Page 1
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
TÀI LIỆU ÔN THI HỌC KÌ 1 – NGỮ VĂN 12
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
I- NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ
1. Về bối cảnh lịch sử
Tuyên ngôn Độc lập ra đời trong một không khí cách mạng hết sức khẩn trương. Đây là
thời thời điểm mà tình hình trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi cho nhân dân Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Việt Minh giành chính quyền, giành lại nền độc lập dân tộc; đồng
thời, nguy cơ thực dân Pháp trở lại đô hộ nước ta là một sự thật khi mà phát xít Nhật đã đầu
hàng đồng minh. Bản Tuyên ngôn Độc lậptuyên bố trước nhân dân Việt Nam và toàn thể
cộng đồng quốc tế về nền độc lập của nhân dân Việt Nam đã giành được từ tay phát xít Nhật
để bác bỏ hoàn toàn âm mưu và tham vọng của thực dân Pháp đang lăm le quay lại đô hộ
Việt Nam.
2. Về thể loại “tuyên ngôn”
Trong lịch sử văn học chính luận thế giới đã từng có bản Tuyên ngôn Độc lậpcủa nước
Mĩ (Declaration of Independence) năm 1776. Đây là bản tuyên ngôn khẳng định nền độc lập
của nước Mĩ đối với nền thống trị của nước Anh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc và tham khảo
kinh nghiệm viếtTuyên ngôn Độc lập mà bằng chứng rõ rệt là việc Người dẫn lời Tuyên ngôn
Độc lậpnày. Người đã dịch rất hay, rất thành công những câu quan trọng nhất trong lời mở
đầu bằng bản Tuyên ngôn Độc lậpcủa Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa đã cho họ những quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (All
men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights,
that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness). Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của Cách mạng Pháp (Declaration of Rights of Man and The Citizen) cũng được
Người nghiên cứu và trích dẫn. NGười cũng đã dịch rất sáng tạo một tư tưởng quan trọng của
bản Tuyên ngôn Độc lậpnày: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn
luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Men are born and remain free and equal in rights).
Theo bình luận của một nhà nghiên cứu Mĩ, khái niệm all men trong bản Tuyên ngôn Độc
lậpMĩ, vào thế kỷ XVIII, thời điểm viết bản tuyên ngôn đó, chỉ bao hàm những người đàn
ông (người da trắng và có tài sản). Như thế thì all men trong bản dịch của Hồ Chí Minh là
“Tất cả mọi người” là một sáng tạo và tiến bộ hơn. Nhưng tất nhiên, hoàn cảnh đấu tranh
giành độc lập của nhân dân ta có những điểm khác, nhân dân ta không chỉ đấu tranh chống
Page 2
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
chế độ quân chủ phong kiến mà còn lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân.
Đây là áng văn chính luận, cái đẹp của tác phẩm toát lên từ tính logic của lập luận, sự
chính xác của tư liệu và sự kiện, cấu trúc chặt chẽ, câu văn ngắn gọn, sáng rõ và từ cảm xúc
của tác giả - nghĩa là trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và lý trí.
II- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Bố cục của bản Tuyên ngôn Độc lập
Bố cục của bản Tuyên ngôn Độc lậpphục vụ cho nhiệm vụ chung của toàn tác phẩm.
Toàn văn bản có thể chia thành 3 đoạn:
- Đoạn 1 (từ đầu đến “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”): Trích dẫn hai bản
tuyên ngôn nổi tiếng thế giới là Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngônNhân
quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 về quyền con người được hưởng tự do
và độc lập để từ đó suy rộng ra quyền tự do, độc lập của các dân tộc. Đoạn này thể hiện nghệ
thuật lập luận và sự uyên bác của tác giả. Để khẳng định tính chân lý của độc lập dân tộc,
không gì tốt hơn là dựa vào những tuyên bố mang tính chân lý của các văn kiện nổi tiếng thế
giới như hai bản tuyên ngôn đã được dẫn. Bởi lẽ chúng là tiếng nói chân lý khách quan, đã
quen thuộc với nhiều người, nhất là đối với người phương Tây. Mặt khác, để có được nghệ
thuật lập luận này, tác giả phải có học vấn uyên bác, đọc rộng, biết nhiều. Tác giả rõ ràng thể
hiện không chỉ là một vị lãnh tụ có lòng yêu nước, thương dân mà còn có cả trí tuệ sắc sảo,
học vấn uyên bác.
- Đoạn 2 (tiếp theo đến “lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”): Lên án tội ác nhiều mặt của
thực dân Pháp xâm lược đã gây ra đối với nhân dân ta trong hơn 80 năm, tố cáo sự bất lực, vô
trách nhiệm của Pháp trước đế quốc Nhật khi Nhật xâm chiếm Việt Nam năm 1940. Hai
mạch lập luận này dẫn đến kết luận tất yếu là nhân dân ta đứng lên lấy lại đất nước từ tay
Nhật chứ không phải từ tay Pháp và tuyên bố “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”,
nhân dân ta “đánh đỏ các xiềng xích thực dân gần 100 năm” (tức Pháp, Nhật) “đánh đổ chế
độ quan chủ” nhiều thế kỷ. Bản Tuyên ngôn Độc lậpvừa khẳng định nền độc lập, tự do của
dân tộc vừa nêu tính chất của cuộc cách mạng “Dân chủ Cộng hòa”.
- Đoạn 3 (phần còn lại): Tuyên bố độc lập hoàn toàn đối với thực dân Pháp và tinh thần
quyết đấu tranh để chống lại mọi âm mưu của thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Tác
giả đã khẳng định vấn đề độc lập của Việt Nam là phù hợp với nguyên tắc bình đẳng dân tộc
Page 3
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
mà cộng đồng thế giới đã khẳng định qua các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn – Xan
Phran-xi-xcô
Nhìn chung, mỗi đoạn giải quyết một vấn đề riêng, nhưng đều khẳng định quyền tất yếu được
hưởng tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam và quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy của các dân
tộc.
2. Nghệ thuật lập luận
Một văn kiện có ý nghĩa chính trị trọng đại được xây dựng trên cơ sở những lập luận
vững chắc, đanh thép, có sức thuyết phục; thể hiện trí tuệ sâu sắc và tình cảm yêu nước nồng
nàn của tác giả.
a) Kết tội thực dân Pháp
Chú ý sơ đồ hình cây của lập luận về tội ác của thực dân Pháp. Mô hình lập luận này nêu lên
nhận định tổng quát sau đó phát triển những lý lẽ chứng minh. “Bọn thực dân Pháp lợi dụng
lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của
chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Nhận định buộc tội này được làm rõ ràng các
phương diện chính trị, kinh tế. Trong các phương diện này, lại có những ý nhỏ, cụ thể hóa.
- Về chính trị: Tác giả vạch trần bản chất chính trị phản động của thực dân Pháp: “chúng
tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, “luật pháp dã man”, “lập ba
chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc” hòng ngăn cản việc thống nhất nước ta, “lập ra nhà tù
nhiều hơn trường học”, “thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta”, “thi
hành chính sách ngu dân”, “dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”.
- Về kinh tế: “Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy” khiến cho nước ta nghèo nàn, lạc
hậu; “Chúng độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng”, “Chúng đặt ra hàng trăm thứ
thuế vô lý” làm cho dân ta bần cùng; “Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”.
Nhận xét: Điều đáng chú ý là người viết đã đề cập đến tội ác của thực dân Pháp đối với tất cả
mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam: từ dân cày, dân buôn, các nhà tư sản, công nhân cho đến trí
thức (khi viết “nhà tù nhiều hơn trường học”, “ràng buộc dư luận”, “chính sách ngu dân”).
Một tội ác khác của thực dân Pháp bị vạch trần: Chúng tuyên bố “bảo vệ nước ta nhưng đã
đầu hàng phát xít Nhật, trong thời gian 5 năm, “chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Bản
tuyên ngôn chỉ rõ, từ năm 1940, “nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc
địa của Pháp nữa”.
Page 4
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Tóm lại, ba lý lẽ vạch tội chính: tội ác chính trị, kinh tế và tội bán nước cho Nhật đưa đến kết
luận thuyết phục “dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
Chúng ta có đầy đủ căn cứ “tuyên bố thoát hẳn quan hệ thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp
ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước
Việt Nam.
b) Tuyên bố độc lập
Đoạn thứ ba khẳng định lại bản chất của cuộc đấu tranh giành độc lập này là giành độc
lập từ thực dân Pháp. Lời tuyên bố độc lập được khẳng định từ nhiều chiều. Trước hết là từ ý
chí của nhân dân Việt Nam: “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại
âm mưu của bọn thực dân Pháp”. Rồi nhìn từ phía cộng đồng quốc tế: khẳng định sự công
nhận tất yếu của cộng đồng quốc tế vì các tổ chức quốc tế đã công nhận các nguyên tắc bình
đẳng dân tộc; tổng hợp lại, dân tộc Việt Nam đã đấu tranh suốt hơn 80 năm chống thực dân
pháp (khẳng định lại quyết tâm giành độc lập của nhân dân Việt Nam, lại đã đứng về phe
Đồng minh chống phát xít mấy năm (lấy lại ý Việt Nam đứng trong trào lưu tiến bộ của cộng
đồng quốc tế), “dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”.
