lỏng định lượng và lãi suất thấp ở các nền
kinh tế PT cũng không phải là nguyên nhân chính có thể tạo ra các dòng vốn “nóng”
đổ vào các nền kinh tế ĐPT. Nguyên nhân chủ yếu là do triển vọng tăng trưởng kinh
tế khác nhau và tính toán về rủi ro của các nhà đầu tư, trong đó có cả lo ngại về các
biện pháp kiểm soát vốn chặt chẽ hơn mà các nền kinh tế ĐPT có thể áp dụng.38
Trong bối cảnh trên, rủi ro chính sách sắp tới nằm ở chỗ thoái lui các chính
sách nới lỏng định lượng ở các nền kinh tế PT. Mặc dù đã được lường trước và ngay
cả khi nó chưa được thực hiện ngay, tuyên bố của FED về việc có thể giảm dần
chương trình mua tài sản tài chính trong năm 2013 vẫn gây ra những xáo trộn lớn trên
thị trường tài chính toàn cầu.
Trước đây, chính sách nới lỏng định lượng đã tạo ra những luồng tiền đổ mạnh
vào những thị trường mới nổi nhằm tìm kiếm lợi tức cao hơn. Nếu chính sách nới lỏng
định lượng được thu hẹp rồi dỡ bỏ, giá của các trái phiếu kho bạc Mỹ sẽ giảm, lợi suất
của các trái phiếu này sẽ tăng lên (thực tế đã tăng từ mức 2,33% lên mức 2,8% ngay
sau khi có tuyên bố của FED)39
và các luồng vốn sẽ rút khỏi các thị trường mới nổi để
đầu tư vào nơi an toàn hơn là trái phiếu kho bạc Mỹ. Thậm chí, các dòng vốn này sẽ
36 Kể từ giữa tháng 9/2012, FED quyết định chi ra 40 tỷ USD hàng tháng để mua các chứng khoán được bảo
lãnh bằng thế chấp (MBS). Tháng 12/2012, cùng với 40 tỷ USD nói trên, FED quyết định hàng tháng sẽ mua
thêm vào 45 tỷ USD trái phiếu kho bạc dài hạn. Việc mua vào này diễn ra cho đến khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi. 37 http://blogs.worldbank.org/prospects/comment/reply/1383 38 http://www.federalreserve.gov/newsevents/speech/bernanke20130325a.htm 39 http://www.cnbc.com/id/100975385
còn rút ra nhiều hơn trong tương lai nếu FED tăng lãi suất mục tiêu khi tỷ lệ thất
nghiệp tụt xuống mức yêu cầu.
Động thái tuyên bố trên của FED ngay lập tức đã khiến cho các chỉ số chứng
khoán như S&P 500 và Dow Jones sụt giảm mạnh, thị trường chứng khoán của một số
nền kinh tế Đông Á phụ thuộc nhiều vào dòng vốn từ Mỹ như Inđônêxia, Thái Lan,
Philíppin cũng sụt giảm, giá vàng thế giới trượt dốc xuống gần mốc 1200 USD/ounce,
đồng tiền của Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Inđônêxia cũng mất giá nghiêm trọng…Thực tế
cho thấy, những rủi ro mà chính sách nới lỏng định lượng gây ra, đặc biệt là cho các
nền kinh tế mới nổi tùy thuộc vào chính tình trạng phát triển lành mạnh của những
nền kinh tế này. Các nước có nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém như như Ấn Độ đang
phải trả giá đắt khi đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong nhiều thập kỷ:
thâm hụt tài khoảng vãng lai cao, đồng rupee mất giá, lạm phát tăng vọt, thị trường
chứng khoán tụt dốc…Những khó khăn của các nền kinh tế mới nổi từ Ấn Độ cho đến
Trung Quốc cho thấy, các nền kinh tế này vẫn chưa thực sự có được một nền tảng
phát triển thực sự bền vững và vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các nền kinh tế PT mặc
dù đóng góp của các nền kinh tế mới nổi cho quy mô của nền kinh tế toàn cầu hiện
nay là khá lớn.
Mặc dù điều kiện tài chính đã ổn định hơn, các nền kinh tế PT vẫn đứng trước
những rủi ro không nhỏ. Bất ổn của kinh tế Eurozone trong vòng xoáy của cuộc khủng
hoảng nợ công và hệ thống ngân hàng tiếp tục là mối lo ngại lớn đối với kinh tế toàn
cầu. Rủi ro sụp đổ từ những mắt xích yếu kém của Eurozone như Hy Lạp, Tây Ban
Nha, Italia…có thể gây ra những bất ổn dây chuyền. Cuộc khủng hoảng ở Cộng hòa
Síp đầu năm 2013 là một thí dụ về những rủi ro này. Nợ công cũng là nguy cơ đối với
cả Nhật Bản và Mỹ. Nợ công của Nhật Bản vào cuối tháng 6/2013 đã vượt quá 1 triệu
tỷ yên. Dự báo, năm 2014 nợ công Nhật Bản sẽ bằng 230% GDP của nước này và
hiện Nhật Bản đã là quốc gia có tỷ lệ nợ công trên GDP cao nhất trong số các nước
PT.40
Trong khi đó, tháng 8/2013, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Jack Lew vừa cảnh báo
Mỹ sẽ chạm trần nợ 16.700 tỷ USD vào giữa tháng 10/2013.41
Tuy nhiên, các nghị sĩ
đảng Dân chủ và Cộng hòa trong Quốc hội Mỹ vẫn chia rẽ sâu sắc về mức chi tiêu và
sẽ không thể nhanh chóng đạt được thỏa thuận về việc nâng mức trần nợ công. Vụ
tuyên bố phá sản của "kinh đô xe hơi" Detroit là lời cảnh tỉnh đối với việc kiểm soát
tài chính công và chi tiêu của chính quyền. Vì thế, tình trạng nợ nần leo thang của Mỹ
và những nguy cơ mà nó gây ra giống như một trái bom nổ chậm tiếp tục gây ra tâm
lý lo ngại trên thị trường tài chính toàn cầu.
*
* *
Kinh tế toàn cầu đã bước vào giai đoạn ổn định hơn, song tốc độ tăng trưởng
vẫn còn thấp. Động lực tăng trưởng của kinh tế toàn cầu trong những năm qua là các
nền kinh tế mới nổi đang đi xuống, trong khi các nền kinh tế PT mới bắt đầu có dấu
hiệu khởi sắc. Thị trường tài chính toàn cầu đã bớt rủi ro hơn mặc dù vẫn tiềm ẩn
những tác động tiêu cực đối với các nền kinh tế ĐPT do việc các nền kinh tế PT rút bỏ
dần các biện pháp nới lỏng định lượng. Tình hình lạm phát nhìn chung vẫn được kiểm
soát do giá cả hàng hóa quốc tế đang có xu hướng giảm. Tuy nhiên, bất ổn ở Trung
40 Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Báo cáo tình hình kinh tế Nhật Bản tháng 8/2013. Hà Nội 41 http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/quoc-te/my-se-cham-tran-no-vao-thang-10-2870971.html
22
Đông, trong đó có cuộc xung đột ở Syria, đang ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường năng
lượng, đặc biệt là dầu mỏ.
Nhìn chung, tăng trưởng của các nền kinh tế ĐPT cần tiếp tục được dựa chủ
yếu vào thị trường nội địa. Các tổ chức quốc tế như WB, IMF và UN khuyến nghị các
nước này nên có những chính sách củng cố đà phục hồi tăng trưởng, thi hành các
chính sách vĩ mô thận trọng, tạo dựng, củng cố lại các “dư địa” cho các chính sách tài
khóa và tiền tệ để có thể triển khai sau này nhằm đối phó với các rủi ro xảy ra. Đặc
biệt, các nước ĐPT nên cân nhắc tiến hành những cuộc cải cách dài hạn hơn, tập trung
vào cải thiện nền sản xuất, năng suất lao động. Giai đoạn phát triển vừa qua của thế
giới cho thấy, những quốc gia nào chấp nhận cải cách mạnh mẽ, sâu rộng trong và sau
thời kỳ khủng hoảng sẽ tạo lập được nền tảng phát triển vững chắc sớm hơn và phục
hồi nhanh hơn./.
23
VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2013
Nguyễn Thắng
42
Phạm Minh Thái1
I. Mở đầu
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2013 ước tăng 4,9% so với
cùng kỳ năm 2012, cao hơn mức tăng 4,38% của 6 tháng đầu năm 2012. Tuy nhiên,
tình hình kinh tế xã hội nước ta trong nửa đầu năm 2013 vẫn tiếp tục đối mặt với
nhiều khó khăn thách thức. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
trong tình trạng khó khăn, đặc biệt là thị trường tiêu thụ hàng hóa thu hẹp, nhu cầu
tiêu dùng giảm sút dẫn tới tổng cầu trong nước bị thu hẹp. Nợ xấu vẫn là gánh nặng
cho nền kinh tế. Tình trạng doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể hoặc thu hẹp đáng
kể qui mô hoạt động vẫn tiếp tục diễn ra trong nửa đầu năm 2013, gây tác động bất lợi
đến việc làm và thu nhập của người lao động.
Trên cơ sở phân tích số liệu về lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê
cập nhật trong 6 tháng đầu năm 2013, bài viết sẽ đưa ra những đánh giá về thị trường
lao động trong 6 tháng đầu năm 2013 thông qua các chỉ số chính về tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm, thu nhập, tiếp cận với bảo hiểm xã hội v,v…
II. Lao động và việc làm Việt Nam 6 tháng đầu năm 2013 qua một số chỉ số tổng hợp
Tình hình lao động và việc làm có thể được đánh giá thông qua một số chỉ số
tổng hợp phản ánh kết quả chính của thị trường lao động bao gồm: (i) lực lượng lao
động; (ii) tỷ lệ thất nghiệp; (iii) tỷ lệ thiếu việc làm và số giờ làm việc; và (iv) thu
nhập của người lao động.
Đối với các nước phát triển, tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ số đặc biệt quan trọng
phản ánh khả năng hấp thụ nhu cầu việc làm của nền kinh tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam
nói riêng và các nước đang phát triển ở trình độ thấp nói chung, khu vực việc làm
chính thức chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và do vậy chỉ số về tỷ lệ thất nghiệp chưa đóng vai
trò chỉ báo quan trọng đối với tình hình lao động và việc làm. Đặc biệt trong bối cảnh
kinh tế suy giảm, những người lao động không được khu vực chính thức tuyển dụng
sẽ phải nhanh chóng chuyển sang làm việc tại khu vực phi chính thức (với điều kiện
làm việc kém hơn như số giờ làm việc nhiều hơn, thu nhập thấp hơn, không được
tham gia bảo hiểm xã hội v,v…) thường khó khăn hơn. Các chỉ số khác có vai trò chỉ
báo quan trọng liên quan đến việc làm là tỷ lệ thiếu việc làm và số giờ làm việc (mức
độ sử dụng lao động) và thu nhập của người lao động (thể hiện năng suất lao động).
II.1. Lực lƣợng lao động
42
Trung tâm Phân tích và Dự báo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Các tác giả xin chân
thành cảm ơn bà Phan Thị Minh Hiền, Tổng Cục Thống Kê, đã giúp đỡ trong việc tính toán các chỉ
tiêu về lao động và việc làm trong báo cáo. Các phân tích và đánh giá được thực hiện trong báo cáo này chỉ phản ánh quan điểm riêng của các tác giả với tư cách là các chuyên gia kinh tế
24
Hình 1: Lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên 6 tháng đầu năm, 2011-2013 (triệu
ngƣời)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Số liệu về lực lượng lao động (LLLĐ) từ 15 tuổi trở lên chứa đựng thông tin
quan trọng về cung lao động. Số liệu về lực lượng lao động 6 tháng đầu năm 2011-
2013 đã cho thấy có sự tăng lên đều đặn khoảng hơn 1 triệu lao động trong nửa đầu
của năm này so với nửa đầu của năm trước (Hình 1). Trong 6 tháng đầu năm 2011 lực
lượng lao động có khoảng 50,6 triệu người, đến nửa đầu năm 2012 con số này là hơn
52 triệu người và tăng thêm 1 triệu người nữa trong 6 tháng đầu năm 2013. Số liệu về
sự gia tăng của số người trong lực lượng lao động của Tổng cục thống kê đã phản ánh
xu hướng nhân khẩu học của lao động nước ta. Tuy nhiên, xu hướng này đã bắt đầu
đảo chiều khi tốc độ gia tăng của lực lượng lao động đã bắt đầu suy giảm từ năm 2013
này.
Hình 2: Tăng trƣởng lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên và tăng trƣởng GDP
theo 6 tháng đầu năm (2011-2013)
Nguồn: Dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
25
Tăng trưởng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên thể hiện sự tăng cung lao
động trong nền kinh tế. Trong khi đó, cầu lao động – vế bên kia của quan hệ cung cầu
lao động – lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế, được thể hiện qua chỉ số tổng hợp nhất
là tăng trưởng GDP. Số liệu về tăng trưởng GDP so sánh 6 tháng đầu năm từ 2010 tới
2013 cho thấy tốc độ tăng trưởng đã giảm, từ 6,16% trong nửa đầu năm 2010 xuống
còn 4,9% trong 6 tháng đầu năm 2013. Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng này ít dao
động hơn so với sự thay đổi liên tục trong tăng trưởng về lao động (Hình 2). Đặc biệt
6 tháng đầu năm 2013, LLLĐ đã giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2012, đây là dấu hiệu
cho thấy xu hướng suy giảm về lực lượng lao động theo cơ cấu nhân khẩu học đã bắt
đầu với “điểm ngoặt” từ năm 2013 (Nguyễn Thắng, 2012).
II.2. Việc làm và thất nghiệp
Trong 6 tháng đầu năm 2013, tỷ lệ thất nghiệp chung của Việt Nam tăng nhẹ từ
1,71% trong 6 tháng đầu năm 2012 lên mức 2,01% (Hình ). Tỷ lệ thất nghiệp ở cả
thành thị và nông thôn cũng có chung xu hướng tăng như vậy, là chỉ báo cho thấy tình
hình khó khăn của kinh tế Việt Nam vẫn đang tiếp tục trong nửa đầu của năm 2013.
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị vẫn cao gấp 2 lần so với tỷ lệ thất nghiệp ở khu
vực nông thôn (3,5% so với 1,37%). Điều này cho thấy, thất nghiệp chủ yếu diễn ra ở
khu vực thành thị bởi tìm được việc làm ở thành thị (nơi có sự cạnh tranh rất cao khi
dòng người dịch chuyển từ nông thôn ra thành thị ngày càng tăng) là khó khăn hơn rất
nhiều so với khu vực nông thôn. Tuy nhiên, dù dễ tìm được việc làm hơn ở khu vực
nông thôn nhưng việc làm đó lại không đem lại thu nhập cao cho người lao động. Do
đó, người lao động tiếp tục dịch chuyển ra thành phô, chấp nhận sự cạnh tranh cao ở
khu vực này vì công việc (nếu tìm được) thường đem lại thu nhập sẽ tốt hơn đáng kể
so với ở khu vực nông thôn.
Hình 3: Tỷ lệ thất nghiệp theo 6 tháng đầu năm 2011 – 2013 (%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Mặc dù có sự chênh lệch lớn về tỷ lệ thất nghiệp giữa thành thị và nông thôn
nhưng nhìn chung các tỷ lệ thất nghiệp này vẫn ở mức tương đối thấp. Tỷ lệ thất
nghiệp thấp như vậy có thể được lý giải là do ở một nước có trình độ phát triển còn
thấp, với đặc trưng là hệ thống an sinh xã hội có độ bao phủ hạn chế nên những người
lao động mất việc làm không thể duy trì tình trạng thất nghiệp lâu dài được mà buộc
phải chấp nhận làm công việc nào đó với chất lượng thấp hơn, thường là trong khu
26
vực phi chính thức với thu nhập thấp, công việc bấp bênh hoặc có thời gian làm việc
không phù hợp (ILO, (2009); GSO (2012)).
Một đặc trưng nữa của thị trường lao động Việt Nam được phản ánh khi phân
tích số liệu của Điều tra Lao động và Việc làm là tỷ trọng cao của lao động không có
bảo hiểm xã hội (bao gồm những lao động làm việc trong nông nghiệp, hoặc tại các
doanh nghiệp phi nông nghiệp không có đăng ký, hoặc làm trong các doanh nghiệp có
đăng ký song không tham gia bảo hiểm xã hội). Chỉ số này tiếp tục gia tăng đáng kể,
từ mức 74,8% trong năm 2011 lên 78% trong năm 2012 (Nguyễn Thắng và Phạm
Minh Thái, 2012). Số liệu 6 tháng đầu năm 2013 cho thấy tỷ lệ về việc làm phi chính
thức là 81,8%, trong đó tỷ lệ việc làm phi chính thức của nam giới cao hơn nữ giới
với các tỷ lệ tương ứng là 82,4% và 81,1%. Do Điều tra lao động việc làm chỉ hỏi các
câu hỏi về việc tham gia bảo hiểm xã hội vào tháng 8 năm 2011, tháng 3 và tháng 10
năm 2012 nên Bảng 4 không có số liệu này cho 6 tháng đầu năm 2011 mà chỉ có số
liệu 6 tháng đầu năm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013. Bắt đầu từ năm 2013, các câu
hỏi về việc tham gia bảo hiểm xã hội sẽ được hỏi cho tất cả các tháng nên bởi vậy
chúng ta sẽ có được thông tin tốt hơn kể từ năm 2013. Số liệu 6 tháng đầu năm 2013
phản ánh thực tế tốt hơn do được hỏi từng tháng thông tin về việc tham gia bảo hiểm
xã hội so với số liệu 6 tháng đầu năm 2012 (chúng tôi tạm sử dụng số liệu về việc
tham gia bảo hiểm xã hội tháng 3/2012 để từ đó suy diễn ra số liệu cho 6 tháng đầu
năm 2012). Do sự suy diễn từ số liệu năm 2012 như vậy nên sự so sánh giữa hai năm
2012 và 2013 chỉ mang tính chất tương đối. Mặc dù vậy, xu hướng lao động ít tham
gia bảo hiểm xã hội đang tăng lên, và điều này tạo ra một thách thức không nhỏ trong
việc đảm bảo an sinh xã hội trong tương lai.
Hình 4: Tỷ lệ lao động không có bảo hiểm xã hội 6 tháng đầu năm 2011-2013 (%)
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu dựa trên số liệu Điều tra Lao động và Việc
làm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013
Số liệu Hình 4 cho thấy, số lao động không tham gia bảo hiểm xã hội đã tăng
đáng kể trong 6 tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012 từ 77,84% lên tới
81,77%. Tỷ lệ này còn tăng nhanh hơn đối với lao động nam giới khi mức tăng lên là
hơn 4,22 điểm phần trăm (từ 78,21% lên 82,42%). Điều này cho thấy có sự dịch
chuyển đáng kể từ việc làm chính thức (có tham gia bảo hiểm xã hội) sang việc làm
phi chính thức (không tham gia bảo hiểm xã hội) trên thị trường lao động.
27
Phân tích tích số liệu Điều tra Lao động và Việc làm cho thấy tỷ trọng của
nhóm lao động dễ bị tổn thương, được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa
bao gồm lao động tự làm và lao động gia đình43
, đã tăng lên từ 61,5% trong 6 tháng
đầu năm 2011 lên 62,5% trong 6 tháng đầu năm 2012 và tiếp tục tăng nhẹ lên 62,7%
trong 6 tháng đầu năm 2013 (trong đó đóng góp chủ yếu là từ lao động tự làm với
mức tăng tương ứng trong các 6 tháng đầu năm lần lượt là 43,3%; 45,3% và 45,5%,
xem Hình 5). Xu hướng tăng lên của chỉ số giữa các 6 tháng đầu năm 2011, 2012 và
2013 là tương đối ổn định bởi lẽ so sánh theo cùng 6 tháng đầu năm sẽ loại bỏ yếu tố
mùa vụ.
Hình 5: Cơ cấu việc làm 6 tháng đầu năm 2011- 2013 (%)
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu trên cơ sở Điều tra Lao Động và Việc làm
Hơn thế nữa, tỷ lệ lao động dễ bị tổn thương này cao hơn đáng kể so với mức
trung bình của thế giới là 50%44
. Một điểm rất đáng chú ý trong Bảng 5 là xu hướng
suy giảm về tỷ lệ của lao động làm công ăn lương trong 6 tháng đầu năm 2011, 2012
và 2013 với các tỷ lệ tương ứng là 35,37%; 34,68% và 34,58%. Đây là một thách thức
không nhỏ đối với việc hoàn thành chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội tới năm 2020 là
lao động làm công ăn lương chiếm khoảng 50% lực lượng lao động có việc làm.
Một số chỉ số khác khá hữu ích liên quan đến tình trạng thất nghiệp, đó là (i) tỷ
lệ thất nghiệp đối với những người trong lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; và (ii)
tỷ lệ thất nghiệp đối với nhóm thanh niên (từ 15 đến 24 tuổi – theo định nghĩa của Tổ
chức lao động quốc tế ILO) cũng có thể được tính toán từ số liệu của Điều tra tra lao
động và việc làm.
Hình 6: Tỷ lệ thất nghiệp và số ngƣời làm việc đối với nhóm dân số từ 15 tuổi trở
Trong thời gian qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu to lớn, đóng
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, phát triển kinh tế,
xóa đói giảm nghèo, là nguồn thu ngoại tệ lớn và góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Mặc dù Việt Nam đã có những thay đổi lớn về cơ cấu kinh tế, lao động, nhưng
đến nay vẫn còn trên 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn. Kinh nghiệm phát triển
25 năm đổi mới cho thấy nếu được quan tâm, đầu tư đúng mức, nông nghiệp sẽ là
động lực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Những thách thức của thế giới như dân số tăng nhanh, biến đổi khí hậu và biến động
giá lương thực,… cũng cho thấy nông nghiệp sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong
tương lai.
1. Những thành tựu nổi bật trong nông nghiệp Việt Nam thời gian qua
Sau 27 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể và
đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở
thành lĩnh vực phát triển thành công nhất của nền kinh tế. Bất chấp những khó khăn
về thị trường, thiên tai và dịch bệnh, nông nghiệp tăng trưởng duy trì ở mức tương đối
khá. Sản xuất nông nghiệp đã tạo ra nguồn cung lương thực thực phẩm dồi dào, đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia. Nhờ vậy, giá nông sản tại Việt Nam, đặc biệt là giá
lương thực được duy trì ở mức thấp, tạo chi phí lao động thấp, thu hút mạnh đầu tư
nước ngoài và đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
Bên cạnh đó, xuất khẩu nông sản tăng liên tục. Việt Nam đã trở thành một
trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về các mặt hàng như: gạo, cao su, cà
phê, hạt tiêu, hạt điều, sản phẩm gỗ và các sản phẩm thủy sản. Trong khi Việt Nam
liên tục thâm hụt thương mại, nông nghiệp là ngành duy nhất có thặng dư xuất khẩu
ròng tăng đều đặn, ngay cả trong thời điểm tăng trưởng kinh tế suy giảm. Thặng dư
xuất khẩu nông nghiệp đã góp phần quan trọng cân bằng cán cân thương mại quốc
gia.
Tăng trưởng nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực đã đóng vai trò quan
trọng nhất trong việc thực hiện thành công xóa đói giảm nghèo trong bối cảnh phần
lớn dân số vẫn sống ở khu vực nông thôn và nông nghiệp là nguồn sinh kế chính của
người dân ở những địa bàn khó khăn. Tỷ lệ giảm nghèo ở Việt Nam liên tục cải thiện
trong suốt thời gian dài với mức giảm ấn tượng khoảng 2%/năm. Đây là nền tảng quan
trọng của ổn định xã hội, an ninh chính trị, đồng thời cũng là đóng góp quan trọng cho
công tác bảo vệ môi trường.
Kể từ năm 2008 đến nay, Việt Nam chứng kiến tình trạng suy trầm của nền
kinh tế do những yếu kém trong quản lý chính sách vĩ mô trong nước và ảnh hưởng
tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới. Trong khó khăn, sản xuất nông nghiệp vẫn
nổi lên như một mảng sáng đáng khích lệ nhất của nền kinh tế. Trước những bất lợi do
thiên tai, dịch bệnh và suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động
sản xuất kinh doanh, ngành nông nghiệp (bao gồm cả trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp và thủy sản vẫn duy trì mức tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011-2012
38
là 3,4%/năm, vượt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm Đại hội Đảng XI đề ra cho ngành là 2,6-
3,0%.
Cũng như các đợt suy thoái kinh tế cuối thập kỷ 1980 và cuối thập kỷ 1990, lần
này nông nghiệp tiếp tục đóng vai trò “phao cứu sinh” cho đất nước vượt qua khó
khăn. Nhờ sản xuất cung ứng đủ lương thực thực phẩm, giúp duy trì ổn định kinh tế -
xã hội. Năm 2011, khi giá lương thực tăng cao (22,82%), thực phẩm tăng (29,34%,)
thì CPI bình quân chung tăng đến 18,58%. Năm 2012, mức tăng CPI của nhóm hàng
lương thực, thực phẩm chậm lại còn 3,26% và 8,14%, kéo mức tăng CPI bình quân
chung xuống 9,21%. Những tháng đầu năm 2013, chỉ số giá lương thực giảm 24,5%
và thực phẩm giảm 35,8%, góp phần kéo CPI tiêu dùng chung giảm 5,6% so với tháng
12/2012 góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát.
Xuất khẩu đóng góp quan trọng trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Trung
bình trong giai đoạn 2011-2012, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu NLTS đạt
18,8%/năm, vượt xa so với chỉ tiêu 6-7% theo kế hoạch phát triển giai đoạn 2011-2015
của Bộ NN&PTNT. Trong khi thương mại Việt Nam thường xuyên nhập siêu thì nông
nghiệp là ngành duy nhất luôn luôn xuất siêu, góp phần đáng kể cải thiện cán cân
thương mại. Năm 2012 là năm đầu tiên sau 20 năm Việt Nam có thặng dư cán cân
thương mại (284 triệu USD)46
chủ yếu nhờ xuất khẩu nông sản và xuất khẩu của các
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xuất khẩu nông sản đạt mức kỷ lục 27,5 tỷ
USD và đạt thặng dư xuất khẩu ròng 10,6 tỷ USD trong năm 2012.
2. Những thách thức đặt ra trong khu vực nông nghiệp
Mặc dù đạt được những thành tựu đáng kể và có đóng góp tích cực cho việc
duy trì ổn định kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2010 - 2012, nhưng tăng trưởng nông
nghiệp vẫn chủ yếu dựa trên việc khai thác tài nguyên thiên nhiên (tăng diện tích đất,
thâm dụng nước tưới để tăng vụ,…) cùng mức sử dụng vật tư đầu vào cao nhưng hàm
lượng đổi mới công nghệ và thể chế thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp được biểu hiện
ở mức tổn thất sau thu hoạch cao, chất lượng sản phẩm không đồng đều, vệ sinh an
toàn thực phẩm không đảm bảo, khả năng tạo giá trị mới thấp. Vì vậy, sau một thời
gian dài khởi sắc, tăng trưởng nông nghiệp đã bắt đầu chững trong thời gian gần đây,
giảm từ 4,5% năm 1995-2000 xuống còn 3,8% giai đoạn 2000-2005; rồi 3,4% giai
đoạn 2006-2011 và chỉ còn 2,7% trong năm 2012.
Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông nghiệp diễn ra chậm, chưa thực sự phản ánh
lợi thế so sánh và chưa đáp ứng triển vọng nhu cầu trong tương lai. Trồng trọt vẫn
chiếm trên 50% cơ cấu nội ngành nông nghiệp, trong đó lúa gạo vẫn chiếm tỷ trọng
chính. Tuy chiếm phần lớn diện tích cây hàng năm nhưng hiệu quả kinh tế của cây lúa
đem lại không cao, vì vậy đã xuất hiện tình trạng nông dân không thiết tha với đất lúa,
không thâm canh tăng vụ nhất là ở Đồng bằng sông Hồng. Ngành thủy sản và ngành
chăn nuôi phát triển nhanh, song thiếu bền vững. Năng suất vật nuôi còn thấp, giá thành
chăn nuôi cao, thức ăn chăn nuôi phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu, mô hình chăn nuôi
công nghiệp chưa phát triển, khả năng kiểm soát dịch bệnh còn yếu, kiểm soát thị
trường và tổ chức kinh doanh kém… làm nhiều hộ nuôi thủy sản ở Đồng bằng Sông
Cửu Long treo ao, nhiều hộ chăn nuôi bỏ chuồng.
46 Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2012– Tổng cục Thống Kê
39
Sản xuất nông nghiệp Việt Nam đang xuất hiện những khó khăn ngày càng
trầm trọng do nhiều thách thức mới xuất hiện. Một số thách thức mà ngành nông
nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt có thể kể đến như:
Khả năng tái sản xuất mở rộng của nông dân giảm sút.
Nông nghiệp đang tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn. Kinh tế thế giới và
trong nước chưa thể nhanh chóng hồi phục trong năm nay và năm tới. Các ngân hàng
khó khăn vì nợ xấu, doanh nghiệp chậm tiếp cận nguồn vốn khiến lợi nhuận giảm phải
cắt giảm sản xuất. Kinh tế tăng trưởng chậm, nhu cầu tiêu dùng trên thị trường giảm
làm giá nông sản giảm trong khi giá vật tư, nhiên liệu vẫn tăng. Sản xuất nông nghiệp
tăng trưởng chậm, kinh tế nông thôn đình trệ, việc làm và thu nhập trong nền kinh tế
khó khăn sẽ tiếp tục ảnh hưởng xấu đến thu nhập của nông dân. Trong hoàn cảnh đầu
tư cho nông nghiệp không cải thiện, khả năng tái sản xuất mở rộng kém đi. Những vấn
đề suy thoái, bất ổn có khả năng lan từ lĩnh vực kinh tế sang xã hội và môi trường làm
bất ổn chính trị và xã hội từ nông thôn lan ra thành thị.
Rủi ro trong sản xuất nông nghiệp tăng.
An ninh sinh học đang trở thành vấn đề quan trọng. Trong năm 2013 Trung
Quốc đã đối mặt với chủng virus cúm gà H7N9 là loại virus cúm gia cầm mới vừa được
phát hiện có khả năng lây từ gia cầm sang người và có tỉ lệ tử vong cao, trong khi chủng
H5N1 vẫn xuất hiện và gây tử vong ở Việt Nam. Với sự biến đổi của các chủng virus
mới và khả năng lây nhiễm từ các nước xung quanh, nguy cơ phát sinh các đợt dịch
khác cho gia súc, gia cầm rất lớn và không loại trừ khả năng lây lan sang người. Tương
tự như vậy, bệnh dịch đối với thủy sản bùng phát trên tôm vừa qua gây tổn thất lớn cho
người nuôi. Mặc dù từ đầu năm 2012, các cơ quan chức năng của Bộ Nông nghiệp và
các địa phương đã quyết liệt nghiên cứu, làm rõ nguyên nhân của dịch bệnh trên tôm
(bệnh teo gan tôm) nhưng đến nay chưa được giải quyết triệt để, người nuôi vẫn chịu
thiệt hại lớn. Đồng thời, giá cá tra xuất khẩu biến động thất thường, nhu cầu nhập khẩu
của thị trường chính (EU và Mỹ) bị sụt giảm mạnh, sản lượng tồn kho lớn, người dân
giảm đầu tư sản xuất. Ngoài ra, các bệnh dịch khác trên thủy sản, cây trồng thời gian tới
sẽ có nhiều diễn biến phức tạp.
Do rừng bị phá hoại nhiều, các công trình thủy điện, các khu khai thác khoáng
sản không đi kèm khôi phục môi trường đã làm nặng nề hơn thiệt hại bão, lũ, hạn hán
thời gian gần đây. Cùng với quá trình biến đổi khí hậu, tình trạng thiên tai trong tương
lai sẽ diễn ra ngày căng tăng với nhiều diễn biến phức tạp hơn. Tình trạng sạt lở, lũ
lụt, ngập mặn, hạn hán tại một số vùng sẽ xảy ra với mức độ nghiêm trọng hơn ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân. Các biểu hiện thời
tiết cực đoan có nhiều khả năng gây ảnh hưởng tiêu cực cho sản xuất nông nghiệp.
Trong thời gian gần đây, tuy kinh tế suy thoái nhưng tình trạng mất đất sản
xuất nông nghiệp vẫn diễn ra với tốc độ cao. Trong khi hệ thống luật lệ quản lý tài
nguyên đất, nước, sinh học chậm được cải thiện thì các nhu cầu của quá trình CHN-
ĐTH, bối cảnh biến đổi khí hậu và nguy cơ cạnh tranh, tranh chấp ngày càng gay gắt.
Các nguồn tài nguyên phục vụ sản xuất nông nghiệp như đất, nước, sinh học... sẽ tiếp
tục căng thẳng trong tương lai giữa nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, giữa nông
thôn và đô thịvà giữa các quốc gia lân cận.
Tình trạng thiên tai trong tương lai sẽ diễn ra ngày căng tăng với nhiều diễn
biến phức tạp hơn. Tình trạng sạt lở, lũ lụt, ngập mặn, hạn hán tại một số vùng sẽ xảy
40
ra với mức độ nghiêm trọng hơn ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và sản
xuất của người dân. Các biểu hiện thời tiết cực đoan có nhiều khả năng gây ảnh hưởng
tiêu cực cho sản xuất nông nghiệp.
Ô nhiễm và nguy cơ gây suy thoái môi trường.
Tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua lạm dụng phân bón, hóa
chất bảo vệ, thuốc thú y, chất kích thích tăng trưởng,… gây tác động xấu đến môi
trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tính trạng
ô nhiễm môi trường nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời sẽ mang lại những
hậu quả hết sức nghiêm trọng, đe dọa sản xuất trong nước và khả năng cạnh tranh của
nông sản Việt Nam trên thị trường.
Quản lý tài nguyên nước mặt và nước ngầmlãng phí, áp dụng các biện pháp
canh tác cũ và kém tận dụng phụ phẩm nông nghiệp là nguyên nhân gây ra ô nhiễm
cục bộ cũng như tăng phát thải khí nhà kính.
Kinh tế nông thôn, với việc phát triển làng nghề, tiểu thủ công nghiệp và công
nghiệp địa phương mà không quản lý môi trường tốt đang gây nguy cơ làm ô nhiễm
môi trường nông thôn.
Việc việc phá rừng bừa bãi, săn bắt khai thác cạn kiệt động vật hoang dã và tận
thu nguồn lợi thủy sản bằng các phương pháp đánh bắt hủy diệt đã làm mất cân bằng
sinh thái, suy giảm đa dạng sinh học, hủy hoại khả năng tái tạo và phòng chống thiên tai
của tự nhiên.
Xu hướng phát triển bừa bãi các khu công nghiệp ở các địa phương, buông
lỏng quản lý chất thải công nghiệp, phát triển thủy điện nhỏ và khai thác đất đá,
khoáng sản bừa bãi trực tiếp làm suy thoái môi trường, gây nguy hiểm cho sinh kế và
phá hoại rừng, hủy hoại môi trường sống bền vững của người dân nông thôn.
Các nước trong khu vực đầu tư phát triển nông nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh
Tại Thái Lan, chính phủ đầu tư rất mạnh cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là
lúa gạo và trái cây. Trong năm tài khóa 2012, chính phủ Thái Lan đã chi cho chương
trình trợ giá gạo khoảng 3,5% GDP. Nông dân trồng lúa còn được hưởng những chính
sách hỗ trợ khác như: được mua phân bón với giá thấp và miễn cước vận chuyển phân
bón, được cung cấp giống mới có năng suất cao. Ba chương trình lớn nhằm hỗ trợ nông
nghiệp của Thái Lan gồm có: (i) Chương trình hoãn nợ cho nông dân vay tiền của Ngân
hàng nông nghiệp; (ii) Chương trình “Mỗi làng một triệu bath”; (iii) Chương trình “Mỗi
làng một sản phẩm”.
Tại Trung Quốc, năm 2006, Chính Phủ xoá bỏ thuế nông nghiệp đã tồn tại 2
600 năm, cắt giảm 15 tỷ USD gánh nặng thuế của nông dân. Từ đó đến nay, mức trợ
cấp cho nông nghiệp, đầu tư cho nông thôn của Trung Quốc tăng rất mạnh hàng năm,
tạo nên tiềm lực mới cho khoa học công nghệ và kết cấu hạ tầng sản xuất. Đời sống
nông thôn Trung Quốc thực sự thay đổi mạnh. Đồng thời, dưới áp lực về lương thực,
Trung Quốc đã khích lệ các doanh nghiệp hướng ra các nước khác để thuê đất nông
nghiệp sản xuất. Theo ước tính, hiện có hơn 40 Công ty nông nghiệp Trung Quốc hoạt
động ở 30 nước trên cả 5 châu lục. Các trang trại này sản xuất các thực phẩm mà
Trung Quốc đang thiếu như gạo, đậu tương, ngô… Không chỉ thuê, đi liền sau các
hợp đồng thuê đất ở khắp 5 châu là dòng người Hoa được đưa tới đó để làm việc.
41
Tại Indonesia, Cơ quan hậu cần quốc gia (Bulog) gần đây đã tăng cường thu
mua lúa gạo trong nước nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Indonesia tăng đầu tư cho
nông nghiệp và trợ cấp cho người trồng lúa, hỗ trợ kỹ thuật, công cụ và vật tư, dịch vụ
cho nông dân, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư nông nghiệp, chú trọng xây dựng
hệ thống thủy lợi, cung cấp thông tin dự báo thời tiết… cho người sản xuất. Chính phủ
sẽ cấp 10.000 ha đất sạch đối với doanh nghiệp đầu tư nông nghiệp đưa ra dự án khả
thi. Indonesia cũng kêu gọi doanh nghiệp bảo hiểm tham gia lĩnh vực bảo hiểm
Tại Philippines, Chính Phủ nỗ lực trong việc đảm bảo lúa gạo cho toàn dân trong
thời gian tới. Ngoài ra, Chính Phủ Philippines cũng đặt ra mục tiêu xuất khẩu 100 tấn
gạo chất lượng cao trong năm 2013. Chính phủ Philipppines dự kiến sẽ tăng 22% ngân
sách dánh cho nông nghiệp nhằm tăng cường mạng lưới giao thông và hệ thống tưới
tiêu. Để thực hiện những mục tiêu trên, Bộ Nông nghiệp Philippines đã ban hành
chương trình cung cấp giống chất lượng cao đồng thời cấp bảo hiểm rủi ro thiên tai cho
nông dân trồng lúa.
Các nước khác trong vùng như Lào, Campuchia, Mianma cũng có bước phát
triển mạnh trong việc cải tổ hệ thống tổ chức và chính sách phát triển nông nghiệp
nông thôn.
Suy thoái kinh tế thế giới, nhu cầu thị trường thế giới sụt giảm đối với một số
mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, doanh nghiệp tiếp tục gặp
khó khăn
Trong thời gian gần đây, kinh tế tăng trưởng chậm, nhu cầu tiêu dùng trên thị
trường thế giới giảm, làm giá nông sản xuất khẩu của Việt Nam giảm. Từ giữa năm
2012 cho đến tháng 6/2013, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chính đều giảm giá. Kim
ngạch xuất khẩu các nông sản chính trong 6 tháng đầu năm 2013 giảm 10,5% so với
cùng kỳ năm 2012. Trong tháng 6 năm 2013, giá cao su giảm 19,3%; giá hạt điều giảm
14,8%; giá gạo giảm 12,8%; giá hạt tiêu giảm 10,2%; giá thủy sản giảm 2,9% so với
cùng kỳ năm trước47
. Trong khi đó, do kinh tế trong nước khó khăn, sức mua trong
nước giảm. Giá nông sản thấp một mặt góp phần quan trọng giữ lạm phát ở mức thấp
nhưng mặt khác làm giảm đáng kể thu nhập của nông dân.
Trong khi đó, giá các vật tư đầu vào chính của sản xuất nông nghiệp như phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật và thú y, thức ăn gia súc và thủy sản, nhiên liệu,
điện,…vẫn tiếp tục tăng. Trong quý II năm 2013, giá xăng đã tăng 10% so với cùng
kỳ; giá điện tăng 5% từ ngày 1/8/2013. Ngân hàng tiếp tục gặp khó khăn vì nợ xấu
(chiếm 4,7% tổng dư nợ vào cuối tháng 5 năm 201348
) đã siết chặt tín dụng và giữ
mức lãi suất rất cao kéo dài (phổ biến trong khoảng 13,5% đến 17,5%49
). Nhiều doanh
nghiệp và hộ nông dân không vay được vốn, buộc phải cắt giảm sản xuất, khiến lợi
nhuận giảm. Trong chăn nuôi, do dịch bệnh và làm ăn thua lỗ, nhiều doanh nghiệp, hộ
sản xuất phá sản. Tổng số đàn trâu của cả nước trong tháng 7 năm 2013 giảm 2,5%;
đàn bò giảm 3%; đàn lợn giảm 1,5%, gia cầm giảm 2% so với cùng kỳ năm 2012 50
.
Một số sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu có dịp tràn vào thị trường nước ta. Trong
ngành thủy sản cũng diễn ra tình trạng nhiều doanh nghiệp, hộ nuôi trồng thủy sản phá
47 Tính toán từ số liệu xuất nhập khẩu 6 tháng năm 2013 của Tổng cục Thống kê. 48 Ngân hàng Nhà nước 49 Ngân hàng Nhà nước 50 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch 7 tháng đầu năm 2013 ngành
Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
42
sản do bệnh dịch, cạnh tranh thương mại gay gắt chính ngay giữa các doanh nghiệp
trong nước. Các ngư dân hoạt động trên biển còn gặp khó khăn vì tầu nước ngoài xua
đuổi, uy hiếp, bắt giữ. Thêm vào đó là các rào cản thương mại tại các thị trường xuất
khẩu. Ước tính, hiện đã có hơn 80% doanh nghiệp thủy sản mới thành lập trong 5 năm
gần đây sắp phá sản.Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2012 đạt khoảng
6,15 tỷ USD, tăng 0,7% so với năm 2011 nhưng chỉ bằng 94,2% so với kế hoạch. Ước
tính 6 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản tương đương cùng kỳ năm ngoái.
Kinh tế thế giới và trong nước chưa thể nhanh chóng hồi phục trong năm nay
và năm tới. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng chậm. Trong hoàn cảnh đó, đầu tư cho
nông nghiệp không cải thiện (tỷ lệ vốn đầu tư cho nông lâm thủy sản trong tổng vốn
đầu tư xã hội có xu hướng giảm từ 13,9% năm 2000 còn 6,6% vào năm 201151
). Nếu
nông nghiệp tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn như trước thì khả năng tái sản
xuất mở rộng của ngành sẽ sụt giảm nghiêm trọng.
Do hiệu quả thấp, nông nghiệp giảm dần vai trò trong cơ cấu thu nhập của gia
đình nông thôn. Trên toàn quốc lao động nông thôn bỏ sản xuất nông nghiệp đi tìm
việc phi nông nghiệp ở ngay nông thôn hoăc tại thành phố, thậm chí tìm cách đi làm ở
ngoài nước. Do trình độ thấp, thiếu thông tin, không có tổ chức, đa sống lao động từ
nông thôn ra chủ yếu tham gia “thị trường lao động phi chính thức” (xe ôm, cửu vạn,
thợ xây, đồng nát, ô sin,…) rủi ro cao, thu nhập thấp, điều kiện làm việc khó khăn,
điều kiện sinh hoạt bất thuận. Một số nơi ở đồng bằng sông Hồng, nông dân đã trả
ruộng lại cho nhà nước. Ở các vùng khác, hàng loạt nông dân bỏ đất không canh tác
hoặc giảm vụ gieo trồng.
3. Đề xuất cho bƣớc phát triển mới
Mặc dù, nhu cầu tiêu dùng chung trên thế giới đang chững lại trong điều kiện
khủng hoảng kinh tế thế giới trước mắt, nhưng nhìn lâu dài, nông sản với chất lượng
cao đảm bảo vệ sinh an toàn luôn luôn có thị trường và giá tốt. Trong vài chục năm
tới, cả thị trường trong nước và xuất khẩu đều có triển vọng tốt cho sản xuất nông
nghiệp.Trong bối cảnh hội nhập ngày càng đẩy mạnh, một khi sản xuất nông nghiệp
chuyển sang hướng có giá trị gia tăng cao và chất lượng tốt thì cơ hội để Việt Nam
liên kết với các doanh nghiệp và quốc gia khác để mở rộng thị trường nông sản là rất
to lớn. Đến năm 2015, AFTA sẽ phát huy hết tác dụng, hiệp định TPP đang đàm phán
cũng đang mở ra những thời cơ mới.
Các tiến bộ kỹ thuật được áp dụng ngày càng rộng rãi trong sản xuất nông
nghiệp đem lại năng suất vật nuôi cây trồng và năng suất lao động ngày càng cao, mở
ra khả năng chống chịu thích nghi tốt với các bất lợi của môi trường, thực sự sẽ là
nguyên liệu quan trọng để xây dựng một cơ cấu nông nghiệp hiện đại.
Việc đương đầu với những khó khăn thách thức và khai thác các thời cơ thuận
lợi trên gắn chặt với năng lực đổi mới cơ cấu ngành sản xuất nông nghiệp của Việt
Nam ngay trong năm 2013 và các năm tới. Một mặt là triển vọng thay đổi tình hình
một cách căn bản chẳng những đối với ngành nông nghiệp và với cả nền kinh tế nước
nhà, mặt khác là nguy cơ bất ổn về chính trị xã hội và suy thoái môi trường nếu ngành
nông nghiệp tiếp tục giảm tăng trưởng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã chủ động chuẩn bị Đề án tái cơ
cấu ngành, theo tầm nhìn “tái cơ cấu nền kinh tế” của Nghị quyết Đại hội Đảng lần
51 Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê
43
thứ 11. Đây là bộ ngành đầu tiên trình Đề án tái cơ cấu ngành và đã được Thủ tướng
phê duyệt. Mục tiêu chính của công tác tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm hướng tới
phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững có hàm lượng khoa học công nghệ cao, cơ
giới hóa cao, tạo ra giá trị cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn
quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện thu nhập nông dân, gắn với kinh tế
nông thôn phát triển năng động và đa dạng. Để phục vụ mục tiêu này, Bộ Nông
nghiệp đã đề xuất các định hướng tái cơ cấu ngành như sau:
Chuyển từ sản xuất các nông sản có giá trị thấp và tiềm năng thị trường hẹp
sang các sản phẩm có giá trị cao và tiềm năng thị trường lớn; chuyển từ tập trung đầu
tư vào các công đoạn sản xuất sang đầu tư cả cho những khâu tạo giá trị gia tăng trong
chuỗi giá trị sau thu hoạch; chuyển từ chỉ thúc đẩy sản xuất, kích cung sang hỗ trợ
cầu; chuyển từ nông nghiệp thâm dụng tài nguyên sang nông nghiệp thâm dụng khoa
học công nghệ, huy động tài nguyên con người; chuyển từ nông hộ tiểu nông sang
phát triển kinh tế hợp tác, chuyên môn hóa cao, gắn kết cả ngành hàng tại các vùng
chuyên canh.
Sau 25 năm đổi mới, nông nghiệp Viêt Nam đã đạt được những thành tựu đáng
ghi nhận và đã giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Nền
nông nghiệp vẫn phát triển trước biến động của thị trường, thiên tai bệnh dịch xảy ra
thường xuyên. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rõ là các động lực cho tăng trưởng
nông nghiệp trong thời gian qua đã không còn hoặc đang cạn kiệt dần. Nguồn tài
nguyên thiên nhiên, yếu tố quan trọng cho tăng trưởng nông nghiệp thời gian qua
đang bị suy giảm trầm trọng trong khi bản thân ngành nông nghiệp đang và sẽ phải
đối mặt với tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị thường thế giới và ngay
chính trong đất nước mình. Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết hơn bao giờ hết cho
những giải pháp phát triển ngành nông nghiệp với khả năng cạnh tranh cao song song
với phát triển bền vững.
Trước mắt, cần trợ giúp các hộ chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản đang gặp khó
khăn để có thể giữ vững ao nuôi và đầu tư tái đàn bằng hỗ trợ tài chính, giãn nợ,...;
đồng thời cần có giải pháp để trợ giúp các doanh nghiệp nông thôn còn hoạt động duy
trì và khôi phục sản xuất thông qua các giải pháp tài chính.
Nhanh chóng đưa các nguồn tài nguyên đang bị bỏ phí vào sản xuất nông
nghiệp như đất ở các khu dự án công nghiệp thuộc dạng quy hoạch treo; khôi phục
ngay các công trình thủy lợi tại các công trình thủy điện và khai khoáng không hiệu
quả; huy động vật tư tồn kho (xi măng, sắt…) để xây dựng, phát triển giao thông nông
thôn và thủy lợi nhỏ trong chương trình nông thôn mới…
Tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân (cả trong và ngoài nước) đầu tư
vào NN &PTNT, chuyển các hoạt động quan trọng mà trước đây nhà nước vẫn đầu tư
hoàn toàn sang hợp tác công tư. Các hoạt động đề xuất là: sản xuất công nghệ cao, áp
dụng tiêu chuẩn sản phẩm quốc tế, phát triển nguồn nhân lực, thông tin thị trường,
quản lý rủi ro, vận hành và bảo trì hệ thống thủy lợi, quản lý cơ sở hạ tầng nông thôn,
nghiên cứu ứng dụng nông nghiệp, dịch vụ khuyến nông, dịch vụ thú y, quản lý tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường, tài chính nông thôn và bảo
hiểm nông nghiệp.
Nhóm giải pháp quan trọng nhất, cần tập trung sức để giải quyết là đẩy mạnh
triển khai tái cơ cấu ngành:
44
Phát triển khoa học công nghệ: tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức KHCN nông
nghiệp theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm; huy động sự tham gia của tất cả các
thành phần kinh tế vào các hoạt động KHCN nông nghiệp; phân cấp, phân quyền
mạnh mẽ hoạt động khuyến nông cho các tổ chức nông dân và doanh nghiệp, tăng
kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ và khuyến nông, đẩy mạnh triển khai cơ chế
đấu thầu các đề tài nghiên cứu.
Tập trung đầu tư kết hợp cải tiến tổ chức, phát triển toàn diện toàn bộ chuỗi
ngành hàng (từ sản xuất, chế biến đến buôn bán) đối với những ngành có lợi thế như
lúa gạo, các da trơn ở ĐBSCL, cây công nghiệp ở Tây Nguyên,... tại các vùng chuyên
canh sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu trọng điểm (theo mô hình cánh đồng mẫu
lớn, cánh đồng liên kết,…). Ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng, hệ thống dịch vụ phục vụ
sản xuất kinh doanh và hệ thống kho tàng, chế biến, vận chuyển, tiếp thị, … nhằm
nâng cao giá trị gia tăng và giảm giá thành nông sản.
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm nhằm phát hiện kịp thời các loại bệnh dịch
nguy hiểm, nâng cao năng lực dự báo khí tượng thủy văn nhằm ứng phó với biến đổi
khí hậu, hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường làm cơ sở cho công tác điều hành và
dự báo thị trường. Tiến hành bảo hiểm sản xuất nông nghiệp
Cải cách và tăng cường vai trò của hội nông dân, vai trò của các hiệp hội ngành
hàng và các HTX nông nghiệp. Nâng cao vai trò của các tổ chức này trong việc cung
cấp các dịch vụ công. Nâng cao vai trò giám sát của cộng đồng đối với các dịch vụ
công và các hoạt động sử dụng nguồn lực chung. Cải cách thủ tục hành chính, tập
trung hoạt động của Nhà nước vào những hoạt động quản lý chính (chính sách, quy
hoạch, tiêu chuẩn..). Xóa bỏ cơ chế xin cho, chuyển sang đối tác khách hàng trong
quản lý NN và giao thêm quyền tự chủ cho người dân cho PTNT đặc biệt trong NTM
Xử lý dứt điểm, cổ phần hóa và sắp xếp lại các doanh nghiệp nông lâm nghiệp
nhằm cải thiện hiệu quả sử dụng đất bằng cách làm rõ đối tượng quản lý và sử dụng
có hiệu quả cao nhất.
Trước tình hình suy giảm của sản xuất nông nghiệp và xáo trộn trong kết cấu nông
thôn, đã đến lúc phải có quyết tâm chính trị cao để kiên quyết tái cơ cấu lại ngành nông
nghiệp, ưu tiên phát triển nông thôn, phát huy vai trò chủ thể của nông dân. Đây là những
mục tiêu quan trọng để ổn định chính trị xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng và mở đường
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục đi lên.
Đây là những bước đột phá ban đầu để tiếp tục duy trì bằng được điểm sáng
nông nghiệp nông thôn của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh khó khăn hiện nay.
Tuy nhiên để thực sự khai tác tiềm năng to lớn của nông nghiệp nông thôn Việt Nam
thực sự trở thành lợi thế đưa Việt Nam quay trở lại mức phát triển hiệu quả và vững
bền để có thể cất cánh công nghiệp hóa thì cần phải tiến hành tái cơ cấu kiên quyết và
triệt để của toàn nền kinh tế.Tư duy cũ phải được đổi mới, cách làm cũ phải được thay
đổi để tạo ra được động lực đúng hướng cho mọi đối tượng trong xã hội từ nhà lãnh
đạo đến người nông dân.
Nếu như công cuộc đổi mới 27 năm trước đã thay đổi tư duy, thực hiện những
cải cách quan trọng về đổi mới quan hệ sản xuất ở cơ sở, trao quyền cho người sản
xuất, kinh doanh, để cơ chế thị trường điều hành hàng hóa và dịch vụ thì có lẽ công
cuộc đổi mới hôm nay đòi hỏi những đột phá trong tư duy và đổi mới chính sách, chủ
trương lớn cả ở cơ sở và ở trung ương để trao quyền cho nhà khoa học, cho người
45
quản lý, để cơ chế thị trường vận hành hiệu quả với các tài nguyên quan trọng như đất
đai, tiền vốn, lao động, khoa học công nghệ,…
46
QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG VÀNG:
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM52
TS. Tô Ánh Dƣơng
Viện Kinh tế Việt Nam
1. Kinh nghiệm quản lý thị trƣờng vàng của Trung Quốc
Tại Trung Quốc, hoạt động kinh doanh vàng được thống nhất quản lý bởi đầu
mối duy nhất là Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (People‟s Bank of China-PBOC –
Ngân hàng Trung ương của Trung Quốc). Trong giai đoạn từ năm 1949 đến 2001,
Trung Quốc thực hiện kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, PBOC đóng vai
trò độc quyền thị trường vàng trong nước. Tuy nhiên, cùng với việc tự do hóa thị
trường tài chính, Trung Quốc đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc tự do hoá
từng bước thị trường vàng. Về cơ bản, kế hoạch tự do hoá thị trường vàng của Trung
Quốc cũng bao gồm 3 giai đoạn như nhiều nước khác, đó là: (i) Giai đoạn 1: Xoá bỏ
chế độ độc quyền kinh doanh vàng và cơ chế kiểm soát giá, đồng thời thành lập Sở
giao dịch vàng Thượng Hải; (ii) Giai đoạn 2: Từng bước xoá bỏ cơ chế cấp phép đối
với hoạt động sản xuất, bán buôn và bán lẻ vàng, bước đầu là đối với hoạt động bán
lẻ, sau đó cho phép cá nhân được tham gia giao dịch vàng miếng; (iii) Giai đoạn 3:
Xoá bỏ từng bước chế độ quản lý xuất nhập khẩu vàng. Trên cơ sở các bước nêu trên,
PBOC đã ban hành các quy định theo hướng nới lỏng quản lý hoạt động kinh doanh
vàng. Dưới đây là những mốc quan trọng trong tiến trình tự do hoá thị trường vàng
của Trung Quốc.
- Giai đoạn 1991-2000: Trước năm 1991, tại Trung Quốc, nhu cầu tiêu thụ
vàng phát triển chậm, chỉ vào khoảng 80 tấn/năm, rất thấp nếu tính theo đầu người.
Trong giai đoạn 1991-2000, nhu cầu tiêu thụ vàng bắt đầu tăng mạnh và đạt mức
trung bình 270 tấn/năm do những cải cách kinh tế và bắt đầu quá trình tự do hóa. Tuy
nhiên, thị trường vàng vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước từ khâu sản xuất
cho đến khâu phân phối bán lẻ. Trong giai đoạn này, PBOC hoàn toàn độc quyền thị
trường vàng trong nước từ khâu khai thác, tinh chế, gia công lẫn hoạt động mua bán,
xuất nhập khẩu vàng. Cụ thể, các công ty khai thác vàng sau khi tinh chế thành vàng
miếng phải bán lại cho các chi nhánh của PBOC, sau đó PBOC sẽ bán lại cho các
công ty vàng bạc đá quý chuyên gia công vàng trang sức. Các công ty này sau đó
được phép bán vàng trang sức cho dân chúng. Các hãng kinh doanh vàng trang sức chỉ
được phép mua vàng nguyên liệu từ PBOC và bán nhưng không được phép mua lại
vàng trang sức từ dân chúng. Người dân muốn bán vàng trang sức để lấy tiền mặt sẽ
bán tại các chi nhánh của PBOC. Ngoài ra, giá cả mua bán vàng đều phải áp dụng giá
do PBOC quy định. PBOC quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng dưới dạng cấp
phép xuất nhập khẩu cho các công ty được phép với số lượng tuỳ vào từng thời điểm.
Nhờ đó mà NHTW kiểm soát được số lượng vàng trong nước. Tuy nhiên, do giá vàng
mua vào mà Nhà nước quy định thường thấp hơn nhiều so với vàng bán ra nên đã
hình thành thị trường mua bán vàng ngầm trong dân cư. Mặt khác, cơ chế độc quyền
trong phân phối và kiểm soát giá đã làm cho giao dịch trên thị trường bị méo mó, giá
52 Bài viết là một trong những kết quả nghiên cứu về đô la hóa, vàng hóa do Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam thực hiện. Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Dự án “Hỗ trợ nâng cao
năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mô” đã tài trợ, hỗ trợ kỹ thuật, và góp ý cho
Nghiên cứu này.
47
cả không tuân theo quy luật cung cầu trong khi nhu cầu vàng người dân lại ngày càng
cao. Tình trạng này làm tăng lượng vàng nhập lậu kém chất lượng từ các nước có
chung đường biên giới với Trung Quốc. Nhận thấy tình hình tiêu cực trên, NHTW
Trung Quốc đã đổi mới, từng bước xóa bỏ cơ chế độc quyền trong sản xuất, kinh
doanh và phân phối vàng.
- Giai đoạn từ 2001-2006: Năm 2001 là năm Trung Quốc trở thành thành viên
chính thức của WTO. Đồng thời, năm 2001 cũng là mốc quan trọng trong việc tự do
hoá thị trường vàng của Trung Quốc. Tháng 4/2001, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa
lần đầu tiên chính thức công bố kế hoạch xoá bỏ cơ chế quản lý độc quyền trong mua
và phân phối vàng, bãi bỏ việc kiểm soát và ấn định giá vàng cũng như giảm thuế
suất. Hiệp Hội Vàng Trung Quốc (CGA) và Sở/Sàn giao dịch vàng Thượng Hải
(Shanghai Gold Exchange - SGE) được thành lập. Đây được coi là bước đột phá trong
chính sách quản lý thị trường vàng của Trung Quốc sau hơn 50 năm thực hiện kiểm
soát chặt chẽ. Đặc biệt, vào tháng 11/2001 Trung Quốc đã xoá bỏ chế độ cấp phép đối
với hoạt động sản xuất, bán buôn và bán lẻ vàng trong nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài vẫn chưa được phép tham gia vào lĩnh vực này.
Hoạt động của Sở giao dịch vàng Thượng Hải (SGE)
Để quản lý thị trường vàng hiệu quả mà vẫn đảm bảo nhu cầu kinh doanh vàng
bạc của dân chúng, Trung Quốc đã thành lập Sở giao dịch vàng Quốc gia vào tháng
11/2001, hoạt động độc lập như một Sở giao dịch Chứng khoán. Sở giao dịch vàng
Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange – SGE) là pháp nhân độc lập do Nhà nước
đầu tư vốn 100% (vốn điều lệ đăng ký là 30.000.000 RMB, tương đương khoảng 4,2
triệu USD), thời gian hoạt động là 50 năm. Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa là cơ
quan quản lý, giám sát toàn bộ hoạt động của SGE. Hội đồng quản trị của Sàn do
NHTW tiến cử, hầu hết các vị trí quan trọng và chủ chốt trong Ban Quản trị của Sàn
đều do NHTW bổ nhiệm. SGE có chế độ báo cáo thường xuyên và đột xuất lên cho
NHTW nhờ đó mà NHTW Trung Quốc vẫn giữ được quyền chủ động trong mọi quyết
định của SGE. Trong trường hợp hết thời gian hoạt động đã được đăng ký (50 năm)
mà Hội đồng thành viên không quyết định tiếp tục hoạt động hoặc trong trường hợp
sáp nhập, chia tách Sở thì PBOC là cơ quan phê duyệt và chấp thuận phương án đóng
cửa SGE. Như vậy, PBOC đóng vai trò quản lý và chi phối mọi quyết định của SGE
thông qua việc quản lý việc tham gia của các thành viên và tham gia bộ máy nhân sự
chủ chốt điều hành Sở (cử người tham gia Hội đồng Quản trị, tiến cử Chủ tịch và các
Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị, bổ nhiệm Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám
đốc). Nhờ đó, mặc dù có sự tham gia của các thành viên nhưng PBOC vẫn giữ được
vai trò quản lý mọi quyết định của SGE nhằm bảo đảm SGE hoạt động minh bạch,
hiệu quả dưới sự kiểm soát của Ngân hàng Trung ương.
Vào tháng 10/2002, Sở giao dịch vàng Thượng Hải chính thức đi vào hoạt
động. Đây là sàn vàng vật chất giao ngay (spot gold). Sản phẩm được phép giao dịch
lúc đầu là vàng miếng đạt tiêu chuẩn quốc tế, sau đó mở rộng sang các kim loại quý
khác như bạch kim và bạc. Để thực hiện giao dịch vàng vật chất, SGE có hệ thống
thành viên là các công ty cung cấp dịch vụ lưu kho, bảo quản và giao nhận vàng. Ban
đầu, chỉ nhà đầu tư là tổ chức mới được phép tham gia giao dịch trên SGE, nhà đầu tư
cá nhân chưa được phép tham gia. SGE có hệ thống thành viên là các tổ chức kinh tế
trong nước, gồm: các công ty kinh doanh vàng (công ty khai thác, chế tác, xuất nhập
khẩu vàng); các định chế tài chính và các thành viên chủ chốt. Các thành viên này là
các nhà tạo lập thị trường, tham gia giao dịch, làm đại lý nhận lệnh, thực hiện chức
48
năng ngân hàng thanh toán hoặc cung cấp dịch vụ kho bãi, giao nhận. Tại thời điểm đi
vào hoạt động, SGE có 108 thành viên.
Theo số liệu thống kê trên website của Sở giao dịch vàng Thượng Hải, giá
vàng giao dịch trên SGE (đơn vị CNY/g) tương đối sát với giá thế giới (đơn vị
USD/ounce) nếu cộng cả thuế và các chi phí nhập khẩu. Trong khi hoạt động xuất
nhập khẩu vàng đang bị quản lý dưới dạng cấp phép, giá vàng trong nước có sự liên
thông với giá vàng thế giới chứng tỏ PBOC có cơ chế quản lý linh hoạt trong việc cho
phép các đơn vị xuất hoặc nhập khẩu vàng khi có chênh lệch giá. Ngoài ra, cũng có
khả năng PBOC trực tiếp mua bán can thiệp thị trường nhằm bình ổn giá, hạn chế tình
trạng buôn lậu vàng.
Với sự ra đời của SGE, giao dịch vàng miếng đã được thực hiện tập trung qua
Sàn bằng cơ chế khớp lệnh tập trung, giá cả do cung cầu thị trường quyết định, PBOC
không thực hiện quy định giá đối với giao dịch vàng miếng. Đây là sự kiện đánh dấu
sự chấm dứt cơ chế độc quyền đối với thị trường vàng của Trung Quốc.
Tháng 3/2003, Trung Quốc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được phép
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vàng tại thị trường trong nước. Năm 2003-
2004, cũng đánh dấu tiến trình mở cửa thị trường của Trung Quốc qua việc: (i) Bãi bỏ
việc cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu sử dụng vào mục đích sản xuất nữ
trang để tái xuất khẩu; (ii) Bãi bỏ quy định cấp giấy phép kinh doanh vàng để tự do
hóa thị trường vàng nữ trang; (iii) Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China) bắt đầu
cho phép cá nhân giao dịch vàng hai chiều với thanh toán bằng tiền mặt; (iv) Ủy ban
Pháp chế cho phép việc mua bán vàng vật chất tại các ngân hàng thương mại.
