TÌM HIỂU VỀ ĐẤT NGẬP NƯỚC
Đất ngập nước là hệ sinh thái quan trọng trên Trái Đất.Hệ sinh thái này từ kỉ
cacbon là môi trường đầm lầy, đã sản sinh ra nhiều nhiên liệu hóa thạch mà hiện con
người đang sử dụng. Đất ngập nước rất quý, nó là những nguồn tài nguyên có giá trị
kinh tế cao, là bồn chứa cacbon, nơi bảo tồn gen và chuyển hóa các vật liệu hóa học,
sinh học. Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy , giá trị kinh tế của đất ngập nước lên
tới 14,9 nghìn tỷ USD, chiếm 45% tổng giá trị của tất cả hệ sinh thái tự nhiên trên toàn
cầu. Con số này phản ánh các giá trị và chức năng lớn lao của đất ngập nước. Đất ngập
nước đôi khi còn được mô tả như những “quả thận của sinh cảnh” do chúng thực hiện
các chu trình thủy văn và hóa học, là những nơi thu nhận ở hạ nguồn các chất thải có
nguồn gốc tự nhiên và nhân sinh. Chúng làm sạch nước ô nhiễm, ngăn ngừa ngập lụt,
bảo vệ bờ biển và tái nạp tầng chứa nước ngầm. Đồng thời, đất ngập nước còn là nơi
cư trú của nhiều động vật hoang dã.
Tuy nhiên hiện nay,sự suy giảm ĐNN cả về số lượng và chất lượng ngày càng
gia tăng nhanh chóng trên thế giới cũng như Việt Nam, gây nhiều hậu quả nghiêm
trọng. Do đó, cần có những biện pháp,cũng như sự quản lý và bảo vệ ĐNN ngày càng
hữu hiệu hơn, phát huy vai trò to lớn của ĐNN.
I. ĐỊNH NGHĨA VỀ ĐẤT NGẬP NƯỚC :
I.1 Định nghĩa:
Thuật ngữ đất ngập nước được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy theo quan điểm, người ta có thể chấp nhận các định nghĩa khác nhau. Hiện nay có khoảng 50 định nghĩa về đất ngập nước đang được sủ dụng (theo Dugan, năm 1990).
Các định nghĩa về đất ngập nước theo định nghĩa rộng như định nghĩa của công ước Ramsar, định nghĩa theo các chương trình điều tra đất ngập nước của Mỹ, Canada, New Zealand và Oxtraaylia.
- Theo công ước Ramsar (năm 1971), đất ngập nước được định nghĩa như sau:
Theo công ước RamSar,( Điều 1.1), các vùng đất ngập nước được định nghĩa như sau: “Các vùng đầm lầy, đầm lầy đất trũng, vùng đất than bùn hoặc nước, tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước đứng hay chảy, nước ngọt, lợ hay mặn, kể cả những vùng nước biển với độ sâu ở mức triều thấp, không quá 6m”.Ngoài ra, Công ước ( Điều 2.1) còn quy định các vùng đất ngập nước: “ Có thể bao gồm các vùng ven sông và ven biển nằm kề các vùng đất ngập nước, cũng như các đảo hoặc các thuỷ vực biển sâu hơn 6m khi triều thấp, nằm trong các vùng đất ngập nước”.
- Theo chương trình quốc gia về điều tra đất ngập nước của Mỹ:
“Về vị trí phân bố, đất ngập nước là những vùng đất chuyển tiếp giữa những hệ sinh thái trên cạn và hệ sinh thái thủy vực. Những nơi này mực nước ngầm thường nằm sát mặt đất hoặc thường xuyên được bao phủ bởi lớp nước nông”. Đất ngập nước phải có ba thuộc tính sau ( theo Cowardin và cộng sự, năm 1979) :
Có thời kỳ nào đó, đất thích hợp cho phần lớn các loài thực vật thủy sinh. Nền đất hầu như không bị khô. Nền đất không có cấu trúc không rõ rệt hoặc bão hòa nước, bị ngập nước ở
mức cạn tại một số thời điểm nào đó trong mùa sinh trưởng hàng năm.- Theo các nhà khoa học Canađa: “Đất ngập nước là đất bão hòa nước trong thời
gian dài đủ để hỗ trợ cho các quá trình thủy sinh. Đó là những nơi khó tiêu hóa nước, có thực vật thủy sinh và các hoạt động sinh học thích hợp với môi trường ẩm ước”.
- Theo các nhà khoa học New Zealand: “Đất ngập nước là một khái niệm chung để chỉ những vùng đất ẩm ước từng thời kỳ hoặc thường xuyên. Những vùng ngập nước ở mức cạn và những vùng chuyển tiếp giữa đất nước. Nước có thể là nước ngọt, nước mặn hoặt nước lợ. Đất ngập nước ở trạng thái tự nhiên hoặc đặc trưng bởi các loài thực vật và động vật thích hợp với điều kiện sống ẩm ướt”
- Theo các nhà khoa học Oxtraylia: “Đất ngập nước là vùng đầm lầy, bãi lầy than bùn, tự nhiên hoặc nhân tạo, thường xuyên, theo mùa hoặc theo chu kỳ, nước tỉnh hoặc nước chảy, nước ngọt, nước lợ hoặc nước mặn, bao gồm cả bãi lầy và những khu rừng ngập mặn lộ ra khi thủy triều xuống thấp”.