Câu kết của bản Tuyên ngôn Độc lậpcũng tổng hợp các lý lẽ khác nhau: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”.
3. Hình tượng tác giả
Chủ tịch Hồ Chí Minh bộ lộ tình yêu nước, thương dân nồng nàn trong những dòng văn
kết tội thực dân Pháp, nhất quán với tinh thần Người đã viết trong Bản án chế độ thực dân
Pháp. Các từ ngữ nhân dân ta, đồng bào ta, nước nhà của ta, những người yêu nước thương
nòi của ta, nòi giống ta, đồng bào ta nói rõ tình yêu nhân dân, đất nước vô bờ của Người.
Mặt khác, lòng căm thù thực dân Pháp xâm lược cũng là một tình cảm mạnh mẽ, dứt khoát
của tác giả. Bản Tuyên ngôn Độc lậpđược viết không chỉ với trí tuệ sắc sảo mà còn với tình
cảm mãnh liệt, chân thành.
4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
Phần lớn các câu văn trong bản Tuyên ngôn Độc lậpngắn gọn, chắc nịch, sáng thích hợp với
tinh thần khẳng định. Có những câu văn tự sự ngắn mà gọi không khí lịch sử khẩn trương:
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo đại thoái vị”. Những câu bình luận chọn lọc, gọn gàng mà
Page 5
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Bản Tuyên ngôn cũng sử dụng thủ
pháp liệt kê tạo ra lời buộc tội đanh thép nhiều chiều, toàn diện: chúng không cho…, chúng
lập ra…, chúng ràng buộc…, chúng dùng…, chúng giữ… Chủ tịch Hồ Chí Minh phần lớn
dùng mẫu câu khẳng định trực tiếp như: “…dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải
được độc lập!”. Tuy nhiên, khi cần thay đổi để các mẫu câu đa dạng hóa, phù hợp với đối
tượng như khi hướng tới các nước Đồng minh, tác giả có thể dùng cách khẳng định bằng hai
lần phủ định: không thể không công nhận – một cách nói khá phổ biến của người phương
Tây,… Từ ngữ được sử dụng cũng mang cảm hứng khẳng định kiên quyết như: lẽ phải, sự
thật, tuyệt đối, thẳng tay, kiên quyết, quyết không thể không công nhận, phải,…
Bản Tuyên ngôn Độc lập là mẫu mực hoàn chỉnh của văn bản chính luận.
___________________________________________________________________
NGUYỄN ĐÌNH CHỂU, NGÔI SÁO SÁNG
TRONG VĂN NGHỆ CỦA DÂN TỘC
I- NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ
1. Về tác giả Phạm Văn Đồng
Phạm Văn Đồng (1906 – 2000) quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi. Ông
tham gia cách mạng từ rất sớm (1925), từng dự lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng Châu, Trung
Quốc. Năm 1927, ông về nước hoạt động bị địch bắt, kết án tù và đày ra Côn Đảo (1929 –
1936). Ra tù, ông lại tiếp tục hoạt động cách mạng. Ông tham gia Ủy ban Dân tộc giải phóng,
Chính phủ lâm thời tháng 8 năm 1945, và sau đó, liên tục giữ nhiều trọng trách trong bộ máy
lãnh đạo Đảng và Nhà nước như Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (1951 –
1986), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1954), Thủ tướng Chính phủ (1955 – 1981), Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (1981 – 1987), đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII,…
Phạm Văn Đồng vừa là một nhà cách mạng lớn của nước ta trong thế kỷ XX, vừa là một
nhà giáo dục tâm huyết và một nhà lý luận văn hóa, văn nghệ lớn. Ông đặc biệt quan tâm đến
lĩnh vực văn hóa, văn nghệ nước nhà, có nhiều ký kiến chỉ đạo đường lối phát triển của nền
văn học nghệ thuật mới. Ống đã viết nhiều bài nghị luận độc đáo, đặc sắc về Nguyễn Trãi,
Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh,… và về tiếng Việt.
Page 6
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
2. Về nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu
Đây là nhà thơ nổi tiếng đã được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 11 (cần ôn
lại) với các tác phẩm (đoạn trích) Lẽ ghét thương (trích Truyện Lục Vân Tiên) và Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc. Truyện Lục Vân Tiên ra đời trước khi Pháp xâm lược, tức là trước Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc nhưng có thể vì không trực tiếp phản ánh cuộc đấu tranh anh dũng của
nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược nên dù là “một tác phẩm lớn nhất của Nguyễn
Đình Chiểu”, nhưng trong bài viết này chỉ được nói đến sau bài văn tế và các áng văn thơ yêu
nước chống Pháp. Trật tự ưu tiên trong bài viết cũng thể hiện hết sức rõ ràng quan niệm cách
mạng về văn nghệ của Phạm Văn Đồng.
3. Quan điểm cách mạng về văn nghệ và thời điểm viết bài luận
Bài viết về Nguyễn Đình Chiểu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn thành năm 1963.
Đây là giai đoạn nhân dân ta đang tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Là một nhà cách mạng, Phạm Văn Đồng đã đọc Nguyễn Đình Chiểu theo quan
điểm cách mạng về văn học nghệ thuật. Một nhà văn quá khứ được đánh giá cao tất nhiên
phải là một nhà văn yêu nước, thương dân, là một tấm gương sáng về sứ mệnh người chiến sĩ
trên mặt trận văn hóa tư tưởng; sáng tác của nhà văn đó phải có ý nghĩa khích lệ, cổ vũ nhân
dân ta chiến đấu chống xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là lý do vì
soa trong bài viết có những câu như: “Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của
nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc
này” (chú ý: lúc này tức là thời điểm năm 1963); và “Nguyễn Đình Chiểu là một người chí sĩ
yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta. Đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là
một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng
của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Tính thời điểm của bài viết và quan điểm
cách mạng về chứng năng văn học là điều cần đặc biệt chú ý.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Bố cục của bài viết
Dễ dàng nhận thấy bài vết được chia làm ba phần, đánh dấu bằng dấu sao.
Phần thứ nhất khái quát về con người, cuộc đời và quan niệm thơ văn của Nguyễn Đình
Chiểu. Tác giả nhắc lại bối cảnh lịch sử khi đất nước bị lâm nguy, giữa lúc “vua nhà Nguyễn
cam tâm bán nước để giữ ngai vàng” nhưng “nhân dân và sĩ phu anh dũng đứng lên đánh giặc
cứu nước” để ghi nhận hoạt động văn nghệ của Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ yêu nước.
Page 7
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
“Vì mù cả hai mắt, hoạt động của người chiến sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu là thơ
văn”, “Đời sống và hoạt động của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương anh dũng. Cảnh đất
nước cũng như cảnh riêng càng long đong, đen tối, thì khí tiết của người chí sĩ yêu nước ngày
càng cao cả, rạng rỡ”. Trong bối cảnh đó, “cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là
một chiến sĩ hy sinh phấn đấu vì một nghĩa lớn. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là thơ văn
chiến đấu, đánh thẳng vào giặc ngoại xâm và tôi tớ của chúng. Từ đây tác giả khái quát quan
điểm văn nghệ: “Đối với Nguyễn Đình Chiểu, cầm bút, viết văn là một thiên chức” (thiên
chức – chức trách thiêng liêng).
Phần thứ hai: phần viết có dung lượng lớn nhất trong ba phần, dành cho các áng “thơ
văn yêu nước” của Nguyễn Đình Chiểu. Giá trị của thơ văn yêu nước của ông trước hết là ở
chỗ “làm sống lại trong tâm trí của chúng ta phong trao kháng Pháp oanh liệt và bền bỉ của
nhân dân Nam Bộ từ 1860 về sau, suốt hai mươi năm trời”. Tác giả dựng lại sống động không
khí đánh Pháp xâm lược giữa lúc triều đình Tự Đức đầu hàng, một khí thế mà chính kẻ thù
cũng phải khâm phục qua những áng văn thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu “không phải
ngẫu nhiên mà thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, một phần lớn là những văn tế, ca
ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với nước, và than khóc những người liệt sĩ đã
trọn nghĩa với dân”. Tác giả cũng đặt thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu trong truyền
thống văn học yêu nước như một giá trị căn bản của truyền thống văn học Việt Nam, từ
Nguyễn Trãi đến Nguyễn Đình Chiểu và các tác giả văn học yêu nước Nam Bộ cùng thời.