- Giai đoạn từ năm 2006 - nay:
Tháng 12/2006, Ngân hàng Nhân dân Trung hoa ( PBOC) cho phép nhà đầu tư
cá nhân được phép giao dịch vàng miếng trên SGE. Nhờ quy định này, vàng trở thành
kênh đầu tư tài chính hấp dẫn cho các nhà đầu tư cá nhân cùng với kênh đầu tư khác
như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản. Với sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân,
tính thanh khoản của vàng trên SGE cũng được nâng lên đáng kể. Đồng thời, PBOC
cũng chính thức cho phép các ngân hàng thương mại được phép cung cấp dịch vụ kinh
doanh vàng tài khoản cho khách hàng cá nhân. Kinh doanh vàng qua tài khoản là việc
nhà đầu tư có thể thực hiện giao dịch mua bán vàng trên tài khoản của mình nhưng
trên thực tế không diễn ra việc giao nhận vàng vật chất, cũng như không thể rút vàng
vật chất từ tài khoản của mình. Về bản chất, đây chỉ là một loại hình đầu tư tài chính,
tìm kiếm lợi nhuận nhờ chênh lệnh giá. Hiện nay, các nhà đầu tư cá nhân phải mở 2
tài khoản (1 tài khoản tiền thanh toán và 1 tài khoản vàng) để thực hiện giao dịch tại
các Ngân hàng là thành viên của SGE. Ngân hàng cung cấp dịch vụ thực hiện chức
năng trung gian, mở tài khoản cho nhà đầu tư, nhập lệnh, khớp lệnh và thu phí giao
dịch.
Theo quy định của PBOC, nhà đầu tư cá nhân chỉ được phép giao dịch trong
giới hạn số dư tài khoản tiền hoặc vàng của họ. Tức là ngân hàng không được phép
cho nhà đầu tư vay để đầu tư vượt quá số tiền hoặc vàng họ đang nắm giữ hay không
sử dụng đòn bẩy tài chính (tỷ lệ ký quỹ là 100%). Quy định này sẽ hạn chế quy mô
giao dịch vàng tài khoản nhưng sẽ giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư trong trường hợp
đầu tư thua lỗ.
49
Giữa năm 2007, PBOC chấp thuận cho một số ngân hàng nước ngoài gồm
HSBC, Standard Chartered, UBS AG và Bank of Nova Scotia (BNS) trở thành thành
viên của Sàn giao dịch vàng Thượng Hải. Năm 2010, lượng vàng giao dịch tại Sàn
Giao dịch Vàng Thượng Hải đạt 6.046 tấn trị giá 1,61 ngàn tỷ NDT, trong đó giao
dịch vật chất là 837 tấn. Cho đến nay Sở giao dịch vàng Trung Quốc hoạt động có
hiệu quả, đảm bảo tính công khai, minh bạch, chuyên nghiệp và là yếu tố quan trọng
giúp ổn định giá vàng nội địa.
Những hợp đồng tương lai đầu tiên được giao dịch tại Sở Giao dịch Hợp đồng
Tương lai Thượng Hải (Shanghai Futures Exchange) vào ngày 9 tháng 01 năm 2008
và đạt khoảng 6.79 triệu hợp đồng trị giá 1,82 ngàn tỷ Nhân dân tệ trong năm 2010.
Tháng 08/2010, Chính phủ Trung Quốc nới lỏng những quy định trong hoạt động
mua, bán và đầu tư vàng đối với các tổ chức tài chính và nhà đầu tư cá nhân. Nhiều ngân
hàng được phép nhập khẩu và xuất khẩu vàng, mở cửa thị trường vàng cho các tổ chức và
các cá nhân. Cũng trong năm 2010, Trung Quốc cho phép quỹ đầu tư vàng đầu tiên được
đầu tư ra các quỹ tín thác đầu tư vàng ở thị trường nước ngoài.
Hiện tại, Trung Quốc là nước khai thác vàng lớn nhất thế giới với sản lượng dự
kiến lên tới 440 tấn53
năm 2013, vượt Nam Phi – nhà khai thác vàng lớn nhất thế giới
năm 2007, với sản lượng đạt 403 tấn trong năm 2012. Đồng thời, Trung Quốc là nước
tiêu thụ vàng đứng thứ 2 thế giới (sau Ấn Độ, tuy nhiên sẽ sớm vượt Ấn Độ trong năm
2013 ) với mức tiêu thụ ngày càng tăng (năm 2010: 580 tấn; năm 2011: 778,6 tấn; 6
tháng đầu năm 2013: 706,36 tấn và có thể đạt 1.000 tấn cả năm 2013)54
.
Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc chiếm 30,2% tổng dự trữ ngoại hối của thế
giới vào cuối năm 2012. Tuy nhiên, tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối của Trung
Quốc khá khiêm tốn. Năm 2009, Trung Quốc là quốc gia có dự trữ vàng đứng thứ 6
thế giới (sau Mỹ, Đức, IMF, Ý và Pháp) với 1054 tấn (chỉ chiếm 1,9% tổng dự trữ của
Trung Quốc).
2.Kinh nghiệm quản lý thị trƣờng vàng và huy động vàng của Ấn Độ
2.1.Tổng quan thị trường vàng Ấn Độ
Vàng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, tôn giáo và văn hóa của
người Ấn Độ. Trong nhiều thập kỷ qua, các gia đình Ấn Độ đã mừng lễ cưới, sinh
nhật, lễ hội thông qua vàng. Truyền thống này đã được truyền từ đời này sang đời
khác. Ví dụ điển hình là một nửa (½) số vàng mà người Ấn Độ mua hàng năm chỉ để
phục vụ cưới xin. Với khoảng 10 triệu đám cưới mỗi năm, quốc gia này đã và sẽ còn
chứng kiến một lực mua vàng vô cùng lớn mạnh.
Ấn Độ bãi bỏ lệnh cấm giao dịch vàng đã tồn tại hơn 4 thập kỷ qua vào tháng
10/2003. Ấn Độ thành lập thị trường giao dịch vàng qua Sở Giao dịch hàng hóa Ấn
Độ (MCX) và Sở giao dịch này bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2003. Tính tới năm
2010, MCX đã chiếm hơn 80% thị phần hàng hóa tương lai của Ấn Độ với hơn 2.000
thành viên đăng ký hoạt động thông qua 100.000 trung tâm giao dịch. MCX là thị
trường giao dịch hàng hóa tương lai lớn thứ hai thế giới về vàng.
Hiện tại, Ấn Độ là nước tiêu thụ vàng cũng như nhập khẩu vàng lớn nhất trên
thế giới. Theo thống kê từ Mineweb.com, năm 2012 nước này nhập tới 1.080 tấn
53 Nguồn: China Mining Association
54 Nguồn: Hội đồng Vàng Thế giới - WGC
50
vàng55
, trong đó 56% là nhập qua các ngân hàng, lượng vàng trong dân chúng khoảng
20.000 tấn. Theo Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), nhu cầu vàng của Ấn Độ và Trung
Quốc dự kiến có thể chiếm tới 45-50% cầu vàng thế giới vào cuối năm nay (2013),
với mức nhập khẩu tương đương từ 900-1000 tấn/mỗi nước. Chỉ riêng trong quý
2/2013, nhu cầu vàng của Ấn Độ tăng 70% so với cùng kỳ năm 2012, mức tăng cao
nhất trong vòng 10 năm qua và đạt mức 310 tấn, trong khi đó Việt Nam đứng ở vị trí
thứ 8 trên thế giới về nhu cầu vàng (hình 1).
Trong mấy năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Ấn Độ biến động mạnh. Tỷ lệ tăng
trưởng GDP đã giảm mạnh từ mức 9,3% năm 2011 xuống còn 4,4% hiện nay. Thâm
hụt cán cân vãng lai của Ấn Độ đã lên mức kỷ lục 4,8% GDP hay 88,2 tỷ USD trong
năm tài chính 2012 – 2013 kết thúc vào tháng 3/2013 (so với mức thâm hụt 4,3%
GDP năm 2011 – 2012). Chính phủ Ấn Độ đặt mục tiêu giảm thâm hụt cán cân vãng
lai xuống còn 3,8% GDP hay 70 tỷ USD trong năm tài chính này. Vàng là nhân tố
đứng thứ hai (sau dầu) đóng góp vào thâm hụt cán cân vãng lai của Ấn Độ, do nhập
khẩu xăng dầu và vàng chiếm tới 45% tổng nhập khẩu hàng hóa năm tài chính 2012 –
2013. Thâm hụt cán cân vãng lai lớn đã tác động mạnh đến giá trị đồng Rupee. Đồng
Rupee đã mất giá trên 20%56
trong năm tài chính 2012-2013, đây là mức mất giá
mạnh thứ 2 sau đồng Yên Nhật trong rổ tiền tệ của 11 nước Châu Á,và đạt mức thấp
kỷ lục 60,765 Rupee/USD vào ngày 26/6/2013.
Hình 1. Nhu cầu vàng của các nƣớc trong Quý 2/2013
Đơn vị: tấn
Nguồn: Hội đồng vàng Thế giới
2.2.Chính sách quản lý thị trường vàng và “chống vàng hóa” của Ấn Độ
Từ tháng 3/2012 trở lại đây, Chính phủ và Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (The
Reserve Bank of India – RBI – Ngân hàng Trung ương của Ấn Độ) dồn dập đưa ra các
quy định mới để tăng cường quản lý thị trường vàng, thậm chí kêu gọi người dân bớt
55 Tổng số tiền mà Ấn Độ phải bỏ ra nhập vàng trong năm 2012-2013 là gần 54 tỷ USD. Số tiền nhập khẩu vàng
trong năm liền trước (2011-2012) là 57,5 tỷ USD. Các con số này cho thấy đồng rupee mất giá một phần do
nhu cầu USD tăng cao và trong bối cảnh USD cũng lên giá so với các ngoại tệ khác. Với vị trí là nước tiêu thụ
vàng lớn nhất thế giới (nhập khẩu chiếm khoảng 25% toàn cầu) và lượng vàng ước tính khoảng 20.000 tấn, có
thể thấy, đây là nguyên nhân chính dẫn đến tăng thâm hụt cán cân vãng lai, qua đó tác động lên dự trữ ngoại hối
nước này và kéo theo các hệ lụy khác là khó tránh khỏi. 56 Nguồn: Mineweb, 11/9/2013
51
“yêu” vàng, và không mua vàng, bên cạnh việc sử dụng tiết kiệm xăng dầu. Ngày
21/3/2012, RBI ra quy định các công ty tài chính phi ngân hàng không được cho vay
dựa trên tài sản đảm bảo bằng vàng miếng và tiền xu vàng. Trong báo cáo định kỳ ngày
30/10/2012, RBI quan ngại việc nhập khẩu vàng tăng mạnh trong những năm gần đây
do các ngân hàng cho vay mua vàng dưới mọi hình thức và điều này thúc đẩy nhu cầu
vàng nhằm mục đích đầu cơ. Đến tháng 11/2012, RBI chính thức có quy định cấm các
ngân hàng cho vay để mua vàng dưới mọi hình thức.
Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ cũng dừng kế hoạch cho phép tăng tỷ lệ danh mục cho
vay dựa trên thế chấp bằng vàng từ 11% lên 15% như dự kiến trước đó, đồng thời chỉ
đạo các công ty tài chính phi ngân hàng giới hạn giá trị khoản vay ở mức 60% giá trị tài
sản thế chấp bằng vàng so với tỷ lệ 90 – 100% như trước đây. Tháng 2/2013, RBI yêu
cầu các ngân hàng hợp tác xã chỉ được phép cho vay thế chấp bằng vàng và không được
phép cho vay mua vàng dưới mọi hình thức. Đầu tháng 5/2013, RBI quy định các ngân
hàng được phép cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là vàng trang sức và tiền xu vàng do
ngân hàng đúc, nhưng không được phép cho vay để mua vàng dưới bất kỳ hình thức
nào. Cho vay dựa trên đảm bảo bằng tiền xu vàng đối với mỗi khách hàng không được
quá trọng lượng 50 gram vàng. Cũng trong tháng 5/2013, RBI quy định hạn chế nhập
khẩu vàng trên cơ sở ủy thác của ngân hàng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của đơn vị xuất
khẩu vàng trang sức, rồi mở rộng sang các tổ chức khác được Chính phủ cho phép nhập
khẩu vàng. Tất cả thư tín dụng (L/C) để nhập khẩu vàng dưới mọi hình thức phải được
đảm bảo 100% bằng tiền mặt và việc nhập khẩu vàng sẽ phải được thực hiện theo
phương thức Hồ sơ – Thanh toán, không được áp dụng phương thức Hồ sơ – Chấp
thuận. Cuối tháng 6/2013, tiếp theo quy định trước đó, RBI yêu cầu việc nhập khẩu
vàng dựa trên tín dụng của bên mua/bên bán phải tuân thủ quy định về tỷ lệ đảm bảo
bằng tiền mặt và phương thức Hồ sơ – Thanh toán, các ngân hàng phải đảm bảo không
cho phép cấp tín dụng dưới bất kỳ hình thức nào để nhập khẩu vàng.
Hội đồng Vàng thế giới cho rằng nhu cầu vàng vật chất của Ấn Độ có thể tiến
tới con số 1000 tấn trong năm nay. Tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ lại muốn hạn chế
lượng vàng nhập khẩu không vượt quá 850 tấn và vì thế quốc gia này một lần nữa lại
áp dụng các chế tài khắt khe trong việc mua và nhập khẩu vàng.
Trong nỗ lực nhằm giảm thâm hụt cán cân vãng lai ở mức cao kỷ lục, ngày
5/6/2013, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ đã quyết định tăng thuế nhập khẩu vàng lần thứ 2
trong năm nay, từ 6% lên 8%, so với mức thuế 2% vào tháng 1/2012. Ngày 22/6/2013,
RBI yêu cầu các nhà nhập khẩu phải tái xuất ít nhất 20% lượng vàng nhập khẩu –
thường là đồ trang sức. Sau đó, ngày 30/8/2013, RBI lại tiếp tục tăng thuế nhập khẩu
vàng từ 8% lên 10%.
Có thể thấy rằng, có nhiều điểm tương đồng trong các chính sách tăng cường
quản lý thị trường vàng của Ấn Độ giống với Việt Nam, đó là cùng theo hướng siết
chặt, cắt bỏ dần hoạt động cho vay bằng vàng, cho vay thế chấp bằng vàng, cũng như
hạn chế việc nhập khẩu vàng. Chính phủ Ấn Độ gần đây tuyên bố có thể sẽ áp dụng
thêm các biện pháp hạn chế nhập khẩu vàng hơn nữa cho đến khi lượng vàng vật chất
nhập khẩu đạt ở con số mong muốn.
Tuy nhiên, tại Ấn Độ, sự say mê giao dịch vàng vẫn được duy trì bất chấp các
biện pháp tăng thuế nhập khẩu của chính phủ với mục tiêu cắt giảm thâm hụt cán cân
vãng lai. Theo Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), trên thực tế, nhu cầu vàng trang sức,
52
vàng thỏi và tiền xu vàng tại Ấn Độ trong quý 2/2013 vẫn tăng mạnh57
so với cùng kỳ
năm ngoái, ngay cả khi các biện pháp tăng thuế được áp dụng, cho dù nhập khẩu vàng
giảm mạnh trong quý 3/2013 theo số liệu nhập khẩu chính thức58
. Tuy nhiên, lực mua
vàng kỷ lục mà chúng ta nhìn thấy không xuất phát hoàn toàn từ “tình yêu” vàng.
Chắc chắn người dân quyết định mua vàng một phần là do lo ngại nghèo đói cũng như
sự bất ổn trong các chính sách của chính phủ. Một chính sách tốt có thể kích thích
kinh tế tăng trưởng và khiến thị trường phản ứng tốt. Một chính sách tồi lại đem đến
những hậu quả trái ngược. Khi người dân mua vàng cho người thân và bạn bè, cũng là
lúc họ mua vàng với mục đích bảo vệ. Hình 2 cho thấy, trong vòng 3 năm qua, từ
tháng 8/2010 đến tháng 8/2013, lợi nhuận từ vàng ở Ấn Độ tính theo đồng Rupee –
một đồng tiền yếu so với USD - là 49,5%, trong khi đó lợi nhuận của vàng tính theo
đồng USD ở Mỹ chỉ là 12,4%.
Hình 2. Lợi nhuận từ vàng ở Ấn Độ và Mỹ
Nguồn: Bloomberg
Điều này cho thấy, bất chấp việc tăng thuế nhập khẩu lên 10%, người dân Ấn
Độ sẽ còn tiếp tục yêu mến vàng, thậm chí cả khi họ phải mua trên thị trường chợ đen
đi chăng nữa!
Có thể nói, các biện pháp quản lý thị trường vàng của Chính phủ Ấn Độ chỉ
mang tính ngắn hạn, làm tổn hại đến một trong những ngành công nghiệp chính của
Ấn Độ - đó là kinh doanh đồ kim hoàn; luồng vốn nước ngoài tiếp tục chảy ra59
do
quan ngại các chính sách bất ổn của chính phủ, GDP và lòng tin suy giảm mạnh;
chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế tăng cao, mà phía sau đó là quan ngại về
tình trạng nhập lậu vàng gia tăng. Theo Thomson Reuters GFMS, tổng hợp số liệu của
Hội đồng vàng Thế giới, năm 2012 có 102 tấn vàng nhập lậu vào Ấn Độ. Năm 2013,
các nhà bán lẻ và các trung tâm bán vàng miếng dự đoán vàng nhập lậu vào Ấn Độ có
thể lên tới 140 tấn, tăng 40% so với năm ngoái.
57
Theo Mineweb, Ấn độ nhập khẩu 142,5 tấn vàng trong tháng 4/2013; nhập khẩu 162 tấn vàng trong tháng
5/2013; và nhập khẩu 31,5 tấn vàng trong tháng 6/2013. 58 Theo Mineweb, số liệu nhập khẩu vàng chính thức của Ấn Độ trong tháng 8/2013 chỉ là 2,5 tấn, giảm mạnh so
với 47,5 tấn vàng nhập khẩu trong tháng 7/2013. 59
Kể từ 1/6/2013, các quỹ nước ngoài đã rút chừng 11,58 tỷ USD các cổ phiếu và trái phiếu ra khỏi các thị
trường Ấn Độ do những quan ngại về sự suy giảm mạnh của nền kinh tế này.
53
2.3.Kinh nghiệm của Ấn Độ trong việc huy động vàng
Để thu hút một phần khối lượng vàng của quốc gia do tư nhân nắm giữ (hiện
tại khoảng 20.000 tấn vàng), qua đó giảm sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu vàng,
Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (NHTW) cho phép các ngân hàng có đủ điều kiện được huy
động và cho vay vàng, cụ thể như sau:
- Ngân hàng được huy động khi được NHTW Ấn Độ cho phép (hiện nay ngân
hàng huy động vàng lớn nhất của Ấn Độ là Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ). Các ngân
hàng phải có cơ chế quản trị rủi ro thích hợp để phòng chống rủi ro biến động giá
vàng và được phép tham gia vào các hợp đồng kỳ hạn ở Ấn Độ để bảo hiểm rủi ro.
Các ngân hàng được tham gia thị trường vàng quốc tế, Hiệp hội vàng London hoặc sử
dụng các hợp đồng OTC để phòng ngừa biến động giá vàng theo các quy định về
kiểm soát ngoại hối. Đồng thời, các ngân hàng phải thiết lập hệ thống kế toán phù
hợp, cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ và công bố thông tin bao quát các hoạt động
liên quan đến vàng bao gồm cả huy động vàng.
- Một số đặc điểm huy động vàng ở Ấn độ:
+ Hình thức: huy động tiết kiệm hoặc phát hành chứng chỉ huy động vàng cho
các hộ gia đình, các ngôi đền, chùa và các quỹ tôn giáo.
+ Kỳ hạn: thường từ 3-7 năm.
+ Lãi suất: Do ngân hàng huy động quy định.
+ Khi đến hạn sẽ được thanh toán bằng vàng hoặc tương ứng bằng đồng Rupee
theo yêu cầu của người gửi.
+ Chứng chỉ có thể chuyển nhượng và người sở hữu không phải chịu thuế.
+ Người gửi vàng có thể thanh toán trước hạn sau khi gửi tối thiểu 1 năm.
Ngân hàng có thể cho người giữ chứng chỉ vay đồng Rupee.
- Ngân hàng huy động vàng có thể: (i) cho vay vàng đối với lĩnh vực trang sức
trong nước, cho vay các nhà xuất khẩu vàng trang sức; (ii) bán vàng giao ngay tại thị
trường trong nước hoặc bán vàng cho các ngân hàng chỉ định khác.
- Ngân hàng huy động sẽ bán vàng huy động được trên thị trường trong nước để
giảm sự phụ thuộc vào vàng nhập khẩu. NHTW sẽ cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ
hạn cho ngân hàng huy động vàng với một chi phí nhất định. Chi phí này cùng với lãi
suất huy động trả cho người sở hữu chứng chỉ vàng sẽ tương đương với lãi suất đi vay
Rupee của ngân hàng huy động.
Tuy nhiên, việc huy động vàng ở Ấn Độ cũng có một số vấn đề đặt ra là:
(i) Nhu cầu mua vàng miếng sẽ tương ứng với số lượng vàng gửi vào ngân hàng
thương mại (NHTM) nên không làm giảm được sự phụ thuộc vào vàng miếng nhập
khấu.
(ii) Chính phủ sẽ mất tiền nếu đồng Rupee giảm giá trị mạnh so với Đô la Mỹ
hoặc giá vàng tăng mạnh trong suốt thời hạn gửi vàng.
(iii) Mất khoản thu thuế đối với lãi gửi vàng trong khi có thể đánh thuế đối với
lãi tiền gửi Rupee.
(iv) NHTW Ấn Độ có lượng vàng dự trữ khoảng 557,7 tấn vàng (năm 2009). Số
vàng này đang không mang lại lợi nhuận cho NHTW Ấn độ, tuy nhiên họ đã chọn
54
việc cho phép NHTM đi vay vàng từ người dân và trả lãi suất. Nếu số vàng huy động
tăng lên và NHTW cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ hạn cho ngân hàng huy động thì
có nghĩa là NHTW đã bán khoản dự trữ ngoại hối của mình và có thể phải giao vàng
trong tương lai.
Tóm lại, kinh nghiệm của Ấn Độ cho thấy, NHTW Ấn Độ đã cho phép một số
NHTM thực hiện huy động vàng để cho vay và bán vàng trên thị trường để giảm sự
phụ thuộc vào nhập khẩu vàng. Tuy nhiên, để đảm bảo khả năng chi trả vàng cho dân
chúng, NHTW sẽ cung cấp hợp đồng bán vàng kỳ hạn cho NHTM, thay vì nhập khẩu
vàng, NHTW dùng chính vàng của NHTW để can thiệp và do vậy dự trữ ngoại hối
giảm bằng lượng vàng NHTW bán cho các NHTM. Làm được điều này là do NHTW
Ấn Độ có dự trữ bằng vàng lớn trong dự trữ ngoại hối Nhà nước (năm 2009: 557,7
tấn). Từ kinh nghiệm này cho thấy, việc huy động và bán vàng hoàn toàn do các ngân
hàng thương mại thực hiện, để đảm bảo khả năng chi trả vàng, trong trường hợp
NHTW không có đủ lượng vàng để bán cho các NHTM thì vẫn phải nhập khẩu vàng.
3.Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Thị trường vàng Việt Nam hiện nay có quy mô khoảng 40 tỷ USD, tuy nhiên,
xét trên bình diện thị trường vàng thế giới, thị trường vàng Việt Nam vẫn rất nhỏ bé.
Theo đánh giá của Hội đồng Vàng Thế giới, thị trường vàng Việt Nam là một thị trường
nhiều tiềm năng, tuy nhiên vẫn còn kém phát triển, mang nặng tính thủ công, chưa áp
dụng được các công nghệ sản xuất và nghiệp vụ kinh doanh hiện đại trên thị trường
quốc tế. Trong khi thị trường vàng thế giới đang phát triển nhanh chóng với các hình
thái đầu tư hiện đại, cho phép các nhà đầu tư tiếp cận dễ dàng, nhanh chóng, với chi phí
thấp hơn nhiều so với đầu tư vàng vật chất, thì thị trường vàng Việt Nam lại giới hạn ở
các giao dịch vàng vật chất. Những khác biệt này, ở các góc độ nhất định, đã có tác
động không nhỏ tới vấn đề quản lý tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô và huy động nội lực
phát triển kinh tế xã hội. Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn biến động khó lường, yêu
cầu cấp thiết hiện nay là phải đổi mới việc quản lý vàng và phát triển thị trường vàng
Việt Nam theo thông lệ quốc tế.
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và huy động vàng của quốc tế,
đặc biệt kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ, có thể rút ra các bài học sau.
(i) Thị trường vàng cần quản lý theo quy luật cung – cầu trên cơ sở liên thông,
gắn kết với thị trường vàng thế giới. Tuy nhiên, do vàng là tài sản quốc gia và là hàng
hóa mang tính tiền tệ đặc biệt nên Nhà nước có cơ chế quản lý sao cho huy động tối
đa nguồn lực này phục vụ mục tiêu phát triển và bình ổn kinh tế vĩ mô, có thể điều tiết
được thị trường khi cần.
(ii) Cùng với quá trình tự do hoá thị trường tài chính, thị trường vàng cũng cần
tự do từng bước nhằm phù hợp với trình độ phát triển chung của thị trường tài chính.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước trong đó có Trung Quốc, tiến trình tự do hoá thị
trường vàng nên bắt đầu từ tự do hoá thị trường vàng vật chất, sau đó đến kinh doanh
vàng tài khoản và cuối cùng là từng bước xoá bỏ kiểm soát đối với hoạt động xuất
nhập khẩu vàng.
(iii) Ngân hàng Trung ương (NHTW) là đầu mối quản lý thị trường vàng và
điều tiết thị trường này theo quy luật cung cầu thị trường. Quản lý của NHTW cần
phải hướng tới việc kiểm soát được việc kinh doanh, đầu tư vàng của đối tượng đầu
tư, tiêu dùng. Muốn vậy, NHTW cần xây dựng cơ sở pháp lý đảm bảo đối tượng đầu
55
tư, tiêu dùng chỉ có thể mua, bán vàng trên mạng lưới mà NHTW thiết lập (như các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư, sàn/sở giao dịch
vàng,…). Từ đó, Chính phủ không cần thiết phải cấm người dân mua, bán và tích trữ
vàng miếng mà vẫn quản lý được nguồn lực tài chính quốc gia, đủ năng lực và công
cụ để đưa ra các biện pháp cần thiết, kịp thời nhằm ổn định và điều tiết thị trường khi
cần.
(iv) Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Sở giao dịch hàng hoá trong
đó có giao dịch vàng (trên cơ sở vàng được coi như một loại hàng hóa đặc biệt) như
mô hình của Sở giao dịch vàng Thượng Hải để đưa thị trường vàng trong nước liên
thông với thị trường vàng quốc tế. Kinh nghiệm từ các quốc gia khác cho thấy, việc
đưa hoạt động kinh doanh vàng vào quản lý theo thị trường tập trung mang lại hiệu
quả cao về kinh tế, xã hội.
Tài liệu tham khảo
1. Kỷ yếu hội thảo khoa học của Ngân hàng Nhà nước :“Vai trò của vàng và
ngoại tệ trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam”, Hà Nội, 2006.
2. Kỷ yếu hội thảo khoa học của Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia:“Tác động
của thị trường vàng đến thị trường tài chính Việt Nam“, Hà Nội. 2011.
tiếp theo ngày giao vàng đầy đủ. Song căn cứ vào mục tiêu điều hành chính sách và
diễn biến thị trường vàng trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước có thể quyết định
thời hạn giao vàng khác với thời hạn quy định nêu trên tại thông báo mua, bán vàng
miếng hoặc thông báo đấu thầu cho các TCTD và doanh nghiệp.
PHỤ LỤC:
I/. Mƣời mỏ vàng lớn nhất thế giới
Trên thế giới, đến nay đã có tổng số khoảng 165.000 tấn vàng được khai thác.
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc đâu là mỏ vàng lớn nhất.
Nhiều người cho rằng, mỏ vàng Muruntau ở Uzbekistan là mỏ lớn nhất, trong
khi nhiều người khác lại tin là mỏ Grasberg ở Indonesia mới là mỏ dẫn đầu thế giới về
sản lượng.
Dựa trên những nguồn dữ liệu đáng tin cậy nhất về sản lượng vàng khai mỏ,
ngoài báo cáo từ các công ty khai mỏ hàng đầu, trang International Business Times đã
điểm qua những mỏ vàng lớn nhất trên thế giới. Xếp hạng dựa trên số liệu về sản
lượng của các mỏ vàng này trong năm 2010:
1. Mỏ Grasberg
Mỏ vàng có 19.500 công nhân này nằm ở tỉnh Papua của Indonesia. Theo báo
cáo thường niên của Rio Tinto, sản lượng của mỏ này trong năm 2010 là 2,025 triệu
ounce vàng. Cổ phần chính của mỏ Grasberg thuộc quyền sở hữu của công ty
Freeport-McMoRan Copper & Gold. Ngoài vàng, mỏ này còn cung cấp bạc và đồng.
2. Mỏ vàng Muruntau
Mỏ Muruntau nằm 250 dặm về phía Tây thủ đô Tashkent của Uzbekistan. Sản
lượng vàng của mỏ lộ thiên này trong năm 2010 ước tính khoảng 1,8 triệu ounce. Điều
hành mỏ Muruntau là công ty quốc doanh Navoi Mining and Metallurgical Combinat
của Uzbekistan.
3. Mỏ vàng Carlin-Nevada
Năm 2010, mỏ vàng Carlin-Nevada ở bang Nevada của Mỹ cho sản lượng
1,735 triệu ounce vàng. Đây là mỏ thuộc sở hữu của công ty Newmont Mining Corp.
Khai thác mỏ này, các nhà khai mỏ vừa tìm vàng lộ thiên, vừa đào vàng trong lòng
đất.
4. Mỏ vàng Yanacocha
Mỏ vàng tọa lạng ở miền Bắc Peru này là mỏ vàng lớn nhất ở Mỹ Latin, với
sản lượng 1,46 triệu ounce vàng trong năm 2010. Mỏ do công ty Newmont Mining
vận hành, đồng thời thuộc sở hữu của công ty này và đối tác Peru có tên
Buenaventurda.
5. Mỏ vàng Goldstrike (Betze Post)
Đây là mỏ vàng lớn tiếp theo ở bang Nevada của Mỹ, cho sản lượng 1,24 triệu
ounce vàng trong năm 2010. Mỏ thuộc quyền sở hữu của công ty Barrick Gold Corp.
6. Mỏ vàng Cortez
97
Lại một mỏ vàng lớn nữa ở Nevada, Mỹ. Mỏ Cortez là nơi sản xuất ra 1,14
triệu ounce vàng trong năm 2010. Đây là mỏ của công ty Barrick Gold.
7. Mỏ vàng Valerado
Mỏ vàng lớn thứ 7 thế giới, Valerado nằm ở Argentina, cho sản lượng 1,12
triệu ounce vàng trong năm 2010. Mỏ này thuộc sở hữu của công ty Barrick Gold
Corp.
8. Mỏ vàng Lagunas Norte
Nằm ở phía Bắc của quốc gia Nam Mỹ Peru, mỏ Lagunas Norte là nơi sản xuất
ra 808.000 ounce vàng trong năm 2010. Đây cũng là mỏ vàng của công ty Barrick
Gold Corp.
9. Mỏ vàng Lihir
Chủ sở hữu của mỏ vàng này là công ty Newcrest Mining, nhà sản xuất vàng
lớn nhất Australia. Năm 2010, mỏ cho sản lượng 790.974 ounce vàng.
10. Mỏ vàng Super Pit/Kalgoorlie
Đây là mỏ vàng lộ thiên nằm ở miền Tây, Australia, thuộc quyền sở hữu của
Barrick Gold Corp. và Newmont Mining. 788.000 ounce vàng đã được khai thác từ
mỏ này trong năm 2010. (theo vneconomy.vn)
2/. Mƣời nƣớc có nhu cầu vàng lớn nhất thế giới trong năm 2011
Nhu cầu về vàng trong năm 2011 tiếp tục ở mức cao. Theo danh sách các quốc
gia có nhu cầu vàng lớn nhất của Hội đồng vàng thế giới (WGC), Việt Nam đứng ở vị
trí thứ tám.
Nhu cầu vàng của thế giới trong năm 2011 ở mức 4.067,1 tấn tức trị giá khoảng
205,5 tỷ USD. Đây là mức nhu cầu về vàng tăng mạnh nhất trong vòng 14 năm liên
tiếp. Nhu cầu mua vàng tại Ấn Độ và Trung Quốc chiếm 49% nhu cầu của thế giới và
55% vàng trang sức toàn cầu. Giá trung bình trong năm 2011 ở mức 1.571,5
USD/ounce tăng hơn 28% so với năm 2010. Năm 2011, mức giá có thời điểm lên đến
1.920 USD/ounce hồi tháng 9/2011. Sau đó dao động trong vùng 1.300 USD/ounce,
chốt năm ở mức 1.531 USD/ounce.
Trong lịch sử, giá vàng tăng từ mốc 272 USD/ounce hồi năm 2000 lên đến mức
1.700 USD/ounce hiện nay, mức giá đã tăng gấp 6 lần. Theo Thomson Reuters, giá
vàng thế giới sẽ lên ngưỡng 2.000 USD/ounce vào cuối năm nay hoặc đầu năm 2013.
Hội đồng vàng thế giới (WGC) vừa đưa ra danh sách 10 quốc gia có nhu cầu
vàng lớn nhất thế giới trong năm 2011. Trong đó, Việt Nam xếp ở vị trí thứ tám với
tổng số vàng tiêu thụ trong năm 2011 ở mức 100,3 tấn
1. Ấn Độ
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 933,4 tấn
Nhu cầu năm 2011: Giảm 7%
Người dân Ấn Độ có truyền thống mua vàng, tuy nhiên nhu cầu đã giảm 7%
xuống còn 933,4 tấn trong năm 2011. Nguyên nhân xuất phát từ việc giá vàng tăng
cao và đồng Rupi Ấn Độ suy yếu. Tuy nhiên, nhu cầu của nhiều người dân vẫn cao.
Nước này chỉ sản xuất khoảng 4 tấn vàng mỗi năm, bằng 0,4 % nhu cầu của nước này.
98
2. Trung Quốc
Tổng số vàng tiêu thụ: 811,2 tấn vàng
Nhu cầu năm 2011: Tăng 22%
Người dân Trung Quốc tiêu thụ vàng nhiều thứ hai thế giới trong năm 2011,
với tổng khối lượng 811,2 tấn tức tăng 22% so với 1 năm trước đó. Trong đó, nhu cầu
vàng miếng và vàng với mục đích đầu tư tăng 38%, đạt 258,9 tấn, nhu cầu vàng nữ
trang tăng 13% đạt 510,9 tấn. Trong quý IV năm 2011, Trung Quốc tiêu thụ 201,6 tấn
vàng, hơn Ấn Độ 28,6 tấn vàng. Theo ước tính của Hội đồng vàng thế giới, Trung
Quốc sẽ thay thế Ấn Độ để lần đầu tiên đứng đầu danh sách các quốc gia tiêu thụ vàng
nhiều nhất thế gới. Theo Hiệp hội Vàng Trung Quốc, sản lượng vàng của Trung Quốc
đạt mức cao kỷ lục 360,96 tấn trong năm 2011, vì vậy nước này vẫn đứng trong hàng
các quốc gia sản xuất vàng nhiều nhất thế giới trong 5 năm liên tục.
3. Mỹ
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011:194,9 tấn
Nhu cầu năm 2011: Giảm 17%
Mỹ sản xuất 237 tấn vàng trong năm 2011, đồng thời là nước tiêu thụ vàng lớn thứ
ba thế giới. Nhu cầu vàng so với năm 2010 đã giảm 17% còn 194,9 tấn do kinh tế khó
khăn. Nhu cầu vàng nữ trang chiếm 115,1 tấn, giảm 11% so với 2010. Vàng miếng và vàng
đầu tư trong quý 4/2011 là 79,9 tấn, giảm 25% so với năm 2010.
4. Đức
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 159,3 tấn
Nhu cầu năm 2011: Tăng 26%
Đức là thị trường tiêu thụ vàng lớn thứ tư thế giới trong năm ngoái. Năm 2010,
nước này tiêu thụ tổng khối lượng 126,9 tấn, con số này đã tăng lên mức 159,3 tấn
trong năm 2011, tức tăng 26%. Trong quý 4/2011, nhu cầu của nước này lên đến 39,7
tấn vàng, tăng 15% từ mức 34,6 tấn của 1 năm trước đó. Sự gia tăng về nhu cầu vàng
của châu Âu chủ yếu đến từ Đức và Thụy Sĩ – thông tin từ Hội đồng vàng thế giới.
5.Thổ Nhĩ Kỳ
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 144,2 tấn
Nhu cầu năm 2011: Tăng 30%
Thổ Nhĩ Kỳ là nước tiêu thụ vàng nhiều thứ năm thế giới trong năm 2011. Nhu
cầu của nước này trong năm ngoái tăng 30% so với mức 111,1 tấn hồi năm 2010 và vàng
được coi là kênh đầu tư an toàn. Trong năm 2011, nhu cầu vàng trang sức giảm 10%
xuống còn 63,8 tấn, trong khi nhu cầu vàng đầu tư tăng 99% lên 80,4 tấn. Lượng vàng do
nước này sản tăng 43% lên mức 24,4 tấn trong năm 2011.
6. Thụy Sĩ
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 116,2 tấn
Nhu cầu năm 2011: Tăng 25%
Nhu cầu vàng của Thụy Sĩ tăng 25% so với năm 2010. Trong quý 4 năm 2011,
nhu cầu vàng của nước này ở mức 30,7 tấn, tăng 17% so với năm 2010. Đầu tư vào
vàng miếng tăng lên do giá vàng tăng cao và cuộc khủng hoảng nợ công của châu Âu.
99
7. Thái Lan
Tổng số vàng tiêu thụ năm 2011: 108,9 tấn
Nhu cầu năm 2011: Tăng 57%
Thái Lan là nước tiêu thụ vàng nhiều thứ bảy thế giới trong năm 2011. Là quốc
gia mà ở đó vàng được gắn với sự giàu có và thịnh vượng. Nhu cầu vàng trang sức tại
nước này giảm 34% trong năm 2011. Ngược lại vàng đầu tư tăng 66% do kỳ vọng về
giá tăng lên.
8. Việt Nam
Tổng vàng tiêu thụ trong năm 2011: 100,3 tấn
Nhu cầu trong năm 2011: Tăng 23%
Việt Nam xuất khẩu khoảng 35-38 tấn vàng trong năm 2011, tổng nhu cầu
trong năm 2011 tăng 23% từ mốc 81,4 tấn hồi năm 2010 lên hơn 100 tấn so. Trong
năm ngoái, nhu cầu vàng trang sức giảm 9%. Năm 2011, vàng được xem là kênh đầu
tư thích hợp.
9. Nga
Tổng số vàng tiêu thụ trong năm 2011: 75,1 tấn
Nhu cầu trong năm 2011: Tăng 14%
Nga là nước tiêu thị vàng lớn thứ chín thế giới trong năm 2011. Tổng nhu cầu
vàng tăng 14% so với năm 2010. Vàng trang sức được tiêu thụ nhiều nhất. Tuy nhiên,
Nga là nước sản xuất vàng lớn thứ tư thế giới trong năm 2011, tổng lượng sản xuất
200 tấn vàng.
10. Ả Rập Xê út
Tổng số vàng tiêu thụ trong năm 2011: 72,2 tấn
Nhu cầu trong năm 2011: Giảm 12%
Ả Rập Xê Út là nước tiêu thụ vàng lớn thứ 10 thế giới trong năm ngoái. Tuy
nhiên, tổng nhu cầu vàng giảm 12% so với năm 2010, chiếm khoảng 36% của khu vực
Trung Đông. Năm 2011, nhu cầu đồ trang sức của Ả Rập Xê Út giảm 17% còn 55,8
tấn.
III. Mƣời nƣớc dự trữ vàng lớn nhất thê giới
Danh sách 10 quốc gia có kho dự trữ vàng chính thức lớn nhất thế giới dựa trên
số liệu của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC). Được biết, tổng lượng vàng dự trữ của
10 quốc gia này là 21,364 tấn.
10. Ấn Độ
Dự trữ vàng chính thức: 557.7 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 9.8%
Được biết đến với việc mua vàng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và xem vàng
là một kênh đầu tư an toàn nhưng hiếm khi Ngân hàng Trung ương Ấn Độ tiết lộ kế
hoạch mua vàng của mình.
9. Hà Lan
100
Dự trữ vàng chính thức: 612.5 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 60.2%
Năm 1999, Hà Lan tuyên bố sẽ bán 300 tấn vàng trong 5 năm theo CBGA 1
nhưng nước này chỉ bán được 235 tấn. Theo CBGA 2, Hà Lan cho biết sẽ bán tổng
cộng 165 tấn vàng (bao gồm 65 tấn còn lại từ CBGA 1) và tuyên bố không bán vàng
theo CBGA 3.
8. Nhật Bản
Dự trữ vàng chính thức: 765.2 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 3.1%
Năm 1950, dự trữ vàng của Nhật Bản chỉ có 6 tấn nhưng đến năm 1959,
NHTW nước này lần đầu tiên gia tăng đáng kể lượng vàng nắm giữ khi mua thêm 169
tấn so với năm trước. Năm 2011, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) bán vàng để
bơm 20 ngàn tỷ JPY vào nền kinh tế nhằm trấn an nhà đầu tư sau thảm họa động đất
và sóng thần.
7. Nga
Dự trữ vàng chính thức: 918.0 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 9.2%
Từ năm 2006 đến nay, Nga đã đều đặn gia tăng dự trữ vàng nhằm đa dạng hóa
kho dự trữ ngoại hối và đưa đồng rúp trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế. Tính đến
cuối tháng 7/2012, dự trữ vàng của Nga có tổng trị giá 48.7 tỷ USD.
6. Thụy Sỹ
Dự trữ vàng chính thức: 1,040.1 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 14.2%
Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho biết, năm 1997 Thụy Sỹ công bố đề xuất bán
một phần vàng dự trữ vì số vàng này được xem là không còn cần thiết đối với chính
sách tiền tệ. Theo đó, nước này bắt đầu bán 1,300 tấn vàng được xem là dư thừa vào
tháng 5/2000; bao gồm 1,170 tấn được bán theo CBGA 1 và 130 tấn được bán theo
CBGA 2. Thụy Sỹ cho biết sẽ không bán vàng theo CBGA 3.
5. Trung Quốc
Dự trữ vàng chính thức: 1,054.1 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 1.6%
Vàng vẫn còn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong kho dự trữ ngoại hối có tổng
giá trị 3.2 ngàn tỷ USD của Trung Quốc, thấp hơn cả mức bình quân toàn cầu là 10%.
Theo Financial Times, tăng cường dự trữ vàng sẽ là một động thái quan trọng đối với
Trung Quốc trong lúc Bắc Kinh đang tiến hành quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ và đưa
đồng tiền này trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế.
4. Pháp
Dự trữ vàng chính thức: 2,435.4 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 71.6%
101
Pháp bán 572 tấn vàng theo CBGA 2. Ngoài ra, nước này còn chuyển nhượng
khoảng 17 tấn cho Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) vào cuối năm 2004 để mua
cổ phần của BIS. Pháp đã không công bố bất kỳ kế hoạch bán vàng nào theo CBGA 3.
3. Ý
Dự trữ vàng chính thức: 2,451.8 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 71.3%
Ý không bán vàng theo CBGA 1 hoặc CBGA 2 và tuyên bố sẽ không bán vàng
theo CBGA 3. Tuy nhiên trong năm 2011, các ngân hàng nước này tìm cách bán vàng
cho Ngân hàng Trung ương Ý để để củng cố bảng cân đối kế toán trước khi diễn ra
đợt thanh tra ngân hàng (stress test).
2. Đức
Dự trữ vàng chính thức: 3,395.5 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 71.9%
Đức đã bán vàng theo CBGA 1 và CBGA 2 để đúc đồng xu vàng làm kỷ niệm.
Trong năm đầu tiên của CBGA 3 (2008 – 2009), Ngân hàng Trung ương Đức
(Bundesbank) đã bán xấp xỉ 6 tấn vàng. Kể từ ngày 07/09/2011 đến nay, Bundesbank
đã bán thêm 4.7 tấn vàng. Đến thời điểm hiện tại, Đức vẫn từ chối sử dụng kho dự trữ
vàng để gia tăng nguồn vốn cho Quỹ Bình ổn Tài chính châu Âu (EFSF).
1. Mỹ
Dự trữ vàng chính thức: 8,133.5 tấn
Tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối: 75.1%
Mỹ luôn là nước có kho dự trữ vàng lớn nhất thế giới xét về khối lượng kể từ
năm 1952. Khi đó, dự trữ vàng của Mỹ đạt tổng cộng 20,663 tấn. Năm 1968 đánh dấu
lần đầu tiên dự trữ vàng của Mỹ rớt mốc 10,000 tấn.
(Vietstock)
102
VẤN ĐỀ SỞ HỮU CHÉO & ĐẦU TƢ CHÉO TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CƠ
CẤU HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM60
Đinh Tuấn Minh
1. Dẫn nhập
Trong những năm gần đây hiện tượng sở hữu chéo liên quan đến hệ thống tín
dụng của Việt Nam đã trở thành một đề tài nóng, thu hút sự chú ý của giới chuyên gia
và hoạch định chính sách. Sở hữu chéo được xem như là một trong những nguyên
nhân quan trọng dẫn đến nợ xấu và nguy cơ thao túng các hoạt động kinh doanh tài
chính.
Mặc dù tác giả của bài viết này đồng ý với luận điểm trên (xem Đinh Tuấn
Minh, 2012), nhưng chúng tôi cho rằng để tìm ra được giải pháp phù hợp để giảm
hoặc hạn chế các tác hại của quan hệ sở hữu chéo trong nền kinh tế nói chung và liên
quan đến hệ thống tín dụng nói riêng cho tổng thể nền kinh tế thì trước hết chúng ta
cần phải tìm hiểu lợi ích của hiện tượng này, chí ít là cho những công ty tham gia vào
hình thành quan hệ sở hữu chéo. Nếu không có lợi ích kinh tế thì hiện tượng này
không thể tồn tài lâu dài. Việc tìm hiểu các lợi ích song song với tác hại của sở hữu
chéo sẽ cho ta một bức tranh đầy đủ hơn về các thuận lợi và khó khăn của quá trình tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam khi có sự hiện diện của quan hệ sở hữu chéo.
Bài viết này có cấu trúc như sau. Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ xem xét lợi
ích và tác hại của sở hữu chéo nói chung và liên quan đến hệ thống tín dụng nói riêng
từ góc độ lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế. Trong phần 3 chúng tôi sẽ đánh giá tình
trạng sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng của Việt Nam trên các khía cạnh: các hình
thức sở hữu chéo, nguyên dân dẫn đến sở hữu chéo, lợi ích và tác hại. Phần 4 sẽ trình
bày các trở ngại mà tình trạng sở hữu chéo liên quan đến hệ thống tín dụng có thể gây
ra khi tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cuối cùng sẽ là một số
khuyến nghị chính sách.
2. Cơ sở lý thuyết về sở hữu chéo: lợi ích và tác hại
2.1 Khái niệm và thực tiễn sở hữu chéo trên thế giới
Sở hữu chéo (cross ownership or partial cross ownership) là hiện tượng doanh
nghiệp này chiếm giữ cổ phần tại doanh nghiệp khác. Sở hữu chéo có thể phân thành
ba loại: (i) trực tiếp (khi công ty A có cổ phần tại công ty B), (ii) gián tiếp (khi A có
cổ phần tại B và B có cổ phần tại C, thì A sở hữu gián tiếp C), và (iii) sở hữu vòng
(circular ownership) (khi A có cổ phẩn tại B, B có cố phần tại C, C lại có cổ phần tại
A) (Temurshoev, 2011).
Sở hữu chéo là hiện tượng kinh tế phổ biến trong nhiều nền kinh tế như Đức,
Thụy Điển, Nhật Bản, và kể cả Mỹ. Chẳng hạn, theo nghiên cứu của Lott (1996), trong
lĩnh vực máy vi tính và ô tô của Mỹ giai đoạn 1994-1995, khoảng 77% cổ phần của
60 Một phần nội dung của bài viết đã được trình bày tại Hội thảo “RRủủii rroo ssởở hhữữuu cchhééoo vvàà đđầầuu ttưư cchhééoo:: tthhựựcc ttrrạạnngg
vvàà ggiiảảii pphháápp cchhoo tthhịị ttrrưườờnngg ttààii cchhíínnhh VViiệệtt NNaamm”” 31/07/2013, Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Hà Nội, Việt Nam.
Bài viết mới ở dạng thô, đề nghị không trích dẫn.
103
Intel và 71% cổ phần của Compaq được sở hữu bởi các công ty mà đồng thời sở hữu
một trong năm công ty trong lĩnh vực máy vi tính khác (như Apple, Compaq, IMB,
Intel, Microsoft, Motorola). Và 56% cổ phẩn của Chrysler được sở hữu bởi các công ty
mà đồng thời có cổ phần tại Ford và/hoặc General Motors.
Mối quan hệ sở hữu giữa các ngân hàng với doanh nghiệp đã từng được xem
như là một mô hình tổ chức đặc trưng của Đức và Nhật. Tại Đức, khối ngân hàng,
công ty bảo hiểm và các quỹ đầu tư sở hữu tới 37% giá trị cổ phiếu của các công ty
đại chúng niêm yết năm 1998 (Forlin, 2005, tr. 223). Còn tại Nhật, các định chế tài
chính (không bao gồm các quĩ đầu tư tín thác), nắm giữ tới gần 44% giá trị cổ phiếu
của các công ty đại chúng niêm yết vào năm 1989 và con số này đã giảm xuống còn
khoảng 40% vào năm 1998. Các tập đoàn lớn như Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo, Fuji,
Sanwa, Dai-Ichi Kangyo, DKB… đều sở hữu những ngân hàng lớn (Scher, 2001).
Mô hình ngân hàng nắm giữ cổ phần tại các doanh nghiệp của Đức và Nhật đã
từng được xem như là một đối trọng so với mô hình truyền thống Anh – Mỹ, nơi mà
hệ thống ngân hàng hoạt động tương đối tách biệt khỏi khu vực doanh nghiệp phi tài
chính ngân hàng. Mô hình này đã được áp dụng tại khác nhiều nước như Thụy Điển,
Hàn Quốc, và nhiều nước Đông Nam Á sau này như Thái Lan và Indonesisa. Tuy
nhiên, kể từ sau khi Nhật Bản rơi vào duy thoái trong đầu thập niên 1990 và sau
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1997, mô hình này đã không còn được ưa
thích nữa.
2.2 Lợi ích và tác hại của sở hữu chéo
Khi một doanh nghiệp sở hữu chéo một doanh nghiệp khác, đích hướng đến
của hành vi này không chỉ dừng lại ở việc đầu tư thông thường nhằm hưởng cổ tức
hay lãi vốn. Điều mà hành vi này hướng đến là tăng quyền lực kiểm soát (control
power). Kiểm soát quyền lực qua sở hữu chéo mang lại lợi ích cho doanh nghiệp trên
hai phương diện: giảm chi phí giao dịch cho một số các hoạt động hợp tác giữa các
bên liên quan và có khả năng thao túng thị trường. Trong khi hành vi hợp tác để giảm
chi phí giao dịch và thúc đẩy hoạt động sáng tạo làm tăng phúc lợi cho xã hội thì
ngược lại, hành vi thao túng thị trường lại được xem như là có hại cho phúc lợi xã hội.
Theo lý thuyết về chi phí giao dịch (Williamson, 1996), các công ty sẽ chọn mô
thức quản chế giao dịch khác nhau (thị trường, cấu trúc thứ bậc hãng, và các hình thức
lai hợp) với mỗi loại giao dịch tùy thuộc vào các đặc điểm của giao dịch (độ chuyện
biệt về tài sản, tần xuất giao dịch, và tính bất định) nhằm có được chi phí giao dịch ở
mức kinh tế nhất. Sở hữu chéo được coi như là một mô thức quản chế lai hợp trong cấu
trúc này. Sở hữu chéo đem lại lợi ích cho các bên liên quan trong các điều kiện sau:
• Chi phí thị trường lớn (thông tin kém minh bạch, hệ thống pháp lý yếu kém,
biến động thị trường mạnh)
• Hai bên liên quan đến các giao dịch có tính chuyên biệt cao, có tần xuất
thường xuyên xảy ra, các dự án có tính bất định cao.
Ngoài ra, sở hữu chéo có thể đem lại hiệu quả cao hơn tại các quốc gia có
truyền thống văn hóa tôn trọng kỷ luật (Đức) và danh dự cá nhân (Nhật) cao. Các đặc
tính văn hóa này giúp giảm các chi phí liên quan đến hành vi cơ hội chủ nghĩa khi
thực hiện các giao dịch có hiện diện của sở hữu chéo.
Lợi ích của sở hữu chéo trên khía cạnh này đã được các công ty áp dụng để
hình thành các tập đoàn, tại đó các thành viên sẽ sở hữu cổ phần lẫn nhau, đặc biệt là
104
giữa các công ty trong các ngành liên kết dọc. Quan hệ sở hữu chéo giúp các bên hiểu
nhau tốt hơn, giảm thiểu được các tác động tiêu cực từ các cú sốc bên ngoài, góp phần
ổn định kinh doanh. Với các hoạt động liên quan đến việc tạo ra các sản phẩm, dịch
vụ mới, quan hệ sở hữu chéo giúp các bên có thể tin cậy và dành nhiều thời gian hơn
cho nhau để gỡ rối các vấn đề nảy sinh giữa các công đoạn hoặc cấu phần sản xuất.
Sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp sản xuất và khu vực tài chính tín dụng giúp
cho doanh nghiệp được đảm bảo về nguồn tài chính với chi phí hợp lý. Điều này rất
quan trọng ở các thị trường mới nổi, nơi mà thị trường vốn chưa phát triển và khó huy
động được trên thị trường chứng khoán. Nhờ được đảm bảo về vốn, doanh nghiệp có
thể yên tâm đầu tư vào các dự án nghiên cứu và phát triển thường khá rủi ro và mất
khá nhiều thời gian.
Lợi ích của sở hữu chéo đối với hoạt động sáng tạo đổi mới đã được ghi nhận
bởi Cơ quan hoạch định chính sách kinh tế Nhật Bản (Japan Economic Planning
Agency - 1992) và nhiều nghiên cứu học thuật, tiêu biểu là O‟Sullivan (2001). Trong
công trình này O‟Sullivan đã chỉ ra rằng mô hình quản trị doanh nghiệp kiểu Đức và
Nhật cho phép các doanh nghiệp nước này có điều kiện tốt hơn các doanh nghiệp của
Anh - Mỹ trên khía cạnh sáng tạo đổi mới. Đấy chính là điều đã làm nên sự phát triển
thần kỳ của Đức và Nhật sau Thế chiến thứ II.
Mặc dù có những lợi ích như thế nhưng sở hữu chéo luôn bị giới học giả theo
trường phái Ănglê-Sacxông phản đối bởi sở hữu chéo có thể dẫn đến khả năng thao
túng thị trường. Khi một doanh nghiệp A nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp B, dù là
trực tiếp hay gián tiếp, thì A vẫn có thể kiểm soát tốt hơn các dự án/ hợp đồng hợp tác
với B hoặc thậm chí tác động vào việc định giá hay sản lượng cung ra thị trường của
B. Không những thế, nếu bản thân A cũng kinh doanh trong lĩnh vực của B thì A cũng
sẽ cân nhắc về việc định giá và cung ứng sản lượng của chính mình để sao cho không
ảnh hướng xấu đến lợi nhuận của B. Hay nói cách khác, khi tồn tại quan hệ sở hữu
chéo, ắt sẽ dẫn đến sự kiểm soát điều hành hay cấu kết giữa các doanh nghiệp có quan
hệ sở hữu trong cùng ngành để hưởng lợi nhuận từ việc tác động/ thao túng thị trường.
Mặc dù điều này có lợi cho các doanh nghiệp liên quan nhưng xét tổng thể nền kinh tế
thì sẽ làm kìm hãm cạnh tranh và giảm tính sáng tạo của nền kinh tế.
Đa phần các nghiên cứu thực nghiệm gần đây chỉ ra sự tồn tại của cấu kết
ngầm khi có sở hữu chéo. Cụ thể, các nghiên cứu của Parker và Roller (1997) trong
lĩnh vực điện thoại di động ở Mỹ, của Dietzenbacher et al. (2000) trong lĩnh vực tài
chính Đức, của Amundsen and Bergman (2002) trong lĩnh vực điện năng ở Thụy
Điển, và của Alley (1997) trong lĩnh vực ô tô ở Mỹ và Nhật đều ghi nhận tình trạng
này. Các nghiên cứu này chỉ ra rằng sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp trong ngành
sẽ làm cho mặt bằng giá của ngành sẽ tăng, làm giảm sản lượng, và do đó, làm giảm
phúc lợi xã hội.
Một lo ngại nữa của sở hữu chéo là nó hạn chế sự giám sát của cổ đông. Khi các
công ty sở hữu cổ phiếu của nhau, những người quản lý chứ không phải người nắm cổ
phần trực tiếp của doanh nghiệp (A) nắm giữa cố phần của doanh nghiệp kia (B) sẽ
giám sát hoạt động của doanh nghiệp (B). Trong trường hợp này những người quản lý
thường thiếu động cơ tối đa hoá lợi nhuận để thực hiện việc giám sát doanh nghiệp
trong tư cách của cổ đông. Hệ quả là các doanh nghiệp có sở hữu chéo thường hoạt
động không vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cho cổ đông mà thường là cho quyền lực
của nhà quản lý. Hành vi này sẽ khiến cho hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bị sụt
105
giảm và để duy trì lợi nhuận các doanh nghiệp lại càng có xu hướng cấu kết ngầm, gây
ảnh hưởng xấu đến phúc lợi chung của xã hội.
Cuối cùng, sở hữu chéo gây ra hiện tượng vốn ảo. Khi các doanh nghiệp phát hành
riêng lẻ cho nhau và không kèm theo việc thanh toán bằng tiền, các cổ đông nhỏ lẻ sẽ bị
thiệt hại do bị pha loãng. Số lượng cổ phiếu tăng trong khi nguồn vốn mới để phát triển
sản xuất thì lại thực chất không có. Thị giá của cổ phiếu vì thế sẽ giảm. Hành vi được
không khác gì việc cưỡng ép, tước đoạt tài sản của cổ đông nhỏ lẻ.
Như vậy, sở hữu chéo có những lợi ích nhất định cho nền kinh tế khi chi phí thị
trường lớn. Tuy nhiên, sự tồn tại của sở hữu chéo lại khiến cho thị trường bị tổn hại,
không phát triển được. Kết hợp hai luận điểm này ta có thể đưa ra nhận định rằng
trong ngắn hạn sở hữu chéo mang lại một số hữu dụng nhưng về dài hạn, sở hữu chéo
tạo ra cơ chế củng cố sự bền vững của chính nó với cái giá phải trả là sự tổn hại của
thị trường. Hàm ý chính sách dựa trên lý thuyết tổng quát về sở hữu chéo ở đây là:
chính sách giảm sở hữu chéo là điều nên làm, nhưng giảm sở hữu chéo được đến đâu
trên thực tế lại phụ thuộc vào việc xây dựng thị trường hiệu quả đến mức độ nào.
2.4 Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng: lợi ích và tác hại
Trong các mối quan hệ sở hữu chéo, sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng ngân hàng
bị giới học giả phê phán nhiều hơn cả. Bên cạnh lý do về cấu kết ngầm, sở hữu chéo trong hệ
thống tín dụng ngân hàng tạo ra rủi ro hệ thống do đặc thù của lĩnh vực này.
Có thể phân sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thành hai loại: (i) sở hữu
giữa doanh nghiệp và ngân hàng, theo đó doanh nghiệp sở hữu cổ phần của ngân hàng
hoặc ngân hàng sở hữu cổ phần của doanh nghiệp; và (ii) các ngân hàng nắm cổ phần
của nhau. Với loại sở hữu chéo thứ nhất, việc duy trì sở hữu chéo giúp cho ngân hàng
có thể bán được các sản phẩm (tín dụng doanh nghiệp, tín dụng cá nhân, các dịch vụ
thanh toán v.v.) cho các doanh nghiệp liên quan. Ngược lại, khi doanh nghiệp có mối
quan hệ sở hữu chéo với ngân hàng có thể dể dàng tiếp cận vốn hơn và với chi phí hợp
lý hơn cho các dự án trung và dài hạn hay có tính rủi ro cao (như các dự án phát triển
sản phẩm mới hoặc thị trường mới). Tuy nhiên, hệ quả của sở hữu chéo giữa doanh
nghiệp và ngân hàng là nguy cơ tạo ra các khoản vay thiếu cẩn trọng và việc sử dụng
vốn kém hiệu quả từ phía doanh nghiệp. Đây là mầm mống dẫn đến các khoản nợ xấu
lớn và thường được che đậy trong hệ thống ngân hàng.
Sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng với nhau có thể có thể đem lại một số
lợi ích nhất định trong việc dễ dàng hợp tác tài trợ vốn cho các dự án lớn, đòi hỏi sự
tham gia của nhiều ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng tạo ra các cấu kết ngầm tương tự
như ở các ngành khác. Các tổ chức tài chính có sở hữu chéo có thể liên minh với nhau
để khống chế giá (lãi suât, tỷ giá) trên thị trường tín dụng.
Lo lắng lớn nhất về tác hại của sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng là rủi ro
đổ vỡ hệ thống tài chính.Trong các mối quan hệ sở hữu chéo thông thường giữa các
doanh nghiêp với nhau, nếu có đổ vỡ thì chỉ có một vài doanh nghiệp liên quan bị liên
luy. Do các ngân hàng và tổ chức tín dụng là các trung gian tài chính, hoạt động của
chúng bị ràng buộc bởi tỷ lệ an toàn vốn. Khi các đối tác có quan hệ sở hữu chéo với
các tổ chức tín dụng bị thua lỗ, giá cổ phiếu sụt giảm hoặc phá sản sẽ khiến cho các tổ
chức tín dụng này không đáp ứng được tỷ lệ an toàn vốn. Điều này dẫn đến giảm năng
lực tín dụng và có thể khiến cho các tổ chức tín dụng đó rơi vào tình trạng mất thanh
khoản. Một khi điều này xảy ra, chúng sẽ kéo theo một loạt các tổ chức tín dụng khác
106
bị đóng băng thanh khoản do các tổ chức tín dụng đều có mối quan hệ tín dụng với
nhau qua hệ thống liên ngân hàng.
Đa phần các nghiên cứu thực nghiệm gần đây cho thấy sở hữu chéo trong hệ
thống tín dụng gây nhiều tác hại cho nền kinh tế hơn là ích lợi. Các nghiên cứu của
Laeven (1999) về vai trò của cấu trúc sở hữu đối với hành vi tín dụng rủi ro tại các
ngân hàng Đông Á và của Scher (2001) và Gilo (2007) về sở hữu chéo tại Nhật Bản
chỉ ra rằng sở hữu chéo là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến nợ xấu mang tính hệ
thống và đổ vỡ hệ thống tài chính tại các quốc gia châu Á và châu Mỹ la tinh trong vài
thập kỷ gần đây. Nghiên cứu của Forlin (2005) về lịch sử mối quan hệ giữa sở hữu và
kiểm soát doanh nghiệp tại Đức cho thấy mô hình này khá thành công cho đến thập
niên 1970 nhưng cũng đã bộc lộ những bất cập và được điều chỉnh mạnh theo hướng
giảm quan hệ sở hữu chéo giữa hệ thống ngân hàng và khu vực doanh nghiệp từ cuối
thập niên 1980. Còn nghiên cứu của Donnato và Tiscini (2009) về sở hữu chéo giữa
ngân hàng và doanh nghiệp tại Ý cho thấy mối quan hệ này khiến cho doanh nghiệp
phải chịu chi phí về lãi vay cao hơn so với trường hợp không tham gia vào sở hữu
chéo chứ không phải theo chiều ngược lại.