- Định nghĩa do các kỹ sư quân đội Mỹ đề xuất và là định nghĩa chính thức tại Mỹ: “Đất ngập nước là những vùng đất bị ngập hoặc bão hòa giữa nước bề mặt hoặc nước ngầm một cách thường xuyên và thời gian ngập đủ để hỗ trợ cho tính ưu việt của thảm thực vật thích nghi điển hình trong những điều kiện đất bão hòa
nước”. Đất ngập nước nhìn chung gồm: đầm lầy, đầm phá, đầm lầy cây bụi những vùng đất tương tự.
Những định nghĩa trên theo nghĩa hẹp, nhìn chung đều xem đất ngập nước như đới chuyển tiếp sinh thái ( Ecotone), những diện tích chuyển tiếp giữa môi trường trên cạn và ngập nước, những nơi mà sự ngạp nước của đất gây ra sự phát triển của một hệ thực vật đặc trưng ( theo Coward và cộng sự, năm 1979; Enny, năm 1985).
Hiện nay, định nghĩa theo công ước Ramsar là định nghĩa được nhiều người sử dụng.
I.2. Phân loại:
Trên thế giới:
Theo Mỹ: 4 nhóm chính:
- Các vùng nước ngọt nội địa:
Những lưu vực, đồng bằng ngập lụt theo mùa
Đồng cỏ nước ngọt
Bãi lầy nước ngọt nông
Bãi lầy nước ngọt sâu
Nước ngọt trống trải (nước có độ sâu dưới 2m)
Đầm lầy cây bụi
Đầm lầy rừng cây gỗ
Bãi lầy
- Các vùng nước mặn nội địa:
Đồng bằng mặn
Bãi lầy mặn
Nước măn thông thoáng
- Các vùng nước ngọt ven biển
Đầm lầy nước ngọt nông
Đầm lầy nước ngọt sâu
Nước ngọt trống trải (những phần nông của nước trống trải dọc theo các
con sông nước ngọt, thủy triều và các eo biển.
- Các vùng mặn ven biển
Vùng đất bằng mặn
Đồng cỏ nước mặn
Đầm lầy ngập nước mặn không thường xuyên
Đầm lầy ngập nước mặn thường xuyên
Các eo biển và vịnh
Đầm lầy rừng ngập mặn
Cách phân loại này được phổ biến rộng ở Mỹ cho đến năm 1979.
Phân loại đất ngập nước theo công ước Ramsar: gồm 22 loại:
1) Biển và eo biển cạn (sâu dưới 6m khi thủy triều thấp)\
2) Các cửa sông, châu thổ
3) Các đảo nhỏ ngoài khơi
4) Bờ biển có đá
5) Bãi biển (bãi cát, sạn)
6) Bãi bùn, bãi cát vùng gian triều
7) Đầm lầy rừng ngập mặn, rừng ngập mặn
8) Những đầm phá nước mặn hay nước lợ ven biển
9) Ruộng muối (nhân tạo)
10) Ao tôm, cá
11) Các dòng
chảy chậm (ở hạ lưu)
12) Các dòng
chảy nhanh (ở thượng lưu)
13) Các hồ tạo
nên do dòng sông chết và đầm lầy ven sông
14) Hồ nước
ngọt và đầm lầy ven hồ
15) Ao nước
ngọt
16) Hồ nước
mặn, bãi sình lầy
17) Các hồ chứa
nước, đập
18) Đồng cỏ,
trảng cỏ và trảng cây bụi ngập nước theo mùa
19) Đồng lúa
nước
20) Đất có khả
năng canh tác, đất được tưới nước
21) Rừng đầm
lầy, rừng ngập nước từng thời kỳ
22) Trũng than
bùn
Hệ thống phân loại đất ngập nước theo IUCN (1990)
Đất ngập nước mặn
Thuộc
biển
Dưới
triều
-Thủy vực không có cây, dưới 6m khi thủy triều thấp, bao gồm cả vịnh và
eo biển
-Thảm thực vật dưới triều bao gồm bãi biển cỏ nhiệt đới
- Rạn san hô
Gian
triều
- Bờ biển đá bao gồm vách đá và bờ đá
- Bờ biển có đá di động và đá cuội
- Bãi gian triều bùn, cát di động không có cây cối hoặc ruộng muối
- Trầm tích gian triều có cây bao gồm đầm lầy nước mặn và rừng
ngập mặn trên bờ biển có cây che khuất
Thuộc
cửa
sông
Dưới
triều
- Nước vùng cửa sông, nước thường xuyên ở cửa sông và hệ cửa
sông của châu thổ
Gian
triều
- Bãi gian triều bùn, cát hoặc bãi muối với rất ít thực vật
- Đầm lầy gian triều bao gồm đầm lầy nước mặn, bãi cỏ ngập mặn,
đầm lầy nước ngọt và nước hồ
- ĐNN có rừng gian triều bao gồm rừng ngập mặn, rừng dừa nước,
rừng đầm lầy nước ngọt vùng triều
Đầm, phá Phá nước lợ đến nước mặn với một hoặc nhiều cửa hẹp thông với biển
Hồ nước mặn Hồ, bãi và đầm lầy thường xuyên theo mùa, mặn hoặc nước lợ
Đất ngập nước ngọt
Thuộc
sông
Thường
xuyên
- Sông suối có nước thường xuyên kể cả thác nước
- Châu thổ nội địa
Tạm
thời
- Sông và suối có nước theo mùa và không có quy luật
- Đồng bằng ngập nước sông bao gồm đồng bằng ven sông, lưu vực
ngập nước, đồng cỏ ngập nước theo mùa
Thuộc
hồ ao
Thường
xuyên