Nguyễn Đình Chiểu kế thừa truyền thống văn học yêu nước của Nguyễn Trãi trong hoàn cảnh
mới, ông cũng không đơn độc mà có nhiều nhà văn, nhà htow yêu nước xung quanh có điều
ông là một tác giả yêu nước tiêu biểu, điển hình nhất lúc ấy.
Phần thứ ba nói về Truyện Lục Vân Tiên. Trước tiên tác giả viết về giá trị luân lý, đạo
đức như một trong những giá trị hàng đầu của truyện thơ này; sau đó lý giải đặc trưng nghệ
thuật của tác phẩm. Để lý giải vì sao Truyện Lục Vân Tiên lại “rất phổ biến trong dân gian,
nhất là ở miền Nam”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Đây là một bản trường ca ca ngợi
chính nghĩa”, “các nhân vật của Lục Vân Tiên: Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga, Tiểu đồng,… là
những người đáng kính, đáng yêu, trọng nghĩa, khinh tài, trước sau một lòng, mặc dầu gian
khổ cực, gian nguy, quyết phấn đấu vì nghĩa lớn […] Họ sống trong một xã hội cũng như biết
bao xã hội từ xưa đến nay – có người tốt kẻ xấu, người ngay kẻ gian, có nhiều đau khổ, bất
công – họ đã đấu tranh không khoan nhượng chống mọi gian dối, bất công và họ đã thắng.
Họ là những tấm gương dũng cảm. Vì những lẽ đó họ gần gũi chúng ta và câu chuyện của họ
làm chúng ta cảm xúc và thích thú”.
Page 8
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Về nghệ thuật, tác giả nhấn mạnh về nghệ thuật trình diễn tác phẩm, “đây là một chuyện
“kể”, chuyện “nói”. Tác giả cố ý viết một lối văn “nôm na”, dễ hiểu, dễ nhớ, có thể truyền bá
rộng rãi trong dân gian”. Đây là một nhấn mạnh rất cần thiết để hiểu đúng đặc điểm nghệ
thuật của Truyện Lục Vân Tiên. Mặt khác, tác giả cũng ghi nhận tác phẩm này có nhiều câu
thơ hay, dễ thuộc lòng chứ không phải là chỉ có sự nôm na, mộc mạc. Nhân dân say sưa nghe
kể Truyện Lục Vân Tiên “không chỉ vì nội dung câu chuyện, còn vì văn hay”.
2. Tư tưởng văn nghệ cách mạng quy định cách đọc tác phẩm của Nguyễn Đình
Chiểu
Qua kết cấu của bài viết, ta dễ dàng nhận thấy quan niệm văn nghệ cách mạng thấm sâu
vào các luận điểm về Nguyễn Đình Chiểu. Tác giả có dụng ý dành phần đầu để nói về bối
cảnh đấu tranh chống Pháp và những sáng tác Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những nhân vật
Nam Bộ yêu nước; trong phần thứ ba viết về Truyện Lục Vân Tiên, tác giả không chỉ nói về
tấm gương đạo nghĩa của các nhân vật chính diện trong tác phẩm này mà còn lưu ý họ đã đấu
tranh chống lại mọi giả dối, bất công và đã chiến thắng.
Toàn bộ các lập luận, phân tích nhằm đến kết luận
- Nguyễn Đình Chiểu là nhà yêu nước, nhà thơ lớn của nước ta (nhà yêu nước đồng thời
là nhà thơ lớn – nhấn mạnh nhân cách của nhà văn, nhà thơ).
- Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, “nêu cao địa vị
và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn
hóa tư tưởng”. Nghĩa là qua trường hợp nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, ta học được tinh thần
của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng. Tinh thần này phù hợp với lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Văn học, nghệ thuật là một mặt trận mà văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên
mặt trận ấy.
3. Hình tượng của tác giả qua bài viết
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng bộc lộ tình cảm yêu tuowng sâu sắc đối với những người
dân yêu nước Nam Bộ. “Hồi tưởng cuộc chiến đấu anh dũng vô song của dân tộc Việt Nam ta
ở Nam Bộ lúc bấy giờ, ruột gan chúng ta đau như cắt xé”. Tác giả như trầm ngâm suy nghĩ về
nguyên nhân thất bại, về những bước đi của lịch sử dân tộc trong quá khứ và tỏ thái độ lên án
gay gắt đối với vua chúa nhà Nguyễn bạc nhược cam tâm đầu hàng quân xâm lược. Giá như
có những người lãnh đạo kế tục được khí phách, dũng khí của phong trào khởi nghĩa Tây
Sơn, của người anh hùng Nguyễn Huệ thì chắc hẳn lịch sử chống ngoại xâm, bảo về độc lập
của dân tộc ta đã có những bước đi khác.
Page 9
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Tác giả luôn có ý thức liên hệ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu với thời hiện đại (tức là với
thời kỳ nhân dân ta đang chiến đáu chống Mĩ xâm lược và đang giành được nhiều thắng lợi to
lớn): “Có lẽ dưới suối vàng, linh hồn của Nguyễn Đình Chiểu và những nghĩa quân lúc bấy
giờ, ngày nay phần nào đã được hả dạ!”. Điều đó hàm nghĩa rằng chúng ta đang kế thừa sự
nghiệp chính nghĩa của những người yêu nước chống Pháp xâm lược thời kỳ đó.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đứng trên lập trường khách quan, khoa học khi đánh giá
mọt tác giả, tác phẩm quá khứ. Chẳng hạn khi nói về quan niệm đạo đức của nhân vật chính
diện trong Truyện Lục Vân Tiên, tác giả viết: “Những giá trị luân lý mà Nguyễn Đình Chiểu
ca ngợi, ở thời đại chúng ta, theo quan điểm của chúng ta thì có phần đã lỗi thời”. Phần lỗi
thời nói đây chính là quan điểm “trung vua” hoặc quan niệm về “tiết hạnh” có phần khắt khe,
nghiệt ngã của Nho giáo. Nhưng tác giả vẫn chú trọng khai thác giá trị tích cực của một tác
giả quá khứ “Nguyễn Đình Chiểu cũng như nhiều bậc hiền triết ngày xưa ở phương Đông
hoặc phương Tây, vẫn để lại cho đời sau những điều giáo huấn đáng quý trọng”. Chúng ta
cần vận dụng chủ trương tiếp nhận di sản văn học quá khứ như vậy.
4. Đặc điểm về nghệ thuật
Đặc sắc nghệ thuật của bài văn nghị luận là sự kết hợp hài hòa giữa lý lẽ xác đáng và tình
cảm nồng hậu của người viết đối với nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Trong khuôn
khổ ngắn gọn, người viết đã vận dụng các thao tác phân tích sau:
- Đặt sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu vào bối cảnh lịch sử - xã hội để thấy
được những giá trị phản ánh hiện thực của sáng tác ấy. Đây là một bài học quan trọng trong
phân tích tác phẩm văn học mà nếu thiếu nó, người phê bình hiện nay có thể sẽ không hiểu,
không cảm nhận được giá trị của một tác giả quá khứ.
- Gắn liện việc đánh giá tác phẩm với nhân cách của tác giả. Văn tức là người. Theo tác
giả, một sự nghiệp sáng tác lớn phải gắn liền với nhân cách lớn của nhà văn.
- Có lưu ý đến phần hạn chế của nhà văn nhưng trên hết là sự trân trọng những giá trị
tích cực của nhà văn đó
- Tác giả đã kết hợp nhuần nhuyễn tư duy phân tích sắc sảo với tình cảm nồng nhiệt.
THÔNG ĐIỆP NHÂN NGÀY THẾ GIỚI
Page 10
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
PHÒNG CHỐNG AIDS, 1-12-2003
I- NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ
1. Một vài thông tin về căn bệnh HIV/AIDS
Để hiểu được văn bản này, cần có một số hiểu biết tối thiểu về căn bệnh được coi là căn
bệnh thế kỷ này.
AIDS là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Acquired Immune Deficelency Syndrome”,
nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phỉa, trong tiếng Pháp, thuật ngữ tương đương là
SIDA, viết tắt “Syndrom de L’immunodéficience Acquise”. Thông thường, cơ thể chúng ta
có khả năng miễn dịch và tự đề kháng chống lại nhiều bệnh tật, nhưng khi mắc phải bệnh
này, cơ thể mất sức đề kháng, dẫn đến tử vong nhanh. Tác nhân gây ra bệnh là loại vi-rút gây
suy giảm hệ miễn dịch trong cơ thể. Các đường lây lan chính của HIV là con đường sinh hoạt
tình dục không an toàn, dùng chung bơm kim tiêm với người sử dụng ma túy tiêm vào đường
tĩnh mạch, đường lây lan từ mẹ truyền sang con nếu mẹ bị bệnh.
