BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI LÊ THANH HUYỀN THƯ VIỆN VIỆT NAM THỜI KỲ PHÁP THUỘC LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÔNG TIN - THƯ VIỆN HÀ NỘI - 2014
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
LÊ THANH HUYỀN
THƯ VIỆN VIỆT NAM
THỜI KỲ PHÁP THUỘC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÔNG TIN - THƯ VIỆN
HÀ NỘI - 2014
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
LÊ THANH HUYỀN
THƯ VIỆN VIỆT NAM
THỜI KỲ PHÁP THUỘC
Chuyên ngành: Khoa học Thông tin - Thư viện
Mã số: 62 32 02 03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÔNG TIN - THƯ VIỆN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Trần Thị Minh Nguyệt
2. TS. Vũ Thị Minh Hương
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả. Các
kết quả nghiên cứu và các kết luận trong luận án này là trung thực, không sao
chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo
các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo
đúng quy định./.
Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận án
Lê Thanh Huyền
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. 1
MỤC LỤC ........................................................................................................................ 2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................................ 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU .............................................................................................. 4
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯ VIỆN VÀ
BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA THƯ VIỆN VIỆT NAM THỜI KỲ PHÁP THUỘC ....... 16
1.1. Những vấn đề chung về thư viện ..................................................................... 16
1.1.1. Định nghĩa thư viện ............................................................................................. 16
1.1.2. Cấu trúc thư viện ................................................................................................. 20
1.1.3. Vai trò của thư viện ............................................................................................. 21
1.1.4. Tổ chức và hoạt động thư viện ............................................................................ 22
1.1.5. Tiêu chí đánh giá thư viện ................................................................................... 29
1.2. Thư viện Việt Nam trong bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc ... 36
1.2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc ................................................... 36
1.2.2. Khái quát sự hình thành và phát triển của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc .. 45
1.3. Tiểu kết............................................................................................................... 47
Chương 2. THỰC TRẠNG THƯ VIỆN VIỆT NAM THỜI KỲ PHÁP THUỘC ........ 49
2.1. Thư viện Việt Nam giai đoạn 1858 - 1917 ....................................................... 49
2.1.1. Tổ chức thư viện ................................................................................................. 49
2.1.2. Hoạt động thư viện .............................................................................................. 53
2.2. Thư viện Việt Nam giai đoạn 1917 - 1945 ....................................................... 59
2.2.1. Tổ chức thư viện ................................................................................................. 60
2.2.2. Hoạt động thư viện .............................................................................................. 75
2.3. Đánh giá thực trạng thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc ...................... 116
2.3.1. Tổ chức thư viện ............................................................................................... 116
2.3.2. Hoạt động thư viện ............................................................................................ 117
2.4. Tiểu kết............................................................................................................. 120
Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA THƯ VIỆN VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC ... 122
TRONG SỰ NGHIỆP THƯ VIỆN VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM ............................... 122
3.1. Ảnh hưởng của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc tới sự nghiệp
thư viện Việt Nam ....................................................................................................... 122
3.1.1. Chuyển đổi mô hình thư viện phong kiến sang mô hình thư viện hiện đại ...... 122
3.1.2. Đặt nền móng lý luận và thực tiễn cho thư viện Việt Nam hiện đại ................. 133
3.2. Ảnh hưởng của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc tới văn hóa
Việt Nam ...................................................................................................................... 137
3.2.1. Môi trường thuận lợi cho giao lưu, tiếp biến văn hóa Đông - Tây ................... 137
3.2.2. Bảo tồn di sản văn hóa thành văn của dân tộc .................................................. 143
3.2.3. Công cụ phục vụ mục tiêu khai thác thuộc địa và nô dịch................................ 144
3.3. Tiểu kết............................................................................................................. 146
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................... 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ............................................................. 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 153
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
AGGI : Amiraux Gouvernement Général de l’Indochine
(Thống đốc toàn quyền Đông Dương)
EFEO : École Française d’Extrême-Orient (Trường Viễn
Đông bác cổ)
Phông : Fond
GGI : Gouvernement Général de l’Indochine (Toàn quyền
Đông Dương)
Impr. : Imprimerie (Nhà in)
IDEO : Imprimerie d’Extrême-Orient (Nhà in Viễn Đông)
Nxb. : Nhà xuất bản
RST : Résidence Supérieure au Tonkin (Thống sứ Bắc Kỳ)
RST – NF : Résidence Supérieure au Tonkin - Nouveau fonds
(Thống sứ Bắc Kỳ - Phông mới)
4
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2-1: Ngân sách Đông Dương dành cho lưu trữ và thư viện (1929-1945) ....... 66
Bảng 2-2: Ngân sách Đông Dương dành cho 3 lĩnh vực: Phúc lợi xã hội, kinh tế
và khai thác công nghiệp (1929-1945) ...................................................................... 66
Bảng 2-3: Bảng qui định cấp bậc và lương của các vị trí việc làm của viên chức
người Âu trong Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương ........................................... 71
Bảng 2-4: Bảng qui định cấp bậc và lương của các vị trí việc làm của viên chức
bản xứ trong Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương ............................................... 71
Bảng 2-5: Thống kê so sánh tỉ lệ các lĩnh vực trong vốn tài liệu .............................. 77
Bảng 2-6: Số lượng sách lưu chiểu trên toàn Đông Dương từ 1928 đến 1935 từ
1928 đến 1935 ........................................................................................................... 79
Bảng 2-7: In ấn phẩm định kỳ của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Đương ............. 80
Bảng 2-8: Số lượng ấn phẩm định kỳ bằng các ngôn ngữ nộp lưu chiểu năm
1943-1944.................................................................................................................. 80
Bảng 2-9: Vốn tài liệu bổ sung của Thư viện Trung ương Đông Dương ................. 81
Bảng 2-10: Số lượng sách mua, biếu tặng của Thư viện Trung Kỳ và Nam Kỳ ...... 82
Bảng 2-11: Kinh phí mua sách và đóng sách của Thư viện Trung ương
Đông Dương 1918-1937 ........................................................................................... 83
Bảng 2-12: Vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương và Thư viện Sài Gòn .... 85
Bảng 2-13: Lượt người đọc tại Hà Nội, Sài Gòn, Phnompenh ............................... 104
Bảng 2-14: Lượt bạn đọc tại Phòng đọc và Phòng mượn tại Thư viện .................. 107
Bảng 2-15: Sử dụng vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương ............. 108
Bảng 2-16: Số lượt người đọc ở phòng đọc thiếu nhi của thư viện Sài Gòn .......... 110
Bảng 2-17: Sử dụng vốn tài liệu của thư viện lưu động Nam Kỳ ........................... 112
Bảng 2-18: Hiệu suất hoạt động của thư viện lưu động Nam Kỳ ........................... 113
5
DANH MỤC BIỂU
Hình 2-1: Ngân sách Đông Dương dành cho cho 3 lĩnh vực: Phúc lợi xã hội,
kinh tế và khai thác công nghiệp (1929-1945) .......................................................... 67
Hình 2-2: So sánh tỉ lệ các lĩnh vực trong vốn tài liệu của Thư viện Trung ương
Đông Dương .............................................................................................................. 76
Hình 2-3: Kinh phí mua sách và đóng sách của Thư viện Trung ương Đông Dương .... 84
Hình 2-4: Biểu đồ so sánh lượt người đọc tại Hà Nội, Sài Gòn, Phnompenh ........ 105
Hình 2-5: Số lượt bạn đọc tại Phòng đọc và Phòng mượn ..................................... 106
Hình 2-6: Sử dụng vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương ................ 109
6
0. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thư viện ra đời do nhu cầu của xã hội và phát triển dưới những điều kiện lịch
sử nhất định. Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thư viện xuất hiện ở Việt Nam từ thời Lý
(thế kỷ 11) và thăng trầm cùng những biến động của lịch sử dân tộc. Dù trong hoàn
cảnh nào, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện niềm tự tôn dân tộc, tiếp thu có sáng
tạo tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác. Sự phát triển của thư viện Việt Nam là một
minh chứng cho khát vọng vươn đến những tầm cao tri thức nhân loại của người Việt Nam.
Thời kỳ Pháp thuộc là một giai đoạn lịch sử phức tạp của Việt Nam. Pháp là
một đế quốc phát triển có nhiều thuộc địa, có nền công nghiệp hiện đại và phát triển
ở phương Tây. Với nền đế chế thứ hai (một hình thái chuyên chế của giai cấp tư sản
Pháp), đế quốc Pháp bên trong ra sức đàn áp và bóc lột nhân dân, bên ngoài ráo riết
đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa. Việt Nam, với vị trí địa lý thuận lợi, đất đai màu mỡ,
nhân công rẻ mạt, là mục tiêu của thực dân Pháp trong việc mở rộng thuộc địa làm
giàu cho chính quốc. Thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã phân Việt
Nam thành ba kỳ với các chế độ cai trị khác nhau dẫn đến sự khác biệt về xã hội, kinh
tế và văn hóa giữa các vùng miền. Sự đô hộ của thực dân Pháp đã làm thay đổi cơ
cấu kinh tế, xã hội và văn hóa Việt Nam.
Bối cảnh lịch sử phức tạp thời kỳ Pháp thuộc đã tác động mạnh đến sự phát
triển của thư viện Việt Nam. Thư viện là cơ quan văn hóa nhằm mục đích phục vụ bộ
máy cai trị, gây ảnh hưởng văn hóa Pháp trên toàn lãnh thổ Đông Dương.
Đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu sâu sắc về kinh tế, thương mại, văn hóa, xã
hội…của Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu tổ chức hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ này, trên cơ sở xem xét
các phương diện lịch sử và văn hóa.
Với mong muốn đóng góp vào việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của thư
viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc; đánh giá những đóng góp về lý luận và thực tiễn
7
của thư viện Việt Nam thời kỳ này đối với sự phát triển của sự nghiệp thư viện và
tiến trình văn hóa Việt Nam; rút ra những bài học về tổ chức và hoạt động của thư
viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc cho sự nghiệp thư viện ngày nay, tôi lựa chọn đề
tài “Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc,
đánh giá vai trò của thư viện Việt Nam thời kỳ này trong lịch sử sự nghiệp thư Việt
Nam nói riêng và tiến trình phát triển văn hoá dân tộc nói chung.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Xác định những nhân tố lịch sử, kinh tế, xã hội văn hóa, giáo dục tác động
lên sự hình thành và phát triển của các thư viện thời kỳ Pháp thuộc.
+ Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của mạng lưới thư viện Việt Nam thời kỳ
Pháp thuộc;
+ Phân tích, đánh giá thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trong lịch sử sự
nghiệp thư viện Việt Nam;
+ Đánh giá vai trò của thư viện thời kỳ Pháp thuộc trong tiến trình phát triển
văn hoá Việt Nam.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Luận án chọn đối tượng nghiên cứu là tổ chức và hoạt động của mạng lưới thư
viện Việt Nam do chính quyền thuộc địa Pháp thành lập và vận hành trong thời kỳ từ
năm 1858 đến 1945.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết một cách toàn diện vấn đề nghiên cứu, luận án sử dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời quán triệt quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác văn hóa và thư viện trong quá trình
nghiên cứu.
8
Bên cạnh phương pháp chung, luận án sử dụng các phương pháp cụ thể như:
lịch sử, lôgic, thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: với mong muốn góp phần lấp đầy khoảng trống về nghiên
cứu lịch sử ngành thư viện thời kỳ này, luận án hệ thống hóa và hoàn thiện cơ sở lý
luận về tổ chức và hoạt động thư viện; góp phần làm sáng tỏ ảnh hưởng của những
nhân tố lịch sử, văn hóa, xã hội tới sự vận động, phát triển của thư viện Việt Nam
thời kỳ Pháp thuộc.
- Về mặt thực tiễn: luận án làm sáng tỏ tổ chức và hoạt động của các thư viện
trong thời kỳ Pháp thuộc; làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học
tập về lĩnh vực thư viện nói riêng và những người nghiên cứu về văn hóa, giáo dục
Việt Nam nói chung.
6. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Để giải quyết các mục tiêu của luận án, tác giả sử dụng các nguồn tài liệu:
Các tài liệu, công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, kinh tế Việt Nam
thời kỳ Pháp thuộc; các tài liệu liên quan đến tổ chức và hoạt động của
mạng lưới thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc.
Khảo sát các thư viện, trung tâm lưu trữ được xây dựng trong giai đọan
này về tổ chức, cơ cấu vốn tài liệu, sản phẩm và dịch vụ thông tin, công
tác phục vụ bạn đọc…thông qua các tài liệu lưu giữ tại các thư viện và
trung tâm lưu trữ trong và ngoài nước.
Tài liệu sử dụng trong luận án chủ yếu được thu thập được từ những cuộc khảo
sát thực địa tại:
- Việt Nam:
Trung tâm lưu trữ quốc gia I (thuộc Cục lưu trữ Nhà nước);
Thư viện Quốc gia Việt Nam;
9
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội;
Trường Viễn Đông bác cổ.
- Cộng hòa Pháp:
Trung tâm lưu trữ hải ngoại tại Aix en Provence;
Trường Viễn Đông bác cổ và Thư viện Quốc gia ở Paris;
Phòng thương mại và công nghiệp Lyon;
Phòng thương mại và công nghiệp Marseille.
6.1. Tài liệu liên quan đến bối cảnh lịch sử thời kỳ Pháp thuộc
Nghiên cứu bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, có khá nhiều công
trình, trong đó có 4 công trình nghiên cứu tiêu biểu như Đại cương lịch sử Việt Nam
tập II của Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ [15], Tiến trình lịch
sử Việt Nam của Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) [20], Việt Nam dưới thời Pháp đô
hộ của Nguyễn Thế Anh [1], Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám 1945 của Dương Kinh Quốc [22].
Nhìn chung các nhà sử học đều có quan điểm thống nhất trong nhận định về
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục của nước ta thời kỳ này. Các
tác giả đều nhất trí cho rằng những nguyên nhân bùng nổ cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp năm 1858 là triều đại phong kiến nhà Nguyễn đang đi vào giai
đoạn khủng hoảng và suy vong trầm trọng; cùng với sự du nhập thiên chúa giáo,
thương mại, tư tưởng và văn hóa phương Tây.
Thực dân Pháp đã chia Việt Nam thành ba kỳ nhằm thực hiện chính sách "chia
để trị". Chúng đã thiết lập ở mỗi kỳ một chế độ chính trị và thể chế khác nhau nhưng
quyền lực hoàn toàn nằm trong tay người Pháp. Sự khác biệt về chính trị giữa các kỳ
dẫn đến sự phức tạp trong xã hội nước ta. Đây chính là chiến lược trong chính sách
cai trị của thực dân Pháp mà mục đích cuối cùng là xâm lược toàn bộ xứ Đông Dương.
Các nhà sử học đều thống nhất nhận định: nền kinh tế nước ta thời kỳ Pháp
thuộc là nền kinh tế với mục đích phục vụ kinh tế của chính quốc. Bởi vậy, kinh tế
10
Việt Nam thời kỳ này què quặt, mất cân đối và phụ thuộc chịu ảnh hưởng kinh tế,
chính trị của Pháp. Các cuộc khai thác thuộc địa mà Pháp tiến hành ở những giai đoạn
và lĩnh vực khác nhau đều phục vụ việc khôi phục và phát triển nền kinh tế của chính
quốc. Việt Nam trở thành thuộc địa cung ứng cho chính quốc nguyên liệu và những
sản vật nhiệt đới.
Theo Nguyễn Thế Anh [1], Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Công Bình, Văn
Tạo [29], xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc vô cùng phức tạp. Chính sách kinh tế và
thể chế chính trị mà thực dân Pháp áp dụng ở Việt Nam dẫn đến những biến đổi xã
hội sâu sắc. Địa vị xã hội của người Việt Nam bị hạn chế. Địa vị hành chính không
công bằng giữa người Việt và người Pháp. Mọi quyền tự do nhân dân ta đều bị phế bỏ.
Sự phân hóa giai cấp diễn ra rõ nét. Giai cấp địa chủ ngày càng giàu có, câu
kết chặt chẽ với thực dân. Giai cấp nông dân ngày càng bị bần cùng hóa. Giai cấp
công nhân ra đời và phát triển mạnh mẽ. Những giai cấp mới ra đời từ một nền kinh
tế mang yếu tố tư bản như tầng lớp tiểu tư sản tăng nhanh ở các đô thị.
Các tác giả Nguyễn Thế Anh [1], Tạ Thị Thúy, Ngô Văn Hòa, Vũ Huy Phúc
[25], Trần Viết Nghĩa [16], Phan Ngọc [18], Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thành, Dương
Trung Quốc [8], Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ [15] đều
thống nhất xu hướng Âu hóa ở Việt Nam đã bắt đầu từ những năm giữa thế kỷ 17.
Một loạt các ảnh hưởng của văn hóa và tôn giáo của phương Tây đã tác động mạnh
mẽ lên văn hóa Việt Nam nói chung và hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp
thuộc nói riêng như sự du nhập của Thiên chúa giáo, sự ra đời của chữ Quốc ngữ;
chính sách văn hóa của thực dân Pháp, sự du nhập của văn hóa Pháp, sự ra đời của
báo chí, sự đổi mới của giáo dục và sự hình thành tầng lớp trí thức Tây học.