- Hồ nước ngọt thường xuyên (>8ha), bao gồm cả vùng bờ ngập
nước theo mùa hoặc không quy luật
- Ao nước ngọt thường xuyên (< 8ha)
Theo
mùa
- Hồ nước ngọt theo mùa (>8ha) gồm hồ đồng bằng ngập nước
Thuộc
đầm
lầy
Có cây
nhô cao
- Đầm nước ngọt thường xuyên và đầm trên đất vô cơ với thực vật
vượt lên nước nhưng rễ của chúng lại nằm dưới mặt nước trong
phần lớn thời gian sinh trưởng
- Đầm lầy nước ngọt than bùn thường xuyên gồm đầm lầy trên thung
lũng cao vùng nhiệt đới do cây cói chỉ và cỏ nến chiếm ưu thế
- Đầm lầy nước ngọt trên đất vô cơ
- Đất than bùn
- ĐNN trên núi và các vùng cực bao gồm những đồng cỏ ngập nước
theo mùa được tuyết tan cung cấp nước tạm thời
- Suối phun nước ngọt và ốc đảo có cây cối bao quanh
- Lỗ phun khí của núi lửa được làm ẩm liên tục do hơi nước bốc lên
Có
rừng
- Đầm lầy cây bụi bao gồm cả đầm lầy nước ngọt có cây bụi chiếm
ưu thế
- Rừng đầm lầy nước ngọt, bao gồm cả rừng ngập nước theo mùa,
đầm lầy có rừng trên đất vô cơ
- Đất than bùn có rừng bao gồm rừng đàm lầy than bùn
Đất ngập nước nhân tạo
Nuôi trồng thủy
sản
- Ao nuôi trồng thủy sản bao gồm cả ao tôm và ao cá
ĐNN - Ao, bao gồm ao của trang trại, ao cá giống và ao nhốt cá
- Đất được tưới nước và kênh dẫn nước bao gồm ruộng lúa nước,
kênh và rạch
- Đất cày cấy ngập nước theo mùa
Làm muối - Ruộng muối và nước muối
Đất thành phố,
công nghiệp
- Nơi khai đào, bao gồm hầm khai thác sỏi và khai thác mỏ
- Nơi xử lý nước thải, ao xử lý
Nơi chứa nước - Hồ dùng để tưới và/ hoặc dùng cho sinh hoạt có mức nước thay đổi
hàng tuần hoặc hàng tháng
Phân lọai đất ở Việt Nam:
- Theo bảng phân loại ĐNN của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN –
1990), ĐNN Việt Nam có thể chia làm 3 hệ lớn đó là ĐNN ven biển, ĐNN nội
địa, và ĐNN nhân tạo, bao gồm 12 phụ hệ: Biển, cửa sông, đầm phá, hồ nước
mặn ven biển, sông, hồ, đầm lầy, vùng nuôi trồng thủy sản, đất nông nghiệp, nơi
khai thác muối, đất đô thị, đất công nghiệp.
- Theo hệ thống phân loại sử dụng trong xây dựng bản đồ đất ngập nước, phân
thành các cấp:
Đất ngập nước mặn chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển:
ĐNN mặn, ven biển:
ĐNN, ven biển, ngập triều thường xuyên
Đất ngập nước mặn, ven biển, ngập triều không thường
xuyên
Đất ngập nước mặn, ở cửa sông:
Đất ngập nước mặn, ở cửa sông, ngập thường xuyên
Đất ngập nước mặn, ở cửa sông, không thường xuyên
Đất ngập nước mặn, thuộc đầm phá:
Đất ngập nước mặn, đầm phá, ngập thường xuyên
Đất ngập nước mặn, đầm phá, ngập không thường xuyên
- Đất ngập nước ngọt ( không chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển)
Đất ngập nước ngọt thuộc sông, ngập thường xuyên
Đất ngập nước ngọt thuộc sông, ngập nước không thường xuyên
I.3. Các hệ sinh thái đất ngập nước:
Các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển:
- Các bãi lầy mặn ngập triều
- Đất ngập nước có rừng ngập mặn
- Các vùng đầm lầy ngập triều nước ngọt
Các hệ sinh thái đất ngập nước nội địa:
- Các vùng đầm lầy (hay sình lầy, bãi lầy) ngập nước ngọt
- Các loại đất ngập nước ven sông suối
- Rừng ngập nước ngọt nội địa và các vùng đất ngập nước ngọt nội địa chủ yếu ở
Việt Nam
II. VAI TRÒ CỦA ĐẤT NGẬP NƯỚC.
II.1 Vai trò của ĐNN đối với hệ sinh thái.
Đất ngập nước còn có vai trò quan trọng trong thiên nhiên và môi trường như :
- Lọc nước thải: một vùng đất ngập nước có giá trị khoảng vài chục hectar sẽ có
khả năng lọc và xử lý nước thải tương đương với một trạm xử lý nước nhiều
triệu dollars. Ước tính khoảng 70%N- NH4, 99% nitrir và N – NO3 và 95% P
tổng số hòa tan được loại bỏ khi nước thải đi qua ĐNN.
- Nạp và ổn định nước ngầm: nước được thấm từ các vùng đất ngập nước xuống
các tầng ngập nước trong lòng đất, nước được giữ ở đó và điều tiết thành dòng
chảy bề mặt ở vùng ĐNN khác cho con người sử dụng.