3. Sở hữu chéo và đầu tƣ chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam
3.1 Các dạng sở hữu chéo ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng ngân hàng đã ở
mức báo động. Các mối quan hệ sở hữu chéo được hình thành chằng chịt giữa các
ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), ngân hàng thương mại cổ phần
(NHTMCP), NHTM nước ngoài (NHTMNNg), các quĩ tài chính, doanh nghiệp nhà
nước (DNNN), và doanh nghiệp tư nhân. Trên cơ sở phân chia sở hữu chéo thành hai
nhóm giữa doanh nghiệp với tổ chức tín dụng và giữa các tổ chức tín dụng với nhau,
ta có thể chia thành các nhóm nhỏ sau:
1. Sở hữu của các NHTMNN và NHTMNNg tại các ngân hàng liên doanh:
Hiện tại có 6 ngân hàng liên doanh trong hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam.
Thông thường một ngân hàng liên doanh được sở hữu bởi một ngân hàng nước ngoài
và một ngân hàng trong nước. Chẳng hạn ngân hàng Việt Thái là ngân hàng liên
doanh giữa 3 đối tác lớn - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
(NHNo&PTNT), Ngân hàng Thương mại Siam của Thái Lan và Tập đoàn Charoen
Pokphand (CP) của Thái Lan với tỷ lệ vốn góp tương ứng là 34%, 33% và 33%; ngân
hàng Việt Nga là liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
và Ngân hàng VTB (trước là Ngân hàng Ngoại thương Nga Vneshtorgbank) với mức
góp vốn điều lệ ngang nhau.
2. Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM, cả nhà nước lẫn cổ phần:
đứng trước nhu cầu thu hút vốn và kỹ năng quản trị từ các định chế tài chính có kinh
nghiệm nước ngoài, NHNN đã có chủ trương khuyến khích các NHTM trong nước
tìm kiếm các đối tác nước ngoài làm cổ đông chiến lược. Đến thời điểm cuối 2011, có
khoảng 10 NHTM có đối tác chiến lược là các tập đoàn tài chính nước ngoài.
3. Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quĩ: Từ 2005 trở lại đây, các quĩ
quản lý vốn bắt đầu xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Các quỹ này thường đầu tư vốn vào
những NHTMCP có tiềm năng phát triển tốt. Chẳng hạn, Vinacapital đầu tư vốn vào
Sacombank, VOF đầu tư vào Eximbank, quỹ Dragon đầu tư vào ACB v.v...
4. Sở hữu của các NHTMNN tại các NHTMCP: Quan hệ sở hữu này hình thành
chủ yếu việc yếu kém nghiệp vụ ngân hàng của các NHTMCP trong giai đoạn đầu
107
thành lập cũng như trong giai đoạn khủng hoảng 1997-1998. Đến thời điểm cuối
2011, có 8 NHTMCP có quan hệ cổ phần với 4 NHTMNN. Tiêu biểu là Vietcombank,
hiện đang sở hữu 11% tại NH Quân Đội, 8,2% tại Eximbank, 4,7% tại NH Phương
đông, 5,3% tại NH Sài Gòn.
5. Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTMCP: Hiện tượng sở hữu lẫn nhau giữa các
NHTMCP cũng khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Từ những thông tin công bố của
các ngân hàng, hiện có ít nhất 6 NHTMCP có cổ đông là một NHTMCP khác. Chẳng
hạn, Eximbank hiện sở hữu 10,6% cổ phần tại Sacombank, 8,5% cổ phần tại NH Việt
Á.
6. Sở hữu NHTMCP bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân: trong
giai đoạn bùng nổ các NHTMCP và quỹ đầu tư tài chính, rất nhiều tập đoàn và tổng công
ty nhà nước đã tham gia góp vốn hình thành các tổ chức tín dụng này. Đến thời điểm cuối
2011có khoảng gần 40 các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có sở hữu trên 5% tại các
NHTMCP. Hơn nữa hầu hết các tập đoàn nhà nước đều có các công ty tài chính. Mối
quan hệ giữa NHTMCP với các tập đoàn tư nhân ngày càng trở nên phức tạp. Nhiều ngân
hàng có thể được sở hữu bởi rất nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia đình vốn
đồng thời lãnh đạo ở các doanh nghiệp khác.
7. Ngân hàng sở hữu các công ty chứng khoán, đầu tư tài chính, bảo hiểm, bất
động sản: trong giai đoạn từ 2007 trở lại đây nhiều ngân hàng có xu hướng chuyển
sang mô hình tập đoàn tài chính. Trong mô hình này, các ngân hàng sẽ tham gia góp
vốn thành lập các công ty con kinh doanh trong các lĩnh vực bất động sản, môi giới
chứng khoán, quản lý quĩ, bảo hiểm v.v... Thông tin thu thập từ 4 NHTMNN và 8
NHTMCP lớn nhất cho thấy 11/12 ngân hàng có công ty chứng khoán là công ty con
hoặc công ty liên kết, 8/12 ngân hàng có công ty quản lý quỹ, đầu tư tài chính, 9/12
ngân hàng có công ty con hoặc công ty liên kết đầu tư BĐS, và 5/12 ngân hàng có vốn
góp tại các công ty bảo hiểm.
108
Bảng 1: Tình trạng sở hữu các công ty chứng khoán, tài chinh, bảo hiểm,
và bất động sản của 12 ngân hàng thƣơng mại lớn nhất Việt Nam
Tên ngân hàng Công ty chứng
khoán
Công ty quản lý
quỹ/ đầu tƣ tài
chính
Công ty đầu tƣ
BĐS
Công ty bảo hiểm
VCB X X - -
BIDV X X X X
CTG X X X X
AGRIBANK X - - X
ACB X X X -
STB X X X -
MBB X X X X
TCB X X - -
EIB X - X -
SHB X X X X
MSB X - X -
SCB - - X -
Nguồn: thu thập bởi tác giả từ website và báo cáo tài chính các công ty. (Thông tin
cập nhật đến 30/8/2013)
Tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng ngân hàng của Việt Nam trở
nên nghiêm trọng khi các mối quan hệ này đã trở thành quan hệ sở hữu vòng. Các
NMTM hoặc những người đứng đầu các NHTM nắm giữ cổ phần tại các doanh
nghiệp; sau đó các doanh nghiệp hoặc những người đứng đầu các doanh nghiệp lại sở
hữu cổ phần tại các ngân hàng khác. Bức tranh sở hữu chéo nhằng nhịt giữa các
NHTM, công ty chứng khoán và quĩ đầu tư, doanh nghiệp, nhà đầu tư lớn… đã được
một báo cáo công phu gần đây của Chương trình giảng dạy Fulbright (xem Nguyễn
Xuân Thành, 2013).
3.2 Nguyên nhân dẫn đến sở hữu chéo trầm trọng trong hệ thống tín
dụng Việt Nam
Tình trạng sở hữu chéo của Việt Nam trở nên nghiêm trọng như trong thời gian
vừa qua không hẳn là vì Việt Nam thiếu vắng các qui định khống chế tình trạng này. Luật
các tổ chức tín dụng năm 2010 và trước đó đều có các điều khoản qui định để quản lý
tình trạng này. Cụ thể Luật các TCTD năm 2010 không cho phép các TCTD sở hữu cổ
phần lẫn nhau (khoản 5 điều 129); không cho phép các công ty con, công ty liên kết của
một TCTD được góp vốn, mua cổ phần của chính TCTD đó (Khoản 2 Điều 135); không
cho phép TCTD được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát; hạn chế cấp tín dụng cho một số đối
tượng và các công ty con v.v...
Tuy nhiên, bằng nhiều cách khác nhau các ngân hàng và tổ chức tín dụng vẫn
lún sâu vào mối quan hệ sở hữu chéo chằng chịt như đề cập ở trên. Để xảy ra tình
trạng này có những nguyên nhân sâu xa từ tình trạng kinh tế vĩ mô và vi mô của nền
kinh tế.
Nguyên nhân vĩ mô bao trùm là chính sách tiền tệ nới lỏng trong giai đoạn
2006-2010. Ngoại trừ 6 tháng cuối năm 2008, NHNN luôn duy trì lãi suất tái cấp vốn
109
ở mức khá thấp, từ 5% - 7,5%, trong cả giai đoạn 2005-2009, khiến cho mặt bằng lãi
suất huy động của các ngân hàng được duy trì ở mức thấp tương ứng, từ 7-8,5% trong
giai đoạn này. Đây chính là nguyên nhân khiến cho tín dụng của nền kinh tế bùng nổ.
Tốc độ tăng trưởng cung tiền, tín dụng và huy động bình quân hàng năm trong giai
đoạn 2006-2010 lần lượt là 32,5%, 35,5%, và 34,6%.
Tăng trưởng tín dụng nóng khiến cho các doanh nghiệp khó tiếp cận vốn ngân
hàng. Để có thể đáp ứng được nhu cầu tín dụng qui mô lớn, các doanh nghiệp cần liên
kết hoặc sở hữu ngân hàng để đảm bảo việc cung ứng vốn không bị gián đoạn. Tương
tự, các ngân hàng cũng chịu áp lực tăng trưởng tín dụng nên thường có xu hướng cho
các doanh nghiệp thân quen vay để giảm thời gian đánh giá và thẩm định hồ sơ. Khi
nhu cầu tín dụng của một nhóm doanh nghiệp quá lớn, việc sở hữu một ngân hàng sẽ
khó đáp ứng đủ nhu cầu, dẫn đến các ngân hàng phải liên kết với nhau thành nhóm và
ràng buộc bởi quan hệ sở hữu. Từ đây, mối quan hệ sở hữu chằng chịt giữa ngân hàng
với ngân hàng, ngân hàng với doanh nghiệp, ngân hàng và doanh nghiệp với nhà đầu
tư cá nhân xuất hiện. Nói cách khác, tăng trưởng tín dụng nóng là môi trường thích
hợp nhất để dung dưỡng và thúc đẩy sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng.
Một nguyên nhân khác dẫn đến mối quan hệ sở hữu chéo của Việt Nam trở nên
nghiêm trọng là quyết định chuyển đổi 13 ngân hàng nông thôn thành ngân hàng
thành thị trong giai đoạn 2005-2007. Các ngân hàng này trước khi chuyển đổi, vốn
điều lệ chỉ có khoảng vài chục đến vài trăm tỷ đồng. Tuy nhiên, theo yêu cầu vốn điều
lệ tối thiểu 3000 tỷ vào năm 2011, các NHTM này đã buộc phải tăng vốn chủ sở hữu
lên 10-20 lần chỉ trong vòng chỉ 5 năm. Hậu quả của việc phải phát triển với tốc độ
cực nhanh của nhóm các ngân hàng này là chúng phải tăng trưởng tài sản bằng mọi
giá để tương ứng với lượng vốn chủ sở hữu tăng thêm. Để tăng vốn chủ sở hữu với
tốc độ lớn như vậy trong thời gian ngắn các ngân hàng này buộc phải dựa vào vốn
đóng góp của chính các tập đoàn nhà nước và tư nhân, và tự biến mình thành “sân
sau” của các tổ hợp doanh nghiệp này. Một vấn đề khác nảy sinh khi tốc độ tăng vốn
chủ sở hữu quá nhanh của nhóm ngân hàng này là chính các tập đoàn đằng sau các
ngân hàng này cũng phải vay vốn từ các ngân hàng khác để đáp ứng yêu cầu. Và để
đáp ứng được nhu cầu vay vốn thì giữa các bên lại cần có mối quan hệ sở hữu.
Bên cạnh hai nguyên nhân vĩ mô trên là một số các nguyên nhân vi mô. Thứ
nhất là sự thiếu vắng nguồn nhân lực quản lý cấp cao tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam. Đây là một đặc thù của các nước đang phát triển. Khi số lượng các tổ chức
tín dụng tăng mạnh, nhu cầu nhân sự quản lý cao cấp cũng tăng theo. Tuy nhiên,
nguồn nhân lực trong nước không kịp đáp ứng dẫn đến những người nắm cổ phần chi
phối ngân hàng không thể tin tưởng giao phó việc điều hành hoàn toàn cho người
quản lý. Người chủ sở hữu phải trông cậy vào các mối quan hệ gia đình để điều hành
ngân hàng. Nhưng theo các quy định của Luật tổ chức tín dụng hiện hành thì sử dụng
mối quan hệ gia đình để điều hành ngân hàng là điều bị hạn chế. Để lách quy định, các
chủ ngân hàng có xu hướng thiết lập quan hệ sở hữu chéo để có thể quản lý được hoạt
động của ngân hàng thông qua các doanh nghiệp do những người thân trong gia đình.
Một vấn đề nữa dẫn đến tăng sở hữu chéo ở Việt Nam là sự thiếu minh bạch
thông tin của khu vực doanh nghiệp và khung pháp lý giải quyết nợ xấu, nợ khó đòi
còn chưa hoàn thiện. Khi thông tin thiếu minh bạch và nguy cơ mất vốn cao nếu như
xảy ra nợ xấu khiến cho ngân hàng luôn trong trạng thái nghi ngờ doanh nghiệp. Để
cấp vốn, ngân hàng thường yêu cầu nhiều thủ tục chứng minh khả năng trả vốn và lãi,
khiến cho rất nhiều doanh nghiệp khó có thể tiếp cận ngân hàng. Đây là mảnh đất màu
110
mỡ để quan hệ sở hữu chéo nảy sinh. Một khi có quan hệ sở hữu chéo, ngân hàng nắm
được tình hình của doanh nghiệp dễ dàng hơn và nhờ vậy việc cấp vốn cũng thông
thoáng hơn.
3.3 Đánh giá về lợi ích và tác hại của sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng
Việt Nam
Trước khi xem xét các tác hại mà sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng Việt
Nam gây ra cho nền kinh tế chúng ta cũng nên ghi nhận những mặt tích cực của quan
hệ này.
Trong bối cảnh năng lực quản trị của các ngân hàng TMCP của Việt Nam còn
yếu và quan hệ giữa các ngân hàng trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài còn
khó khăn thì các hình thức sở hữu chéo dưới dạng liên doanh, các định chế tài chính
nước ngoài là cổ đông lớn, hay quỹ đầu tư góp vốn sẽ mang lại những lợi ích nhất
định cho những ngân hàng này. Đặc biết trong bối cảnh tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
như hiện nay, do nguồn vốn trong nước hạn hẹp, việc tìm kiếm nguồn vốn từ các định
chế tài chính nước ngoài sẽ góp phần làm tăng hệ số an toàn vốn của các ngân hàng
TMCP nhỏ và yếu trong nước.
Hình thức sở hữu chéo giữa các NHTM và doanh nghiệp trong thời gian qua
cũng mang lại những lợi ích nhất định cho khu vực doanh nghiệp trên khía giúp các
doanh nghiệp này có thể huy động và tập trung vốn với qui mô lớn trong thời gian
ngắn để mở rộng sản xuất và thị trường. Nhờ thế nhiều tập đoàn tư nhân lớn đã xuất
hiện. Có thể quan sát qua các hiện tượng tập đoàn Tân Tạo (thông qua NH Nam Việt
và NH PHương Tây), tập đoàn Masan (thông qua liên kết với Techcombank), tập
đoàn BRG (qua Sea Bank), FPT và Doji (qua Tien Phong Bank), T & T (qua SHB),
Vạn Thịnh Phát (qua SCB), Him Lam Group (tại Liên Việt), Geleximco (tại ABB)…
Một số tập đoàn nhà nước cũng có liên kết chặt chẽ với các ngân hàng. Cụ thể
PVN có cổ phần tại OCEAN bank, Vinacomin tại SHB, EVN có vốn tại ABB, tập
đoàn cao su có cổ phần tại SHB, Vinatex tại Nam Việt, ACB, và Eximbank, Bảo Việt
có cổ phần tại NH Bảo Việt, Petrolimex có cổ phần tại NH petrolimex, Viettel có cổ
phần tại NH Quân Đội, PV Gas có cổ phần tại Sea Bank….Tuy nhiên, có thể mối
quan hệ này có lẽ khác với mục đích của các tập đoàn tư nhân là huy động vốn. Trên
thực tế, các tập đoàn nhà nước có thể huy động vốn khá dễ dàng từ các ngân hàng TM
nhà nước. Vì thế mục đích của các tập đoàn nhà nước khi đầu tư vào các ngân hàng có
lẽ thuần tuý vì mục đích lợi nhuận nhiều hơn.
Mặc dù có một số lợi ích như vậy nhưng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng
của Việt Nam được đánh giá là có nhiều tác hại. Trước hết, sở hữu chéo khiến cho các
NHTMCP cho vay thiếu cẩn trọng và tập trung nhiều vào một số doanh nghiệp. Khi
vốn được dồn vào cho một số ít doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh
doanh bất động sản, thì khi các doanh nghiệp này rơi vào thua lỗ, các khoản vay sẽ trở
thành nợ xấu. Điều này có thể đã xảy ra với một số NHTMCP trong thời gian qua khi
mà giá bất động sản suy giảm mạnh.
Đối với các tập đoàn nhà nước, việc đầu tư vào các ngân hàng khiến cho vốn
tại các tập đoàn này bị phân tán. Các tập đoàn nhà nước thường có thể tiếp cận nguồn
vốn với lãi suất mềm hơn so với các doanh nghiệp tư nhân. Nhưng khi không mang
vốn này đầu tư vào lĩnh vực trọng điểm của mình mà lại bơm vốn vào các NHTMCP
thì thực chất dòng vốn ưu đãi dành cho các tập đoàn nhà nước lại bị chảy sang các
111
lĩnh vực đầu tư có rủi ro cao như BĐS. Điều này làm giảm hiệu quả chính sách đầu tư
của nhà nước.
Sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng của Việt Nam có thể dẫn đến hiện tượng
lũng đoạn thị trường tài chính ngân hàng. Mặc dù điều này tuy chưa được xác nhận
nhưng một số vụ án trong lĩnh vực tài chính ngân hàng trong năm 2012 có vẻ như
minh chứng cho điều này.
4. Những vấn đề cần giải quyết trong sở hữu chéo và đầu tƣ chéo trong
quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng việt Nam
4.1 Các nội dung chính trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt
Nam
Theo đề án tái cơ cấu hệ thống tín dụng ngân hàng mà NHNN trình Chính phủ
thì mục đích của quá trình này là nhằm để giải quyết các vấn đề sau:
Hỗ trợ khả năng thanh toán (solvency) cho các ngân hàng yếu kém. Đây là
bước đầu tiên của quá trình tái cơ cấu. Hành động ở đây chủ yếu được thực
hiện thông qua các hình thức sáp nhập hoặc giải thể các tổ chức tín dụng yếu
kém và tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng có độ an toàn vốn thấp. Cho tới
nay, NHNN đã thực thi bước này thông qua việc thực hiện sáp nhập 8/9 ngân
hàng yếu kém vào với nhau hoặc với tổ chức tài chính mạnh hơn. Ngoài ra,
NHNN cũng thực hiện các hành động tái cấp vốn cho một số ngân hàng có sức
khoẻ tài chính yếu. Có thể nói, cho đến nay, khả năng thanh toán của các tổ
chức tín dụng đã được cải thiện rất nhiều so với giai đoạn cuối 2011 và đầu
2012.
Bước tiếp theo là xử lý nợ xấu có tính hệ thống để cải thiện thanh khoản hệ
thống (liquidity). NHNN đã thực hiện một số chính sách để xử lý nợ xấu như
yêu cầu các ngân hàng tăng trích lập dự phòng, cơ cấu lại kỳ hạn nợ và đặc biệt
là việc ra đời Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) để giải quyết nợ xấu.
Bước cuối cùng là xây dựng các chuẩn mực an toàn mới cho các tổ chức tín
dụng trong hệ thống. Một khi sức khoẻ của các tổ chức tín dụng được hồi phục,
để đảm bảo an toàn trong lâu dài, NHNN đang hướng các NHTM cải thiện
năng lực quản trị rủi ro. Các chuẩn mực quản trị rủi ro và an toán vốn theo
Basel II đang được nghiên cứu và áp dụng dần tại các NHTM.
Câu hỏi đặt ra ở đây là tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống tín dụng ngân hàng
của Việt Nam như chúng ta mô tả ở trên ảnh hưởng đến tiến độ tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng như thế nào? Có hai ảnh hưởng có thể kể đến: vấn đề sụt giảm giá vốn và
khả năng ngưng trệ đầu tư khi cố ép giải quyết vấn đề sở hữu chéo.
4.2 Vấn đề sụt giảm giá vốn
Ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình tài cấu trúc hệ thống tín dụng ngân hàng của
sở hữu chéo là nguy cơ sụt giảm giá vốn khi tiến hành loại trừ sở hữu chéo.
Trong điều kiện nền kinh tế chưa khởi sắc, việc thoái vốn có thể khiến cho bên
sở hữu cổ phần (A) tại đơn vị liên quan (B) có thể khiến cho doanh nghiệp A phải ghi
nhận thua lỗ. Đây là một điều rất khó cho các doanh nghiệp nhà nước đầu tư ngoài
ngành bởi việc phải ghi nhận lỗ như vậy sẽ ảnh hưởng đến thành tích kinh doanh của
doanh nghiệp.
112
Ngoài ra, khi bị thoái vốn thị giá cổ phiếu của ngân hàng mà doanh nghiệp đầu
tư cũng chịu sức ép giảm do tăng cung. Nếu đây là các NHTMCP gia đình thì sẽ có
thể gặp sự kháng cự từ người chủ sở hữu. Yêu cầu thoái vốn như vậy sẽ khiến cho các
chủ đầu tư tư nhân này thua lỗ ở cả hai đầu.
Bởi phải ghi nhận thua lỗ và bởi không còn được cấp vốn từ các thành viên gia
đình, các NHTMCP sẽ khó có thể huy động thêm nguồn vốn mới để giải quyết nợ xấu.
Trong trường hợp này, gánh nặng xử lý nợ xấu sẽ đặt lên vai VAMC sẽ lớn hơn.
Giải pháp cho vấn đề sụt giảm giá vốn khi loại bỏ sở hữu chéo tuỳ thuộc vào
mối quan hệ sở hữu chéo này là gì. Nếu A và B đều là các tổ chức tín dụng thì giải
pháp tốt nhất là sáp nhập với nhau và ghi nhận thua lỗ và sụt giảm vốn chủ sở hữu.
NHNN hỗ trợ khả năng thanh toán trong giai đoạn đầu hoặc bằng tái cấp vốn hoặc
bằng góp vốn. Trong trường hợp nếu B là ngân hàng và A là doanh nghiệp phi tài
chính thì cách tốt nhất là A bán lại cho tổ chức tài chính nước ngoài có năng lực tài
chính tốt và cho phép tổ chức tài chính nước ngoài nắm cổ phần chi phối bằng cách
yêu cầu bơm thêm vốn. Và cuối cùng nếu A là ngân hàng và B là doanh nghiệp phi tài
chính thì ngân hàng có thể phải dùng vốn chủ sở hữu để ghi nhận thua lỗ và xin hỗ trợ
tái cấp vốn từ NHNN.
4.3 Vấn đề ngƣng trệ đầu tƣ
Một vấn đề khác nảy sinh khi xoá bỏ sở hữu chéo giữa doanh nghiệp và ngân
hàng là doanh nghiệp có thể sẽ bị mất nguồn cung ứng tín dụng cho các dự án có tính
trung và dài hạn. Bởi doanh nghiệp đã đầu tư nhiều vào một dự án, nay không còn
được cung ứng vốn đề hoàn thành thì ắt sẽ khiến cho dòng tiền bị ngưng trệ và doanh
nghiệp có thể mất khả năng thanh toán cho các khoản đầu tư trước đây. Điều này
khiến cho nợ xấu tại ngân hàng có quan hệ sở hữu chéo trước đây tăng lên. Trong
trường hợp các dự án được tài trợ vốn có tính trung và dài hạn là các dự án tốt và phải
bị ngưng lại vì không còn tiếp tục được cung ứng vốn thì sẽ ảnh hưởng đến tăng
trưởng chung của nền kinh tế ở một mức độ nào đó.
Để giải quyết hiện tượng này các bên cần có những cam kết tiếp tục đảm bảo
cung ứng tín dụng ngắn hạn cho phía doanh nghiệp khi mối quan hệ sở hữu chéo
chấm dứt. Điều này nên được duy trì một thời gian để doanh nghiệp có thể tìm kiếm
thêm các nguồn cung vốn mới. Đối với nguồn vốn trung và dài hạn, thì việc rà soát lại
từng dự án cụ thể là cần thiết để tìm ra các dự án tốt. NHNN có thể phải cùng ngồi lại
với chủ sở hữu mới và chủ sở hữu cũ để đảm bảo điều này.
4.4 Thị trƣờng tín dụng, thị trƣờng vốn, và thị trƣờng các nhà quản lý
Như chúng ta đã phân tích ở trên, vấn đề sở hữu chéo về bản chất có nguyên
nhân từ sự yếu kém của thị trường. Vì thế, giải pháp dài hạn để ngăn chặn sở hữu chéo
cần tập trung mạnh hơn vào việc xây dựng thị trường tín dụng và thị trường vốn minh
bạch, có chi phí giao dịch thấp. Cụ thể cần có các giải pháp sau:
Thông tin minh bạch: áp dụng và ban hành các chuẩn mực kế toàn quốc tế cho
thị trường vốn, định giá tài sản, với các thuyết minh rõ ràng.
Hệ thống pháp lý tốt hơn: Tập trung vào việc làm cho quyền sở hữu trở nên rõ
ràng đặc biệt với các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước; việc phát mại
tài sản cũng cần dễ dàng và thủ tục phá sản cần nhanh gọn để khiến cho ngân
hàng có thể yên tâm hơn khi cho doanh nghiệp vay.
113
Năng lực giám sát thị trường tín dụng và thị trường vốn hiệu quả hơn.
Xây dựng chỉ số tín nhiệm doanh nghiệp: công việc này giúp cho ngân hàng có
thể thêm nguồn thông tin đánh giá thể trạng của doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp để vay được vốn cũng cần minh bạch hơn và sẵn sàng chấp nhận để cho
bên ngoài đánh giá.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến hiện tượng sở hữu chéo là quan hệ gia đình trong
quản lý doanh nghiệp của Việt Nam vẫn còn nặng nề. Đây là vấn đề văn hoá không chỉ
ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước châu Á khác. Nhà nước và xã hội cần có những
chương trình vận động và tư vấn để các chủ doanh nghiệp, đặc biệt là những người liên
quan đến hệ thống tài chính ngân hàng, nhận ra rằng việc thuê nhà quản lý chuyên
nghiệp điều hành sẽ sinh lợi cho gia sản của mình nhiều hơn. Đây là điều đã xảy ra ở
các nước phát triển đi trước bởi các hoạt động kinh doanh phức tạp thì cần đòi hỏi nhiều
hơn các tính toán duy lý thay vì là quan hệ dựa trên tình cảm.
Tài liệu tham khảo (chƣa cập nhật đầy đủ)
Donato, F. và R. Tiscini (2009). “Cross ownership and interlocking directorates
between banks and listed firms: an empirical analysis of the effects on debt leverage and cost
of debt in the Italian case”, Corporate Ownership and Control, 6(3), pp. 473-481.
Fohlin, C. (2005). “The History of Corporate Ownership and Control in Germany”, trong
Morck, R.K., A History of Corporate Governance around the World: Family Business Groups to
Professional Managers, University of Chicago Press.
Japan Economic Planning Agency [1992] White Paper: Economic Survey of Japan,
1991-92. Tokyo.
Nguyễn Xuân Thành và Đỗ Thiên Anh Tuấn (2013). Nhận diện thực trạng và đánh
giá ảnh hưởng của sở hữu chéo trong hệ thống tài chính. Thuyết trình tại Hội thảo “rủi ro sở
hữu chéo và đầu tư chéo: thực trạng và giải pháp cho thị trường tài chính Việt Nam” do
NFSC tổ chức ngày 31/7/2013, Hà Nội.
Scher, M. (2001). “Bank-firm cross-shareholding in Japan: what it is, why does it
matter, its it winding down?”, DESA Discussion Paper No. ST/ESA/199/DP. 15.
Trivieri, F. (2005). “Does cross-ownership affect competition? Evidence from the
Italian banking industry”, Journal of Intl. Financial Markets, Institutions and Money, 17, p.
79-101.
114
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ ĐẦU TƢ CÔNG
TS.Vũ Nhữ Thăng
Viện trƣởng Viện CL&CSTC
Năm 2013 là năm thứ ba của kế hoạch 5 năm 2011-2015, do đó kết quả của
việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2013 có vai
trò quan trọng, đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ tài chính – NSNN
5 năm 2011-2015. Bám sát diễn biến tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, ngay từ
đầu năm 2013, Chính phủ đã chủ động ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP ngày
07/01/2013 về giải pháp chủ yếu chỉ đạo thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
và dự toán NSNN năm 2013, Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 về giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
1. Chính sách thu, chi NSNN 2013 và kết quả
- Chính sách thu NSNN tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong
khi chính sách chi NSNN nghịch chu kỳ61
bị hạn chế, đồng thời phải thắt chặt ở
một số nội dung chi.
Trên cơ sở Nghị quyết 01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013
của Chính phủ, chính sách tài khóa năm 2013 được thực hiện theo hướng tập trung
tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường. Trong đó, chính sách thu
NSNN tập trung vào ba nhiệm vụ lớn62
với trọng tâm là tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp thông qua thực hiện giãn, giảm thuế đối với một số sắc thuế, khoản thu NSNN
nhằm mục đích giảm bớt gánh nặng về nghĩa vụ tài chính trước mắt của doanh nghiệp
đối với Nhà nước cũng như giảm gánh nặng về chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp hạ giá thành và tiêu thụ được sản phẩm, thúc
đẩy doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở điều chỉnh chính sách thu nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
theo Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ, việc xây dựng và ban
hành các hướng dẫn và tổ chức thực hiện gia hạn, giảm một số khoản thu NSNN về cơ
bản đã được tiến hành khẩn trương, kịp thời63
.
61 Chính sách tài khóa theo nghĩa nghịch chu kỳ, đó là khi nền kinh tế đi vào suy giảm thì chính sách tài khóa
phải mở rộng và khi nền kinh tế phát triển nhanh thì chính sách tài khóa phải giảm bớt đi để có dư địa cho
những can thiệp sau này. 62 Đó là: (1) Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trên cơ sở thực hiện các biện pháp giảm, giãn thuế đối với một
số sắc thuế, khoản thu NSNN (Cụ thể là gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế giá trị
gia tăng (GTGT) và thời hạn nộp tiền sử dụng đất; giảm tỷ lệ thu đối với một số khoản thu NSNN như thuế
TNDN, thuế GTGT và hoàn lại tiền thuế bảo vệ môi trường đã nộp,…); (2) Hoàn thiện hệ thống chính sách thu
NSNN; (3) Tăng cường quản lý thu, chống thất thu và xử lý nợ đọng thuế. 63 Như đã ban hành Thông tư 16/2013/TT-BTC ngày 08/02/2013 hướng dẫn thực hiện gia hạn, giảm một số
khoản thu NSNN; Thông tư 30/2013/TT-BTC ngày 18/3/2013 về việc hoàn lại tiền thuế bảo vệ môi trường đã
nộp từ ngày 01/01/2012 đến hết ngày 14/11/2012 đối với túi nylon làm bao bì đóng gói sẵn sản phẩm theo quy định tại Nghị định 69/2012/NĐ-CP; Nghị định 23/2013/NĐ-CP ngày 25/3/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 45/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 về lệ phí trước bạ; Nghị định 92/2013/NĐ-CP ngày 13/8/2013
quy định chi tiết một số điều có hiệu lực từ 01/7/2013 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của thuế giá trị gia tăng;…
115
Cùng với việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thì công tác quản lý thu
NSNN, chống thất thu NSNN cũng được quan tâm, chú trọng64
. Trong đó, tập trung rà
soát, nắm chắc đối tượng, nguồn thu, phấn đấu thu ở các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn
có khả năng tăng thu để bù đắp các phần giảm thu do thực hiện chính sách giảm, giãn
thời hạn nộp thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế, quyết
toán thuế được tăng cường, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thuế,
phí, lệ phí và thu khác vào NSNN. Thực hiện quản lý chặt chẽ công tác hoàn thuế, bảo
đảm đúng đối tượng, đúng chế độ quy định, công khai, minh bạch, chống thất thu và
xử lý nợ đọng.
Chính sách chi NSNN trong nửa đầu năm 2013 không có gì khác biệt so với
năm 2012 nhưng sau quý II/2013, do tác động của việc thực hiện chính sách thu
NSNN cũng như ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế chậm lại65
đã tác động làm giảm
thu NSNN gây khó khăn trong việc đảm bảo nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ đặt ra
nên chính sách chi NSNN đã được điều chỉnh theo hướng chặt chẽ, tiết kiệm, đồng
thời thực hiện rà soát, cơ cấu lại chi NSNN, tăng cường kiểm soát quản lý chi
NSNN66
.
Một số điều chỉnh trong chính sách chi NSNN 2013
Thực hiện cắt giảm chi đối với một số khoản chi NSNN67
, đồng thời rà soát,
sắp xếp lại các nhiệm vụ chi thường xuyên, thực hiện tiết kiệm thêm 10% dự toán chi
thường xuyên còn lại của 7 tháng cuối năm 2013 (không bao gồm các khoản: chi tiền
lương, phụ cấp theo lương, các khoản chi cho con người theo chế độ; tiết kiệm 10%
chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo dự toán đầu năm và tiết kiệm
10% chi thường xuyên tăng thêm đang giữ lại ở các cấp ngân sách); tiết kiệm tối thiểu
20% chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu; tiết kiệm tối thiểu
30% dự toán kinh phí đã phân bổ cho các nhiệm vụ chi tổ chức lễ hội, tiếp khách, hội
nghị, hội thảo, đi công tác trong và ngoài nước,... Không bổ sung các đề án, chương
trình, ban hành các chính sách mới hoặc nâng định mức làm tăng chi NSNN khi chưa
xác định được nguồn đảm bảo. Đối với chi đầu tư, thực hiện kiểm soát chặt chẽ việc
lập, thẩm định, phê duyệt các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn NSNN và TPCP; tăng
cường công tác quản lý nhằm giảm tối đa nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) thông
qua việc: i) Rà soát tình hình nợ đọng XDCB và xác định trách nhiệm của từng cấp,
cơ quan; ii) Cân đối nguồn xử lý nợ đọng XDCB; iii) Không yêu cầu doanh nghiệp
ứng vốn thực hiện dự án khi chưa được bố trí vốn, dẫn đến hậu quả phát sinh nợ đọng
XDCB; iv) Không sử dụng vốn vay ngân sách địa phương để bố trí cho các dự án khởi
công mới khi chưa xác định hoặc thẩm định được nguồn vốn để hoàn trả.
64 Chỉ thị 09/CT-TTg ngày ngày 24/5/2013 về tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính –
NSNN năm 2013. 65 Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2013 đạt 5%. 66 Chỉ thị 09/CT-TTg ngày 24/5/2013 về tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính – NSNN
năm 2013, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/6/2013 về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ
bản từ nguồn NSNN và trái phiếu Chính phủ (TPCP). 67 Thực hiện cắt giảm chi, thu hồi để bổ sung dự phòng ngân sách trung ương và dự phòng ngân sách địa
phương đối với: số vốn đầu tư và kinh phí chi thường xuyên đã giao trong dự toán năm 2013 của các Bộ, cơ
quan Trung ương và địa phương nhưng đến ngày 30 tháng 6 năm 2013 chưa phân bổ hoặc phân bổ không đúng quy định; vốn đầu tư thuộc kế hoạch năm 2013 đã phân bổ cho các dự án nhưng đến ngày 30 tháng 6 năm 2013
chưa triển khai thực hiện và các khoản vốn, kinh phí đơn vị sử dụng sai quy định. Cắt giảm hoặc lùi thời gian
thực hiện các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp thiết, các khoản chi mua sắm trang thiết bị, xe ô tô; hạn chế tối đa
tổ chức hội nghị, hội thảo quốc gia, lễ khởi công, khánh thành, công bố quyết định…
116
(Nguồn: Chỉ thị 09/CT-TTg ngày 24/5/2013 về tăng cường chỉ đạo điều hành
thực hiện nhiệm vụ tài chính – NSNN năm 2013, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày
28/6/2013 về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn
NSNN và trái phiếu Chính phủ)
Có thể thấy, trong bối cảnh kinh tế suy giảm, tăng trưởng thấp với những khó
khăn kéo dài từ những năm trước sang thì việc điều chỉnh chính sách tài khóa năm
2013 xét về ngắn hạn là phù hợp với tình hình và bối cảnh. Việc ban hành Nghị quyết
02/NQ-CP ngày 07/01/2013 ngay từ đầu năm đã thể hiện sự chủ động, tích cực của
Chính phủ và nỗ lực, quyết tâm giải quyết những khó khăn, vướng mắc nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Kết quả, thu NSNN đạt thấp so với tiến độ đề ra và chậm hơn so với cùng
kỳ các năm trước. Chi NSNN đảm bảo nguồn lực thực hiện tốt các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội nhưng áp lực chi NSNN lớn.
+ Thu NSNN đạt thấp so với tiến độ đề ra và chậm hơn so với cùng kỳ các năm trước
Trên cơ sở thực hiện chính sách thu, chi NSNN những tháng đầu năm 2013,
tổng thu NSNN tháng 8 bằng 6,1% dự toán năm, đạt mức thấp trong các tháng kể từ
đầu năm 201368
. So với cùng kỳ các năm trước thì số thu NSNN tháng 8/2013 vẫn đạt
cao hơn nhưng tốc độ tăng thu đã có xu hướng giảm đi rõ rệt. Lũy kế thu NSNN 8 tháng
đầu năm 2013 ước đạt 59,4% dự toán69
, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó,
thu nội địa đạt 58,2% dự toán70
, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2012 (không kể thu
tiền sử dụng đất thì đạt 59,4% dự toán, tăng 13,1% so với cùng kỳ); thu từ dầu thô đạt
73,7% dự toán71
; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 59,4% dự toán, sau khi thực hiện
hoàn thuế giá trị gia tăng, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 54,1%
dự toán, tăng 18,3% cùng kỳ năm 2012.
Đến hết tháng 8/2013, ước tính có 23 địa phương thu đạt yêu cầu tiến độ dự
toán, chủ yếu là các địa phương có số thu nhỏ; 40 địa phương còn lại tiến độ thu chưa
đạt yêu cầu, trong đó có các địa phương trọng điểm thu như: Hà Nội, thành phố Hồ
Vũng Tàu... So với cùng kỳ năm 2012, có 57 địa phương thu đạt và vượt, tuy nhiên
mức tăng không lớn; 6 địa phương còn lại (Hà Nội, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum,
Đắc Lắc và Đắk Nông) thu thấp hơn.
Có thể thấy, thu NSNN đạt thấp so với tiến độ đề ra72
và chậm hơn so với cùng
kỳ các năm trước. Số thu nội địa đạt thấp là do: (i) thực hiện các biện pháp giãn, giảm
thuế theo Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp73
; (ii) tăng trưởng kinh tế đạt thấp74
so với kế hoạch đề ra cũng tác động ảnh
68
Xét về số tuyệt đối thì trừ tháng 2 (do vào dịp Tết Nguyên đán nên số thu NSNN tháng 2/2013 đạt thấp so với
các tháng còn lại), số thu NSNN tháng 8 đạt thấp nhất trong tất cả các tháng đầu năm 2013. 69 Không kể số ghi thu ghi chi đầu tư trở lại cho Tập đoàn Dầu khí từ khoản tiền lãi dầu khí nước chủ nhà phát
sinh giai đoạn 2006-2011 thì thu NSNN 8 tháng đạt 58,3% dự toán, tăng 6,6% so với cùng kỳ 2012. 70 So với dự toán, cùng kỳ năm 2010 đạt 74,2%; năm 2011 đạt 74,4% dự toán; năm 2012 đạt 60,4% dự toán.
71 Trên cơ sở giá dầu bình quân 8 tháng đạt khoảng 111,5 USD/thùng, tăng 21,5 USD/thùng so với giá xây dựng
dự toán; sản lượng thanh toán ước đạt 9,9 triệu tấn, bằng 70% kế hoạch.
72 Theo tiến độ dự toán thì thu NSNN 8 tháng 2013 phải đạt 67% dự toán. 73 Dự kiến tác động của việc thực hiện Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 làm giảm thu NSNN năm 2013
khoảng hơn 5.300 tỷ đồng. Thực tế triển khai thực hiện thì số thuế GTGT được gia hạn tạm tính đến 23/8/2013
117
hưởng tới số thu ngân sách; (iii) tình hình doanh nghiệp mặc dù đã được cải thiện hơn
nhưng mức độ cải thiện còn hạn chế75
; (iv) diễn biến thị trường bất động sản những
tháng đầu năm còn trầm lắng đã ảnh hưởng tới số thu từ đất. Đối với thu từ hoạt động
xuất nhập khẩu, tiến độ thu ngân sách từ lĩnh vực này đạt thấp chủ yếu do kim ngạch
xuất nhập khẩu của một số mặt hàng có giá trị lớn, thuế suất cao giảm mạnh76
. Riêng
số thu NSNN từ dầu đạt khá chủ yếu là do sản lượng khai thác tăng hơn so với các
năm trước77
và giá dầu thanh toán bình quân cao hơn so với giá xây dựng dự toán. Kết
quả thu NSNN đạt thấp cũng cho thấy nền kinh tế còn nhiều khó khăn đòi hỏi cần
phải được tiếp tục tháo gỡ những rào cản và tăng trưởng kinh tế cũng như tăng trưởng
thu NSNN phụ thuộc rất nhiều vào những hành động chính sách trong những tháng
còn lại của năm 2013.
+ Chi NSNN đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nhưng
áp lực chi NSNN cao
Chi NSNN tháng 8/2013 ước đạt 7,7% dự toán năm, thấp hơn chút so với cùng
kỳ các năm trước78
; Lũy kế chi NSNN 8 tháng đầu năm 2013 ước đạt 61,8% dự toán,
tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó chi đầu tư phát triển ước đạt 60,6% dự
toán79
; chi trả nợ, viện trợ đạt 65,7% dự toán, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2012; chi
phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính (bao
gồm chi thực hiện cải cách tiền lương) ước đạt 63,7% dự toán, tăng 9,7% so với cùng
kỳ năm 2012. Nhìn chung, trong 8 tháng đầu năm, mặc dù thu NSNN khó khăn nhưng
công tác tổ chức điều hành NSNN đã được triển khai tích cực, chủ động, đảm bảo
nguồn đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi theo dự toán; đảm bảo nguồn kinh phí thực hiện
chính sách tăng lương cơ sở (từ 1.050.000 đồng/tháng lên 1.150.000 đồng/tháng) từ
01/7/2013 và bổ sung kinh phí cho công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai,
là 4.245,1 tỷ đồng cho 104.015 doanh nghiệp, thuế TNDN được gia hạn là hơn 952,5 tỷ đồng của 45.252 lượt
doanh nghiệp. 74 Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2013 đạt 5%. 75 Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng dần theo từng tháng (5 tháng tăng 4,8%; 6 tháng tăng 7,6%; 7
tháng tăng 8,4% và 8 tháng ước tăng 9,5% so với cùng kỳ). Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tuy vẫn tăng
so với cùng kỳ nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần (4 tháng tăng 16,9%; 5 tháng tăng 13%; 6 tháng tăng
12,3%; 7 tháng tăng 11,1%; 8 tháng tăng 11,3%). Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại hoạt
động cũng tăng dần qua từng tháng (4 tháng khoảng 8,3 nghìn DN, 5 tháng khoảng 8,8 nghìn DN, 6 tháng
khoảng 9,3 nghìn DN; 7 tháng khoảng 10 nghìn DN và 8 tháng có khoảng 10,7 nghìn DN). Tuy nhiên, số DN
ngừng hoạt động vẫn tăng so với cùng kỳ. Số vốn đăng ký của DN thành lập mới vẫn có xu hướng giảm (4
tháng 2013 giảm 14,1%; 5 tháng giảm 16,3%; 6 tháng giảm 19,9% và 7 tháng giảm 17,5%) do những khó khăn
của nền kinh tế và khả năng huy động vốn của nhà đầu tư. Một số ngành có số doanh nghiệp thành lập mới giảm so với cùng kỳ năm 2012, như nông, lâm nghiệp và thủy sản, kinh doanh bất động sản, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, xây dựng; sản xuất, phân phối điện, gas. Một số ngành có số doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh có thời
hạn và ngừng hoạt động tăng như nông, lâm nghiệp và thủy sản; tài chính ngân hàng và bảo hiểm; kinh doanh
bất động sản; xây dựng; sản xuất, phân phối điện, nước, gas; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô xe máy; vận tải kho
bãi, khai khoáng; giáo dục đào tạo. 76 Đến tháng 8/2013, mặt hàng than đá giảm 0,3% về lượng và 20,3% về giá trị; xăng dầu các loại giảm 26% về
lượng và 28% về giá trị; xe máy nguyên chiếc giảm 35,5% về lượng và 12,5% về giá trị; linh kiện và phụ tùng
xe máy giảm 22,4% về giá trị....
77 8 tháng năm 2013 sản lượng dầu khai thác ước đạt 9,9 triệu tấn, côn số này năm 2012 là 9,6 triệu tấn; năm
2011 là 8,9 triệu tấn; năm 2012 là 9,2 triệu tấn.
78 Chi NSNN tháng 8/2012 và 8/2011 so với dự toán năm đều đạt 7,8% và chi NSNN 8/2010 là 8,4% (Nguồn:
Bộ Tài chính). 79 trong đó, giải ngân vốn đầu tư XDCB vốn NSNN đạt khoảng 60,3% dự toán. Ngoài ra, NSNN đã thực hiện
cấp bù lãi suất tín dụng nhà nước cho Ngân hàng Phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 73,9% dự toán;
chi cho vay chính sách đối với học sinh sinh viên đạt 71% dự toán; chi bổ sung dự trữ quốc gia đạt 69,1% dự
toán....
118
dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng, an ninh... Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế vẫn còn
nhiều khó khăn, áp lực tăng chi vẫn cao (trong 8 tháng đầu năm số lượng các chính sách
mới làm tăng chi NSNN80
vẫn được ban hành nhiều đã ảnh hưởng tới việc cân đối, quản
lý, điều hành NSNN).
+ Tái cơ cấu đầu tư công còn chậm
Tái cơ cấu đầu tư công được triển khai thực hiện trong tất cả các cấp, các
ngành, các doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được những kết quả bước đầu về cơ bản
là đúng hướng. Việc rà soát và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến
phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính công gắn với quá trình tái cơ cấu kinh
tế đã được triển khai mạnh mẽ81
. Theo đó, việc lập và giao kế hoạch vốn đầu tư trung
hạn, hàng năm có điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế đã tạo điều kiện cho
các bộ, ngành, địa phương chủ động cân đối nguồn vốn nhà nước và huy động các
nguồn vốn khác cho đầu tư. Việc chuyển đổi phương thức giao kế hoạch vốn TPCP từ
giao tổng số vốn và danh mục dự án sử dụng vốn TPCP (không ghi kế hoạch cụ thể
từng dự án) sang giao danh mục và chi tiết mức vốn TPCP giai đoạn 2012-2015 cho
từng dự án giúp khắc phục được nhược điểm của phương thức giao kế hoạch vốn
trước đây là dễ phân bổ vốn sai đối tượng, đầu tư dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả,
không đảm bảo khả năng cân đối vốn do thực hiện không theo đúng mức vốn kế
hoạch đã giao, dễ gây nợ đọng trong XDCB... Việc phân bổ vốn kế hoạch đầu tư trung
hạn và kế hoạch đầu tư hàng năm được thực hiện công khai, minh bạch theo các tiêu
chí, định mức phân bổ vốn. Việc rà soát danh mục các dự án đầu tư XDCB và bố trí
phân bổ vốn đầu tư từ nguồn NSNN và nguồn TPCP theo các ưu tiên đã được quan
tâm, chú trọng. Trên cơ sở rà soát, điều chỉnh vốn đầu tư từ NSNN, quy mô đầu tư từ
NSNN đảm bảo mục tiêu đề ra tại Quyết định 339/QĐ-TTg ngày 19/02/201382
, cơ cấu
đầu tư từ NSNN đảm bảo các ưu tiên theo các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, giao
thông, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh. Theo đó, vốn nhà nước được đầu tư một
cách tập trung, hiệu quả hơn. Từng bước khắc phục tình trạng dàn trải, thất thoát, lãng
phí. Trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các ngành được quy định cụ thể hơn, góp
phần tích cực vào việc phòng chống tiêu cực, tham nhũng trong đầu tư từ nguồn vốn
nhà nước.
80
Như chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
đến 575.000 đồng/tháng (Quyết định 12/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013); Tăng thêm 9,6% mức lương hưu từ
01/7/2013 (Nghị định 73/2013/NĐ-Cp ngày 15/7/2013); Tăng lương cơ sở của cán bộ, công chức lên 1.150 triệu
đồng/tháng (Nghị định 66/2013/NĐ-Cp ngày 27/6/2013); Chính sách hỗ trợ nhà ở cho người có công có hộ
khẩu trước 15/6/2013 (Quyết định 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013); Tăng mức phụ cấp đặc thù đối với cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm công tác thi hành án hình sự (Quyết định 10/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013);…
81 như đã xây dựng và ban hành Nghị định số 66/2012/NĐ-CP ngày 06/9/2012 quy định việc xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; Nghị định 10/2013/NĐ-CP ngày 11/01/2013 về quản lý, sử
dụng tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; Thông tư 161/2012/TT-BTC ngày 2/10/2012 quy định chế độ kiểm
soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN; đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1792/CT-
TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn NSNN và vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP), Chỉ thị
27/CT-TTg ngày 10/10/2012 về những giải pháp chủ yếu khắc phục tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) tại
các địa phương; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/6/2013 về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ
bản từ nguồn NSNN và trái phiếu Chính phủ;...
82 Chi đầu tư từ NSNN/tổng chi NSNN năm 2012 là 21,5%. Theo Quyết định 339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013:
“… hàng năm tăng dần tiết kiệm từ NSNN cho đầu tư; dành khoảng 20% - 25% tổng chi ngân sách cho đầu tư
phát triển. Đổi mới cơ bản cơ chế phân bố và quản lý sử dụng vốn, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân
tán và lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước”.
119
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng cho thấy tiến trình tái cơ cấu
đầu tư công còn chậm. Nguyên nhân là do một số thể chế liên quan tới tái cơ cấu đầu
tư công chậm được ban hành như Luật Quy hoạch, Luật Đô thị, Luật Quản lý, sử dụng
vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, Luật NSNN sửa đổi, Luật Đầu tư
công,… Ngoài ra, do trước đây nhiều dự án được phê duyệt vượt quá khả năng cân
đối vốn nên hiện nay vẫn chưa xử lý xong, đặc biệt là khu vực địa phương quản lý.
Việc giảm mạnh tỷ lệ đầu tư nhà nước thời gian gần đây cũng là nhân tố ảnh hưởng
tới tái cơ cấu đầu tư công, hơn thế việc giảm nhanh và mạnh tỷ lệ đầu tư của nhà nước
trong bối cảnh tăng trưởng vẫn dựa vào yếu tố vốn là chủ yếu đã tác động làm cho
tăng trưởng kinh tế giảm sút.
- Số bội chi NSNN 8 tháng đầu năm 2013 tăng cao so với cùng kỳ các năm
trước đó.
Với việc thực hiện các nhiệm vụ chi NSNN trong 8 tháng đầu năm 2013 đã làm
bội chi NSNN tăng hơn so với các năm trước đó (bội chi NSNN 8 tháng đầu năm
2013 bằng 74% dự toán năm, tăng 17% so với cùng kỳ 2012; trong khi đó bội chi
NSNN 8 tháng năm 2012 là 72,8% dự toán; năm 2011 là 31,8% dự toán và năm 2010
là 33,7% dự toán).
- Huy động vốn cho đầu tư phát triển trong những tháng đầu năm khá thuận
lợi, nợ công vẫn duy trì trong giới hạn đề ra.
Trong 8 tháng đầu năm 2013, Bộ Tài chính đã chủ động thực hiện huy động
các nguồn vốn nhàn rỗi từ các quỹ của nhà nước, phát hành trái phiếu Chính phủ cho
bù đắp bội chi NSNN và đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ. Trong phát hành trái
phiếu Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ, thực hiện huy động với
lãi suất hợp lý, tạo điều kiện giảm dần lãi suất thị trường, giảm gánh nặng cho ngân
sách, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, giảm dần lãi suất thị
trường, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Tổng số huy động vốn qua phát hành
TPCP đạt 68,5% kế hoạch được giao. Trong đó, đã tổ chức huy động đạt 69,1% nhiệm
vụ huy động vốn trong nước để bù đắp bội chi NSNN và cho đầu tư phát triển năm
2013. So với tháng 7, tình hình huy động TPCP tháng 8 diễn biến tuy có khả quan hơn
(khối lượng huy động tăng hơn 2 lần so với tháng 7) song vẫn còn thấp so với yêu cầu
đặt ra cho những tháng còn lại của năm 2013.
Về vay nợ nước ngoài, trong 8 tháng 2013, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi
được ký kết cao hơn 29,12% so với cùng kỳ năm 2012. Trị giá giải ngân trong tháng
8/2013 là hơn 420 triệu USD. Lũy kế giải ngân các dự án vay nợ, viện trợ 8 tháng
2013 là hơn 2.500 triệu USD, trong đó có 671 triệu USD giải ngân trực tiếp cho ngân
sách. Việc giải ngân được thực hiện kịp thời, đúng theo các quy định của các hiệp
định vay, hợp đồng uỷ quyền cho vay lại đã ký. Ngoài ra, tính đến 20/8/2013, tổng giá
trị các khoản vay có bảo lãnh Chính phủ đã cấp khoảng 1.990 triệu USD, trong đó cấp
bảo lãnh đối với các khoản vay nước ngoài chiếm 82,6%, bảo lãnh vay trong nước
chiếm 17,4%.
Về nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia, tính đến cuối năm
2012, so với GDP dư nợ công đạt 55,5%; dư nợ Chính phủ đạt 43,1% và dư nợ nước
ngoài của quốc gia là 42% nằm trong giới hạn quy định.
2. Thách thức trong trung hạn và những vấn đề đặt ra
120
Có thể thấy, các kết quả đạt được trong thực hiện chính sách tài khóa những
tháng đầu năm 2013 có cả kết quả tích cực và kết quả tiêu cực. Việc thực hiện chính
sách tài khóa cũng cho thấy những tồn tại và thách thức đặt ra đòi hỏi cần phải được
giải quyết trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng
nguồn lực tài chính nhà nước thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, gắn với các đột phá chiến lược đã đề
ra. Thách thức trong ngắn hạn hiện nay là làm thế nào để thực hiện chính sách tài
khóa đạt được các mục tiêu kế hoạch tài chính – NSNN năm 2013 đã đề ra, tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
năm 2013, đồng thời đảm bảo thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ thu, chi NSNN theo
dự toán đã được Quốc hội thông qua. Thách thức trong trung hạn là chính sách tài
khóa đứng trước 4 áp lực: (1) từng bước giảm dần tỷ lệ động viên vào NSNN so với
GDP, (2) nhu cầu tăng chi đáp ứng các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt là chính sách an sinh xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng; (3) đảm bảo tính bền
vững của NSNN; và (4) hỗ trợ thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược gắn với quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
- Tỷ lệ động viên vào NSNN có xu hướng giảm.
Xem xét mức độ động viên ngân sách cho thấy quy mô thu NSNN so với GDP
bình quân giai đoạn 2001-2010 là 26,6% GDP, trong đó thu ngân sách từ thuế, phí đạt
24,2% GDP. Trong 3 năm gần đây, mức độ động viên ngân sách có xu hướng giảm
(năm 2011 là 28,5%; năm 2012 là 22,9%; năm 2013 tỷ lệ động viên kế hoạch là
24,2% GDP, trung bình ba năm 2011-2013 là 25,2% GDP, thấp hơn so với tỷ lệ huy
động bình quân của 10 năm trước đó), khả năng chỉ đạt 20-21% GDP83
. Đây cũng là
xu hướng phù hợp với Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội, Chiến lược
tài chính đến năm 2020 và Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 đều yêu cầu
phải giảm dần tỷ lệ động viên vào NSNN so với GDP. Tuy nhiên, căn cứ tỷ lệ huy
động thực tế 3 năm 2011-2013 và dự kiến 2 năm 2014-2015, khả năng tỷ lệ huy động
ngân sách nhà nước trên GDP dự kiến khó đạt 23 – 24% GDP như mục tiêu đề ra.
Xét về cơ cấu thu ngân sách, thu nội địa chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu NSNN
và có xu hướng tăng. Thu NSNN từ các sắc thuế gắn trực tiếp với sản xuất, kinh doanh
trong nước như thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT trong tổng thu NSNN ngày càng
tăng. Nhờ đó, thu nội địa (không kể dầu thô) trong tổng thu NSNN đã tăng từ 50,7% năm
2001 lên 62,6% năm 2012 và ước đạt 66,8% năm 2013.
Tuy nhiên, tốc độ tăng thu ngân sách trong những năm gần đây cũng thể hiện
xu hướng giảm mạnh từ 29,4% năm 2010 xuống 9,8% năm 2013. Hơn nữa, cơ cấu
động viên NSNN mặc dù đã có chuyển biến tích cực nhưng tỷ lệ những khoản thu
“không thường xuyên” vẫn còn cao (dầu thô, giao quyền sử dụng đất, bán tài sản
thuộc sở hữu nhà nước), chiếm khoảng ¼ tổng thu NSNN. Bên cạnh đó, tỷ lệ động
viên ngân sách có xu hướng giảm đang là thách thức đối với Việt Nam trong việc đảm
bảo nguồn thu cho NSNN trong những năm trước mắt. Trong những năm qua, việc
thực hiện các biện pháp miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế và các khoản thu
83 Nguyên nhân thu ngân sách nhà nước 2 năm 2012-2013 đạt thấp chủ yếu do yếu tố kinh tế (tăng trưởng thấp,
các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,…), tác động do yêu cầu đổi mới cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng, cộng với ảnh hưởng của việc điều chỉnh chính sách miễn giảm thuế, tạo điều kiện tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp, thu hút đầu tư mới.
121
NSNN đã tác động làm giảm thu NSNN, bên cạnh đó việc thực hiện Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế TNCN và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế TNDN, thuế GTGT cũng sẽ làm giảm thu NSNN trong một số năm đầu thực
hiện. Tuy nhiên, xét về dài hạn việc giảm mức động viên sẽ tạo điều kiện để doanh
nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy tái đầu tư. Khi doanh nghiệp phát
triển sẽ tạo ra nhiều hàng hóa, của cải vật chất cho xã hội, tạo thêm nhiều lợi nhuận,
nhờ đó nguồn thu NSNN cũng sẽ ổn định và tăng trưởng trong trung và dài hạn.
Trong xu thế giảm tỷ lệ huy động vào NSNN đòi hỏi việc huy động các nguồn
lực vào NSNN phải hiệu quả, có tính bền vững. Tuy nhiên, trong thời gian qua, mặc
dù các chính sách về thu NSNN đã được ban hành và thường xuyên được hoàn thiện
nhưng việc huy động một số nguồn lực tài chính còn chưa hiệu quả như huy động
nguồn lực từ đất đai, hay việc quy định tỷ lệ đầu tư trở lại chưa rõ ràng và có sự khác
nhau giữa các ngành, lĩnh vực cũng làm cho hiệu quả huy động nguồn lực bị hạn chế.
- Áp lực chi NSNN gia tăng cùng với xu thế hình thành các quỹ tài chính
nhà nước ngoài ngân sách làm phân tán nguồn lực tài chính nhà nước
Quy mô chi NSNN xét về số tuyệt đối và so với GDP giai đoạn 2001-2009 cho
thấy xu thế tăng dần qua các năm84
. Tuy nhiên trong 3 năm trở lại đây quy mô chi
NSNN so với GDP có xu thế giảm, tốc độ tăng chi cũng giảm đáng kể. Điều này thể
hiện kết quả của việc thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ trong thời gian qua. Xét
về cơ cấu chi NSNN, trong ba khoản chi lớn là chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển
và chi trả nợ viện trợ thì chi thường xuyên chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi NSNN và
có xu hướng tăng lên qua các năm, trong khi đó hai khoản chi còn lại có xu hướng
giảm, đặc biệt là chi đầu tư phát triển.
Việc giảm chi đầu tư từ NSNN thời gian qua cũng đã phần nào đã tác động làm
sụt giảm mạnh tỷ trọng đầu tư xã hội so với GDP. Trong bối cảnh cơ cấu và cơ chế
vận hành nền kinh tế không có gì thay đổi, vốn đầu tư vẫn là yếu tố chủ yếu quyết
định tăng trưởng (tức là mô hình tăng trưởng vẫn dựa vào yếu tố vốn là chủ yếu) trong
khi quá trình chuyển đổi, tái cơ cấu kinh tế chưa có nhiều chuyển biến đã tác động tới
sự suy giảm lâu dài của tăng trưởng cũng như tác động tới sức khỏe của doanh nghiệp
bị suy yếu do cầu giảm.
Như vậy, xét trong mối quan hệ giữa thu và chi NSNN thì trong khi quy mô thu
NSNN khó có thể duy trì ở mức như thời gian qua, áp lực tăng chi NSNN để thực hiện
các chính sách an sinh xã hội đang có xu hướng mở rộng. Việc mở rộng chi thường
xuyên cũng là vấn đề cần phải xem xét vì các khoản chi này thường khó cắt giảm hơn
so với chi đầu tư phát triển. Ngoài ra, tình trạng chi bổ sung dự toán để thực hiện các
chính sách mới, đặc biệt là các đề án được cấp có thẩm quyền quyết định đang có xu
hướng gia tăng đã ảnh hưởng tới công tác lập dự toán ngân sách hàng năm cũng như
quản lý, điều hành NSNN. Mặt khác, việc thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái
cơ cấu kinh tế là một quá trình lâu dài, mặc dù không đề cập tới các chi phí cho việc
thực hiện các đột phá chiến lược cũng như thực hiện tái cơ cấu kinh tế nhưng cũng có
thể thấy rằng để thực hiện các mục tiêu này cũng đòi hỏi phải có những nguồn lực
nhất định. Điển hình là việc thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng với nhu cầu vốn lớn trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế đang chậm lại, huy
động thêm nguồn lực vào ngân sách khó khăn và việc thực hiện huy động vốn theo
84 Trừ năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính
122
mô hình đối tác công tư mặc dù đã được thí điểm áp dụng85
nhưng trên thực tế vẫn
chưa có khung khổ pháp lý thích hợp có hiệu quả.
Để thực hiện một số mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mang tính chất ngành,
lĩnh vực, trong nhiều năm qua Chính phủ đã ban hành và thực hiện các chương trình
mục tiêu quốc gia và chương trình mục tiêu nhằm đạt được các mục tiêu trong từng
ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, các chương trình mục tiêu hiện đang có xu hướng trở thành
một nội dung chi hàng năm (chi NSNN cho các CTMTQG khá lớn, chiếm 3,52% tổng
chi NSNN) trong khi kết quả từ việc đầu tư từ ngân sách thực hiện các mục tiêu lại chưa
rõ ràng, nhiều mục tiêu đạt thấp so với kế hoạch đề ra86
, một số chương trình có các nội
dung trùng lắp. Tỷ trọng chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách cho các chương
trình mục tiêu cũng đang có xu hướng tăng lên dẫn tới sự không rõ ràng trong thực hiện
các mục tiêu phát triển. Hơn thế, việc hình thành các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân
sách nhằm thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể cũng đang làm phân tán nguồn lực tài
chính nhà nước.
- Bội chi ngân sách kéo dài
Bội chi NSNN sau một số năm tăng cao đã có sự cải thiện hơn trong những
năm gần đây. Bội chi NSNN năm 2013 được Quốc hội thông qua là 4,8%, bội chi
NSNN năm 2012 thực hiện bằng mức Quốc hội phê duyệt 4,8% GDP (tính theo GDP
kế hoạch) và bằng 4,3% GDP (tính theo GDP thực tế). Bội chi NSNN năm 2011 (theo
số quyết toán) là 4,4% GDP, giảm đáng kể so với mức bình quân 5,2% của giai đoạn
2001-2010. Có thể thấy, để hạn chế sự gia tăng của nợ công và từng bước mở rộng
không gian tài khóa, trong những năm gần đây Việt Nam đã chủ động thực hiện một
số biện pháp để giảm dần mức bội chi ngân sách, trong đó có việc sử dụng một số
khoản tăng thu để ưu tiên bù đắp bội chi NSNN. Với mức bội chi NSNN năm 2013 là
4,8% GDP, dự kiến đến 31/12/2013 dư nợ công khoảng 56% GDP, dư nợ Chính phủ
khoảng 43,5% GDP và dư nợ quốc gia khoảng 45,2% GDP. Nhìn chung, quy mô nợ
công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia hiện đều nằm trong giới hạn quy
định, đảm bảo an toàn, an ninh tài chính quốc gia.