Người ta gọi nhiễm HIV là chỉ chung tất cả những ai đã mạng HIV trong cơ thể. Khi
người nhiễm HIV đã ở mức độ trầm trọng, suy giảm miễn dịch cơ thể ở mức xét nghiệm máu
có số Lympho bào T4< 200/m hoặc sức khỏe bị sa sút với nhiều chứng bệnh nguy hiểm.
Từ lúc nhiễm HIV đến lúc bị AIDS có thể trải qua một thời gian và khi đến giai đoạn AIDS
thì rất nguy hiểm đến tính mạng.
Hiện nay, chưa có cách nào đối phó hữu hiệu khi đã nhiễm bệnh. Cách tốt nhất là đề
phòng đừng để bị nhiễm bệnh.
Theo báo cáo của Chương trình thống nhất của Liên hợp quốc về HIV/AIDS tháng 12
năm 2006, tổng số người chung sống với HIV trên thế giới là 39,5 triệu; số người nhiễm HIV
trong năm 2006 là 4,3 triệu; số người chết vì AIDS năm 2006 là 2,9 triệu (TNT dẫn theo
Wikipeda, bản tiếng Nga).
2. HIV/AIDS là căn bệnh thế kỷ của toàn thế giới
Do quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, căn bệnh này không cô lập ở riêng quốc
gia nào mà lây lan khắp thế giới. Thực tế đòi hỏi nỗ lực chung của cộng đồng nhân loại thống
nhất sức mạnh để chống lại căn bệnh thế kỷ này,
Page 11
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Vấn dề HIV/AIDS đòi hỏi thế giới phải thay đổi nhiều quan niệm cũ, nhưng không đặt
vấn đề đạo đức của quan hệ tình dục mà là đặt vấn đề quan hệ tình dục an toàn; không kỳ thị
và phân biệt đối xử với người bị HIV/AIDS…
II- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Phân tích theo kết cấu
Bức thông điệp gồm ba phần chính:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến “quá ít so với yêu cầu thực tế”): nhắc lại sự nhất trí về
mục tiêu, thời hạn mà Đại hộ đồng Liên hợp quốc đã thông qua năm 2001 và đến ngày
hôm nay lại cam kết và các nguồn lực đã tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu
thực tế.
- Phần thứ hai (tiếp theo đến “về chính trị và hành động thực tế của mình”): Nêu
đối sánh một bên là những nỗ lực tăng lên và một bên là sự hoành hành dữ dội không
có dấu hiệu suy giảm của căn bệnh HIV/AIDS. Từ đó, chỉ ra cần nỗ lực hơn nữa.
- Phần thứ ba (phần còn lại): Chỉ ra việc cần công khai lên tiếng về HIV/AIDS,
không im lặng, không phân biệt đối xử với người bị nhiễm bệnh, kêu gọi mọi người
trên toàn thế giới sát cánh trong cuộc chiến chung chống lại căn bệnh HIV/AIDS.
2. Phân tích theo nội dung
- Đánh giá về đại dịch HIV/AIDS và những thành tựu cũng như hạn chế của nhân
loại trong việc đối phó với nạ dịch này.
- Là một bức thông ddiepj, văn bản cần hết sức ngắn gọn và chính xác, trong phần
thứ hai của thông điệp, tác giả ghi nhận những nỗ lực của thế giới về phương diện là
thành lập Quỹ toàn cầu về phòng chống HIV/AIDS. Không những ở tầm quốc gia,
quốc tế mà ở tầm các công ti, các tổ chức từ thiện (các tổ chức phi chính phủ như ta
quen gọi) đang hoạt động tích cực cùng các tổ chức chính phủ và quốc tế ứng phó với
đại dịch này.
- Phần quan trọng của bản thông điệp là nêu những thông tin ngắn gọn nhưng
thẳng thắn, không quanh co về nguy cơ to lớn của căn bệnh này: HIV/AIDS vẫn
hoành hành, gây tử vong ở tỉ lệ cao trên thế giới và rất ít dấu hiệu suy giảm. Những
con số thống kê đầy ấn tượng cho một cái nhìn toàn cảnh về căn bệnh này:
Page 12
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
+ Về thời gian: “Mỗi phút đồng hồ của một ngày trôi đi, có khoảng 10 người bị
nhiễm HIV”.
+ Về không gian: “Ở những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất, tuổi thọ của
người dân bị giảm sút nghiêm trọng”, “và “Bệnh dịch này đang lan rộng nhanh nhất ở
chính những khu vực mà trước đây hầu như vẫn còn an toàn – đặc biệt là Đông Âu và
toàn bộ khu vực Châu Á – từ dãy U-ran đến Thái Bình Dương”.
+ Về giới tính của người bị nhiễm bệnh: “HIV/AIDS đang lây lan với tốc độ báo
động ở phụ nữ. Giờ đây, phụ nữ đã chiếm tới một nửa trong tổng số người nhiễm trên
toàn thế giới”.
- Phân tích nguyên nhân, tác giả chỉ rõ:
“Chúng ta đã không hoàn thành được một số mục tiêu đề ra cho năm nay theo Tuyên bố
về Cam kết phòng chống HIV/AIDS”.
“Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta đã bị chậm trong việc giảm quy mô và tác
động của địch so với chỉ tiêu đã đề ra cho năm 2005. Lẽ ra chúng ta phải giảm được 1/4 số
thanh niên bị nhiễm HIV ở các nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất; lẽ ra chúng ta phải
giảm được một nửa tỉ lệ trẻ sơ sinh bị nhiễm; lẽ ra chugns ta phải triển khai các chương trình
chăm sóc toàn diện ở khắp mọi nơi”. Một laotj các khả năng đã không thành hiện thực đẻ
phải đánh giá “Với tiến độ như hiện nay, chúng ta sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu nào vào
năm 2005”.
- Những nhiệm vụ đòi hỏi nhân loại phải nỗ lực hơn nữa:
Sau khi đánh giá có tính chất phê phán, bản thông điệp khẳng định nhân loại cần nỗ lực hơn
nữa “bằng những nguồn nhân lực và hành động cần thiết”. Theo tác giả, “Chúng ta phải đưa
vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế
của mình”. Nhận định này hoàn toàn có cơ sở vì như chúng ta đã thấy những con số dẫn ở
trên đây, cứ mỗi phút trôi qua, có khoảng 10 người bị nhiễm HIV, và năm 2006 số người chết
vì AIDS lên tới 2,9 triệu người.
Căn bệnh AIDS đã trở thành một sự thật hiển nhiên mà sự từ chối, lảng tránh đều trở
nên vô nghĩa; và thái độ đối với người nhiễm bệnh cũng cần thay đổi. “Chúng ta phải công
khai lên tiếng về AIDS. Dè dặt, từ chối đối mặt với sự thật không mấy dễ chịu này, hoặc vội
vàng phán xét đồng loại của mình, chúng ta sẽ không đạt được tiến độ hoàn thành các mục
tiêu đề ra, thậm chí chúng ta còn bị châm hơn nữa, nếu ự kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn tiếp
Page 13
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
tục diễn ra đối với người bị HIV/AIDS”. Đây là cách nhìn hoàn toàn mới, rất tích cực và hiện
thực về người nhiễm căn bệnh thế kỷ. Ngay ở Việt Nam, chúng ta cũng chưa hẳn là đã từ bỏ
cách nhìn cũ, phân biệt đối xử với họ. Tác giả kêu gọi: “Hãy đừng để một ai có ảo tưởng rằng
chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên các bức rào ngăn cách giữa
“chúng ta” và “họ”. Trong thế giới khốc liệt của AIDS, không có khái niệm chúng ta và họ.
Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết.
Như vậy, có hai ý tưởng chính của bức thông điệp, đó là: kêu gọi lên tiếng tức không né
tránh, nói về căn bệnh thế kỷ, “lên tiếng thật to và dõng dạc về HIV/AIDS”; và từ bỏ sự kỳ
thị, phân biệt đối xử với người nhiễm bệnh. Hai yêu cầu thật giản dị nhưng là để chiến thắng
sức ỳ tâm lý của nhân loại.
3. Đặc điểm về nghệ thuật
Bản thông điệp là một văn kiện có tầm quốc tế, bàn về một vấn đề cấp thiết đang đặt ra
trước toàn nhân loại. Có thể xem đây là một mẫu mực về lối văn nghị luận.
Kết cấu bản thông điệp rất rõ ràng, chặt chẽ. Các phần của bài viết không dài dòng, quanh co,
chung chung mà đi thẳng vào vấn đề trọng tâm cần nói. Liên hệ về ý nghĩa các phần rất chặt
chẽ.