Mặc dù bị áp đặt những chính sách văn hóa đồng hóa và ru ngủ nhằm mục
đích cai trị về văn hóa, nhưng với tư tưởng tiến bộ và truyền thống văn hóa lâu đời,
nhân dân ta đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn minh phương Tây. Sự du
nhập báo chí, ấn phẩm nước ngoài, đặc biệt là tiểu thuyết, truyện ngắn cổ điển (một
hình thức văn học mới), làm thay đổi tư duy, lối sống và đời sống văn hóa của người
11
Việt Nam. Đây cũng là cơ sở làm giàu cho vốn tài liệu của các thư viện được thành
lập trong thời kỳ này.
Giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc có nhiều đổi thay lớn góp phần làm biến
đổi xã hội, văn hóa trong đó có thư viện. Nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục
của Việt Nam thời kỳ này, trong đó tiêu biểu là: Giáo dục Pháp Việt ở Bắc Kỳ của
Trần Thị Phương Hoa [8], Lịch sử Việt Nam, tập III 1919-1930 của Tạ Thị Thúy, Ngô
Văn Hòa, Vũ Huy Phúc [28], Giáo dục Việt Nam thời Cận đại của Phan Trọng Báu
[4], Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây của Trần Viết Nghĩa [19].
Các tác giả đều thống nhất nhận định: giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc chịu cả ảnh
hưởng tiêu cực và tích cực từ những cải cách giáo dục của thực dân Pháp.
Chính sách giáo dục thuộc địa, áp đặt một nền giáo dục phương Tây đã tạo ra
những ảnh hưởng tiêu cực. Chương trình giáo dục mang tính chất nhồi sọ, nô dịch và
ngu dân nhằm phục vụ mục đích cai trị. Cải cách giáo dục chủ yếu tập trung vào bậc
tiểu học với mục đích xóa nạn mù chữ, biết đọc, biết viết. Không phát triển rộng rãi
giáo dục ở bậc cao.
Tuy nhiên những cải cách giáo dục thời kỳ này cũng tạo những hiệu ứng tích
cực. Dù không được ưu tiên phát triển, nhưng những chương trình giáo dục bậc cao
đã chuyển từ phương pháp dạy và học thụ động sang phương pháp chủ động. Cách
học này đã làm thay đổi tư duy và lối sống của học sinh, sinh viên Việt Nam.
Nhìn chung, có thể thấy bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, giáo dục Việt
Nam thời kỳ này cũng có những ảnh hưởng tích cực, chuyển biến căn bản về phương
pháp giáo dục trên cơ sở tiếp thu nền giáo dục hiện đại phương Tây; tạo ra một lớp
trí thức mới tiến bộ; thúc đẩy quá trình tiếp biến và giao lưu văn hóa Đông - Tây.
6.2. Tài liệu về thư viện thời kỳ Pháp thuộc
Ở thời kỳ giao lưu hai nền văn hóa Đông - Tây, tình hình kinh tế, văn hóa, xã
hội Việt Nam có những biến động lớn, thư viện Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng và
có những thay đổi căn bản. Nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của mạng lưới
12
thư viện thời kỳ này có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả người
Việt và người Pháp.
Một số công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt như "Lịch sử sự nghiệp thư viện
Việt Nam trong tiến trình văn hóa dân tộc" của Dương Bích Hồng; luận án tiến sĩ của
Bùi Loan Thùy "Sự nghiệp thư viện và thư viện học Việt Nam lịch sử, hiện trạng và
triển vọng"; "Thư viện Quốc gia Việt Nam – 85 năm xây dựng và trưởng thành" do
Nguyễn Hữu Viêm, Lê Văn Viết chủ biên, và một số bài báo nghiên cứu về thư viện
thời Pháp thuộc như "Lịch sử thư viện và thư tịch Việt Nam" của Nguyễn Hùng Cường
[5], "Tìm hiểu lịch sử thư viện Việt Nam thời thuộc Pháp của Nguyễn Ngọc Mô"
[16], "Vài con số về các thư viện ở Đông Dương" của Phạm Mạnh Phan [23].
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu của các tác giả người Pháp như:
Những lưu trữ và thư viện ở Đông Dương (Les archives et les bibliothèque de
l’Indochine) của Paul Boudet đăng trong Tạp chí Đông Dương (Revue Indochinoise)
năm 1919 [45], Đông Dương trong quá khứ (L'Indochine dans le passé) do Hội người
bạn của Hà Nội cổ kết hợp với Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương xuất bản [48],
Các thư viện Đông Dương thuộc Pháp (Les bibliothèques de l’Indochine française)
của Rageau đăng trong Lịch sử các thư viện Pháp (Histoire des bibliothèques
françaises) [52]. Các công trình này chủ yếu giới thiệu tình hình hoạt động của thư
viện Việt Nam trước năm 1917; kế hoạch thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương, mạng lưới thư viện ở Đông Dương; mô tả một số hoạt động cụ thể của Nha
Lưu trữ và Thư viện Đông Dương như tổ chức triển lãm tư liệu về lịch sử, văn hóa
Đông Dương và châu Á.
Ngoài ra, một số công trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án
như "Thư viện Khoa học xã hội" của Hồ Sĩ Quí và Vương Toàn [24]; "Tìm hiểu lịch
sử ngành thư viện - lưu trữ hồ sơ Việt Nam của Nguyễn Ngọc Mô [16]. Những công
trình này giới thiệu lịch sử hình thành ngành thư viện và lưu trữ Việt Nam, những
yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của thư viện và lưu trữ thời Pháp thuộc; Thư viện
Trường Viễn Đông bác cổ (nay là Thư viện Viện Khoa học xã hội); những thay đổi
trong hoạt động của thư viện Việt Nam.
13
Luận án tiến sĩ của Đào Thị Diến "Lưu trữ thuộc địa ở Việt Nam (1858-1954)
" [46]; "Lịch sử Lưu trữ Việt Nam" của các tác giả Nguyễn Văn Thâm, Vương Đình
Quyền, Đào Thị Diến, Nghiêm Kỳ Hồng [26]; các bài báo của Vũ Thị Minh Hương
"Paul Boudet người sáng lập và những đóng góp cho lưu trữ Đông Dương" trên Tạp
chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam [12], "Paul Boudet người sáng lập cơ quan lưu trữ và
thư viện Đông Dương" trên Tạp chí Xưa và Nay [13]. Các công trình này tập trung
giới thiệu sự ra đời của lưu trữ và thư viện ở Đông Dương; trình bày tổng quát về hệ
thống tổ chức lưu trữ của triều đình nhà Nguyễn, về quá trình hình thành và phương
pháp sắp xếp tài liệu lưu trữ cũng như các biện pháp bảo quản tài liệu, hệ thống kho
tàng của triều đình; quá trình hình thành và phát triển của hoạt động lưu trữ Việt Nam
thời kỳ thuộc địa; những nỗ lực của người Pháp trong việc áp dụng mô hình tổ chức
và phương pháp sắp xếp tài liệu của Pháp vào cơ quan lưu trữ của triều đình; khẳng
định hệ thống lưu trữ Việt Nam tồn tại song song với hệ thống lưu trữ của chính
quyền thuộc địa; giới thiệu lịch sử lưu trữ của chính quyền thuộc địa từ năm 1917
đến năm 1945.
Trong các công trình nêu trên, các tác giả đều đánh giá thư viện Việt Nam
Thời kỳ Pháp thuộc có những bước phát triển mới về tổ chức và hoạt động so với thư
viện Việt Nam thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, có thể do thiếu nguồn sử liệu, những
đánh giá của các tác giả về hoạt động thư viện thời kỳ này chưa đầy đủ, mô tả các
khâu xử lý nghiệp vụ cũng như hoạt động thư mục còn rất khái quát, công tác đào tạo
và chính sách sử dụng nguồn nhân lực thư viện người Việt Nam cũng dừng lại ở mức
độ giới thiệu sơ lược.
Thư viện và lưu trữ do một cơ quan quản lý là Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương. Chính vì vậy, khối tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của Nha Lưu
trữ và Thư viện Đông Dương là nguồn thông tin quan trọng phục vụ cho nghiên cứu
về thư viện thời kỳ Pháp thuộc. Các tài liệu hiện đang được bảo quản ở các Trung
tâm Lưu trữ quốc gia tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam) và Aix-en-
Provence (Pháp). Đây là những tài liệu có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu
về tổ chức và hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ này.
14
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu những tài liệu về thư viện của Pháp thời kỳ này
giúp phân tích, đánh giá hoạt động của thư viện Pháp đương thời, mức độ ảnh hưởng
của thư viện Pháp tới sự nghiệp thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc. Liên quan đến
vấn đề này có 3 công trình bằng tiếng Pháp của các nhà thư viện học Pháp xuất bản
những năm giữa thế kỷ 19: “Sự hình thành và phát triển của thư viện công cộng
Pháp” của Lelièvre (Chánh Thanh tra thư viện Pháp) [51], Tổng tập các văn bản luật
(sắc lệnh, dụ, nghị định, thông tư,…) về các thư viện công cộng (huyện, đại học,
trường học và đại chúng xuất bản năm 1883 của Robert [53].
Qua nghiên cứu trên có thể thấy Pháp là một trong những nước có hệ thống
thư viện hình thành và phát triển sớm ở châu Âu. Các thư viện của Pháp thời cận đại
chủ yếu được hình thành từ các bộ sưu tập của tư nhân, các tu viện, các học giả, các
nhà quí tộc và vua chúa. Mạng lưới thư viện của Pháp hoạt động thống nhất theo
nguyên tắc chung về hoạt động tổ chức cũng như qui định về nghiệp vụ trên tinh thần
phục vụ rộng rãi công chúng tự học và nghiên cứu, đặc biệt là các nhà khoa học, tầng
lớp trí thức. Thời kỳ này, Pháp đã quan tâm đến phục vụ nhân dân ở vùng sâu vùng
xa hẻo lánh bằng hình thức thư viện lưu động.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, sự ra đời và phát
triển của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, luận giải
rõ ràng, thuyết phục và tương đối thống nhất, làm cơ sở cho việc nhận định đánh giá
hoạt động thư viện thời kỳ này.
Tuy nhiên, có thể do thiếu tư liệu nên các công trình nghiên cứu về thư viện
Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc chưa phân tích, đánh giá được những điểm mạnh, yếu
của hoạt động của thư viện thời kỳ này. Đặc biệt, chưa có công trình nghiên cứu nào
làm rõ ảnh hưởng của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc tới tiến trình phát triển
thư viện trong lịch sử nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung, cũng như những bài
học rút ra từ tổ chức và hoạt động của thư viện thời kỳ này đối với sự phát triển sự
nghiệp thư viện Việt Nam ngày nay.
15
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về thư viện và bối cảnh lịch sử Việt Nam thời
kỳ Pháp thuộc
Chương 2. Thực trạng thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
Chương 3. Ảnh hưởng của thư viện thời Pháp thuộc trong sự nghiệp thư viện
và văn hóa Việt Nam.
16
1. CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯ VIỆN VÀ
BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA THƯ VIỆN VIỆT NAM
THỜI KỲ PHÁP THUỘC
1.1. Những vấn đề chung về thư viện
1.1.1. Định nghĩa thư viện
Thư viện là một hiện tượng xã hội xuất hiện và phát triển nhằm đáp ứng nhu
cầu tinh thần quan trọng của con người trong xã hội: nhu cầu đọc.
Cho đến nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thư viện. Một số định
nghĩa thiên về mô tả thuộc tính bản chất của thư viện: Thư viện là một tổng thể bao
gồm bộ sưu tập tài liệu đáp ứng nhu cầu đọc của xã hội với những điều kiện về tổ
chức và nhân sự. Từ điển giải nghĩa thư viện học và tin học ALA định nghĩa thư viện là
“Một sưu tập những tài liệu đã được tổ chức để đáp ứng nhu cầu một nhóm người mà
thư viện có bổn phận phục vụ, để cho họ có thể sử dụng cơ sở của thư viện, truy dụng
thư tịch, cũng như trau dồi kiến thức của họ. Thư viện có một ban nhân viên được
huấn luyện chuyên môn để cung ứng dịch vụ, chương trình liên quan đến sự truy tìm
thông tin của độc giả” [2, tr.118].
Một số định nghĩa khác tập trung vào thuộc tính thu thập tàng trữ tài liệu để
phục vụ nhu cầu của bạn đọc: thư viện là “cơ quan (hoặc một bộ phận của cơ quan)
thực hiện chức năng thu thập, xử lý, bảo quản tài liệu và phục vụ bạn đọc, đồng thời
tiến hành tuyên truyền giới thiệu các tài liệu đó” [30].
Tổ chức Giáo dục khoa học văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã định nghĩa
“Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi của nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào
của sách, ấn phẩm định kỳ, hoặc các tài liệu khác, kể cả đồ họa, nghe nhìn và nhân
viên phục vụ có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng các tài liệu đó nhằm mục
đích thông tin, nghiên cứu khoa học, giáo dục và giải trí”.
17
Điều 1, chương 1 của Pháp lệnh Thư viện (2000) nhấn mạnh “Thư viện có
chức năng, nhiệm vụ giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức
việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức,
cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục
vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [34, tr.7].
Như vậy có thể thấy, dù được diễn đạt theo những cách khác nhau, về thực
chất thư viện được coi là nơi tàng trữ và sử dụng tài liệu đáp ứng nhu cầu đọc của
cộng đồng.
Có thể phân chia thư viện thành các loại hình khác nhau dựa trên dấu hiệu tính
chất của thư viện: bạn đọc và vốn tài liệu, những yếu tố bản chất của hoạt động thư
viện. Hiện nay ở Việt Nam, thư viện được phân chia thành hai loại hình: thư viện
công cộng và thư viện chuyên ngành (Pháp lệnh Thư viện).
Thư viện công cộng, theo từ điển ALA, là “Một thư viện cung cấp các dịch vụ
tổng quát quát mà không đòi hỏi một sở phí nào của độc giả, của quận hạt hay vùng
mà thư viện phục vụ. Thư viện được ngân sách công hay tư tài trợ, và sưu tập căn bản
của thư viện cũng như dịch vụ thư viện được cung ứng cho tất cả dân sống trong vùng
mà độc giả không phải trả lệ phí, tuy nhiên nếu độc giả thuộc dân cư của một vùng
khác sẽ phải nộp một lệ phí nào đó. Các sản phẩm và dịch vụ thư viện cung ứng ngoài
quản hạt của thư viện có thể hoặc không có thể được thư viện cung cấp miễn phí” [2,
tr.167].
Thư viện thư viện phổ thông (thư viện đại chúng) là “Một sưu tập thư viện có
những tài liệu hấp dẫn và được công chúng ưa thích” [2]
Thư viên trung ương là “Một thư viện đơn độc hay thư viện đóng vai trò trung
tâm hành chính cho một hệ thống thư viện” [2].
Thư viện chuyên ngành là thư viện có bộ sưu tập sâu rộng về một bộ môn (thư
viện kỹ thuật), hay nhiều sưu tập sâu rộng về nhiều bộ môn (thư viện đại học, thư
viện tư nhân lớn) [2, tr.177].
18
Thư viện đại học là “ Một thư viện, được thành lập như một bộ phận của trường
cao đẳng, một viện đại học, hay một học viện hậu-trung-học khác, được tổ chức và
điều hành để thỏa mãn các nhu cầu về thông tin của sinh viên, giáo chức và nhân viên
của trường” [2, tr.1].
Trong mỗi vùng, mỗi quốc gia có nhiều thư viện phục vụ cho các nhóm đối
tượng bạn đọc khác nhau. Các thư viện trong một vùng, một lãnh thổ quốc gia thường
được tổ chức lại, liên kết với nhau tạo thành một mạng lưới, theo một cách thức nhất
định, tùy thuộc điều kiện xã hội, chính trị nhằm phục vụ cộng đồng. Tổ chức và hoạt
động của các thư viện trong một vùng, một lãnh thổ quốc gia trong một giai đoạn nhất
định được gọi là sự nghiệp thư viện của vùng, quốc gia đó.
Mạng lưới thư viện là sự liên kết các cơ quan thư viện – thông tin độc lập với
nhau thành một mạng lưới ở những mức độ khác nhau (tập trung hóa toàn bộ, tập
trung hóa từng phần). Mô hình tổ chức mạng lưới thư viện – thông tin được dựa trên
các nguyên tắc : nguyên tắc lãnh thổ và nguyên tắc ngành dọc [2].
Từ những nguyên tắc này dẫn tới việc hình thành hệ thống thư viện – thông
tin khác nhau ở trung tâm như mạng lưới thư viện công cộng Nhà nước, mạng lưới
thư viện trường phổ thông [2].
Theo ALA từ điển, hệ thống thư viện và mạng lưới thư viện (library system)
được hiểu như nhau là “Một nhóm thư viện độc lập hay tự trị, kết hợp với nhau bằng
những thỏa thuận chính thức hay không chính thức để đạt được mục đích đặc biệt,
chẳng hạn như hệ thống kết hợp theo lối hợp tác xã, hay hệ thống kết hợp theo lối
liên hợp”. Từ điển này cũng định nghĩa hệ thống và mạng lưới thư viện theo một cách
khác: “Một nhóm thư viện được quản trị chung, chẳng hạn như hệ thống thư viện
hợp nhất hay một thư viện trung ương và những chi nhánh của nó” [2].
Trên cơ sở những định nghĩa trên, chúng tôi tiếp thu, kế thừa và nghiên cứu
theo quan niệm sau: mạng lưới thư viện là sự liên kết các thư viện theo nguyên tắc và
mức độ nhất định. Những hệ thống thư viện được tạo thành trên nguyên tắc hình thành
19
của mạng lưới thư viện. Hệ thống thư viện bao gồm các thư viện có hình thức tổ chức
và hoạt động tương đồng, cùng phục vụ một hay nhiều đối tượng giống nhau.