Tuy nhiên, bội chi NSNN kéo dài ngay cả trong những năm có tốc độ tăng thu
cao sẽ là thách thức đối với công tác quản lý, điều hành ngân sách do không gian tài
khóa bị thu hẹp. Hơn nữa, sự gia tăng của nợ Chính phủ và nợ công trong điều kiện
bội chi ngân sách kéo dài dễ tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn đối với nền kinh tế. Đồng
thời khi dư nợ công cao sẽ gây khó khăn cho công tác huy động vốn của Chính phủ,
chi phí huy động sẽ cao hơn, mức độ tín nhiệm sẽ giảm đi. Như vậy, để đảm bảo khả
năng tích lũy, mở rộng không gian tài khóa thì cần sử dụng nguồn tăng thu nhiều hơn
cho việc giảm nợ Chính phủ, nợ công. Đặc biệt là tái khởi động việc nghiên cứu và
triển khai xây dựng Quỹ kích thích kinh tế theo Nghị quyết 36/2009/QH12 để tạo cơ
sở vững chắc cho điều hành chính sách tài khóa “nghịch chu kỳ”.
- Nợ công hiện nằm trong giới hạn quy định nhưng đã tiệm cận ngưỡng
Tính đến cuối năm 2012, các chỉ số về nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài
của quốc gia vẫn trong giới hạn quy định, mặc dù khi xem xét nghĩa vụ trả nợ so với
85 Quyết định 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối
tác công tư.
86 Ví dụ như mục tiêu về số làng nghề đang bị ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng của Chương trình khắc
phục ô nhiễm và cải thiện môi trường chỉ đạt 8,5% mục tiêu giai đoạn 2012-2015.
123
tổng thu thường xuyên trong những năm gần đây có xu hướng giảm nhưng xét về số
tuyệt đối lại tăng lên. Đặc biệt khi xem xét xu hướng vay nợ trong thời gian qua cùng
với các chỉ tiêu về nợ công dự kiến cho giai đoạn 2013-2015 theo Quyết định 689/QĐ-
TTg ngày 04/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình quản lý nợ trung hạn
cho thấy giới hạn nợ đã tiệm cận ngưỡng (dự kiến đến 2015 nợ công so với GDP là
62,6%; nợ Chính phủ so với GDP là 48,5%). Điều này chỉ ra rằng không gian tài khóa
cho việc vay nợ bị giới hạn, đồng nghĩa với điều này là việc mở rộng chính sách tài
khóa thông qua tăng vay nợ và chi tiêu ngân sách là hạn hẹp trong thời gian tới. Đây
chính là thách thức lớn trong điều kiện tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại, sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp khó khăn, đầu tư tư nhân giảm sút và đòi hỏi nhu cầu
đầu tư từ khu vực nhà nước tăng lên.
- Cơ chế giằng co giữa trung ương và địa phương trong việc phân cấp ngân
sách
Bên cạnh những kết quả tích cực trong thực hiện Luật NSNN năm 2002 thời
gian qua cũng cho thấy những hạn chế trong việc thi hành Luật NSNN 2002. Trong đó,
việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong quá trình phân cấp
NSNN và quan hệ giữa các cơ quan trung ương trong quá trình phân công thực hiện
nhiệm vụ về NSNN. Cùng với sự mở rộng về số tuyệt đối của quy mô thu ngân sách
chung, quy mô các khoản thu mà NSĐP được hưởng 100% và các khoản thu phân chia
giữa NSTW và NSĐP có xu hướng tăng. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế những năm
gần đây khó khăn, tốc độ tăng của các khoản thu mà NSĐP được hưởng 100% có xu
hướng chậm hơn so với tốc độ tăng các khoản thu ngân sách chung nhưng xét theo tỷ lệ
tương đối, tỷ trọng thu NSĐP trong tổng thu NSNN đã có xu hướng tăng đáng kể kể từ
sau khi có Luật NSNN (2002), từ 24% năm 2003 lên 38% năm 2010 (không bao gồm
số bổ sung từ NSTW cho NSĐP). Số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tự cân đối
được ngân sách và có điều tiết về trung ương trong thời kỳ ổn định 2011-2015 là 13 địa
phương. Tổng chi NSĐP trong tổng chi NSNN đã tăng từ 47,5% năm 2003 (trước thời
điểm thực hiện Luật NSNN (2002) lên 52,1% năm 2010 (bao gồm cả số bổ sung cân
đối), ngược lại, quy mô chi của NSTW giảm đáng kể, từ 52,5% xuống 46,9% trong
cùng giai đoạn.
Tuy nhiên, sự chủ động của chính quyền địa phương trong việc huy động nguồn
thu còn hạn chế vì các sắc thuế được phân chia 100% cho NSĐP có hiệu suất thu thuế
thấp và chính quyền địa phương bị hạn chế về khả năng tăng nguồn thu cho mình ngoài
các chính sách thu do trung ương quy định. Hơn nữa, ngoài các loại phí, lệ phí do trung
ương thống nhất ban hành, địa phương chỉ có quyền quyết định một số loại phí, lệ phí
theo phân cấp của Chính phủ và được quy định mức thu một số loại phí, lệ phí trong
khung pháp luật quy định. Do đó, phần lớn ngân sách cho chính quyền địa phương là
nguồn thu phân chia và số bổ sung từ NSTW, trong đó có nhiều tỉnh đang phải dựa
đáng kể vào bổ sung từ NSTW. Trong khi đó, nhu cầu tăng chi của các cấp chính quyền
địa phương không ngừng được mở rộng, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn. Theo cơ chế hiện hành, các tỉnh có số thu ngân sách tăng được tăng chi
trong thời kỳ ổn định ngân sách (hiện nay là 5 năm, trước đây là 3 năm). Cách làm này
là có lợi đối với những tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, có tiềm năng tăng
thu lớn trong những giai đoạn nền kinh tế phát triển tốt, trong khi đó những tỉnh có số
thu thấp lại rất ít được hỗ trợ thêm từ nguồn tăng thu ngân sách chung do nguồn tăng
thu ngân sách chỉ được tập trung một phần về NSTW (theo tỷ lệ phân chia). Hơn nữa,
việc khống chế các tỷ lệ cứng (mức sàn) đối với chi cho giáo dục đào tạo, chi khoa học
124
công nghệ… có ưu điểm là thể hiện trọng tâm và ưu tiên chi NSNN cho các lĩnh vực
này, song thực tế thực hiện có thể tạo ra sự cứng nhắc và kém linh hoạt đối với các địa
phương. Số ngân sách được phân bổ cho các lĩnh vực này có thể không sử dụng hết
trong khi lại không điều chuyển được cho các lĩnh vực khác do bị khống chế về tỷ lệ
chi. Vì thế, đã hạn chế sự chủ động cho địa phương trong việc đưa ra các quyết định
phân bổ ngân sách để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ trên địa bàn.
- Tài chính của chính quyền địa phương còn nhiều bất cập
Vấn đề nợ đọng trong xây dựng cơ bản tại nhiều địa phương hiện vẫn là vấn đề
nổi cộm87
đòi hỏi cần phải được giải quyết để vừa tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp,
vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương và thực hiện tái cơ cấu đầu tư công hiệu
quả. Tuy nhiên, như trên đã đề cập, việc huy động nguồn lực nói chung và nguồn lực tài
chính nói riêng của chính quyền địa phương hiện đang gặp nhiều khó khăn do những
cản trở của cơ chế phân cấp, đặc thù địa phương cũng như năng lực quản lý và điều
hành,… Ngoài ra, tình trạng manh mún, yếu kém cả về quy mô và tiềm lực của các quỹ
đầu tư phát triển địa phương, quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ,… cũng
cản trở quá trình tái cấu trúc tại các địa phương.
- Kỷ luật tài khóa lỏng lẻo, vấn đề công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình mặc dù đã có những tiến bộ nhưng cần được tăng cường hơn nữa
Kỷ luật tài khóa lỏng lẻo được thể hiện rõ khi tình trạng chi NSNN vượt dự
toán còn xảy ra phổ biến ở nhiều bộ, ngành và địa phương cũng như trong từng đơn vị
ngân sách88
với mức độ lớn và có xu hướng tăng theo thời gian (hình 1, 2); vấn đề nợ
xây dựng cơ bản của các địa phương khá phổ biến nhưng đặc biệt hơn là có nhiều tỉnh
ngưỡng nợ xây dựng cơ bản đã vượt quá tỷ lệ quy định, việc nợ xây dựng cơ bản
không chỉ ở cấp tỉnh mà có cả ở cấp xã. Nguyên nhân có nhiều lý do cả ở khía cạnh
chính sách cũng như thực hiện chính sách và công tác dự báo còn nhiều hạn chế…
Vấn đề chế tài xử phạt còn chưa nghiêm càng làm cho việc thực hiện kỷ luật tài khóa
bị hạn chế.
Hình 1: Chi NSNN: Số dự toán và quyết
toán (Đvt: tỷ đồng)
Hình 2: Chi NSTW và chi NSĐP: số dự
toán và quyết toán (Đvt: tỷ đồng)
87 Kiểm toán Nhà nước đã công bố con số nợ đọng xây dựng cơ bản của 63 địa phương đến hết năm 2011 là
91.273 tỉ đồng. Đặc biệt có 15/63 địa phương nợ vốn đầu tư XDCB ở mức trên 100% kế hoạch vốn đầu tư
XDCB năm 2011 là Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Hải Dương, Quảng Ninh, Thái Bình, Bắc Ninh, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang (Nguồn: Kiểm toán nhà nước).
88 Báo cáo kiểm toán năm 2012 về kết quả Kiểm toán nhà nước niên độ ngân sách năm 2011 cho thấy: đối với
việc sử dụng kinh phí sai chế độ, tiêu chuẩn, định mức, KTNN đã xác định sử dụng sai nguồn kinh phí hơn
1.840 tỷ đồng; chi hỗ trợ không đúng chế độ, nhiệm vụ chi 41,6 tỷ đồng; chi không đúng chế độ, tiêu chuẩn,
định mức 196 tỷ đồng; sử dụng nguồn dự phòng ngân sách sai mục đích 238,6 tỷ đồng; cho vay sai quy định 33
tỷ đồng; tạm ứng sai quy định 1.125 tỷ đồng; cho vay, tạm ứng chậm thu hồi 3.008 tỷ đồng trong khi hằng năm
NSNN vẫn phải đi vay và trả lãi. Tình trạng sử dụng nguồn tăng thu và dự toán không đúng quy định vẫn chưa
có chuyển biến, vẫn còn sử dụng sai 325 tỷ đồng nguồn tăng thu để chi thường xuyên, mua tài sản, hỗ trợ các
đơn vị, chi trả nợ tạm ứng vốn nhàn rỗi của KBNN. Chi chuyển nguồn sai quy định là 103,8 tỷ đồng; chi ứng
trước dự toán vượt tỷ lệ quy định khá lớn.
125
Nguồn: Bộ Tài chính Nguồn: Bộ Tài chính
Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình tài khóa đã được cải thiện đáng
kể trong thời gian gần đây nhưng mới chỉ ở dạng đưa ra các số liệu tổng thể về dự toán
và quyết toán NSNN trong khi quá trình thực hiện cũng như vấn đề trách nhiệm giải
trình lại chưa được thể hiện rõ. Việc công khai và giải trình không đúng và đủ, thiếu rõ
ràng, chính xác sẽ gây nguy hiểm ở chỗ dễ dẫn tới việc đánh giá không đúng tình hình,
không dự báo chính xác xu hướng, đưa ra nhận định sai dẫn tới các quyết sách, chủ
trương không phù hợp và đưa ra giải pháp chính sách không chuẩn. Từ đó, rủi ro trong
ban hành chính sách sẽ rất lớn, hệ quả là chi phí thực hiện chính sách kém hiệu quả, ảnh
hưởng nghiêm trọng tới việc thực hiện nhiệm vụ tài chính-NSNN nói riêng và nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Tất cả những bất cập và thách thức nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà
trong đó có thể kể tới là: (i) thể chế chưa được hoàn thiện. Sự chậm trễ trong ban hành
các văn bản quản lý cũng như sự dùng dằng và xung đột giữa các văn bản luật càng
làm cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và thực
hiện tái cơ cấu nền kinh tế nói riêng bị ảnh hưởng. Điển hình là việc sửa đổi Hiến
pháp còn chậm trễ đã ảnh hưởng tới việc xây dựng và ban hành các văn bản luật liên
quan như Luật NSNN sửa đổi; sự xung đột, không rõ ràng về phạm vi điều chỉnh cũng
như mối quan hệ giữa các luật trong ban hành các văn bản Luật như Luật Đầu tư công,
Luật NSNN, Luật Xây dựng,… đã gây ảnh hưởng lớn tới kết quả thực hiện các nhiệm
vụ đề ra; (ii) cơ chế tài chính trong một số lĩnh vực chưa được giải quyết triệt để như
cơ chế giá, cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp,…; (iii) cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan, đơn vị trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ tài chính – NSNN; cơ chế
giám sát, kiểm tra, thanh tra còn nhiều bất cập đòi hỏi cần phải được tăng cường hơn
nữa; (iv) chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế cũng là
nhân tố tác động trực tiếp tới quá trình định hướng và điều hành thực hiện nhiệm vụ
tài chính-NSNN nói riêng, nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội nói chung;…
3. Định hƣớng giải pháp
Để giải quyết những tồn tại, thách thức nêu trên đòi hỏi phải có những giải
pháp trước mắt và lâu dài nhằm giải quyết các vấn đề tồn tại, qua đó thúc đẩy và nâng
cao hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính nhà nước, đảm bảo thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Việc điều chỉnh CSTK trong thời gian
qua cho thấy không gian để chính sách tài khóa mở rộng là rất hạn chế. Việc phát huy
tác dụng hoặc mang lại những tác động tạo nên “sức bật mới” cho tăng trưởng từ việc
thực hiện chính sách tài khóa theo Nghị quyết 01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP
đòi hỏi phải có thời gian. Mặt khác, các giải pháp về thuế đã được khai thác và triển
126
khai áp dụng gần như triệt để nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu tiếp tục thực hiện các giải pháp về miễn, giảm, giãn thời hạn nộp
thuế của một số sắc thuế, khoản thu NSNN như giai đoạn vừa qua sẽ gây khó khăn
trong công tác điều hành tài chính-ngân sách của Chính phủ, nhất là trong bối cảnh
thu NSNN đang gặp nhiều khó khăn. Nợ chính phủ, nợ công đã ở mức cao, dư địa so
với ngưỡng an toàn không còn nhiều, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng đạt thấp so
với dự kiến sẽ đẩy tỷ lệ nợ công và nợ Chính phủ so với GDP tăng.
Do vậy, giải pháp trước mắt là: (1) Cần tập trung thực hiện có hiệu quả các giải
pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo các Nghị quyết của Quốc hội,
Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ. Đồng thời, tiếp
tục hướng dẫn, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ
thị 09/CT-TTg ngày 24/5/2013 về tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ
tài chính – NSNN năm 2013, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/6/2013 về tăng cường
quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn NSNN và trái phiếu Chính
phủ. Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng sức mua, tăng
tổng cầu nền kinh tế và đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa thông qua việc đánh giá tình hình
thực hiện các giải pháp về thuế và chi tiêu ngân sách trong thời gian qua, từ đó rà soát
lại các chính sách thu, chi ngân sách, thực hiện cơ cấu lại thu, chi NSNN, trong đó đối
với chính sách chi NSNN cần: (i) tập trung đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông
thôn nhằm tạo ra tác động lan tỏa thúc đẩy tăng trưởng trong khu vực này, từ đó kích
thích tăng tổng cầu ; (ii) đẩy nhanh việc ứng trước một phần ngân sách cho địa
phương giải quyết nhu cầu nhà ở tái định cư; (iii) đảm bảo nguồn lực giải ngân vốn
đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là những dự án quan trọng, cấp bách, những dự án có thể
hoàn thành sớm và đưa vào sử dụng ; (iv) Trong quản lý chi tiêu ngân sách, cần quán
triệt việc không ban hành các chính sách, chế độ, định mức làm tăng chi NS mà không
có nguồn đảm bảo, thực hiện kiểm soát chi tiêu ngân sách chặt chẽ, hiệu quả. Ngoài
ra, để thúc đẩy cầu cần đảm bảo ngân sách để thực hiện các chương trình xúc tiến đầu
tư cùng với việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối tác nhằm củng cố và mở
rộng thị trường, phát triển thị trường trong và ngoài nước, trong đó đối với thị trường
trong nước cần chú trọng khu vực nông thôn; (2) Trong đầu tư công, cần rà soát lại
các chương trình, dự án đầu tư công hiện hành để xác định thứ tự ưu tiên. Đối với các
chương trình mục tiêu quốc gia cần có đánh giá và rà soát cụ thể, đặc biệt là những
chương trình kém hiệu quả, mục tiêu đạt thấp, các chương trình đã được thực hiện
tương đối dài (khoảng trên 10 năm mà vẫn chưa thực hiện xong nhiệm vụ) có thể xem
xét kết thúc, các nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình cần tiếp tục thực hiện có thể
chuyển sang hoạt động thường xuyên của ngành. Trong đầu tư xây dựng cơ bản cần
tập trung giải quyết nợ đọng trong XDCB. Xác định lộ trình và thứ tự ưu tiên hợp lý
để xử lý nợ đọng XDCB, đặc biệt là quán triệt tinh thần của Chỉ thị 27/CT-TTg ngày
10/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về những giải pháp chủ yếu khắc phục tình
trạng nợ đọng XDCB tại các địa phương; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/6/2013 về
tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn NSNN và
TPCP. Thực hiện rà soát và phân loại nợ XDCB. Các bộ, ngành, địa phương phải ưu
tiên bố trí vốn để xử lý nợ đọng XDCB trong kế hoạch phân bổ vốn đầu tư từ NSNN,
bảo đảm hàng năm phải xử lý được ít nhất 30% khối lượng nợ đọng XDCB, hướng tới
không còn nợ đọng XDCB. Các địa phương chỉ được bố trí vốn cho các dự án mới sau
khi đã bố trí đủ vốn để xử lý nợ đọng theo kế hoạch. Những địa phương có nợ đọng
XDCB lớn không được bố trí vốn cho việc khởi công mới các dự án. Trường hợp cần
thiết thực hiện đình hoãn một số dự án để xử lý nợ đọng trong XDCB.
127
Xét về dài hạn, để phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả với trọng tâm là thực
hiện ba khâu đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng cần ưu tiên tập trung rà soát và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, thực hiện cải cách
hành chính. Thể chế rõ ràng, minh bạch mới có thể thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã
hội phát triển, tạo niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân trong thực hiện các cải cách. Do
vậy, trong thời gian tới cần hoàn thiện hệ thống thể chế trong lĩnh vực tài chính –
NSNN, đặc biệt là giải quyết tốt mối quan hệ giữa các luật trong lĩnh vực tài chính –
NSNN với các lĩnh vực liên quan khác, tránh tình trạng dùng dằng về mặt thể chế.
Trong đó Hiến pháp sửa đổi cần sớm hoàn thiện và thông qua tạo cơ sở cho việc xây
dựng và ban hành Luật NSNN sửa đổi.
Trên cơ sở hoàn thiện hệ thống thể chế, trong lĩnh vực tài chính – NSNN cần
thực hiện cải cách căn bản phương thức quản lý NSNN theo hướng hoàn thiện cơ chế
phân cấp NSNN giữa trung ương và địa phương, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của người đứng đầu trong việc sử dụng nguồn lực công cùng với việc đẩy
mạnh cơ chế giám sát. Nghiên cứu và xây dựng thực hiện có lộ trình việc chuyển đổi
phương thức quản lý ngân sách từ kiểm soát đầu vào sang quản lý gắn với kết quả
cũng như triển khai xây dựng khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện khuôn khổ tài
chính và khuôn khổ chi tiêu trung hạn, đảm bảo việc phân bổ ngân sách gắn với các
mục tiêu, ưu tiên chiến lược trong từng thời kỳ. Ngoài ra, cần tăng cường kỷ luật tài
khóa. Kỷ luật tài khóa chặt chẽ, minh bạch, đảm bảo CSTK không chỉ hướng tới tăng
trưởng mà còn giúp thị trường, người dân hiểu nền kinh tế, tạo ra sự ổn định lâu dài
cho đất nước. Bên cạnh việc tăng cường kỷ luật tài khóa cần phải công khai, minh
bạch và tăng trách nhiệm giải trình tài khóa. Các thông tin về chính sách công, chi
tiêu, thâm hụt ngân sách… phải được công khai, minh bạch, giúp thị trường hiểu trạng
thái thực của nền kinh tế. Bởi đó là nguồn gốc của sự đồn đoán, nguồn gốc gây mất
niềm tin. Điều hành vĩ mô sẽ rất khó khăn khi thị trường mất niềm tin. Do vậy, thực
hiện tốt công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình tài khóa sẽ góp phần tạo niềm
tin trong công chúng, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ của chính sách tài khóa.
Trong tái cấu trúc nền kinh tế, quá trình tái cấu trúc là một quá trình lâu dài nên
chính sách tài khóa, dưới góc độ là chính sách thu và chi ngân sách, CSTK phải có đủ
tầm nhìn trung và dài hạn. Với tầm trung và dài hạn, CSTK sẽ tạo ra sự tiên lượng về
chính sách đối với thị trường do vậy CSTK phải: (i) đảm bảo được ngân sách bền
vững, ổn định, đặc biệt là phải tạo được một nền tảng không lấn át khu vực tư nhân,
hiệu quả cho khu vực kinh tế công, từ đó thúc đẩy chung hiệu quả của nền kinh tế; (ii)
toàn bộ nền kinh tế hướng tới các khoản đầu tư, thị trường bất động sản và chứng
khoán sẽ phát triển lên, các điều kiện kinh tế nở rộ, CSTK nên theo nguyên tắc nghịch
chu kì. Khi cả thị trường trong “cơn say” đầu tư và chi tiêu, Chính phủ cần giảm chi
tiêu và giữ thặng dư ngân sách, để trong tương lai nếu nền kinh tế gặp trục trặc, Chính
phủ có dư địa về chính sách để can thiệp; (iii) sự phối hợp giữa CSTK và chính sách
tiền tệ là tối quan trọng trong đảm bảo sự cân đối, ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Khi
CSTK chi tiêu quá nhiều, chính sách tiền tệ phải có biện pháp giảm sự hưng phấn đó.
Ngược lại, khi chính sách tiền tệ tăng lượng cung tiền tín dụng quá lớn, CSTK phải lùi
lại một chút, tức là phải có sự điều phối giữa hai chính sách này. Do vậy cần đẩy
nhanh việc thực hiện Đề án cải cách cơ chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh
tế vĩ mô tại Quyết định 1317/QĐ-TTg ngày 06/8/2013.
128
Tài liệu tham khảo
Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã
hội, trọng tâm là thực hiện ba khâu đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 và dự kiến kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Báo cáo 6278/BC-BKHĐT ngày 26/8/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về sơ
kết 3 năm (2011-2013) về thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia.
Báo cáo 6279/BC-BKHĐT ngày 26/8/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về
tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2013, tình hình triển khai
thực hiện Nghị quyết só 01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP ngày
07/01/2013 của Chính phủ.
Báo cáo ngân sách nhà nước hàng tháng của Bộ Tài chính.
129
BÀN VỀ TÍNH BỀN VỮNG VÀ KỶ LUẬT TRONG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
TS. Vũ Sỹ Cƣờng 89
Dẫn nhập
Sau khi lạm phát tăng mạnh vào năm 2011 thì năm 2012 lạm phát chỉ ở mức
thấp (6,81%) và lần đầu tiên xuất siêu kể từ năm 1993, lãi suất giảm dần và tỷ giá ổn
định được coi là những thành công bước đầu trong ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên
sự sụt giảm tăng trưởng (chỉ đạt 5,03 % năm 2012 và dự kiến năm 2013 cũng chỉ đạt
5,3-5,5%) với khó khăn của nhiều doanh nghiệp đã khiến cho nhiều khoản thu ngân
sách không đạt dự toán. Chính sách tài khóa 2013 cũng như trong ngắn và trung hạn
đang đứng trước những thách thức rất lớn để có thể vừa đáp ứng được yêu cầu duy trì
tăng trưởng kinh tế hợp lý, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội là
bài toán khó trong điều hành của Chính phủ.
Bài viết này sẽ đánh giá lại tình hình thực hiện thu chi ngân sách của năm 2012
và giai đoạn gần đây, trong đó tập trung vào: (i) đánh giá về thu ngân sách theo các
sắc thuế, phân tích tính bền vững của thu ngân sách nhà nước; (ii) đánh giá về chi
ngân sách theo các khoản chi: chi thường xuyên, chi đầu tư. Từ phân tích thực trạng
của chính sách tài khóa, bài viết sẽ cố gắng nêu lên một số vấn đề còn tồn tại trong
chính sách những năm gần đây, tập trung vào tính bền vững và kỷ luật tài chính. Đồng
thời, bài viết cũng sẽ thảo luận những gợi ý chính sách nhằm gia tăng kỷ luật tài khóa
và cải thiện tính bền vững của ngân sách.
1. Quy mô thu ngân sách cao và không bền vững
Thu NSNN là một trong các nhiệm vụ quan trọng của ngành tài chính để tạo
nguồn quỹ cho thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.
Ngoài ra, thực hiện các nhiệm vụ thu cũng đồng thời chi phối các hành vi của người
sản xuất cũng như tiêu dùng trong xã hội và do vậy sẽ tác động tới việc thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể.
Có thể thấy quy mô thu NSNN của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh trong
giai đoạn từ 2001 -2008, chỉ sụt giảm nhẹ trong 2 năm 2009 và 2012 do những khó
khăn về kinh tế và do việc áp dụng các biện pháp kích cầu nhằm kích thích tăng
trưởng kinh tế. Nếu sử dụng số liệu của IMF thì tổng thu NSNN của Việt Nam giai
đoạn 2006-2012 đạt trên 28 % GDP, một mức khá cao so với các nước đang phát
triển. Chẳng hạn nếu so sánh mức thu này với các nước đang phát triển có thu nhập
thấp thì quy mô thu ngân sách của Việt Nam là tương đương mức trung bình các nước
có xuất khẩu dầu và cao hơn nhiều mức độ trung bình của nhóm các nước có thu nhập
thấp (trung bình 2006-2011 thu thuế /GDP là khoảng 23,7 % )90
. Ngay cả khi kinh tế
gặp khó khăn như năm 2012 thì tổng thu cân đối NSNN so với GDP vẫn đạt 25,3 %,
cao hơn mức trung bình của các nước đang phát triển châu Á giai đoạn 2006-2011
(quy mô thu ngân sách đạt 21,4 % GDP).
Hình 1. Thu Ngân sách nhà nƣớc giai đoạn 2001-2012
89 Học Viện Tài chính
90 Nguồn : tính toán từ số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Fiscal Monitor (2012).
130
(Tính toán từ số liệu Bộ Tài chính và Tổng cục thống kê)
Cần lưu ý là việc so sánh đơn giản quy mô thu ngân sách với GDP có thể khó
thuyết phục khi điều kiện mỗi quốc gia có sự khác biệt về cơ cấu kinh tế và cách tính
toán quy mô ngân sách (có tính gộp ngân sách địa phương hay không). Tuy nhiên
trong đa số các quốc gia thì số liệu của IMF là quy mô thu ngân sách chung của chính
phủ (gồm cả chính quyền trung ương và địa phương, thu ngân sách được định nghĩa
bao gồm thu từ thuế và các nguồn khác)91
. Vì vậy việc so sánh với quy mô thu trung
bình của các nhóm nước cũng cho phép đánh giá nhanh về quy mô thu ngân sách của
Việt Nam.
Xác định quy mô thu ngân sách hợp lý là vấn đề đã được các nhà kinh tế quan
tâm từ lâu. Tuy nhiên vấn đề này vấp phải nhiều khó khăn vì không có mô hình lý
thuyết kinh tế nào chỉ ra chính xác cần thu ngân sách bao nhiêu. Vì vậy để ước tính
quy mô ngân sách hợp lý, các nhà kinh tế đã phải sử dụng các mô hình thực nghiệm
qua đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới khả năng thu ngân sách của một quốc
gia.Những mô hình nghiên cứu định lượng về các nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân
sách mà đặc biệt là thu thuế đã được bắt đầu từ Lotz và Morss (1970), (Bahl R.W.
1971), sau đó tiếp tục được phát triển bởi các tác giả khác như (Tanzi V. và Zee H.H.
2000), (Teera J.M. và J. Hudson 2004), (Chambas G. và cộng sự, 2005).
Các mô hình ước lượng thu ngân sách hợp lý này được thực hiện dựa trên nhận
định là quy mô thu ngân sách hợp lý phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ nhất định như thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế, mức độ đô
thị hóa, mức độ mở cửa, xuất khẩu dầu thô hay không, năng lực quản trị của chính
quyền…92
.
Sử dụng phương pháp này cho thấy quy mô ngân sách nhà nước của Việt Nam
giai đoạn 2006-2012 cao hơn mức quy mô hợp lý khoảng 14-26 % tùy từng năm. Nói
cách khác, với đặc điểm hiện nay về thể chế, cơ cấu kinh tế, xã hội thì Việt nam chỉ
nên thu cân đối ngân sách khoảng 23-24,5 % GDP. Cần lưu ý là quy mô thu ngân sách
hợp lý thay đổi theo sự thay đổi của thu nhập bình quân, cơ cấu kinh tế, năng lực quản
trị công..
91 Xem thêm IMF‟s Government Finance Statistic Manual (2001) 92 Xem thêm Vũ Sỹ Cường (2009) “Ước lượng quy mô ngân sách hợp lý : trường hợp của Việt nam” – Tạp chí
Nghiên cứu Kinh tế số 8/2009.
131
Hình 2. So sánh quy mô thu ngân sách thực tế và hợp lý (1996-2012)
(Nguồn: tính toán của tác giả)
Quy mô thu ngân sách cao sẽ ảnh hưởng đến tiết kiệm của khu vực tư nhân,
làm giảm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của khu vực này. Gánh nặng thuế cao
có thể khuyến khích các hành vi gian lận, trốn thuế và vì vậy gây tình trạng thất thu
thuế và tạo ra những méo mó trên thị trường do hành vi cạnh tranh không bình đẳng.
Tình trạng chuyển giá trốn thuế của các doanh nghiệp FDI là một minh chứng. Hơn
nữa gánh nặng thuế cao còn là môi trường tốt cho các hành vi tham nhũng của những
người thực thi công vụ khi mà thỏa thuận cho gian lận và trốn thuế có lợi hơn nhiều
nộp thuế. Quy mô thu ngân sách cao của Việt Nam còn có bất lợi là Chính phủ còn rất
ít không gian để có thể giảm thâm hụt ngân sách qua tăng thuế mà còn phải làm ngược
lại.
Phân tích cơ cấu thu ngân sách nhà nước theo sắc thuế cho thấy thu NSNN đến
từ 3 nguồn chính là thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
và thuế trên hàng hóa xuất nhập khẩu (gồm thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT và thuế
tiêu thụ đặc biệt trên hàng nhập khẩu). Có thể thấy thuế với hoạt động xuất nhập khẩu
vẫn giữ vai trò rất quan trọng khi cung cấp trung bình hơn 20 % số thu NSNN trong 5
năm gần đây dù nhiều dòng thuế đã được cắt giảm, nguồn thu này tăng lên chủ yếu do
kim ngạch hàng hóa XNK tăng mạnh và công tác hải quan được cải thiện hơn. Tuy
nhiên nguồn thu này sẽ giảm đi khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết với WTO,
do vậy cần phải tìm kiếm nguồn thu thay thế để đảm bảo ngân sách không bị thâm hụt
trầm trọng hơn.
Bảng 1. Cơ cấu thu ngân sách nhà nƣớc theo sắc thuế, phí (%)
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
TỔNG thu cân đối NSNN 100 100 100 100 100 100 100
Thuế GTGT hàng sản xuất trong nước 13,3
5 14,2
3 13,9
2 17,1
4 16,7
8 17,2
0 19,3
9
Thuế TTĐB hàng sản xuất trong nước 5,95 5,16 5,09 6,38 6,34 6,04 6,05
Thuế XK, NK, VAT và TTĐB hàng XNK
14,8
1
17,9
2
21,0
4
22,6
5
22,1
5
22,1
2
19,6
9
Thuế thu nhập doanh nghiệp
34,5
1
31,0
9
31,5
7
24,0
5
25,2
6
26,1
9
29,3
7
Thuế tài nguyên 9,21 6,38 6,06 4,09 4,47 5,58 4,99
Ghi chú : MOFa (Bộ Tài chính) - Cán cân ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc
96 Năm 2011 , Bộ Tài chính đã ban hành thông tư 177/2011/TT-BTC nhằm quy định chặt chẽ hơn với các khoản chi được chuyển nguồn. Quy định này là cần thiết nhằm tăng cường kỷ luật tài khóa. 97 Thống kê Việt nam sử dụng từ bội chi NSNN để chi tình trạng thâm hụt ngân sách và thuật ngữ bội thu
NSNN để chỉ tình trạng thặng dư NSNN. Trong bài viết chúng tôi sử dụng thuật ngữ “thâm hụt” khi chi lớn hơn
thu và “ thặng dư” trong trường hợp ngược lại.
141
MOFb - Cán cân ngân sách bao gồm chi trả nợ gốc. Số liệu có dấu * là số ước tính
Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính, IMF (Fiscal Monitor, 2013) và ADB (Key Economic Indicators,
2012)
Do vậy, so sánh quốc tế về cân bằng ngân sách và nợ công của Việt Nam với các
nước khác là không dễ dàng. Tuy nhiên có thể thấy rằng nếu sử dụng nguồn số liệu của
cùng một tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) hay
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) thì Việt nam đều ở trong tình trạng có mức mất cân
bằng ngân sách cao so với các nước trong khu vực.
Số liệu mới nhất của IMF (2013) cho thấy trong 5 năm gần đây Việt Nam luôn
có tỷ lệ thâm hụt NSNN cao hơn trung bình các nước đang phát triển có thu nhập thấp
trên thế giới và cao hơn tỷ lệ trung bình của tất cả các nhóm nước đang phát triển thấp
chia theo khu vực. Đây là vấn đề cần lưu ý vì thâm hụt ngân sách cao, liên tục có ảnh
hưởng tiêu cực đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế như tăng trưởng kinh tế, lạm
phát, lãi suất, cán cân thanh toán, tỷ giá.
Hiện nay Việt Nam vẫn áp dụng phương pháp cũ trong quản lý ngân sách là
mọi khoản thu chi đều được lập dự toán và quyết toán hàng năm nên đã tạo ra những
ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững tài khóa và rủi ro tăng thâm hụt ngân sách. Điều
này được giải thích như sau:
(i) Hiện cả thu và chi NSNN đều được lập dự toán hàng năm dựa cơ bản trên số
liệu danh nghĩa năm hiện hành. Do vậy nếu đó là năm có lạm phát cao thì dễ thổi làm
thổi phồng cả số thu NSNN vì thuế phụ thuộc khá nhiều vào mức giá.
(ii) Khi tổng thu NSNN được dự báo cao chúng ta cũng tiếp tục dự báo tổng
chi NSNN ở mức cao và mặc dù đã giới hạn tỷ lệ bội chi ngân sách/ GDP thì chúng
ta vẫn sẽ có một con số bội chi về tuyệt đối rất cao. Số liệu về NSNN những năm
gần đây cho thấy rất rõ là ngay cả khi tỷ lệ bội chi/GDP đã được ấn định thì con số
tuyệt đối về bội chi NSNN vẫn có thể liên tục tăng lên. Hệ quả là tốc độ tăng vay nợ
và vay nội địa cần thiết để bù đắp bội chi lại tăng mạnh trong vài năm gần đây. Điều
này có nguy cơ gây ra những bất ổn kinh tế và gia tăng gánh nặng nợ công.
(iii) Các khoản chi cho các dự án đầu tư thường xuyên vượt dự toán và phải
thực hiện chi chuyển nguồn nhiều năm vì hiện chưa có cơ chế cho việc lập kế hoạch
tài chính cho trung và dài hạn.
Thâm hụt NSNN ở mức cao, liên tục sẽ dẫn tới việc tăng nợ công. Cũng như số
liệu về thâm hụt NSNN, số liệu về nợ công của Việt Nam cũng không nhất quán giữa
các tổ chức song đều phản ánh xu hướng tăng nhanh của nợ công.
Bảng 6: Nợ công của Việt nam từ 2006-2012 (%GDP)
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
MOF 52,6 56,3 54,9 55,6
Trong đó: Nợ nước ngoài 31,4 32,5 29,8 39 42,2 41,5
IMF 41.8 44.6 42.9 51.2 54.0 50.4 52.1
(Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính và IMF)
Từ 2009, nợ công đã vượt qua ngưỡng 50 % GDP và tăng đến 56,3 % vào năm
2010 trước khi giảm nhẹ xuống 55,6% vào năm 2012. Nợ nước ngoài chiếm tỷ lệ cao
trong tổng nợ công của Việt Nam (chiếm 76 % tổng nợ công năm 2011). Về mặt số
liệu thì tổng nợ công vẫn còn dưới ngưỡng an toàn 65 % của Bộ Tài chính và IMF
cũng cho rằng nợ công của Việt Nam chưa nguy hiểm. Kế hoạch trả nợ hàng năm
khoảng 14%-16% tổng thu ngân sách nhà nước (thấp hơn giới hạn cảnh báo là dưới
30%), bằng khoảng 4,5% kim ngạch xuất khẩu (thấp hơn giới hạn cảnh báo là dưới
142
15%). Đây được coi là các chỉ tiêu an toàn, và chỉ số nợ công của Việt Nam được xếp
loại ở mức trung bình so với các nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm, song
nợ công của Việt Nam vẫn có nhiều vấn đề cần lưu ý.
Thứ nhất, các khoản nợ công của Việt Nam vẫn chưa tính đủ các gánh nặng nợ
tiềm tàng từ hoạt động của khu vực ngoài ngân sách như hoạt động của Bảo hiểm xã
hội, Bảo hiểm Y tế, khu vực ngân hàng và đặc biệt là khu vực DNNN.
Thứ hai, ngay cả khi nợ công không rơi vào ngưỡng nguy hiểm thì nền kinh tế
vẫn có thể gặp bất ổn khi tổng số nợ quá cao. Bài học kinh nghiệm của Argentina năm
2001 cho thấy, do vay nợ tràn lan trong khi Chính phủ không kiểm soát được khả
năng thu thuế, kim ngạch xuất khẩu thấp (chỉ chiếm khoảng 10% GDP), nên không có
nguồn để trả nợ, cộng với tệ nạn tham nhũng, sự bùng nổ vay nợ của chính quyền địa
phương nên cuối cùng đã rơi vào tình trạng vỡ nợ. Vào thời điểm Chính phủ
Argentina tuyên bố vỡ nợ, nợ công của nước này cũng chỉ bằng 69% GDP, chưa phải
là lớn so với nhiều nước.
Thứ ba, tỷ lệ nợ công/GDP là thước đo tốt về quy mô nợ công song nó chưa
hẳn là chỉ số tốt để đánh giá rằng nợ công đang an toàn và không có rủi ro. Với một
nền kinh tế có nhiều chỉ số vĩ mô không ổn định như Việt Nam thì tỷ lệ nợ công tăng
cao luôn luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ.
Kết luận và khuyến nghị chính sách
Chính sách tài khóa có vai trò quan trọng trong ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Những phân tích trong bài viết cho thấy đã đến lúc Việt Nam cần có sự đổi mới mạnh
mẽ, toàn diện nhằm hướng tới việc xây dựng một ngân sách bền vững, hiệu quả. Dù
hiện nay quy mô nợ công của Việt Nam vẫn được coi là trong ngưỡng an toàn song
với việc duy trì thâm hụt ngân sách nhiều năm ở mức xấp xỉ 5 % GDP trong khi hiệu
quả chi tiêu công ngày càng kém thì nguy cơ mất ổn định tài khóa không chỉ là cảnh
báo. Trong bối cảnh Việt Nam đang có những thảo luận về thay đổi Hiến pháp và
Luật ngân sách nhà nước thì cần thiết phải có những thảo luận sâu về đổi mới chính
sách tài khóa trong cả thu và chi ngân sách nhà nước.
Với các khoản thu NSNN, cải cách hệ thống thuế nhằm giảm bớt gánh nặng
thuế khóa, tạo nguồn thu ngân sách ổn định và cân bằng cần được coi là quan điểm
chủ đạo. Để làm được điều này ngoài các giải pháp mang tính kỹ thuật như giảm thuế
suất hay thay đổi phạm vi tính thuế… thì phải cải thiện hiệu quả của công tác quản lý
thuế. Hiện nay vai trò của DNNN trong đóng góp NSNN vẫn rất lớn trong khi đóng
góp của các khu vực kinh tế khác chưa tương xứng với tiềm năng. Vì vậy cần tiếp tục
nâng cao hiệu quả thu thuế từ các khu vực kinh tế ngoài nhà nước – một công việc
không đơn giản.
Để giảm được sức ép thu thuế thì tất yếu phải giảm quy mô chi tiêu công và thu
hẹp vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Song việc cắt giảm các khoản chi tiêu nên
dựa trên việc đánh giá hiệu quả và mức độ ưu tiên của chi tiêu công chứ không nên
thực hiện cắt giảm đồng loạt theo tỷ lệ cố định.
Nhằm nâng cao vai trò của Quốc hội trong phê duyệt dự toán NSNN thì có thể
xem xét thay đổi các Nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách thành các luật
ngân sách hàng năm. Điều này cho phép tăng cường tính kỷ luật ngân sách và hạn chế
tính trạng chi chuyển nguồn như hiện nay. Với các khoản chi được thực hiện trong
nhiều năm thì việc áp dụng Khuôn khổ chi tiêu trung hạn là rất cần thiết. Điều này
cũng cho phép cải thiện hiệu quả chi NSNN cho các dự án đầu tư khi phương pháp
143
này đòi hỏi khi lập các dự án thì phải có thứ tự ưu tiên, chỉ rõ các kết quả đầu ra thay
vì chỉ dựa trên nguồn lực sẵn có như hiện nay.
Cắt giảm quy mô chi tiêu NSNN cũng sẽ cho phép làm giảm thâm hụt, từng
bước cân bằng ngân sách nhà nước. Với tỷ lệ ngày càng lớn trong ngân sách thì sẽ khó
có thể thực hiện điều này nếu không thực hiện cải cách hành chính, tiết kiệm chi tiêu.
Chính phủ cần có những giải pháp mạnh mẽ hơn với việc cắt giảm chi tiêu trong quản
lý hành chính và cải thiện hiệu quả làm việc của bộ máy. Sự gia tăng nhanh chóng của
số lượng công chức những năm gần đây, nhất là ở cấp xã là rào cản rất lớn cho việc
cắt giảm chi tiêu công.
Với những khoản chi tiêu cho khu vực sự nghiệp, có thể xem xét thay đổi cơ cấu
chi tiêu theo nguyên tắc Nhà nước chỉ bao cấp những dịch vụ công cơ bản, cần thiết và
tăng dần sự tham gia của các thành phần kinh tế khác vào cung cấp dịch vụ. Xã hội hóa
các dịch vụ công đang được coi là chủ trương cần đẩy mạnh song cần đi đôi với việc
nhà nước phải kiểm soát tốt chất lượng các dịch vụ xã hội hóa.
Tài liệu tham khảo
ADB (2012) Key Indicators for Asie and Pacific
Bahl R.W. (1971) "A regression approach to tax effort and tax ratio analysis." Staff
paper-IMF, vol. 18, pp. 570-612.
Burgess, Robert and Nicolas Stern. 1993. "Taxation and Development." Journal of
economic literature, 31(No.2), pp. 762-830.
Chambas Gérard và cộng sự. (2005). Afrique du sud du Sahara : Mobiliser des
ressources fiscales pour le développement. Paris: Economica, 305 p.
Corden, W.M., & Neary, J.P. 1982. “Booming sector and de-industrialisation in a
small open economy”. The economic journal, 92, 825-848.
IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) (2001) Government Finance Statistic Manual
IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) (2013) "Fiscal Monitor – Fiscal Adjustment in uncertain
world" – World Economic and Financial Survey 4/2013
Lotz, Joergen R. và Elliott R. Morss. 1970. "A Theory of Tax Level Determinants
for Developing Countries." Economic Development and cultural change, 18(3), pp.
328-41.
Ngân hàng thế giới (2013) “Doing Bussiness” – Báo cáo của NHTG (WB)
Nhóm tƣ vấn (MAG) Ủy ban Kinh tế Quốc hội – (2012) “Từ bất ổn vĩ mô đến con
đường tái cơ cấu” – Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012.
Tanzi Vito. 1987. "Quantitative characteristics of tax systems of developing
coutries," in The theory of taxation for developing countries. David Newbery and
Nicholas Stern (eds). Oxford. Oxford University Press, pp. 205-41.
Tanzi Vito và L. Schknecht (1997). "Reforming government: An overview of recent
experience." European Journal of Political economy, vol. 13, pp. 395-417.
Tanzi Vito và Zee Howell H. (2000). "Tax Policy for Emerging Markets: Developing
Countries." National-Tax-Journal, vol. 53(2), pp. 299-322.
144
Teerra J.M. và Hudson J. (2004). "Tax performance: a comparative study." Journal
of International Development, vol. 16(6), pp. 785-802.
Vũ Sỹ Cƣờng (2012) “Quan hệ giữa lập dự toán và thưc hiện ngân sách nhà nước
với lạm phát” – Tạp chí Ngân hàng số 2/2012.
Vũ Sỹ Cƣờng (2009) “Ước lượng quy mô thu ngân sách hợp lý: trường hợp Việt
nam” – Tạp chí nghiên cứu Kinh tế số 9/2009.
145
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CƠ CẤU THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Ngọc Anh – Tô Trung Thành
Bài viết này nghiên cứu cơ cấu xuất nhập khẩu (cơ cấu hàng hóa, cơ cấu chủ thể,
cơ cấu thị trường) để đánh giá tổng thể về thương mại quốc tế trong những năm qua, từ
đó nhận định được những thách thức chính của ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn
sắp tới.
Diễn biến khái quát thƣơng mại quốc tế
Việt Nam đã thực hiện một loạt các cải cách trong lĩnh vực kinh tế kể từ sau Đổi
mới (1986). Đối với thương mại quốc tế, cải cách được thể hiện ở việc giảm thuế và dỡ
bỏ các hàng rào thương mại, tham gia các liên minh thuế quan trong khu vực và trên thế
giới. Đối với thuế quan, Việt Nam đã thực hiện quá trình giảm thuế đáng kể sau khi
tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) cũng như các hiệp định hợp tác song phương và đa phương khác. Theo cam kết
với WTO, Việt Nam phải giảm mức thuế nhập khẩu bình quân đơn giản xuống 11.4%
nhưng thuế bình quân năm 2010 đã đạt mức thấp hơn 9.8%. Đối với ngành nông nghiệp
được bảo hộ nhiều nhất, Việt Nam cũng đã cắt giảm thuế nhỏ hơn yêu cầu của WTO
(17% và 18.5%)98
. Đối với ngành công nghiệp cũng cắt giảm thuế tối đa từ mức 16.2%
xuống 8.7%. Theo cam kết với ASEAN, Việt Nam tiếp tục thực hiện CEPT giai đoạn
2008-2013 với một số điều chỉnh, bao gồm đẩy nhanh việc giảm thuế cho 1600 dòng
sản phẩm hải sản, dệt may, sản phẩm công nghệ thông tin về mức 0% vào năm 2012.
Đối với một số dòng sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm, thuế sẽ được giảm từ mức 20-
10% xuống 10-5%. Thuế suất bình quân sẽ chỉ còn 1.88%, 1.77% và 1.69% trong các
năm 2012, 2013, và 2014. Theo cam kết ASEAN- China, Việt Nam cam kết đưa 3700
dòng thuế trong 8900 dòng thuế trong bảng MFN về mức thấp hơn 5% so với mức thuế
MFN. Đáng chú ý khoảng 600 dòng thuế với các nhóm hàng nhạy cảm sẽ giảm về mức
MFN vào gia đoạn 2015-2018. Theo cam kết ASEAN- Hàn Quốc, việc cam kết giảm
thuế sẽ được thực hiện kể từ năm 2015 trở đi. Đối với các biện pháp phi thuế quan, về
hạn ngạch xuất nhập khẩu, Việt Nam đã từng bước dỡ bỏ hạn ngạch tuyệt đối và
chuyển sang dùng hạn ngạch thuế quan, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn vào năm 2015. Các
biện pháp về vệ sinh dịch tễ (SPSs) và hàng rào kĩ thuật (TBTs) được sử dụng thường
xuyên hơn trong ngắn hạn dưới dạng giấy phép xuất khẩu, đặc biệt trong năm 2011, với
mục tiêu bình ổn kinh tế vĩ mô và bảo hộ sản xuất trong nước.
THỊ TRƢỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THIẾT
GS.TSKH. Đặng Hùng Võ
I. Nhìn lại thị trƣờng bất động sản giai đoạn kinh tế chuyển đổi
Thị trường BĐS Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật phát triển của các
nước có nền kinh tế chuyển đổi. Quy luật này bị chi phối bởi cách tiếp nhận lý luận
kinh tế - chính trị học về đất đai. Giá đất bằng "0" trong giai đoạn kinh tế bao cấp
chuyển dần sang giá đất do thị trường quyết định trong giai đoạn kinh tế thị trường.
Hơn nữa, quy luật quán tính của thị trường còn làm tốc độ tăng giá đất quá hơn so với
giá trị thật treen thị trường. Ngoài ra, nếu quản lý không tốt thì đầu cơ đất đai còn làm
cho giá trị bị "thổi phồng" lên hơn nữa. Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế diễn ra
như một quy luật tất yếu. Nếu quản lý nhà nước theo kịp nhu cầu thì vướng mắc
không nhiều, nếu nhận thức hoặc chuyên môn hoặc đạo đức không theo kịp thì tổn
thất trở nên rất đáng kể.
Lấy ví dụ như khủng hoảng bất động sản và khủng hoảng tài chính năm 1997 ở
Đông Nam Á, các nhà kinh tế Thái Lan đã đưa ra nhận định rằng nguyên nhân khủng
hoảng là do giá trị định giá các BĐS thế chấp bị đẩy cao hơn giá trị thực do nghiệp vụ
định giá quá kém (có thể kém về kỹ thuật hoặc kém về đạo đức). Từ đó, các nhà quản lý
thị trường BĐS Thái Lan đã tập trung nỗ lực vào xây dựng hệ thống dịch vụ định giá
đất theo hướng chuyên nghiệp. Ví dụ tương tự gần đây nhất là khủng hoảng tài chính
thế giới từ thị trường BĐS ở Mỹ, việc không kiểm soát được sự phát triển của thị
trường thế chấp thứ cấp đã tạo ra sốt giá BĐS. Ngay ở những nước phát triển cũng còn
thiếu chuyên nghiệp trong quản lý thị trường BĐS.
Theo mốc thời gian, Nhà nước ta quyết định đổi mới vào năm 1986 (Đại hội
Đảng lần thứ VI), tiếp nhận cơ chế thị trường vào năm 1991 (Đại hội Đảng lần thứ
VII), cho phép hộ gia đình, cá nhân thực hiện giao dịch đất đai từ năm 1993 (Luật Đất
đai 1993), thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 1994 (Nghị
quyết Trung ương 7, Khóa VII), cắt bỏ cơ chế bao cấp về nhà ở và phát triển thị
trường nhà ở vào năm 1994 (Nghị định 61-CP), cho phép vận hành thị trường BĐS
vào năm 1996 (Đại hội Đảng lần thứ VIII), cho phép thực hiện các dự án xây dựng
kinh doanh nhà ở để bán và cho thuê vào năm 1998 (Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Đất đai năm 1998), cho phép hình thành thị trường quyền sử dụng đất
và quy định giá đất của Nhà nước phải phù hợp với giá đất thị trường vào năm 2003
(Luật Đất đai 2003), tạo khung pháp lý về nhà ở và phát triển thị trường nhà ở vào
năm 2005 (Luật Nhà ở 2005), tạo khung pháp lý về kinh doanh BĐS vào năm 2006
(Luật Kinh doanh BĐS năm 2006). Đến nay, kể cả vấn đề đất đai cũng như nhà ở và
rộng hơn là thị trường BĐS đang còn khá nhiều vấn đề chưa phù hợp cơ chế thị
trường.
Trên thực tế ở Việt Nam từ sau "Đổi Mới", giá đất đai và BĐS ở các đô thị nước
ta đã tăng nhanh (rơi vào "sốt giá") trong 2 giai đoạn: 1991 - 1993, 2001 - 2003, cách
nhau khoảng 10 năm. Tại các đô thị lớn, trong mỗi giai đoạn, giá đất đã tăng tới 10
lần. Như ở trung tâm Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, giá đất tăng từ 2,5 chỉ trên một mét
vuông lên 2,5 cây vàng trong giai đoạn 1991 - 1993 và tăng tiếp từ 2,5 tới 25 cây vàng
trong giai đoạn 2001 - 2003. Đây chính là quá trình tăng giá do hệ quả của việc
chuyển đổi cơ chế kinh tế. Mặt khác, việc chuyển đổi cơ chế kinh tế luôn gặp một hạn
175
chế về chuẩn bị văn hóa và tính chuyên nghiệp khi tiếp nhận một cơ chế kinh tế khác.
Thiếu tính chuyên nghiệp luôn thể hiện hầu hết các nơi, khâu quản lý thiếu chuyên
nghiệp, nhà đầu tư thiếu chuyên nghiệp và người tiêu dùng cũng thiếu chuyên nghiệp.
Trong hoàn cảnh thiếu chuyên nghiệp và chưa chuẩn bị tốt về văn hóa thị trường, hiện
tượng đầu cơ đất đai và thói quen trữ tiền vào đất đai tăng lên quá nhanh, từ đây tạo ra
ngữ cảnh cung nhà ở cao cấp tăng mạnh phục vụ nhu cầu ảo của đầu cơ và tích trữ
BĐS. Trung khu vực quản lý, mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào vốn đầu tư cũng
làm cho các dự án nhà ở giá cao phát triển rất nhanh. Những hiện tượng này đang để
lại hậu quả nghiêm trọng cho thị trường BĐS ngày nay.
Từ 2004, thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng trưởng mạnh, hút vốn đầu tư
từ thị trường BĐS làm cho thị trường BĐS rơi vào "đóng băng". Tới đầu 2007, thị
trường chứng khoán giảm mạnh ở trạng thái "vỡ bong bóng" đã tạo cơ hội cho thị
trường BĐS "sốt" trở lại. Lần "sốt" BĐS thứ ba ở Việt Nam xẩy ra từ đầu 2007 và kết
thúc vào quý 3 năm 2008 khi kinh tế Việt Nam có biểu hiện rõ về lạm phát. Từ Quý 4
năm 2008, giá BĐS bắt đầu chững lại và suy giảm. Các công cụ kiềm chế lạm phát mà
chủ yếu là giảm cung tiền ra thị trường luôn hạn chế cung vốn cho phát triển BĐS.
Đây là hệ quả tất yếu của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhưng thị
trường BĐS và thị trường chứng khoán lại thăng trầm theo kiểu tự do.
Vào năm 2009, gói kích cầu của Chính phủ cho thị trường với một phần đáng kể
để phát triển nhà ở xã hội đã làm ấm lại thị trường BĐS. Nhưng tới cuối 2010, lạm
phát quay lại, các chính sách kiềm chế lạm phát lại được áp dụng và thị trường BĐS
lại rơi vào thiếu vốn. Tình trạng giao dịch ít trong khu vực BĐS cao cấp, nhà đầu tư
thiếu vốn từ tín dụng, người tiêu dùng thiếu niềm tin vào thị trường, thiếu cung nhà ở
giá rẻ xẩy ra ở hầu hết các đô thị và thừa cung dẫn đến tồn đọng nhiều nhà ở giá trung
bình và cao. Đây là tình trạng chung trong suốt giai đoạn từ 2011 cho tới nay và còn
tiếp tục trong một vài năm tiếp theo. Nghịch lý cơ bản đã xẩy ra trong thị trường BĐS
Việt Nam, cung thừa và cầu lớn nhưng đường cung và đường cầu không gặp nhau.
Đây cũng là hệ quả tất yếu của quá trình đầu tư nóng đẩy tăng trưởng kinh tế lên cao
nhưng hiệu quả đầu tư không được kiển soát tốt, thị trường BĐS gắn mật thiết với đầu
cơ và trữ tiền tiết kiệm vào BĐS. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính
dẫn tới lạm phát và cũng là sự trả giá tất yếu của phát triển nóng trong thị trường
BĐS.
Từ thực tế của Việt Nam và kinh nghiệm của nhiều nước có nền kinh tế chuyển
đổi, có thể đưa ra một số đặc điểm của thị trường BĐS của một đất nước có nền kinh
tế chuyển đổi như sau:
1. Đổi mới tư duy về quản lý kinh tế luôn chậm hơn so với yêu cầu của cơ chế
kinh tế thị trường, từ đó cho thấy hệ thống quản lý thiếu tính chuyên nghiệp và thường
sử dụng cơ chế bao cấp để giải quyết các vấn đề trợ giúp của Nhà nước.
2. Việc tiếp nhận cơ chế thị trường đối với các nguồn lực như đất đai và tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động, vốn tài chính thường khó khăn, rất chậm và vẫn
mang một tỷ lệ bao cấp rất cao; từ đó dẫn đến tính thiếu chuyên nghiệp của thị trường
gắn với các cơ hội tham nhũng.
3. Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế luôn gắn với quá trình tăng giá đất từ "0"
tới giá thị trường; đây là quá trình luôn gắn khả năng tạo siêu lợi nhuận từ kinh doanh
đất, tích trữ tiền vào đất và đầu cơ đất đai vượt giới hạn; tất yếu dẫn tới tình trạng giá
176
đất "sốt rất cao", người có thu nhập thấp khó có nhà ở, và cũng tất yếu dẫn tới tình
trạng thị trường BĐS "đóng băng" và xuống giá mạnh.
II. Tác động của kinh tế vĩ mô vào thị trƣờng BĐS
Như phần trên về một số quy luật của thị trường BĐS tại các nước có nền kinh tế
chuyển đổi, có thể thấy quy luật giá trị trong kinh tế thị trường đã đưa giá BĐS từ rất
thấp (không có giá đất) lên giá khá cao với giá đất phù hợp thị trường và còn cao hơn
thị trường. Sở dĩ có việc cao hơn thị trường vì các lý do chủ yếu bao gồm:
1. Do giá có xu hướng tăng với tốc độ cao làm cho mọi người có cảm giác đầu tư
tiền tiết kiệm vào BĐS là giải pháp tốt nhất nên đây là thị trường thu hút vốn đầu tư rất
mạnh, tạo sức nóng cao cho thị trường BĐS. Trong hoàn cảnh có sức nóng cao thì luôn
xuất hiện tham nhũng trong quản lý và đầu cơ hàng hóa BĐS. Ở nước ta, đã có lúc thị
trường BĐS hút tới 50% tổng vốn đầu tư của cả nước tạo nên tình trạng mất cân đối.
Hầu hết các doanh nghiệp lớn với nhiều ngành nghề khác nhau đều tham gia đầu tư
trong thị trường BĐS và coi đó là hoạt động chủ yếu về kinh doanh. Sức nóng cao của
thị trường BĐS tạo ra ngữ cảnh "cầu ảo" (cầu kinh doanh mua đi - bán lại chứ không
phải cầu cho người có nhu cầu sử dụng thật) và cung chạy theo đáp ứng cho "cầu ảo"
này. Hoàn cảnh này tất dẫn tới tình trạng "bong bóng" trong BĐS (giá trị thị trường cao
hơn giá trị tạo lập) và ế thừa BĐS trong tương lai. Nhiều người biết như vậy nhưng lợi
nhuận thực tế rất lớn đã làm cho người ta không thể dừng lại. "Bong bóng" BĐS là một
trong những nguyên nhân gây nên tình trạng lạm phát năm 2008 và lạm phát trở lại năm
2011.
2. Nền kinh tế chuyển đổi luôn gặp một khó khăn rất lớn trong quản lý do phải
chuyển các tư duy quản lý trong nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Quan
niệm về vai trò quản lý của Nhà nước có thay đổi: từ người điều khiển trực tiếp hệ
thống sản xuất - kinh doanh sang người tạo "sân chơi" cho sản xuất - kinh doanh; từ
người xếp đặt mọi việc trong các hoạt động xã hội sang người cung cấp các dịch vụ
hành chính. Việc quản lý thị trường BĐS cũng rơi vào tình trạng thiếu tính chuyên
nghiệp. Hệ thống pháp luật có nhiều khoảng trống, khoảng chồng chéo và khoảng
xung đột; hệ thống quy hoạch thường mang tính hình thức, thiếu khả thi, không phản
ảnh được ý nguyện của mọi người, chưa hướng được tới một quy hoạch cho phát triển
bền vững; hệ thống tài chính dễ bị chi phối, thiếu chủ động, nhất là không điều chỉnh
thuần thục "van" của kênh liên hệ vốn giữa thị trường tài chính và thị trường BĐS, chi
phí huy động vốn cho phát triển thị trường BĐS luôn ở mức khá cao; hệ thống hành
chính phức tạp, chứa đựng tính quan liêu và nhũng nhiễu khá cao, độ minh bạch và
công khai rất yếu.
3. Thị trường nói chung và thị trường BĐS nói riêng cũng thiếu tính chuyên nghiệp:
thông tin thị trường thiếu đầy đủ, thiếu chính xác, thiếu cập nhật; gần như không có khả
năng dự báo thị trường làm cho hoạt động của thị trường chỉ yếu là tự phát; hầu hết các rủi
ro trong giao dịch thị trường không thể kiểm soát, nhất là các rủi ro trong phương thức
"mua bán nhà trên giấy" hoặc góp vốn giữa người mua nhà trong tương lai và chủ các dự
án đầu tư; nhiều nhà đầu tư BĐS thiếu khả năng khi bước vào thị trường kể cả khả năng
quản lý, khả năng tài chính, khả năng công nghệ, v.v...
Trong ngữ cảnh của một đất nước có nền kinh tế chuyển đổi, sự phát triển của thị
trường BĐS Việt Nam cũng có những ngữ cảnh riêng. Hai lần sốt giá trong giai đoạn
1991 - 1993 và 2001 -2003 hoàn toàn do đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi tạo thành,
đây là quá trình tăng giá từ nền BĐS bao cấp chuyển sang thị trường BĐS. Lần sốt giá
177
tiếp theo 2007 - 2008 có nguyên nhân khác, đó là sự thay đổi phương thức kinh doanh
chuyển vốn đầu tư sang thị trường BĐS sau khi "bong bóng" của thị trường chứng
khoán Việt Nam bị vỡ.
Cũng vào năm 2008, kinh tế Việt Nam có biểu hiện lạm phát và Chính phủ đã phải
đưa ra gói giải pháp kiềm chế lạm phát, trong đó chủ yếu là các giải pháp tài khóa và
tiền tệ trong kinh tế vỹ mô nhằm giảm độ nóng của phát triển kinh tế, cụ thể hơn là
giảm tăng trưởng. Giải pháp tài khóa là giảm đầu tư công, rà soát lại các dự án đầu tư
bằng vốn ngân sách để cắt giảm các dự án chưa cần thiết. Giải pháp tiền tệ là giảm cung
tiền ra thị trường bằng cách tăng lãi suất tín dụng để hút tiền về các ngân hàng thương
mại và giảm cho vay tín dụng, thâm chí không cung vốn của các ngân hàng thương mại
cho một số khu vực, trong đó có thị trường BĐS. Vào cuối năm 2008, thị trường BĐS
đứng trước khó khăn rất lớn về vốn vì các nhà đầu tư đến hạn phải trả lại các khoản tín
dụng cả vốn lẫn lãi. Lúc đó, thị trường BĐS rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn. Nhiều nhà
đầu tư đã phải giảm giá BĐS bán trên thị trường. Giá đất đai và nhà ở bắt đầu hạ, nhất
là ở TP.Hồ Chí Minh.
Đến đầu năm 2009, lạm phát có biểu hiện bị đẩy lùi và Chính phủ lại có giải pháp
"đốt nóng" nền kinh tế sau khi phải chững lại do đối phó với lạm phát. Gói kích cầu
khoảng 1 tỷ USD đã được Chính phủ sử dụng để kích thích kinh tế mà một phần rất
đáng kể được sử dụng để kích thích thị trường BĐS thông qua thực hiện các dự án nhà
ở xã hội. Vì vậy, thị trường BĐS như được tiếp sức vì đã có thêm vốn, hơi ấm đã trở lại
và áp lực vốn đã giảm đáng kể lên các nhà đầu tư BĐS.