Cách trình bày tư tuonwgr từ ngôi thứ nhất số nhiều (chúng ta) cũng là một nét nghệ thuật
tinh tế: tất cả chúng ta đang sống trong thời đại có đại dịch HIV/AIDS, chúng ta cần sát cánh
để thực hiện các nỗ lực... Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số nhiều này đặt tất cả người nghe
vào vị trí của người tham gia, người trong cuộc chứ không phải là người quan sát thờ ơ bên
ngoài.
Người viết bản thông điệp biết cách thể hiện cảm xúc của mình khi chuyển ngôi từ
“chúng ta” sang “tôi”: “tôi kêu gọi”, “Hãy cùng tôi đánh đổ các thành lũy của sự im lặng, kỳ
thị và phân biệt đối xử đang vây quanh bệnh dịch này”, “Hãy sát cánh cùng chúng tôi”,…
những lời kêu gọi xuất phát từ “tôi” chứ không phải chúng ta thể hiện cảm xúc và trách
nhiệm của tác giả, trên cương vị Tổng thư ký Liên hợp quốc.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
TÂY TIẾN
I- NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ
Page 14
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
1. Về tác giả và thời điểm tác phẩm ra đời
- Quang Dũng (1921 – 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm. Quê ở làng Phượng
Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội) nhưng ông học trung học ở
Hà Nội. Sau cách mạng tháng Tám, Quang Dũng tham gia quân đội. Từ sau năm
1954, ông là biên tập viên Nhà xuất bản Văn học.
Quang Dũng là người đa tài, giỏi “cầm, kỳ, thi, họa”. Ông sáng tác bài hát, vẽ tranh, làm thơ,
viết văn và giỏi cả kiếm thuật. Bài thơ Tây Tiến thể hiện các tài năng này với chất nhac, chất
thơ, chất tạo hình và chất tráng ca là điều tự nhiên.
- Quang Dũng là người trực tiếp tham gia chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến từ
năm 1947. Năm 1948, sau khi xa đơn vị một thời gian, nhà thơ đã sáng tác bài thơ
này, lúc đầu cso tên là Nhớ Tây Tiến; năm 1957, khi in lại, ông đã bỏ chứ “nhớ”.
Tây Tiến đã từng có một số phận gian truân, có lúc người ta nghĩ nhà thờ vẫn còn tâm hồn
tiểu tư sản, nhưng rồi bài thơ đã có được vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam
hiện đại. Bài thơ được khắc trên đài tưởng niệm các liệt sĩ Tây Tiến ở Hòa Bình.
2. Về đoàn quân Tây Tiến
Trung đoàn Tây Tiến được thành lập đầu năm 1947, trong đó có sự tham gia của hai
tiểu đoàn Hà Nội với khá nhiều học sinh, trí thức. Nhiệm vụ của trung đoàn Tây Tiến là phối
hợp với lực lượng yêu nước Lào lập chính quyền cách mạng ở Sầm Nưa, đánh địch ở Tuần
Giáo, Hòa Bình, Quỳnh Nhai, trên tuyến sông Đà, sông Mã, sang Sầm Nưa rồi trở về miền
Tây Thanh Hóa… góp phần giữ vững địa bàn miền Tây. Những gian khổ, hi sinh được nhắc
đến trong bài thơ là sự thật về cuộc chiến tranh ở rừng núi thời xưa được mệnh danh là “ma
thiêng nước độc”. Bệnh sốt rét đã khiến cho nhiều chiến sĩ rụng tóc, hình ảnh “đoàn binh
không mọc tóc” và “quân xanh màu lá” là tả thực những chiến sĩ thời gian khổ ấy.
II- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm về nội dung
a) Bố cục của bài thơ
Bài thơ viết theo thể hành, gồm 4 đoạn. Cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ thương da diết
đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến và núi rừng miền Tây, là niềm tự hào vô hạn về những
đồng đội của nhà thơ. Nỗi niềm thương nhớ này trải rộng theo một không gian bao la với bao
địa danh núi sông, làng bản miền Tây.
Page 15
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
- Đoạn 1 (từ đầu đến “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”): Một bức tranh toàn cảnh
về núi rừng Tây Bắc.
- Đoạn 2 (tiếp theo đến “Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”): Vẻ đẹp lãng mạn của
miền Tây.
- Đoạn 3 (tiếp theo đến “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”): Bức tượng đài tập thể
về những người lính Tây Tiến.
- Đoạn 4 (đoạn còn lại): Sự nghiệp của những người lính Tây Tiến vẫn được đồng
đội tiếp tục.
b) Một bức tranh toàn cảnh về núi rừng Tây Bắc
- Với một tâm hồn thơ tinh tế, một con mắt của nghệ sĩ tạo hình, nhà thơ khắc họa
một bức tranh đặc sắc về hông gian hoạt động của những người lính Tây Tiến. Tuy
vậy, phải chú ý rằng Quang Dũng không đơn thuần đứng ngắm nhìn từ xa hay tưởng
tượng để tả mà tác giả chuyển tải cảm nhận từng trải về thế giới núi rừng đó, cảm giác
của một người đã đắm mình trong không gian đó. Cái nhìn về Tây Bắc là cái nhìn của
một người trong cuộc, đã từng tự mình thí nghiệm các cảm giác trèo đèo vượt suối:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Về cảnh trập trùng, khúc khuỷu của núi đồi xưa. Chinh phụ ngâm đã từng viết: “Hình
khe thể núi gần xa – Đứt thôi lại nổi thấp đà lại cao”. Nhưng sự điệp trùng ấy có thể đứng từ
xa nhìn cũng thấy. CÒn tả núi cao đến “heo hút”, “ngàn thước”, nơi súng có thể “ngửi trời”
được thì đó là một lối tả đầy cảm giác. Hình ảnh “súng ngửi trời” chuyển tải một thông tin:
tác giả là người chiến sĩ mang súng đã qua con dốc hiểm trở ấy. Muốn viết được như thế thì
phải có con mắt vượt tầm đỉnh núi, đắm chìm vào trong mây mới cảm nhận được. Tả núi cao
mà chủ yếu để nói về những cái vực sâu rợn người “dốc thăm thẳm”. Câu thơ như bị chặt đôi
để diễn tả dáng núi cao vút và hạ thấp xuống rất đột ngột. Lên cao thì vất vả nhưng xuống núi
thì nguy hiểm vô cùng.
- Với thơ ca, rừng núi không phải là vô hồn, vô tri, vô giác. Dân gian có thành ngữ
“ma thiêng nước độc”. Thế Lữ đã từng nói về “oai linh rừng thẳm” (Nhớ rừng).
Nhưng cái mới của Quang Dũng là bằng cái tài thẩm âm tinh tế, và vẫn của người đã
Page 16
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
sống ở rừng, đã nghe và đã nhìn, ông ghi lại những lời chủ âm đặc thù của rừng già
Tây Bắc là tiếng suối, tiếng hổ báo gầm gào, khiến người đọc cảm nhận được cái oai
linh rờn rợn của núi rừng lúc chiều buông, đêm về:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đem Mương Hịch cọp trêu người
- Bằng bút pháp lãng mạn, nhà thơ cực tả sự hiểm trở, dữ dội của thiên nhiên với
dụng ý tạo sự đối lập rất rõ. Con người chỉ anh hùng khi vượt qua những thử thách
khốc liệt. “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Trên cái nền thiên nhiên khốc liệt ấy,
càng tháy rõ vẻ đẹp của sự hi sinh, vượt khó vượt khổ của đoàn quân Tây Tiến. Nhà
thơ không mĩ lệ hóa rừng núi, tức không mĩ hóa cuộc chiến tranh; nhà thơ nhìn thẳng
vào hiện thực của mất mát, hi sinh, điều mà có thể người này người khác né tránh khi
viết về chiến tranh. Dẫu sao, chiến tranh không phải là cuộc dạo chơi. Đã có người
đồng đội kiệt sức trên bước đường tiến quân:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
- Nhưng Tây Bắc không chỉ có núi rừng oai linh, hiểm trở. Tây Bắc còn là con
người. Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng sử dụng thủ pháp đối lập tương phản rất
thành công. Cứ cuối mỗi đoạn thơ tả cảnh núi rừng hiểm trở, Quang Dũng lại làm dịu
cảm giác rùng rợn mỏi mệt bằng việc gợi nhớ đến lòng người Tây Bắc hồn hậu, chân
tình. Cứ mỗi lần kiệt sức, mỏi mệt trên đường hành quân hiểm trở, tâm hồn người
chiến binh lại được an ủi vỗ về bởi tình quân dân nơi bản Mương, bản Thái:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mương Lát hoa về trong đêm hơi
“Hoa về trong đêm hơi” theo chúng tôi phải được hiểu là ánh đuốc (của dân bản hay
các chiến sĩ ?) cháy sáng bập bùng trong đêm sương giá mịt mùng của rừng núi (đêm hơi)
Đang rã rời thân thể khi vượt dốc cao ngàn thước và rợn người nhìn xuống vực sâu
thầm thì lòng hân hoan, ấm lại vì đã thấy bản làng đang ẩn hiện phía trước:
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Page 17
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thứ hai đều là thanh bằng như làm dịu nỗi niềm cơ cực của anh lính Tây Tiến, như
một tiếng thở phào nhẹ nhõm vì sắp tới đích. Rừng núi hiểm trở nhưng có tấm lòng của người
dân làm dịu đi tất cả những thử thách khốc liệt đó.