- Hạn chế ảnh hưởng lũ lụt: Bằng cách giữ và điều hào lượng nước mưa như “bồn
chứa” tự nhiên, giải phóng nước lũ từ từ, từ đó có thể làm giảm hoặc hạn chế lũ
lụt ở vùng hạ lưu.
- Điều hòa khí hậu, chống xói mòn, ổn định bờ biển, chắn gió bão. Cùng với Năm
quốc tế về Đa dạng sinh học do Liên Hợp Quốc tuyên bố, năm 2010 theo Công
ước Ramsar còn có chủ đề là “Đất ngập nước, Đa dạng sinh học và Biến đổi khí
hậu”. Đây là những vấn đề đang được thảo luận nhiều nhất trên thế giới, đặc biệt
khi biến đổi khí hậu đang ngày càng gia tăng ảnh hưởng trên toàn cầu. Trong
khi đó, nhiều nghiên cứu cho thấy, đất ngập nước có thể làm giảm những tác
động từ biến đổi khí hậu, mặc dù chúng chỉ chiếm 6-8% diện tích bề mặt Trái
đất. Chính bởi giá trị quan trọng đó, thông điệp cho Ngày Đất ngập nước Thế
giới năm nay (02/02/2010) là “Chăm sóc vùng đất ngập nước – giải pháp cho
biến đổi khí hậu”. Do chu trình trao đổi chất và nước trogn các hệ sinh thái, nhờ
lớp phủ thực vật của ĐNN, sự cân bằng của O2 và CO2 trong khí quyển làm cho
vi khí hậu đại phương được ổn định, đặc biệt là nhiệt độ và lượng mưa ổn định.
- Các HST đất ngập nước ven biển: rừng ngập mặn còn có vai trò trong việc mở
rộng đất đai, bồi tụ và tạo vùng đất mới. Ví dụ trong 60 năm gần đây, vùng bán
đảo Cà Mau bồi thêm được 8300ha, với tốc độ lấn biển khá mạnh:
+ 1930 – 1965 diên tích tăng 3442ha, tốc độ 13,5m/năm.
+ 1965 – 1985 diện tích tăng 1466ha, tốc độ 26,6m/năm.
+ 1985 – 1991 diện tích tăng 1466ha, tốc độ 38,2m/năm.
- Là nơi trú chân của nhiều loài động vật hoang dã, đặc biệt là các loại chim nước,
trong đó có nhiều loại quý hiếm, có ý nghĩa quốc tế. Các hệ sinh thái rừng ngập
mặn và rừng tràm có nhiều giá trị trong việc cung cấp sản phẩm, duy trì cân
bằng sinh thái và bảo tồn thiên nhiên; cung cấp nơi kiếm ăn, khu cư trú cho các
loài chim qúi hiếm như : Sếu đầu đỏ, cồng cộc , ô tác , giang sen...
II.2 Vai trò của ĐNN đối với con người:
- Đất ngập nước là những hệ sinh thái có năng suất cao, cung cấp cho con người
nhiều loại nhiên liệu, thức ăn:
Cung cấp 20% nguồn thực phẩm trên toàn cầu.
Hàng năm, đồng bằng sông Cửu Long cung cấp trên 40 % tổng sản lượng lương
thực của cả nước và là nơi cư ngụ của trên 17 triệu người.
Ngày nay, sản lượng lương thực và thủy sản của toàn đồng bằng đóng góp 1/3
tổng thu nhập quốc dân của cả nước.
Hệ sinh thái rừng tràm có vai trò rất quan trọng như: hạn chế quá trình sinh
phèn ở lớp đất mặt và nước mặt; lưu trữ lượng nước ngọt trong năm, duy trì độ
ẩm của đất; Rừng tràm còn góp phần điều tiết khí hậu, duy trì độ ẩm không khí
và hạn chế quá trình bốc hơi, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
- Nguồn lợi thuỷ hải sản: Các loài sinh vật nước như: cua, cá, tôm; cung cấp
dinh dưỡng, tài nguyên thiên nhiên cho con người Trong số 20.000 lòai cá
trên thế giới, hơn 40% sống trong nước ngọt, hơn 2/3 sản lượng cá có liên
quan đến sự lành mạnh của các vùng đất ngập nước);
- Nông nghiệp, thông qua việc duy trì các mức nước; Ví dụ, lúa là một thực
vật phổ biến của đất ngập nước, là nguồn thực vật của hơn một nửa nhân
loại. Các vùng đất ngập nước còn lại là những vật liệu di truyền thực vật.
- Sản xuất gỗ: HST rừng ngập mặn, rừng tràm,…
- Cung cấp các nguồn năng lượng, như than bùn và chất thực vật. Rừng tràm
có khoảng 305 triệu tấn than bùn.
- Các nguồn tài nguyên động vật hoang dã: Các vùng đất ngập nước hỗ trợ
cuộc sống của rất nhiều quần thể chim, động vật có vú, bò sát, lưỡng cư. cá
và các loài động vật không xương sống.
- Các cơ hội giải trí và du lịch: Các vùng đất ngập nước còn có các đặc tính
đặc biệt về di sản văn hoá của loài người. Các hệ sinh thái ĐNN có nhiều
thuận lợi cho du lịch sinh thái, xây dựng các khu dự trữ sinh quyển, các vườn
quốc gia,..Các khu bảo tồn ĐNN như: Tràm Chim (Đồng Tháp), Xuân Thủy
(Nam Định), nhiều vùng cảnh quan đẹp như Bích Động và Vân Long (Ninh
Bình), cũng như nhiều đầm phá miền Trung,…thu hút nhiều khách du lịch
tham quan, giải trí.