Cấu trúc mạng lưới thư viện
Từ những định nghĩa về mạng lưới và hệ thống thư viện, có thể hiểu cấu
trúc mạng lưới thư viện được hình thành trên cơ sở các mức độ và nguyên tắc tổ
chức mạng lưới thư viện. Mô hình tổ chức mạng lưới thư viện theo nguyên tắc
lãnh thổ liên kết các thư viện trên cùng địa bàn: thành phố, tỉnh, vùng; mô hình
tổ chức mạng lưới thư viện theo nguyên tắc ngành dọc liên kết các thư viện trong
cùng bộ, ngành.
Bên cạnh những định nghĩa có tính khái quát, hoạt động thư viện được cụ thể
bằng các định nghĩa về qui trình kỹ thuật thư viện, chu trình thư viện, quá trình thư
viện, thao tác kỹ thuật nghiệp vụ thư viện. Đây là những lý luận cơ bản về tổ chức
lao động trong thư viện.
Qui trình kỹ thuật thư viện – thông tin là toàn bộ công việc thuộc kỹ thuật
nghiệp vụ trong thư viện – thông tin, chiếm đại đa số thời gian, công sức của cán
bộ thư viện. Quy trình này gồm ba chu trình chính của cơ quan thư viện – thông tin:
chu trình đường đi của sách, chu trình thực hiện yêu cầu bạn đọc, chu trình tra cứu.
[2, tr.43].
Chu trình thư viện là một chu trình bao gồm nhiều quá trình có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, có cùng chung mục đích, một nhiệm vụ, được tiến hành lặp đi lặp
lại nhiều lần với mỗi đối tượng mới. Ví dụ: chu trình đường đi chủa sách, chu trình
thực hiện yêu cầu của bạn đọc, chu trình tra cứu.[2, tr.43].
Quá trình thư viện là một phần của chu trình thư viện, mỗi quá trình thực
hiện một công đoạn nhất định nào đó của chu trình. Ví dụ: phòng Phân loại thực
hiện nhiệm vụ phân loại tài liệu, một quá trình nằm trong chu trình đường đi của
sách [2, tr.44].
20
Thao tác kỹ thuật nghiệp vụ thư viện là một phần của quá trình thư viện, thực
hiện công việc cụ thể nào đó trong quá trình. Ví dụ: quá trình phân loại được thực hiện
bằng các thao tác: đọc lời nói đầu, lời giới thiệu, mục lục, khung phân loại… [2, tr.44].
1.1.2. Cấu trúc thư viện
Theo quan điểm hệ thống, có thể coi thư viện là một chỉnh thể cấu thành bởi
bốn yếu tố cơ bản có quan hệ mật thiết với nhau: vốn tài liệu, người dùng tin, nhân
lực thư viện và cơ sở vật chất.
Vốn tài liệu là bộ sưu tập tài liệu được tổ chức theo một quy tắc nhất định, đảm
bảo khả năng truy cập thông tin nhanh chóng, hiệu quả. Vốn tài liệu là bộ phận quan
trọng của thư viện, là tài sản và tiềm lực thông tin của mỗi thư viện. Đồng thời vốn
tài liệu của thư viện cũng là tài sản quý của mỗi quốc gia. Sự phong phú đa dạng và
có giá trị thông tin cao của vốn tài liệu quyết định chất lượng công tác phục vụ người đọc.
Người dùng tin là người có nhu cầu sử dụng tài liệu thư viện. Người dùng tin
sử dụng tài liệu trong thư viện để khai thác thông tin nhằm thoả mãn nhu cầu đọc.
Mục đích cuối cùng của hoạt động thư viện là thoả mãn tối đa nhu cầu đọc người
dùng tin. Vì vậy, người dùng tin và nhu cầu đọc là yếu tố quan trọng, có tính chất
định hướng cho hoạt động thư viện.
Cơ sở vật chất thư viện bao gồm trụ sở, các trang thiết bị phục vụ cho việc xử
lý, lưu trữ và phục vụ tài liệu cho người đọc. Cơ sở vật chất có vai trò quan trọng
trong việc gìn giữ và bảo quản vốn tài liệu thư viện cả về vật chất (hình thức) và thông
tin (giá trị nội dung tài liệu).
Nhân lực thư viện là người trực tiếp tham gia các công đoạn trong hoạt động
thư viện từ lựa chọn, xây dựng vốn tài liệu đến xử lý kỹ thuật, tổ chức bộ máy tra
cứu, phục vụ bạn đọc. Nhân lực thư viện đóng vai trò chủ thể hoạt động thư viện
“là linh hồn của sự nghiệp thư viện” (Crupxcaia). Năng lực tri thức và kỹ năng nghề
nghiệp của nhân lực thư viện quyết định chất lượng xử lý kỹ thuật nghiệp vụ thư
viện, đảm bảo tài liệu được lưu trữ một cách khoa học, khả năng truy cập thông tin
nhanh chóng.
21
Bốn yếu tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể thống
nhất để thư viện có thể vận hành hiệu quả.
1.1.3. Vai trò của thư viện
Trong xã hội, thư viện thường có bốn vai trò cơ bản: văn hóa, giáo dục, thông
tin và giải trí.
Cơ quan văn hoá giáo dục
Thư viện ra đời và tồn tại nhằm thoả mãn nhu cầu bảo tồn và phổ biến các giá
trị văn hoá của nhân loại được thể hiện dưới dạng tài liệu. Tài liệu được coi là một
dạng di sản văn hóa. Khi các thư viện thu thập, bảo quản tài liệu cũng có nghĩa thư
viện đã bảo quản di sản văn hóa của quốc gia và nhân loại.
Vai trò của thư viện thể hiện ở việc luân chuyển tài liệu và thông tin tới bạn
đọc. Vì vậy có thể coi thư viện là một thiết chế văn hóa, nơi lưu giữ và phổ biến các
giá trị văn hóa của xã hội, nơi tập trung tài sản tinh thần của mỗi quốc gia.
Kênh thông tin quan trọng của xã hội
Thư viện là kênh thông tin đầy đủ, có giá trị vượt thời gian và không gian đến
với các thế hệ người dùng tin. Thư viện là nơi lưu giữ và phổ biến thông tin ít bị nhiễu
nhất trong số các kênh thông tin được sử dụng trong xã hội. Trong xã hội hiện đại,
thông tin khoa học ngày càng gia tăng, chất lượng hoạt động của thư viện góp phần
thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển, tăng năng xuất lao động.
Cơ quan giáo dục ngoài nhà trường
Bên cạnh cơ sở đào tạo truyền thống là nhà trường, thư viện trở thành nơi mọi
người có thể tự học, tự nghiên cứu nâng cao trình độ thông qua sử dụng tài liệu. Đây
là nơi người học được nuôi dưỡng đạo đức, thẩm mỹ và tâm hồn.
Nơi đáp ứng nhu cầu giải trí, đời sống tinh thần của nhân dân
Bên cạnh những tài liệu phục vụ việc học tập, nghiên cứu khoa học và cung
cấp thông tin, thư viện còn có những tài liệu phục vụ nhu cầu giải trí và đời sống tinh
thần như các tác phẩm văn học nghệ thuật ở các dạng khác nhau.
22
Thư viện, khi thực hiện đầy đủ các chức năng của mình, đóng vai trò to lớn
trong sự phát triển xã hội. Tuy không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, nhưng thư
viện có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng.
1.1.4. Tổ chức và hoạt động thư viện
Tổ chức và hoạt động của thư viện là hai mặt thống nhất của sự nghiệp thư
viện. Bởi vậy, để tìm hiểu, đánh giá sự nghiệp thư viện, cần phải xem xét cả khía
cạnh tổ chức và hoạt động thư viện trong mối quan hệ tương tác với nhau như một
thiết chế xã hội hoàn chỉnh.
1.1.4.1. Tổ chức thư viện
- Tổ chức
Tổ chức là một vấn đề phức tạp, vì vậy mỗi khoa học khi tiếp cận về tổ chức
có cách hiểu khác nhau. Tiếp cận tổ chức dưới góc độ xã hội, Từ điển Bách khoa Việt
Nam (2005) định nghĩa “Tổ chức là hình thức tập hợp, liên kết các thành viên trong
xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của các thành viên, cùng nhau
hành động vì mục tiêu chung…” [32, tr.455].
Tiếp cận tổ chức ở mức độ khái quát hơn, Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ xuất bản năm 2010 coi tổ chức là "làm cho thành một chỉnh thể, có một cấu tạo,
một cấu trúc và những chức năng chung nhất định" [33, tr.1288].
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát, tổ chức là liên kết các bộ phận thành
một chỉnh thể, có cấu trúc và chức năng chung nhất định. Để liên kết các bộ phận
thành một chỉnh thể, tổ chức phải xác định được mục tiêu, cơ cấu và được duy trì,
bảo đảm bằng các điều kiện nhân sự, cơ sở vật chất.
Mục tiêu của tổ chức là kết quả mà nhà quản trị muốn đạt được cho tổ chức
trong tương lai. Mục tiêu là yếu tố quyết định nền tảng của tổ chức, quyết định việc
tuyển chọn, sử dụng nhân lực một cách chính xác, hiệu quả. Mục tiêu xác định sự tồn
tại của mọi tổ chức [6].
23
Cơ cấu tổ chức là một chỉnh thể gồm các bộ phận có chức năng, quyền hạn,
trách nhiệm khác nhau, có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được bố trí thành từng
cấp, thực hiện các chức năng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã định. Mỗi cơ cấu tổ chức
quản lý có hai mối quan hệ cơ bản theo hệ ngang và hệ dọc. Theo quan hệ ngang, cơ
cấu tổ chức quản lý chia thành các chức năng quản lý khác nhau. Theo quan hệ dọc,
cơ cấu tổ chức quản lý được chia thành các cấp quản lý: cấp Trung ương, cấp địa
phương, cấp cơ sở. Cấp quản lý chỉ rõ mối quan hệ phục tùng trong quan hệ thứ bậc
của hệ thống quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý càng được hoàn thiện thì càng có tác
động tích cực tới quá trình hoạt động của tổ chức. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức quản
lý còn chịu tác động của cơ chế quản lý kinh tế, thể chế chính sách, những yếu tố
mang tính truyền thống, bản sắc văn hóa [6].
- Tổ chức thư viện
Theo quan điểm trên có thể coi tổ chức thư viện là liên kết các bộ phận của
thư viện hoặc các thư viện thành một chỉnh thể, có cấu trúc và chức năng nhất định.
Khi xem xét tổ chức thư viện, cần phải làm rõ mục tiêu, cơ cấu tổ chức và các yếu tố
đảm bảo cho tổ chức được duy trì như nhân lực và cơ sở vật chất.
Như vậy, có thể xem xét tổ chức thư viện ở hai cấp độ:
Ở cấp độ vĩ mô, tổ chức thư viện là tổ chức mạng lưới thư viện trong một vùng,
lãnh thổ quốc gia nhằm tận dụng mọi tiềm năng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin
của mọi đối tượng bạn đọc trong không gian địa lí nhất định.
Ở cấp độ vi mô tổ chức thư viện là tổ chức một cơ quan thư viện. Mỗi cơ quan
thư viện được tổ chức thành những bộ phận chuyên môn, liên kết và tương tác với
nhau theo một cơ chế nhất định.
Mục tiêu của thư viện thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế - văn hóa của từng
thời kỳ lịch sử cũng như tính chất của chế độ chính trị - xã hội. Mục tiêu của thư viện
quyết định cơ cấu của tổ chức thư viện. Cơ sở vật chất và nhân lực thư viện là yếu tố
then chốt để thực hiện được mục tiêu của tổ chức thư viện. Các yếu tố trên phải được
xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
24
1.1.4.2. Hoạt động thư viện
- Hoạt động
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, hoạt động là “Một phương pháp đặc thù
của con người quan hệ với thế giới xung quanh nhằm cải tạo thế giới theo hướng phục
vụ cuộc sống của mình” [31, tr.341].
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ xuất bản năm 2010, hoạt động
là "tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất
định trong đời sống xã hội" [33, tr.586].
Như vậy, có thể hiểu hoạt động là tổng hợp các hành động con người, tác động
vào một đối tượng nhất định nhằm đạt một mục đích nhất định và có ý nghĩa xã hội
nhất định.
- Hoạt động thư viện
Từ quan điểm trên về hoạt động, có thể coi hoạt động thư viện là tổng hợp các
hành động từ lựa chọn tài liệu cho đến khi tài liệu đến tay người sử dụng, bao gồm
quá trình xây dựng và phát triển vốn tài liệu, xử lý, lưu trữ, bảo quản và phổ biến tài
liệu cho người đọc nhằm đáp ứng nhu cầu đọc của xã hội. Hoạt động thư viện phải
đảm bảo hai mặt của mối quan hệ hữu cơ là tàng trữ tài liệu và tạo mọi điều kiện cho
bạn đọc sử dụng tài liệu, nhằm đáp ứng nhu cầu đọc.
Như vậy, hoạt động thư viện bao gồm các công đoạn xây dựng và phát triển
vốn tài liệu, nguồn lực thông tin; xử lý tài liệu (biên mục tài liệu, phân loại, định chủ
đề và từ khóa tài liệu); tổ chức các sản phẩm thông tin thư viện và phục vụ bạn đọc,
dịch vụ thư viện. Các yếu tố trên luôn tương tác, quan hệ mật thiết với nhau.
1.1.4.3. Mối quan hệ giữa tổ chức và hoạt động thư viện
Tổ chức và hoạt động thư viện có mối quan hệ mật thiết và tác động tương hỗ
nhau, là hai mặt không tách rời của sự nghiệp thư viện ở một quốc gia, dân tộc.
Tổ chức thư viện là điều kiện tạo nên chỉnh thể của thư viện, ảnh hưởng lớn
đến hiệu quả hoạt động của thư viện. Tổ chức bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận được
25
liên kết với nhau theo một cách thức nhất định. Cách thức liên kết, phối hợp giữa các
bộ phận của thư viện, mạng lưới thư viện tạo ra một cơ cấu với một cơ chế hoạt động
nhất định, phát huy hay kìm hãm tiềm năng của tổ chức. Chính vì vậy cách thức tổ
chức ảnh hưởng tới kết quả hoạt động. Tổ chức khoa học, hợp lý là điều kiện để hoạt
động đạt hiệu quả cao.
Hiệu quả hoạt động của thư viện phản ánh mức độ phù hợp của tổ chức thư
viện, là cơ sơ cho sự điều chỉnh tổ chức thư viện. Hoạt động thư viện phát triển, mở
rộng hoặc thu hẹp, tác động trở lại đối với tổ chức, buộc tổ chức phải biến đổi cho
thích hợp.
Tổ chức là hình thức, hoạt động là nội dung tạo thành chỉnh thể thư viện thực hiện
những chức năng nhất định trong xã hội. Tổ chức và hoạt động của thư viện có mối quan
hệ biện chứng không thể tách rời nhau. Chính vì vậy, nghiên cứu sự nghiệp thư viện nhất
thiết phải nghiên cứu cả hai phương diện tổ chức và hoạt động của thư viện.
1.1.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới tổ chức và hoạt động thư viện
- Yếu tố khách quan
Thư viện là một hiện tượng xã hội, phát triển dưới ảnh hưởng của các bối cảnh
lịch sử cụ thể: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ.
+ Chính trị
Có thể nói, thể chế chính trị, chính sách phát triển nói chung, chính sách văn
hóa và thư viện nói riêng là những yếu tố chi phối sự nghiệp thư viện của mỗi quốc
gia. Thư viện thể hiện văn hóa, tri thức, tinh thần của một xã hội, chịu ảnh hưởng của
thể chế và chính sách xã hội. Yếu tố chính trị sẽ quyết định cơ cấu vốn tài liệu của
thư viện. Chính vì vậy, nghiên cứu về sự nghiệp thư viện không thể đặt ngoài tác
động của yếu tố chính trị và xã hội.
+ Kinh tế
Kinh tế tác động đến mọi hoạt động xã hội trong đó có thư viện. Kinh tế phát
triển sẽ kéo theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật, gia tăng
26
đội ngũ các nhà khoa học, các chuyên gia trong các lĩnh vực dẫn tới sự gia tăng nhu
cầu thông tin. Nhu cầu thông tin tăng kích thích sự phát triển của thư viện. Hơn nữa,
nền kinh tế phát triển còn tạo điều kiện trong việc đầu tư mở rộng và nâng cao chất
lượng thư viện.
+ Văn hóa
Thư viện là một thiết chế văn hóa, thể hiện tinh thần của một dân tộc ở mọi
thời đại. Mọi biến đổi dù tích cực hay tiêu cực của văn hóa đều ảnh hưởng đến sự
nghiệp thư viện. Thư viện, với tư cách là nơi lưu trữ các giá trị văn hóa thể hiện trên
các dạng tài liệu, biến đổi và phát triển theo sự phát triển của tri thức và sự gia tăng
các giá trị văn hóa. Như vậy, sự nghiệp thư viện không thể tách rời văn hóa của mỗi
quốc gia.