Một cặp đối lập nữa rất tiêu biểu cho thủ pháp đối lập trong tả tình, tả cảnh của Quang Dũng:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Giờ phút quây quần đầm ấm quanh nồi cơm nếp bốc khói thơm ngào ngạt đã làm ấm
lòng người lính trải qua núi cao vực thẳm, những chiều tà thác đổ, những đêm sâu cọp gầm.
Những cảnh tượng dữ dội đã ở sau lưng rồi. Hình ảnh cơm lên khói và mùi thơm của nếp xôi
rất đặc biệt cũng ấn một thông báo về sự từng trải các cảnh huống khác nhau của “cái tôi” tác
giả giữa núi rừng Tây Bắc. Không phải chỉ có những cuộc hành quân giữa núi rừng hiểm trở
mà nơi đây còn đầm ấm tình quân dân: những người chiến sĩ cách mạng được nhân dân nồng
hậu chào đón.
Đoạn thơ đầu tuy khắc họa một bức tranh về miền Tây Bắc hùng vĩ nhưng nhà thơ
không dừng lại ở cảnh. Tác giả muốn diễn đạt tâm hồn, cảm xúc của những người lính Tây
Tiến trên chiến trường miền Tây Bắc, cũng nói đến cả tình quân dân ấm áp, mặn mà.
c) Vẻ đẹp lãng mạn của miền Tây Bắc
- Đoạn thơ thứ hai với 8 câu thơ nối tiếp mạch cảm xúc của đoạn thơ đầu. Những
gian truân, khốc liệt đối với tuổi trẻ hừng hực sức sống đã lùi xa. Giữa đại ngàn hoang
vu, cổ sơ ấy bỗng xuất hiện một đêm liên hoan lửa trại. Những cô gái Thái, Lào duyên
dáng, xinh đẹp, những tiếng khèn, điệu múa đọc đáo, mới lạ với những anh lính vùng
xuôi (có thể là điệu Lăm vông, Lăm tơi mà khi ấy tác giả gọi là man điệu) làm nên
màu sắc huyền ảo, lãng mạn. Tả vẻ đẹp lãng mạn của đêm lửa trại là để tả vẻ đẹp lãng
mạn của tâm hồn chiến sĩ Tây Tiến. theo Vũ Quần Phương, câu thơ “Kìa em xiêm áo
tự bao giờ” là kể chuyện nam bộ đội đóng vai nữ rất đẹp…gái. Nhưng ngữ cảnh toàn
Page 18
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
bài thơ tạo áp lực cho phép hiểu đay là các cô gái địa phương (Mai Châu mùa em thơn
mếp xôi; Khèn lên man điệu nàng e ấp):
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Không phải là ánh lửa trại bình thường mà là hội đuốc hoa. Trong tâm thức người Việt,
hội hè không thể thiếu trai gái thanh lịch. Khổ thơ mang theo cái rạo rực, bay bổng say người
của hội hè. Các từ ngữ bùng lên, kìa em, e ấp diễn tả nỗi lòng, cảm hứng của lính Tây Tiến.
Mọi gian khó với tâm hồn trai tráng của họ đã biến mất, còn lại sự yêu đời, lạc quan.
- Nguyên tắc đối lập được tác giả vận dụng triệt để. Đường Tây Tiến không chỉ
hùng vĩ, đầy thử thách bạo liệt mà còn có những cảnh núi sông thơ mộng, đẹp không
ngờ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bề
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Cây lau với dòng sông từ xưa đã là hai hình ảnh sóng đôi, gợi hứng cho thi ca, đó là
“Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu” (Truyện Kiều) gợi nỗi niềm tương tư của Kim Trọng, đó là
“Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách – Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu” (Tì bà hành).
HÌnh như thân lau nhẹ nhàng, bông hoa lau trắng xóa luôn phất phơ trong gió, sống động như
có hồn, bên dòng nước chảy ở thời nào cũng gợi cảm cho nhà thơ. Câu thơ trên gợi vẻ trầm
mặc, sương khói, huyền ảo của dòng sông khi chiều về sương xuống. Cảnh thiên nhiên gợi
suy tư.
Chiều sương và hồn lau là những hình ảnh tĩnh. Những dáng người cầm lái con thuyền
độc mộc lướt theo dòng nước chảy xiết làm những bông lau bên bờ đong đưa là những hình
ảnh động. Hai hình ảnh tĩnh và động bổ sung cho nhau, tạo nên bức tranh hài hòa. Cách đặt
câu hỏi có thấy… có nhớ… là lối đặt câu khẳng định “hẳn phải nhớ”. Không nhớ làm sao
Page 19
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
được vẻ đẹp ấy? Con mắt hội họa đã giúp nhà thơ tạo ra bức tranh đẹp như vậy. Có thể nói
rừng núi hùng vĩ và con người miền Tây Bắc khỏe đẹp diễn tả tâm hồn đẹp, khỏe, lãng mạn
của những người lính Tây Tiến trẻ trung, đầy sức sống.
d) Bức tượng đài tập thể về những người lính Tây Tiến
Đoạn thơ thứ ba gồm 8 câu thơ tiếp theo. Nhà nghiên cứu văn học Phong Lan đã gọi bài
thơ Tây Tiến là “tượng đài bất tử về người lính vô danh”. Đây là một cách diễn đạt hình
tượng rất thành công nội dung đoạn thứ ba.
- Những gian khổ, hi sinh được nhắc đến trong đoạn thơ này là có thật. Sốt rét ác
tính trong hoàn cảnh thiếu thốn thuốc men, sinh hoạt kham khổ đãm là nguyên nhân
tạo nên ngoại hình đặc biệt của anh lính Tây Tiến: “không mọc tóc”, “da xanh màu
lá”. Nhiều nhà thơ kháng chiến có nói tới căn bệnh sốt rét ở người bộ đội vệ quốc như
là một chứng tích của tinh thần hi sinh, vượt gian khổ. Còn Quang Dũng muốn nói
đến thần thía của người lính Tây Tiến hơn là ngoại hình. Cái hùng toát lên từ hình
tượng người chiến binh:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Tác giả không viết “rụng tóc” mà viết “không mọc tóc” vì viết như thế sẽ nói lên cái ý
chí không bị động của người lính Tây Tiến, hình như anh chủ động để trọc đầu để dễ dánh
giáp lá cà với địch. Từ màu da xanh xao như lá vẫn toát lên cái “oai hùm”. Kế thừ hình tượng
truyền thống về những bậc trượng phu, tráng sĩ, những oai tướng hùm thiêng như Từ Hải,
như “ông hùm Đề Thám”, câu thơ mang âm hưởng hào hùng, tráng ca.
Khổ thơ tiếp theo tiếp tục được cấu trúc theo nguyên tắc đối lập. Từ ba câu thơ đầu toát
lên khí phách, thần thái của chiến sĩ Tây Tiến. Vẻ oai phong lẫm liệt của chiến sĩ Tây Tiến
được diễn tả chủ yếu qua đôi mắt: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Trong tâm thức
người phương Đông, mắt là linh hồn của con người và sự vật. Ở Đông Nam Á, con thuyền
khi hạ thủy được con người điểm nhãn để bắt đầu cho cuộc sống của nó. Người ta “khai
quang, điểm nhân” cho môt bức tượng. Tả mắt là thủ pháp phổ biến trong văn học để truyền
thần nhân vật. Ánh mắt giận dữ của chiến binh Tây Tiến đặc tả khí phách và ý chí chiến đấu
của các anh.
Page 20
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Tuy vậy, vẻ ngoài có vẻ dữ dằn không hề là bản chất của các anh. Họ là những thanh
niên, học sinh của Hà Nội tạm “xếp bút nghiên thoe việc đao cung” lên đường kháng chiến.