- Giao thông thủy: Hầu hết các kênh rạch, sông, các vùng hồ chứa nước lớn,
vùng ngập lụt thường xuyên hay theo mùa,…đặc biệt vùng đồng bằng sông
Cửu Long, vận chuyển thủy đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống
cũng như phát triển kinh tế của các cộng đồng địa phương.
III. TÌNH HÌNH PHÂN BỐ ĐẤT NGẬP NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT
NAM.
IV.1 Phân bố đất ngập nước trên thế giới.
Diện tích:
Vùng đất ngập nước lớn nhất trên thế giới là Pantanal kéo dài từ Brasil, Bolivia
và Paraguay ở Nam Mỹ
Trong đó tiêu biểu là các khu vực sau:
Camargue
Camargue bao gồm các sông Rhone thuộc đồng bằng ở phía Đông Nam của
Pháp . Khoảng một phần ba của Camargue là một trong hai hồ, đầm lầy. Đây là một
trong những nơi tốt nhất ở châu Âu để xem chim chóc. Nơi đây còn cung cấp một
trong những môi trường dành cho những con cò trưởng thành. Nó cũng nổi tiếng với
các Bull Camargue và Horse Camargue.
Vườn quốc gia Wasur
Vườn quốc gia Wasur là một vùng đất ngập nước lớn ở tỉnh Papua của Indonesia, trên
đảo New Guinea.Được mệnh danh là Serengeti của Papua do sự đa dạng sinh học lạ
thường của nó, Wasur duy trì một số lượng lớn các động vật quý hiếm và những loài
chim lạ. Nơi tốt nhất cho việc tìm kiếm động vật hoang dã tại Vườn quốc gia Wasur là
hồ Rawa Biru - một phần của vùng đất ngập nước. Có rất nhiều loài chim nước và
chim di cư ở đây cùng với đà điểu đầu mèo và Wallabies. Thật không may là công viên
tự nhiên các hệ thống đồng cỏ bị ngập nước đang bị đe dọa bởi sự xâm lấn của các loài
ngoại lai như lục bình và dương mai dương.
iSimangaliso
Công viên ngập mặn iSimangaliso (trước đây gọi là Greater St Lucia Park - vùng đất
ngập nước), là một trong những khu vực đa dạng nhất tại Nam Phi của tỉnh KwaZulu-
Natal. iSimangaliso nổi tiếng với những vùng đất ngập nước rộng lớn của nó, cồn cát,
bãi biển và các rạn san hô. Động vật sinh sống trên công viên bao gồm voi, beo, tê giác
trắng và đen, trâu, và trong đại dương, cá voi, cá heo, và rùa biển.
Kakadu
Công viên Quốc gia Kakadu là một công viên đa dạng về sinh học với kích cỡ
một nửa của Thụy Sĩ nằm ở Lãnh thổ phía Bắc Australia . Các vùng đất ngập nước của
công viên cung cấp một trong những nới sinh sống rộng lớn của động vật hoang dã.
Các loài cá sấu nước ngọt và nước mặn ngủ trên ven bở của nhiều con sông và
billabongs cho hầu hết trong ngày nhưng cũng có thể được nhìn thấy nổi lên hoặc bơi
ẩn mình trong nước.Song song đó nơi đây còn là mái nhà của những loài chim di trú về
đây mỗi năm.
Kerala backwaters
Là một chuỗi các đầm, hồ nằm song song với bờ biển Ả Rập ở bang Kerala ở
miền nam Ấn Đ . Mạng lưới này bao gồm năm hồ lớn được liên kết bởi các kênh rạch,
cả hồ nhân tạo và tự nhiên, với hơn 38 con sông. Backwaters là nơi duy nhất có nhiều
loài thuỷ sinh như cua, ếch và mudskippers, chim nước, động vật như rái cá và rùa.
Ngày nay, ghe thuyền được sửa sang lại để phục vụ du lịch - là hoạt động phổ biến
nhất ở Backwaters, với một số Kettuvallams lớn (thuyền lúa truyền thống, bây giờ
chuyển đổi thành khách sạn nổi) .
Okavango Delta
Đồng bằng sông Okavango ở Botswana là một trong những thế giới tuyệt vời
của đường thuỷ nội địa này.Nó được hình thành bởi nơi đổ vào sông Okavango một
lưu vực ở sa mạc Kalahari, nơi mà hầu hết các dòng nước của những con sông bị bốc
hơi do sức nóng thay vì đổ lại ra biển. Vùng đồng bằng Okavango nổi tiếng với nhiều
loại động vật hoang dã. Các loài bao gồm voi, hà mã, hươu cao cổ, cá sấu, sư tử, báo
gêpa, tê giác và ngựa vằn. Phần lớn các động vật có vú lớn ước tính có hơn 200.000
loài sinh sống quanh năm trong và xung quanh đồng bằng không có cư dân.
Sundarban
Sundarbans là vành đai rừng ngập mặn ven biển lớn nhất trên thế giới lan rộng
khắp Bangladesh và Tây Bengal ở Ấn Độ. Tên Sundarban có thể được dịch là "khu
rừng đẹp" trong tiếng Bengali. Một số động vật ăn thịt sống trong mê cung được xây
nên bởi các kênh, các nhánh và rễ con sông tạo nên các khu vực bao gồm khoảng 500
con hổ Bengal. Không giống như trong môi trường sống khác, ở đây hổ sống và bơi
trong số các hòn đảo ngập mặn, nơi chúng săn mồi là những con nai và heo rừng hoang
dã Chital. Các con hổ cũng thường xuyên tấn công và giết những người thợ săn trộm lơ
là. Cũng có một số loài bò sát là động vật ăn thịt tại đây, bao gồm hai loài cá sấu, các
cá sấu nước mặn và cá sấu mugger.