Đến đầu 2011, lạm phát lại quay trở lại và Chính phủ lại phải sử dụng các chính
sách kiềm chế lạm phát như trước đây gồm giải pháp tài khóa và giải pháp tiền tệ.
Trong một thời gian khá dài, Bộ Xây dựng cũng như các nhà đầu tư BĐS cố gắng
thuyết minh BĐS cũng là một ngành sản xuất chứ không phải phi sản xuất nên không
phải chịu cảnh không được tiếp cận vốn tín dụng. Hệ quả của qúa trình kiềm chế lạm
phát này là thị trường BĐS rơi vào trầm lắng và Chính phủ đã có Nghị quyết số 02 với
gói giải pháp toàn diện cho thị trường BĐS.
III. Tác động của Luật pháp, quy hoạch và Nhà nƣớc tới thị trƣờng BĐS
Hiện nay, Việt Nam có một hệ thống luật pháp khá nhiều tác động vào thị trường
BĐS, trong đó phải kể tới Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS, Luật Xây
dựng, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Giá, Luật Công chứng, Bộ luật Dân sự, v.v. Như
nhiều ý kiến đã nói, hệ thống luật pháp thì nhiều nhưng vẫn tồn tại khoảng trống,
khoảng chồng chéo khá lớn, có thể lấy một số ví dụ cụ thể dưới đây.
Ví dụ 1: Chính sách phát triển thị trường nhà ở không có một lộ trình nhất quán
Trong thời kỳ bao cấp, người dân được phép mua bán nhà ở nhưng không có
khái niệm thị trường BĐS, Nhà nước bao cấp hoàn toàn về nhà ở cho mọi người làm
việc cho Nhà nước. Nghị định 61-CP năm 1994 đã cắt bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp về
nhà ở và đưa ra chủ trương giải quyết toàn bộ nhà ở bằng cơ chế thị trường, Nhà nước
bán nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước cho người đang ở. Năm 1991, cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước bắt đầu chính thức được áp dụng (Đại hội Đảng khóa
VII). Năm 1996, thị trường BĐS được xác lập trên nguyên tắc quản lý chặt về đất đai
và giải quyết tốt vấn đề nhà ở cho người lao động (Đại hội Đảng khóa VIII). Năm
1998, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai công nhận đất ở được sử
dụng không thời hạn và cho phép các nhà đầu tư trong nước thực hiện các dự án xây
dựng kinh doanh nhà ở; Chính phủ cho phép thực hiện thí điểm 2 dự án phát triển nhà
ở do nhà đầu tư nước ngoài thực hiện. Năm 2003, Luật Đất đai sửa đổi mở rộng quyền
178
giao dịch đất đai của các tổ chức kinh tế trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, chính
thức cho phép nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án xây dựng kinh doanh nhà ở.
Năm 2005, Luật Nhà ở đưa ra cơ chế thiết lập nhà ở công vụ và nhà ở xã hội trên
nguyên tắc Nhà nước bao cấp một phần và đến năm 2009 Chính phủ mới bắt đầu khởi
động một số dự án đầu tiên về nhà ở xã hội.
Ví dụ 2: Luật Kinh doanh BĐS không điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ
tài chính đối với thị trường BĐS
Luật kinh doanh BĐS được thông qua đã tạo hành lang pháp lý cho kinh doanh
BĐS. Luật này đã điều chỉnh khá nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ hỗ trợ thị trường,
nhưng rất đáng tiếc là không điều chỉnh đối với hoạt động dịch vụ tài chính BĐS. Trong
suốt thời gian vừa qua, hình thức góp vốn trước để mua BĐS hình thành trong tương lai
được cả nhà đầu tư lẫn người tiêu dùng ưu thích, áp dụng và được coi như một kênh
huy động vốn hiệu quả, nhưng những rủi ro gắn liền vẫn chưa có cơ chế quản lý hiệu
quả. Những rủi ro về chất lượng, tiến độ, diện tích, dịch vụ nhà chung cư, v.v. luôn luôn
gây lo lắng cho những người đã góp vốn. Luật Kinh doanh BĐS xem xét phương án
"mua bán nhà trên giấy" dưới góc độ quản lý hành chính chứ không sử dụng công cụ tài
chính nên các rủi ro hầu như vẫn còn nguyên trên thực tế. Ngoài ra, các dịch vụ tài
chính khác về BĐS như thế chấp, cầm cố, thế chấp thứ cấp, bảo đảm giao dịch, v.v...
không được đề cập trong Luật này.
Ví dụ 3: Hiện nay đang có 2 hệ thống quản lý dịch vụ định giá đất đai và tài sản
gắn liền.
Từ trước khi Quốc hội thông qua Luật Kinh doanh BĐS, Bộ Tài chính đã xây dựng
và vận hành một hệ thống quản lý dịch vụ định giá đất đai và tài sản gắn liền "dưới ô" của
Luật Giá với các quy định khá cụ thể về đào tạo nghề, cấp phép hành nghề, hoạt động dịch
vụ, tiêu chuẩn định giá, v.v... Sau khi Luật Kinh doanh BĐS được Quốc hội thông qua, Bộ
Xây dựng lại vận hành một hệ thống quản lý dịch vụ định giá BĐS khác với các nội dung
tương tự nhưng có nhiều quy định khác với các quy định do Bộ Tài chính đã ban hành như
các quy định về đào tạo nghề, cơ quan cấp phép hành nghề, tiêu chuẩn của người được
phép hành nghề, tiêu chuẩn của tổ chức được cung cấp dịch vụ định giá, v.v... Đây là một
khoảng chồng chéo có xung đột rất đang kể trong phạm vi quản lý một dịch vụ mới mẻ và
rất quan trọng trên thị trường BĐS.
Ví dụ 4: Một số quy định về cơ chế Nhà nước thu hồi đất và trách nhiệm thực
hiện bồi thường, hỗ trợ giữa Luật Đất đai và Luật Xây dựng
Luật Đất đai 2003 và Luật Xây dựng được Quốc hội thông qua trong cùng một kỳ
họp Quốc hội tháng 11 năm 2003 nhưng lại có một số quy định khác nhau về cơ chế
Nhà nước thu hồi đất và trách nhiệm thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi
đất. Luật Xây dựng quy định là Nhà nước không thu hồi đất cho các dự án vì mục đích
kinh doanh và trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ thuộc chủ đầu tư dự án; trong khi đó Luật
Đất đai 2003 quy định là cơ chế Nhà nước thu hồi đất được áp dụng cho một số loại dự
án vì mục đích kinh doanh và trách nhiệm thực hiện bồi thường, hỗ trợ thuộc Nhà nước.
Theo chuẩn mực quốc tế về chuyển dịch đất đai và bồi thường thì Luật Xây dựng tiến
bộ hơn nhưng các quy định của Luật Đất đai 2003 lại được vận hành trên thực tế.
Ví dụ 5: Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính của dân về đất đai quy định
trong Luật Đất đai khác với các quy định trong Luật Khiếu nại và tố cáo
Luật Khiếu nại và tố cáo (trước đây) được thông qua năm 1998 và được sửa đổi,
bổ sung 2 lần vào năm 2004 và 2005, trong đó quy định trách nhiệm giải quyết khiếu
nại lần thứ hai của các Bộ, cơ quan ngang bộ khi trách nhiệm giải quyết lần đầu thuộc
UBND cấp tỉnh. Luật Đất đai 2003 lại quy định không cho khiếu nại tràn lên các cơ
179
quan ở trung ương. Đây là một xung đột pháp luật khá lớn mà Luật Đất đai đã kéo lùi
sự tiến bộ pháp luật, mãi tới năm 2011 xung đột này mới được Luật Tố tụng hành
chính loại bỏ.
Về quy hoạch đối với BĐS, khiếm khuyết hiện nay còn quá nhiều, có thể kể ra
một số điểm chủ yếu như sau:
1. Quá trình đô thị hóa chưa được xem xét đồng bộ giữa chuyển dịch vốn đầu
tư, đất đai, lao động. Nhiều đô thị đã hình nhưng không có khả năng thu hút cư dân vì
thiếu khả năng tạo việc làm hoặc thiếu hạ tầng ở mức tối thiểu để bảo đảm cuộc sống
đô thị. Thành phố Vạn tường thuộc khu kinh tế Dung Quất là một ví dụ cụ thể, thành
phố có khả năng thu hút cư dân vì có khả năng tạo việc làm từ khu kinh tế nhưng
không đủ hạ tầng xã hội nên các cư dân lại quay lại các khu dân cư nông thôn để sinh
sống. Ngược lại, nhiều khu kinh tế cửa khẩu cũng như khu kinh tế ven biển có kết cấu
hạ tầng được dầu tư khá tốt nhưng mọi hoạt động kinh tế lại rất chậm nên không tạo
được việc làm để thu hút dân cư.
2. Quy hoạch sử dụng đất chỉ làm nhiệm vụ đặt ra chỉ tiêu diện tích các loại đất
được sử dụng cho mục đích phát triển BĐS trong giai đoạn 10 năm (trong quy hoạch)
và 5 năm (trong kế hoạch), không chỉ ra được không gian cụ thể. Nói cách khác, quy
hoạch sử dụng đất chưa xác định cách tiếp cận quy hoạch không gian nên rất hạn chế
trong trợ giúp phát triển thị trường BĐS. Trên thực tế, khi thị trường BĐS rơi vào tình
trạng "phát triển nóng" thì hầu như chỉ tiêu đất ở cho 10 năm được thực hiện ngay
trong 2 hoặc 3 năm đầu.
3. Quy hoạch xây dựng có một phần về quy hoạch sử dụng đất lại tiếp cận theo
hướng phân bố không gian sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất vẫn được thực hiện tại
cả những đô thị đã có quy hoạch đô thị chi tiết được phê duyệt. Đây là một biểu hiện
chồng chéo về nhiệm vụ quy hoạch, vừa gây lãng phí, vừa tạo ra bức tranh phức tạp
trong quản lý.
4. Trong thời gian thị trường BĐS phát triển nóng, tính đồng bộ trong quy
hoạch thường bị lãng quên. Một khu nhà chung cư được quy hoạch không đồng bộ với
quy hoạch hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đã gây nên tình trạng nhà ở không gắn với
nơi ở. Đây là một trong nhiều lý do tạo ra tình trạng nhiều khu dân cư bị bỏ hoang sau
khi đã hoàn thành.
5. Do nhu cầu phát triển mở rộng đô thị nên nhiều địa phương cấp tỉnh đã vạch
ranh giới hành chính đô thị quá rộng, rộng hơn cả quy hoạch phát triển. Tại nhiều tỉnh,
địa bàn phường còn nguyên khung cảnh nông thôn miền núi. Đây là tình trạng đang
gây khó khăn cho quản lý: nhiều vùng chậm phát triển nhưng đang đuợc quản lý theo
cách quản lý đô thị.
6. Công cụ quy hoạch đang thể hiện khá nhiều khiếm khuyết, do cách nhìn quy
hoạch bị chia cắt, tính chuyên nghiệp trong quy hoạch còn thiếu, lợi ích từ quy hoạch chưa
được quản lý sao cho minh bạch, sự tham gia của cộng đồng vào quy hoạch chưa cao,
thông tin trong quá trình xây dựng và thông tin về quy hoạch đã được phê duyệt chưa được
công khai đầy đủ, điều chỉnh quy hoạch còn thiếu các căn cứ xác đáng.
7. Nhiều dự án đầu tư khu dân cư chỉ tập trung vào phần đầu tư nhà ở để bán và
thường chậm thực hiện hoặc xin không thực hiện một số hạng mục đầu tư hạ tầng như
nơi vui chơi, hồ điều hòa, chỗ để xe, v.v.
180
Quyền của Nhà nước quyết định đối với đất đai thông qua cơ chế "Nhà nước thu
hồi đất" là một yếu tố có tác động khá lớn tới thị trường BĐS. Đây là nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới nguy cơ tham nhũng về đất đai và khiếu kiện nhiều của dân về đất đai. Cơ
chế thị trường đã được tiếp nhận và vận hành, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất.
Về nguyên lý, nhà đầu tư cần đất cho mục tiêu đầu tư của mình thì phải tiếp cận thị
trường quyền sử dụng đất. Người đang sử dụng đất có thể muốn chuyển nhượng hoặc
không muốn, rất không muốn chuyển nhượng. Vấn đề đặt ra là cơ chế chuyển dịch đất
đai như thế nào và Nhà nước tác động như thế nào cho phù hợp với cơ chế thị trường,
để giảm tham nhũng và khiếu kiện. Tất nhiên, cơ chế Nhà nước can thiệp vào nguồn lực
đất đai theo kiểu bao cấp là không phù hợp. Nhà nước chỉ nên là người đưa ra điều kiện
"chuyển quyền sử dụng đất đai bắt buộc để thực hiện quy hoạch sử dụng đất" và cách
thức chuyển quyền phải do nhà đầu tư thỏa thuận với "cộng đồng những người đang sử
dụng đất", trong đó có cả hình thức chuyển quyền và giá trị chuyển quyền.
Hiện nay Quốc hội đang chuẩn bị thông qua Luật Đất đai sửa đổi và bắt đầu khởi
động quá trình sửa đổi Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh BĐS. Quốc hội cũng đã giao
cho Chính phủ xây dựng Luật Quy hoạch hướng tới tính đồng bộ của hệ thống quy
hoạch. Trong dự thảo Luật Đất đai sửa đổi chưa có nhiều yếu tố hỗ trợ thị trường BĐS,
trong đó có phương thức hợp lý để Nhà nước tác động vào thị trường.
Chính phủ và UBND cấp tỉnh đang có chủ trương rà soát lại quy hoạch có liên
quan tới phát triển BĐS. Những yêu cầu đồng bộ giữa quy hoạch phát triển nhà ở và
phát triển hạ tầng đang được đặt ra cả dưới góc độ quy hoạch và thực hiện quy hoạch.
IV. Nghịch lý hiện tại và những vấn đề cần giải quyết của thị trƣờng BĐS
Việt Nam
Quá trình "sốt" giá đất đã tạo nên những nghịch lý của thị trường BĐS hiện nay,
cụ thể bao gồm:
Nghịch lý 1: Giá nhà ở trung bình cao gấp 25 lần thu nhập trung bình năm của người
lao động (trong khi ở các nước khác tỷ lệ này là 2 - 4 lần), nếu người lao động tiết kiệm được
25% thu nhập thì cũng phải 100 năm sau mới mua được nhà. Đến nay, tỷ lệ này đã giảm tới
mức 10 lần trong khu vực nhà ở thương mại giá thấp và nhà ở xã hội.
Nghịch lý 2: Thừa cung nhà ở giá cao đã tạo nên kho BĐS tồn đọng gắn với nợ xấu
mà không có cầu, trong khi đó thiếu cung trầm trọng đối với nhà ở giá thấp có cầu rất cao.
Đây là nghịch lý của sự không gặp nhau giữa đường cung và đường cầu trong hoàn cảnh cả
cung và cầu đều rất cao. Tổng cung và tổng cầu lúc này không có nghĩa.
Nghịch lý 3: BĐS tồn đọng nhiều nhưng giá BĐS chỉ hạ tới mức nhất định,
không có hiện tượng phá giá vì vốn tồn đọng chủ yếu từ vốn góp của người tiêu dùng
trong phương thức "mua nhà trên giấy", vốn tín dụng từ ngân hàng chiếm tỷ lệ không
cao và có một lượng vốn khá lớn từ các ngân hàng thương mại đầu tư trực tiếp cho thị
trường BĐS chứ không thông qua cơ chế vay tín dụng.
Kho BĐS giá cao tồn đọng gắn với nợ xấu của các ngân hàng thương mại đang
tồn tại và coi đây là một điểm trong tâm cần tháo gỡ cho thị trường. Nhà đầu tư dự án
đã giảm giá tới "mức sàn" nhưng vẫn không có giao dịch. "Kho tồn đọng" này tiếp tục
tồn tại chờ Nhà nước cứu giúp. Nhà đầu tư kêu ca nhiều nhưng chỉ có rất ít nhà đầu tư
chủ động tìm giải pháp cho mình.
Trong ngữ cảnh này, có 2 đặc điểm của thị trường BĐS Việt Nam cần được nhìn
nhận thật rõ ràng. Thứ nhất, nợ xấu trong BĐS nhà ở không phải chủ yếu từ nguồn tín
181
dụng của các ngân hàng thương mại mà có thể ước tính có khoảng 50% từ nguồn tiền
góp vốn của người tiêu dùng và các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Chính vì vậy mà nhiều nhà đầu
tư kêu ca rất thảm thiết về giá BĐS xuống dốc nhưng họ vẫn chấp nhận để BĐS tồn
đọng mà không chịu hạ giá. Tình trạng xung đột giữa các nhà đầu tư và người góp vốn
đang xẩy ra khá phổ biến ở nhiều nơi. Chính vì vậy mà nợ xấu ước tính từ các ngân
hàng thương mại trong BĐS tồn đọng vẫn chỉ khoảng 6% tổng dư nợ tín dụng nhưng
nhiều ý kiến cho rằng nợ xấu trong BĐS cao hơn rất nhiều. Thứ hai, các hoạt động
của thị trường BĐS vẫn diễn ra bình thường kể cả về giao dịch nhà giá thấp, hoạt
động xây dựng, hoạt động tín dụng và đầu tư từ nước ngoài. Nhiều nhà đầu tư đang
tập trung vào khu vực giá thấp, nhà ở xã hội và nhà ở cho thuê.
Theo nghiên cứu của Dragon Capital, tổng BĐS tồn đọng của cả Hà Nội và Tp.
Hồ Chí Minh đã lên tới 70.000 căn hộ, mỗi nơi có khoảng hơn 35 nghìn căn hộ sẵn
sàng để bán mà không có giao dịch. Nếu mức giá là 1,5 tỷ đồng mỗi căn thì ước tính
tổng số vốn bị tồn đọng trong BĐS tồn đọng lên tới 100.000 tỷ đồng. Nhiều chuyên
gia đã ước tính rằng thông thường để giải quyết số lượng tồn kho BĐS này phải mất ít
nhất 7 năm.
Nghịch lý 4: Các nhà đầu tư BĐS nói rằng rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn, gần
như phá sản nhưng trên thực tế vẫn có tới 80% đang kinh doanh có lãi, thực - hư quả
khó lường. Các nhà đầu tư BĐS kêu cứu thảm thiết nhưng số lượng M&A không cao.
Nghịch lý 5: Giá nhà ở xã hội với nhiều ưu đãi của Chính phủ có giá cao hơn
nhà ở thương mại giá thấp cùng loại, nhà ở xã hội đang được quản lý theo cơ chế
thuần túy bao cấp trong khi giá nhà ở thương mại được hình thành từ cạnh tranh trên
thị trường.
Nhiều chuyên gia cho rằng thị trường BĐS hiện nay không đóng băng hoàn toàn
vì vẫn có nhiều giao dịch trong phân khúc nhà ở giá thấp. Tại khu vực Hà Nội, trước
đây là dự án Xa La ở quận Hà Đông với giá khoảng 14 triệu đồng/m2 và gần đây là dự
án Đại Thanh cũng ở gần dự án Xa La với giá chỉ 10 triệu đồng/m2. Cả 2 dự án giá
thấp này đều bán hết hàng ngay trong một thời gian rất ngắn. Theo thông tin của hệ
thống sàn BĐS Tp. Hồ Chí Minh, lượng giao dịch thành công đối với những sản phẩm
BĐS giá trung bình và giá thấp tăng lên khá cao, biểu hiện xu hướng thị trường ấm lại
trong phân khúc này.
Khi dự án Đại Thanh chào giá 10 triệu đồng/m2, đã nổ ra một cuộc thảo luận với
nhiều ý kiến trái chiều. Một phía khẳng định đây là cách làm phù hợp, một chiến lược
kinh doanh đúng hướng, thậm chí có thể đưa giá xuống mức thấp hơn. Một phía khác
lại khẳng định đây là một hành vi phá giá thị trường. Cuộc tranh luận này đã thu hút rất
mạnh sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng. Đến nay, cuộc tranh luận về
giảm giá nhà ở thương mại đã kết thúc. Rất nhiều nhà đầu tư đã chuyển hướng kinh
doanh như dự án Đại Thanh đã làm và có khả năng đưa giá xuống thấp hơn. Từ góc
nhìn khác, giá nhà ở xã hội cao hơn 10 triệu đồng/m2 vẫn đang là một thách thức với các
cơ quan quản lý. Sự thực, giá nhà ở xã hội đang được quản lý theo kiểu bao cấp nên giá
không có động lực tác động từ thị trường.
Hiện nay, nhà ở xã hội đang được nhiều người quan tâm, cả khu vực quản lý của
Nhà nước, cả những người lao động chưa có nhà ở và cả các nhà đầu tư. Việc đưa giá
BĐS giá rẻ xuống mức thấp hơn được coi như một quy luật tất yếu của thị trường
nhưng lại gây khó khăn đáng kể cho giá nhà ở xã hội do cơ quan Nhà nước xét duyệt
giá. Giá nhà ở xã hội của Nhà nước, được hình thành với nhiều ưu đãi của Nhà nước
182
hiện cao hơn giá các nhà ở thương mại giá rẻ. Sự thực, để giải quyết tình trạng này
không khó vì giá cả nhà ở luôn phụ thuộc vào công nghệ xây dựng, vật liệu xây dựng,
chi phí quản lý, chi phí huy động vốn, v.v... Giá nhà ở xã hội cũng sẽ giảm nếu có
những thay đổi tốt hơn về xây dựng, quản lý và huy động vốn.
Nghịch lý 6: Gói tín dụng ưu đãi cho người có thu nhập thấp mua nhà đã sẵn
sàng với giá trị lên tới 21.000 tỷ đồng nhưng người có nhu cầu rất khó tiếp cận vốn,
chưa biết bao giờ mới giải ngân xong và liệu người có thu nhập thấp thực sự có tiếp
cận được ưu đãi này.
Những nghịch lý này nghe ra có vẻ bất thường nhưng thực sự lại rất bình thường
trong thị trường BĐS hiện nay. Tất cả do tính thiếu chuyên nghiệp của thị trường
BĐS, từ quản lý tới nhà đầu tư và tới người tiêu dùng. Thông tin không đầy đủ, thiếu
chính xác. Các rủi ro gần như không được quản lý.
Như vậy, từ cuối năm 2012 tới nay có 2 việc cần làm cho thị trường BĐS nước
ta: một là tăng cung cho khu vực giá rẻ gồm cả nhà ở xã hội nhằm thỏa mãn cầu rất
cao của những người lao động có thu nhập thấp; và hai là giải quyết kho BĐS tồn
đọng có giá cao và giá trung bình. Bên cạnh 2 việc này còn có một số việc khác cần
làm nhằm tái cơ cấu khu vực kinh tế BĐS.
V. Gói giải pháp hiện nay của Nghị quyết 02
Những dữ liệu thực tế nói trên đã mô tả đúng thực trạng nghịch lý của thị trường
BĐS hiện nay. Trong tình trạng này, hầu hết các nhà đầu tư BĐS đều cho rằng Nhà
nước phải giải cứu thị trường BĐS. Hầu hết các Bộ có liên quan và Ngân hàng Nhà
nước đã vào cuộc giải cứu này với nhiều đề xuất giải pháp khác nhau.
Bên cạnh các giải pháp này là một luồng ý kiến hoàn toàn khác, không cần giải
cứu thị trường BĐS. Trước hết là các ý kiến của các đại biểu Quốc hội trong Ủy ban
Kinh tế của Quốc hội khi xem xét vấn đề giải cứu thị trường BĐS. Hầu hết các ý kiến
đều cho rằng không phải giải cứu thị trường BĐS vì đây không phải là vấn đề có tác
động lớn tới nền kinh tế, các nhà đầu tư phải tự tìm giải pháp cho mình.
Tiếp theo là sự ồn ã quanh chuyện tranh luận giữa Ts. kinh tế Allan Phan và Câu
lạc bộ BĐS Hà Nội. Ts. Allan Phan nói rằng không phải giải cứu thị trường BĐS vì sự
cố BĐS ở Việt Nam hiện nay là hệ quả tất yếu do chính các nhà đầu tư BĐS tạo ra,
khi lãi nhiều thì không ai trợ giúp chính phủ nhưng khi lỗ thì lại kêu chính phủ phải
giải cứu. Điều quan trọng hơn là Ts. Allan Phan đã chỉ ra được tính tích cực của
khủng hoảng BĐS hiện nay, đừng nhìn chỉ với con mắt tiêu cực. Sự khủng hoảng tất
yếu là cơ hội để thị trường BĐS lột xác để có một cơ thể khỏe mạnh hơn. Ý kiến của
Ts. Allan Phan có lý ở một góc nhìn khái quát nhất định. Ngược lại, Câu lạc bộ BĐS
Hà Nội thì vẽ ra một bức tranh BĐS Việt Nam toàn mầu đen như cảnh tượng con tầu
BĐS chìm sẽ kéo theo thị trường hàng hóa, vật liệu xây dựng, việc làm của người lao
động, vốn của dân, vốn của doanh nghiệp, hạ tầng kinh tế, v.v... và không thể để thị
trường BĐS rơi tự do. Ts. Phạm Sỹ Liêm thì cho rằng xin mời các nhà đầu tư cứ rơi tự
do như quy luật của thị trường.
Sự thực, trong tình trạng của thị trường BĐS nước ta hiện nay, không nên dùng
từ "giải cứu" mà chỉ nên dùng từ "tháo gỡ khó khăn cho thị trường". Về nguyên tắc,
một số nước như Mỹ, Thái Lan, Singapore trước đây cũng đã từng giải cứu thị trường
BĐS. Nhưng các quốc gia này chỉ ra tay khi thị trường BĐS tác động xấu gây nên
khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế trên tầm quốc gia, khu vực hoặc toàn
183
cầu. Họ đặt ra vấn đề giải cứu vì hệ lụy phát sinh chứ không phải vì bản thân thị
trường BĐS.
Ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ có thị trường BĐS chịu khó khăn về vốn khi Nhà
nước kiềm chế lạm phát chứ chưa nhìn thấy khả năng thị trường BĐS là ra khủng hoảng
tài chính quốc gia. Tất nhiên mới có một số ít doanh nghiệp mới bước chân vào thị
trường BĐS là gặp khó khăn thực sự. Vấn đề giải cứu chỉ được đặt ra khi sự suy biến của
thị trường bất động sản làm nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. Thị trường là một "cuộc
chơi" kinh tế, vào thị trường phải chấp nhận "luật chơi", thắng có tiền bỏ túi, thua phải
đành chấp nhận mất tiền. Hơn nữa, bao nhiêu tiền có thể cứu được thị trường BĐS và liệu
có thể giải cứu được không. Chúng ta hãy nhìn vào sự thăng trầm của thị trường chứng
khoán để tìm hành động cho thị trường BĐS.
Trước tình hình kinh tế nước ta đang gặp khó khăn, các doanh nghiệp đều rơi
vào tình trạng thiếu vốn, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày
07/01/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị
trường, giải quyết nợ xấu. Các giải pháp có liên quan tới thị trường BĐS, doanh
nghiệp BĐS bao gồm:
1. Gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng đối với
các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (sử dụng dưới 200 lao động làm việc toàn bộ
thời gian và có doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng); doanh nghiệp sử dụng nhiều
lao động (sử dụng trên 300 lao động) trong lĩnh vực xây dựng các công trình hạ tầng
kinh tế - xã hội; mọi doanh nghiệp đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua)
nhà ở.
Trình Quốc hội thông qua từ ngày 01/7/2013 áp dụng mức thuế thu nhập doanh
nghiệp 20% đối với doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ; 10% đối với thu nhập từ đầu
tư - kinh doanh nhà ở xã hội; giảm 50% số thuế giá trị gia tăng đầu ra đối với hoạt
động đầu tư - kinh doanh nhà ở xã hội; giảm 30% số thuế giá trị gia tăng đầu ra đối
với hoạt động đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua) nhà ở là căn hộ có
diện tích sàn dưới 70 m2 với giá bán dưới 15 triệu đồng/m
2.
2. Giảm tiền thuê đất năm 2013, năm 2014 đối với các tổ chức kinh tế, hộ gia
đình, cá nhân được nhà nước cho thuê đất tới mức bằng 2 lần tiền thuê đất phải nộp
của năm 2010. Cho phép nộp tiền sử dụng đất theo tiến độ thanh toán tiền bán hàng
đối với các chủ đầu tư dự án đã được Nhà nước giao đất nhưng chưa hoàn thành nghĩa
vụ về nộp tiền sử dụng đất do có khó khăn về tài chính.
3. Các ngân hàng thương mại nhà nước dành một lượng vốn hợp lý tối thiểu
khoảng 3% tổng dư nợ để cho các đối tượng được tiếp cận nhà ở xã hội và nhà ở thương
mại có diện tích nhỏ hơn 70 m2 với giá bán dưới 15 triệu đồng/m
2 với lãi suất thấp, kỳ
hạn trả nợ phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng và cho vay đối với các doanh
nghiệp xây dựng nhà ở xã hội, doanh nghiệp chuyển đổi công năng của dự án đầu tư
sang dự án nhà ở xã hội với lãi suất hợp lý và kỳ hạn trả nợ phù hợp với kỳ hạn của
nguồn vốn và khả năng trả nợ của khách hàng. Dành từ 20 - 40 nghìn tỷ đồng (con số
thực tế là 30.000) thông qua tái cấp vốn với lãi suất hợp lý và thời hạn tối đa 10 năm tùy
theo đối tượng sử dụng vốn vay để hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại của Nhà nước
để phục vụ cho vay đối với các đối tượng này.
184
4. Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân tham gia phát triển nhà ở
xã hội, có chính sách tín dụng ưu đãi để người thuộc diện được tiếp cận nhà ở xã hội
có thể tiếp cận được nhà ở xã hội.
5. Rà soát tất cả các dự án phát triển nhà ở để phân loại các dự án được tiếp tục
thực hiện, các dự án cần tạm dừng, các dự án cần điều chỉnh cơ cấu, loại hình nhà ở,
chuyển đổi sang phát triển nhà ở xã hội cho phù hợp với nhu cầu của thị trường và
nguồn lực xã hội.
Hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp bất động sản chủ động điều chỉnh hoạt động
kinh doanh, tái cơ cấu doanh nghiệp cho phù hợp, giảm giá bán, điều chỉnh cơ cấu hàng
hóa cho phù hợp với khả năng chi trả của thị trường, chuyển sang nhà ở xã hội, thực hiện
công khai, minh bạch, đúng cam kết tiến độ, tạo niềm tin với khách hàng.
Tổng kết Nghị quyết số 19/2008/NQ-QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc hội về thí
điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam để báo cáo
Quốc hội xem xét, quyết định việc mở rộng đối tượng và điều kiện mua và sở hữu nhà
ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
6. Các Bộ, cơ quan nghiên cứu để sớm hình thành các định chế tài chính mới
như dạng Quỹ Tiết kiệm nhà ở, Quỹ Đầu tư BĐS, Cơ quan tái cho vay thế chấp nhà ở,
tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn cho thị trường BĐS.
7. Rà soát, đánh giá lại nợ xấu; tiến hành phân loại các khoản nợ xấu theo loại
hình doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, đối tượng vay vốn và theo các loại tài sản bảo
đảm, nợ xấu trong bất động sản, nợ xây dựng cơ bản... và đánh giá thực trạng tài sản
đảm bảo, nguồn gốc pháp lý, giá trị thị trường, khả năng thanh khoản của các tài sản
này để có các giải pháp xử lý phù hợp với từng loại hình nợ xấu.
Chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động triển khai các giải pháp tự xử lý nợ xấu
như đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi; tiếp tục cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh
nghiệp tiếp cận được vốn vay, bán nợ xấu cho các công ty quản lý tài sản, mua bán
nợ; kiểm soát chặt chẽ và tiết giảm chi phí hoạt động để tích cực trích lập, sử dụng dự
phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; triển khai các giải pháp hạn chế nợ xấu phát sinh trong
tương lai.
Hoàn thiện Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng và Đề án thành
lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam.
Hiện nay, ngân sách xuất ra 30.000 tỷ đồng để trợ giúp vốn vay ưu đãi cho cả
người có thu nhập thấp mua nhà ở và cho cả các doanh nghiệp BĐS có nhu cầu
chuyển đổi dự án sang khu vực giá rẻ hoặc nhà ở xã hội đã được quyết định. Dự kiến
sẽ triển khai từ 15 tháng 4 nhưng phải lùi lại tới cuối tháng 5 mới có hướng dẫn cụ
thể. Trong quá trình thảo luận, tỷ lệ bao nhiêu phần trăm để trợ giúp cho cung và bao
nhiêu phần trăm để trợ giúp cho cầu cũng là một đề tài nóng. Cuối cùng, tỷ lệ 70%
cho cầu và 30% cho cung cũng đã được thống nhất giữa Bộ Xây dựng và Ngân hàng
Nhà nước.
Song song là các giải pháp về rà soát quy hoạch, rà soát dự án, loại bỏ một số dự
án và cho chuyển đổi một số dự án sang nhà ở xã hội, một số dự án được thay đổi
công năng sử dụng sang kinh doanh dịch vụ. Xa hơn là các giải pháp tài chính giải
quyết nợ xấu nói chung và nợ xấu trong BĐS nói riêng. Xa hơn nữa là các giải pháp
về đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, xây dựng và thị trường BĐS.
185
Nhìn lại nội dung của Nghị quyết 02, có thể thấy đây là gói giải pháp giúp cho các
doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính để vượt qua khó khăn, điều chỉnh lại cung
- cầu trên thị trường, giúp cho người có thu nhập thấp sớm có nhà ở và giải quyết khối
lượng vốn đang tồn đọng trong thị trường BĐS. Đây không phải là "giải cứu" thị trường
BĐS mà là sự can thiệp hợp lý của Nhà nước vào thị trường.
VI. Nhìn lại việc thực hiện các giải pháp cho thị trƣờng BĐS theo Nghị
quyết 02
Như trên đã nói rất rõ, có 2 việc phải làm cho thị trường BĐS hiện nay: một là
giải quyết kho BĐS tồn đọng để giải phóng khối lượng nợ xấu đang tồn đọng; hai là
tăng cung cho khu vực nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ để giải quyết nhà ở cho
người lao động có nhu cầu về chỗ ở. Giải pháp cho cả 2 việc này đã được đề cập khá
rõ trong Nghị quyết 02.
VI.1. Giải pháp Nhà nước hỗ trợ tín dụng với gói 30.000 tỷ đồng
Đến nay, các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa thông tin rằng tiêu chí
người thu nhập thấp chưa rõ ràng, người có thu nhập thấp đi vay tiền ở ngân hàng
cũng rất khó khăn và nguồn cung nhà ở xã hội và nhà ở thương mại giá rẻ cũng chưa
tăng được bao nhiêu. Từ đây, nhiều ý kiến hoài nghi về hiệu quả thực hiện gói trợ
giúp tín dụng 30.000 tỷ đồng. Cơ chế thực hiện vẫn là bài toán cần quan tâm hiện nay.
Một vấn đề đang tồn tại là:
1. Các quy định về mức thu nhập, việc xác nhận thu nhập và xác nhận tình trạng
thiếu nhà cho các đối tượng được mua nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ đang gặp
khó khăn, nhiều cơ quan có trách nhiệm không xác nhận với lý do không biết rõ. Với
những ách tắc này, Bộ Xây dựng đã có những hướng dẫn chi tiết: (a) mức thu nhập
thấp là mức thu nhập dưới mức chịu thuế thu nhập; (b) cơ quan sử dụng lao động có
trách nhiệm xác nhận thu nhập; và (c) diện tích nhà ở hiện tại được xác định chỉ tại
nơi đang đăng ký hộ khẩu chính thức. Trong hoàn cảnh hiện nay khi chưa có công cụ
quản lý thu nhập của người lao động tại một đất nước tiêu tiền mặt là chủ yếu và hồ sơ
địa chính về nhà đất đang được quản lý chia cắt theo địa bàn huyện, chắc cũng không
có giải pháp khá hơn so với giải pháp đưa ra của Bộ Xây dựng, mặc dù ai cũng biết
rằng các giải pháp đang hướng dẫn chưa có độ chính xác cao. Sự thực, xác định đúng
được đối tượng được hưởng ưu đãi tín dụng theo thứ tự ưu tiên là một việc bất khả thi
ở nước ta hiện nay.
2. Việc bắt người có thu nhập thấp muốn vay tiền phải chứng minh khả năng trả
nợ tại các ngân hàng thương mại đang có biểu hiện thiếu khả thi. Đã là người có thu
nhập thấp thì khó có thể chứng minh được thu nhập của mình có khả năng để ra một
phần thu nhập cho nhà ở. Tất nhiên, việc đòi hỏi của các ngân hàng thương mại là chính
đáng vì không thể để khoản tín dụng này lại rơi vào nợ xấu. Đây là những lý do chính
làm cho việc giải ngân đối với 70% gói 30 nghìn tỷ đồng trợ giúp tín dụng cho người có
thu nhập thấp mua nhà ở. Theo phương thức hiện nay - phương thức cho người nghèo
vay tiền giống như cho người giầu vay tiền (phải có tài sản thế chấp và chứng minh
được khả năng trả nợ), việc trợ giúp chỉ chỉ có thể đến với nhóm thu nhập tầng trên của
những người có thu nhập thấp. Bộ Xây dựng cũng đã có thống nhất với các ngân hàng
thương mại về việc kết hợp cho người mua nhà vay tiền với các dự án thuộc diện được
vay tín dụng ưu đãi. Đây cũng là sáng kiến giúp cho việc đẩy tiến độ giải ngân nhanh
186
hơn và chắc hơn. Tất nhiên, những sáng kiến này chưa giải quyết tận gốc bài toán cho
người nghèog vay tiền.
Ở các nước khác, người ta sử dụng cộng đồng những người có thu nhập thấp tại
một địa phương hoặc tại một nhóm cơ quan là cơ chế trợ giúp cho việc xác nhận thu
nhập, tình trạng nhà ở và khả năng trả nợ tiền vay. Bên cạnh cộng đồng này là một tổ
chức xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội tình nguyện trợ giúp cho họ. Cách trợ giúp là
tìn cơ hội tăng thu nhập, tìm nhiều nguồn trợ giúp xã hội khác và bảo đảm trả nợ từ
khoản vay cho cả cộng đồng. Ở một số nước, người ta đã áp dụng cơ chế cộng đồng
vay tiền để xây dựng nhà ở cho mình dưới sự bảo trợ của một tổ chức xã hội, họ là
người thuê nhà thầu xây dựng và họ đứng ra quản lý quá trình xây dựng.
Ngân hàng Grameen ở Bangladesh cùng với người sáng lập là Gs. Muhammad
Yunus đã được nhận Giải thưởng Nobel vì hòa bình năm 2006 do sáng kiến về cơ chế
cho người nghèo vay tiền dựa vào cộng đồng mà không cần các cơ chế vay tiền ngân
hàng như thông lệ. Vào năm 1998, Ngân hàng này cũng đã được nhận Giải thưởng
Môi trường sống Thế giới do vận hành hiệu quả Chương trình nhà ở giá thấp.
Trên thực tế, cơ chế cấp tín dụng ưu đãi cũng như việc rà soát cho chuyển đổi dự
án mới chỉ được thực hiện nhằm tăng cung cho khu vực nhà ở xã hội, nhà ở thương mại
giá rẻ, mới chỉ tác động được tới một số dự án nhà ở giá trung bình có khả năng chuyển
sang nhà ở giá thấp hoặc nhà ở xã hội, chưa động tới bản chất của khu vực nhà ở giá
cao, giá trung bình đang tồn tại và tồn đọng. Đến nay, việc tăng cung cho khu vực giá rẻ
là nhìn thấy khá rõ tính khả thi trên thực tế, nhưng việc giải quyết kho BĐS tồn đọng
vẫn chưa thấy rõ những hoạt động cụ thể. Việc chuyển đổi dự án cũng chủ yếu tập trung
vào các dự án còn trên giấy hoặc mới bắt đầu.
VI.2. Giải pháp cho khu vực BĐS tồn đọng
Giải quyết các BĐS giá cao, giá trung bình đang tồn đọng hiện vẫn đang trong giai
đoạn chuẩn bị giải pháp cụ thể. Các tổ chức, thể chế mua bán nợ xấu vẫn chưa được
thảo luận ở mức độ chi tiết, và càng chưa có chương trình cụ thể về việc thành lập công
ty quản lý tài sản tồn đọng. Việc rà soát để sửa đổi pháp luật mới chỉ đang tập trung vào
đề xuất của Bộ Xây dựng về mở rộng diện người nước ngoài được mua nhà ở tại Việt
Nam như người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng có thời hạn (hoặc hai lần 50
năm hoặc một lần 70 năm). Nội dung sửa đổi Luật Đất đai cũng chưa có điểm nhấn đối
với phát triển lành mạnh và hiệu quả của thị trường BĐS. Các luật khác còn ở vị trí xa
hơn nữa, chưa trong tầm tay với để xem xét.
1. Giải pháp mở rộng diện người nước ngoài được mua nhà ở tại Việt Nam
Ngày 03/6/2008, Quốc hội Khóa 12 đã thông qua Nghị quyết số 19/2008/QH12
về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Diện được mua nhà ở gồm: (a) cá nhân nước ngoài có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam
hoặc được thuê giữ chức danh quản lý doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam; (b)
cá nhân nước ngoài có công đóng góp cho Việt Nam; (c) cá nhân nước ngoài đang
làm việc trong lĩnh vực kinh tế - xã hội có trình độ và người có kiến thức, kỹ năng đặc
biệt mà Việt Nam có nhu cầu; (d) cá nhân nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam;
(đ) doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam theo pháp
luật về đầu tư không có chức năng kinh doanh bất động sản, có nhu cầu về nhà ở cho
những người đang làm việc tại doanh nghiệp đó ở. Các đối tượng này phải được phép
cư trú tại Việt Nam từ một năm trở lên và không thuộc diện được hưởng quyền ưu đãi,
187
miễn trừ ngoại giao. Thời hạn được sở hữu nhà ở đối với cá nhân tối đa là 50 năm, khi
hết thời hạn sở hữu thì phải bán hoặc tặng cho nhà ở đó trong thời hạn 12 tháng. Thời
hạn được sở hữu nhà ở đối với doanh nghiệp là thời hạn hoạt động đầu tư tại Việt
Nam. Nhà ở được sở hữu thuộc loại nhà chung cư và chỉ được sử dụng vào mục đích
để ở.
Ngày 18/6/2009, Quốc hội Khóa 12 cũng đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung
Điều 126 của Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai với nội dung mở rộng diện
người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Diện người
Việt Nam định cư ở nước ngoài có quyền sở hữu nhà ở bao gồm: (a) người có quốc
tịch Việt Nam; (b) người gốc Việt Nam về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, người có
công đóng góp cho đất nước, là nhà khoa học, nhà văn hoá và người có kỹ năng đặc
biệt mà Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam, người có vợ hoặc chồng
là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước; (c) người gốc Việt Nam được cơ quan
có thẩm quyền cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam. Các đối
tượng này phải được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên. Nhà ở được sở hữu
gồm cả nhà riêng lẻ gắn với đất và nhà chung cư, có thời hạn sử dụng lâu dài như
người Việt Nam trong nước.
Trước hết, quy định đối với người nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam
chỉ mang tính thí điểm và chỉ có quyền sử dụng để ở cho mình và gia đình, không có
các quyền liên quan tới giao dịch bất động sản. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
có diện được sở hữu nhà rộng hơn, loại nhà ở và thời hạn sử dụng cũng rộng hơn,
tương đương như người Việt Nam trong nước. Trên thực tế, số lượng người nước
ngoài cũng như người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam cũng
chưa nhiều. Một phần vì Việt Nam chưa tạo được niềm tin về sự ổn định pháp lý,
phần quan trọng hơn vì thủ tục làm giấy chứng nhận chủ quyền còn đang có nhiều
vướng mắc trên thực tế.
Bộ Xây dựng đã đưa ra kiến nghị sửa đổi pháp luật về nhà ở trên nguyên tắc diện
được sở hữu nhà ở cho người nước ngoài tương đương như người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, loại nhà ở cũng tương đương nhưng có thời hạn và cũng có phương án đề
xuất mở rộng quyền giao dịch BĐS.
Giải pháp này trước hết mới chỉ tính đến mở rộng cầu có khả năng thanh toán đối
với cung đang tồn đọng. Vấn đề sở hữu nhà cho người nước ngoài còn phải xem xét
nhiều mặt khác nữa như quy tắc tương đương trong ngoại giao và cơ chế quản lý hoạt
động của cư dân nước ngoài tại Việt Nam. Việt Nam chỉ có thể cho quyền công dân nước
ngoài tương đương như nhà nước đó cho quyền đối với công dân Việt Nam. Như vậy,
việc sở hữu nhà cũng cần xem xét cho từng nhóm nước theo quan hệ ngoại giao đã được
thiết lập cũng như pháp luật của nước đó. Việc tiếp theo cần làm là phải bổ sung ngay
những quy định về quản lý cư dân, cộng đồng người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam.
Thị trường BĐS Việt Nam đang thiếu vốn do nợ xấu liên quan tới các BĐS tồn
đọng. Cơ chế giải quyết kho tồn đọng này bằng nguồn vốn nào là điều cần tìm kiếm.
Khi pháp luật đã cho phép người nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam thì cơ chế
cho phép thế chấp bằng BĐS ở Việt Nam tại các ngân hàng nước ngoài cần được xem
xét để đổi mới. Đây chính là 2 vấn đề mang tính đối ngẫu về pháp lý, hoặc không thừa
nhận cả hai, hoặc cho phép cả hai. Khi cơ chế thế chấp này được pháp áp dụng thì
chúng ta sẽ khai thông luồng vốn để giải quyết các BĐS sản tồn đọng bằng cơ chế thế
chấp tại các ngân hàng nước ngoài. Nếu còn gì băn khoăn thì trước mắt, việc thế chấp
188
như vậy cần đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước về đối tượng nhận
thế chấp và Bộ Xây dựng về đơn vị BĐS đem ra thế chấp.
2. Giải pháp giải quyết BĐS tồn đọng thông qua cơ chế xử lý tài sản gắn với vốn
Việc hình thành một doanh nghiệp quản lý các BĐS tồn đọng gắn với nợ xấu đã
được đưa ra trong Nghị quyết 02 nói trên. Hình thái công ty như thế nào, cơ chế tạo
vốn để xử lý và biện pháp xử lý cụ thể vẫn chưa được đặt ra.
Trước hết, khi kiểm đếm các BĐS tồn đọng lại cho thấy có tới 2/3 là đất nền mà
chỉ có 1/3 là đất và nhà ở gắn liền. Như vậy, thông tin thực tế đã khác với tư duy trước
đây là BĐS tồn đọng chủ yếu là nhà ở đã hoàn thành. Những thông tin thực cần biết
chính xác để đưa ra quyết định xử lý gồm: (a) số lượng vốn tồn đọng là bao nhiêu,
trong đó bao nhiêu là tiền đất và bao nhiêu là nhà ở; (b) cơ cấu vốn tồn đọng như thế
nào, bao nhiêu là vốn của chủ đầu tư, bao nhiêu là vốn góp từ dân, bao nhiêu từ nguồn
tín dụng của các ngân hàng thương mại qua thế chấp, bao nhiêu là vốn đầu tư trực tiếp
từ các ngân hàng thương mại và bao nhiêu là các dạng vốn khác bị tồn đọng. Khi có
câu trả lời chính xác cho các câu hỏi trên thì mới có thể đưa ra giải pháp phù hợp.
Các giải pháp có thể cần được xem xét bao gồm: (a) nếu chủ yếu là đất nền thì
đấu giá đất nền tồn đọng là một cơ chế hiệu quả đối với đất nền ở những khu vực
thuận lợi được nhiều người quan tâm; (b) thay đổi mục đích sử dụng đất nền cho phù
hợp với những dự án đầu tư khác có tiềm lực về vốn; (c) thế chấp để tạo vốn tại các
ngân hàng nước ngoài; (d) giải pháp thành lập các doanh nghiệp quản lý BĐS tồn
đọng như trước đây vẫn nghĩ.
Các giải pháp chưa thể quyết định khi chưa có số liệu thống kê BĐS tồn đọng
chính xác và chi tiết.
VI.3. Các giải pháp khác
1. Giải pháp cải cách thực hiện thủ tục hành chính
Song song với các giải pháp trọng tâm nêu trên, Hà Nội cũng như nhiều tỉnh,
thành khác đang cho đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận cho người mua nhà ở thuộc
nhiều nhóm khác nhau. Đây là việc làm muộn so với quy định của pháp luật nhưng
thế cũng là tốt. Một mặt để thực hiện tốt nhiệm vụ hoàn thành cơ bản việc cấp giấy
chứng nhận vào cuối năm 2013, nhưng mặt khác có tác động tích cực cho việc tăng
niềm tin vào thị trường BĐS. Người bỏ rất nhiều tiền ra mua BĐS được Nhà nước bảo
hộ về tài sản thông qua việc cấp giấy chứng nhận pháp lý.
2. Các sáng kiến tăng niềm tin đối với thị trường
Hiện nay, niềm tin của người dân vào nền kinh tế cũng như niềm tin của những
người đang tham gia góp vốn đầu tư BĐS đang chưa được khôi phục. Nhiều người đã
góp vốn vào dự án đầu tư nhưng đang rơi vào hoàn cảnh chủ đầu tư không thực hiện
dự án, thậm chí dự án chưa có bảo đảm pháp lý. Người góp vốn đang rơi vào tình
trạng hoang mang và mất niềm tin thực sự vào thị trường. Việc lấy lại niềm tin vào thị
trường phải bắt đầu từ các chủ đầu tư dự án và sau đó là các cơ quan quản lý ở Trung
ương và địa phương. Đây là việc khó nhưng có thể làm được, chỉ cần các nhà đầu tư
hãy nghĩ đến thương hiệu lâu dài của mình. Trường hợp không thể giữ thì một phương
án M&A cần được xem xét và quyết định. Các cơ quan quản lý cần hướng các chủ
đầu tư tới những giải pháp lấy lại niềm tin cho thị trường.
189
Các nhà đầu tư hiện nay tiếp tục lâm vào tình trạng thiếu vốn, muốn làm nhưng
không có vốn. Khi người tiêu dùng thiếu niềm tin vào thị trường thì khó khăn do thiếu
vốn được nhân lên nhiều lần. Như vậy, giải pháp vốn là một bài toán khó trong hoàn
cảnh khó khai thác nguồn vốn trong dân do mất lòng tin vào lợi ích từ thị trường.
Chúng ta lưu ý rằng hiện nay nhiều nhà đầu tư vẫn đang huy động được vốn từ dân,
gốc của vấn đề là chữ tín của nhà đầu tư với người tiêu dùng.
3. Sửa đổi pháp luật, nâng cao chất lượng quy hoạch và tái cấu trúc thị trường
Sự trầm lắng của thị trường BĐS là một hệ quả tất yếu của quá trình phát triển đã
qua trong ngữ cảnh của nền kinh tế chuyển đổi, trong đó tính chuyên nghiệp còn rất
thiếu. Thị trường BĐS đã qua những cơn sốt nhà đất tất yếu khi chuyển từ cơ chế bao
cấp sang cơ chế thị trường. Hệ thống pháp luật của ta chưa có cơ chế điều tiết quỹ đất
khi rơi vào "sốt giá" hoặc "đóng băng". Khi "sốt giá" thì Nhà nước đưa thêm đất vào thị
trường thông qua đấu giá, khi "đóng băng" thì Nhà nước chủ động mua BĐS dư thừa từ
thị trường. Hệ thống pháp luật hiện nay mới chỉ tính đến cơ chế Nhà nước thu hồi đất
mang tính đặc trưng của cơ chế bao cấp. Công cụ pháp luật đất đai cần được đổi mới
sau cho giảm được tham nhũng và khiếu kiện của dân; công cụ pháp luật BĐS phải tập
trung vào công cụ tài chính để quản lý rủi ro cho mọi người yên tâm tham gia thị
trường.
Quy hoạch là một lĩnh vực luôn được coi là yếu kém ở Việt Nam, cụ thể gồm:
(a) mối quan hệ giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất và
quy hoạch xây dựng chưa được xác lập trong mối quan hệ hữu cơ; (b) nội dung các
loại quy hoạch còn nhiều chồng chéo, gây lãng phí và còn tồn tại quá nhiều loại quy
hoạch khác nhau; (c) phương pháp luận về quy hoạch không gian chưa được áp dụng
đầy đủ, nhất là quy hoạch sử dụng đất; (d) quy hoạch thường mang tính chủ quan hơn
là các giải pháp khả thi trên cơ sở chấp nhận thực tế.
Tái cấu trúc thị trường BĐS để có một thị trường hợp lý, tránh tư tưởng thả cho
thị trường phát triển tự do không được điều chỉnh và cũng cần tránh tư tưởng áp đặt
theo kiểu bao cấp lên thị trường. Các doanh nghiệp BĐS cần được cấu trúc lại để loại
bỏ đi kiểu kinh doanh "tay không bắt giặc". Tiêu chí của doanh nghiệp BĐS cần được
xác lập, chỉ số thị trường cần được thống kê thường xuyên. Muốn vậy, thị trường BĐS
phải bảo đảm tính minh bạch.
4. Giải pháp từ phía nhà đầu tư BĐS
Cổ nhân đã có câu "cùng tắc biến, biến tắc thông", câu này rất phù hợp với cách
hành xử đối thị trường BĐS nước ta hiện nay. Nói như vậy không có nghĩa là nhà đầu
tư ngồi chờ để thị trường BĐS "sẽ thông". Trong quy luật này đã chứa đựng nỗ lực tự
giải cứu của người trong cuộc là các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư phải tìm cách cứu
mình trước khi tính đến các khả năng trợ giúp của Nhà nước. Tại điểm trầm lắng cùng
cực của thị trường BĐS sẽ xuất hiện một thị trường BĐS mới hiệu quả hơn, phát triển
vì mục tiêu có nhà ở cho tất cả mọi người và cũng mang lại lợi ích xứng đáng cho các
nhà đầu tư.
VII. Kết luận
Sự phục hồi của thị trường BĐS phụ thuộc chủ yếu vào các chính sách của Nhà
nước, sự nỗ lực của các nhà đầu tư và niềm tin của người tiêu dùng vào thị trường. Từ
phía các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương cũng như địa phương, cần tôn trọng
nguyên tắc minh bạch và công bằng để thực hiện tốt Nghị quyết 02. Mọi tư duy về tư
190
lợi đều làm hại chung cho thị trường BĐS đang yếu ớt hiện nay. Nỗ lực tiếp theo của
các cơ quan nhà nước là sớm nhất rà soát hệ thống pháp luật, quy hoạch để tạo cơ hội
mới cho thị trường BĐS.
Tất cả mọi việc cần tập trung vào nhiệm vụ tái cấu trúc thị trường BĐS, trong đó
nhiều việc đã được đưa ra trong Nghị quyết 2 từ việc đổi mới pháp luật, thể chế tới
quy hoạch, chuyển đổi dự án, giải pháp huy động vốn, v.v. Các nhà đầu tư cũng cần
tính tới việc tái cấu trúc doanh nghiệp mình trên cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh
thông qua một lộ trình dài hạn.
Người tiêu dùng với lượng vốn ước tính khoảng 400 tấn vàng còn trữ trong dân
sẽ có vai trò rất lớn trong phục hồi thị trường BĐS nếu niềm tin được khôi phục. Bên
cạnh đó, cơ chế phù hợp để động viên vàng tham gia vào thị trường BĐS cũng cần tới
một sự khôn ngoan về chính sách. Người dân thấy có lợi là tham gia khi vàng đang
không có đường lưu thông để trở thành vốn.
Chúng ta hãy xem khủng hoảng thị trường BĐS hiện nay như đang trong cơn
đau sinh nở, một mầm non BĐS mới khỏe mạnh sắp xuất hiện. Nghị quyết 02 như
một phương án đỡ đẻ tốt, bà đỡ cụ thể là các cơ quan quản lý nhà nước và các cán bộ
quản lý nhà nước. Người đẻ chính là các nhà đầu tư BĐS cần vận dụng cao nhất sự
thông minh của người trong cuộc để "vượt cạn" dễ dàng.
191
VÌ SAO GIÁ NHÀ ĐẤT Ở VIỆT NAM CAO?
LÀM GÌ ĐỂ ĐẤT ĐAI TRỞ THÀNH NGUỒN LỰC QUÝ GIÁ CỦA QUỐC GIA?
CEO. Đặng Đức Thành
Ủy viên BCH Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam
Trong những nỗ lực đột phá chiến lược về kinh tế (3 đột phá căn bản: thể chế,
cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực), đột phá phát triển thị trường bất động sản
rất quan trọng. Khi phát triển thị trường bất động sản sẽ tác động kéo theo nhiều thị
trường phát triển, trong đó: vật liệu xây dựng, thị trường lao động, thị trường tài chính
- ngân hàng, v.v… sẽ phát triển theo. Quan trọng nhất là giải quyết công ăn việc làm
cho hàng triệu người lao động đảm bảo an sinh xã hội.
Từ nhìn nhận sự việc cần hoàn thiện thể chế; cần tập trung sớm điều chỉnh
những luật lệ còn gây ách tắc cho thị trường bất động sản phát triển ổn định và lành
mạnh. Để có thể thấy được tầm quan trọng của thị trường bất động sản cần đi sâu
nghiên cứu, phân tích: “Vì sao giá nhà đất ở Việt Nam cao? Và làm gì để đất đai trở
thành nguồn lực quý giá của quốc gia?”
I. Vì sao giá nhà đất ở Việt Nam cao?
Trong một báo cáo nghiên cứu của UBKT Quốc hội đã đưa ra ý kiến (vào đầu
năm 2013) giá nhà đất ở Việt Nam cao gấp 5 lần so với khu vực và thế giới, cao gấp
25 lần thu nhập của người dân và cao gấp 100 lần so với hơn 20 năm trước đây.
Những yếu tố tác động làm giá nhà, đất ở Việt Nam tăng cao hơn so với khu
vực và thế giới.
1. Lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng Việt Nam cao kéo dài
Năm 2010, 2011 lãi suất cho vay của ngân hàng xoay quanh 18%/năm; năm
2012 xoay quanh 15% và 3 tháng đầu năm 2013 lãi suất cho vay của hệ thống ngân
hàng xoay quanh 14%/năm, như vậy cho thấy giá lãi suất còn khá cao so với khu vực
và thế giới. Đây là yếu tố tác động mạnh nhất đối với các công ty kinh doanh bất động
sản làm chi phí tăng cao. Trong khi đó lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng khu
vực và thế giới cao nhất chỉ xoay quanh 7%/ năm.
2. Chi phí đóng quyền sử dụng đất
Để đất có thể đưa vào sử dụng, hiện nay nhà đầu tư kinh doanh bất động sản phải
đóng quyền sử dụng đất căn cứ theo Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 “quy
định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định
cư”; trong đó có phần vướng mắc rất lớn là tính quyền sử dụng đất theo giá thị trường
làm ảnh hưởng mạnh đến tăng giá cả nhà đất ở Việt Nam.
3. Chi phí “hành chính” trong quá trình xin cấp Giấy phép đầu tư xây dựng
Nhiều trường hợp xin giấy phép kéo dài từ 3 năm đến 5 năm mới hoàn thành.
Do thời gian kéo dài, cùng với nhiều loại chi phí hành chính đã góp phần làm tăng giá
cả nhà đất tại Việt Nam (đối với những dự án lớn liên quan đến đền bù đất đai, đặc
biệt kéo dài trên 5 năm).
4. Việc cấp phép đầu tư dự án bất động sản thời gian trước đây của từng địa
phương, Trung ương chưa chặt chẽ
192
Từ việc cấp giấy phép chưa chặt chẽ dẫn đến sự phát triển không nhịp nhàng,
cân xứng là một nguyên nhân quan trọng gây biến động mạnh giá cả bất động sản.
Tại các tỉnh và thành phố lớn đất đai hầu như đã bị “xí phần” bằng nhiều dự án
được cấp có thẩm quyền duyệt khác nhau; kể cả có nhiều nhà đầu tư nước ngoài (FDI)
tham gia “xí phần” với số lượng đất rất lớn, hàng trăm; hàng ngàn ha đất cho một đơn vị.
Các cấp các ngành chưa chú trọng việc kiểm tra (chưa có quy trình kiểm tra)
năng lực tài chính của nhà đầu tư.
Quy mô được cấp phép đầu tư dự án quá lớn. Nhà đầu tư thực hiện dự án kéo
dài, chậm trễ (kể cả có ý đầu cơ chia nhỏ dự án và bán dần); trong khi đó trên 500.000
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam cần đất làm văn phòng, nhà xưởng sản xuất rất
khó khăn.
Trong khi đó một số nhà đầu tư chào bán dự án với giá đẩy lên cao, hoặc bán
dưới hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài.
Đất làm sân golf, đất làm khu công nghiệp, kể cả một số khu công nghiệp được
cấp giấy phép đầu tư đã trên 4 năm nhưng số lượng nhà đầu tư vào thuê đất xây dựng
nhà xưởng rất ít. Trong số đó, có khu công nghiệp tại tỉnh Vĩnh Long, Tiền Giang, Củ
Chi (TP. HCM), Bình Thuận, Ninh Thuận, v.v… Nhà đầu tư vào khu công nghiệp
chưa được ¼ diện tích đất khu công nghiệp; trong khi đó nhu cầu đất làm nông nghiệp
thì không có (đất bỏ hoang) như thế là không cân xứng.
5. Giá cả bất động sản Việt Nam còn biến động tùy thuộc chính sách của
Nhà nước theo từng thời gian (trong đó có chính sách tiền tệ - tín dụng)
Khi Ngân hàng Nhà nước áp dụng chính sách thắt chặt tín dụng - tiền tệ, việc
huy động nguồn tiền khó khăn điều này cũng tác động một phần làm giá bất động sản
chững lại và nhiều trường hợp đẩy giá xuống. Và ngược lại, khi thực hiện chính sách
tiền tệ - tín dụng nới lỏng thì ngay lập tức tác động đến thanh khoản của nhiều thị
trường (trong đó có thị trường chứng khoán), giá bất động sản có khuynh hướng tăng
lên.
Nhà nước quản lý các tập đoàn, tổng công ty chưa chặt chẽ, đã xảy ra tình trạng
tập trung lượng tiền lớn hàng chục ngàn tỷ VNĐ đầu tư trái nghành nghề, phần lớn
đầu tư vào lĩnh vực bất động sản đẩy giá lên cao.
Chủ trương cho người dân mua nhà để ở được vay dài hạn với lãi suất ổn định
(người mua nhà lần đầu) còn chưa rõ ràng và chưa áp dụng còn gây tác động kém
thanh khoản ở thị trường bất động sản.
Tại các thành phố lớn, quy hoạch “treo” kéo dài không thực hiện gây tác động
mạnh biến động giá cả bất động sản.
6. Thông tin thị trƣờng bất động sản Việt Nam chƣa công khai, minh bạch
Nhiều ý kiến cho rằng thị trường bất động sản hiện nay tại Việt Nam là thị
trường của người bán, thông tin về quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch không được
công bố hoặc công bố không rõ ràng (chưa có quy trình, quy định công bố thông tin
quy hoạch và thông tin có liên quan đến thị trường bất động sản rõ ràng, minh bạch).
Người dân có nhu cầu cần nhà ở, đất ở, v.v… cần biết thông tin rất khó. Hầu
hết nắm thông tin không chính xác. Hệ thống cung cấp thông tin còn xây dựng chưa
hoàn chỉnh.
193
7. Nhà nước còn chưa chặt chẽ, dễ dàng cho phép nhà đầu tư kinh doanh
bất động sản mua bán, sang nhượng khi chưa xây dựng hoàn thiện căn hộ chung
cư, gây rủi ro rất lớn cho người mua nhà
Tại các nước tiên tiến như Trung Quốc, Úc, v.v… chỉ cho phép nhà đầu tư
được bán khi căn hộ đã được hoàn thiện. Khi đó, chỉ những nhà đầu tư có thực lực tài
chính mạnh mới làm được; tránh được việc “tranh mua, tranh bán”; tránh rủi ro cho
người mua nhà.
Hiện nay nhà đầu tư kinh doanh bất động sản Việt Nam chỉ cần xây dựng xong
phần móng là được quyền bán với nhiều hình thức khác nhau, kể cả việc nhà đầu tư
đem đất thế chấp ngân hàng, trong khi phần căn hộ xây dựng đất lại bán cho người mua
nhà (với hình thức góp vốn kinh doanh), toàn bộ rủi ro người mua nhà gánh chịu hết.
8. Nhà nước quản lý ngân hàng chưa chặt chẽ
Đã có nhiều trường hợp nhà đầu tư kinh doanh bất động sản vay số tiền rất lớn
hàng ngàn tỷ VNĐ đầu tư kinh doanh bất động sản, vượt gấp hàng chục lần so với vốn
tự có của đơn vị, trong số đó đa phần là công ty con, công ty cháu của ngân hàng (sân
sau của ngân hàng). Những công ty này đã dễ dàng đẩy giá cả thị trường bất động sản
lên cao với số lượng tiền rất lớn.