+ Khoa học công nghệ
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực
đời sống xã hội. Sự “bùng nổ thông tin” vào những thập ký cuối của thế kỷ XX đã đặt
ra những nhiệm vụ và yêu cầu mới cho thư viện. Khoa học công nghệ trở thành một
nhân tố tác động mạnh mẽ tạo ra những bước tiến lớn cho thư viện toàn cầu. Sự ra đời
và phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông tạo điều kiện cho việc tin học
hóa sâu rộng trong hoạt động của thư viện. Sự trao đổi thông tin giữa các thư viện có
thể diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Thư viện không chỉ là nơi tàng trữ, bảo quản sách
báo phục vụ nhu cầu đọc đơn thuần mà trở thành một cơ quan thông tin cung cấp thông
tin phục vụ nhu cầu đọc và nghiên cứu. Vai trò của nhân lực thư viện đã thay đổi: từ
việc cung cấp tài liệu theo yêu cầu trở thành người cung cấp thông tin. Thư viện đã trở
thành một phần quan trọng của cơ sở hạ tầng thông tin của một quốc gia.
Khoa học, công nghệ cũng tác động mạnh mẽ đến việc quản lý thư viện. Việc
áp dụng tự động hóa và các tiêu chuẩn làm thư viện thay đổi mô hình quản lý, biến
đổi về chất và lượng giúp người đọc/người dùng tin có thể tiếp cận với tài liệu nhanh,
hiệu quả (khắc phục hạn chế về thời gian và không gian).
27
Nghiên cứu khoa học là một trong những yếu tố tác động đến việc nâng cao
chất lượng tổ chức và hoạt động thư viện. Các hội thảo chuyên gia tận dụng được tư
duy của nhiều nhà thư viện học, những người cộng tác nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn của sự nghiệp thư viện.
+ Xu thế chung của thời đại
Xu thế toàn cầu hóa đã đặt ra những yêu cầu mới cho thư viện. Trong một xã
hội phát triển, khoa học kỹ thuật đạt tới trình độ cao dẫn tới nhu cầu thông tin của
người đọc/người dùng tin ngày càng gia tăng. Từ sự gia tăng nhu cầu thông tin của
xã hội, việc tin học hóa thư viện và chia sẻ tài nguyên thông tin là một tất yếu. Sự
hiện đại hóa thư viện từ sự hỗ trợ của khoa học công nghệ đã giúp người dùng tin có
thể có thể tiếp cận thông tin mọi lúc mọi nơi. Từ những đòi hỏi không ngừng của xã
hội, các loại hình thư viện hiện đại ra đời và phát triển như thư viện đa phương tiện,
thư viện điện tử, thư viện số, thư viện ảo.
Trên thực tế, thư viện trên toàn thế giới đang ngày càng phát triển phục vụ cho
mục tiêu tăng trưởng kinh tế, văn hóa, giáo dục của mỗi quốc gia. Những quốc gia
thịnh vượng, phồn vinh là những quốc gia có sự nghiệp thư viện phát triển. Sự nghiệp
thư viện luôn gắn liền và phát triển cùng với xu thế chung của thời đại.
+ Môi trường sinh thái
Bên cạnh những yếu tố cơ bản tác động trực tiếp đến sự nghiệp thư viện, yếu
tố môi trường sinh thái có tác động trực tiếp đến hoạt động của một cơ quan thư viện
cụ thể. Đây cũng là một trong những yếu tố của tổ chức lao động khoa học trong thư
viện. Các thư viện có môi trường cây xanh, không gian rộng, thoáng mát tạo điều
kiện làm việc cho cán bộ thư viện cũng như người đọc có cảm giác dễ chịu và làm
việc hiệu quả. Môi trường cũng có ảnh hưởng đến vấn đề bảo quản tài liệu trong thư
viện. Đối với các nước nhiệt đới, việc trồng cây xanh trong khuôn viên của thư viện
còn có tác dụng làm giảm nhiệt độ từ bên ngoài tác động đến kho tài liệu, hạn chế sự
giảm độ bền của tài liệu.
28
- Yếu tố chủ quan
Bên cạnh các yếu tố khách quan, các yếu tố chủ quan như con người, quản lý
và cơ sở vật chất cũng có ảnh hưởng lớn tới chất lượng hoạt động của thư viện trong
mỗi thời kỳ lịch sử.
+ Con người
Con người là chủ thể quản lý thư viện. Vì vậy, trình độ chuyên môn của nhân
lực trong thư viện quyết định chất lượng, hiệu quả tổ chức và hoạt động của thư viện.
Nhân lực trong thư viện là cầu nối giữa người đọc/người dùng tin và tài liệu, giúp họ
thỏa mãn nhu cầu đồng thời làm nảy sinh nhu cầu của người đọc/người dùng tin.
Con người là chủ thể của nhu cầu đọc, là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển
của thư viện. Nhu cầu đọc của người đọc xuất hiện do yêu cầu, đòi hỏi, đồng thời bị
chi phối bởi các mối quan hệ xã hội. Nhu cầu đọc vì vậy rất phong phú, đa dạng và
luôn luôn biến đổi, phát triển.
Đào tạo nhân lực cũng là một trong những yếu tố quan trọng nâng cao chất
lượng hoạt động của thư viện. Việc đào tạo chính qui nhân lực thư viện ở các bậc,
các hệ và bỗi dưỡng nâng cao trình độ cần được các cơ sở đào tạo quan tâm nhằm tạo
ra một đội ngũ mạnh về chuyên môn, có khả năng hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
thư viện.
Bên cạnh đó, nhận thức của người lãnh đạo và nhân lực tác nghiệp có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng của sự nghiệp thư viện. Người lãnh đạo không chỉ có
tư duy khoa học trong chuyên môn mà còn phải có tư duy hội nhập, đào tạo nguồn
nhân lực thư viện, quan tâm xây dựng cơ sở vật chất thư viện hiện đại. Nhân lực tác
nghiệp chuyên môn cũng cần nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp, được đào tạo nâng
cao chuyên môn thường xuyên đáp ứng với sự phát triển không ngừng của xã hội và
những đòi hỏi của nghề nghiệp.
+ Quản lý
Có thể coi quản lý thư viện là quá trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ
phận của thư viện, thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (cơ sở
vật chất, nhân lực, nguồn lực thông tin). Quản lý thư viện có thể thông qua hệ thống
29
văn bản, qui định có tính chỉ đạo; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát trong tổ chức điều
hành hoạt động vĩ mô, vi mô của thư viện.
Để hệ thống, mạng lưới và từng thư viện hoạt động hiệu quả, bền vững việc
quản lý thư viện ở tầm vĩ mô và vi mô phải đảm bảo tính thống nhất, khoa học.
Khoa học, công nghệ là một trong những yếu tố có tác độc mạnh mẽ đến việc
quản lý thư viện. Việc áp dụng tự động hóa và các tiêu chuẩn làm thư viện thay đổi
mô hình quản lý kiểu cũ sang kiểu mới, biến đổi về chất và lượng giúp người
đọc/người dùng tin có thể tiếp cận với tài liệu nhanh, hiệu quả (khắc phục hạn chế về
thời gian và không gian).
Cơ chế chính sách của nhà nước là một yếu tố quan trọng định hướng phát
triển sự nghiệp thư viện. Trên thế giới nhà nước luôn quản lý sự nghiệp thư viện thông
qua việc đưa ra các cơ chế chính sách, cung cấp ngân sách và tạo môi trường hoạt
động cho thư viện.
+ Cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất là một trong những yếu tố quyết định chất lượng hoạt động của
thư viện. Cơ sở vật chất chịu ảnh hưởng từ chính sách và điều kiện kinh tế xã hội.
Việc hiện đại hóa trang thiết bị thư viện tạo điều kiện cho việc bảo quản, gìn giữ lâu
dài tài liệu.
Với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và truyền thông, vốn tài liệu thư viện
phát triển mạnh mẽ do khả năng chia sẻ thông tin giữa các thư viện ngày càng cao,
trang thiết bị hiện đại sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ
người đọc/người dùng tin.
1.1.5. Tiêu chí đánh giá thư viện
Để đánh giá thư viện trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định một cách khách
quan, cần phải căn cứ vào các tiêu chí cụ thể, phù hợp, khoa học.
1.1.5.1. Tiêu chí đánh giá về tổ chức thư viện
Trên cơ sở khái niệm đã nêu về tổ chức thư viện, có thể đánh giá tổ chức mạng
lưới thư viện trong mỗi thời kỳ lịch sử thông qua các tiêu chí: tính hợp lý trong cơ
30
cấu mạng lưới thư viện, từng thư viện; cơ chế vận hành hiệu quả mạng lưới thư viện,
từng thư viện; sự tương thích của nguồn nhân lực và cơ sở vật chất. Đây là những tiêu
chí quan trọng đảm bảo đánh giá hiệu quả tổ chức mạng lưới thư viện và từng thư viện.
- Cơ cấu thư viện hợp lý:
Sự phân bố hợp lý các thư viện trên địa bàn dân cư về mặt không gian;
Các loại hình thư viện thích hợp với từng nhóm dân cư trong
một vùng;
Cơ cấu các bộ phận trong từng thư viện phù hợp với chức năng nhiệm
vụ và điều kiện của thư viện đó.
- Cơ chế vận hành hiệu quả:
Có cấu trúc thứ bậc phù hợp;
Có hệ thống văn bản pháp lý hỗ trợ đầy đủ;
Đảm bảo mối quan hệ giữa các thư viện/bộ phận trong thư viện.
- Sự tương thích của nguồn lực con người và vật chất:
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của
mạng lưới;
Điều kiện vật chất đáp ứng yêu cầu công việc;
Tỷ lệ đầu tư cho thư viện hợp lý so với các hoạt động văn hóa,
giáo dục.
1.1.5.2. Tiêu chí đánh giá về hoạt động thư viện
Hiệu quả hoạt động thư viện được xem xét ở mức độ đáp ứng yêu cầu của xã
hội, nhiệm vụ của thư viện. Có nhiều ý kiến khác nhau về tiêu chí đánh giá hiệu quả
hoạt động của thư viện căn cứ vào các yếu tố tương tác với môi trường xã hội hiện đại.
"Bộ chỉ số đánh giá hoạt động và tác động" của IFLA gồm 7 nhóm chỉ số với 24
tiêu chí:
- Chỉ số về thông tin sẵn sàng phục vụ gồm 6 tiêu chí:
Khả năng tiếp cận nguồn tin;
Tổng vốn thông tin/tài liệu;
31
Nội dung tri thức của vốn tài liệu;
Thông tin/tài liệu bên trong địa phương, kiến thức bản địa;
Thông tin/tài liệu từ bên ngoài.
- Chỉ số về sử dụng gồm 5 tiêu chí:
Lượt sử dụng;
Thẻ thư viện;
Sử dụng tại chỗ;
Mượn về;
Các hoạt động khác.
- Chỉ số về mức độ hài lòng gồm 2 tiêu chí:
Nhu cầu của người dùng tin;
Nhu cầu của cộng đồng.
- Chỉ số về quản lý của địa phương đối với thông tin gồm 2 tiêu chí:
Quản lý theo địa phương;
Tài chính.
- Chỉ số về tác động kinh tế xã hội gồm 3 tiêu chí:
Kỹ năng mới đối với sản xuất;
Tạo thu nhập, nâng cao mức sống;
Sức khỏe và dinh dưỡng.
- Chỉ số về cơ sơ kiến thức gồm 4 tiêu chí:
Nhận thức về các vấn đề quốc gia và cộng đồng;
Nâng cao dân trí;
Tỷ lệ thi đậu;
Kiến thức bản địa.
- Chỉ số về tham gia chính quyền và các chương trình của nó gồm 2
tiêu chí:
Tham gia chính quyền;
Tham gia các chương trình mở rộng.
32
Bộ chỉ số đánh giá hoạt động của IFLA tương đối chi tiết và thích hợp để đánh
giá hiệu quả hoạt động của thư viện trong điều kiện xã hội hiện đại. Tuy nhiên, tổ
chức này cũng khuyến cáo mỗi cơ quan thông tin lựa chọn các chỉ số tương ứng, phù
hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia.
Bộ "Chuẩn đánh giá kết quả hoạt động và tác động" của Việt Nam
Trên cơ sở "Bộ chỉ số đánh giá hoạt động và tác động" của IFLA, Hội Thư
viện Việt Nam và các đồng nghiệp quốc tế đã lựa chọn 12 trong 24 chỉ số để ban hành
bộ “Chuẩn đánh giá kết quả hoạt động và tác động”. Mỗi chỉ số đưa ra đều có mục
đích đánh giá, tiêu chí đánh giá, dữ liệu cần thiết và công cụ thu thập dữ liệu, phương
pháp tính.
- Chỉ số 1: Khả năng tiếp cận với thư viện
+ Mục đích: chỉ ra mức độ dễ dàng trong việc sử dụng thư viện liên quan tới
khoảng cách, số giờ mở cửa và số chỗ ngồi của thư viện.
+ Tiêu chí đánh giá: Tỉ lệ dân cư trong phạm vi 5 km xung quanh thư viện so
với tổng số dân thuộc địa bàn phục vụ của thư viện: nghĩa là dân số của một tỉnh/thành
cụ thể, và dân số của thư viện quận/huyện, phường/xã; Tỉ lệ giờ mở của của thư viện
so với thời gian nhàn rỗi của dân chúng: thời gian nhàn rỗi là thời gian mọi người có
thể sử dụng thư viện; Số lượng chỗ ngồi trong thư viện trên số lượt sử dụng thư viện
mỗi giờ.
- Chỉ số 2: Vốn tài liệu
+ Mục đích: chỉ ra tổng số các loại hình tài liệu và tính thời sự của tài liệu.
+ Tiêu chí đánh giá: số bản các loại tính theo đầu người dân trên địa bàn; Số
lượng tài liệu các loại tài liệu mới bổ sung vào kho thư viện mỗi năm.
- Chỉ số 3: Lượt sử dụng thư viện
+ Mục đích: chỉ ra số lượt sử dụng dịch vụ thư viện trong mối tương quan với
tổng số dân và chỉ ra nhóm dân cư nào trong cộng đồng sử dụng dịch vụ thư viện
nhiều nhất.
33
+ Tiêu chí đánh giá: lượt sử dụng thư viện được tính theo đầu người trong tổng
số dân trên địa bàn, tỉ lệ sử dụng thuộc các nhóm đối tượng trong tổng số dân trên địa
bàn và lượt sử dụng thư viện còn phải tính theo đầu người của các thành phần khác
nhau trong tổng số dân trên địa bàn.
- Chỉ số 4: Tham khảo tài liệu tại thư viện
+ Mục đích: chỉ ra việc sử dụng tài liệu các loại của dân cư trên địa bàn nói
chung và của các nhóm đối tượng khác nhau trong số dân cư này, nhu cầu theo từng
lĩnh vực nội dung và loại hình tài liệu, mức độ phù hợp của tài liệu với nhu cầu của
người sử dụng.
+ Tiêu chí đánh giá: Lượt tham khảo tài liệu các loại trong thư viện tính theo
đầu người của dân cư trên địa bàn; Lượt tham khảo các tài liệu các loại trong thư viện
tính theo đầu người của các nhóm đối tượng khác nhau trong số dân cư trên địa bàn;
Tỉ lệ phần trăm của tài liệu các loại được tham khảo theo từng lĩnh vực nội dung; Tỉ
lệ phần trăm của tài liệu các loại được tham khảo theo từng loại hình tài liệu.
- Chỉ số 5: Lưu hành tài liệu
+ Mục đích: chỉ ra việc sử dụng tài liệu các loại bên ngoài thư viện của dân cư
nói chung và của các nhóm đối tượng khác nhau trong số dân cư trên địa bàn, yêu cầu
theo từng lĩnh vực nội dung và theo từng loại hình tài liệu và mức độ phù hợp của tài
liệu với nhu cầu của người sử dụng.
+ Tiêu chí đánh giá: Tỉ lệ phần trăm dân cư trên địa bàn mượn tài liệu; Tỉ lệ
phần trăm dân cư theo nhóm đối tượng khác nhau mượn tài liệu; Tỉ lệ tài liệu được
mượn theo từng lĩnh vực nội dung và theo từng loại hình tài liệu; So sánh giữa tài liệu
và việc mượn các tài liệu đó trong từng lĩnh vực nội dung và theo từng loại hình tài liệu.
- Chỉ số 6: Công nghệ
+ Mục đích: chỉ ra việc sử dụng máy tính của dân cư trên địa bàn nói chung
và chỉ ra được lượt sử dụng máy tính của bạn đọc khi thư viện có kết nối internet
phục vụ công cộng tính theo đầu người trong tổng số dân trên địa bàn.
34
+ Tiêu chí đánh giá: Lượt sử dụng máy tính trong thư viện tính theo đầu người
của dân cư trên địa bàn; Số lượt sử dụng máy tính có kết nối internet phục vụ công
cộng tính theo đầu người trong tổng số dân trên địa bàn; So sánh giữa dịch vụ internet
phục vụ công cộng và việc truy cập internet theo từng lĩnh vực nội dung.
- Chỉ số 7: Các hoạt động do thư viện tổ chức
+ Mục đích: chỉ ra tỉ lệ phần trăm dân số tham gia vào các hoạt động do thư
viện tổ chức như thi kể chuyện, nói chuyện, giới thiệu sách, thi vẽ tranh, học nhóm,
thảo luận, đố vui có thưởng, triển lãm, các khoá tập huấn…; các hoạt động do thư
viện tổ chức được nhiều người ủng hộ nhất.
+ Tiêu chí đánh giá: Số người tham dự các hoạt động của thư viện trên đầu
người trong tổng số dân cư trên địa bàn; Số người tham dự các hoạt động của thư
viện trên đầu người của từng nhóm người sử dụng khác nhau trong tổng số dân cư
trên địa bàn; Tỉ lệ người tham dự vào các hoạt động cụ thể; Tóm tắt về các giá trị và
lợi ích do người tham dự chương trình báo cáo lại.