Pantanal
Pantanal là vùng đất ngập nước lớn nhất thế giới, nằm chủ yếu ở Tây Brazil mở
rộng sang Bolivia và Paraguay. Nổi tiếng với động vật hoang dã, nó là một trong
những điểm du lịch thu hút nhiều du khách của Brazil. Không giống như nhiều khu
sinh thái xung quanh trong Pantanal như hòa mình vào cuộc sống của những động vật
hoang dã tại đây. Capybara và Caiman Yacare dễ dàng được phát hiện tại đây trong số
những loài có nguy cơ tuyệt chủng.
IV.2 Phân bố đất ngập nước ở Việt Nam.
Việt Nam là một nước giàu các hệ sinh thái đất ngập nước, với diện tích ĐNN
hơn 10 triệu ha, chiếm 1/3 diện tích đất đai cả nước. Chủ yếu phân bố ở vùng châu thổ
sông Hồng (1,29 tr ha), sông Cửu Long (3,9 tr ha), các HST đầm phá, các bãi bùn, các
cửa sông và RNM phân bố dọc theo bờ biển kéo dài từ Móng Cái( Quảng Ninh) đến
Hà Tiên (Kiên Giang). Theo tài liệu “ Kiểm kê ĐNN Châu Á ( Scott, D.A. 1989), Việt
Nam có hơn 25 vùng ĐNN bước đầu được liệt kê.
Vùng đất ngập nước lớn nhất của Việt Nam là châu thổ sông Cửu Long bao gồm
hệ thống sông, ngòi, kênh, rạch chằng chịt, những cánh đồng bát ngát, rừng ngập mặn,
rừng chàm, các bãi triều, ao nuôi tôm, cá.
Ở miền Trung, các vùng đất ngập nước là các đầm phá ven biển, các hồ chứa
nước nhân tạo.
Ở miền Bắc, đất ngập nước là các hồ trong hệ thống lưu vực sông Hồng, những
bãi triều rộng lớn, những cánh rừng ngập mặn của châu thổ.
ĐNN ở Việt nam rất đa dạng về loại hình, chức năng, gắn liền với tính đa dạng
điều kiện tự nhiên của Việt Nam. Kế hoạch hành động Đa dạng sinh học của Việt Nam
(1995) đã xác định 61 khu đất ngập nước quan trọng và gần đây Cục Môi trường thuộc
Bộ tài nguyên & Môi trường đã đưa ra danh sách gồm 79 khu đất ngập nước có tầm
quan trọng Quốc Gia.
Các vùng ĐNN trên phân bố ở tất cả các vùng địa lý (Tây bắc, Việt Bắc, Đông Bắc,
đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam
Bộ ) và ở các địa hình khác nhau (miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển). Việt Nam
hiện có trên 60 vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế như: vườn quốc gia
Xuân Thủy (được công nhận là khu Ramsar), khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, vườn
quốc gia Tràm Chim, phá Tam Giang- Cầu Hai, Hồ Lak, hồ Ba Bể, bãi triều Tây Nam
Cà Mau, .v.v...
Riêng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có tổng diện tích phần đất liền là 4 triệu
ha. Gần 90% tổng diện tích tự nhiên của đồng bằng được coi là đất ngập nước, trong
thực tế đây là vùng đồng bằng đất ngập nước điển hình của vùng hạ lưu sông Mê-kông.
Hai hệ sinh thái rừng tiêu biểu đã hình thành trên các vùng đất ngập nước của đồng
bằng sông Cửu Long là hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh thái rừng tràm. Rừng
tràm tự nhiên còn lại chủ yếu tập trung tại các Vườn Quốc gia U Minh Thượng ( Kiên
Giang), Tràm Chim (Đồng Tháp), Khu bảo tồn thiên nhiên Vồ Dơi (Cà Mau), Vườn
chim Bạc Liêu), và một số nơi khác thuộc khu vực bán đảo Cà Mau.
IV. HIỆN TRẠNG SỬ DUNG ĐẤT NGẬP NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT
NAM
V.1. Hiện trạng trên thế giới:
Đất ngập nước hiện nay được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau trên thế
giới.
Diện tích đất ngập nước trên thế giới đang suy giảm.Theo ước tính, từ năm 1980 đến nay, 1,9 triệu ha các rừng ngập mặn của châu Á, một loại hình đất ngập nước đã bị phá hủy.
Ở một số nước đang phát triển – nơi tình trạng khủng hoảng nước đang là tồi tệ nhất – việc mất dần những vùng đất ngập nước đã buộc người dân phải đi bộ một khoảng xa hơn để lấy nước nấu ăn và sinh hoạt hàng ngày.
“Với sự biến mất của một nửa diện tích các vùng đất ngập nước trên thế giới, chúng ta cần có một cách nghĩ mới về vấn đề này, chúng ta cần phải coi đất ngập nước như là nguồn cung cấp và trữ nước chứ không phải là những vùng đất mà ta có thể khai thác đến kiệt quệ”, Jamie Pittock, Giám đốc Chương trình nước ngọt của Quỹ Quốc tế Vì Thiên nhiên (World Wildlife Fun- WWF) nói.