9. Nhu cầu mua bán, cho thuê bất động sản (nhà, đất) tại Việt Nam là nhu
cầu thật và ngày càng tăng
Cùng với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất nước trong thời gian qua Việt
Nam đã vượt qua ngưỡng các nước nghèo, bình quân theo đầu người khoảng 1600
USD/năm. Các khu đô thị mới và các khu công nghiệp mới hình thành ngày càng nhiều,
đã tạo sự dịch chuyển lao động nông thôn ra thành thị, cư dân đến ở tại khu đô thị mới
hoặc các khu công nghiệp hiện nay vẫn còn đang tiếp tục tăng mặc dù tốc độ đầu tư xây
dựng có giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến Việt Nam.
Bên cạnh đó, còn do một phần dân số Việt Nam tăng liên tục trong thời gian
hơn 10 năm trở lại đây (cả nước đã trên 90 triệu dân).
Còn do quá trình tăng trưởng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (FDI)
qua các năm tăng lên, nhu cầu nhà ở cho các chuyên gia, nhu cầu nhà xưởng cho sản
xuất ngày càng tăng góp phần làm cho thị trường mua bán bất động sản sôi động theo
từng thời gian.
10. Do không nghiên cứu kỹ thị trường và sử dụng vốn vay ngân hàng quá
mức. Nhà đầu tư kinh doanh bất động sản chạy theo lợi nhuận tập trung đầu tư
xây dựng căn hộ cao cấp từ đó gây đóng băng thị trường bất động sản
Trong khi nhu cầu thật là căn hộ giá bình dân và nhà cho người có thu nhập
thấp thị trường rất cần thì không đủ cung cấp cho thị trường. Điển hình là công ty cổ
phần đầu tư xây dựng Nam Long với dòng sản phẩm E.Hom (1,2,3…) bán rất chạy;
với giá khoảng 10 triệu đồng/m2 ,và một số công ty khác.
Bên cạnh đó là đã có thời gian (2007) hàng ngàn công ty kinh doanh bất động
sản đầu tư theo phong trào, đầu tư xây dựng căn hộ cao cấp với số lượng lớn đẩy giá
thị trường nhà đất tăng cao. Trong khi thanh khoản thị trường không có gây nợ xấu
bất động sản ngày càng tăng đến nay chưa giải quyết được.
194
Rất nhiều công ty kinh doanh bất động sản sử dụng vốn vay ngân hàng quá
mức đầu tư mang tính chất “đầu cơ” gấp hàng chục lần so với vốn điều lệ đã gây nợ
xấu BĐS, đóng băng thị trường BĐS trong thời gian qua.
**Tóm lại: Kể từ đỉnh điểm tăng giá bất động sản Việt Nam vào cuối năm
2007 đến nay, giá cả bất động sản nhà đất Việt Nam đã liên tục giảm do khách quan
và chủ quan giảm có đến hơn 50%. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đã bị
lỗ nặng thậm chí phải phá sản.
Trường hợp hiện nay mặt bằng giá cả nhà đât Việt Nam khó có thể giảm hơn
nữa. Trong trường hợp muốn cho giá nhà đất Việt Nam giảm tiếp tục phù hợp với mặt
bằng giá, Nhà nước cần điều chỉnh 8 yếu tố tác động đến giá thành đầu vào bất động
sản (trong 10 nguyên nhân tác động giá lên cao, có 8 yếu tố thuộc về tác động điều
chỉnh của Nhà nước).
II. Làm gì để đất đai trở thành nguồn lực quý giá của quốc gia?
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Khóa VII ngày 12/3/2003 về tiếp tục đổi mới
chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước đến nay tuy đã có tác động rất tích cực ban đầu trong khai thác đất đai phục
vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh lương thực, cân bằng
hệ sinh thái, bảo vệ môi trường, an ninh quốc phòng, đồng thời đóng góp nguồn thu
quan trọng cho ngân sách nhà nước. Song thực tiễn hơn 10 năm qua từ khi Nghị
Quyết đi vào cuộc sống, vẫn còn không ít những bất cập,hiệu quả kém trong công tác
quản lý và sử dụng đất đai Và vì vậy sử dụng và quản lý đất đai luôn là vấn đề nóng
bỏng trong đời sống cũng như trên các phương tiện truyền thông hiện nay.
Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội Khóa 11 thông qua và ban hành vào
ngày 26/11/2003 đã tạo cơ sở pháp quy cho việc quản lý và khai thác có hiệu quả
nguồn tài nguyên đất đai. Thế nhưng từ ấy đến nay Nhà nước vẫn chưa khai thác và
tận dụng những cơ chế đặc thù và tập trung cho việc quản lý tài sản này một cách thỏa
đáng. Việc sử dụng đất đai, giao đất, thu hồi đất không dựa trên quy hoạch dài hạn mà
bị động, chạy theo việc đã rồi hoặc bị chi phối bởi những lợi ích cục bộ địa phương,
những lạm dụng phát sinh tiêu cực. Rõ ràng là đất đai chưa được quản lý và sử dụng
như là nguồn vốn, tài sản có khả năng sinh lợi một cách hiệu quả trong phát triển
nền kinh tế quốc gia.
Trong cuộc Hội thảo“Lấy ý kiến quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế
hoạch sử dụng đất 5 năm (2011- 2015)” do Ủy ban kinh tế của Quốc hội Khóa XIII tổ
chức ngày 27/9/2011, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhiều mặt yếu kém cũng
được nêu ra:
- Chất lượng kém trong dự báo nhu cầu quỹ đất phát triển các ngành, các lĩnh
vực, các dự án đầu tư. Việc khai thác sử dụng đất ở nhiều địa phương còn chưa được
tính toán khoa học, chưa sát với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của
thị trường bất động sản. Và điều này đã dẫn đến tình trạng vừa thiếu, vừa thừa quỹ đất
và buộc phải liên tục điều chỉnh quy hoạch.
- Quy hoạch đất chủ yếu thiên về mục tiêu quản lý hành chính mà chưa tính tới
hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường, chưa phát huy được tiềm năng đất đai. Nhiều địa
phương chưa thực hiện đúng chủ trương tiết kiệm đất nông nghiệp. Trong 10 năm
270.000 ha đất lúa nước được chuyển mục đích khác trong khi diện tích này hoàn toàn
có thể bố trí trên các loại đất khác trên cùng địa bàn.
195
- Phổ biến tình trạng sử dụng không hiệu quả đất xây dựng khu công nghiệp,
khu kinh tế, sân bay, cảng nước sâu, sân golf và khu nghĩ dưỡng, v.v… Có những con
số cũng được nêu ra minh họa cho thực trạng của việc quy hoạch tùy tiện, tự phát là:
260 khu công nghiệp hiện có với 71.000 ha đất mà tỉ lệ lắp đầy chỉ đạt 46%. Với chỉ
tiêu Quốc hội cho phép giao đất là 44.000 ha vào năm 2010, thực tế các địa phương đã
giao mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp cho các doanh nghiệp lên tới
93.000ha (vượt 211,26%). Điều này cũng xảy ra với khu kinh tế, khu công nghệ cao
trên địa bàn cả nước dẫn đến tình trạng giữ nhiều đất nhưng triển khai chậm vì không
thu hút được đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu yếu kém nên không tạo được động lực
phát triển.
- Tình trạng đất đai bị “xí phần” dưới hình thức các dự án được các cấp có
thẩm quyền duyệt với hàng ngàn ha trong tình trạng xây dựng dở dang hoặc bị bỏ
hoang phế vì chưa thể triển khai được. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế, cộng thêm
việc các nhà đầu tư dự án có năng lực tài chính và trình độ chuyên nghiệp yếu kém,
chắc chắn rằng các dự án này sẽ “trùm mền” một thời gian dài với biết bao lãng phí,
thất thoát cho nguồn thu ngân sách nhà nước .
- Với đất lâm nghiệp cũng vấp phải tình trạng mất kiểm soát do việc tùy tiện
phá rừng, trồng cây công nghiệp, tình trạng chuyển đổi, mua bán rừng, đất rừng ,
tranh chấp do quản lý chồng chéo, nhập nhằng, v.v…
Trong khi đó, có nhiều nhà đầu tư có năng lực tài chính, có trình độ chuyên
nghiệp (chuyên ngành) cần đất để đăng ký đầu tư thì không còn đất tại vị trí tốt để
làm. Người dân thường xuyên bị phập phồng sợ di dời và qui hoạch treo lơ lửng, quá
bất hợp lý và phải chịu rất nhiều thiệt thòi, phiền toái do quy hoạch treo gây ra (nếu
đem đất đai, nhà cửa tại khu vực có quy hoạch treo đi cầm cố vay mượn ngân hàng sẽ
bị giảm giá trị, thậm chí không được ngân hàng chấp nhận). Tình trạng sống trong lo
sợ di dời kéo dài nhiều năm làm khổ sở, gây tâm lý bất an trong dân kể cả không dám
đầu tư sửa chữa xây dựng.
Cần công bằng và phải nhìn nhận thực tế, qua các năm trước đây khi Việt Nam
chưa gia nhập tổ chức thương mại thế giới (thời gian trước tháng 1/2007), để có thể
mời gọi được nhà đầu tư quốc tế tham gia đầu tư tại Việt Nam, đôi khi Nhà nước phải
chấp nhận những yêu cầu (cả những đòi hỏi vô lý) của nhà đầu tư; thậm chí phải dễ
dãi trong việc kiểm tra năng lực tài chính của công ty đầu tư. Nhưng đến nay, trong
thực tế đã thấy việc giao đất dễ dàng cho các nhà đầu tư “xí phần” đã gây thiệt hại rất
lớn cho phát triển nền kinh tế quốc gia. Chúng ta cần sửa đổi và quản lý chặt chẽ,
nâng cao hiệu quả sử dụng “đất đai” để “đất đai” trở thành nguồn lực thật sự cho phát
triển nền kinh tế quốc gia.
1. Phần chênh lệch do giá đất tăng cao, ai được hưởng lợi nhiều nhất?
Qua phân tích trên, đất đai không phải tự nhiên tăng giá trị và tăng giá. Nguồn
gốc chính là do nhà nước phải bỏ công sức, tiền của rất lớn để tổ chức đầu tư cơ sở hạ
tầng (kể cả tổ chức quy hoạch kêu gọi các nhà đầu tư tham gia), hàng năm nhà nước
vay ODA, và nhiều nguồn khác nhau (phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước và
quốc tế, v.v…) để đầu tư công, đầu tư cơ sở hạ tầng mức độ rất cao “Nợ công tăng từ
mức 33,8 % GDP năm 2007 lên 57,3% năm 2010; trong năm 2011 nợ công giảm
196
xuống mức 54,6% GDP”108
. Chính sự hoàn thành những công trình đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng đưa vào sử dụng đã đẩy giá trị đất, giá cả đất đai (khu vực có công trình
đầu tư) tăng cao.
Ai được hưởng lợi nhiều nhất?
Sự tăng giá trị đất, tăng giá cả đất đai đột biến đem lại phần chênh lệch siêu lợi
nhuận; nhưng do phần đất đai đã bị “xí phần” hầu hết và như vậy phần siêu lợi nhuận
này nhà nước không được hưởng. Ngoại trừ, người dân được hưởng lợi (lợi ích từ các
công trình hạ tầng được đưa vào sử dụng. Hiện nay nhà nước tổ chức thu các loại thuế
trước bạ, thuế giá trị gia tăng, thuế chuyển quyền sử dụng đất, v.v… Riêng phần thuế
để thu thêm trong phần chênh lệch siêu lợi nhuận hiện nay chưa ban hành được.
Như vậy, chỉ còn nhà đầu tư “xí phần” và những người thực sự có “đất“ sẽ là
người tham gia hưởng lợi nhiều nhất trong phần chênh lệch siêu lợi nhuận này và
cũng từ việc “xí phần” và thay đổi giá trong thực tế làm rối loạn sự phát triển của thị
trường bất động sản (giảm hẳn nguồn “cung” do các đơn vị “ôm” hàng ngàn ha đất);
khi thì sốt “nóng”, khi thì sốt “lạnh” trong thời gian các năm qua. Gọi là nhà đầu tư
nhưng thực chất đó là nhà đầu tư cơ đất.
Tóm lại, trong khi cả nước phải huy động vốn (phát hành trái phiếu Chính phủ
bằng ngoại tệ và đồng Việt Nam); vay quốc tế, bán tài nguyên, v.v… trong khi hàng
năm bội chi ngân sách quốc gia tăng lên đến mức báo động (bội chi ngân sách tăng
lên mức 5,6% GDP giai đoạn 2006-2012)109
thì nguồn “vốn” rất lớn và vô cùng quý
giá của VN hiện nay là “đất đai “ thì đa phần đã giao cho người khác nắm giữ và khai
thác.
Để minh chứng cho sự việc nêu trên, có thể dẫn ra đây trường hợp của nhà đầu
tư khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng (Nam Sài Gòn, TP. HCM). Với năng lực tài chính và
kinh nghiệm đầu tư quốc tế nhưng phải mất đến 18 năm, nhà đầu tư mới chỉ đầu tư
xây dựng được 2/3 khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng (quy mô khoảng 600 ha đất). Trong
khi đó, nhà đầu tư công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng được nhà nước giao 600 ha đất
sạch (không phải tổ chức đền bù, giải tỏa – nếu không thời gian này sẽ kéo dài thêm
nhiều năm nữa vì nhà đầu tư phải tự lo giải phóng mặt bằng).
Trên thực tế thời gian qua, trong số các dự án đã được các cấp có thẩm quyền
duyệt (kể cả cho nhà đầu tư trong nước và quốc tế); nhiều dự án chiếm hàng ngàn ha đất
vẫn chưa thể triển khai trong thời gian dài (hàng chục năm). Nhà đầu tư nếu không tính
đến việc tổ chức chia nhỏ dự án “bán” dần mà trực tiếp đầu tư, phát triển dự án theo đúng
quy hoạch thì muốn hoàn thành việc triển khai đầu tư dự án hàng ngàn ha đó sẽ mất rất
nhiều năm sau mới có thể hoàn thành (từ vài chục năm đến hàng trăm năm).
2. Đất đai trở thành nguồn lực quý giá của quốc gia bằng cách nào?
a. Đổi đất lấy cơ sở hạ tầng
Thời gian qua nhiều địa phương với sự cho phép của các cấp có thẩm quyền đã
dùng quỹ đất để đổi lấy các công trình cơ sở hạ tầng (cầu, đường, khu đô thị, v.v…)
điển hình là Thành phố Hồ Chí Minh đã giao cho công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng
108 Tr.11 Báo cáo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2012-2013 của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia tháng
12/2011. 109 Tr. 11 Báo cáo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2012-2013 của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia tháng
12/2011.
197
(đơn vị quốc tế Đài Loan) bỏ vốn đầu tư 117 km2 đường Nguyễn Văn Linh nối liền
Bắc Nhà Bè – Nam Bình Chánh, đổi lại thành phố giao cho công ty 600 ha đất xây
dựng thành khu đô thị Phú Mỹ Hưng.
Sau 18 năm đơn vị đã xây dựng hoàn thành 2/3 khu đô thị kiểu mẫu Phú Mỹ
Hưng, con đường Nguyễn Văn Linh đã đưa vào sử dụng nhiều năm nay, nhà nước thu
về ngân sách từ việc đầu tư xây dựng khu đô thị nhiều tỷ VNĐ (thu thuế trước bạ,
thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế lợi tức doanh nghiệp công ty liên doanh Phú Mỹ
Hưng, v.v…). Tuy nhiên phương thức này còn rất mới mẻ cần phải được nghiên cứu
hoàn thiện tránh những tiêu cực phát sinh từ đây.
b. Đổi đất lấy dịch vụ công
Nhà nước tổ chức cho các đơn vị trong nước và quốc tế bỏ vốn ra thi công các
công trình cơ sở hạ tầng (cầu, đường, v.v…) và đổi lại nhà đầu tư được quyền thu phí
qua lại cần đường bao nhiêu năm; điển hình là việc công ty CP Cầu Phú Mỹ đã bỏ vốn
ra đầu tư công trình cầu Phú Mỹ (Q.7, TP. HCM) và được tổ chức thu phí cầu đường
qua các năm.
c. Nhà nước thu các loại thuế
Thông qua việc cho phép các đơn vị, nhà đầu tư cá nhân tổ chức đầu tư dự án
khai thác sử dụng đất đai; khu công nghiệp; xây dựng khu đô thị, xây dựng nhà ở,
v.v… Nhà nước có thể thu các loại thuế, phí khác nhau.
Nguồn thu ngân sách từ đất đai năm 2010 đạt 67.700 tỷ VNĐ, chiếm 11,21%
tổng thu ngân sách nhà nước. Tại Hội thảo khoa học “Khai thác nguồn lực tài chính từ
đất đai và tài sản nhà nước phục vụ phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2012”
theo ý kiến của đại diện Bộ Tài chính cho biết: “Nguồn thu ngân sách từ đất còn có
thể tăng lên từ 80.000 tỷ VNĐ đến hơn 100.000 tỷ VNĐ nếu chúng ta biết khai thác
tận dụng”.
d. Khai thác nguồn lực từ quản lý tài sản nhà nước
Tài sản nhà nước gồm có những tài sản chính thông thường như sau:
- Nhà cửa
- Kho tàng
- Bến bãi, cầu đường
- Cảng biển, cảng sông …
Hiện nay Nhà nước giao phần lớn tài sản nhà nước cho Bộ, ban ngành (cơ quan
nhà nước) và các doanh nghiệp nhà nước quản lý những tài sản này. Tuy nhiên công tác
quản lý và khai thác tài sản thời gian qua còn nhiều bất cập; nhiều nơi còn để lãng phí
đất đai tài sản chưa tận dụng khai thác sử dụng có hiệu quả cao.
3. Thông qua quy hoạch cụ thể, quy hoạch chi tiết kế hoạch sử dụng đất Nhà nƣớc tổ chức đấu thầu, đấu giá quyền sử dụng đất và quyền đầu tƣ các dự án khai thác sử dụng đất đai (kể cả đất đai đã do nhà nƣớc vùng kinh phí ngân sách tổ chức đền bù giải phóng mặt bằng; và cả những dự án chƣa đền bù đất đai)
Trong thời gian qua, nhiều địa phương đã tổ chức đấu thầu, đấu giá quyền sử
dụng đất và quyền đầu tư các dự án; khai thác sử dụng các dự án đất đai và thông qua
198
đó đã thu một phần tiền rất lớn về cho ngân sách nhà nước (cả cho ngân sách địa
phương). Điển hình nhất trong việc này là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà
Nội đã từng đấu giá nhiều khu đất vàng và kết quả phần thu rất lớn; nhất là tại những
khu vực vị trí “đắc địa”. Tuy nhiên, về phương pháp tổ chức đầu thầu, đấu giá cần
chặt chẽ, mức thu chênh lệch hợp lý để tránh phản ứng phụ là “đẩy giá đất lên quá cao
so với khu vực”.
Bên cạnh đó, việc tổ chức quản lý khai thác sử dụng đất đai của nhà nước còn
nhiều bất cập; chưa tận dụng khai thác tiềm năng “đất đai” đa phần “đất đai” của
chúng ta bị “xí phần” hầu hết bằng những dự án được các cấp có thẩm quyền duyệt.
Nhiều dự án “xí phần” được duyệt hàng ngàn ha kéo dài qua nhiều năm chưa triển
khai thực hiện đã phải thu hồi; trong khi đó nhà đầu tư thật sự cần “đất” tại những vị
trí thuận lợi để đầu tư không còn chỗ.
Hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước đã nhận thức được vần đề này và đã
tích cực thu hồi các dự án; đơn cử trong này là tỉnh Tây Ninh và Long An; theo báo cáo
6 tháng đầu năm 2010, tỉnh Long An đã thu hồi 21 dự án với diện tích 1450 ha110
.
Trong đó mộ số dự án quy mô lớn đã được tỉnh xóa quy hoạch để người dân tiếp tục
canh tác nông nghiệp; trong thời gian tới tỉnh sẽ ra quyết định thu hồi tiếp tục 14 dự án
nữa với tổng điện tích 1035 ha111
theo tác giả Ngọc Lan, Thời báo Kinh Tế Sài Gòn
ngày 06/10/2011: “Phản biện những đánh giá của Chính phủ, Ủy ban kinh tế của Quốc
hội dẫn ra một số ví dụ. Trong 10 năm, có 270.000 ha đất lúa nước được chuyển cho
mục đích khác, trong khi diện tích này hoàn toàn có thể bố trí trên các loại đất khác trên
cùng địa bàn. Tại sao không làm? Hoặc như đất khu công nghiệp đạt 100% chỉ tiêu quy
hoạch, nhưng việc đầu tư lại dàn trải, hiệu quả thấp, trong khi đất cơ sở sản xuất kinh
doanh vượt cao (hon 200%).
Việc lấy đất làm các khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu cũng rơi vào
tình trạnh dàn trải, thiếu đồng bộ. Bộ kế hoạch và đầu tư cho biết tỷ lệ sử dụng đất ở
15 khu kinh tế ven biển và 28 khi kinh tế cửa khẩu đạt khoảng 15%. Trong số 59 dự
án sân golf đã được giao đất trên cả nước, có 60% diện tích đất thuộc dự án làm du
lịch sinh thái, trung tâm thương mại và đất ở, v.v…
III. Một số vấn đề cần kiến nghị sửa đổi
Để có thể biến “đất đai” trở thành nguồn lực (nguồn vốn) cho quốc gia cần thiết
phải đổi mới và nâng cao hiệu quả việc sử dụng đất đai.
1. Quy mô dự án
Do thời kỳ khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới và bất ổn kinh tế vĩ mô tại
Việt Nam kéo dài các năm; năng lực tài chính của nhà đầu tư rất khó khăn. Không nên
xét cấp đất cho một dự án trên 100 ha (trừ trường hợp đặc biệt phải có quyết định của
Thủ tướng và Quốc hội thông qua).
- Tại sao 100 ha? Đó là vì nếu lượng quá ít sẽ ảnh hưởng đến nhà đầu tư khó
khăn trong việc đầu tư đồng bộ xây dựng qui hoạch hạ tầng trong đó bố trí trung tâm
thương mại, bệnh viện, v.v…
110 Trang 11, tạp chí thị trường giá cả BĐS & tài sản, số 260 ngày 27/08/2012.
111 Trang 54, Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 6/10/2011, tác giả Ngọc Lan.
199
- Trường hợp quy mô lớn cần liên kết vùng trong quy hoạch.
- Xem xét lại việc phân cấp xét duyệt cho những dự án đầu tư sử dụng từ 50 ha
đất trở lên 100 ha; cần thiết phải tập trung về trung ương (không phân quyền cho địa
phương) và giao đầu mối cho Bộ Kế hoạch & Đầu Tư quản lý. Mục đích tránh việc
nhiều nơi; đầu tư trùng lắp, cảng biển, sân bay quốc tế, nhà máy thép, v.v… gây lãng
phí và hiệu quả đầu tư kém.
2. Quy định phí đặt cọc
Cần phải quy định “phí” đặt cọc (ký quỹ) trong việc thực hiện dự án. Mục đích
để chứng minh năng lực tài chính của đơn vị đầu tư; hạn chế các nhà đầu tư cơ hội,
đồng thời qui định rõ trách nhiệm của nhà đầu tư. Khoản phí này sẽ không hoàn lại
khi nhà đầu tư vi phạm những cam kết trong việc triển khai dự án.
3. Xem xét luật “thuế” sử dụng đất
Xem xét đề xuất luật “thuế” sử dụng đất theo hướng hàng năm thu thuế trên
diện tích đất sử dụng. Biện pháp này sẽ tăng nguồn thu cho ngân sách đồng thời hạn
chế được nạn đầu cơ, “xí phần” đất.
4. Phân cấp xét duyệt dự án
Xem xét và quy định lại việc phân cấp xét duyệt dự án đối với các tỉnh, thành
phố theo hướng tập trung về Trung ương đối với các dự án có quy mô từ 50 ha đến
100 ha, đề nghị giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm tham mưu Chính phủ duyệt cấp.
5. Năng lực tài chính nhà đầu tư
Quy định chặt chẽ việc xem xét năng lực tài chính của nhà đầu tư đồng thời
quy định kiểm tra tiến độ triển khai thực hiện.
6. Định hướng cho vay
Do nguồn tiền còn eo hẹp (trong thời kỳ khủng hoảng tài chính thế giới và bất
ổn kinh tế vĩ mô kéo dài tại Việt Nam); Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần định
hướng cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cho vay đầu tư dự án theo
hướng chỉ tập trung vốn cho những đơn vị chuyên ngành (không cho vay các đơn vị
đầu tư ngoài ngành chính) đơn vị chuyên nghiệp. Đồng thời cần cho vay đầu tư dứt
điểm từng dự án công trình tránh dàn trải.
Cần thay đổi tư duy “vay để đầu tư là vay lành mạnh”, chú trọng khuyến khích
các đơn vị sử dụng nguồn vốn tự có (vốn huy động cổ phần, vốn hợp tác, vốn phát
hành trái phiếu doanh nghiệp, v.v…) thay vì sử dụng đa phần vốn ngân hàng rất rủi
ro.
7. Đấu thầu dự án
Nhà nước thường xuyên tổ chức đấu thầu công khai minh bạch đầu tư từng dự
án (kể cả cho doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia), cả những dự án đất sạch và
dự án đất chưa đền bù (tại những vị trí thuận lợi).
8. Vấn đề tiền sử dụng đất
Cần sửa đổi Nghị định 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
13/8/2009 quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư. Trong đó vướng mắc cần sửa đổi liên quan đến vấn đề
tính tiền sử dụng đất theo “giá thị trường”. Hiện nay hàng ngàn hồ sơ nộp thuế bị ách
200
tắc và đây là một nguyên nhân quan trọng góp phần đóng băng thị trường bất động
sản.
9. Sử dụng vốn “đất” của Nhà nước
Kiến nghị quy định thành luật khoản thu thuế “vốn” là tài sản đối với các đơn
vị sử dụng vốn (là tài sản) Nhà nước hàng năm phải đóng về cho ngân sách quốc gia.
Do cơ quan thẩm định giá nhà nước quy tài sản theo giá thị trường tại khu vực.
- Kiến nghị mức thu 6% năm trên tổng vốn đơn vị nhà nước sử dụng nếu “vốn”
là tài sản (ví dụ: như đất đai, kho bãi, v.v…) nhằm mục đích nâng cao tinh thần trách
nhiệm của từng đơn vị tránh lãng phí, thất thoát.
- Sẽ có nhiều trường hợp doanh nghiệp sẽ tự trả lại vốn cho ngân sách nhà
nước. Thay vì như hiện nay, nhiều trường hợp có quyết định điều chuyển kho bãi
nhưng đơn vị cố tình trì hoãn không thực hiện quyết định bàn giao tài sản.
10. Thuế đối với cá nhân, tổ chức giữ vốn nhà đất nhiều
Nghiên cứu ban hành tính thuế lũy tiến (hình thức thuế tài sản) hàng năm, đối
với người, tổ chức giữ số lượng nhà đất nhiều (diện tích từ 1000 m2 trở lên phải chịu
thuế tài sản hàng năm, nhà từ căn thứ 3 trở lên phải chịu thuế tài sản hàng năm). Đây là
một trong những biện pháp tăng nguồn thu từ nhà, đất (bất động sản) đồng thời chính là
biện pháp hữu hiệu chống đầu cơ đất đai, bất động sản.
11. Quy định thu “lệ phí hạ tầng”
Cần ban hành quy định thu “lệ phí cơ sở hạ tầng”, thuế này chỉ những người
đầu tư kinh doanh dự án bất động sản mới phải nộp. Do Nhà nước phải tốn rất nhiều
công sức, kinh phí cho đầu tư cầu đường, cơ sở hạ tầng (trung tâm thương mại, sân
bay quốc tế, bệnh viện, trường học, v.v…); và chính những công trình đầu tư này là
một trong những nguyên nhân làm bất động sản tại khu vực đó “lên giá”. Do vậy, cần
có quy định thu “lệ phí cơ sở hạ tầng” (lấy lại một phần nhỏ địa tô chênh lệch) đối với
dự án đầu tư kinh doanh bất động sản được thụ hưởng từ đầu tư hạ tầng này.
12. Cải cách thủ tục hành chính
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm thủ tục cấp phép đầu tư xây dựng,
thời gian hoàn thành cấp phép xây dựng cho một dự án không được quá 9 tháng (quốc
tế các nước chỉ 6 tháng).
IV. Kết luận
Ngay từ khi tổ chức quy hoạch tổng thể, chi tiết cầu, đường, khu đô thị mới,
v.v… Nhà nước cần quan tâm đặc biệt đến những vị trí đắc địa, đất dọc hai bên
đường, đất tại các khu trung tâm, v.v…
Đồng thời trong quá trình triển khai tổ chức thi công ưu tiên huy động mọi
thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng; tiến hành đấu thầu công khai “đất
đai” dự án đầu tư tại những vị trí đắc địa (kể cả đất do nhà nước bỏ tiền ra đền bù giải
phóng mặt bằng và “đất” còn đang trong quy hoạch chưa đền bù giải phóng mặt bằng.
Công khai đấu thầu “đầu tư” trên từng hạn mục công trình căn cứ theo quy hoạch đã
được cấp thẩm quyền duyệt thông qua.
Toàn bộ số tiền chênh lệch (siêu lợi nhuận) do việc tăng giá trị đất, tăng giá cả
đất sẽ được thu về ngân sách nhà nước. Một phần trong nguồn thu đặc biệt này, kiến
nghị sẽ dùng để đầu tư xây dựng nhả ở cho người thu nhập thấp “thuê”, xây dựng nhà
201
ở cho người tái định cư, đảm bảo thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội của Đảng và
Nhà nước.
202
THỪA THIÊN HUẾ - NHỮNG NỖ LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Nguyễn Văn Cao
Phó Bí thƣ Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế
Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội giai đoạn 2011 - 2020 với ba khâu đột phá, gồm: (i) Hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh
bình đẳng và cải cách hành chính; (ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân,
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ; và, (iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện ba đột phá chiến
lược, tạo tiền đề tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, gắn với thực
hiện Kết luận 48-KL/TW ngày 25/5/2009 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển
Thừa Thiên Huế và đô thị Huế đến 2020, tỉnh Thừa Thiên Huế đã chỉ đạo các cấp, các
ngành bám sát Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và định hướng chỉ đạo của
Trung ương để nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội, tập trung xây dựng đồng bộ kết cấu hạ
tầng theo hướng hiện đại, đầu tư phát triển các lĩnh vực văn hóa – du lịch, giáo dục –
đào tạo, y tế chuyên sâu, khoa học công nghệ xứng tầm là trung tâm của khu vực miền
Trung và cả nước.
Trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; cuộc khủng hoảng tài chính
– tiền tệ, suy thoái kinh tế, biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh, nhưng với sự chỉ đạo
đúng đắn, kịp thời, quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh và sự nỗ lực cố
gắng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Thừa Thiên Huế, nền kinh tế - xã hội địa
phương vẫn tiếp tục phát triển ổn định. Giai đoạn 2011 – 2013, tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân đạt 10,0%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ nét theo hướng dịch vụ -
công nghiệp – nông nghiệp. Huy động vốn đầu tư tăng khá; tổng vốn đầu tư toàn xã
hội trong ba năm 2011 – 2013 đạt hơn 37 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 14,2%/năm;
trong đó, vốn ngân sách nhà nước tăng trưởng bình quân 6,4%/năm và tỷ trọng trong tổng
vôn đầu tư có xu hướng giảm (thơi ky 2006 – 2010, chiếm 38%; đến nay chiếm khoảng
34%). Thu ngân sách nhà nước đạt mức tăng bình quân 16%/năm. Thu nhập bình quân
đầu người năm 2013 ước đạt 1.673 USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 6,5%.
Sự phát triển về kinh tế - xã hội đã góp phần thay đổi diện mạo các đô thị của
tỉnh. Hạ tầng đô thị thành phố Huế, thị xã Hương Thủy, Hương Trà, thị trấn Sịa, Thuận
An, các trung tâm tiểu vùng, giao thông kết nối liên vùng được quan tâm đầu tư phát
triển; hệ thống giao thông nông thôn được kiên cố hóa. Hệ thống di tích Cố đô Huế, di
tích lịch sử cách mạng được tu bổ, tôn tạo, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
Huế - văn hóa Việt Nam, hỗ trợ phát triển du lịch và xây dựng tỉnh thành trung tâm văn
hóa – du lịch. Trung tâm giáo dục đào tạo có bước phát triển. Đại học Huế tiếp tục
khẳng định vị thế của một trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao; duy
trì và giữ vững chất lượng giáo dục phổ thông; hệ thống trường dạy nghề phát triển khá.
Mạng lưới y tế cơ sở được đầu tư hoàn thiện. Bệnh viện Trung ương Huế và Trường
203
Đại học Y Dược Huế không ngừng phát triển theo hướng chuyên sâu, kỹ thuật cao đáp
ứng yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, xứng tầm là trung tâm y tế y tế chuyên sâu
trong khu vực và cả nước. Trung tâm khoa học công nghệ phát triển theo hướng khai
thác các thế mạnh về khoa học xã hội và nhân văn, y dược, công nghệ thông tin.
Mặc dù còn nhiều khó khăn và hạn chế; song những kết quả đạt được là rất quan
trọng, đánh dấu bước trưởng thành trong công tác chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Tỉnh,
sự nỗ lực của các cấp các ngành địa phương trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, đóng góp cho những thành tựu trên còn nhờ vào sự chỉ
đạo sát sao của Trung ương; trong đó có các định hướng lớn về “ba khâu đột phá chiến
lược” được đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
Tỉnh Thừa Thiên Huế đã nghiêm túc quán triệt, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh
tế, phát triển bền vững. Theo đó, tập trung vào ba nhiệm vụ trọng tâm: tái cơ cấu kinh
tế, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng.
I. Tái cơ cấu kinh tế
Nhằm bổ trợ cho việc thực hiện khâu đột phá chiến lược hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tỉnh đã nghiêm túc triển khai thực hiện các
chỉ thị, chủ trương, chính sách của Trung ương về tái cơ cấu kinh tế; trong đó, tập trung
vào ba trọng tâm: tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng và tái
cơ cấu doanh nghiệp.
Về tái cơ cấu đầu tư công, đã thực hiện các giải pháp huy động các nguồn lực đầu
tư ngoài ngân sách nhà nước. Duy trì tỷ trọng đầu tư nhà nước hợp lý, trung bình vốn đầu
tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội112
.
Đã nghiêm túc thực hiện Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng
Chính phủ, góp phần đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý sử dụng vốn. Nguồn vốn ngân
sách nhà nước cơ bản được phân bổ và quản lý đúng mục đích, mục tiêu, nâng cao được
hiệu quả sử dụng vốn. Số chương trình, dự án giao vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2011 –
2013 như sau: Dự án hoàn thành năm 2011 là 124 dự án, năm 2012 là 98 dự án, năm
2013 là 112 dự án; dự án khởi công mới năm 2011 là 100 dự án, năm 2012 là 75 dự án,
năm 2013 là 53 dự án (trong đó chương trình mục tiêu quốc gia hỗ trợ 21 dự án). So với
thời kỳ trước khi có Chỉ thị 1792/CT-TTg, kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn ngân
sách nhà nước giai đoạn 2011-2013 có số dự án khởi công mới ít hơn và số dự án hoàn
thành nhiều hơn.
Công tác giao kế hoạch vốn đã bám sát và tuân thủ đúng quy định của Chỉ thị
1792/CT-TTg, thứ tự ưu tiên bố trí như sau: (1) các dự án đã hoàn thành và bàn giao,
sử dụng trước ngày 31/12 nhưng chưa bố trí đủ vốn; (2) các dự án dự kiến hoàn thành
trong năm; (3) vốn đối ứng cho các dự án ODA theo tiến độ thực hiện dự án. Việc
giao kế hoạch đã đảm bảo tập trung, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, không có tình
trạng nợ đọng XDCB hoặc mất khả năng kiểm soát.
Đã ban hành nhiều cơ chế chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia đầu tư trong các lĩnh vực sản xuất, phát triển hạ tầng, các lĩnh vực văn hóa
112 Tỷ trọng vốn ngân sách nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội qua các năm 2011: 31,7%; năm 2012:
31,8%; ước năm 2013: 34,6%.
204
giáo dục...113
Nghiên cứu xúc tiến các hình thức đầu tư mới như đối tác công – tư
(PPP), BOT; cụ thể: triển khai dự án mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua tỉnh theo hình
thức BOT, đăng ký danh mục dự án đầu tư theo hình thức PPP đối với một số lĩnh vực
môi trường, cấp nước, năng lượng tái tạo,…
Về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng, đã tập trung xử lý nợ xấu; tích cực
tìm kiếm các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp cơ cấu lại nợ. Nhờ đó, tỷ lệ nợ xấu trong
tổng dư nợ giảm mạnh; trong năm 2012 và những tháng đầu năm 2013, nợ xấu chiếm
trung bình 4,8% - 5% trong tổng dư nợ, song trong tháng 6/2013 tỷ lệ nợ xấu chỉ
chiếm 2,81%.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp, đã hoàn thành phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước theo các Quyết định đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thực hiện sắp xếp cổ phần hóa 117/117 doanh nghiệp; trong đó: Chuyển thành công ty
TNHH Nhà nước 01 thành viên: 11 doanh nghiệp; cổ phần hoá: 58 doanh nghiệp;
chuyển sang đơn vị sự nghiệp: 07 doanh nghiệp; sáp nhập vào doanh nghiệp nhà nước
khác: 18 doanh nghiệp; chuyển về làm thành viên Tổng Công ty: 01 doanh nghiệp; giao
cho tập thể người lao động: 06 doanh nghiệp; bán 01 doanh nghiệp; giải thể: 10 doanh
nghiệp; phá sản: 05 doanh nghiệp.
Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của đơn vị, nhờ đó, hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước và các
nguồn vốn khác trong doanh nghiệp tăng lên đáng kể. Sau sắp xếp, bộ máy quản lý
doanh nghiệp gọn nhẹ, cơ chế quản lý thông thoáng, chủ động hơn; đồng thời có sự
kiểm tra, giám sát nội bộ chặt chẽ của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và các cổ
đông. Việc chuyển sang hình thức đa sở hữu đã nâng cao vai trò làm chủ và ý thức
trách nhiệm của người lao động trong việc theo dõi, quản lý và tham gia trực tiếp vào
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà
nước, của tập thể và của người lao động, tạo ra động lực để doanh nghiệp phát triển.
Các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp được duy trì hoạt động có hiệu
quả, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đúng định hướng và chủ
trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Sau sắp xếp đến nay còn 11 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước; dự kiến tiếp tục
sắp xếp trong giai đoạn 2013 - 2015. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp nhà nước tương đối ổn định; có tăng trưởng về doanh thu, lợi nhuận, vốn chủ
sở hữu tại doanh nghiệp, thu nhập người lao động và nghĩa vụ với ngân sách nhà
nước, và không có đầu tư ra ngoài ngành nghề sản xuất kinh doanh chính. Phần lớn
doanh nghiệp có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp
sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn một số doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh với hiệu quả thấp. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
một số đơn vị chưa thật sự năng động; chưa đổi mới phương thức quản trị để nâng cao
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh.
Bên cạnh việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tỉnh chú trọng thực hiện các
chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia vào quá trình phát triển
113 Ban hành Quyết định số 01/2013/QĐ-UBND ngày 05/01/2013 về quy định một số chính sách hỗ trợ và ưu
đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 31/2013/QĐ-UBND ngày 15/8/2013 về Quy định một số chính sách
khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể
thao, môi trường trên địa bàn tỉnh
205
của địa phương; từ đó, nâng cao khả năng huy động nguồn lực ngoài ngân sách. Nhờ
đó kinh tế ngoài quốc doanh không ngừng phát triển. Đến nay, toàn tỉnh có 4.743
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, với tổng vốn đăng ký đạt 21,9 nghìn tỷ đồng; riêng
doanh nghiệp tư nhân có 2.263 doanh nghiệp, chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp
ngoài nhà nước. Kinh tế đầu tư nước ngoài được quan tâm thu hút, trở thành động lực
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương. Toàn tỉnh có 53 doanh nghiệp
FDI với tổng vốn đăng ký 1.960 triệu USD; vốn đầu tư FDI hằng năm chiếm khoảng
15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là Hợp tác
xã tiếp tục có những chuyển đổi phù hợp với tình hình mới. Toàn tỉnh hiện có hơn 257
hợp tác xã và 1 Liên hiệp hợp tác xã, thu hút gần 250.000 xã viên tham gia. Nhìn
chung, các hợp tác xã cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ xã viên; đã duy trì được các
dịch vụ bắt buộc và mở rộng các dịch vụ mang tính thị trường như thu mua, chế biến
nông sản; tín dụng nội bộ, đem lại lợi ích thiết thực cho các xã viên.
II. Phát triển nguồn nhân lực
Việc xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm giáo dục -
đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao của cả nước tạo điều kiện phát triển
nguồn nhân lực của tỉnh. Đã duy trì và giữ vững chất lượng giáo dục phổ thông;
tỷ lệ học sinh khá , giỏi, tỷ lệ tốt nghiệp THPT hàng năm kha cao . Thực hiện tốt công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên; nhơ đo, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trên 99,4%.
Cơ sơ vât chât trương hoc đư ợc cải thiện cơ bản, đã co 228/591 trường đươc công
nhân đ ạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 38,6%114
; có 214 thư viện đạt chuẩn115
, 100%
trường ở các câp học được kết nối Internet.
Công tác đào tạo nghề được quan tâm; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang
thiết bị các cơ sở dạy nghề đạt chuẩn. Hê thông trương day nghê phat triên kha vơi 05
trường trung học chuyên nghiệp, 70 cơ sở dạy nghề, 14 trung tâm ngoại ngữ,
tin học và hơn 100 cơ sở đào tạo quy mô nhỏ do tư nhân tự tổ chức. Điển hình
là Trường Cao đẳng Du lịch trở thành nơi đào nguồn nhân lực phục vụ phát triển dịch
vụ du lịch, cung cấp lao động có tay nghề khá cao không những cho tỉnh mà các địa
phương khu vực miền Trung Tây Nguyên. Năm 2013, tỷ lệ lao động được đào tạo
nghề ước đạt 50%.
Giáo dục đại học và sau đại học được ưu tiên tập trung đầu tư. Đại học Huế với
lịch sử của 55 năm xây dựng và phát triển khẳng định vị thế Đại học trọng điểm quốc
gia. Đại học Huế có 7 trường đại học thành viên, Phân hiệu Đại học Huế tại tỉnh Quảng
Trị, 5 trung tâm với 98 chuyên ngành đào tạo bậc đại học, 67 chuyên ngành đào tạo thạc
sĩ và 27 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ, 62 chuyên ngành đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp
I, cấp II, bác sĩ nội trú và 15 chương trình liên kết đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ với
các trường đại học uy tín nước ngoài. Tỷ lệ giảng viên có học hàm, học vị giáo sư, phó
giáo sư, tiến sĩ đạt gần 20% số lượng giảng viên cơ hữu, 67% giảng viên có trình độ
thạc sĩ trở lên116
. Đại học Huế đã xây dựng chiến lược phát triển giai đoạn 2011-2015
và tầm nhìn đến 2020 với mục tiêu xây dựng thành trung tâm đào tạo đại học và sau đại
học, đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao, đạt chuẩn quốc gia và khu vực; là trung tâm
114 Mầm non: 50/196 trương, Tiểu học: 120/237 trương, THCS: 51/117 trương, THPT: 7/41 trường 115 Tiểu học 154 thư viên, THCS: 51, THPT: 9 116 Năm 2012: Đại học Huế có 3563 cán bộ, viên chức, hợp đồng lao động; số lượng trí thức có học hàm, học vị
đứng thứ 3 toàn quốc với 7 giáo sư, 138 phó giáo sư, 529 tiến sĩ, 1063 thạc sĩ, 76 nhà giáo nhân dân, nhà giáo
ưu tú; thầy thuốc ưu tú.
206
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ mạnh về các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, xã hội - nhân văn, giáo dục, quản lý, nông nghiệp, y dược, kỹ thuật công nghệ
cao. Đại học Huế và các trường thành viên đã thiết lập quan hệ với gần 100 trường Đại
học, viện nghiên cứu, các tổ chức khoa học của trên 30 quốc gia trên thế giới như Mỹ,
Úc, Pháp, Thái Lan, Nhật Bản,Ý... Hàng năm Đại học Huế thu hút 95.000 sinh viên;
cung cấp lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.
III. Xây dựng kết cấu hạ tầng
Xác định tầm quan trọng của việc xây dựng kết cấu hạ tầng, đồng thời hướng đến
mục tiêu xây dựng tỉnh cơ bản đạt tiêu chí đô thị loại 1, Tỉnh đã ưu tiên nguồn lực đầu tư hạ
tầng cho đô thị Huế và các đô thị vệ tinh.
- Thành phố Huế: Được tập trung nguồn lực để đầu tư cải tạo, nâng cấp, chỉnh
trang hệ thống giao thông nội thị, vỉa hè, thoát nước, điện chiếu sáng, cây xanh...
trong các phường nội thành; xúc tiến di dời, giải tỏa, tái định cư các hộ dân sống trong
vùng bảo vệ di tích; chỉnh trang, nạo vét một số sông chính (Ngự Hà, Đông Ba, An
Cựu, hồ Học Hải...), xử lý thoát nước các điểm ngập úng. Hoàn thành xây mới cầu Dã
Viên, cầu Ga, nâng cấp hệ thống cầu qua sông An Cựu, sông Đông Ba…; hoàn thành
chỉnh trang một số đường trục chính trong thành phố Huế và một số tuyến đường đến
các điểm di tích, làng đại học... Tiếp tục đầu tư một số trục giao thông chính trong khu
đô thị An Vân Dương. Xúc tiến giải toả, chỉnh trang khu vực hai bên Quốc lộ 1A đoạn
Huế -Tứ Hạ.
Đầu tư xây dựng các khu chung cư, khu nhà ở hình thành quỹ nhà ở xã hội;
hoàn thành cơ bản xây dựng các ký túc xá sinh viên Đại học Huế, Cao đẳng Y tế, Sư
phạm... Hệ thống công sở, trụ sở cơ quan được sắp xếp, cải tạo; hoàn thành xây dựng
khu hành chính tập trung thành phố Huế.
- Thị trấn Thuận An đang được ưu tiên đầu tư xây mới, nâng cấp các công trình
hạ tầng để đạt chuẩn đô thị loại IV. Các trung tâm tiểu vùng Bình Điền, Điền Lộc,
Thanh Hà, An Lỗ, La Sơn, Vinh Thanh đang được đầu tư đạt chuẩn đô thị loại V.
- Công tác xây dựng và chỉnh trang thị xã Hương Thủy, Hương Trà, thị trấn
Phú Đa, thị trấn Sịa và các đô thị khác được đẩy nhanh. Nhiều công trình công cộng
được ưu tiên đầu tư; hạ tầng giao thông, hệ thống cấp nước, thoát nước, nâng cấp hè
phố, điện chiếu sáng... đang được ưu tiên đầu tư xây dựng. Bước đầu hình thành các
khu đô thị mới Phú Mỹ Thượng, Thủy Dương.
Hạ tầng giao thông: Đã quan tâm phát triển giao thông kết nối liên vùng; phối
hợp và hỗ trợ Bộ Giao thông và Vận tải triển khai dự án nâng cấp đường phía Tây thành
phố Huế, nâng cấp cảng hàng không quốc tế Phú Bài; triển khai các dự án đền bù giải
phóng mặt bằng trên các tuyến Quốc lộ 1A và tuyến cao tốc Cam Lộ - Túy Loan, khởi
động các dự án Nâng cấp Quốc lộ 1A, 02 hầm đường bộ Phú Gia – Phước Tượng và
chuẩn bị khởi động dự án đường cao tốc Cam Lộ - Túy Loan qua địa bàn tỉnh.
Hệ thống giao thông kết nối các đô thị được tập trung đầu tư; hoàn thành nâng
cấp, mở rộng đường vào sân bay quốc tế Phú Bài; hình thành trục kết nối Huế - Tứ Hạ
- Bình Điền (đường Tỉnh lộ 16, 12B), đường Nguyễn Chí Thanh – Quảng Điền kết nối
đô thị ven biển phía Bắc với thành phố Huế... Triển khai đầu tư trục giao thông Thuỷ
Dương - Thuận An (đã hoàn thành đoạn Thủy Dương – Tỉnh lộ 10) kết nối đô thị
Thuận An với thành phố Huế và thị xã Hương Thủy. Hoàn thành đường La Sơn -
Nam Đông giai đoạn 1. Hệ thống giao thông nông thôn được đầu tư kiên cố hóa, hoàn
207
thành một số tuyến giao thông quan trọng phá thế chia cắt ở vùng đầm phá Tam Giang
- Cầu Hai như: Xây mới Cầu Tam Giang, tuyến Phong Điền - Điền Lộc, Thuỷ Phù -
Vinh Thanh; nâng cấp Tỉnh lộ 4, Tỉnh lộ 10 C,D.
Hạ tầng thủy lợi và ưng pho biến đổi khí hậu tiếp tục được ưu tiên đầu tư. Bình
quân 1 xã có 17,5 km kênh mương thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp; trong đó
kênh mương đã được kiên cố hóa bình quân 6,5 km/xã, tỷ lệ xã có hệ thống thủy lợi
cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh 58,6%; toàn tỉnh có 284 trạm bơm nước,
bình quân 1 xã có 2,5 trạm bơm nước. Đã hoàn dự án thuỷ lợi Tây Nam Hương Trà;
phối hợp đẩy nhanh tiến độ xây dựng hồ Tả Trạch, hồ chứa nước Thuỷ Yên - Thuỷ
Cam; hệ thống đê điều, hồ chứa, đập dâng, trạm bơm được tu bổ đảm bảo an toàn
trong lũ lụt. Tiếp tục đầu tư xử lý chống xói lở bờ sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu,
bờ biển Hải Dương - Thuận An; nâng cấp hệ thống đê sông Đại Giang, đê Tây phá
Tam Giang. Hoàn thành xây dựng bến neo đậu tàu thuyến Phú Hải, tiếp tục đầu tư khu
neo đậu tránh, trú bão kết hợp bến cá Cầu Hai; hạ tầng tái định cư vùng sạt lở và lũ
quét, các công trình khắc phục hậu quả lũ lụt được ưu tiên đầu tư.
Hệ thống cấp nước sinh hoạt trong đô thị Huế và vùng phụ cận được nâng cấp,
cải tạo; xây mới hệ thống cấp nước thị trấn Phú Lộc và các xã lân cận, hệ thống cấp
nước thị trấn Phong Điền; hoàn thành lắp đặt các tuyến cấp nước tập trung vượt phá
Tam Giang – Cầu Hai để cung cấp nước cho nhân dân các xã ven biển; nâng tỷ lệ dân
số được sử dụng nước hợp vệ sinh trên toàn tỉnh lên 93%; trong đó, tỷ lệ sử dụng
nước sạch đạt 72%.
Hệ thống cấp điện: thôn, bản đã có điện lưới; tỷ lệ hộ sử dụng điện là 99,5%.
Tỷ lệ đường phố chính đô thị đã được chiếu sáng 326,24 km trên tổng số 513,67 km,
đạt 63,51%; tỷ lệ ngõ hẻm đã có chiếu sáng là 78,86 km trên tổng số 539,2 km đường
ngõ hẻm, đạt 14,6 %.
Hạ tầng xử lý chất thải: Đã hoàn thành dự án cải thiện môi trường đô thị Lăng
Cô; đang triển khai xây mới khu xử lý chất thải phía Nam thành phố Huế; triển khai
dự án Cải thiện môi trường nước thành phố Huế. Hình thành hệ thống thu gom chất
thải rắn ở các huyện, xã; cơ bản hoàn thành các công trình vệ sinh trong trường học và
một số nơi công cộng.
Hạ tầng công nghệ thông tin được chú trọng đầu tư theo hướng xây dựng Thưa
Thiên Huê thanh trung tâm CNTT manh . Tất cả các đơn vị từ tỉnh đến xã, phường đã
được kết nối Internet; 100% xã có điểm giao dịch bưu đi ện và kết nối internet. Mở
rộng diện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức ba. Đưa vào sử dụng 05 phần mềm
dùng chung trong các sở, ban ngành và địa phương. Xây dựng các cơ sở dữ liệu
chuyên ngành và từng bước khai thác, ứng dụng một số kết quả của Hệ thống thông
tin địa lý Huế (GISHue).
Hạ tầng viễn thông và truyền thông được đầu tư theo hướng cáp quang, ngầm
hóa và dùng chung hạ tầng mạng vừa đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ ứng dụng có
chất lượng cao vừa đảm bảo mỹ quan môi trường đô thị và các khu dân cư; đã hoàn
thành ngầm hóa mạng cáp viễn thông và cáp truyền hình tại trung tâm thị xã Hương
Trà và Hương Thủy.
Quá trình tái cơ cấu kinh tế, phát triển nguồn nhân lực và đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng song song với việc thực hiện Kết luận 48, “Năm Đô thị 2013” và chương trình
phát triển nông thôn mới không những hỗ trợ phát triển nền kinh tế - xã hội tỉnh mà còn
208
làm thay đổi diện mạo bộ mặt đô thị và nông thôn của tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh có 01 đô
thị loại I, 02 đô thị loại IV, 08 đô thị loại V, tỷ lệ dân cư đô thị đến năm 2013 đạt 50,05%.
IV. Một số thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2013
Việc thực hiện các khâu đột phá chiến lược của Trung ương đã góp phần hỗ trợ
nền kinh tế địa phương chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại “dịch vụ - công
nghiệp – nông nghiệp”. Đến nay, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng; tỷ
trọng ngành dịch vụ chiếm hơn 48%; tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tăng
chiếm 37,8%; tỷ trọng ngành nông lâm thủy sản chiếm 14,2%.
- Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng trên 48% GDP của tỉnh; dự ước năm 2013
chiếm tỷ trọng 50,5% GDP. Việc đầu tư xây dựng bốn trung tâm lớn về du lịch – văn
hoá, y tế, giáo dục và khoa học công nghệ càng khẳng định hướng phát triển dịch vụ
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Du lịch phát triển vững mạnh và ổn định với nhiều hoạt động văn hóa - du lịch
có quy mô và chất lượng cao được duy trì. Thành công của sáu kỳ Festival Huế năm
chẳn và các Festival Nghề truyền thống năm lẻ đã khẳng định Thương hiệu Thành phố
Huế - Thành phố Festival, khẳng định vị thế của văn hóa, du lịch Huế với bạn bè trong
nước và quốc tế. Nhiều sản phẩm du lịch mới được đưa vào khai thác và phát huy hiệu
quả; công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch và đào tạo nguồn nhân lực được
chú trọng; phát triển quan hệ hợp tác du lịch trong vùng Duyên hải miền Trung, qua
đó góp phần nâng cao vị thế của một trung tâm văn hóa - du lịch. Cơ sở hạ tầng phục
vụ du lịch phát triển nhanh, nhiều khu du lịch mới đã đi vào hoạt động (Khu du lịch
nghỉ dưỡng Laguna của Tập đoàn Banyan Tree, Khu du lịch Tam Giang (Phú Vang);
khu du lịch sinh thái Vedana Lagoon (Phú Lộc)...
Tổng lượt khách du lịch năm 2013 dự ước đạt 2,4 triệu lượt, trong đó lượt khách
lưu trú đạt 1,8 triệu lượt. Hoạt động thương mại có chuyển biến rõ rệt, kim ngạch xuất
khẩu tăng bình quân 46,9%/năm; riêng năm 2013 ước đạt 540 triệu USD, đạt bình
quân 490 USD/người gần bằng mức chỉ tiêu phấn đấu của Chính phủ giao cho các địa
phương trong Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung. Các loại hình dịch vụ vận tải, tài
chính ngân hàng có tốc độ tăng trưởng cao. Dịch vụ vận tải tăng trung bình từ 15%-
20%. Dịch vụ tài chính ngân tăng trưởng khá; hệ thống tổ chức tín dụng phát triển
mạnh, góp phần làm phong phú sản phẩm tín dụng tài chỉnh, đáp ứng nhu cầu đạ dạng
của thị trường. Hiện nay, Tỉnh đang tích cực chuẩn bị cho Festival Huế 2014: Tổ chức
tuyên truyền, quảng bá; kết nối các đối tác tham gia; khảo sát địa điểm biểu diễn và
điều kiện kỹ thuật; làm việc với các địa phương về Lễ hội dân gian cộng đồng; tổ chức
đoàn công tác làm việc với một số đơn vị tài trợ truyền thống cho Festival…
Dịch vụ y tế tiếp tục khẳng định vai trò là Trung tâm y tế chuyên sâu miền
Trung đứng đầu là Bệnh viện Trung ương Huế - một trong bốn bệnh viện hạng đặc
biệt của cả nước. Dịch vụ giáo dục được đầu tư phát triển, khẳng định truyền thống
của một vùng “đất học”. Đại học Huế tiếp tục khẳng định vị thế của một trung tâm
đào tạo đại học và sau đại học lớn ở miền Trung, một trong 14 đại học trọng điểm
quốc gia. Dịch vụ khoa học công nghệ được quan tâm đầu tư về thiết chế như: Trung
tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng; Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học
- công nghệ; đưa vào hoạt động Quỹ phát triển khoa học - công nghệ. Thừa Thiên Huế
là một tỉnh mạnh về công nghệ thông tin, tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng lĩnh vực này
phục vụ hiệu quả cho công tác quản lý điều hành cũng như phục vụ sản xuất kinh
doanh. Đến nay, 100% các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh, UBND các huyện, thị xã,
209
thành phố Huế và 152 xã, phường, thị trấn đã kết nối mạng LAN phục vụ tốt công tác
điều hành, quản lý công việc; 90% doanh nghiệp kết nối Internet. Hoàn thành việc xây
dựng hệ thống thông tin địa lý tỉnh Thừa Thiên Huế (GISHue); hoàn thành xây dựng
một số cơ sở dữ liệu chuyên để đưa vào khai thác, sử dụng trên nhiều lĩnh vực.
- Lĩnh vực công nghiệp, duy trì tốc độ tăng giá trị sản xuất 13,9%/năm; hiện
chiếm tỷ trọng 37,8% GDP của tỉnh. Các KCN, cụm CN - TTCN, làng nghề được quy
hoạch và đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Đến nay, có 78 dự án còn hiệu lực đầu tư vào các
KCN với tổng vốn đăng ký đầu tư 15.571,5 tỷ đồng; trong đó, vốn đã thực hiện 4000
tỷ đồng, bằng 26% so vốn đăng ký. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN
chiếm 37,4% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và đóng góp 60% tổng giá trị xuất
khẩu của Tỉnh. Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô đến nay đã thu hút được 32 dự án
đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký hơn 35.474 tỷ đồng (tương đương 2,22 tỷ USD);
trong đó có 10 dự án FDI với tổng vốn 21.000 tỷ đồng (tương đương 1,31 tỷ USD), 22
dự án trong nước với tổng vốn đăng ký 14.000 tỷ đồng (tương đương 0,9 tỷ USD).
Năm 2013, sản xuất công nghiệp tiếp tục còn khó khăn do ảnh hưởng bởi thị
trường tiêu thụ hàng hóa không mở rộng, sức mua xã hội giảm sút. Chỉ số sản xuất
công nghiệp (IIP) tháng 8/2013 tăng 5,77% so cùng kỳ và giảm 1,1% so tháng trước.
Tính chung 8 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 5,03% so cùng
kỳ117
. Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá như: Đá xây dựng đạt 690,2 ngàn
m3, tăng 21,2%; sợi các loại 25.828 tấn, tăng 15,4%; bia lon Huda 45 triệu lít, tăng
44%; quần áo lót 150,3 triệu cái, tăng 26,6%; bê tông tươi 67,1 ngàn m3, tăng 7,7%;
mực đông lạnh 784,6 tấn, tăng 4,2%; men frit 32,3 ngàn tấn, tăng 14,1%,... Các sản
phẩm giảm so cùng kỳ: Quặng inmenit đạt 26,3 ngàn tấn, giảm 18,2%; Quặng Zincol,
quan (sửa đổi); Luật phá sản (sửa đổi); Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi); Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế; Luật bảo hiểm xã hội (sửa đổi).
- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh còn bị điều chỉnh nhiều, việc ban hành
các văn bản hướng dẫn chưa đảm bảo tiến độ, chất lượng
Chương trình xây dựng luật, pháo lệnh còn bị điều chỉnh nhiều do công tác
chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh chưa đảm bảo yêu cầu về chất lượng và tiến độ.
Xây dựng thể chế còn ở tình trạng pháp lý thuần túy, thiếu kiến thức liên ngành và
thực tiễn, phản ứng chính sách còn hạn chế; sự phối hợp giữa các ngành chưa chặt chẽ
và hiệu quả. Tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
luật , pháp lệnh chưa được khắc phục cơ bản nhất là việc ban hành các thông tư, thông
tư liên tịch; một số văn bản có nội dung quy định chi tiết chưa bám sát quy định của
luật, pháp lệnh hoặc có quy định còn thiếu tính khả thi, hợp lý dẫn đến vướng mắc,
kém hiệu lực trong triển khai thực hiện.
- Công tác cải cách hành chính vẫn chưa được quan tâm cao và chỉ đạo thực
hiện quyết liệt, cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu
Trong công tác cải cách hành chính, một số bộ, ngành, địa phương chưa thực
sự quan tâm nên chỉ đạo, điều hành chưa quyết liệt.
Cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều thủ tục hành chính
không còn phù hợp, chậm được sửa đổi. Kỷ cương hành chính chưa nghiêm, công tác
kiểm tra, giảm sát còn nhiều yếu kém, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành.
Một bộ phận cán bộ, công chức suy thoái , không làm tròn trách nhiệm, nhũng nhiễu,
tiêu cực, ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân.
2. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
121 Đến nay cả nước có 88,3% số cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, 98,4% đơn vị hành chính cấp huyện và 96,7%
đơn vị hành chính cấp xã đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông theo quy định; trong đó có
203 đơn vị hành chính cấp huyện của 42 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện cơ chế một
cửa, một cửa liên thông theo hướng hiện đại tại UBND cấp huyện.
222
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ
2.1 Giáo dục, đào tạo và dạy nghề
a. Các kết quả đạt được
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được hoàn thiện, công tác xây dựng
các chiến lược, quy hoạch và các đề án phát triển được triển khai tích cực
Nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng được xây dựng và trình ban
hành. Luật giáo dục đại học đã được Quốc hội thông qua vào năm 2012 với những
quy định mới góp phần nâng cao chất lượng đào tạo như phân tầng và xếp hạng cơ sở
giáo dục đại học, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, kiểm định chất lượng đào
tạo, xác định rõ tiêu chí phân biệt cơ sở giáo dục đại học tư thục không vì lợi nhuận.
Nghị định 73/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài
trong lĩnh vực giáo dục được ban hành.
Ngoài ra, nhiều văn bản chiến lược quan trọng đã được xây dựng, ban hành và
triển khai thực hiện, cụ thể như: Chiến lược phát triển nhân lực, Chiến lược giáo dục,
Chiến lược dạy nghề và Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020.
Quy hoạch phát triển nhân lực của cả nước giai đoạn 2011 - 2020 cũng đã được xây
dựng và phê duyệt. đồng thời Chính phủ chỉ đạo tổ chức, hướng dẫn, đôn đốc các Bộ
ngành và các tỉnh, thành phố xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 -
2020 của Bộ, ngành và địa phương. Đến nay đã có 29/31 Bộ ngành và 62/63 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành xây dựng quy hoạch và đang tổ chức
triển khai thực hiện. Một số quy hoạch phát triển ngành được triển khai xây dựng,
điều chỉnh trong đó Điều chỉnh Quy hoạch phát triển mạng lưới các trường đại học,
cao đẳng đã được phê duyệt, đang xây dựng Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở
dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020.
Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghía và hội nhấp quốc tế” đã được Hội nghị Trung ương khóa 6 (khóa VI) cho ý
kiến, hiện đang bổ sung, hoàn thiện trình Hội nghị Trung ương 8 xem xét, thông qua.
- Bước đầu thử nghiệm thành công một số giải pháp quản lý:
Về giáo dục phổ thông: Điều chỉnh nội dung giảng dạy theo định hướng giảm
tải. Tích cực đổi mới kiểm tra đánh giá đồng bộ với đổi mới phương pháp dạy học.