- Chỉ số 8: Đáp ứng nhu cầu của người sử dụng thư viện
Chỉ ra khả năng của thư viện trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của người
sử dụng thư viện và chỉ số này chỉ đánh giá mức độ hài lòng của những người sử
dụng thư viện, không đánh giá mức độ hài lòng của cộng đồng nói chung.
- Chỉ số 9: Đáp ứng nhu cầu sử dụng của cộng đồng
Tìm hiểu nhận thức của cộng đồng dân cư về thư viện, tiêu chí để đánh giá là
những quan điểm, ý kiến của các thành viên cộng đồng về các dịch vụ và hoạt động
của thư viện.
- Chỉ số 10: Các kỹ năng mới
Chỉ ra sự tác động của dịch vụ và hoạt động thư viện đối với sự tiếp nhận các
kỹ năng mới hoặc các kỹ năng được hoàn thiện của cộng đồng địa phương. Đây là
chỉ số chính cho mọi đánh giá.
- Chỉ số 11: Nâng cao dân trí
Chỉ ra những đóng góp của các dịch vụ và hoạt động thư viện vào việc bổ
sung, duy trì và sử dụng tri thức. Các tiêu chí đánh giá về số lượng và loại hình của
35
các hoạt động phổ cập kiến thức do thư viện tổ chức hàng năm và số lượng người
tham dự, số lượng tài liệu phổ cập kiến thức do thư viện tạo ra hàng năm.
- Chỉ số 12: Tri thức bản địa và thông tin địa phương
Chỉ ra khả năng phục vụ của vốn tài liệu địa chí có trong thư viện và các đóng
góp của các dịch vụ và hoạt động thư viện vào việc duy trì/hồi sinh tri thức bản địa
trong cộng đồng địa phương. Tri thức bản địa là kiến thức truyền thống, thông tin địa
chí liên quan đến những gì đang xảy ra và có thể nói đến các sự kiện của địa phương
hoặc là bộ sưu tập các dữ liệu thống kê về dân số, các nhân vật tiêu biểu…[120].
So với Bộ chỉ số đánh giá hoạt động và tác động do IFLA khuyến cáo, Bộ chỉ
số do các tác giả Việt Nam xây dựng đơn giản hơn, phù hợp hơn với điều kiện thực
tế ở Việt Nam.
Chỉ số sử dụng để đánh giá hoạt động thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
Hai bộ chỉ số với những tiêu chí đã trình bày ở trên được áp dụng phổ biến để
đánh giá hoạt động của thư viện trên thế giới và Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những
chỉ số này không hoàn toàn phù hợp với việc đánh giá hoạt động thư viện trong quá
khứ, nhất là thời kỳ Pháp thuộc do khoa học công nghệ chưa phát triển, trình độ dân
trí và chuyên môn của độc giả chưa cao và chưa đồng đều, điều kiện kinh tế, chính
trị có những nét rất đặc thù.
Thời kỳ Pháp thuộc, một thời kỳ lịch sử phức tạp, số lượng tư liệu thực tiễn để
lại không nhiều trong các thư viện. Để đánh giá một cách khách quan hiệu quả hoạt
động của thư viện thời kỳ này, chúng tôi lựa chọn một số tiêu chí trên cơ sở các tiêu
chí của IFLA và của Hội Thư viện Việt Nam. Các tiêu chí này được tập hợp thành 3
nhóm chính: Mức độ đáp ứng nhu cầu tin của người đọc/người dùng tin; Khả năng
lôi cuốn hấp dẫn cư dân trong cộng đồng; Tác động tới đời sống tinh thần của cư dân
trong xã hội.
- Mức độ đáp ứng nhu cầu tin của người đọc/người dùng tin:
Số lượng vốn tài liệu: tổng số tài liệu/tổng số thẻ đăng ký;
36
Chất lượng vốn tài liệu: tỷ lệ các môn loại tri thức trong vốn tài liệu so
với nhu cầu tin;
Tỷ lệ lượt đến của bạn đọc/tổng số thẻ đăng ký/năm;
Tổng số lượt luân chuyển sách/tổng số thẻ đăng ký/năm.
- Khả năng lôi cuốn hấp dẫn cư dân trong cộng đồng:
Sự đa dạng và phù hợp của các hình thức phục vụ đối với bạn đọc;
Tỷ lệ bạn đọc đăng ký thẻ thư viện/tổng số cư dân trong vùng;
Tỷ số tổng số sách luân chuyển/tổng số cư dân trong vùng.
- Tác động tới đời sống tinh thần của cư dân trong xã hội:
Thành phần bạn đọc của thư viện;
Sự thay đổi nhận thức của cộng đồng dân cư được thụ hưởng các dịch
vụ thư viện, thông qua các hoạt động giáo dục, khoa học;
Sự thay đổi trong đời sống tinh thần của cư dân.
Do việc đánh giá nhóm tiêu chí "tác động tới đời sống tinh thần của cư dân
trong xã hội" rất trừu tượng nên sẽ được khảo sát và trình bày trong chương 3 của
luận án.
1.2. Thư viện Việt Nam trong bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ
Pháp thuộc
Thời kỳ Pháp thuộc là một giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Chính sách thuộc
địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự phức tạp của xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục. Thư viện là một thiết chế văn hóa nên
cũng chịu những ảnh hưởng từ biến động lịch sử này.
1.2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
1.2.1.1. Đặc điểm chính trị
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vào thời điểm chế độ phong kiến đang
khủng hoảng trầm trọng. Mọi chính sách của triều đình đều nhằm mục đích phục vụ
37
lợi ích của tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn. Đời sống của nhân dân ta vô cùng cực
khổ. Nhà Nguyễn đã cầu cứu và dựa vào thế lực ngoại bang, đi ngược lại quyền lợi
dân tộc nên đã không phát huy được sức mạnh dân tộc, gìn giữ đất nước [15], [20].
Sau khi thực dân Pháp chiếm toàn bộ lãnh thổ, Việt Nam chuyển từ chế độ
quân chủ tập quyền, đứng đầu là triều đình phong kiến nhà Nguyễn, sang chế độ thuộc
địa nửa phong kiến. Để làm suy yếu sức mạnh đoàn kết của dân tộc, thực dân Pháp
đã sử dụng chính sách "chia để trị" với những chế độ chính trị và thể chế khác nhau
ở mỗi kỳ (miền) củaViệt Nam. Sự khác biệt về chính trị này là chiến lược trong chính
sách cai trị của thực dân Pháp nhằm mục đích cuối cùng là xâm lược toàn bộ xứ Đông
Dương. Dưới chế độ chính trị này, quyền lực hoàn toàn nằm trong tay người Pháp,
các thuộc địa không thể phát triển một cách độc lập mà luôn phải phụ thuộc vào mẫu
quốc về mọi mặt [1], [22].
1.2.1.2. Đặc điểm kinh tế
Khi thực dân Pháp xâm lược, kinh tế Việt Nam đang ở thời kỳ khủng hoảng
trầm trọng do chính sách địa tô nặng nề của nhà Nguyễn [15]. Ruộng đất tập trung
trong tay địa chủ, quan lại. Chính sách thuộc địa của thực dân Pháp áp đặt lên mọi
lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa Việt Nam. Việt Nam trở thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa cho nền công nghiệp chính quốc và là nguồn cung cấp
nguyên liệu, sản vật nhiệt đới cho chính quốc. Tính chất thuộc địa của nền kinh tế
cũng được bộc lộ trong chế độ độc quyền đầu tư của chính quyền thuộc địa. Thực dân
Pháp chỉ ưu tiên đầu tư ở những lĩnh vực mang lại lợi nhuận trực tiếp, phục vụ cho
nền kinh tế chính quốc.
Để tận dụng và khai thác nền nông nghiệp thuộc địa ở Việt Nam phục vụ cho
một chính quốc công nghiệp, chính quyền chính quốc và chính quyền thuộc địa đã
đặt ra hàng loạt chính sách cụ thể như: chính sách thuế trực thu và gián thu; chính
sách chiếm đoạt ruộng đất, lập đồn điền; phát canh thu tô; chính sách “địa chủ hóa
tầng lớp quan lại” và “quan liêu hóa giai cấp địa chủ”; chính sách lao dịch, chính sách
nhân công;…[22].
38
Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm thay đổi cơ cấu kinh
tế xã hội truyền thống. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn chỉ là nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, công nghiệp yếu ớt, mất cân đối. Tính chất mất cân đối còn thể hiện
rõ rệt giữa các vùng miền đất nước. Miền Bắc, miền Nam kinh tế còn ít nhiều phát
triển. Riêng miền Trung, trong suốt thời cận đại hầu như vẫn trong tình trạng xưa cũ,
nghèo nàn lạc hậu [14].
1.2.1.3. Đặc điểm xã hội
Chính sách kinh tế và thể chế chính trị mà thực dân Pháp áp dụng ở Việt Nam
dẫn đến những biến đổi xã hội sâu sắc: sự phân hóa giai cấp diễn ra rõ nét; sự ra đời
của những giai cấp mới từ một nền kinh tế mang yếu tố tư bản; sự mất công bằng về
địa vị hành chính của người Việt Nam trong xã hội thuộc địa. Giai cấp địa chủ ngày
càng giàu thêm và câu kết chặt chẽ với chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp tư sản Việt Nam
ra đời, là lớp người làm đại lý hàng hóa, cung cấp nhân công và nguyên liệu cho tư
bản Pháp. Giai cấp tiểu tư sản thành thị phát triển. Giai cấp nông dân lao động bị bần
cùng hóa do bị cướp đoạt ruộng đất, là nạn nhân của chính sách thuế khóa nặng nề.
Giai cấp công nhân phát triển khá nhanh cả về số lượng và chất lượng do chính sách
tăng cường đầu tư, đẩy mạnh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp [29].
Chính sách thuộc địa của thực dân Pháp làm cho xã hội Việt Nam mang trở
nên phức tạp. Quan hệ tư bản chủ nghĩa mang nặng tính thực dân song song tồn tại
với quan hệ phong kiến tạo ra sự phân hóa ngày càng sâu sắc trong xã hội, tác động
vào nền kinh tế Việt Nam [29].
Sự biến đổi cơ cấu xã hội và chính sách thuộc địa cũng dẫn đến sự bất công
bằng về địa vị hành chính của người Việt Nam trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Người Việt Nam dù có học vấn cao, đáp ứng tiêu chuẩn của chính quyền thuộc địa
đặt ra, cũng không được làm việc ở những vị trí xứng đáng. “Cho tới năm 1927, người
Việt chỉ có thể lựa chọn hai tình trạng: hoặc nhận những chức vụ hạ cấp trong các cơ
quan hành chính Pháp như tham biện, phán sự, thông ngôn, ký lục, lính cảnh sát,
thuộc viện thương chính... hoặc gia nhập ngạch quan lại truyền thống. Số các thuộc
39
viên người Việt trong các cơ quan hành chính của chính phủ bảo hộ đã tăng từ 12.200
năm 1914 lên 23.600 người năm 1929 nhưng họ chỉ lập nên một ngạch nhân viên đặc
biệt, bổ túc cho ngạch công chức Pháp mà thôi” [1, tr.146].
Chính sách sử dụng nhân lực của thực dân Pháp đối với người Việt cũng thể
hiện sự nô dịch và miệt thị. Người Việt Nam cho dù theo học các trường danh tiếng
của Pháp nhưng khi trở về làm việc tại các cơ quan thuộc bộ máy hành chính của
Pháp luôn bị đặt dưới quyền quản lý của người Pháp có chuyên môn thấp hơn. Lương
bổng của họ cũng luôn thấp hơn nhiều lần so với người Pháp làm cùng một vị trí.
Tuy nhiên, ở góc độ tích cực, sự biến đổi cơ cấu xã hội thời Pháp thuộc đã
đem lại những sắc thái mới cho xã hội Việt Nam. Cơ cấu kinh tế truyền thống bị đảo
lộn, giới trung lưu có vai trò quan trọng hơn trong tổ chức xã hội. Những diễn biến
chính trị phức tạp cũng đã dẫn đến nhiều sự thay đổi trong giáo dục: sự phế bỏ thi
Hương vào 1918, cải cách giáo dục đại học theo lối phương Tây [1].
1.2.1.4. Đặc điểm văn hóa
Xu hướng Âu hóa ở Việt Nam đã bắt đầu từ những năm giữa thế kỷ 17 với ảnh
hưởng của văn hóa và tôn giáo của phương Tây như sự du nhập của Thiên chúa giáo,
sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Từ khi Pháp xâm chiếm nước ta, văn hóa Việt Nam biến
đổi mạnh dưới tác động của chính sách văn hóa của thực dân Pháp, sự du nhập của
văn hóa Pháp, sự ra đời của báo chí, sự đổi mới của giáo dục và sự hình thành tầng
lớp trí thức mới.
- Chính sách văn hóa
Chính sách văn hóa là một phần của chính sách thuộc địa nhằm phục vụ mục
đích cai trị của thực dân Pháp về văn hóa. Chính sách thuộc địa của thực dân Pháp
được cụ thể hóa trong từng lĩnh vực xã hội, được thay đổi và điều điều chỉnh qua mỗi
đời toàn quyền nhưng mục đích cuối cùng là đồng hóa văn hóa dân tộc, tuyên truyền
và ru ngủ để nhân dân ta xa rời nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tuyên truyền và áp đặt
văn hóa Pháp.
40
Chính sách của Toàn quyền Albert Saraut từ năm 1911 đến năm 1919 có ảnh
hưởng nhiều đến lĩnh vực văn hóa. Toàn quyền Saraut đã cho xây dựng bệnh viện,
nhà hộ sinh, nhà chẩn y để phát triển ngành y tế; tổ chức lại hệ thống giáo dục như
bãi bỏ thi hương ở Bắc Kỳ vào năm 1915, ở Trung Kỳ năm 1918; thay thế chương
trình truyền thông bằng chương trình học bằng tiếng Pháp; mở trường trung học Hà
Nội cho học sinh người Việt; Đại học Hà Nội hoạt động lại từ năm 1917 [1]. Đây là
giai đoạn chính sách văn hóa và giáo dục phát triển, mạng lưới thư viện Việt Nam
được quan tâm, tiêu biểu là sự ra đời của Thư viện Trung ương Đông Dương.
Thực dân Pháp đã lập ra những cơ quan tuyên truyền văn hóa văn hóa như Hội
Khai trí - Tiến Đức (được thành lập qua Nghị định Thống sứ Bắc Kỳ 5/2/1919). Nam
phong, cơ quan ngôn luận của hội, thu hút số đông quan lại Nam triều, công chức
trong bộ máy chính quyền thực dân, giới tư sản, địa chủ và tầng lớp trí thức, tuyên
truyền tư tưởng của nước Pháp, phục vụ cho quyền lợi của người Pháp, dung hòa văn
hóa Đông - Tây, cổ động cho chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề. Tờ báo này trở thành một
công cụ thống trị và nô dịch về văn hóa [28]. Bên cạnh đó, chính quyền thuộc địa
cũng mở cửa cho các nhà tư bản Pháp vào đầu tư trong các lĩnh vực văn hóa như in
ấn, xuất bản, nghệ thuật, phim ảnh.
- Sự du nhập của Thiên chúa giáo
Vào nửa cuối thế kỷ 17, thông qua các nhà truyền đạo người Bồ Đào Nha,
Thiên chúa giáo được truyền bá vào Việt Nam và có những ảnh hưởng nhất định đến
đời sống văn hóa của người Việt. Chính những người truyền đạo Thiên chúa giáo đã
sáng tạo ra chữ Quốc ngữ và biến chữ Quốc ngữ thành công cụ để truyền đạo. Sau
này, chữ Quốc ngữ đã trở thành ngôn ngữ được sử dụng chính thức của người Việt
Nam và trở thành một thành tố quan trọng đánh dấu sự thay đổi về văn hóa, giáo dục
và giao lưu với phương Tây.
Với trình độ học vấn và một nền giáo lý lớn, các nhà truyền đạo muốn dùng
tay của thực dân Pháp để thiết lập một vương quốc của Chúa ở Đông Dương, tạo nên
sự phức tạp trong đời sống văn hóa của người Việt Nam. Họ muốn nhân dân Việt
41
Nam từ bỏ nền văn hóa lâu đời, với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên để đến với Thiên chúa
giáo. Điều này đi ngược lại với mong muốn của người Việt Nam.
Tuy nhiên, sự du nhập của Thiên chúa giáo vào Việt Nam cũng có những tác
động tích cực nhất định đến văn hóa Việt Nam. Những sách mà các giáo sĩ du nhập
vào Việt Nam nhằm mục đích truyền đạo đã mang đến những hiểu biết về một tôn giáo
mới không tồn tại ở Việt Nam trước thế kỷ 17. Chính người Công giáo cũng mang đến
lối tư duy phân tích, đó là lối tư duy còn xa lạ đối với người Việt Nam thời kỳ này.
- Sự ra đời và phổ biến của chữ quốc ngữ
Khi xâm chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, Thực dân Pháp đã có trong tay một
công cụ hữu hiệu để truyền bá văn hóa Pháp đó là chữ Quốc ngữ. Sau này, chữ Quốc
ngữ trở thành ngôn ngữ chính của người Việt Nam.