Họ có bao kỷ niệm và trong trái tim của họ vẫn dành trọn chỗ cho những cô gái đã quen và
chưa quen của Hà Nội. Với bút pháp quen thuộc, nhà thơ đặt hai trạng thái như đối lập nhau
để vẽ nên chân dung hoàn chỉnh của người lính Tây Tiến:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Chất men lãng mạn cũng là một động lực tinh thần quan trọng của người lính, giúp họ
vượt lên mọi gian khổ, hi sinh. Có thể người nghiêm khắc cho đây là biểu hiện của tâm hồn
lãng mạn, tiểu tư sản. Song chính hình ảnh “dáng kiều thơm” là nét vẽ cần thiết cuối cùng
giúp cho hoàn chỉnh hình tượng chiến sĩ Tây Tiến.
Chính tinh thần lãng mạn đã là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên một vấn đề mà nhiều người
lúc đó né tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là không rơi vào bi
quan, là nhìn ra từ sự mất mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Nhà thơ đã dùng những câu
thơ sóng đôi, câu sau cắt nghĩa, lí giải cho câu trước:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó
là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Cái chết nơi chiến trường thật đơn sơ, giản dị. Anh nằm xuống không có cả manh chiếu
bọc thây. Anh về lại đất mẹ như cái chết của anh đã được dòng sông Mã oai hùng cúi chào
vĩnh biệt bằng những tiếng gần đau đớn, uất hận. Tiếng gầm của dòng sông Mã ấy sẽ còn mãi
mãi đến muôn đời.
Việc dùng các từ Hán Việt đã đem lại sắc thái trang trọng, tôn nghiêm, Biên cương mồ viễn
xứ, áo bào, khúc độc hành tạo không khí cổ điển. Nhà thơ kính cẩn nghiêng mình trước anh
linh của những chiến sĩ Tây Tiến. Đoạn thơ mang âm hưởng bi tráng.
Page 21
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
e) Sự nghiệp của những người lính Tây Tiến vẫn được đồng đội tiếp tục
Bốn câu thơ kết thúc bài Tây Tiến với nhịp thơ chậm, nhưng giọng thơ vẫn bi hùng. Vẻ đẹp
của người lính chủ yếu là ở tinh thần chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồm về Sầm Nưa chẳng về về xuôi.
Ra đi không hẹn ước ngày về. Chờ đợi họ ở phía trước vẫn là con đường thăm thẳm,
gian nguy còn nhiều. Nhưng bất cứ ai lên với đoàn quân Tây Tiến, sống với hào khí oanh liệt,
lãng mạn của những người lính Tây Tiến được thành lập và bắt đầu cuộc trường chinh gian
khổ anh hùng – sẽ là cái mộc thời gian lịch sử của một thời không trở lại lần nữa, nhưng tinh
thần Tây Tiến thì bất diệt.
2. Đặc điểm về nghệ thuật
Bài thơ sử dụng một số từ Hán Việt. Đây có thể là dấu vết của quan niệm truyền thống
về người anh hùng, gắn liền với cái hùng, cái bi, cái cao cả, nhằm tạo nên ấn tượng con người
vũ trụ.
Bài thơ khá đặc sắc về nhạc điệu do việc tác giả mo phỏng thể hành của thơ truyền thống. Sự
thay đổi khá linh hoạt của vần, thanh điệu bằng trắc, nhịp câu thơ khiến cho bài thwo thoát
khỏi sự gò bó có thể có của các khổ thơ có dáng vẻ thơ Đường luật.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
VIỆT BẮC
(Trích)
I- NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ
1. Về tác giả
Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, nay
thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế (xem Vài nét về tiểu sử
trong Ngữ văn 12, tập một).
Page 22
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Đường cách mạng, đường thơ của Tố Hữu gắn liền với các chặng đường của cách mạng Việt
Nam. Bảy tập thơ của Tố Hữu có thể coi là những cuốn biên niên sử bằng thơ ghi lại bảy
chặng đường của cách mạng Việt Nam, của đời sống dân tộc, tâm hồn dân tộc trong sự vận
động đi lên của tiến trình lịch sử.
2. Về tác phẩm
- Việt Bắclà tên gọi khu căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước
ta. Chiến khu Việt Bắc nay thuộc sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang. Tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 cho tới
chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Bắc là thủ đô của kháng chiến, của cách mạng được
15. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc được
giải phóng, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ đã chuyển từ Việt Bắc về
Hà Nội (10/1954).
- Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác trong bối cảnh chia tay với Việt Bắc đầy
lưu luyến như thế. Bài thơ dài 150 câu thơ lục bát. Những lời đối đáp mình – t, ta –
mình, kẻ ở - người đi, người dân căn cứ địa cách mạng – người kháng chiến trở về Hà
Nội. Tình cảm chia tay ấy được diễn tả dưới hình thức đối đáp của đôi lứa nam nữ
trong ca dao dân ca tình yêu, tạo nên chất trữ tình đằm thắm. Câu từ của bài thơ dựa
trên sự đối đáp này cho thấy rõ một đặc trưng của thơ Tố Hữu – thơ trữ tình chính trị.
Nhà thơ viết về một đề tài cách mạng khô khan, rát khó cho thơ nhưng đã chọn cách
chyển tải bằng hình thức đối lập nam nữ nên tác phẩm trở nên hấp dẫn. Hình thức đối
lập qua thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, những cách nói của văn học dân gian tạo ấn
tượng tính dân tộc sâu đậm của bài thơ.
II- PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH
1. Mạch cảm hứng thơ Việt Bắc
Đoạn trích của bài thơ dựa vào sách giáo khoa chủ yêu gợi lại những kỷ niệm, ân tình sâu
nặng giữa người đi và kẻ ở. Việt Bắc 15 năm từng là thủ đô kháng chiến, là mảnh đất khai cơ
lập nghiệp của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Những lời đưa tiễn cũng là những lời nhắc
nhở về những kỉ niệm đẹp trong kháng chiến. Lời đáp lại là tiếng lòng cam kết son sắt thủy
chung. Mở đầu bài thơ là hồi tưởng của người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta
Page 23
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn?
Đừng quên tình cảm thiết tha mặn nồng của người Việt Bắc, cũng đừng quên đây là
quê hương cách mạng, là cội nguồn của sự nghiệp lớn. Lời đáp diễn tả tình cảm tha thiết và
lời hẹn ước của người về:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Cũng nói đến sự trân trọng, uống nước nhớ nguồn của người về:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Hai câu đầu mang sắc thái quan hệ cá nhân, sắc thái tâm tình chia sẻ. Hai câu sau mang
sắc thái cảm xúc của “cái ta” chung, là những tình cảm lớn. Chọn hình thức đối lập nam nữ
truyền thống trong ca dao, dân ca, tác giả đã diễn tả khéo léo tâm trạng của người cách mạng
với người dân Việt Bắc trong buổi chia tay. Câu chuyện của người cách mạng mang màu sắc
tâm linh lãng mạn, hấp dẫn.
2. Nỗi nhớ về đất và người Việt Bắc
Cảnh và người Việt Bắc đã để lại nỗi nhớ không thể quên trong tâm hồn người về.
Không một nỗi nhớ nào về thiên nhiên Việt Bắc lại thiếu hình ảnh đẹp về người Việt Bắc và
không một nỗi nhớ nào về con người Việt Bắc lại thiếu nỗi nhớ về vẻ đẹp của núi rừng Việt
Bắc. Bởi lẽ đơn giản: con người Việt Bắc gắn bó với thiên nhiên, đến lượt mình, người chiến
sĩ cách mạng, người kháng chiến sống chan hòa với người Việt Bắc, được che chở giữa đại
ngàn rừng núi. Anh không đi ngoạn cảnh, đi du lịch mà đi kháng chiến, sống dựa vào dân,
cùng chia sẻ với dân, đồng cam cộng khổ:
Ta đi ta nhớ những ngày
Minh đây ta đso, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Page 24
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Cuộc sống gắn bó, cùng chia sẻ, hòa đồng là điểm tựa cho nỗi nhớ về đất và người Việt
Bắc.
Đáp lại, người Việt Bắc từ góc độ người dân đã từng giúp đỡ, chở che cho người cách
mạng nhắc đến những kỷ niệm chia sẻ ân tình. Những món ăn quen thuộc của rừng núi được
kể đến đã gợi nhắc những kỷ niêm không thể quên:
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Lời đáp lại của người cách mạng thật xốn xang xúc động: quên sao được bắp ngô chia
sẻ mà bà mẹ lam lũ, vất vả “địu con lên rẫy” đem về, quên sao được những người lao động
cần cù vì cách mạng. Hình ảnh người mẹ và em bé trên lưng mẹ cùng lên nương có sức gợi
xúc cảm vô bờ:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.