Đổi mới công tác tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng tăng cường
giao quyền chủ động trên cơ sở nâng cao tinh thần tự chủ và chịu trách nhiệm của các
sở giáo dục và đào tạo.
Về đào tạo nguồn nhân lực: Đổi mới công tác quản lý và chỉ đạo điều hành
(quy chế thi và tuyển sinh, việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng và trung
cấp chuyên nghiệp) theo hướng đảm bảo và từng bước nâng cao chất lượng và hiệu
quả, chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong toàn ngành. Đẩy mạnh giao
quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học trong xác định chỉ tiêu tuyển sinh, tổ
chức tuyển sinh, xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp.
- Mạng lưới trường học và đội ngũ nhân lực được phát triển
223
Mạng lưới trường mầm non, phổ thông tiếp tục phát triển và phân bố rộng khắp
cả nước122
. Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển theo quy hoạch123
. Giáo dục chuyên
nghiệp được tiếp tục duy trì124
. Mạng lưới các trường cao đẳng, đại học tiếp tục được
phát triển theo quy hoạch125
.
Đội ngũ nhân lực ngành giáo dục, đào tạo, nhất là đội ngũ giáo viên tiếp tục được
phát triển. Tổng số giáo viên đứng lớp của cả nước tính đến năm 2013 có 1.168.577
người, trong đó giáo dục mầm non có 229.724 người (tỷ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn đào
tạo là 96,2%), giáo dục tiểu học có 366.045 người (tỷ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn đào tạo
là 99,5%), giáo dục trung học cơ sở có 311.970 người (tỷ lệ đạt chuẩn trở lên 98,8*), giáo
dục tủng học phổ thông có 150.133(tỷ lệ đạt chuẩn trở lên là 99,4%), giáo dục thường
xuyên đạt chuẩn và trên chuẩn đào tạo là 98,39%
Đội ngũ giáo viên dạy nghề tăng về số lượng và trình độ được nâng cao. Về cơ
bản, giáo viên trong các trường nghề đã đạt chuẩn, trong đó tỷ lệ giảng viên có trình độ
Thạc sỹ trở lên ở cấp cao đẳng nghề là 20,7%, ở cấp trung cấp nghề là 6,4%.
Đội ngũ giáo viên trung cấp chuyên nghiệp có 19.956 người (tỷ lệ giá viên là
Tiến sỹ là 3%, thạc sỹ là 23%), giáo dục cao đẳng có 24.437 người (tỷ lệ giáo viên là
tiến sỹ là 3%, thạc sỹ là 31,2%) và giáo dục đại học có 59.672 người (tỷ lệ giáo viên
là tiến sỹ là 17,3% Thạc sỹ là 42,7%)
- Quy mô đào tạo được mở rộng
+ Đào tạo nghề
Hoạt động dạy nghề tiếp tục được mở rộng về quy mô, chất lượng, từng bước
được nâng lên và ngày càng gắn kết với nhu cầu của thị trường lao động. Tong 2 năm
2011 - 2012 cả nước đã tuyển mới dạy nghề 3.354,6 ngàn người, trong đó: tuyển mới
cao đẳng nghề, trung cấp nghề và dạy nghề dài hạn 733,2 ngàn người, tuyển mới sơ
cấp nghề và dạy nghề thường xuyên 2.620,2 ngàn người, góp phần đưa tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề đến cuối năm 2012 lên 32%
Nội dung và phương pháp dạy nghề tiếp tục được đổi mơi, phát triển gắn với nhu
cầu của thị trường lao động, doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động và từng bước hội
nhập quốc tế góp phần hình thành cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng phù hợp với nhu
cầu hoạt động sản xuất, kinh doanh, dinh vụ và nhu cầu của người học nghề, góp phần
thực hiện mục tiêu phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao. Cơ cấu ngành nghề đào tạo từng bước được điều chỉnh phù hợp với nhu cầu của
doanh nghiệp và tổ chức sử dụng lao động.
+ Đào tạo trung cấp chuyên nghiệp
122 Đến năm 2013, cả nước cớ 13.720 trường nầm non, 15.407 trường tiểu học, 10.837 trường trung học cơ sở
và 2.714 trường trung học phổ thông 123 Tính đến ngày 15/3/2013 cả nước cớ 1.330 cơ sở dạy nghề, gồm: 157 trường cao đẳng nghề, 304 trường
trung cấp nghề, 869 trung tâm dạy nghề, trong đó khu vực ngoài công lập có 469 cơ sở dạy nghề (ciếm
35,3%)gồm 41 trường cao đẳng nghề, 101 trường trung cấp nghề và 327 trung tâm dạy nghề. 124 Năm 2013 cả nước cớ 562 cơ sở có đào tạo học sinh trung học chuyên nghiệp trong đó có 267 trường trung
học chuyên nghiệp 125 Đến năm 2013, cả nước có 420 trường, trong đó 204 trường đại học và 216 trường cao đẳng. Có 83 trường
ngoài công lập (55 trường đại học và 28 trường cao đẳng)
224
Đào tạo trung cấp chuyên nghiệp được duy trì. Số lượng học sinh năm 2012 là
630,7 ngàn người. Hệ đào tào trung cấp chuyên nghiệp có nhiều cố gắng nâng cao
chất lượng đào tạo và gắn với nhu cầu sử dụng nhân lực
+ Đào tạo đại học cao đẳng
Tổng quy mô sinh viên đại học, cao đẳng năm 2011 - 2012 là 2.204 ngàn sinh
viên126
, đạt khoảng 250 sinh viên/ 10.000 dân (trong đó hệ chính quy là 1.962 ngành
sinh viên, số sinh viên các trường ngoài công lập có 331 ngàn sinh viên chiếm gấn
15,0% tổng số sinh viên)
Đã có chuyển biến tích cực trong công tác tuyển sinh như việc xác định chỉ tiêu
tuyển sinh của các cơ sở đào tạo năm 2013 về cơ bản đá sát với thực tế năng lực đội
ngũ giảng viên, cơ sở vật chất mỗi trường để đảm bảo chất lượng đào tạo
Để nâng cao chất lượng đào tạo và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, Chính phủ đã xác định và tiếp tục khai Chương trình xây dựng 16 trường
đại học trọng điểm (số sinh viên của 15 trường đại học trọng điểm - không tính Học
viện kỹ thuật quân sự - chiếm 35,2% tổng số sinh viên đại học của cả nước)127
. Thực
hiện dự án xây dựng các trường đại học xuất sắc128
.
+ Đào tạo sau đại học
Quy mô đào tạo Thạc sỹ, Tiến sỹ của các cơ sở giáo dục đại học năm 2012 là
96.370 học viên (tăng so với năm 2010), trong đó nghiên cứu sinh có 6.441 người, số
học viên cao học có 89.929 người. Quy mô đào tạo Thạc sỹ và Tiến sỹ tăng trung bình
khoảng 7% /năm.
b. Các hạn chế, tồn tại
- Nhận thức, tư duy về phát triển nhanh nguồn nhân lực, về đổi mới lý giáo
dục, đào tạo chậm được đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển của xã hội, của đất nước
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
- Một số Đề án quan trọng về phát triển nhân lực chưa được thông qua và đưa
vào thực hiện.
Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế” chưa được thông qua và Chỉ thị của Ban Bí thư về đào tạo
nghề trình độ cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế chưa được ban hành.
- Một số văn bản dưới luật có tác dụng đẩy nhanh phát triển và nâng cao chất
lượng NNL chậm được abn hành (hướng dẫn Luật giáo dục đại học), chưa có quy
định pháp lý đủ mạnh để quy định sự tham gia của doanh nghiệp vào đào tạo nhân
126 Năm 2010 có 2.162,1 ngàn sinh viên 127 Đó là các trường đại học: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Đại học Thái
Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Trường đại học sư phạm Hà Nội, Trường đại học sư phạm TP Hồ Chí
Minh, Trường đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường đại học nông nghiệp I Hà Nội, Trường đại học kinh tế quốc
dân HÀ Nội, Trường đại học Y Hà Nội, Trường đại học kinh tế Hồ Chí Minh, Trường đại học Y Hồ Chí Minh,
Trường đại học Cần Thơ, Học viện kỹ thuật quân sự và Trường đại học Vinh. 128 Đến nay đã thành lập trường đại học Việt - Đức (bắt đầu tuyển sinh từ năm 2009 - 2010, năm 2011 đã có 29
Thạc sỹ khóa đầu tốt nghiệp, năm 2012 đã có khóa cử nhân đầu tiên tốt nghiệp), Trường Đại học Khoa học và
Công Nghệ Hà Nội đã thành lập và tuyển sinh từ năm 2010 - 2011, năm 2012 đã có khóa Thạc sỹ đầu tiên tốt
nghiệp, Dự án Đại học công nghệ Việt - Nga đang được tích cực triển khai.
225
lực, nên vừa hạn chế huy động nguồn lực vừa khó giải quyết vấn đề gắn đào tạo với
nhu cầu sử dụng nhân lực.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang bị thiết bị của các cơ sở đào tạo nhân lực vẫn
còn trong tình trạng thiếu và yếu.
- Đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu và trình độ còn hạn chế (tỷ trọng
giảng viên đại học, cao đẳng có học vị Tiến sỹ và học hàm GS, PGS còn thấp)
- Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy còn lạc hậu, nên kiến thức và
kỹ năng của nhân lực được đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn và lạc hậu so với quốc
tế ảnh hưởng đến nâng cao chất lượng NNL, nhất là NNL chất lượng cao.
2.2.Khoa học và công nghệ
a. Các kết quả đạt được
- Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách phát
triển KH&CN
Hệ thống pháp luật, chính sách phát triển KH&CN được tiếp tục hoàn thiện
theo tinh thần đổi mới mạnh mẽ cơ chế, quản lý, tổ chức và hoạt động KH&CN.
Nhiều văn bản mang tính bản lề quan trọng được tập trung xây dựng và hoàn thành
trong 2 năm 2011 - 2012 tạo tiền đề pháp lý và kỹ thuật quan trọng và đồng bộ để
thực hiện các mục tiêu phát triển KH&CN129
. Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi)
đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 5 năm 2013.
Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ cấp nhà nước, Bộ, ngành và địa
phương bước đầu được tăng cường và đổi mới. Cơ chế quản lý và phương thức thực
hiện các nhiệm vụ KH&CN được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu đổi mới; xây dựng
các nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế đặt hàng, bước đầu tiến hành hỗ trợ việc đăng ký
quyền sở hữu trí tuệ, Quỹ phát triển KH&CN quốc gia áp dụng phương thức quản lý
mới trong việc tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ KH&CN...
Công tác chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang hoạt động theo cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm và hình thành doanh nghiệp KH&CN được tiển khai mạnh
(tính đến hệt năm 2012 đã có 267/585 tổ chức KH&CN của Bộ, ngành, địa phương
được phê duyệt phương án chuyển đổi)
- Tiềm lực và hạ tầng KH&CN tiếp tục được củng cố và phát triển
Nguồn lực tài chính cho KH&CN tiếp tục được đảm bảo 2% tổng chi ngân
sách nhà nước (tương đương 0,5 - 0,6% GDP), được phân bổ theo cơ cấu: 55% cho sự
nghiệp KH&CN và 45% cho đầu tư phát triển KH&CN. Đã hình thành các kênh tài
chính hỗ trợ cho các hoạt động KH&CN thông qua các Quỹ quốc gia về KH&CN
(Quỹ phát triển KH&CN quốc gia và Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia). Đã đổi mới
hệ thống tiêu chí phân bổ kinh phí KH&CN cho các địa phương.
Hệ thống các cơ sở nghiên cứu KH&CN tiếp tục phát triển, cả nước có hơn
1.600 tổ chức KH&CN, trong đó có tổ chức KH&CN ngoài công lập có xu hướng
ngày càng tăng so với các tổ chức công lập. Đã hình thành 2 Viện hàn lâm khoa học
129 Trong 2 năm 2011 - 2012 có 109 văn bản được ban hành, gồm 01 Nghị quyết TƯ, 31 văn bản do Quốc hội,
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành, 77 thông tư do Bộ trưởng và liên Bộ ban hành.
226
trên cơ sở 2 Viện khoa học quốc gia (Viện hàn lâm KHCN Việt Nam và Viện hàn lâm
KH&CN Việt Nam)
Nguồn nhân lực KH&CN được tiếp tục phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Đến đầu năm 2013 cả nước có khoảng 4,28 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại
học trở lên, trong đó 24,3 nghìn Tiến sỹ, 101 nghìn Thạc sỹ; tuổi bình quân là 38,5) là
lực lượng tiềm năng tham gia vào các hoạt động KH&CN
Đội ngũ nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của cả nước có
trên 62 nghìn người làm việc trong các tổ chức nghiên cứu và phát triển, trong đó số
nhân lực có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên có khoảng 50 nghìn người (trong đó
có gần 5 nghìn Tiến sỹ và trên 11 nghìn Thạc sỹ). Số cán bộ nghiên cứu và phát triển
đạt 7 người trên 1 vạn dân.
Hạ tầng kỹ thuật KH&CN và các khu công nghệ cao tiếp tục được xây dựng và
tăng cường. Đã hoàn thiện 15 phòng thí nghiệm trọng điểm. Ba khu công nghệ cao tại
Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng tiếp tục được quan tâm đầu tư xây dựng cà đưa
vào khai thác130
. Hạ tầng thông tin truyền thông KH&CN có bước phát triển về chất
trên cơ sở ứng dụng rộng rãi Internet, công nghệ số hóa và thư viện điện tử.
- Thị trường KH&CN có nhiều khởi sắc.
Thị trường KH&CN có nhiều khởi sắc với nhiều cấp (tỉnh, vùng, quốc gia và
quốc tế). Chợ Công nghệ và thiết vị quốc tế Việt Nam (tháng 9/2012) thu hút nhiều
đối tác từ các nước ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU, Liên bang Nga,
Israel... và hơn 500 đơn vị trong nước đã có 1.200 giao dịch được ký kết. Các
Techmart ảo năm 2012 thu hút gần 425 ngàn lượt truy cập. Tính chung trong 2 năm
2011 - 2012 đã có 7.144 giao dịch công nghệ với tổng giá trị hơn 4.000 tỷ đồng.
- Đã có một số kết quả KH&CN nổi bật.
Trong 2 năm 2011 - 2012 đã đạt được một số kết quả KH&CN nổi bật. Khoa
học xã hội và nhân văn tiếp tục cung cấp luận cứ cho việc hoạch định các chủ trương,
đường lối và chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước. Khoa học cơ bản tiếp tục thu
được những kết quả đáng ghi nhận trong một số lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh. Số
lượng song trình nghiên cứu có công bố và trích dẫn quốc tế năm 2011 là 1.556 và năm
2012 là 1.761 (năm 2012 tăng 13% so với năm 2011). Khoa học kỹ thuật và công nghệ
có bước phát triển mới: công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh ứng dụng ngày càng rộng
rãi (sản xuất vắc-xin phòng bệnh Vibriosis, vắc-xin cúm gà A-H5N1...); đã nghiên cứu
làm chủ và áp dụng nhiều công nghệ như: thiết kế, chế tạo hệ thống thủy công cho nhà
máy thủy điện công suất lơn, hệ thống thiết bị lọc bụi tĩnh điện cho nhà máy nhiệt điện
công suất 600 MW, dây truyền thiết sản xuất xi măng lò quay công suất 1 -2 triệu
tấn/năm... Nhiều tiến bộ KH&CN lĩnh vực y dược được ứng dụng thành công lần đầu ở
Việt Nam như nghiên cứu sử dụng tế bào gốc, ghép tim trên người lớn...
b. Các hạn chế, tồn tại
- Cơ chế, chính sách về khoa học - công nghệ còn bất cập
130
Tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc có 20 dự án đang hoạt động với kim ngạch xuất khẩu 87,6 triệu USD và 13
dự án đang triển khai xây dựng; khu CNC TP Hồ Chí Minh có 58 dự án được cấp giấy phép còn hiệu lực với
tổng vốn đầu tư 2.141,4 triệu USD. Khu CNC Đà Nẵng đã hoàn thành giải phóng mặt bằng và cấp giấy chứng
nhận đầu tư cho dự án đầu tiên
227
Công tác xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN các cấp
chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của doanh nghiệp. Việc
phân cấp quản lý và giao nhiệm vụ KH&CN chưa gắn với trách nhiệm của người
đứng đầu các Bộ, ngành, địa phương.
Chưa triển khai hiệu quả cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH&CN. Việc triển khai hệ
thống đánh giá KH&CN độc lập còn chậm.
Cơ chế cấp phát, thủ tục thanh quyết toán tài chính cho KH&CN còn nhiều bất
hợp lý, chưa đổi mới kịp thời, gây bức xúc cho cộng đồng KH&CN.
Việc chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chủ trách
nhiệm còn chậm, hiệu quả hoạt động sau chuyển đổi chưa cao.
Cơ chế chính sách thu hút, đãi ngộ, sử dụng cán bộ KH&CN còn mang nặng
tính bình quân, chưa tạo động lực cống hiến và phát huy năng lực sáng tạo của đội
ngũ trí thức KH&CN, nhất là người có trình độ cao, tài năng trẻ và người Việt Nam ở
nước nước ngoài.
- Tiềm lực KH&CN còn hạn chế
Hệ thống tổ chức KH&CN tuy có gia tăng về số lượng nhưng chưa được quy
hoạch thống nhất trong toàn quốc, phân bổ còn bất hợp lý giữa các vùng miền, hiệu
quả hoạt động chưa cao, còn chồng chéo chức năng, nhiệm vụ.
Đội ngũ nhân lực KH&CN tuy gia tăng về số lượng, nhưng chất lượng và năng
lực còn hạn chế, phân bổ và cơ cấu trình độ chưa hợp lý theo vùng miền và lĩnh vực
hoạt động; tình trạng hẫng hụt đội ngũ chưa được khắc phục
Cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng KH&CN còn thiếu, lạc hậu sử dụng chưa
hiệu quả. Các khu công nghệ cao còn chậm đi vào hoạt động do thiếu cơ chế đặc biệt
để thu hút đầu tư hoặc vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đặc biệt là ở Khu công
nghệ cao Hòa Lạc. Khu công nghệ cao Hòa Lạc và khu Công nghệ cao TP. Hồ Chí
Minh qua nhiều lần điều chỉnh quy hoạch và mô hình hoạt động nhưng đến nay nhìn
chung vẫn chưa trở thành các trung tâm KH&CN lớn của vùng, chưa có các kết quả
hoạt động thực sự nổi bật. Các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và khu công
nghệ thông tin tập trung chưa có quy hoạch, thiếu kết hợp với các vùng sản xuất tập
trung, quy mô hàng hóa lớn.
Hạ tầng thông tin KH&CN tuy có bước phát triển mạnh trong thời gian gần đây
nhưng chưa đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng của cộng đồng KH&CN và doanh
nghiệp. Công tác thống kê KH&CN chưa đáp ứng yêu cầu quản lý.
Đầu tư của xã hội cho KH&CN thấp, đầu tư từ ngân sách nhà nước còn dàn
trảu, phân tán, hiệu quả sử dụng chưa cao.
3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn
a. Các kết quả đạt được
- Công tác quy hoạch và xây dựng đề án phát triển kết cấu hạ tầng được triển
khai tích cực
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết số 13-NQ/TƯ,
các Bộ, ngành đã tích cực triển khai rà soat, điều chỉnh các quy hoạch phát triển kết
cấu hạ tầng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã có.
228
Về hạ tầng giao thông, đề án Điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, và điều chỉnh Quy hoạch phát triển giao
thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 202 và định hướng2030 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt; Đề án Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển giao thông vận
tải đường thủy nội địa đến năm 2020 và định hướng đến 2030 đã được Bộ Giao thông
vận tải phê duyệt. Các đề án Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển giao thông vận
tải đường sắt đến năm 2020 và định hướng đến 2030; Quy hoạch chi tiết đường sắt (khổ
1.435 mm) đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ; đề án Hiện đại hóa tuyến đường
sắt Bắc- Nam, Điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm
2020, định hướng đến năm 2030... đang được xây dựng và dự kiến được cấp có thẩm
quyền phê duyệt trong năm 2013.
Về hạ tầng cấp điện, quy hoạch phát triển điện lực giai đoạn 2011 - 2015, có
xét đến 2020 của 63 tỉnh/thành phố trong cả nước đã lập và được cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Đề án tổng thể “Cấp điện cho các thôn, bản chưa có điện giai đoạn 2011 -
2020” đang trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt. Chuẩn bị điều chỉnh, bổ
sung Quy hoạch điện 7 và dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt vào
năm 2014.
Về hạ tầng thủy lợi, đã thực hiện rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thủy
lợi trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng của các vùng, lưu vực song, quy
hoạch phòng chống ngập cho các thành phố lớn; quy hoạch hệ thống đê sông, đê biển
ứng phó với biến đổi khí hậu và kết hợp với giao thông. Đến nay, nhiều đề án, dự án
được lập và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như Quy hoạch tổng thể thủy lợi
vùng Đồng bằng song Cửu Long, Quy hoạch tổng thể thủy lợi vùng Đồng bằng song
Hồng và Quy hoạch tổng thể thủy lợi khu vực miền Trung trong điều kiện biến đổi khí
hậu, nước biển dâng; Quy hoạch thủy lợi chống ngập úng Thành phố Cần Thơ. Một số
đề án/dự án đang trong quá trình lập, thẩm định và phê duyệt như Quy hoạch tổng thể
thủy lợi vùng Đông Nam Bộ trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng; Điều
chỉnh quy hoạch đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam có tính tới biến đổi khí hậu
và kết hợp giao thông; Điều chỉnh quy hoạch phòng chống lũ và đê điều hệ thống
song Hồng - sông Thái Bình.
Một số đề án quan trọng về phát triển kết cấu hạ tầng được triển khai xây dựng.
Đề án Quy hoạch chung phát triển kết cấu hạ tầng cả nước đến năm 2020 và tầm nhìn
đến 2030, Đề án Khai thác nguồn lực tài chính từ đất và tài sản nhà nước phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, trong đó chủ yếu dành cho phát triển kết
cấu hạ tầng và Đề án thành lập Quỹ phát triển cơ sở hạ tầng (Quỹ đầu tư cơ sở hạ
tầng) đang được nghiên cứu và hoàn thiện.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư xây dựng theo hướng đồng
bộ, hiện đại, nhiều công trình trọng điểm được triển khai và hoàn thành
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế khi bước vào thực hiện Nghị
quyết Đại hội XI, các Bộ, ngành đã kịp thời rà soát, điều chỉnh kế hoạch, lập danh
mục các dự án tạm dừng, giãn tiến độ, ưu tiên dành vốn cho các dự án có khả năng
hoàn thành trong các năm 2011 - 2013, các dự án trọng điểm, cấp bách. Ngoài các dự
án sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính Phủ, ODA, nhiều công
trình được đầu tư xây dựng theo các hình thức BOT, PPP.
+ Một số công trình giao thông quan trọng được nâng cấp và hoàn thành, tạo
lập được sự kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và với quốc tế
229
Nhiều công trình giao thông quy mô lớn như các tuyến đường trục chính, cầu
lớn, sân bay đã được hoàn thành như: đường cao tốc TP Hồ Chú Minh - Trung Lương,
đường cao tốc Giẽ - Ninh Bình, QL 51 (mở rộng), cầu Bến Thủy II, đường vành đai 3
thành phố Hà Nội, cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải, nhà ga hành khách cảng hàng
không Đà Nẵng, cảng hàng không quốc tế Phú Quốc. Hàng loạt các công trình giao
thông trọng điểm có quy mô lớn đang được đẩy nhanh tiến độ thi công như: các tuyến
đường bộ cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Hà Nôi - Thái Nguyên, Hà Nôi - Hải Phòng,
Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Bến Lức - Long Thành, Đà Nẵng
- Quảng Ngãi, cảng cửa ngõ Hải Phòng (Lạch Huyện), nhà ga T2 Nội Bài...
Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, đến hết tháng 7/2013 đối
với các dự án quốc lộ 1 đã khởi công toàn bộ 17/17 dự án BOT, 6/18 dự án vốn trái
phiếu chính phủ; các dự án mở rộng đường Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên (Quốc lộ
14) đã khởi công 3/3 dự án BOT. Các dự án trái phiếu chính phủ còn lại để mở rộng
QL 1 và QL 14 sẽ được khởi công đồng loạt vào cuối quý III/2013. Phấn đấu đạt mục
tiêu hoàn thành mở rộng QL 1 và QL 14 vào năm 2016.
+ Nhiều công trình hạ tầng các đô thị lớn được đầu tư, tạo sự chuyển biến trong
phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị lớn
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị đã được quan tâm đầu tư, nhất là ở các thành
phố lớn. Nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị như giao thông, cấp nước, thoát
nước, chiếu sáng, cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn... được cải tạo, nâng cấp và
xây dựng mới.
Về giao thông đô thị, để cải thiện tình hình giao thông, các cầu vượt nhẹ,
đường trên cao được triển khai xây dựng tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều
cầu lớn đã hoàn thành hoặc đang triển khai xây dựng như cầu Nhật Tân (Hà Nội), cầu
Rồng, cầu Trần Thị Lý (Đà Nẵng), cầu Rào II, cầu Khuể (Hải Phòng). Để giải quyết
cơ bản tình trạng tắc nghẽn giao thông, tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đang
đầu tư phát triển giao thông vận tải khối lượng lớn như đường sắt đô thị (đã khởi công
một số dự án đường sắt đô thị như Hà Nội - Hà Đông, Nhổn - Ga Hà Nội tại Hà Nội,
Bến Thành - Suối Tiên tại thành phố Hồ Chí Minh), xe buýt nhanh (đã khởi công
chuyến BRT Kim Mã - Khuất Duy Tiến tại Hà Nội).
Mạng lưới hạ tầng cấp điện (mạng phân phối), hạ tầng thông tin, truyền thông
tại các đô thị được cải tạo một bước. Các hệ thống cáp truyền tải và phân phối điện,
mạng thông tin đã và đang được ngầm hóa, cải thiện đáng kể bộ mặt đô thị tại các
thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Đề án phát triển lưới điện thông
minh tại Việt Nam đã được triển khai thực hiện với mục tiêu ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống lưới điện trước hết tại các đô thị
lớn, nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Đã triển khai thực hiện các giải pháp chống ngập cho các đô thị lớn nhất là tại
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ. Kết quả chống ngập bước đầu đã giảm
đáng kể số điểm bị ngập và mức độ ngập.
Các dự án bảo vệ môi trường tại các đô thị được quan tâm đầu tư nhất là các khu xử
lý chất thải rắn, nghĩa trang, khu xử lý nước thải công nghiệp và đô thị...
+ Nhiều dự án hạ tầng năng lượng đã được đầu tư, tăng cười thêm năng lực cho
hệ thống năng lượng quốc gia
230
Nhiều dự án, công trình trọng điểm về nguồn và lưới điện được hoàn thành.
Đặc biệt là công trình thủy điện Sơn La lớn nhất Đông Nam Á công suất 2.400 MW
đã khánh thành tháng 12/2012, vượt trước thời hạn 3 năm so với Nghị quyết của Quốc
hội, đem lại hiểu quả kinh tế lớn cho đất nước. Đã đưa vào vận hành các tổ máy phát
điện của các nhà máy điện Đồng Nai 4, Kanak, Nhiệt điện Quảng Ninh 2. Khở công
nhà máy Nhiệt điện Ô Môn 1, Nhiệt điện Duyên Hải 3, Hoàn thành đóng điện 147
công trình lưới điện từ 110 - 500 KV với tổng dung lượng trạm biến áp tăng thêm trên
7.000 MVA, tổng chiều dài đường dây xây mới và cải tạo trên 2.000 km, tăng cường
năng lực truyền tải của toàn hệ t hống và khả năng cung ứng điện của lưới điện tại
nhiều khu vực. Đã khởi công 25 công trinh lưới điện 220-500 KV, trong đó có 8 công
trình lưới điện 500 KV.
Hoàn thành đầu tư và đưa vào vận hành 53 công trình dầu khí, trong đó có các
công trình quan trọng như: đưa vào khai tác 7 mỏ/công trình dầu khí mới; hoàn thành
đầu tư và đưua vào vận hành giàn khoan 90m nước; hạ thủy giàn khai thác mỏ Sư Tử
Trắng; hạ thủy khối lượng tầng giàn H4 Tê Giác Trắng, hạ thủy chân đế giàn Công
nghệ Trung tâm dự án biển Đông 1, hạ thủy thành công khối thượng tầng giàn xử lý
trung tâm mỏ Hải Thạch...
+ Hạ tầng thủy lợi được đầu tư góp phần quan trọng trong thúc đẩy phát triển
nông nghiệp, nông thôn
Trong các năm qua, hệ thống thủy lợi đã được tiếp tục đầu tư theo hướng đa
mục tiêu. Đến năm 2013 trên địa bàn cả nước có trên 900 hệ thống thủy lợi lớn và vừa
có quy mô diện tích phục vụ từ 200 ha trở lên. Các công trình thủy lợi đã phụ vụ tưới
trên 7 triệu ha diện tích gieo trông lúa, tăng 0,08 triệu ha so với năm 2010. Hàng năm
các công trình thủy lợi còn phục vụ tưới cho 1,5 triệu ha rau màu, cây công nghiệp;
tiêu nước cho trên 1,72 triệu ha đất nông nghiệp và cấp khoảng 6 tỷ m3
nước phục vụ
sinh hoạt và công nghiệp, tăng 3,35 tỷ m3 so với năm 2010.
Bằng nguồn vốn ODA, đã hoàn thành dự án thủy lợi lưu vực sông Hồng giai
đoạn 2 (ADB3), Dự án hỗ trợ thủy lợi Việt Nam (WB3), dự án thủy lợi miền Trung
(ADB4) và đang tiếp tục triển khai các dự án tăng cường Quản lý thủy lợi và Cải tạo
các hệ thống thủy nông (ADB5), Quản lý thủy lợi phục vụ phát triển nông thôn Đồng
bằng sông Cửu Long (WB6), Nâng cấp hệ thống thủy lợi Bắc Nghệ An (JICA2).
Nhiều công trình, dự án trọng điểm đa mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế, chủ
động phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu được đầu tư như: công
trình đầu mối hồ chứa nước Cửa Đạt (tỉnh Thanh Hóa), hồ chứa nước Phước Hòa
(Bình Phước) và tiếp tục thực hiện đầu tư Công trình hồ Tả Trạch, Ngàn Trươi - Cẩm
Trang, Bản Mồng; Hệ thống Kênh trục sông Nghèn (Vùng Bắc Trung bộ); Hệ thống
tưới Văn Phong, hồ Nước Trong; Hệ thống thủy lợi Tân Mỹ, Tà Pao, dự án tuosi Phan
Rí - Phan Thiết (vùng Nam Trung Bộ); hồ KRoong Buk hạ, KRoong Pach thượng, Ia
Mơ (vùng Tây Nguyên); hệ thống thủy lợi sông Ray, dự án Phước Hòa - giai đoạn 2
(Vùng Đông Nam Bộ); hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre, dụ án Bảo Định giai đoạn 2; hệ
thống công trình phân ranh mặn ngọt tỉnh Sóc Trăng - Bạc Liêu (vùng Đồng bằng
sông Cửu Long)
Một số công trình thủy lợi phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp
được ưu tiên bố trí vốn để khởi công mới như 03 công trình thủy lợi phục vụ nuôi
trồng thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng
thủy sản Đồng Đon, cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm xã Long Điền Đông - Long Điền
231
Tay và hệ thống thủy lợi phục vụ nuổi trồng thủy sản Tân Duyệt). Đã đầu tư 05 dự án
thủy lợi phục vụ sản xuất muối ở các tỉnh Bạc Liêu, Thanh Hóa, Quảng Bình, Ninh
Thuận và Sóc Trăng. Đến nay, dự án nâng cấp hệ thống thủy lợi muối xã Long Điền
Tay (Bạc Liêu) và dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng đồng muối Hải Hòa, huyện Hậu Lộc
(Thanh Hóa) đã cơ bản hoàn thành.
Hệ thống đê điều tiếp tục được đầu tư nâng cấp, các hệ thống phòng chống lũ hiện
có: 5.700 km đê sông (trong đó có trên 2.400km đê từ cấp III đến cấp đặc biệt).
+ Hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin được xây dựng rộng khắp, hiện
đại, hạ tầng viễn thông đã có bước phát triển vượt bậc
Hạ tầng viễn thông không ngừng được hiện đại hóa, đồng bộ, đạt chuẩn quốc tế
với độ bao phủ rộng khắp cả nước, chất lượng mạng tốt, dung lượng cao và ngày càng
đáp ứng tốt hơn nhu cầu người sử dụng, góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế, giúp
Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế, đảm bảo an ninh, quốc phòng và phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mạng truyền dẫn cáp quang đã phát
triển đến các huyện và đã sẵn sang phục vụ cho tuyến xã. Hạ tầng băng thông rộng
tăng trưởng nhanh chóng, phục vụ ADSL có mặt trên khắp 63 tỉnh, thành phố. Mạng
truyền số liệu chuyên dụng đã cung cấp kết nối đến các cơ quan Đảng, Nhà nước tại
Trung ương, các Bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thành ủy,
các Sở, ban, ngành, quận huyện trên toàn quốc. Tổng số điểm kết nối trên toàn quốc là
4.104 điểm, trong đó 2.967 điểm đã được sử dụng (chiếm tỷ lệ 72,3%). Vệ tinh
Vinasat - 2 đã phóng thành công ngày 16/5/2012, cùng với Vinasat - 1 đã góp phần
hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng thông tin truyền thông quốc gia, đưa
thông tin đến tất cả các vùng sâu, vùng xa, biên giới, miền núi và hải đảo, hỗ trợ hiệu
quả cho công tác quốc phòng, an ninh, phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai.
b. Các hạn chế, tồn tại
- Công tác quy hoạch, dự báo vẫn còn hạn chế, yếu kém
Trong việc điều chỉnh các quy hoạch, công tác dự báo còn hạn chế, đặc biệt là
các dự báo vĩ mô. Vốn đầu tư, các chính sách chung và giá cả thị trường còn nhiều
biến động (một phần do tác động của khủng hoảng thế giới thời gian qua) làm cho quá
trình triển khai các quy hoạch gặp khó khăn.
- Huy động các nguồn lực cho kết cấu hạ tầng chưa được nhiều, dẫn đến hệ
thống kết cấu hạ tầng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ
Do nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng không đạt mục tiêu đề
ra, nên nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
còn hạn chế. Ngoài ra để tránh dẫn đến khủng hoảng nợ công, nguồn vốn trái phiếu
chính phủ cũng được kiểm soát ở mức hợp lý. Việc huy động vốn ngoài ngân sách nhà
nước gặp nhiều khó khăn do các dự án kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông,
thường có tổng mức đầu tư lớn trong khi năng lực tài chính của các doanh nghiệp và
nhà đầu tư còn hạn chế.
Hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mạng lưới giao thông chưa kết nối
giữa các loại đường, giữa đường với cảng, giữa các vùng, nên chưa có khả năng phát
triển vận tải đa phương thức. Cung ứng điện co bản đáp ứng cho phát triển kinh tế - xã
hội nhưng hệ thống điện vận hành hầu như chưa có dự phòng, tiêu hao điện còn cao.
Công nghệ của hệ thống các nhà máy điện chỉ đạt trình độ trung bình so với trình độ
232
công nghệ của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Do thiếu vốn đầu tư
hoàn thiện cho các công trình lưới điện nên dẫn đến tình trạng quá tải đường dây và
trạm biến áp xảy ra ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, tập trung chủ yếu là miền Bắc và
miền Nam nơi có phụ tải tập trung cao. Tuy mạng viễn thông đã phát triển đến tất cả
các tỉnh, thành trên cả nước nhưng độ phủ của mạng không đồng đều, đặc biệt là tại
các địa điểm vùng sâu, vùng xa; mạng thông tin di động sóng kém, còn nhiều vùng
lõm sóng, mất sóng. Việc đảm bảo an toàn, an ninh mạng chưa cao, tối ưu hóa mạng
lưới còn thấp, các nhà khai thác, cung cấp dịch vụ chưa thực sự bắt tay sử dụng chung
cơ sở hạ tầng.
Hạ tầng đô thị thiếu đồng bộ, kém chất lượng và quá tải. Ùn tắc giao thông tại
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chưa khắc phục được triệt để, còn xảy ra vào giờ
cao điểm. Mạng lưới giao thông đô thị phát triển thiếu quy hoạch, vận tải bánh sắt
khối lượng lớn kịp triển khai, vận tải hành khách công cộng chủ yếu bằng xe buýt nên
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại.
Nhiều công trình thủy lợi xuống cấp, hệ thống kênh mương chưa đồng bộ, hệ
thống công trình nội đồng còn thiếu. Nhìn chung, hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn và chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông thôn. Đầu tư thủy lợi vẫn tập trung nhiều cho cây lúa, còn cây ăn quả, cây công
nghiệp và nuôi trồng thủy sản chưa được đầu tư đúng mức. Hệ thống đê điều đã được
đầu tư khá lớn nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, nhiều đoạn đê chưa đảm bảo tiêu
chuẩn thiết kế, hàng năm phải tu bổ khá lớn, hệ thống đê biển được củng cố nhưng
chưa đảm bảo tiến độ theo yêu cầu.
4. Đánh giá tổng quát
4.1 Các kết quả đạt được
Trong thời gian gần 3 năm qua, đất nước đã chủ động tranh thủ thời cơ, thuận
lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để thực hiện các mục tiêu chủ yếu về phát
triển kinh tế - xã hội của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, kết luận của Hội nghị
Trung ương 3, các Nghị quyết của Quốc hội và đã đạt được một số kết quả nhất định:
- Kinh tế vĩ mô từng bước ổn định (lạm phát giảm, kiểm soát ở mức 7%, mặt
bằng lãi suất huy động và cho vay giảm; tỷ giá về cơ bản ổn định; thị trường ngoại tệ
tự do bị thu hẹp; dự trữ ngoại hối nhà nước tăng mạnh...)
- An sinh xã hội được bảo đảm (tạo việc làm mới cho 1,5 - 1,6 triệu lao động
hàng năm, hệ thống bảo hiểm xã hội phát triển đồng bộ, đa dạng, số người tham gia
bảo hiểm xã hội được mở rộng, công tác giảm nghèo được triển khai tích cực, giảm tỷ
lệ hộ nghèo bình quân trên 2%/năm...)
- Tăng trưởng kinh tế được duy trì (tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ 6,24%
năm 2011 xuống 5,25% năm 2012 nhưng dự kiến đến năm 2013 tăng 5,3 - 5,5%; các
năm 2014 - 2015 tiếp tục tăng cao hơn)
- Các nhiệm vụ đột phá chiến lược được triển khai tích cực và đã có một số kết
quả bước đầu.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn
thiện (hệ thống văn bản liên quan đến thể chế kinh tế tiếp tục được bổ sung, tiếp tục
thực hiện chủ trương điều chỉnh giá các loại hàng hóa quan trọng như điện, xăng dầu,
than... và các dịch vụ công về giáo dục, y tế theo cơ chế thị trường với lộ trình phù
233
hợp; tăng cường thể chế phục vụ hội nhập quốc tế, cải cách hành chính có bước
tiến...). Công tác phát triển nguồn nhân lực được quan tâm, từng bước hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách về giáo dục đào tạo và khoa học - công
nghệ; bước đầu thử nghiệm thành công một số giải pháp quản lý giáo dục - đào tạo,
đã có một số kết quả khoa học và công nghệ nổi bật, nhất là trong nông nghiệp, y tế,
xây dựng công trình... Chú trọng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhiều
công trình giao thông quy mô lớn như các tuyến đường trục chính (cao tốc, quốc lộ),
cầu lớn, sân bay đã được hoàn thành.
Đạt được những thành tựu trên là nhờ có sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng
động, sáng tạo của toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là sự chỉ đạo, điều hành của Nhà nước.
4.2 Những hạn chế, tồn tại
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế bao gồm:
- Tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra (do chủ động ưu tiên nhiệm vụ
kiềm chế lạm phát, ổn dịnh kinh tế vĩ mô, thắt chặt tín dụng, giảm tỷ lệ đầu tư nên tốc
độ tăng trưởng 3 năm 2011 - 2013 thấp và khả năng hông đạt mục tiêu đề ra trong
Nghị quyết cho giai đoạn 2011 - 2015)
- Kinh tế phát triển chưa bền vũng, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn (nguy
cơ lạm phát tăng trở lại vẫn còn, dư nợ tín dụng thấp; doanh nghiệp khó tiếp cận được
nguồn vốn, thị trường bất động sản đình trệ, chưa có khả năng phục hổi, nợ xấu xử lý
còn chậm, khả năng kéo dài...); chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn thấp và chưa được cải thiện; các cân đối kinh tế vĩ mô chưa
thật vững chắc.
- Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển còn hạn chế. Tỷ lệ
huy động NSNN trên GDP và tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so GDP đạt thấp so với kế
hoạch đề ra. Nếu không có các đột phá về thể chế thì việc thu hút đầu tư từ khu vực tư
nhân và đầu tư nước ngoài sẽ rất khó khăn.
- Tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm, chưa đáp
ứng yêu cầu. Tiến độ sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước
chậm. Về tái cơ cấu đầu tư công, do trước đây phê duyệt nhiều dự án quá khả năng
cân đối vốn nên hiện nay vẫn chưa xử lý xong, nhất là khu vực địa phương quản lý...
Quá trình cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém gặp phải một số khó khăn, vướng mắc do
không có đủ nguồn lực để hỗ trợ tài chính, khuôn khổ pháp lý cho việc cơ cấu lại các
tổ chức tín dụng chưa hoàn chỉnh và vấn đề lợi ích nhóm trong các ngân hàng thương
mại cổ phần.
- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt còn nhiều bức
xúc. Công tác giải quyết việc làm vẫn còn hạn chế. Thị trường lao động phát triển vẫn
chưa đồng bộ. Một bộ phận người lao động còn thiếu việc làm hoặc việc làm không
ổn định. Tranh chấp lao động, đình công diễn biến phức tạp. Công tác bảo đảm an
sinh xã hội và giảm nghèo còn bất cập. Kết quả giảm nghèo vẫn chưa bền vững,
khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn. Chăm sóc sức khỏe
nhân dân chậm được cải thiện. Tình trạng quá tải bệnh viện chậm được khắc phục.
Quản lý giá thuốc và dịch vụ y tế chưa tốt. Việc xây dựng nền Văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc còn nhiều hạn chế.
234
- Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện. Ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng vẫn xảy ra ở một số khu, cụm công nghiệp, làng nghề, do hoạt động
khai thác khoáng sản. tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn, chất thải y tế, nước thải
sinh hoạt và công nghiệp đúng quy chuẩn còn thấp.
4.3 Nguyên nhân và những vấn đề rút ra sau 3 năm thực hiện Nghị quyết
Những hạn chế, yếu kém trên đây do cả nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Ngoài những vấn đề phát
sinh mới trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, những mặt
yếu kém vốn có của nền kinh tế vốn đã tồn tại từ nhiều năm trước chưa được giải
quyết đã bộc lộ ra một cách rõ rang, gay gắt hơn trước. Mục tiêu Nghị quyết Đại hội
XI được đưa ra chưa lường được các ảnh hưởng xấu của bối cảnh trong nước và quốc
tế.
Một trong các nguyên nhân quan trọng là cải cách thể chế tiến hành chậm và
chưa đạt được nhiều kết quả. Hế thống pháp luật và quản lý nhà nước trên một số lĩnh
vực còn bất cập. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều hạn chế. Tổ
chức thực hiện còn nhiều yếu kém, chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải
quyết có hiệu quả những khâu đột phá và những vấn đề xã hội bức xúc. Kỷ luật, kỷ
cương chưa nghiêm. Việc giải quyết những mặt yếu kém tồn đọng này đòi hỏi phải có
sự tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về tư duy phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh thế
giới mới.
Sau 3 năm thực hiện có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành cần bám sát tình hình thực tiễn; chủ
động, kịp thời điều chỉnh mục tiêu và điều hành linh hoạt. do nhận thấy bối cảnh quốc
tế không thuận lơi, tình hình trong nước có những khó khăn lớn, Trung ương Đang,
Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo kịp thời chuyển mục tiêu từ “phát triển kinh tế nhanh”
sang “ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, suy trì tăng trưởng ở mức hợp
lý; bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội”. Nhờ đó, kinh tế vĩ mô dần đi vào ổn
định, an sinh xã hội được bảo đảm, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ
vũng, chuẩn bị các điều kiện cho kinh tế tăng trưởng cao hơn ở các năm tiếp theo.
- Trong tình hình kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế
không cao, tốc dộ thu ngân sách nhà nước giảm vẫn cần tập trung các nguồn lực cho
công tác an sinh xã hội, nhờ đó công tác giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, chăm sóc
người có công, giải quyết việc làm... vẫn đạt được nhiều kết quả, góp phần ổn định xã
hội và có tác động hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khó khăn.
III. Định hƣớng một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc thực hiện các đột
phá chiến lƣợc
1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản liên quan đến thể chế kinh tế,
tập trung nghiên cứu và trình Quốc hội thông qua sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật
Đất đai (sửa đổi) và một số luật quan trọng liên quan trực tiếp đến tái cơ cấu kinh tế
như: Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi); Luật
Đầu tư (dửa đổi); Luật Doanh nghiệp (sửa đổi); Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước
đầu tư vào sản xuất, kinh doanh; Luật Xây dựng (sửa đổi)...
235
Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương điều chỉnh giá các loại hàng hóa quan
trọng như điện, xăng dầu, than,... và các dịch vụ công về giáo dục, y tế theo cơ chế thị
trường theo lộ trình phù hợp... Tập trung hoàn thành đàm phán một số hiệp định để
mở rộng hội nhập quốc tế như Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TTP), các hiệp định tự do đa phương và song phương khác.
Tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành
chính giai đoạn 2011 - 2020, tập trung vào đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận
ợi cho doanh nghiệp và nhân dân. Tích cực triển khai Đề án cải cách chế độ công vụ,
công chức; tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ. Cụ thể hóa các
mục tiêu về xây dựng Chính phủ điện tử trong mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước và xây
dựng kế hoạch triển khai thiết kế lập hệ thống thông tin kết nối bộ, ngành, địa phương,
đẩy mạnh mô hình một cửa.
2. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ
- Về phát triển giáo dục đào tạo:
Tiếp tục chuyển mạnh sang mô hình phát triển giáo dục và đào tạo dựa vào
chất lượng. Đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục, huy dộng ngày càng tăng và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Tiếp tục thực hiện chính sách tín
dụng dành cho học sinh, sinh viên. Đẩy nhanh tiến độ kiên cố hóa trường lớp học nhất
là ở vùng sâu, vùng xa, xây dựng ký túc xá sinh viên, nhà công vụ giáo viên và đầu tư
xây dựng giảng đường một số trường đại học lớn.
Tập trung triển khai thực hiện Luật giáo dục đại học, Chiến lược phát triển giáo
dục. Đẩy mạnh thực hiện xã hội học tập; chấn chỉnh tình trạng dạy thêm, học thêm,
liên kết đào tạo; nâng cao chất lượng giáo dục đại học, nhất là đại học ngoài công lập.
Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, nhất là giáo dục tiểu học, phổ thông cơ sở.
Tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống dạy nghề đáp ưng nhu cầu thị trường lao
động; phát triển nhanh về quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy nghề
theo 3 cấp trình độ. Tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý và nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo.
- Về phát triển khoa học công nghệ:
Tập trung thực hiện Nghị quyết số 20 - NQ/TW ngày 31/10/2012 của Hội nghị
Trung ương 6 (Khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020 và các chương trình quốc gia về khoa học và
công nghệ. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động
khoa học và công nghệ. Phát triển dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám định công nghệ và
thị trường khoa học công nghệ. Tăng cường quản lý bảo hộ sở hữu trí tuệ
Tiếp tục đầu tư và phát huy hiệu quả các khu công nghệ cao, vườn ươm công
nghệ. Có cơ chế, chính sách thu hút mạng các dự án đầu tư nghiên cứu và phát triển
các sản phẩm công nghệ cao. Phát triển mạnh dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám định
công nghệ và thị trường khoa học công nghệ. Tăng cường quản lý bảo hộ sở hữu trí
236
tuệ. Ban hành các chính sách thuế phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.
3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại, tập trung và hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn
Tập trung nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và hoàn thành dứt điểm các
công trình, dự án dở dang. Không khở công mới các công trình, dự án chưa thực sự cấp
bách. Sớm hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư theo mô hình hợp tác công - tư (PPP)
theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế cho các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thành các đoạn tuyến đường bộ cao tốc Hà Nôi - Hải
Phòng (dự kiến hoàn thành vào năm 2015); Hà Nội - Thái Nguyên; Hà Nôi - Lào Cai (dự
kiến hoàn thành vào cuối năm 2014); Bến Lức - Long Thành; Thành phố Hồ Chí Minh -
Long Thành - Dầu Giây (dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2014)...
Tiếp tục đầu tư nâng cấp, mở rộng quốc lộ 1 - đoạn Hà Nội - Cần Thơ (phấn
đấu hoành thành nâng cấp, cải tạo toàn tuyến vào năm 2016), quốc lộ 13 đoạn qua Tây
Nguyên, Nhà ga hành khách Quốc tế (Nhà ga T2) - Cảng HKQT Nôi Bài; tuyến
đường sắt Yên Viên - Hạ Long - Cái Lân, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông
(Hà Nội), tuyến đường Bến Thành - Suối Tiên (Thành phố Hồ Chí Minh); cảng cửa
ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng).
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các trung tâm điện lực, các dự án chống ngập các
đô thị lớn, các công trình thủy lợi phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hạ
tầng viễn thông...
237
TỔNG QUAN VỀ CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƢỢC
TẠI VIỆT NAM
TS. Bùi Văn Thạch
Phó trƣởng Ban Kinh tế Trung ƣơng
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược
giai đoạn 2011 - 2020 là: “(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành
chính; (2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn
kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ; (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn”131
.
Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã hội, trọng tâm là
thực hiện ba khâu đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng đã được triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện tương đối
khẩn trương từ Trung ương đến địa phương, cụ thể :
1- Về triển khai, quán triệt và thể chế hóa ba khâu đột phá chiến
lƣợc
- Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XI đã giành nhiều kỳ họp thảo
luận các đề án khác nhau cụ thể hóa nhiệm vụ thực hiện ba khâu đột phá chiến
lược, đã ban hành nhiều nghị quyết và kết luận như : Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 4 “Về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” và tại Hội nghị
Trung ương lần thứ 6 đã ban hành Nghị quyết “Về tiếp tục Đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”, Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Kết luận “Tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, Kết luận về “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”...
- Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về “Đẩy mạnh thực
hiện các đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng kinh tế” được Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành triển khai thực
hiện tương đối quyết liệt thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị, các chương trình
131 Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. NXB Chính trị quốc gia, 2011, trang 106.
238
hành động trong việc thực hiện các nội dung của ba khâu đột phá chiến lược thể
hiện trong các giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách hàng năm. Ngoài ra, các cơ quan nhà
nước đã ban hành một loạt văn bản liên quan đến thực hiện ba khâu đột phá
chiến lược132
.
- Đồng thời, Đảng bộ, chính quyền các tỉnh và thành phố trực thuộc
trung ương đều có nghị quyết, kết luận, chương trình hành động của mình để
thực hiện nghị quyết, chỉ thị, kết luận, chương trình của Đảng, Quốc hội,
Chính phủ về thực hiện chủ trương, giải pháp thực hiện ba khâu đột phá
chiến lược ở địa phương mình, cho thấy trong gần 3 năm qua việc quán triệt,
triển khai thực hiện ba khâu đột phá chiến lược đã đạt được một số kết quả
bước đầu quan trọng.
2- Khái quát về kết quả thực hiện ba khâu đột phá chiến lƣợc
Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã hội gần 3
năm qua, diễn ra trong tình hình quốc tế và khủng hoảng kinh tế, tài chính thế
giới diễn biến phức tạp hơn so với dự báo, tình hình kinh tế trong nước đã có
nhiều dấu hiệu bất ổn, những yếu kém vốn có của nền kinh tế dồn tích lại từ
nhiều năm chưa được giải quyết đã bộc lộ một cách rõ ràng, gay gắt đã buộc
chúng ta phải kịp thời chuyển nhiệm vụ trọng tâm sang ưu tiên ổn định kinh tế
vĩ mô, kiềm chế lạm phát và bảo đảm an sinh xã hội, không đặt nặng mục tiêu
tăng trưởng kinh tế là một “phản ứng chính sách” kịp thời, đúng đắn, có ý nghĩa
định hướng rất cơ bản và quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đưa
đất nước từng bước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và
đã đạt được một số kết quả nhất định. Trong đó việc thực hiện ba khâu đột phá
chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng tuy đã đạt
được kết quả bước đầu nhưng vẫn còn nhiều khuyết điểm, yếu kém, cụ thể là:
(a) Đột phá về thể chế:
Hệ thống văn bản liên quan đến thể chế kinh tế tiếp tục được bổ sung,
hoàn thiện. Công tác sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đang được triển khai và đề
cập đến nhiều nội dung liên quan đến việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta133
... Trong các năm 2011-2013, Quốc
hội đã thông qua 35 luật, trong đó có nhiều luật, văn bản liên quan đến hoàn
thiện thể chế kinh tế. Các chính sách thúc đẩy quá trình thị trường hóa như giá
132 Luật Giáo dục Đại học được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 3 ngày 18/6/2012; Chương trình
tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020 ban hành theo Quyết định số 30c/NQ-CP ngày
8/11/2011 của Chính phủ; Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011; Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn
2011- 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012; Chiến lược
phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (điều chỉnh) và Chiến lược phát triển giao
thông đường bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (điều chỉnh) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
các Quyết định số 355/QĐ-TTg và số 356/QĐ-TTg ngày 25/2/2013….
133 Như tổ chức bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương, xác định vai trò của các thành phần kinh tế.
239
các loại hàng hóa quan trọng (điện, xăng dầu, than...) và các dịch vụ công về
giáo dục, y tế…, từng bước thực hiện theo cơ chế thị trường. Cải cách hành
chính có bước tiến đáng kể. Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục được
quan tâm chỉ đạo gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI)
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Việc tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh
tế trong nền kinh tế tuy đã đạt được kết quả bước đầu, song sự phân biệt đối xử
vẫn tồn tại một cách dai dẳng khó xoá bỏ ở nhiều cấp độ đang là rào cản lớn đối
với phát triển nói chung. Những căn bệnh cũ của nền hành chính nhà nước vẫn
chưa được khắc phục một cách cơ bản đã và đang gây nhiều bức xúc xã hội cản
trở mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Hơn nữa, những yếu kém kéo dài
này gắn liền với tệ lãng phí, tham nhũng là một trong những nguyên nhân làm
mất lòng tin với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của Nhà nước.
(b) Đột phá về phát triển nguồn nhân lực:
Lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật và chiến lược, quy hoạch như Luật giáo dục đại học năm 2012,
Chiến lược phát triển nhân lực, Chiến lược giáo dục, Chiến lược dạy nghề, Quy
hoạch phát triển nhân lực… Nhiều chương trình thử nghiệm về nội dung và giải
pháp quản lý giáo dục được tổ chức thành công. Lĩnh vực khoa học và công
nghệ có nhiều khởi sắc. Hệ thống chính sách, pháp luật về khoa học và công
nghệ (KH&CN) được tiếp tục hoàn thiện theo tinh thần đổi mới mạnh mẽ cơ chế
quản lý, tổ chức và hoạt động KH&CN. Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 về
Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 6 về đổi mới khoa học và công nghệ
đi vào cuộc sống chậm; giáo dục - đào tạo vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng
đầu, chưa trở thành động lực quan trọng nhất cho phát triển. Nhiều hạn chế, yếu
kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban
Chấp hành trung ương Đảng khóa VIII vẫn chưa được khắc phục cơ bản, thậm
chí có mặt lại nặng nề hơn: chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp; mâu thuẫn
giữa tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo có xu hướng ngày càng trầm
trọng; nội dung giáo dục nặng về lý thuyết, chưa gắn với thực tế, nặng về dạy
chữ chưa chú trọng dạy người; phương pháp dạy và học chậm được đổi mới,
chưa thực sự hướng tới phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học; bất
bình đẳng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục - đào tạo có xu hướng gia tăng…
(c) Đột phá về kết cấu hạ tầng:
Từ nhiều năm nay, hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư xây
dựng theo hướng đồng bộ, hiện đại, nhiều công trình trọng điểm được triển khai
và hoàn thành. Đầu tư phát triển hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị luôn
được xác định là một trong những mục tiêu ưu tiên. Một số công trình giao
240
thông quan trọng được ưu tiên đầu tư nâng cấp và hoàn thành, tạo lập được sự
kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và với quốc tế, tại các đô thị lớn.
Ngoài nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương,
chính sách huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước dưới nhiều hình
thức khác nhau cho mục tiêu ưu tiên này.
Tuy nhiên, hệ thống kết cấu hạ tầng của nước ta vẫn thấp xa so với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là cản trở lớn của sự phát triển. So
với các nước tiên tiến trong khu vực, hệ thống giao thông của Việt Nam chỉ ở
mức dưới trung bình, tiêu chuẩn kỹ thuật ở mức thấp và lạc hậu; chưa bảo đảm
sự liên kết giữa các tuyến đường và các tuyến nối cảng biển, cảng hàng không,
cửa khẩu quốc tế; mạng đường sắt còn lạc hậu, mạng đường cao tốc còn sơ
khai.. Ngoài khó khăn về vốn đầu tư, hầu như tất cả các dự án phát triển giao
thông đều gặp khó khăn trong giải phóng, làm chậm trễ tiến độ thi công.
Hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, tại các đô thị lớn không theo kịp tốc
độ đô thị hóa nhanh, đang tồn tại nhiều bất cập cản trở phát triển kinh tế và bảo
đảm chất lượng cuộc sống của dân cư, trong đó nổi bật là hạ tầng giao thông,
cấp thoát nước và trường học các cấp. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô
thị lớn có xu hướng gia tăng.
(d) Nhận xét chung, Trong điều kiện phải tập trung xử lý các bất ổn của
kinh tế vĩ mô, cố gắng đảm bảo an sinh xã hội, nguồn thu ngân sách hạn hẹp do
tăng trưởng kinh tế thấp, cùng với những khó khăn, suy giảm trong sản xuất
kinh doanh…thì những kết quả đạt được trong thực hiện ba khâu đột phá chiến
lược là một cố gắng lớn, sẽ là không thực tế nếu đòi hỏi sau một thời gian ngắn
triển khai thực hiện ba nhiệm vụ trọng yếu này có thể có được những thay đổi
cơ bản. Tuy nhiên, chúng ta chưa có những đổi mới về tư duy, quan điểm phát
triển trong xây dựng và triển khai ba đột phá chiến lược. Tuy đã có nhiều cố
gắng xây dựng và sửa đổi hệ thống pháp luật, nhưng về cơ bản vẫn nằm trong
khung tư duy và quan điểm hiện nay, nên chỉ có tác dụng bổ sung cho đồng bộ
hơn, chưa có đột phá nào đáng kể. Mục tiêu sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực,
tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và nâng cao sức cạnh tranh chưa có nhiều
tiến bộ. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học và
công nghệ vẫn chưa có chuyển biến rõ nét, tác dụng rất hạn chế. Giáo dục và
đào tạo còn lúng túng trong đổi mới, chưa có chuyển biến đáng kể. Chưa có
những biện pháp quyết liệt nhằm nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ
quản lý, công chức cũng như cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút, sử dụng
nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng kết cấu hạ tầng, tuy đã đầu tư nhiều
nhưng còn rất bất cập về nhu cầu và khả năng, hiệu quả còn thấp.
3- Dự báo bối cảnh tình hình và định hƣớng chính sách
Trong một số năm tới, tình hình kinh tế thế giới chưa thể có những
chuyển biến mạnh, vẫn còn nhiều khó khăn trong ổn định kinh tế vĩ mô toàn
cầu. Các nền kinh tế phục hồi chậm, chưa bền vững, những biện pháp tái cấu
trúc nền kinh tế chưa đủ mức để tạo ra các nguồn lực tăng trưởng mới. Các biện
pháp kích thích kinh tế thường áp dụng như nới lỏng tiền tệ, tăng chi tiêu công
241
đều đã đến giới hạn. Động lực tăng trưởng của nền kinh tế thế giới là các nền
kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ… tốc độ tăng trưởng đã chậm lại, đồng
nội tệ mất giá và nguy cơ lạm phát trước khả năng dòng vốn tư nhân chảy
ngược lại các nền kinh tế phát triển. Các nguồn nguyên liệu chủ yếu của thế giới
dần cạn kiệt, giá dầu biến động cùng với sự bất ổn chính trị tại Trung Đông và
tranh chấp biển đảo tại Đông Nam Á... Bối cảnh tình hình thế giới như vậy sẽ
tác động tiêu cực không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, xét về dài hạn,
dự báo kinh tế thế giới sẽ được cải thiện đáng kể do các nền kinh tế lớn, mới nổi
vẫn đang tăng cường sử dụng các gói kích thích kinh tế cũng như đẩy mạnh tiến
trình tái cấu trúc nền kinh tế nhằm đối phó với tình trạng suy giảm kinh tế toàn
cầu và thúc đẩy tăng trưởng. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện ba
khâu đột phá chiến lược phải đặt trong sự kết hợp chặt chẽ với thực hiện nhiệm
vụ tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đề nghị trong thời
gian tới cần :
(a) Tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và phục hồi tăng trưởng
Cần tập trung lựa chọn xây dựng một một số chủ trương, giải pháp chính
sách đủ mạnh để phục hồi kinh tế, khôi phục niềm tin cho thị trường. Chính
sách chủ đạo chính là thực hiện chính sách "lạm phát mục tiêu", với mức tăng
trưởng CPI khoảng 7% mỗi năm cho 3 năm 2013-2015 như dự kiến của Chính
phủ (có thể dưới 5% cho các năm tiếp theo) và đặt mục tiêu tăng trưởng hợp lý
bằng khoảng 6% cho giai đoạn 2014-2015.
Chính sách tài khóa và tiền tệ phải phục vụ cho mục tiêu huy động tổng
đầu tư toàn xã hội khoảng 31-32% GDP trong 2 năm tới. Trước mắt trong hai
năm 2013 và 2014, cần mạnh dạn tăng đầu tư công dưới nhiều hình thức để kích
thích tổng cầu. Cân nhắc nâng mức bội chi ngân sách ở tỷ lệ hợp lý và phát
hành thêm trái phiếu chính phủ nhằm tập trung đầu tư cho các công trình trọng
điểm về giao thông, thủy lợi và bệnh viện. Sử dụng một phần thích đáng chi đầu
tư công để tham gia các dự án PPP, vốn đối ứng ODA (còn rất lớn nhưng chưa
giải ngân được do thiếu vốn đối ứng) và kinh phí giải phóng mặt bằng.
Tiếp tục đẩy nhanh việc thực hiện Nghị quyết 02 của Chính phủ, Nghị
quyết của Quốc hội, nghiên cứu kéo dài thời gian áp dụng, bổ sung giải pháp
mới để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường. Tăng cường huy
động các nguồn lực và sự đồng thuận của toàn xã hội để phục hồi nền kinh tế.
Nguồn lực vốn sẽ kích cả cung và cầu, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển và
tạo việc làm, nhưng quan trọng nhất là phải đủ mức độ và liều lượng cần thiết.
Cần chú trọng đầu tư nguồn lực để kích vào khu vực kinh tế thực, nhất là vào
khu vực “tam nông”. Nhà nước cần có vốn mồi, vốn đối ứng nhằm tạo khả năng
thu hút đầu tư, cứu các doanh nghiệp có tiềm năng phục hồi, phát triển.
(b) Về các đột phá chiến lược
Có giải pháp quyết liệt để đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế, khơi thông
những nút thắt thể chế để phục hồi tăng trưởng. Cần coi đột phá về thể chế và
cải cách hành chính là trọng tâm nhất hiện nay, có tác dụng lan tỏa đối với các
đột phá chiến lược khác. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
242
hướng xã hội chủ nghĩa, chú trọng giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và
thị trường cũng như các thể chế để giải phóng cao độ mọi lực lượng sản xuất,
củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất, trước hết là kinh tế hợp tác, các mô hình
liên kết để tạo động lực mới cho phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp.
Cần tăng cường động lực và cả áp lực trách nhiệm đối với cán bộ, công chức,
viên chức, nhất là đối với người đứng đầu; giao nhiệm vụ phải gắn với mục tiêu
cụ thể, rõ ràng; tăng cường kỹ luật - kỷ cương và trách nhiệm công chức - công
vụ; tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân và
doanh nghiệp.