Có thể nói sự ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ ở Việt Nam thời kỳ này
đã đóng vai trò quan trọng, làm thay đổi tư tưởng và tạo thuận lợi tiếp thu những tinh
hoa văn hóa, khoa học kỹ thuật trên thế giới. Bởi vì chữ Quốc ngữ có gốc từ tiếng
Latinh, gốc của ngôn ngữ các nước phương Tây, những nước vốn đi đầu trên thế giới
về tiến bộ khoa học, kỹ thuật cũng như về văn hóa. Phần lớn những sách báo, ấn phẩm
du nhập vào Việt Nam thời kỳ này đều có nguồn từ tiếng Latinh. Sự phát triển và phổ
biến chữ Quốc ngữ cùng với sự phát triển công nghệ in ấn và xuất bản, số lượng báo
chí và các ấn phẩm tăng nhanh làm thay đổi căn bản đời sống văn hóa của nhân dân
ta thời kỳ này.
- Sự ra đời và phát triển của báo chí
Sự ra đời của báo chí là một nhân tố mới mẻ tác động lên xã hội và đời sống
văn hóa của nhân dân Việt Nam thời Pháp thuộc. Báo chí Việt Nam ra đời gần như
đồng thời với sự thiết lập chế độ thuộc địa của Pháp trên đất nước ta. Báo chí ra đời
trước hết do nhu cầu thống trị và xâm lăng văn hóa của chủ nghĩa thực dân. Báo chí
phản ánh cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và cuộc đấu tranh gay gắt giữa một nền
báo chí thực dân với nền báo chí yêu nước và cách mạng [10].
42
Giai đoạn từ 1925-1929, văn hóa - giáo dục có sự phát triển đáng kể do yêu
cầu phát triển kinh tế, thực hiện chính sách mị dân của Pháp và nhu cầu nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân. Đây là điều kiện cần thiết tạo nên số lượng lớn độc giả
và kích thích báo chí phát triển. Theo Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thành, Dương Trung
Quốc, "Giai đoạn này có 40 tờ báo và tạp chí mới xuất bản công khai và hợp pháp.
Ngoài những tờ báo các ngành như chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục, thể dục thể
thao, tôn giáo còn báo về y dược học và 6 tờ báo tiếng Pháp đều thuộc loại chính trị.
Một dòng báo chí mới xuất hiện trong lịch sử báo chí nước ta, báo cách mạng, xuất
bản bí mật không hợp pháp. Theo thống kê chưa đầy đủ, thời kỳ này có khoảng trên
50 tờ báo cách mạng. Tính từ khi báo chí ra đời và mới ra đời trong khoảng thời gian
này, có khoảng trên dưới 90 tờ, gấp hai lần tổng số báo chí xuất bản trong 59 năm
(1865-1924)" [10, tr.79].
Thực dân Pháp sử dụng báo chí là công cụ truyền bá văn hóa Pháp, cai trị và
nô dịch văn hóa Việt Nam. Để thực hiện mục đích này, thực dân Pháp đã ban hành
nhiều sắc lệnh và nghị định để ngăn chặn báo chí tiến bộ. Sắc lệnh 30/12/1898 của
Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, được cụ thể hóa bằng Nghị định Toàn quyền Đông Dương
30/6/1899, đặt cả ba kỳ của Việt Nam trong cùng một chế độ báo chí. Theo Nghị định
này, bất cứ một tờ báo nào sử dụng tiếng Việt và các thứ tiếng ngoài tiếng Pháp đều
bị cấm lưu hành. Như vậy, quyền tự do báo chí ở Việt Nam đã bị thủ tiêu [28].
Bên cạnh tác động tiêu cực, báo chí ra đời và phát triển trong thời Pháp thuộc
đã thổi một luồng gió mới vào đời sống xã hội của một tầng lớp người Việt. Báo chí
trở thành nhu cầu sinh hoạt văn hóa phổ thông của người Việt Nam. Báo chí cũng là
cầu nối trong giao lưu văn hóa phương Đông và phương Tây, văn hóa Việt Nam và
văn hóa Pháp. Thông qua báo chí, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giới trí thức mới,
được tiếp thu những kiến thức về khoa học, triết học, văn học, nghệ thuật. Báo chí
tạo điều kiện cho một nền văn học Việt Nam hiện đại ra đời và trưởng thành. Sự phát
triển của báo chí và xuất bản là điều kiện quan trọng để xây dựng vốn tài liệu thư viện.
- Ảnh hưởng của văn hóa Pháp và phương Tây qua văn học
Cùng với sự ra đời của chữ Quốc ngữ và sự du nhập của Thiên chúa giáo, văn
hóa Việt Nam đã tiếp xúc và ảnh hưởng lớn từ văn hóa Pháp và phương Tây. Công
nghệ in ấn và xuất bản du nhập và phát triển ở ba kì thúc đẩy số lượng và chất lượng
43
của báo chí sử dụng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Đây chính là những yếu tố thuận lợi
thúc đẩy sự ảnh hưởng của văn hóa Pháp và phương Tây vào Việt Nam. Các trào lưu
tư tưởng, các thành tựu khoa học kỹ thuật, văn hóa và nghệ thuật từ phương Tây
thông qua sách báo ồ ạt vào nước ta thúc đẩy và tăng cường sự tiếp xúc giữa hai nền
văn hóa Á - Âu, giữa phương Đông và phương Tây ở Việt Nam. Các xuất bản phẩm
trong nước và nước ngoài về khoa học tự nhiên, luật, triết học làm thay đổi phương
pháp, tư duy nghiên cứu của trí thức mới, hình thành phương pháp tư duy duy lí bên
cạnh lối tư duy duy cảm của người Việt Nam. Những biến đổi này tạo ra sự giao thoa,
tồn tại đan xen đồng thời giữa những yếu tố văn hóa truyền thống và văn hóa ngoại
lai, nền văn hóa nô dịch của các nhà tư bản thực dân và một nền văn hóa mới đang
nảy sinh và phát triển trong lòng xã hội thuộc địa [15].
Những ảnh hưởng đầu tiên và rõ nét của văn hóa phương Tây vào Việt Nam
là sự xuất hiện các tác phẩm văn học dịch nước ngoài, chủ yếu là văn học Pháp. Tiêu
biểu là bản dịch các tác phẩm của Victor Hugo, Balzac, La Fontaine được đăng trên
báo (như Gia Định báo) trước khi được in thành sách. Đặc biệt từ năm 1930 trở đi,
ảnh hưởng của văn học Pháp ngày càng rõ rệt. Theo Phan Ngọc, Việt Nam thời kỳ
này mới manh nha một nền văn học ít nhiều có tính chất thị dân, diễn đạt bằng chữ
Nôm, dưới hình thức các truyện Nôm bằng thơ, tiểu thuyết tiếng Việt bằng văn xuôi
mới chỉ xuất hiện sau khi tiếp xúc với văn hóa Pháp [21].
Văn học mới chiếm được ưu thế trên văn đàn và được công chúng thành thị
đón nhận. Những tác phẩm văn học mới đã đi vào đời sống và trả lời được những vấn
đề của đời sống. Các tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch nói và thơ trong thời
gian này đã phê phán tình trạng thối nát của xã hội đương thời, nêu lên những xung
đột giữa các quan điểm phong kiến và tư tưởng tư sản vừa mới nảy sinh, đả kích thói
hư tật xấu của xã hội đương thời, phơi bày những cảnh lầm than khổ cực của quần
chúng lao động bị thực dân, địa chủ quan lại ức hiếp, bóc lột; đồng thời nói lên tình
cảm yêu nước thương nòi và sự bất lực, chán chường của tầng lớp tiểu tư sản thành
thị trước thời cuộc [15].
44
Nhìn chung, văn hóa Việt Nam thời Pháp thuộc có những thay đổi lớn do chịu
ảnh hưởng của văn minh phương Tây. Mặc dù bị áp đặt những chính sách đồng hóa
và ru ngủ nhằm mục đích cai trị về văn hóa, nhưng với tư tưởng tiến bộ và truyền
thống văn hóa lâu đời, nhân dân ta đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn
minh phương Tây như báo chí, văn học nghệ thuật, đặc biệt là tiểu thuyết, truyện
ngắn cổ điển. Sự du nhập báo chí, ấn phẩm nước ngoài về các lĩnh vực làm thay đổi
tư duy, lối sống của người Việt Nam đồng thời là một yếu tố làm giàu cho vốn tài
liệu của các thư viện được thành lập trong thời kỳ này.
- Thay đổi phương thức giáo dục và sự hình thành lớp trí thức mới
Khi xâm lược Đông Dương thực dân Pháp đã chủ trương xây dựng nền giáo
dục theo mô hình của nước Pháp kết hợp với những yếu tố bản xứ. Nền Cộng hòa Đệ
Tam chú trọng đến giáo dục nên chính quyền thực dân cũng coi giáo dục là một điểm
nhấn trong chính sách của họ.
Cải cách giáo dục chỉ nhằm một mục đích là phục vụ cho việc khai thác, bóc
lột thuộc địa và duy trì lâu dài nền thống trị thuộc địa. Do đó chương trình giảng dạy
mang tính chất nhồi sọ, nô dịch và ngu dân [28]. Chương trình giáo dục chủ yếu nhằm
vào bậc tiểu học, cốt chỉ xóa nạn mù chữ, để biết đọc biết viết, mà không phát triển
các bậc học trên, bậc trung học và cao đẳng. Chương trình giảng dạy không phù hợp,
không sát với thực tế (trẻ con vỡ lòng, chưa thạo tiếng mẹ đẻ đã phải học bằng tiếng
Pháp....). Vì vậy, số học sinh bỏ học nhiều và tình trạng mù chữ vẫn là phổ biến trong
dân chúng. "Theo thống kê của Phủ Toàn quyền thì năm 1939, cả nước ta có 287.037
học sinh từ tiểu học đến cao đẳng và dạy nghề. Nếu tổng số dân lúc đó là 20 triệu (số
tròn) thì tỉ lệ người đi học sẽ là 1,44%" [4, tr.173].
Mục tiêu của giáo dục là đào tạo ra một lớp người phủ nhận văn hóa dân tộc,
hăng hái đi tìm cái mới, mất gốc, quên đi lịch sử và nguồn gốc của mình, trở thành
những trí thức mất gốc, thiếu tinh thần tự tôn dân tộc, cung cúc phụng sự chế độ thực
dân [28].
45
Tuy nhiên, trên quan điểm phát triển, có thể thấy những ảnh hưởng tích cực
của giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc. Giáo dục thời kỳ này đã được tổ chức theo
mô hình hiện đại, chương trình học được cải tiến, với phương pháp giảng dạy có quy
trình chặt chẽ, tạo thói quen kỷ luật cho học sinh, sinh viên. Trường học đã được tổ
chức theo mô hình hiện đại, rèn luyện kỷ luật cho học sinh, sinh viên. Chương trình
và phương pháp giảng dạy được đưa vào từ chính quốc đã thay đổi dần lối tư duy và
những kiến thức rập khuôn, có sẵn trong sách vở, cũng có nghĩa là tiếp cận với những
tư tưởng và nền văn minh phương Tây hiện đại. Nhất là chương trình trung học, cao
đẳng và chuyên nghiệp theo mô hình của Pháp thay cho những chương trình học trong
sách vở bằng chữ Hán trước đây, đã làm cho học sinh chuyển từ lối học thụ động
sang lối học chủ động, tích cực... Nền văn minh châu Âu được biết qua sách Pháp,
mở ra một chân trời mới lạ cho thanh niên Việt Nam. Việc học theo lối mới đã mở
mang thêm dân trí, làm mờ nhạt dần ảnh hưởng Hán học, Nho giáo, hạn chế dần ảnh
hưởng của văn minh Trung Hoa [28].
Những ảnh hưởng tích cực này của giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc cùng
với tinh thần hiếu học và yêu nước đã tạo ra một lớp trí thức mới, tiếp thu văn minh
phương Tây một cách sáng tạo. Dù số lượng không nhiều nhưng lớp trí thức mới này
đã góp phần phổ biến khoa học kỹ thuật hiện đại của châu Âu; đấu tranh với những
thói hư, tật xấu trong văn hóa Việt Nam. Đây cũng là tầng lớp có nhu cầu đọc cao, là
bạn đọc tích cực của các thư viện. Những đổi mới về giáo dục đặc biệt là giáo dục
đại học là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của
thư viện.
1.2.2. Khái quát sự hình thành và phát triển của thư viện Việt Nam thời
Pháp thuộc
Các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa ở Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc có
ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và phát triển mạng lưới thư viện ở Việt Nam.
Những năm đầu sau khi xâm lược các tỉnh Nam Kỳ và bắt đầu công cuộc đô hộ Đông
Dương, thực dân Pháp tập trung vào việc thành lập bộ máy chính quyền cai trị thuộc
địa nên chưa quan tâm đến thư viện. Kinh phí chính quyền thuộc địa dành cho lĩnh
46
vực này còn rất hạn hẹp. Trong các cơ quan hành chính và một số trung tâm nghiên
cứu, tài liệu và sách báo không được sắp xếp qui củ. Năm 1917, Toàn quyền Đông
Dương Albert Sarraut chấp nhận kế hoạch của Boudet [P. Boudet (1888 - 1948), tốt
nghiệp trường Trường Quốc gia pháp điển (École nationale des Chartes), Giám đốc
Thư viện Trung ương Đông Dương từ 1917 đến 3/1945 và từ 1947 đến 1948; người
đã thực hiện chuyến khảo sát tình hình tài liệu ở Đông Dương] và ban hành Nghị định
ngày 29/11/1917 thành lập Thư viện Trung ương Đông Dương (sau này được tiếp
quản và phát triển thành Thư viện Quốc gia Việt Nam). Kế hoạch này được chấp nhận
không nằm ngoài mục đích củng cố sự thống trị của chính quyền thuộc địa Pháp ở
Đông Dương, truyền bá văn hoá Pháp và văn hóa phương Tây, cũng như đưa công
tác lưu trữ, thư viện của Pháp vào nền nếp ở Đông Dương.
Ở giai đoạn đầu quá trình hình thành, thư viện tồn tại dưới dạng các phòng
đọc, thư viện nhỏ nằm trong các cơ quan trong bộ máy cai trị của Pháp. Thư viện lớn
đầu tiên của thời kỳ này là Thư viện Sài Gòn được thành lập ở Nam Kỳ (năm 1865),
sau đó ở Bắc Kỳ [52].
Ở Bắc Kỳ, chính quyền thuộc địa đã thành lập một số thư viện. Điển hình là
Thư viện và lưu trữ Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, thư viện Viện Viễn Đông bác cổ (thành
lập 1899 theo quyết định của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer), thư viện Pháp
- Việt (Bibliothèque Franco-annamite) (1907), hai thư viện tỉnh được thành lập dành
cho người Âu: thư viện tỉnh Bắc Ninh (1910), thư viện Nam Định (1910).
Từ năm 1917, Boudet, với tư cách là thành viên của Viện Viễn Đông bác cổ,
có nhiệm vụ nghiên cứu việc tổ chức tài liệu hành chính cũng như tổ chức và hoạt
động của thư viện ở Đông Dương. Ông chỉ ra những điều kiện cần để đảm bảo hoạt
động của thư viện và lưu trữ ở Đông Dương. Đồng thời ông cũng đề nghị thành lập
một số Sở Lưu trữ và Thư viện ở Đông Dương và nêu rõ các chức năng của tổ chức
này. Toàn quyền Đông Dương đã thông qua đề nghị của Boudet và ban hành Nghị
định ngày 29/11/1917 lập ra chức Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương
bổ nhiệm Boudet làm Giám đốc Lưu trữ và Thư viện thuộc phủ Toàn quyền [12].
47
Sau các Nghị định quan trọng này, thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc bước
sang một giai đoạn mới. Thư viện đã hoạt động có tổ chức và dần đi vào nền nếp. Thư
viện Trung ương Đông Dương được thành lập theo Nghị định ngày 29/11/1917 và mở
cửa phục vụ công chúng vào ngày ngày 1/9/1919. Sau đó, mạng lưới thư viện từng
bước được thành lập trên toàn Đông Dương, đặc biệt tập trung ở ba kỳ của Việt Nam.
Từ năm 1917 đến năm 1945, chính quyền thuộc địa đã áp dụng một loạt các
tiêu chuẩn kỹ thuật nghiệp vụ thư viện tiên tiến thời đó vào các thư viện mới được
thành lập. Bên cạnh việc phục vụ bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương, thư viện
Việt Nam đã có những thay đổi lớn và trở thành trung tâm tri thức và văn hóa của
Đông Dương.
Như vậy, sự phát triển của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc có thể được chia
thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ khi Pháp bắt đầu xâm chiếm đất nước ta
vào năm 1858 cho đến 11/1917; Giai đoạn thứ hai từ năm1917 đến năm 1945 (đánh
đấu bởi sự kiện thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương năm 1917).
1.3. Tiểu kết
Sự nghiệp thư viện bao gồm tổ chức và hoạt động thư viện trên phương diện
vĩ mô và vi mô. Tổ chức và hoạt động thư viện có mối quan hệ biện chứng tạo nên
sự tồn tại và phát triển bền vững của sự nghiệp thư viện. Sự nghiệp thư viện được
đánh giá thông qua một số tiêu chí cơ bản về tổ chức và hoạt động thư viện trên cơ
sở nguyên tắc tổ chức sự nghiệp thư viện và chức năng của thư viện đối với xã hội.
Thư viện là một thiết chế văn hóa thể hiện trình độ của dân tộc và giai cấp chịu tác
động của các yếu tố khách quan: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các yếu tố chủ
quan: con người, quản lý và cơ sở vật chất.