V.2. Hiện trạng ở Việt Nam:
Với vai trò to lớn của đất ngập nước, loại tài nguyên này được sử dụng rộng rãi ở
nước ta:
- Các vịnh nông và các eo biển có độ sâu 6m khi triều thấp: đây là vùng cư trú
của nhiều loài thân mềm, nhiều loại rong biển, san hô. Các khu vực này thường
phát triển đánh bắt thủy hải sản cũng như các hoạt động du lịch (vịnh Hạ Long,
Nha Trang,…)
- Các vùng cửa sông bãi triều: các vùng lầy cửa sông, đặc biệt là đồng bằng sông
Cửu Long, là nơi có năng suất sing học rất cao mà tai đây hàng triệu người đang
sinh sống và sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng đánh bắt
thủy hải sản.
- Nhũng vùng bờ biển có đá, vách đá, bãi cát hay sỏi: loại hình ĐNN này chưa
được nghiên cứu nhiều nhưng có nguồn lợi về hải sản và vật liệu xây dựng, sa
khoáng được sử dụng cho mục đích giải trí, du lịch, khai thác vật liệu xây dựng
và sa khoáng.Tiêu biểu là các tỉnh ven biển dọc miền Trung.
- Vùng đầm lầy ngập mặn, rừng ngập mặn: được khai thác và sử dụng cho mục
đích nông nghiệp, lâm nghiêp, nuôi trồng thủy hải sản cũng như phục vụ cho
giải trí.
- Những đầm phá ven biển được sử dụng cho nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản.
- Các sông, suối, kênh rạch ở nước ta được khai thác và sử dụng trong nhiều lĩnh
vực khác nhau: thoát lũ, giao thông, đánh bắt thủy hải sản,..
- Các hệ sinh thái đất ngập nước nhân tạo: ao nuôi tôm, cá được phát triển rộng
rãi ở nước ta, đặc biệt là các tỉnh ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu
Long.
- các hồ chứa nước tự nhiên (hồ Ba Bể, hồ Lắk, biển Hồ..) nhân tạo (hồ Dầu
Tiếng, hồ Hòa Bình, hồ Trị An, hồ Đa Nhim..,) được xây dựng phục vụ cho mục
đích nông nghiệp, tủy điện cũng như công tác điều tiết lũ, vận tải thủy,…
Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đất ngập nước Việt Nam chiếm
khoảng 10 triệu ha và nhiều vùng đất ngập nước đã bị suy giảm cả về chất lượng và số
lượng do hoạt động khai thác và sử dụng chưa hợp lý.
- Trong 15 năm qua, diện tích đất ngập nước tự nhiên đã giảm đi, diện tích đất ngập
nước nhân tạo tăng lên.
Cụ thể là các khu rừng ngập mặn tự nhiên ven biển đã mất dần, thay vào là các
đầm nuôi thủy sản, các công trình du lịch và một số ít diện tích trồng rừng.
Diện tích rừng ngập mặn đã giảm 183.724ha trong 20 năm qua (từ năm 1995).
Trong khi diện tích nuôi trồng thủy sản đã tăng lên 1,1 triệu ha năm 2003. Đến
năm 2007 diện tích đất ngập nước giảm mạnh
- Nhiều hệ sinh thái đất ngập nước chưa được biết đến và và chưa được điều tra,
đánh giá về chức năng sinh thái, tiềm năng kinh tế, giá trị bảo tồn đa dạng sinh
học.
- Chưa có qui hoạch tổng thể đất ngập nước cho mục đích bảo tồn và khai thác để
phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội. Các hệ sinh thái đất ngập nước ở nước ta
đang bị khai thác bừa bãi, không phù hợp với chức năng và giá trị kinh tế, sinh
thái nên hiệu qủa thấp, gây những hậu quả lâu dài khó khắc phục như chuyển
đổi ĐNN sang đất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Trong vòng 38 năm
( 1954- 1992), vùng ven bờ biển Hải Phòng, Quảng Yên đã dùng 6039ha bãi
triều ven biển để trồng lúa nước nên phần lớn bị bỏ hoang, một số ít vẫn trông
lúa nhưng năng suất rất thấp.
- Dân số gia tăng quá nhanh, phương thức và tập quán lạc hậu, sự nghèo đói tại
các vùng đất ngập nước và vùng xung quanh đã dẫn tới việc khai thác cạn kiệt
tài nguyên đất ngập nước, làm thu hẹp diện tích đất ngập nước và làm biến đổi
nhiều lọai hình đất ngập nước theo chiều hướng bất lợi.
- Môi trường sống, nơi di cư của nhiều lòai sinh vật bị phá hủy, bị ô nhiễm, đa
dạng sinh học và các nguồn tài nguyên ĐNN bị suy giảm nghiêm trọng do các
họat động kinh tế xã hội – nhân sinh như: (chiến tranh, chuyển đổi mục đích sử
dụng, xây dựng cơ sở hạ tầng và đào kinh thuỷ lợi, chất thải công nghiệp, đô thị
và sinh hoạt, nuôi trồng và chế biến thủy sản, đánh bắt thủy sản bằng phương
pháp có tính hủy diệt, chặt phá rừng ngập mặn, phá hủy rạn san hô và cỏ biển,
sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật và phân bón không hợp lý trong sản xuất nông
nghiệp, và các họat động kinh tế khác thiếu qui họach ...); và do các qúa trình tự
nhiên (xói lở, bão lũ, hạn hán, cháy rừng, mặn hóa, ngọt hóa...).
V. QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ ĐẤT NGẬP NƯỚC:
V.1. Công tác quản lý và bảo tồn:
ĐNN là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với hệ sinh thái và con người.
Tuy nhiên, hiện nay ĐNN đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng. Do đó quản lý và bảo
vệ ĐNN là một trong những vấn đề quan trọng, cần được tiến hành kịp thời.
Việc quản lý bảo vệ ĐNN được thực hiện thông qua các chính sách, luật và các quy
định từ khâu sử dụng đất đến phân vùng và xúc tiến việc thực thi pháp luật.
- Ngày 2/2/1971, thế giới đã thông qua “Công ước Ramsar về các vùng đất
ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, nơi cư trú của các loài chim nước”.
Công ước có mục tiêu tăng cường bảo vệ và sử dụng khôn khéo đất ngập
nước và nguồn lợi của chúng. Có 138 thành viên tham gia ký công ước, với
tổng số 1314 khu ĐNN, tổng số khoảng 111tr ha đã được công nhận trong
danh sách các khu ĐNN có tầm quan trọng Quốc tế theo Công ước Ramsar.
Từ đó, ngày 02/02 hàng năm được lấy làm Ngày Đất ngập nước Thế giới.
Cùng với Năm quốc tế về Đa dạng sinh học do Liên Hợp Quốc tuyên bố,
năm 2010 theo Công ước Ramsar còn có chủ đề là “Đất ngập nước, Đa dạng
sinh học và Biến đổi khí hậu.
- Ngày 20/9/1989, Việt Nam là quốc gia thứ 50 trên thế giới tham gia Công
ước Ramsar. Trong 15 năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực triển khai các
hoạt động nghiên cứu, kiểm kê, xây dựng các công cụ và kỹ thuật khác nhau
để bảo tồn, sử dụng, quản lý đất ngập nước (ĐNN) theo tinh thần của Công
ước Ramsar.
- Tại Việt Nam, công tác quản lý và bảo tồn ĐNN ngày càng được chú trọng
và đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ ĐNN.
+ Từ 1976 – 1999, Việt Nam đã xò hơn 500 văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên. Trong đó khoảng hơn 10
văn bản có những quy định trực tiếp về ĐNN.
+ năm 2003, Chính phủ đã ra Nghị định về bảo tồn và phát triển ĐNN (Nghị
định số 109/2003/ NĐ – CP ngày 23/9/2003), Nghị định có 6 Chương và 27
điều.
Chương I: những quy định chung, chương này nói rõ ĐNN bao gồm những hệ
sinh thái đặc thù, đa dạng sinh học cao, có chức năng duy trì nguồn nước và
cân bằng sinh thái, có tầm quan trọng quốc tế và quốc gia.
Chương I gồm từ điều 1 đến điều 7. Điều 5 của Ngị định này chỉ rõ các nội dung quản
lý Nhà nước về ĐNN gồm:
Điều tra, nghiên cứu về các vùng ĐNN.
Xây dựng cơ chế chính sách, luật pháp về bảo tồn và phát triển bền vững
các vùng ĐNN.
Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng các vùng ĐNN cho các mục đích bảo
tồn và các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
Quản lý các vùng ĐNN đã được khoanh vùng bảo vệ.
Quản lý các hoạt động khai thác nguồn lợi và tiềm năng các vùng ĐNN
thuộc các lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản, du lịch, giao thông, thủy lợi,
thủy điện và các lĩh vực khác có liên quan đến việc bảo tồn và phát triển
bền vững các vùng ĐNN.
Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với việc bảo tồn và phát triển bền
vững các vùng ĐNN.
Khuyến khích và tạo điều kiện để cộng đồng, dặc biệt là những người dân
sinh sống trên các vùng ĐNN tham gia vào việc bảo vệ các HST, đa dạng
sinh học và bảo vệ môi trường các vùng ĐNN.
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững các vùng
ĐNN.
Chương II. Điều tra, lập quy hoạch bảo tồn và phát triển các vùng ĐNN.
Chương III. Bảo tồn ĐNN.
Chương IV. Phát triển bền vững các vùng ĐNN.
Chương V. Khen thưởng và xử lý vi phạm.
Chương VI. Điều khoản thi hành.
- Bên cạnh đó, trong năm 2003 lần đầu tiên Chính phủ đã phê duyệt Chiến
lược quản lý Hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010 (QĐ
192/2003/QĐ – TTg ngày 17/9/2003)
Các khu bảo tồn ĐNN ở Việt Nam như: khu bảo tồn ĐNN Xuân Thủy (Nam
Định), Tràm Chim (Đồng Tháp), U Minh Thượng và Vồ Dơi (Kiên Giang),.
KẾT LUẬN:
Do quá trình phát triển kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế còn phải dựa nhiều vào việc
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Việt Nam đang gặp phải rất nhiều thách thức đối với
môi trường nói chung và các vùng đất ngập nước nói riêng. Đặc biệt là khi ĐNN có vai
trò vô cùng quan trọng đối với môi trường và cuộc sống của con người.Mặt khác, Việt
Nam là một trong năm nước sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu gây ra.
Do đó cần phải bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên quý giá này, nâng cao nhận
thức chung về ĐNN cho mọi tầng lớp nhân dân nhằm đảm bảo tính bền vững của hệ
sinh thái này, bảo vệ các giá trị đa dạng sinh học của nó.