Và nếu có nghĩ đến cảnh rừng tươi đẹp thì nhớ ngay đến những con người trong
khung cảnh lao động vì kháng chiến:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Có thể đây là những câu thơ miêu tả thiên nhiên Việt Nam tuyệt đẹp: một bức tranh
đủ màu sắc rực rỡ, có âm thanh của cả bốn mùa, cảnh và người giao hòa thân thiết. Mơ nở
trắng, hoa chuối đỏ tươi, rừng phách vàng, tiếng ve kêu làm nền cho hình ảnh người em gái
Page 25
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
hái măng môt mình. Nhưng điều quan trọng là những hình ảnh này gợi nỗi nhớ về Việt Bắc,
là để đáp lại lời dặn dò ân cần của người dân ở lại:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Những con người Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng tình nghĩa. Tấm lòng cao cả của con
người Việt Bắc đẹp, trong sáng, lộng lẫy như cảnh Việt Bắc vậy. Người gài dao thắt lưng có
thể là anh dân quân du kích mà cũng có thể là người lao động, cũng như cô gái hái măng hay
người đan nón chuốt từng sợi giang. Họ đều đang làm những việc ân tình với kháng chiến hệt
như bà mẹ địu con lên nương tần tảo kiếm từng bắp ngô để chia sẻ với người cách mạng. Có
điều, lời thơ của tác giả thật kín đáo, gợi kỷ niệm riêng của hai người, phải dựa trên kết cấu
đối đáp mới “giải mã” được. Sự gắn bó, chia sẻ, tình quân dân cá – nước là cảm hứng chủ
đạo của cả đoạn thơ từ đầu cho tới câu “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Không phải
ngẫu nhiên mà mình, ta lại nhớ:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn va vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nên cối đều đều suối xa…
Lớp học i tờ hay đêm liên hoan lửa trại ta nhớ về sinh hoạt gắn bó giữa cán bộ cách mạng
với người dân trên núi rừng Việt Bắc. Tiếng mõ lốc cốc của đàn trâu trên đường về nhà khi
chiều xuống hay tiếng chày giã gọi của cối gạo nương tả âm thanh, tả nhạc rừng (tiếng mõ
trâu buổi chiều về nhà, tiếng chày giã gạo vọng từ phía suối xa) để hòa quyện vào nhạc của
người “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”. Không gian và con người được tả rất gợi, rất sinh
động đầy xúc cảm.
Page 26
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
3. Nỗi nhớ về căn cứ địa cách mạng
- Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng, là thủ đô kháng chiến. Ngày chia tay, người ở
lại nhắc về những sự kiện nay đã thành kỷ niệm. Hồi tưởng là mạch cảm xúc chủ đạo,
với những từ nhớ lặp đi lặp lại:
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Người về, như để cam đoan lòng mình sẽ chẳn bao giờ phia mờ những kỷ niệm,
cũng nhớ, đắm mình vào mạch hồi tưởng về những tháng ngày chiến đấu gian khổ:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Quên sao được những chiến công hiển hách của quan dân ta trên vùng rừng núi Việt
Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, phố Ràng… những địa danh biết nói. Việt Bắc che chở, Việt Bắc
chứng kiến, Việt Bắc cùng ta đánh giặc:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nếu ở đoạn thơ nhớ về con người và cảnh vật Việt Bắc, âm điệu chủ đạo là trữ tình thì ở
đoạn này, âm điệu sử thi anh hùng ca là chủ đạo. Hoạt động của con người được miêu tả có
Page 27
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
tầm kích vũ trụ: Bước chân làm rung chuyển đất, “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”, bước
chân làm nát đá, ánh đèn pha chọc thủng, rọi sáng “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày”.
- Nói đến Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến, cũng là nói tới Đảng, Chính phủ và
Bác Hồ. Từ Việt Bắc, như từ trái tim, đầu não, các chủ tưởng đường lối của trung
ương Đảng và Chính phủ tỏa đi khắp nước, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng:
Điều quân chiến dịch Thu – Đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
Việc lãnh đạo đất nước ở buổi ban đầu lập nước đầy khó kahwn đã được bàn và quyết
định ở Việt Bắc. Việt Bắc là niềm hy vọng, niềm mong đợi của cả dân tộc vì nơi đây Bác Hồ
và Chính phủ cách mạng đã sống và làm việc:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đơn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Nhờ có hình thức đối thoại mình- ta, ta –mình mà hàng loạt kỷ niệm đẹp về chiến khu
Việt Bắc đã được tái hiện sinh động, đa dạng.
Những vấn đề chính trị, cách mạng tưởng khô khan đã được diễn đạt thật mềm mại, thiết tha,
dễ thấm vào lòng người nhờ hình thước đối đáp của đôi nam nữ.
4. Thể thơ và ngôn ngữ
- Về thể thơ: Bài thơ Việt Bắc dài 150 dòng thơ lục bát. Giới nghiên cứu đều thừa
nhận vẻ đẹp cổ điển của thơ lục bát ở bài thơ này. Tính chất cổ điển này trước hết thể
hiện ở lối câu từ truyền thống của hát đối nam nữ trong ca dao dân ca. Mình – ta, ta –
mình gắn bó quấn quýt gợi liên tưởng về những cuộc hát, đối đáp nam nữ truyền
thống: Câu thơ lục bát thân thuộc, gần gũi với bất kỳ một người Việt Nam nào.
Page 28
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
Hình thức thiểu đối trong câu thơ lục bát truyền thống được Tố Hữu vận dụng khá rộng
rãi trong bài thơ Việt Bắc tạo nên cảm giác về sự cân đối, chặt chẽ: nhìn cây nhớ núi/ nhìn
sông nhớ nguồn; Bâng khuâng trong dạ/ bồn chồn bước đi; Trám bùi để rụng / măng mai để
già,… Nói như Xuân Diệu “khêu gợi nhiều hơn là diễn tả”, “chữ đúc lại với nhau”. Nhưng
bản chất của đối xứng là tạo ra thế đối lập khiến cho hình tượng thơ phong phú, đa dang, câu
thơ có vẻ cổ điển.
+ Đối lập không gian:
- Nhìn cây nhớ núi / nhìn sông nhớ rừng
- Trăng lên đầu núi / nắng chiều lưng nương
+ Đối lập thời gian:
Nhớ khi kháng Nhật / thuở còn Việt Minh
+ Đối lập nội tâm và hành động:
Bâng khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi
+ Đối lập hai sự việc:
Địu con lên rẫy / bẻ từng bắp ngô.
+ Đối lập màu sắc:
Hắt hiu lau xám/ đậm đà lòng son
Có thể kể ra nhiều cặp đối lập tương tự.
Mặt khác, về mặt nhịp điêu câu thơ, hình thức tiểu đối đã góp phần thay đổi nhịp điệu của
câu thơ lục bát. Trong số tác phẩm dài hơi (150 dòng thơ lục bát), điều này rất có ý nghĩa,
làm cho bài thơ luôn luôn vận động, biến hóa, thay đổi từ ý, lợi, nhịp điệu, khiến cho toàn bài
thơ hấp dẫn, tránh cảm giác đều đều, lặp đi lặp lại. Bài thơ Việt Bắc xứng đáng là một đỉnh
cao của văn học cách mạng.
- Về ngôn ngữ: Tác gải sử dụng từ ngữ hàng ngày, lời ăn tiếng nói dân gian, cách
xưng hô mình – ta, ta – mình; sử dụng các dạng cấu trúc câu phổ biến của ca dao, dân
ca trữ tình, hát đối đáp nam – nữ như bao nhiêu…bấy nhiêu (Nguồn bao nhiêu nước,
nghĩa tình bấy nhiêu; so sánh Qua đình ngả nón trông đình – đình bao nhiêu ngói
Page 29
Tài liệu ôn thi học kì 1 – Ngữ văn 12
thương mình bấy nhiêu); sử dụng mô-típ về nỗi nhớ rất phổ biến trong ca dao, đặt câu
hỏi có nhớ…, còn nhớ…; gọi tên các sự vật gợi liên tưởng không gian Việt Bắc: trám,
măng mai, lau, hoa chuối, tiếng mõ, cối (cối gạo nương),… những hình ảnh đặc thù
của con người Việt Bắc bản khói, áo chàm…
Trong thơ Tố Hữu, các địa danh thường xuyên xuất hiện, như là một biện pháp kỹ thuật
khơi gợi tình yêu, niềm tự hào về đất nước. Trong bài viết Việt Bắc, ta gặp lại ngòi Thia, sông
Đáy, phủ Thông, đèo Giàng, phố Ràng, đèo De, núi Hồng, mái đình Hồng Thái, cây đa Tân
Trào. Đó là chưa kể đến những địa danh với những đặc sản khác trong những đoạn thơ không
được trích dẫn (như Vại Hương Canh, gạch Bát Tràng, chiếu Nga Sơn, lụa Hà Đông, vải
Nam Định,…). Không có tình yêu đất nước chung chung, chỉ có đất nước qua những con
người, những vùng đất, những sự vật cụ thể mà ta đang sống.