Sự du nhập của Thiên chúa giáo, sự ra đời của chữ Quốc ngữ, sự xuất hiện và
phát triển của báo chí, sự du nhập của công nghệ in ấn đã làm biến chuyển mạnh mẽ
xã hội và văn hóa Việt Nam. Ảnh hưởng của văn hóa Pháp đã làm thay đổi văn hóa
Việt Nam nói chung và thư viện Việt Nam nói riêng. Bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực
dưới tác động của chính sách văn hóa, sự giao lưu của các yếu tố văn hóa Đông - Tây
48
đã có tác dụng tích cực trong việc thay đổi tư duy của người Việt Nam. Với sức sống
của một truyền thống văn hóa lâu đời, Việt Nam đã tiếp thu những tinh hoa văn hóa
phương Tây góp phần làm giàu thêm văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam đã sử dụng
chính văn hóa để đánh đuổi thực dân và đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến bằng
dòng văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng.
Ảnh hưởng của văn hóa Pháp và phương Tây đã có những tác động mạnh mẽ
đến nền giáo dục Việt Nam như thay đổi về hệ thống tổ chức, cơ cấu ngành nghề và
nội dung đào tạo. Thực dân Pháp đã xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho học và mở
rộng giáo dục Việt - Pháp. Mặc dù các bậc đào tạo và cơ cấu ngành nghề không cân
đối, các bậc đào tạo không đồng đều, nhưng có thể nói nền giáo dục này đã tạo ra một
lớp trí thức có trình độ học vấn và chuyên môn tương đối cao. Sự ra đời của lớp trí
thức này đã tác động mạnh mẽ đến sự ra đời và phát triển của sự nghiệp thư viện ở
Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc.
Sự phát triển của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc có thể được chia thành
hai giai đoạn: từ 1858 đến tháng 11 năm 1917 và từ tháng 11 năm 1917 (thời điểm
đánh dấu sự ra đời của Nha lưu trữ và thư viện Đông Dương) cho đến năm 1945.
49
2. CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THƯ VIỆN VIỆT NAM
THỜI KỲ PHÁP THUỘC
Sự nghiệp thư viện được nghiên cứu trên hai bình diện tổ chức và hoạt động.
Đánh giá vai trò của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc trong lịch sử sự nghiệp thư
Việt Nam nói riêng và tiến trình phát triển văn hoá dân tộc nói chung, nhất thiết phải
nghiên cứu trên hai bình diện này. Để nghiên cứu thực trạng thư viện Việt Nam trong
hai giai đoạn (1858 - 1917 và 1917 - 1945), luận án sử dụng kết hợp phương pháp
tiếp cận lịch sử và thống kê chuyên ngành.
2.1. Thư viện Việt Nam giai đoạn 1858 - 1917
Từ năm 1858 đến trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thư viện Việt Nam
do chính quyền thuộc địa thành lập vẫn chưa được tổ chức thành một thể thống nhất.
Qui mô tổ chức và hoạt động giữa các thư viện cũng không đồng đều. Vấn đề tổ chức
và hoạt động thư viện thời kỳ này chủ yếu dừng ở các dự định, việc hiện thực hóa các
dự định còn rất hạn chế.
2.1.1. Tổ chức thư viện
2.1.1.1. Mục tiêu của tổ chức thư viện
Ngay từ khi bắt đầu công cuộc xâm lược thuộc địa, chính quyền thuộc địa
Pháp đã quan tâm đến việc thành lập thư viện trong các cơ quan, văn phòng của các
Đô đốc hải quân phục vụ cho việc nghiên cứu về Đông Dương và Việt Nam. Mục
tiêu của tổ chức thư viện thời kỳ này là phục vụ mục đích xâm lược thuộc địa. Thời
kỳ đầu, chính quyền thuộc địa chưa quan tâm nhiều đến việc thành lập và đầu tư cho
các thư viện. Ngân sách dành cho thư viện còn rất hạn hẹp, những vấn đề của thư
viện vẫn chưa được giải quyết một cách thỏa đáng.
2.1.1.2. Cơ cấu mạng lưới thư viện
Trước năm 1917, mặc dù được hình thành khá nhiều nhưng các thư viện thời
Pháp thuộc vẫn chưa có liên kết về hành chính. Việc quản lý các thư viện thuộc chức
50
năng của các cơ quan, tổ chức riêng lẻ nơi thư viện đóng trụ sở. Việc tổ chức trong
từng thư viện do một số công chức trẻ đảm nhận.
Thư viện thời kỳ này chủ yếu là 2 loại: thư viện công cộng (thư viện tỉnh, thư
viện đại chúng), thư viện chuyên ngành.
Thư viện công cộng thời kỳ này được hình thành ở các đô thị lớn phục vụ bộ
máy chính quyền thuộc địa và một bộ phận công chúng.
Trước khi thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, Thư viện Sài Gòn
là thư viện hoạt động tốt nhất Đông Dương (thành lập năm 1865). Ngay từ khi thành
lập, thư viện có vốn tài liệu khá phong phú do được thừa hưởng những cuốn sách đầu
tiên từ các Đô đốc - Toàn quyền (les Amiraux Gouverneurs). Chính vì vậy thư viện
còn được gọi là Thư viện Phủ Thống đốc Nam Kỳ (hay Thư viện Nam Kỳ Soái phủ).
Năm 1882, Thư viện của Phủ Thống đốc Nam Kỳ đã chuyển thành thư viện công
cộng. Sau khi chuyển thành thư viện công cộng đến trước năm 1917, tình trạng sách
trong Thư viện của Phủ Thống đốc Nam Kỳ còn rất ít và bảo quản chưa hiệu quả do
việc cho mượn sách tùy tiện, với số lượng lớn (từ 3 đến 6 cuốn cùng loại, sau còn
nâng lên thành 25 cuốn). Có những giai đoạn thư viện không có một đợt bổ sung nào
trong vòng hai năm liên tục. Nhân sự thư viện không có khả năng chuyên môn và
không ổn định. Đối tượng phục vụ của các thư viện chủ yếu là người Pháp [87].
Thư viện Huế là một thư viện trong cơ quan hành chính thuộc Tòa Khâm sứ,
sở hữu một khối lượng khá lớn sách về lịch sử Trung Kỳ. Tuy nhiên trái ngược với
thư viện Sài Gòn, Thư viện Huế lại không phát huy được vai trò của mình do việc
cho mượn rất hạn chế.
Hai thư viện tỉnh được thành lập trong thời kỳ này là thư viện Tỉnh Bắc Ninh
(thành lập năm 1910) dành cho người bản xứ và thư viện tỉnh Nam Định (thành lập
năm 1914) dành cho người Âu làm việc ở địa phương.
Ngoài ra, thời kỳ này các thư viện khác ở Hà Nội, Huế và Hải Phòng dường
như chỉ tồn tại ở dạng các phòng đọc sách, thỉnh thoảng được mở cửa và sách được
phục vụ không có quy định chặt chẽ.
51
Thư viện phổ thông (thư viện đại chúng)
Thư viện của Phủ Thống sứ Bắc Kỳ vừa là một Thư viện trong cơ quan hành
chính, vừa là một Thư viện cho mượn phổ thông thu nhỏ.
Thư viện Pháp-Việt (Bibliothèque Franco-annamite) là thư viện phổ thông chủ
yếu dành cho người bản xứ (số 73 phố Jules Ferry nay là phố Hàng Trống) do Nha
Học chính Bắc Kỳ thành lập năm 1906 [66].
Thư viện chuyên ngành tiêu biểu thời kỳ này là: Thư viện Bảo hộ
(Bibliothèque Protectorat) - thư viện ngành giáo dục (được Thống sứ Bắc Kỳ thành
lập năm 1908 theo đề nghị của Giám đốc Sở học chính Bắc Kỳ), Thư viện của trường
đại học Đông Dương, thư viện trường Y - Dược. Các thư viện này chủ yếu phục vụ
cho nghiên cứu và học tập của các giảng viên, sinh viên.
Thư viện Trường Viễn Đông bác cổ (EFEO) là một thư viện chuyên ngành
nghiên cứu về Viễn Đông, ra đời cùng với Trường Viễn Đông bác cổ năm 1899 theo
quyết định của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Trong một báo cáo về công
việc của EFEO từ năm 1902 đến 1907 gửi Toàn quyền Đông Dương, Giám đốc EFEO
có nêu Thư viện EFEO là một thư viện chuyên ngành. Mục tiêu của thư viện là thu
thập tất cả các sách liên quan tới Đông Dương và khu vực Viễn Đông bằng các ngôn
ngữ khu vực, ngôn ngữ châu Âu [24].
Nhìn chung các thư viện do chính quyền thuộc địa Pháp thành lập trước năm
1917 hoạt động độc lập, chưa được nhà nước quan tâm. Kinh phí hoạt động của các
thư viện lấy từ kinh phí của địa phương hoặc các cơ quan, tổ chức quản lý thư viện.
2.1.1.3. Cơ sở vật chất và ngân sách thư viện
Cho đến trước năm 1917, trên toàn Đông Dương, hầu như không có thư viện
nào được dành riêng một tòa nhà. Chỉ riêng Thư viện Sài Gòn được xây dựng một
nhà kho riêng, trong đó có một bộ phận dành cho kho lưu trữ. Các thư viện còn lại
đều trong tình trạng cơ sở vật chất đơn giản. Phòng đọc vừa là phòng làm việc, vừa
52
là phòng quản lý và vừa là kho tài liệu. Trang thiết bị rất sơ sài, chủ yếu là các giá
sách và những tủ để trống [107].
Bên cạnh đó, Thư viện EFEO là thư viện có cơ sở vật chất khá tốt. Thư viện
lúc đầu đặt trong trụ sở của EFEO tại Sài Gòn. Sau khi thực dân Pháp chiếm xong
Đông Dương và lấy Hà Nội làm thủ đô Đông Dương, ngày 1/6/1902, EFEO chuyển
trụ sở ra Hà Nội. Sau nhiều lần chuyển địa điểm, Thư viện đã được chuyển chính thức
về số 26 phố Careau (nay là phố Lý Thường Kiệt) vào tháng 6 năm 1905 và được
nhiều lần mở rộng thêm [24].
Về ngân sách, trong các Niên giám thống kê Đông Dương (Annuaire
statistique de l’Indochine) trước năm 1917 không có số liệu ngân sách Đông Dương
dành cho lĩnh vực thư viện và lưu trữ. Các thư viện hoạt động trong kinh phí của cơ
quan, tổ chức và địa phương phụ trách.
Có thể nói, với nguồn kinh phí của các cơ quan tổ chức thành lập thư viện, vấn
đề xây dựng trụ sở cũng như trang bị cơ sở vật chất cho thư viện giai đoạn này chưa
được quan tâm.
2.1.1.4. Nhân lực thư viện
Việc sắp xếp, bồi dưỡng đội ngũ thư viện viên có nhiều trở ngại do thiếu đội
ngũ nhân sự chuyên môn. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động
của các thư viện thời kỳ này. Việc tổ chức sắp xếp tài liệu trong các thư viện chủ yếu
do cá nhân hay một nhóm nhân viên được giao phụ trách đề xuất.
Công tác đào tạo cán bộ thư viện thời kỳ này hầu như không được quan tâm.
Nhân sự hoàn toàn không có kỹ năng chuyên môn, số lượng thiếu và không ổn định.
Chính vì vậy việc đảm bảo sự hoạt động đều đặn của thư viện vô cùng khó khăn [45].
Như vậy, có thể nói tổ chức mạng lưới thư viện giai đoạn này chưa có sự gắn
kết hành chính, cơ sở vật chất còn rất sơ sài, nhân lực thư viện chủ yếu do các nhân
viên không được đào tạo đúng chuyên môn đảm nhiệm. Công tác đào tạo nhân lực
chưa được đặt ra dẫn đến tổ chức và hoạt động không quy củ, thiếu thống nhất.
53
2.1.2. Hoạt động thư viện
2.1.2.1. Xây dựng và phát triển vốn tài liệu
Giai đoạn đầu, việc xây dựng và phát triển vốn tài liệu thời kỳ này chủ yếu do
lực lượng hải quân thực hiện. Các đô đốc Hải quân Pháp ở Việt Nam đã tập hợp
những bộ sưu tập được lựa chọn từ các văn phòng trong các công sở của họ ở Sài
Gòn. Người ta đã tìm thấy trong thư từ của các Đô đốc Hải quân đề cập đến những
khó khăn trong việc sưu tầm và thu thập những cuốn sách có giá trị và các ấn phẩm
định kỳ như Sỹ quan Hải quân (Moniteur de la Flotte) và Những tờ báo nhỏ của hai
vùng Charente (Tablettes des Deux Charentes), Tạp chí Hai thế giới (La Revue des
Deux Mondes), Họa báo (L’Illustration), Tạp chí hội họa (Le Magasin pittoresque),
Thời báo (Le Temps) và nhiều loại báo khác. Song một khối lượng lớn các báo này
đều trong tình trạng bị mối mọt xông và gần như bị hỏng toàn bộ.
Sau các Đô đốc Hải quân, nhiều Bộ trưởng và Thống đốc có quan tâm nhất
định đến công tác thư viện ở Đông Dương. Một Ủy ban mới thành lập để phụ trách
những vấn đề về thư viện bắt đầu đi vào hoạt động. Ủy ban này gồm 7 người, dự kiến
bổ sung khoảng 20.000 đầu sách, gồm sách quí có giá trị, sách ngoại văn, sách tiếng
bản xứ, một khối lượng lớn các ấn phẩm định kỳ bằng tiếng địa phương và tiếng các
nước lân cận. Ủy ban này còn dự tính sao chụp các bản thảo ở Thư viện Quốc gia
Pháp để bổ sung vào kho tài liệu. Năm 1885, khoản tiền 1.450 đồng bạc Đông Dương
đã được cấp cho Ủy ban này để bổ sung sách thông qua một hợp đồng ký kết với một
nhà sách [45]. Đến năm 1886, Ủy ban này đã giải tán khi chưa kịp thực hiện kế hoạch
đề ra. Một kế hoạch mới được xây dựng với nhân sự mới trong đó có 2 người Âu, 2
thư ký người bản xứ. Một ngân sách 8.000 đồng bạc Đông Dương dùng cho việc bổ
sung sách và 2.000 đồng cho việc bổ sung ấn phẩm định kỳ cùng với những chi phí
cho cơ sở vật chất cần th iết.
Một số thư viện đại chúng được thành lập giai đoạn đầu có số vốn tài liệu nhỏ
do kinh phí hạn hẹp. Hai thư viện có vốn sách khá phong phú như Thư viện Sài Gòn
và Thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ. Thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ có số
54
vốn tài liệu là 50.000 bản, tập hợp những bộ sưu tập độc nhất trên thế giới với nhiều
tài liệu về Hán học, trong đó có nhiều tác phẩm bằng chữ Trung Quốc, Nhật Bản,
Pali,...và nhiều bản thảo chép tay có giá trị. Do đó, cùng với việc thực hiện các hoạt
động khoa học, EFEO đã xây dựng thư viện ngay từ khi mới thành lập và coi việc
phát triển thư viện là một nhiệm vụ chính của mình (Điều 3, Sắc lệnh ngày 26/2/1901
của Tổng thống Pháp [24]). Số lượng sách của Thư viện tăng trưởng không ngừng từ
các nguồn sách chuyển đến từ Paris, Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn chương, do
EFEO xuất bản, do các thành viên của Thư viện EFEO sưu tầm tại các nước thuộc
vùng Viễn Đông, Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ và mua bằng tiền ngân sách
Đông Dương. Ngoài ra, nguồn bổ sung tài liệu của EFEO còn từ việc trao đổi qua lại
với các thư viện, các trường đại học và các tổ chức khoa học trên thế giới.
Nhìn chung, vốn tài liệu của các thư viện thời kỳ này ít về số lượng và chủng
loại. Nguồn bổ sung tài liệu chủ yếu từ sưu tầm trong và ngoài nước. Chưa có chính
sách và diện bổ sung cụ thể cho từng loại thư viện do chưa có một cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền điều hành hoạt động của mạng lưới thư viện.
2.1.2.2. Xử lý tài liệu
Mặc dù Pháp là một nước đi đầu trong lĩnh vực thư viện ở châu Âu và là nước
đầu tiên thực hiện nguyên tắc công cộng trong tổ chức và hoạt động thư viện, nhưng
thời gian đầu của công cuộc khai thác thuộc địa, thực dân Pháp chưa quan tâm đến
hoạt động thư viện và lưu trữ ở Đông Dương. Công tác đào tạo cán bộ thư viện - lưu
trữ cũng không được quan tâm nên việc xử lý nghiệp vụ trong các thư viện ở Việt
Nam thời kỳ này chưa được thực hiện theo quy tắc thống nhất.
Ở Thư viện của Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, khi nhập về sách được đăng ký, đánh
số thứ tự và xếp trên giá theo thứ tự chữ cái tên tác giả. Tại Thư viện của Trường
Viễn Đông bác cổ, tài liệu được sắp xếp lại theo 7 nhóm: tài liệu Âu; tài liệu Trung
Hoa; tài liệu Việt Nam; tài liệu Nhật Bản; bản đồ và bình đồ; bản chép tay; bản
rập bia.
55
Về công tác biên mục, do các thư viện hình thành tự phát, hoạt động của các
thư viện do một số nhân viên đề xuất phương pháp xử lý sắp xếp nên không có hướng
dẫn thống nhất.