(c) Về tái cơ cấu nền kinh tế
Triển khai quyết liệt Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế theo Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ và các Đề án tái cơ cấu 3 lĩnh vực bằng các
chương trình hành động, kế hoạch, đề án cụ thể; với những mục tiêu, địa chỉ rõ
ràng và lộ trình, bước đi phù hợp để vừa hỗ trợ ngay cho phục hồi tăng trưởng,
vừa đảm bảo chuyển đổi mô hình phát triển bền vững trong tương lai. Gắn kết
chặt chẽ giữa tính “tổng thể” và “3 trọng tâm” trong tái cơ cấu nền kinh tế.
Đối với tái cơ cấu đầu tư công, cần nâng cấp tính pháp lý bằng quyết định
của Thủ tướng Chính phủ hoặc Nghị quyết của Chính phủ đề cập đầy đủ hơn
trách nhiệm của chính quyền địa phương trong tái cơ cấu đầu tư và xử lý nợ
đọng xây dựng cơ bản, chế định mô hình hợp tác công tư (PPP) trong đầu tư...
Về tổng thể, cần nghiên cứu đầy đủ cấu trúc và động thái của thị trường
tài chính nước ta để xây dựng chính sách tài chính - tiền tệ theo hướng chuyển
dần chức năng cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn từ hệ thống ngân hàng
thương mại sang các định chế tài chính - tín dụng phi ngân hàng (thị trường
chứng khoán, thị trường vốn, các tổ chức tài chính vi mô...).
Triển khai mạnh mẽ Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp và giải quyết bài
toán “tam nông”, nền tảng của công nghiệp hóa. Cùng với đề án tái cơ cấu
ngành nông nghiệp, cần xây dựng và triển khai các đề án tái cơ cấu ngành công
nghiệp, dịch vụ; trước hết là Đề án phát triển công nghiệp phụ trợ, chuyển nền
kinh tế từ gia công sang sản xuất để tham gia thực sự vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Làm rõ chức năng quản lý kinh tế của nhà nước ở cấp Trung ương và địa
phương trong điều kiện vận hành của cơ chế thị trường. Cần rà soát các quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các quy hoạch vùng và liên
kết vùng; rà soát, hoàn thiện phân cấp giữa Trung ương - Địa phương.
243
BA ĐỘT PHÁ CHIẾN LƢỢC:
SUY NGHĨ TỪ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
GS. Nguyễn Quang Thái
Tại Đại Hội lần thứ XI của Đảng (2011) đã thông qua Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội với ba đột phá chiến lƣợc:
(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
(2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại,
tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Dưới đây, xin trình bày mấy vấn đề kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách
cho Việt Nam với ba đột phá chiến lược nêu trên.
I. Thể chế kinh tế
Thể chế kinh tế134
là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế kinh tế - xã
hội, tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục, v.v…
Thể chế kinh tế nói chung gồm một hệ thống các luật lệ và quy phạm pháp luật nhằm
điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế.
Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh
tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà
nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền
kinh tế.
Thể chế kinh tế thị trƣờng là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và
hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao
dịch, trao đổi trên thị trường. Theo định nghĩa này, có thể thấy Thể chế kinh tế thị
trường bao gồm:
(1) “Ngƣời chơi”: các bên tham gia thị trường với tư cách là các chủ thể thị
trường, thực hiện các hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường theo các quy định.
(2) “Luật chơi”: cách thức thực hiện các quy tắc, luật lệ nhằm đạt được mục
tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn.
(3) “Sân chơi”: các thị trường – nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ
sở các yêu cầu, quy định của luật lệ (các thị trường quan trọng như hàng hóa và dịch
vụ, vốn, lao động, công nghệ, bất động sản, v.v…)
Thể chế kinh tế hiện đang là một khâu “yếu kém” nhất, cản trở nhất cho sự
phát triển kinh tế ở nước ta, cần có những đột phá mang tính chiến lược, như đã thực
134
Có thể xem thêm Geoffrey Hodgson (2006) “What Are Institutions?” Journal of Economic Issues,
XL:1, 1-25 và các tác giả khác.
244
hiện 30 năm trước qua khoán hộ trong nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Tuy nhiên,
muốn đột phá mới không phải dễ. Thể chế kinh tế cần làm rõ mối quan hệ giữa Nhà
nước và người dân, nhưng hiện đó lại là khâu yếu kém trước hết do cản trở về tư duy
phát triển. Hãy phân tích một số bất cập trong thể chế:
Về quan hệ Nhà nước và xã hội, người dân: do định kiến mơ hồ coi kinh tế
Nhà nước chủ đạo, dẫn tới tình trạng bất bình đẳng trong kinh doanh. Hơn thế, có
người vẫn nghĩ trong Hiến pháp chỉ cần quy định các quyền và nghĩa vụ của người
dân khi chịu sự quản lý của Nhà nước, mà “quên” không quy định rõ cả các quyền và
nghĩa vụ của Nhà nước, được người dân “ủy nhiệm” và “giao việc” thực hiện chức
năng quản lý. Do đó, thực hiện trong thực tế, dễ dẫn tới tình trạng lạm quyền. Thêm
vào đó, tình trang tham nhũng, cửa quyền, hành dân, v.v…. phổ biến và nghiêm trọng
hiện nay nên các cơ quan chính quyền và tổ chức Đảng nhiều nơi đã bị mất tín nhiệm,
do lời nói chưa đi đôi với việc làm, nhiều sự kiện cho thấy tự coi các cơ quan công
quyền và công chức đang đứng trên dân chứ không phải “phục vụ” dân, thậm chí còn
định ra nhiều luật lệ và quy định hành dân, mất lòng dân. Thậm chí dù đã ban hành rất
nhiều luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, v.v…. vẫn thiếu tính khả thi.
Về bình đẳng của người dân và vấn đề đất đai: những khác biệt trong tư duy
phát triển, không chấp nhận bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nên càng khó thực
hiện quyền dân chủ thực tế trong lĩnh vực phát triển kinh tế. Cũng vậy, trong vấn đề
cụ thể về đất đai cũng có những bất cập. Hiến pháp chỉ coi đất đai thuộc sở hữu toàn
dân, mà không phân biệt các phạm trù khác nhau về đất đai. Khi đất đai là lãnh thổ -
Tổ quốc thì đất đai là thống nhất và bất khả xâm phạm. Khi đất đai là nguồn tài
nguyên khan hiếm thì cần được phân bổ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm. Khi người dân
đã đầu tư ít nhiều vào phần đất đai được phép khai phá thì trong đất đai lúc đó đã hàm
chứa như một tài sản nhất định, do đó người dân cần có quyền sở hữu (có giới hạn)
đối với đất đai đó trong nền kinh tế thị trường, trước hết là quyền định đoạt và các
quyền khác đã được luật định. Nhưng vẫn thiếu hành lang pháp lý bình đẳng cho
người dân tự do kinh doanh, trong khi các cơ quan Nhà nước lại thích dùng các mệnh
lệnh hành chính hơn là tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của mọi
người dân.
Để hoàn thiện thể chế, cần tham khảo kinh nghiệm thành công và chưa thành
công của các nước.
Theo OECD, cải cách thể chế là tạo ra "các thay đổi nhằm nâng cao chất lượng
thể chế" và đặc biệt chú trọng tới tác động của thể chế về mặt kinh tế. Cải cách thể chế
rộng hơn nhiều so với cải cách hành chính, cải cách pháp lý và các loại cải cách khác
ở chỗ cải cách thể chế bắt đầu bằng việc xác định mối quan hệ và vai trò nên có giữa
Nhà nước và xã hội. Nói cách khác, cải cách thể chế xác định tính cần thiết và hình
thức can thiệp của Nhà nước, trong đó chú trọng tác động của can thiệp đối với xã hội
và nền kinh tế. Hành động can thiệp chỉ là công cụ. Chính cải cách thể chế mới giúp
xác định liệu quyết định can thiệp có cần thiết hay không và nên can thiệp như thế nào
để có hiệu quả nhất.
Trong một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho năm 2012 về đánh giá trình
độ phát triển các nước theo các chỉ tiêu của kinh tế tri thức KEI thì vấn đề thể chế
kinh tế thị trường được xem là tiêu chí hàng đầu. Kinh tế càng phát triển, thu nhập
bình quân đầu người cao thì dường như thể chế kinh tế cũng được coi trọng hơn
(thang điểm 10):
245
Hạng Các nền kinh tế
KEI
Chỉ số kinh tế
tri thức
Thể chế
kinh tế
Đổi mới
công nghệ Giáo dục ICT
Thu nhập cao 8.60 8.39 9.16 8.46 8.37
Thu nhập trung bình cao 5.10 5.18 6.21 4.72 4.28
Thu nhập trung bình thấp 3.42 3.32 4.90 2.84 2.62
Thu nhập thấp 1.58 1.61 2.13 1.54 1.05
104 Việt Nam 3.40 2.80 2.75 2.99 5.05
Thế giới 5.12 5.45 7.72 3.72 3.58
Tuy Việt Nam được xếp hạng trung bình của các nước có thu nhập thấp, nhưng
thể chế kinh tế đang là khâu yếu kém, thấp xa các nước thu nhập thấp, càng thấp xa
các nước trung bình trên thế giới, dù việc ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông
ICT là khá, thậm chí đạt mức cao hơn trung bình của các nước thế giới và các nước có
thu nhập trung bình cao.
Các chuyên gia quốc tế (OECD, USAID, v.v…) cũng phân tích cách thức điều
hành bằng các quy định của chính phủ và thấy có ba vấn đề: (i) chức năng hoạch định
chính sách; (ii) phối hợp chính sách; (iii) tính chuyên nghiệp của công tác xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật vốn được coi trọng trong các nền kinh tế phát triển lại
thường chưa được quan tâm đúng mức ở các nước đang phát triển. Hệ quả đã làm môi
trường thể chế không thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
và đời sống của người dân.
Kinh nghiệm các nước về xây dựng thể chế cho thấy: trong những năm 1960,
nhiều nhà nước trên thế giới, với hy vọng công nghiệp hóa, đã can thiệp sâu rộng vào
mọi khía cạnh của nền kinh tế. Sự can thiệp quá đà này đã gây ra nhiều vấn đề kinh tế
vĩ mô, mà đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng nợ năm 1982. Như là hậu quả, “hình ảnh
Nhà nước như là một yếu tố thay đổi” đã được biến thành “hình ảnh Nhà nước như là
cản trở chính của phát triển”. Rõ ràng, cần phải kiểm định các đặc tính nào của thể chế
nhà nước mạnh mà có ích cho tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Một số tác
Năng lực thể chế: sự thành công của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là nhờ
vào năng lực của toàn bộ hệ thống thể chế Nhà nước, trong một đất nước có nền dân trí
khá cao. Để xây dựng thể chế nhà nước tốt, các quốc gia này đã dựa vào việc tuyển chọn
các nhân viên có năng lực, cam kết cho phát triển quốc gia và tạo cơ hội nghề nghiệp lâu
dài như trong các tập đoàn kinh tế. Hệ thống thể chế mạnh của các quốc gia này đã điều
phối các thành phần khác nhau trong nước, đàm phán hiệu quả với các đối tác nước
ngoài. Từ đó tạo ra năng lực nội sinh của nền kinh tế và chủ động hấp thu có kết quả các
nguồn lực đa dạng từ bên ngoài. Cũng vậy, việc quản lý hiệu quả viện trợ nước ngoài,
thương mại quốc tế, đầu tư tư bản và các khoản vay phụ thuộc rất lớn vào năng lực của
thể chế nhà nước. Vì thế, các quốc gia này đã tập trung khá tốt “vào năng lực của các thể
chế nội địa để sử dụng nguồn lực ngoại nhập phục vụ cho sản xuất và đáp ứng nhu cầu ưu
tiên của quốc gia”.
Lựa chọn can thiệp: các quốc gia phát triển có thuận lợi lớn từ năng lực quản trị
mạnh của thể chế, và các nước này cũng hạn chế can thiệp của bộ máy vào các dự án
mang tính chiến lược và chuyển đổi (ngay tên lửa đạn đạo tầm xa của Hoa Kỳ cũng
được đặt hành cho hàng nghìn xí nghiệp giá công các chi tiết khác nhau, nhưng kiểm
soát Nhà nước được nhấn vào việc cấm xuất khẩu bí mật ra nước ngoài). Ngược lại ở
các nước đang phát triển có năng lực Nhà nước yếu kém nhưng lại thường can thiệp
một cách tràn lan dưới hình thức hành chính trực tiếp vào các hoạt động kinh tế nên
thường ít thành công, trong khi lại góp phần cho các bất ổn kinh té và cả những thất bại
tăng trưởng của nền kinh tế. Vì thế, Chính phủ ở các nước đang phát triển cần lựa chọn
đúng mức với phạm vi hạn chế sự can thiệp của mình vào hoạt động kinh tế, tránh làm
nền kinh tế bị méo mó và biến dạng vì năng lực yếu của bộ máy hoặc lợi ích nhóm.
“Bén rễ” trong xã hội: nhiều nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh đến sự gắn kết nhất
quán của hệ thống hành chính công của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (TQ), v.v…
Một mạng lưới các quan hệ xã hội giữa các thành viên đã tạo ra nền tảng cho sự tin
tưởng và giúp cho quá trình chuẩn bị và ra quyết định tốt hơn. Mạng lưới này giúp giảm
chi phí hoạt động và giao dịch giữa Chính phủ, giới kinh doanh và các thành phần xã
hội khác. Nó gắn kết Nhà nước với xã hội và cung cấp các kênh được thể chế hóa cho
quá trình đàm phán và tái đàm phán về các vấn đề liên quan đến chính sách và phát
triển. Có những tác giả cho rằng, một nền chính trị cố kết, cấu trúc quyền lực có chủ
đích và tập trung thường được “ăn sâu bén rễ” vào trong xã hội như là một điều kiện tất
yếu cho thành công của các thể chế nhà nước. Chính sự hòa nhập và bám rễ này đã đảm
bảo xã hội dân sự gắn kết trong bộ ba kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và xã
hội dân sự, trở thành một phần của giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển
xã hội.
Cởi mở và tính trách nhiệm: tiềm năng tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm
nghèo phụ thuộc rất lớn vào Nhà nước và các thể chế xã hội. Một trong những yếu tố
cần phải được nhận ra đó là tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các thể chế
nhà nước. Trong báo cáo phát triển của mình, UNDP nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc xây dựng các thể chế minh bạch và các cơ chế tham gia dân chủ. Đây chính
là điều kiện cho các thể chế của nhà nước triển khai các chính sách hiệu quả, không bị
tham nhũng hoặc lạm dụng quyền hành. Kết quả sẽ là cải thiện trong việc cung cấp
dịch vụ công của Chính phủ và thúc đẩy tăng trưởng của thành phần kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, việc xây dựng thể chế nhà nước là một nhiệm vụ khó khăn cho các
quốc gia đang phát triển cho dù có ủng hộ và tài trợ của các nhà tài trợ song phương,
các tổ chức đa phương và phi chính phủ quốc tế. Cải tổ thể chế có nghĩa là động chạm
247
đến hầu hết các khía cạnh của lĩnh vực công trong khi nguồn lực để triển khai luôn có
giới hạn. Thể chế của các nước đang phát triển rất yếu, dễ bị đổ vỡ và không hoàn
thiện. Quá trình ra quyết định về cải cách thể chế lại thường bị hạn chế bới các yêu
cầu của các nhà tài trợ với các mục đích khác nhau. Các nhân viên làm cho Chính phủ
được hình thành từ nhiều nguồn, nên có thể xem là ít được đào tạo theo đúng yêu cầu
của cải cách. Xã hội dân sự còn manh mún, chia rẽ và khả năng tham gia hiệu quả
cũng rất hạn chế. Một thách thức nữa đó là lợi ích nhóm dẫn đến những tranh chấp
cản trở quá trình cải cách thể chế. Các nhóm lợi ích thường thúc đẩy hoặc cản trở một
chính sách cải tổ nào đó tùy thuộc vào việc đó có lợi hay gây hại cho lợi ích của họ.
Trong nhiều trường hợp, các nhóm lợi ích đã thành công trong việc cản trở chính sách
cải tổ. Các nhóm lợi ích khác nhau thu được lợi trong ngắn hạn cũng có thể sẽ tìm mọi
cách để cản trở cải tổ cho dù cải tổ đó có thể mang lại lợi ích tuyệt đối lớn hơn cho họ
trong dài hạn. Như vậy, để cải tổ thành công thì phải thắng được các phản đối về cả
kinh tế lẫn chính trị của các lợi ích riêng lẻ, ngắn hạn. Thể chế phải được xây dựng
bởi một quá trình nội sinh. Không thể áp đặt việc xây dựng thể chế bằng ý chí chủ
quan từ bên trên hoặc áp đặt từ bên ngoài, nếu không, thể chế sẽ không bền vững và
dễ thích nghi với nhu cầu của người dân và xã hội và các biến động của thời cuộc.
Các nhà nghiên cứu cũng thấy không có một “khuôn mẫu” hoặc “cách làm phổ quát”
cho việc xây dựng thể chế. Tùy vào mỗi quốc gia xây dựng và triển khai quá trình cải cách
thể chế cho phù hợp với điều kiện và nhu cầu của mình. Đặc biệt nhấn mạnh đến kỷ luật, kỷ
cương thực hiện các quy định của thể chế đã ban hành, tránh tùy tiện.
Nhiều nhà nghiên cứu đã phê phán sự áp đặt bất cứ một mô hình thể chế nào lên
các quốc gia bởi các nhà tài trợ đa phương hay song phương. Đáng lưu ý là nhận xét cho
rằng mô hình thể chế của các nước phương tây là không phù hợp vì sự khác biệt về văn
hóa, chính trị và điều kiện kinh tế. Điều quan trọng là phải cổ xúy cho việc cải cách thể
chế nhằm giúp cải thiện được năng lực của công dân, các nhóm xã hội tự ra quyết định
cho mình hơn là thỏa mãn nhu cầu của các nhà tài trợ bên ngoài. Gần đây, một số tổ chức
tài chính quốc tế khi tổng kết việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ MDG đã cổ xúy cho
quan điểm về tăng trưởng “bao trùm” (inclusive growth)135
, tạo cơ hội phát triển cho tất cả
mọi người, trong đó có người nghèo.
Xây dựng thể chế có sự tham gia rộng rãi (kể cả phúc quyết Hiến pháp) sẽ là
điều kiện để ứng phó mềm dẻo hơn với các bất ổn của môi trường kinh doanh quốc tế
và trong nước, bảo vệ lợi ích cốt lõi của người dân. Đây là quá trình từng bước hoàn
thiện thể chế, không thể làm một lần là hoàn thiện.
Kinh nghiệm như Nhật Bản cũng đã từng bước xây dựng các thể chế đảm bảo
phát triển xã hội136
. Chính quyền mới của Nhật đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng
thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp, cam kết trách nhiệm xã hội lớn hơn từ phía chính
quyền như: Luật trợ giúp quốc gia năm 1946 (mở rộng tiêu chuẩn và đối tượng được
nhận trợ cấp nghèo khổ), Luật phúc lợi trẻ em năm 1947, Luật phúc lợi dành cho
người tàn tật năm 1948, Luật chuẩn mực lao động năm 1947, Luật bảo hiểm việc làm
năm 1947 và Luật đền bù cho người lao động năm 1947. Cùng với sự hồi phục kinh tế
vào những năm 1950 và 1960, chế độ phúc lợi ở Nhật Bản ngày càng được mở rộng.
Các đạo luật mới về chế độ đảm bảo xã hội cũng được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung
trong giai đoạn này như: Luật bảo hiểm y tế quốc gia năm 1958, Luật hưu trí quốc gia
135
Framework of Inclusive Growth Indicators 2012 và 2013 của ADB 136 Xem Trương Hồng Quang (2010): Kinh nghiệm Nhật Bản trong xây dựng thể chế.
248
năm 1959 (hai luật này quy định theo hướng mọi người dân Nhật đều được quyền
tham gia chương trình bảo hiểm y tế quốc gia và bảo hiểm hưu trí quốc gia). Nói cách
khác, nhờ quy định của hai đạo luật này, chế độ bảo hiểm toàn dân về y tế và hưu trí
đã được thiết lập. Cũng trong thời gian đầu thập niên 1960, Nhật Bản đã ban hành
Luật phúc lợi đối với người mắc bệnh tâm thần (năm 1960), Luật phúc lợi cho người
già năm 1963, Luật phúc lợi cho bà mẹ và trẻ em năm 1964, Luật trợ cấp nuôi trẻ em
do cha mẹ ly hôn hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (chẳng hạn bị khuyết tật) năm
1964, v.v…
Tỷ lệ chi tiêu cho các chương trình phúc lợi xã hội ở Nhật Bản cũng đã tăng
đáng kể trong những năm 1970 và 1980 từ mức 6% tổng thu nhập quốc dân năm 1970
lên mức 18% vào năm 1989. Năm 2000, tổng chi phí cho các chương trình bảo đảm xã
hội ở Nhật lên tới 78,127 ngàn tỷ Yên (tương đương khoảng 800 tỷ USD) và con số
ngày của năm 2004 là 85,647 ngàn tỷ Yên (tương đương khoảng 850 tỷ USD). Trong số
này, chi phí cho việc trả lương hưu chiếm khoảng 53,1%, chi phí cho các dịch vụ chăm
sóc y tế chiếm khoảng 31,7% và các khoản mục khác (như bảo hiểm tai nạn lao động,
trợ cấp cho các gia đình nuôi con, chi bảo hiểm thất nghiệp, v.v…) chỉ chiếm 15,1%.
II. Nguồn nhân lực chất lƣợng cao
Kinh nghiệm quốc tế đều cho thấy, nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là
một nhân tố của phát triển, mà còn có ý nghĩa quyết định đến năng lực nội sinh cho phát
triển lâu dài137
. Kinh nghiệm khôi phục sau chiến tranh của Nhật Bản, Hàn Quốc có thể
đạt tốc độ phát triển thần kỳ dù cơ sở hạ tầng bị tàn phá là do có nguồn nhân lực chất
lượng cao đã không bị tiêu diệt trong chiến tranh. Hơn thế, khi đất nước khó khăn, thì do
có nguồn nhân lực chất lượng cao, các nước này đã huy động và tạo ra sức đột phá từ bên
trong, ngay khi vốn vật chất còn rất thiếu thốn.
Vậy nguồn nhân lực này có những tiêu chí quan trọng gì cần bảo đảm cho phát
triển dài hạn. Các quy định này không thể là cứng nhắc mà cần biến chuyển, tiến hóa
theo thời gian. Chẳng hạn khi so sánh trình độ phát triển nguồn nhân lực qua giáo dục,
các nhà nghiên cứu của UNDP trong nhiều năm chỉ dùng chỉ tiêu biết chữ. Nhưng sau
2008, UNDP đã sử dụng thước đo mới là số năm đã đi học và số năm dự kiến đi học để
đo chất lượng nguồn nhân lực tốt hơn cùng với thu nhập và tuổi thọ. Hằng năm UNDP
lập các báo cáo về phát triển nguồn nhân lực và đưa ra chỉ số HDI rất nổi tiếng. Rất tiếc
là chỉ số này của nước ta còn rất khiêm tốn, được xếp ngoài thứ hạng dưới 100138
.
137 Thuật ngữ nguồn nhân lực (human resources) xuất hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX và sau đó xuất hiện chính thức trong Báo cáo hằng năm của UNDP khi đã có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý, sử dụng con
người trong kinh tế lao động. Nếu như trước đây phương thức quản trị nhân viên với các đặc trưng coi nhân viên là
lực lượng thừa hành, phụ thuộc, cần khai thác tối đa sức lao động của họ với chi phí tối thiểu thì từ những năm 80
đến nay với phương thức mới, quản lý nguồn nhân lực với tính chất mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn, tạo điều kiện tốt
hơn để người lao động có thể phát huy ở mức cao nhất các khả năng tiềm tàng, vốn có của họ thông qua tích lũy tự
nhiên trong quá trình lao động phát triển. Có thể nói sự xuất hiện của thuật ngữ "nguồn nhân lực" là một trong
những biểu hiện cụ thể cho sự thắng thế của phương thức quản lý mới đối với phương thức quản lý cũ trong việc
sử dụng nguồn lực con người. Từ đó cũng dẫn tới khái niệm về nguồn lực con người (human capital).
138 Theo UNDP Human Development Report 2013, Việt Nam được xếp hạng thứ 127 (thuộc nhóm nước có HDI
trung bình, nhưng dưới Trung Quốc thứ 101, Thái Lan thứ 103, Philippin 114, Indonesia thứ 121, v.v… ) trong
số 187 nước có so sánh. Phải vượt qua nhóm nước có HDI cao (47 nước, trong đó Malaysia thứ 64) và nhóm
nước có HDI rất cao (47 nước, trong đó có Nhật Bản thứ 10, Hàn Quốc thứ 12, Singapore thứ 18, Brunei thứ
30). Đây là chặng đường dài.
249
Stivastava M/P (Ấn Độ) trong cuốn “Human resource planning: Approach
needs assessments and priorities in manpower planning”; NXB Manak New Delhi
1997, đã đưa ra định nghia vê nguồn nhân lực dưới góc độ kinh tế như sau: “nguồn
nhân lực được hiểu là toàn bộ vốn nhân lực bao gồm thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề
nghiệp mà mọi cá nhân sở hữu. Vốn nhân lực được hiểu là con người dưới dạng một
nguồn vốn, thậm chí là nguồn vốn quan trọng nhất đối với quá trình sản xuất, có khả
năng sản sinh ra các nguồn thu nhập trong tương lai hoặc như là nguồn của cải có thể
làm tăng sự phồn thịnh về kinh tế. Nguồn vốn này là tập hợp những kỹ năng, kiến
thức, kinh nghiệm tích lũy được gắn vào quá trình lao động sản xuất. Do vậy, các chi
phí về giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng, v.v… để nâng cao khả
năng sản xuất của nguồn nhân lực được xem như chi phí đầu vào của sản xuất, thông
qua đầu tư vào con người”.
Trên cơ sở định nghĩa trên, tác giả đã chỉ ra những lợi ích lớn của đầu tư vào
nguồn nhân lực gồm:
- Đầu tư vào nguồn nhân lực có tỷ lệ thu hồi vốn cao, do vốn nhân lực càng
được sử dụng nhiều thì giá trị gia tăng càng tăng lên, càng tạo ra nhiều thu nhập. Vốn
nhân lực không mang đặc điểm có tính quy luật như các nguồn vốn khác, đó là khâu
hao vốn đã đầu tư vào các tài sản và loại hình vật chất khác;
- Đầu tư vào vốn nhân lực không gây áp lực về khối lượng vốn lớn cần huy
động trong khoảng thời gian ngắn, do quá trình đầu tư dài và sau khi đã đầu tư thì vốn
nhân lực tự duy trì và phát triển lên;
- Hiệu ứng lan tỏa của đầu tư vào vốn nhân lực là rất lớn, tạo ra những đột biến
không lường trước được đối với phát triển kinh tê, do đặc điểm của vốn nhân lực là
mang tính sáng tạo, tự phát huy tiềm năng mà các nguồn vốn khác không có.
Để phát triển nguồn nhân lực, Hoa Kỳ rất coi trọng môi trường sáng tạo và
khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh vực,
cả trong và ngoài nước. Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho Mỹ - nước duy
nhất trên thế giới, cơ hội thu hút nguồn chất xám rất lớn, đó là rất nhiều các nhà khoa
học, bác học giỏi từ châu Âu và nhiều nước khác đã nhập cảnh vào Mỹ. Thực tế này
trả lời cho câu hỏi, tại sao hiện nay Mỹ là một trong những nước có nhiều nhà khoa
học hàng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực.
Ở châu Á, Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong phát triển nguồn
nhân lực. Xuất phát từ việc xác định rằng, nước Nhật nghèo tài nguyên thiên nhiên, để
phát triển, chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật Bản, Chính phủ nước
này đã đặc biệt chú trọng tới giáo dục - đào tạo, thực sự coi đây là quốc sách hàng
đầu. Theo đó, chương trình giáo dục đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở là bắt
buộc; tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi được học miễn phí. Kết quả là, tỷ
lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ở nước này ngày càng nhiều. Nhật
Bản trở thành một trong những cường quốc giáo dục của thế giới. Về sử dụng và quản
lý nhân lực, Nhật Bản thực hiện chế độ lên lương và tăng thưởng theo thâm niên. Nếu
như ở nhiều nước phương Tây, chế độ này chủ yếu dựa vào năng lực và thành tích cá
nhân, thì ở Nhật Bản, hầu như không có trường hợp cán bộ trẻ tuổi, ít tuổi nghề lại có
chức vụ và tiền lương cao hơn người làm lâu năm.
Tại Hàn Quốc, chính sách giáo dục được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của
nền kinh tế. Đây là nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực
250
của quốc gia này. Năm 1950, Chính phủ Hàn Quốc chủ trương xóa mù chữ cho toàn
dân. Những năm sau đó, hệ thống giáo dục dần được đẩy mạnh như: phát triển giáo
dục hướng nghiệp trong các trường trung học (năm 1960); các trường dạy nghề kỹ
thuật (năm 1970); đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và giáo dục trên lĩnh vực khoa học
cơ bản và công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và học suốt đời. Năm 1992, Hàn
Quốc thực hiện cải cách giáo dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ thống giáo dục hiện có
thành một hệ thống giáo dục mới, bảo đảm cho người dân được học suốt đời. Tháng
12-2001, Chính phủ Hàn Quốc công bố Chiến lược quốc gia lần thứ nhất về phát triển
nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005. Tiếp đó, Chiến lược quốc gia lần thứ hai về phát
triển nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 được xây dựng và thực hiện hiệu quả. Nội
dung chính của các chiến lược này đề cập tới sự tăng cường hợp tác giữa các doanh
nghiệp, trường đại học và các cơ sở nghiên cứu; nâng cao trình độ sử dụng và quản lý
nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công;
xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; xây dựng kết
cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển thị trường
tri thức.
Tại Trung Quốc, Chính phủ đang hết sức quan tâm đến việc đào tạo và sử
dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có trong nước, nhằm nâng cao chất lượng nguồn
lực này khi chuyển dần sang kinh tế tri thức. Năm 2003, Trung Quốc đã đề ra Chiến
lược tăng cường hơn nữa công tác bồi dưỡng, đào tạo nhân tài nhằm thực hiện mục
tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả được đề ra trong Đại hội XVI của Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Nội dung của chiến lược là: lấy nhân tài chấn hưng đất nước, xây
dựng đội ngũ đông đảo nhân tài có chất lượng cao; kiên quyết quán triệt phương châm
tôn trọng lao động, trí thức, tôn trọng nhân tài và sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển
làm xuất phát điểm cơ bản của công tác nhân tài, điều chỉnh nhân tài một cách hợp lý,
lấy xây dựng năng lực làm điều cốt lõi, ra sức đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài,
kiên trì đổi mới sáng tạo, nỗ lực hình thành cơ chế đánh giá và sử dụng nhân tài một
cách khoa học.
Trong khu vực Đông Nam Á, Xin-ga-po được coi là hình mẫu về phát triển
nguồn nhân lực. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nhỏ bé này chỉ với 5 triệu dân và
700 km2 đã rất thành công trong việc xây dựng một đảo quốc có trình độ dân trí cao
và hệ thống giáo dục phát triển hàng đầu châu Á và luôn luôn xếp trong top đầu về
phát triển nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức. Hệ thống giáo dục của nước này rất linh
hoạt và luôn hướng đến khả năng, sở thích cũng như năng khiếu của từng học sinh
nhằm giúp các em phát huy cao nhất tiềm năng của mình. Bên cạnh việc ứng dụng các
tiến bộ của khoa học - công nghệ mới vào giảng dạy, chương trình đào tạo của Xin-
ga-po luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách, truyền thống văn hóa dân tộc. Chủ
trương thu hút sinh viên quốc tế đến học tập, Chính phủ Xin-ga-po miễn xét thị thực
cho du học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí học tập vừa
phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng. Nhà nước Xin-ga-
po chỉ đầu tư vào rất ít trường công lập để có chất lượng mẫu mực, có chính sách tín
dụng thích hợp để thu hút đào tạo nhân tài. Đối với khối ngoài công lập, Chính phủ
tạo điều kiện để phát triển, khuyến khích việc liên thông, liên kết với nước ngoài, mời
gọi các đại học quốc tế đặt chi nhánh.
Tại Cộng hòa Séc, tuy có quy mô nhỏ bé, nhưng để đón trước cơ hội và thúc
đẩy hội nhập thành công vào Liên minh châu Âu (EU), Séc đã xây dựng và hoàn
thành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực (tháng 12-2000). Chiến lược này là một
251
bộ phận cấu thành của Chương trình thị trường lao động và phát triển nguồn nhân lực
của đất nước. Trong các chiến lược thành phần, đáng chú ý có chiến lược phổ cập
tiếng Anh, chiến lược cải thiện nhân lực hành chính công, chiến lược phát triển giáo
dục đại học - cao đẳng và liên kết với hoạt động nghiên cứu, chiến lược phát triển đội
ngũ giáo viên, chiến lược phát triển học suốt đời.
Điểm nổi trội về ngoại ngữ của Ấn Độ đã cho phép nước này sử dụng thành
công các tiến bộ của công nghệ ICT, tạo thêm việc làm của người dân Ấn Độ trực tiếp
trên khắp thế giới, và cả gián tiếp qua hệ thống giao dịch trực tuyến Internet.
Đặc biệt, các nước đã rất chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực trong
quá trình hội nhập quốc tế. Rất nhiều quy định về hệ thống visa thống nhất ở EU và ở
các nước ASEAN cho thấy, các nước đã rất tranh thủ các nguồn nhân lực chất lượng
cao đến lao động và làm việc lâu dài.
Các kinh nghiệm quốc tế phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đã được vận
dụng nhiều mặt trong sự lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn ở nước ta. Việt Nam đã ban hành
rất nhiều chiến lược và chính sách về phát triển nguồn nhân lực, nhưng thường có
những quy định “hoành tráng”, nhưng thiếu sự chỉ đạo thống nhất và có phối hợp. Đó là
điều đáng tiếc lớn nhất: văn kiện ghi rất nhiều mỹ từ, còn trong chỉ đạo thực tiễn thì sự
phối hợp và kiểm tra rất yếu kém. Trong điều kiện thể chế phân cấp, mang tính chia cắt
và bệnh thành tích, các địa phương cũng đưa ra các con số xã rời thực tế, làm rối các
nhận định và đưa ra các quyết sách. Việc thiếu cập nhật đúng các quy định quốc tế
trong phát triển nguồn nhân lực cũng làm sai lạc nhiều quyết sách, cần rút kinh
nghiệm…
III. Kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại
Ngày 16/1/2012, thay mặt Ban chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020139
.
Từ quan điểm chung, đã nêu 4 mục tiêu cụ thể là:
1- Về hạ tầng giao thông, bảo đảm kết nối các trung tâm kinh tế lớn với nhau
và với các đầu mối giao thông cửa ngõ bằng hệ thống giao thông đồng bộ, năng lực
vận tải được nâng cao, giao thông được thông suốt, an toàn.
139
Quan điểm về phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam là: (1) quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội phải hiện đại, đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng và từng
địa phương, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; có phân kỳ đầu tư, ưu tiên những dự án quan trọng tạo sự đột phá và có tác động lan toả lớn. Tăng cường công tác quản lý trong
khai thác sử dụng công trình; (2) huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã hội, bảo đảm lợi ích hợp lý
để thu hút các nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; đồng thời tiếp tục dành vốn nhà nước tập trung đầu tư vào các công trình thiết yếu, quan trọng,
khó huy động các nguồn lực xã hội; (3) phát triển kết cấu hạ tầng là sự nghiệp chung, vừa là quyền lợi
vừa là nghĩa vụ của toàn xã hội, mọi người dân đều có trách nhiệm tham gia đóng góp, trước hết là
trong thực hiện chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng; bảo đảm lợi ích hài hoà giữa Nhà nước, người dân và nhà đầu tư; (4) phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm
quốc phòng, an ninh; thu hẹp khoảng cách vùng, miền; gắn với tiết kiệm đất canh tác, bảo vệ môi
trường, tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.
252
2- Về hạ tầng cung cấp điện, bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh
hoạt, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đi đôi với tiết kiệm,
giảm tiêu hao điện năng.
3- Về hạ tầng thuỷ lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm tưới, tiêu chủ
động cho diện tích lúa 2 vụ, các vùng cây công nghiệp và nguyên liệu, nuôi trồng thuỷ
sản tập trung. Chủ động phòng, tránh bão, lũ, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước
biển dâng.
4- Về hạ tầng đô thị lớn, từng bước phát triển đồng bộ và hiện đại, giải quyết
cơ bản tình trạng ách tắc giao thông, úng ngập; cung cấp ổn định điện, nước và xử lý
chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
Khi xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và một phần hiện đại, trọng tâm là giao
thông và đô thị, Việt Nam đã chú ý học tập kinh nghiệm của quốc tế.
Thật vậy, trình độ phát triển kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết định đến trình
độ phát triển đất nước. Trong Báo cáo hàng năm của Diễn đàn kinh tế thế giới WEF
có 12 trụ cột về cạnh tranh toàn cầu GCI, có trụ cột thứ 2 về phát triển kết cấu hạ tầng,
bao gồm: hạ tầng giao thông: đó là các chỉ tiêu về đường bộ, đường sẳt, đường biển,
đường hàng không và độ sẵn sàng của các chuyến bay, về hạ tầng phân phối liên quan
đến hệ thống logistisc…; hạ tầng viễn thông: điện thoại cố định, di động, kết nối
Internet; hạ tầng điện lực: chất lượng sản xuất và cung cấp điện năng hiện tại và cả
tương lai để tạo tiền đề cho phát triển lâu dài.
Trong các giai đoạn phát triển, dù ở trình độ thấp hay cao, vấn đề phát triển hạ
tầng (cùng với các vấn đề về thể chế, và nguồn nhân lực, KHCN) luôn luôn được chủ
ý với trọng số từ 60% và hạ dần khi trình độ phát triển cao hơn.
Kinh nghiệm các nước phát triển nhanh đều có những phát triển đi trước về năng
lượng và giao thông. Nước Đức từ trước chiến tranh II đã có hệ thống xa lộ nối khắp
nước. Tổng thống Pak Chung He cũng đã có những nỗ lực mạnh mẽ để làm hệ thống
giao thông cao tốc. Trung Quốc ngày nay cũng có hệ thống đường bộ và đường sắt cao
tốc tỏa khắp đất nước, tạo điều kiện cho phát triển nhanh. Muốn vậy, trong phát triển,
Trung Quốc dù tăng trưởng liên tục suốt 30 năm hơn 10%, nhưng đều dành mức tích
lũy cao gần 50%, có khi hơn, để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nhất là khu vực đô thị ven
biển phía Đông. Từ đó, phát triển dần ra cả nước, mà không làm đồng đều khắp nước vì
năng lực tài chính có hạn.
Muốn phát triển mạnh hệ thống hạ tầng, các nước đều rất chú trọng công tác
quy hoạch và xếp thứ tự ưu tiên, chứ không làm tràn lan như ở nước ta.
Cesar Calderon và Luis Serven (2004)140
sau khi nghiên cứu bộ dữ liệu của 121
nước trong thời kỳ 1960-2000 đã đưa ra hai kêt luận quan trọng là: (1) trình độ phát
triển kết cấu hạ tầng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tê; và (2) trình độ phát
triển kết cấu hạ tầng càng cao thì mức độ bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội càng
giảm.
140
Cesar Calderon và Luis Serven (2004). “The Effects of Infrastructure Development on Growth and Income
Distribution”. Draft for Discussion, March.
253
Naoyuki Yoshino và Masaki Nakahigashi (2000)141
đã nghiên cứu về vai trò
kết cấu hạ tầng đối với sự phát triển kinh tê các nước Đông Nam Á và đưa ra kết luận
rằng, kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế vì: (1) phát
triển kết cấu hạ tầng góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế và (2)
phát triển kết cấu hạ tầng có tác động rất tích cực đến giảm nghèo.
Kingsley Thomas (2004)142
cho rằng, kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng
không chỉ vì nó là điều kiện thiết yếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp cũng như đời sống của các hộ gia đình, mà kết cấu hạ tầng còn là lĩnh
vực kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của một nước. Đầu tư cho phát triển kết cấu
hạ tầng thường chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư và chiếm từ 40-60% đầu tư công ở
hầu hết các nước đang phát triển. Tính trung bình, lượng đầu tư này chiếm 4% GDP
của các nước đang phát triển, cá biệt có nước chiếm hơn 10%.
IV. Hàm ý cho Việt Nam từ một số bài học quốc tế
1. Về thể chế kinh tế
Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có
đầy đủ. Tại Hội nghị Trung ương 6 (Khóa X) Ban Chấp hành Trung ương đã thông
qua Nghị quyết quan trọng. Đến Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa X, Đảng mới ra Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30
tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số
22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị
quyết 21-NQ/TW.
Tuy nhiên, ngay khi ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW cũng đã nêu mục tiêu
trước, quan điểm sau, cho thấy việc xây dựng thể chế kinh tế này cũng còn chưa đạt
tới nhận thức chung đủ làm căn cứ cho hành động. Trong 5 quan điểm nêu ra, việc
xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở nước ta chủ yếu nhấn mạnh tính riêng có của
Việt Nam, gây khó khăn cho thực hiện. Trong số các quan điểm và mục tiêu này, có
một số quan điểm đã gây cản trở cho phát triển, nhất là mục tiêu phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các
loại hình doanh nghiệp, về đất đai là sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước, v.v… 143
. Tuy nhiên, cũng đã khẳng định vai trò tích cực của kinh tế thị trường, rằng “kinh
141 Naoyuki Yoshino và Masaki Nakahigashi (2000). “The Role of Infrastructure in Economic Development”,
Preliminary Version, November.
142 Kingsley Thomas (2004). “The Role of Infrastructure in Development”. The Lecture Programme 2004, The
Development Bank of Jamaica.
143 Mục tiêu đến năm 2010, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật bảo đảm cho nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi; phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi
với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; hình thành một số tập đoàn kinh
tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế; đổi mới cơ
bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công; phát triển đồng bộ, đa dạng các
loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới; giải
quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; nâng cao hơn hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn từ năm 2010 -
2020, tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế, hoàn thành về cơ bản mục tiêu
tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới
chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa
tư bản”. Nghị quyết cũng cho rằng “thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy
sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ
nghĩa xã hội”. Quan điểm này hơi khiên cưỡng, vì thực ra theo quan điểm trước đây
thì kế hoạch và thị trường là khác nhau như nước với lửa. Nay công nhận kinh tế thị
trường như một sản phẩm của văn minh nhân loại, thì cũng tức là cần xem xét lại
nhiều quan điểm khác về xây dựng định hướng xã hội chủ nghĩa, còn khá mơ hồ.
Đánh giá sự chuyển biến về thể chế mấy năm qua ở nước ta, có thể thấy hầu hết
các chỉ tiêu cụ thể đều yếu hơn mức trung bình và có xu hướng giảm, tuy vấn đề tiếng nói
của người dân và tính giải trình được cải thiện nhất định. Đồng tình với quan điểm của
PGS.TS. Phạm duy Nghĩa (HCMC), Vũ Hùng Cường (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội)
và một số nhà nghiên cứu144
nhắc tới các vấn đề dưới đây liên quan đến các thể chế kinh
tế, tới đây cần được ghi nhận hoặc thay đổi cho phù hợp trong Hiến pháp của nước ta, tác
giả đồng tình với ý kiến của Phạm Duy Nghĩa:
Vấn đề 1: Chia cắt nền kinh tế thành nhiều thành phần: từ một nền kinh tế
căn bản dựa trên quốc doanh và kinh tế tập thể theo quy định của HP 1980, trong lần
sửa đổi 1992 đã có “nới rộng” hơn145
, nhưng dù đã cam kết các thành phần kinh tế
đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 22), song trong Hiến pháp 1992 lại có những quy
định mang tính phân biệt, ví dụ Điều 19 quy định kinh tế nhà nước là chủ đạo, đầu tư
nước ngoài được khuyến khích (Điều 25), trong khi lại không thấy khuyến khích kinh
tế tư bản tư nhân trong nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu hóa thì sự
chia cắt như vậy sẽ làm thui chột sáng kiến kinh doanh và làm hại cho nền kinh tế. Rõ
ràng là thực tế kinh tế và xu hướng ngày nay cho thấy không thể phân biệt đối xử như
vậy.
Bảng dưới đây khái quát chất lượng thể chế ở Việt Nam được đo lường liên tục
trong thập niên 2000-2010.
144
Vũ Duy Nghĩa (Đại Học Kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh) trong bài đóng góp cho Hiến Pháp
1992 và tái cấu trúc nền kinh tế; Vũ Hùng Cường (Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam) trong
nghiên cứu về thành phần kinh tế tư nhân.
145 Bản Hiến pháp 1992 đã ghi nhận nền kinh tế với các thành phần kinh tế, xem Điều16 của Hiến
pháp 1992 và được quy định chi tiết hơn cho kinh tế nhà nước (Điều 19), kinh tế tập thể (Điều 20),
kinh tế tư bản tư nhân (Điều 21), khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 25). Tuy nhiên,
kinh tế tư nhân đã bị lướt qua.
255
Vấn đề 2: Coi sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng, kinh tế nhà
nƣớc là chủ đạo? Các Điều 15, 19 của Hiến pháp 1992 nhấn mạnh vào vai trò chủ
đạo của nền kinh tế nhà nước (quốc doanh), đầu tư nhà nước và sở hữu toàn dân. Đây
là nội dung không đúng cả về lý luận và thực tiễn. Trong Hiến pháp không nên phân
chia thành phần, mà chỉ nên nói các loại hình sở hữu được đối xử bình đẳng. Còn quy
định kinh tế nhà nước là chủ đạo sẽ không thích hợp với các quy định quốc tế và thực
tế cho thấy sẽ làm nền kinh tế tiếp tục trì trệ.
Vấn đề 3: Thực hiện sở hữu toàn dân. Trên thực tế, trong đất nước có đa sở
hữu thì sở hữu toàn dân là cần thiết tồn tại. Nhưng tất cả lại giao về cơ quan quản lý,
thậm chí giao cho người đứng đầu các địa phương, các Bộ, ngành, với các quy định mơ
hồ và thiếu trach nhiệm giải trình, thì trên thực tế đã biến của chung thành của riêng,
với tư duy nhiệm kỳ rất phổ biến hiện nay. Hơn nữa, sở hữu tư nhân đã phát triển mạnh
mẽ, sở hữu của các nhà tư bản, cư dân đô thị đã được bảo vệ ngày càng vững chắc,
nhưng quyền sử dụng đất của người nông dân còn khá mong manh, đất đai của nông
dân dễ dàng bị thu hồi vĩnh viễn với giá do nhà nước ấn định. Trên thực tế, các tài sản
trên đất và kế sinh nhai gắn liền đã bị coi nhẹ. Nghịch lý này tạo ra bất công xã hội lớn,
một mặt hạn chế đầu tư lâu dài vào khu vực nông nghiệp và nông thôn, biến nông dân
trở thành lực lượng xã hội gánh chịu chi phí cho quá trình cải cách, mặt khác tạo cơ hội
cho tham nhũng và băng hoại đạo đức công chức và uy tín của chính quyền.
PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa nhấn mạnh rất đúng rằng, Hiến pháp sửa đổi phải
tuyên bố mạch lạc hơn, buộc chính quyền phải bị giám sát chặt chẽ hơn khi can thiệp
vào tài sản tư của người dân. Quan chức nhà nước, các tập đoàn kinh tế nhà nước,
những doanh nghiệp có cơ hội tiệp cận các nguồn tài nguyên quốc gia, từ hầm mỏ, khai
khoáng, đất đai, bờ biển, mua sắm công cho đến đấu thầu đăng ký xuất khẩu (ví dụ
gạo), những độc quyền kinh tế (ví dụ phân phối xăng dầu, điện lực) trên thực tế là
những người có ưu thế kiểm soát các tài nguyên kinh tế ở Việt Nam. Đảm bảo công
bằng, quá trình này cần được minh bạch và bị kiểm soát, làm cho mọi người dân đều có
cơ hội tiệp cận rộng rãi hơn với những cơ hội này, đây cần là một tuyên bố chính trị
nhằm kiểm soát và phân phối phúc lợi một cách công bằng. Sở hữu công cộng, kiểm
soát đầu tư công, khuyến khích và bảo đảm cạnh tranh cần được đánh giá để thể hiện
thành một tuyên bố mạch lạc hơn, thể hiện sự chấp nhận rộng rãi hơn nguyên tắc cạnh
tranh và tự chịu trách nhiệm trong đời sống kinh tế.
Vấn đề 4: Xem xét lại vấn đề quyền đại diện sở hữu toàn dân của Chính phủ
(Điều 112.4 Hiến pháp 1992): Cụ thể hóa các Điều 16, 17 và Khoản 4 Điều 112 Hiến
pháp 1992, theo Khoản 6 Điều 9 Luật tổ chức Chính phủ 2001, Chính phủ trở thành chủ
thể thực thi quyền quản lý và sử dụng tài sản thuộc sở hữu toàn dân và tài nguyên quốc
gia, trong đó bao gồm: (i) thực thi quyền chủ sở hữu đối với toàn bộ tài nguyên đất đai,
(ii) thực thi quyền sở hữu đối với các doanh nghiệp có phần vốn góp của Nhà nước, (iii)
thực thi các quyền đầu tư công từ tài sản quốc gia. Đây là những quyền lực cực kỳ to
256
lớn, cần được thảo luận có nên trao cho Chính phủ hay những thiết chế ủy thác giám sát
công sản khác thực hiện.
Vấn đề 5: Tăng cƣờng bảo hộ sở hữu tƣ nhân. Sở hữu tư nhân của người
dân cần được Nhà nước bảo hộ một cách hiệu quả, đặc biệt là các tài sản có giá trị như
nhà đất và các tài sản do lao động và đầu tư từ nhiều năm mà có (kể cả đầu tư nước
ngoài). Cam kết không quốc hữu hóa, hoặc trưng mua, trưng dụng vì lý do an ninh,
quốc phòng, lợi ích quốc gia của Điều 23 là một đảm bảo tốt, song cần được đẩy
mạnh thành thái độ bảo hộ sở hữu tư nhân của Nhà nước, ví dụ thể hiện qua hệ thống
đăng ký vật quyền thống nhất. Chế độ sở hữu hiện hành, ví dụ nhà đất, hiện nay được
quản lý phân tán, đăng ký quyền sử dụng đất tách với các giao dịch bảo đảm liên quan
đến sở hữu nhà ở, từ đây cần nhấn mạnh trách nhiệm bảo đảm sở hữu tư nhân của Nhà
nước. Cũng như vậy, quyền sử dụng đất của nông dân được bảo hộ yếu, dễ bị thu hồi
vì các lý do được định nghĩa rộng hơn nhiều quy định tại Điều 23 Hiến pháp 1992,
ngoài ra cần lưu ý nhà, công trình xây dựng của nông dân là tài sản tư nhân, nếu chiểu
theo Điều 23 Hiến pháp 1992 không thể thu hồi, di dời và đền bù, mà phải tuân theo
các quy định khắt khe của trưng mua.
Vấn đề 6: Giới hạn điều tiết (hành chính) của Nhà nƣớc đối với nền kinh
tế. Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp bằng các luật lệ và công cụ thông qua chính
sách điều tiết hoặc các chính sách thuế, song cần nhấn mạnh kỷ luật thị trường như
quy định trong Hiến pháp. Sự điều tiết của Nhà nước phải được đặt vào những giới
hạn146
, Nhà nước chỉ can thiệp khi thị trường thất bại, mục đích can thiệp nhằm phân
bổ phúc lợi, Nhà nước khuyến khích và tôn trọng tự do cạnh tranh, coi đó là sức ép tự
điều tiết tốt nhất của nền kinh tế trong bối cảnh mới.
Những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và thực thi thể chế kinh tế cho Việt
Nam nhiều bài học quý, nhưng phải làm từng bước, ngày càng hoàn thiện.
2. Về nguồn nhân lực và khoa học công nghệ
Điểm mới trong tư duy của Đại hội Đảng lần thứ XI là, một mặt, khẳng định
vai trò chủ thể của con người. Mặt khác, chỉ rõ để con người có điều kiện phát triển
toàn diện và thực sự là chủ thể, cần phải có cơ chế thích hợp. Cơ chế đó là mở rộng
dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy tối đa quyền
làm chủ của mình. Bởi lẽ, dân chủ là một trong những điều kiện căn bản nhất để phát
huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người. Đồng thời, một khi dân chủ được bảo đảm
đầy đủ sẽ tạo ra sự đồng thuận xã hội cao, đó là yếu tố không thể thiếu để tạo động lực
phát triển đất nước.
Đại Hội XI đã xác định phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao, là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay
đến năm 2020. Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã chỉ rõ, để thực hiện thắng
lợi công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tức là, chuyển hướng chiến lược phát triển
nguồn nhân lực theo chiều rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng chất lượng của
nguồn nhân lực. Song, Đại hội Đảng lần thứ X cũng như các kỳ đại hội trước chưa xác
định đó là khâu đột phá, là những khâu trọng yếu của sự phát triển. Lựa chọn đúng
146
Mấy năm qua cho thấy, sự can thiệp hành chính, chỉ thị hành chính quá nhiều đã làm ảnh hưởng đến vai
trò “tự động” pháp luật và các quy định của thể chế kinh tế. Nó không chỉ làm cho quản lý xã hội bị rối mù, mà có thể bị các Nhóm lợi ích và một số quan chức xấu có thể sẽ lợi dụng.
257
khâu đột phá sẽ tạo ra những tiền đề, những điều kiện và môi trường thuận lợi để giải
phóng mọi tiềm năng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Trong ba
khâu đột phá chiến lược mà Đảng ta xác định thì “phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được xem là khâu đột phá thứ hai.
Đại Hội XI cũng nêu nhiệm vụ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Trong điều kiện khoa học -
công nghệ và kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng, những nước có trình độ phát triển
thấp vẫn có thể tận dụng thời cơ, ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ
hiện đại để vươn lên tránh nguy cơ tụt hậu và tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững. Điều
đó chỉ trở thành hiện thực nếu có sự gắn kết chặt chẽ giữa đầu tư gia tăng nhanh chóng
chất lượng nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến.
Điều rất đáng tiếc là nhiều vấn đề về phát triển nguồn nhân lực và khoa học
công nghệ đã chưa ra nổi nghị quyết, chưa ban hành được Luật giáo dục mới mang
tính đổi mới toàn diện, chứ chưa nói tới xây dựng chương trình hành động, dù Chính
phủ đã thông qua một số quy hoạch phát triển nguồn nhân lực dài hạn147
. Về khoa học
công nghệ, tuy đã ban hành Luật mới, nhưng triển khai thực tế còn rất hạn chế, vì
KHCN còn tách rời cuộc sống, mới chủ yếu chú ý đến khoa học công nghệ “quốc
doanh”, dùng vốn Nhà nước, mà chưa tính đến khoa học công nghệ quốc dân, được
huy động nguồn lực nhiều mặt của các thành phần kinh tế, của doanh nghiệp FDI và
Việt kiều ở nước ngoài. Về giáo dục và đào tạo, chúng ta còn ham dạy chữ, nhưng
việc đào tạo người, đào tạo nghề và đào tạo suốt đời lại chưa được chú ý đúng mức.
Do đó, chất lượng các chỉ tiêu lao động qua đào tạo còn rất hình thức.148
3. Về kết cấu hạ tầng đồng bộ
Đối chiếu với hoàn cảnh nước ta, đầu tư hạ tầng giao thông, năng lượng, cấp
thoát nước, viễn thông chiếm khoảng 9-10% GDP, và tỷ trọng lớn hơn trong đầu tư
công và sử dụng vốn ODA. Nhờ đó, hệ thống năng lượng điện, giao thông, viễn
147 Chiến lược và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực đến 2020 ghi rõ: phấn đấu đến năm 2020 đạt được một số
chỉ tiêu chủ yếu phát triển nguồn nhân lực là: tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề
là 55%; số sinh viên đại học - cao đẳng là 400 sinh viên/10.000 dân; có hơn 10 trường dạy nghề và trên 04
trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế. Về chỉ tiêu nâng cao thể lực nhân lực, phấn đấu tuổi thọ trung bình của lao
động là 75 tuổi, chiều cao trung bình của thanh niên là 1,65m, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi nhỏ hơn
5%. Với quan điểm chỉ đạo phát huy vai trò quyết định của yếu tố con người, phát triển nhân lực là khâu đột phá
để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; phát triển nhân lực toàn diện về thể lực, tri thức,
kỹ năng, hành vi và ý thức chính trị, xã hội tuy nhiên vẫn cần phải có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng phát triển
nhân tài, xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành. Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành cần phải chú trọng đến các
giải pháp thiết thực để phát triển nhân lực, đào tạo nhân lực phải gắn với nhu cầu xã hội, nhu cầu của thị trường
lao động; sử dụng, đánh giá và đãi ngộ nhân lực phải dựa vào năng lực và kết quả, hiệu quả công việc; khắc
phục tâm lý và hiện tượng quá coi trọng, đề cao “bằng cấp” một cách hình thức trong tuyển dụng và đánh giá nhân lực…. Thủ tướng cũng giao các Bộ, ngành, các địa phương và đơn vị, tổ chức xây dựng quy hoạch, đề án
phát triển nhân lực thuộc phạm vi quản lý; lồng ghép các mục tiêu, quan điểm và giải pháp phát triển của Chiến
lược vào quy hoạch, chương trình và đề án phát triển nhân lực của ngành, địa phương và đơn vị, tổ chức. 148
Theo kế hoạch 5 năm và Chiến lược 10 năm hiện nay, số lao động qua đào tạo tăng thêm mỗi năm
trung bình 1,5 triệu người, tức là bằng toàn bộ lực lượng lao động tăng thêm, nhưng được đào tạo theo
chương trình nào, tại cơ sở đào tạo nào chưa được làm rõ! Thậm chí, số lao động thất nghiệp cũng được thống kê thiếu chính xác do vận dụng khái niệm “thất nghiệp” của các nước không phù hợp.
Ngay việc xuất khẩu lao động cũng là nhằm tăng thu nhập là chính, còn việc học tập để nâng cao trình
độ về phục vụ đất nước lau dài cũng chưa được chú ý đúng mức. Việc chuyển giao công nghệ tại các dự án FDI cần được quan tâm hơn.
258
thông, cấp thoát nước đã được cải thiện đáng kể về điện lực149
, giao thông (đường bộ,
dường sắt, đường thủy, đường hàng không và đường ống)150
, viễn thông, cấp thoát
nước và đô thị, v.v...
Các mục tiêu này được định ra, kèm theo các định hướng và giải pháp khá đầy
đủ. Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai, có thể thấy một số điểm có thể góp ý:
Về mục tiêu hạ tầng giao thông:
Việc xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông đã được lưu ý, nhưng các quy hoạch còn
thiếu đồng bộ. Trong điều kiện ngân sách phân cấp khá triệt để như hiện nay và chia cắt
mạnh ngân sách theo các tỉnh (sử dụng đến 70% toàn bộ ngân sách từ các nguồn) thì sự
phối hợp trên phạm vi từng vùng lãnh thổ rất kém151
. Đặc biệt sự phối hợp đồng bộ của các
phương thức vận tải trong vùng và xét trong điều kiện hội nhập chưa được tính đến đầy đủ
(như các tuyến đường của tiểu vùng sông Mekong GMS hay kết nối với các nước trong
vùng với Trung Quốc trong hội nhập)152
.
149
Hệ thống điện Việt Nam gồm có các nhà máy điện, các lưới điện, các hộ tiêu thụ được liên kết
với nhau thành một hệ thống để thực hiện 4 quá trình sản xuất, truyền tải, phân phối và tiêu thụ điện năng trong lãnh thổ Việt Nam. Các yếu tố quan trọng là các Nhà máy điện và Lƣới điện, làm nhiệm
vụ truyền tải và phân phổi điện năng từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Ở Việt Nam lưới hệ thống do
A0 quản lý, vận hành ở mức điện áp 500 KV. Lưới truyền tải bao gồm từ 110-220KV; lưới phân phối đến các trạm phụ tải (trạm phân phối). Lưới phân phối trung áp (6-35kV)do sở điện lực tỉnh quản lý
và phân phối hạ áp (380/220V). 150
Hệ thống đƣờng bộ
Hệ thống đường bộ chính tại Việt Nam bao gồm các con đường quốc lộ, nối liền các vùng, các tỉnh cũng
như đi đến các cửa khẩu quốc tế với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Tổng chiều dài các con đường kể trên là
14.790,46 km, trong khi đó toàn bộ các tuyến quốc lộ của Việt Nam có tổng chiều dài khoảng 17.300 km, với gần 85% đã tráng nhựa. Ngoài các đường quốc lộ còn có các đường tỉnh lộ, nối các huyện trong tỉnh, huyện lộ
nối các xã trong huyện. Các tuyến tỉnh lộ có tổng chiều dài khoảng 27.700 km, với hơn 50% đã tráng nhựa.
Hệ thống đƣờng sắt :
Hệ thống đường sắt Việt Nam có tổng chiều dài khoảng 2600 km, trong đó tuyến đường chính nối Hà Nội –
Thành phố Hồ Chí Minh dài 1726 km, toàn ngành có 302 đầu máy, 1063 toa tàu chở khách và 4986 toa tàu chở
hàng. Các tuyến đường sắt từ Hà Nội: Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh: 1726 km, được gọi là Đường sắt Bắc Nam; Hà
Nội - Thái Nguyên; Hà Nội – Lào Cai: 296 km; Hà Nội – Hải Phòng: 102 km; Hà Nội – Đồng Đăng: 162 km; Hà
Nội - cảng Cái Lân: 180 km (chở hàng). Đường sắt Việt Nam hiện gồm có hai loại đội tàu hỏa là tầu khách và tầu
hàng. Hiện nay phần lớn đường sắt Việt Nam (khoảng 2249 km) dùng khổ rộng 1,0 m, và toàn tuyến đường sắt
Bắc Nam dùng khổ 1,0 m. Có 180 km dùng khổ 1,435 m là tuyến đường Hà Nội - cảng Cái Lân dùng cho tàu chở
hàng.
Hệ thống đƣờng thủy
Các tuyến đường thủy nội địa dựa theo các con sông chính như: sông Hồng, sông Đà ở miền Bắc; sông
Tiền, sông Hậu ở miền Tây Nam Bộ và sông Đồng Nai, sông Sài Gòn ở miền Đông Nam Bộ. Tổng chiều dài của
tất cả các loại sông, kênh, rạch trên lãnh thổ Việt Nam khoảng 42.000 km (sông Hồng với khoảng 541 km; sông
Đà khoảng 543 km….). Hệ thống đường thủy Việt Nam hiện đang đảm nhiệm 30% tổng lượng hàng hóa lưu
chuyển trong nước, riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đảm nhiệm tới 70% lưu thông hàng hóa trong vùng.
Các cảng biển chính hiện nay gồm: cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân ở miền Bắc, cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn ở
miền Trung và cảng Sài Gòn, cảng trên sông Thị Vải ở miền Nam...
Hệ thống đƣờng hàng không
Hệ thống đường hàng không Việt Nam bao gồm cơ sở hạ tầng là các sân bay quốc tế và các sân bay nội địa.
Các hãng hàng không của Việt Nam và một số quốc gia khác cùng khai thác. Các sân bay quốc tế gồm: Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, Sân bay quốc tế Nội Bài, Sân bay quốc tế Đà Nẵng, Sân bay quốc tế Phú Bài, Sân bay quốc
tế Cam Ranh, Sân bay quốc tế Cát Bi, Sân bay quốc tế Trà Nóc… Việt Nam hiện nay có khoảng gần 30 sân bay
các loại có bãi đáp hoàn thiện, trong đó có 8 sân bay có đường băng dài trên 3.000 m có khả năng đón được các
máy bay loại cỡ trung trở lên như Airbus A320, Airbus A321… 151 Trong số 15 Khu kinh tế ven biển đã tập trung xây dựng cho 5 khu, nhưng chất lượng cũng rất yếu kém. Đến nay
lại có chủ trương tập trung cho phát triển 4 khu hành chính kinh tế thì sợ nguồn lực còn phân tán hơn. 152
Khi quy hoạch phát triển ngành năng lượng hay cảng hàng không, một số người có ý kiến chưa tán
thành căn cứ tổng cầu của Việt nam, mà chưa tính đến Việt Nam cần tính chiến lược phát triển trong hội nhập, có thể gắn kết với cả vùng Đông Nam Á.