2.1.2.3. Tổ chức và bảo quản tài liệu
Phần lớn các thư viện chưa có kho riêng để lưu giữ và bảo quản tài liệu. Tình
trạng sách để tràn lan ở hành lang, các tủ giá để trống khá phổ biến. Một sai lầm lớn
trong công tác bảo quản thời kỳ này, theo Boudet, là để tài liệu trên những giá bằng
sắt sau bóng râm của cửa kính hoặc để trong những tủ gỗ tốt sẽ tránh được hơi ẩm và
côn trùng. Trên thực tế, do để quá kín trong bóng tối, không đảm bảo việc lưu thông
không khí trong kho, đã tạo điều kiện cho côn trùng phát triển. Do điều kiện bảo quản
kém, ẩm thấp hoặc để ở hành lang, chịu tác động của ánh sáng mặt trời, nên sách
thường trong tình trạng bụi bặm hoặc bị côn trùng tấn công. Đa số các bộ sưu tập
sách, báo đều trong tình trạng chưa được đóng bìa và tình trạng vật lý kém. Nhiều
sách quí hiếm của thư viện đã bị mất, số còn lại ít có giá trị. Những tài liệu này đều
là những tài liệu duy nhất và quí hiếm về lịch sử Việt Nam [86].
2.1.2.4. Sản phẩm thư viện
Mặc dù vấn đề xử lý tài liệu chưa thống nhất nhưng sản phẩm thư viện giai
đoạn này đã hình thành hai loại cơ bản: mục lục và thư mục. Hoạt động này đặt nền
móng cho sản phẩm thư viện ở giai đoạn tiếp theo.
- Mục lục
Các thư viện giai đoạn này đều tổ chức hai loại mục lục chủ yếu: mục lục chữ
cái tên tác giả và mục lục phân loại. Tuy nhiên cách tổ chức chưa thống nhất và hợp
lý. Thư viện của EFEO có mục lục tra cứu riêng cho mỗi phông tài liệu: châu Âu,
Trung Quốc, Hán Nôm, Nhật Bản, Bản đồ và bình đồ, các bản viết tay, các bản rập
bia [24]. Thư viện của Phủ Thống sứ Bắc Kỳ phân loại mục lục thành 12 nhóm chủ
đề (série). Cách tổ chức mục lục chưa hợp lý (Ví dụ ở série 5, bao gồm gần như tất
cả các tri thức về con người được thu hẹp trong giới hạn một đề mục của hệ thống
phân loại gây khó khăn trong tìm tài liệu) [107].
56
- Thư mục
Thư mục được các tác giả người Pháp ở Đông Dương quan tâm biên soạn.
Những thư mục được biên soạn thời kỳ này tuy chưa quan tâm nhiều đến kỹ thuật
nghiệp vụ nhưng là một thành công trong việc tập hợp những tài liệu ở Đông Dương
phục vụ cho những người nghiên cứu.
Thư mục đầu tiên tập trung các tác phẩm liên quan đến Đông Dương từ năm
1862 được De Bellcombe (thành viên của Hội châu Á và Hội Dân tộc học) thực hiện
mang tên Bibliographie Annamique (trình bày trong cuốn "Bức tranh Nam Kỳ" của
Cortambert và Rosny).
Vài năm sau, Barbié du Bocage, (Phó thư ký Ủy ban Trung ương của Hội Địa
lý học Paris) công bố "Thư mục Annam" trong Tạp chí Hàng hải và thuộc địa. Đây
là một thư mục có giá trị tư liệu lịch sử, địa lý khá cao. Tác giả đã xác định thư mục
có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu về Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam.
Tuy nhiên, các tài liệu nghiên cứu này rất tản mát nên cần thu thập và biên soạn phục
vụ công tác nghiên cứu. Tác giả cũng chỉ rõ, để khai thác Annam, cần nắm được
những tài liệu có giá trị, hoàn thiện những hiểu biết về lịch sử, địa lý và văn hóa của
thuộc địa.
Thư mục được thực hiện sẽ giúp cho những người làm trong bộ máy nhà nước
Pháp, những thủy thủ, những nhà buôn có thể tiếp cận tài liệu cần thiết một cách
nhanh chóng [116]. Thư mục này chia làm 5 phần: Phần đầu liệt kê 257 cuốn sách
sắp xếp theo tên tác giả và theo từ đầu tiên của nhan đề của những sách khuyết danh;
Phần hai liệt kê những bài trích trong các ấn phẩm định kỳ và những bộ sưu tập lớn
các chuyến đi theo thứ tự thời gian; Phần ba dành riêng cho tài liệu của những kho
lưu trữ chính ở Paris và những bản thảo liên quan đến Đông Dương; Phần bốn dành
cho bản đồ và tập bản đồ; Phần năm gồm các bảng tra theo tên tác giả. Đây là một dự
án lớn của Du Bocage trong giai đoạn mà những nghiên cứu về Viễn Đông còn rất
hạn chế.
Từ việc kết hợp các khảo sát và nghiên cứu về thuộc địa, Ủy ban Nông nghiệp
và Công nghiệp Nam Kỳ (thành lập năm 1863) xuất bản cuốn "Danh mục những suốn
57
sách về Nam Kỳ, Trung Kỳ và Campuchia công bố từ năm 1866" vào năm 1878 (Liste
d'ouvrages sur la Cochinchine, l'Annam et le Cambodge parus depuis 1866). Thư
mục này được hoàn thiện như thư mục của Du Bocage, giữ nguyên kết cấu và chỉ sửa
đổi một chút về nhan đề.
Sau Du Bocage, Lander và Folliot đã xây dựng một thư mục có kết cấu hoàn
toàn mới cho giai đoạn 1880-1889 có nhan đề "Thư mục Đông Dương Viễn Đông từ
1880" (Bibliographie de l'Indochine Orientale depuis 1880). Tất cả các mô tả được
sắp xếp theo trật tự duy nhất chữ cái tên tác giả và các chủ đề. Thư mục được in với
cỡ chữ to hơn để tạo điều kiện cho tra cứu dễ dàng. Việc xuất bản thư mục này được
chính thức tư nhân hóa với sự ra đời của Hội Nghiên cứu Đông Dương vào năm 1883.
Trong thời gian này, nhiều danh mục sách riêng lẻ được công bố. Maybon đã
lập một công trình thư mục bậc hai (thư mục của thư mục) Ghi chép về các công trình
thư mục về Đông Dương thuộc Pháp (Note sur les travaux bibliographies concernant
l'Indochine française) giới thiệu khoảng hai mươi thư mục đã được xuất bản từ năm
1882 đến 1910, trong đó có nhiều thư mục chuyên đề về dân tộc học, về những chuyến
đi khảo sát, khảo cổ về Champa và Campuchia [116].
Mercié đã tập hợp hàng nghìn tài liệu theo bố cục giống với thư mục nổi tiếng
về Trung Quốc của Cordier (Arch. Central de l'Indochine. Résdence Supérieure
Tonkin, N°2532). Thư mục tổng quát Đông Dương được biên soạn và đăng trong Tạp
chí Đông Dương (Revue Indochinoise) (1908). Thư mục này có những hạn chế về tổ
chức và phương pháp thực hiện.
Cordier đã tập hợp một khối lượng lớn các xuất bản phẩm về Đông Dương và
biên soạn thư mục Bibliotheca Indosinica (công bố từ 1912 đến 1915 trong bộ sưu
tập các xuất bản phẩm của EFEO). Với sự đầu tư công phu, một số lượng lớn các chỉ
dẫn thư mục và các tài liệu trước năm 1912 đã được giới thiệu tương đối đầy đủ. Tuy
nhiên thư mục có cấu trúc hơi lộn xộn, thiếu bảng tra chữ cái do quan niệm của tác
giả theo phân loại truyền thống. Thư mục Bibliotheca Indosinica bao gồm 4 tập tập
trung tất cả các tài liệu về Đông Dương. Nguyên tắc sắp xếp trong đề mục Đông
Dương thuộc Pháp như sau [116]:
58
Những vấn đề tổng quát
Địa lý
Lịch sử
Tôn giáo
Khoa học và nghệ thuật
Ngôn ngữ và Văn học
Quan hệ quốc tế
Tóm lại, về nội dung, các thư mục được biên soạn trong giai đoạn này chủ yếu
do các tác giả người Pháp ở Đông Dương biên soạn bằng tiếng Pháp. Các tài liệu đưa
vào thư mục là những tài liệu có nội dung liên quan đến những vấn đề tồng quát, lịch
sử, địa lý, phong tục, ngôn ngữ của các nước ở Đông Dương; cuộc xung đột Pháp –
Hoa; hành trình và nghiên cứu của các nhà truyền giáo ở Đông Dương... Các thư mục
được biên soạn trong giai đoạn này chưa thống nhất về hình thức và phương pháp
biên soạn do các tác giả tập trung nhiều hơn vào việc thu thập các tài liệu đưa vào thư
mục. Đã xuất hiện hình thức thư mục bậc hai.
2.1.2.5. Phục vụ bạn đọc
Các thư viện thời kỳ này chưa có qui định thống nhất về hoạt động phục vụ
bạn đọc. Các thư viện thời kỳ này chủ yếu áp dụng hai hình thức phục vụ phục vụ
đọc tại chỗ và cho mượn về nhà [86]. Phục vụ đọc tại chỗ thường dưới hình thức
những phòng đọc nhỏ ở các cơ quan hành chính và các thư viện công cộng (do qui
mô thư viện chưa lớn, chưa có qui chế hoạt động rõ ràng).
Mỗi thư viện có chế độ giờ mở cửa riêng phù hợp với đối tượng phục vụ. Nhìn
chung thư viện mở cửa từ 7 giờ đến 17 giờ và từ 20 giờ đến 21 giờ. Thư viện Pháp -
Việt (Biblothquèque Franco-annamite), thư viện phổ thông chủ yếu dành cho người
bản xứ, mở cửa từ 11 giờ đến 14 giờ và từ 17 giờ đến 22 giờ, trừ thứ hai. Đối tượng
chủ yếu là các nhân viên văn phòng, phiên dịch, thư ký, sinh viên, những người buôn
bán thương mại. Độc giả có thể mượn sách về nhà với thời gian 15 ngày, tiền đặt
cược là 1 đồng.
59
Thư viện có khoảng 500 cuốn sách bằng tiếng Pháp, chữ quốc ngữ và chữ Hán
Nôm. Vốn sách của thư viện gồm các sách về văn học, khoa học, địa lý, lịch sử, từ
điển... trong đó có nhiều sách mà độc giả không thể tìm thấy ở hiệu sách. Thư viện
này cũng có các sách quí hiếm, bổ ích nhưng khó đọc (do nhiều độc giả Việt Nam
gặp khó khăn trong việc đọc các sách bằng tiếng Pháp, đặc biệt là những sách về khoa
học). Để giải quyết những khó khăn này, thư viện tiến hành lựa chọn những cuốn
sách có văn phong đơn giản, dễ hiểu giới thiệu cho độc giả đọc trước. Tư vấn để độc
giả đọc sách có nội dung từ dễ đến khó [66].
Thư viện EFEO là thư viện chuyên ngành có hoạt động qui củ nhất so với các
thư viện được thành lập trong giai đoạn này. Phòng đọc của thư viện mở cửa từ 8h30
đến 11h00 và từ 14h30 đến 17h00 tất cả các ngày, trừ chủ nhật và ngày lễ. Các tài
liệu chủ yếu được phục vụ tại chỗ. Các tài liệu như từ điển, sách ngữ pháp, bản đồ,
tạp chí chưa được đóng thành bộ và các tài liệu quí hiếm chỉ được đọc tại chỗ. Để
mượn tài liệu về nhà, người mượn phải là người ở Hà Nội và phải được sự đồng ý
của Giám đốc. Thời hạn mượn tối đa là 15 ngày. Quá thời hạn trên, thủ thư sẽ gửi thư
đòi tài liệu người mượn. Những trường hợp làm mất sách, hỏng sách hoặc mượn quá
thời hạn đều phải bồi thường và mất quyền được mượn sách [24].
Nhìn chung, hình thức cho mượn về nhà của hầu hết các thư viện không được
tuân thủ theo một qui chế thống nhất. Sách cho mượn tràn lan, tình trạng sách còn lại
trong thư viện không nhiều trong khi kinh phí cho bổ sung rất hạn hẹp. Việc quản lý
sách lỏng lẻo dẫn đến việc mất mát nhiều, ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng vốn
tài liệu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc phục vụ độc giả, hoạt động của các
phòng đọc và phòng mượn chưa được quy định chặt chẽ, chưa ghi lại các con số thống
kê liên quan đến lượt đọc, lượt sử dụng thư viện, lượt luân chuyển sách báo.
2.2. Thư viện Việt Nam giai đoạn 1917 - 1945
Từ khi Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương thành lập tháng 11 năm 1917,
thư viện Việt Nam có sự biến chuyển căn bản về mô hình tổ chức và hoạt động.
60
2.2.1. Tổ chức thư viện
Thư viện giai đoạn này đã vận hành và phát triển theo mô hình thư viện hiện
đại. Tổ chức thư viện đã có những chuyển biến rõ nét từ quản lý, tổ chức mạng lưới
đến cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và ngân sách.
2.2.1.1. Mục tiêu của tổ chức thư viện
Sau khi chiếm toàn Đông Dương, thực dân Pháp tập trung vào công cuộc khai
thác thuộc địa qui mô lớn biến Đông Dương thành một thuộc địa thực thụ. Nhằm thực
hiện mục đích chính trị này, Pháp triển khai kế hoạch xây dựng ở thuộc địa những cơ
quan văn hóa, trong đó có thư viện, phục vụ tầng lớp trí thức - đội ngũ có vai trò quan
trọng trong công cuộc khai thác thuộc địa.
Sau đợt công tác rà soát tình hình tài liệu hành chính và lưu trữ thư viện ở
Đông Dương, Boudet đã đề nghị Toàn quyền Đông Dương nhanh chóng thành lập cơ
quan lưu trữ và thư viện, cải tổ và làm mới thư viện, duy trì hoạt động bình thường,
đều đặn ở các cơ quan lưu trữ, thư viện. Ông đề xuất việc tổ chức lại hoạt động thư
viện như sau [9]:
1. Đảm bảo ngân sách ổn định;
2. Có tổ chức hợp lý;
3. Đảm bảo lợi ích người đọc và lợi ích của thư viện;
4. Nguồn nhân lực thư viện có khả năng chuyên môn.
Boudet nhấn mạnh "Cần thiết phải làm cho thư viện phát triển và phát triển
đều vì nhu cầu của người dân bản xứ ngày một tăng. Nếu không, cũng như việc thiết
lập giáo dục đại học mà không có sự hỗ trợ của sách. Cơ cấu vốn tài liệu cũng cần
thay đổi, không cần quá nhiều sách văn học mà cần những sách tư liệu, vì sách giải
trí đã quá nhiều. Nếu biết trân trọng những lợi ích này, người bản xứ sẽ ngày một
nâng cao trình độ" [87].
Bản dự án thành lập cơ quan lưu trữ và việc kiểm tra thường xuyên công tác
lưu trữ và thư viện ở Đông Dương do Boudet soạn thảo đã được Hội Đồng Chính phủ
61
xem xét và phê chuẩn. Ngày 29 tháng 11 năm 1917, Chính quyền thuộc địa đã thành
lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, bổ nhiệm Boudet làm "Giám đốc Lưu trữ
và Thư viện thuộc phủ Toàn quyền Đông Dương". Quyền hạn của Giám đốc Nha Lưu
trữ và Thư viện Đông Dương được qui định [49]:
1. Định kỳ thanh tra các cơ sở lưu trữ và thư viện công của các Kỳ;
2. Tổ chức việc sắp xếp tài liệu lưu trữ và quản lý các thư viện công trong
toàn Đông Dương theo kế hoạch và khung sắp xếp thống nhất;
3. Hướng dẫn cho các nhân viên người Âu, người bản xứ làm trong thư viện
và lưu trữ về cách sắp xếp tài liệu và các công việc liên quan;
4. Khi cần thiết báo cáo với cấp có thẩm quyền để thưởng, phạt đối với
các nhân viên;
5. Thường xuyên chỉ đạo cho các thư viện công bổ sung những xuất bản
phẩm cần thiết và có ích;
6. Rà soát tổ chức của các thư viện công hiện có và xúc tiến thành lập những
thư viện mới, phục vụ đọc tại chỗ và cho mượn về nhà;
7. Từng bước công nhận và xếp hạng các thư viện công lớn của
Đông Dương.
2.2.1.2. Cơ cấu mạng lưới thư viện
Ở Pháp, thời kỳ này, thư viện được phân chia thành các loại hình: Thư viện
Quốc gia, thư viện tỉnh, thư viện đại học và thư viện chuyên ngành. Mô hình thư viện
ở Đông Dương áp dụng theo mô hình của Pháp. Các thư viện ở Đông Dương thời kỳ
này được phân chia thành 2 loại hình chính: thư viện công cộng và thư viện chuyên
ngành. Thư viện công cộng có các bộ sưu tập lớn và ổn định, gồm những cuốn sách
có giá trị liên quan đến các môn loại tri thức. Thư viện công cộng phục vụ đọc tại chỗ
và cho mượn về nhà mà độc giả được tra tìm tự do. Thư viện chuyên ngành được lập
trong các công sở hay các viện nghiên cứu khoa học như Thư viện EFEO, Thư viện
Sở Công chính. Với mong muốn có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, các thư
viện này phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội [86].
62
Thời kỳ này, bên cạnh hai thư viện thư viện công cộng tiêu biểu là Thư viện
Trung ương Đông Dương Hà Nội và Thư viện Sài Gòn còn có các thư viện thành lập
ở tỉnh (Huế, Hải Phòng, Bắc Ninh). Thư viện Sài Gòn hoạt động tự chủ và chịu sự
lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Văn phòng Phủ Thống đốc - Toàn quyền Nam Kỳ,
kinh phí hoạt động từ chính phủ Nam Kỳ. Thư viện được tổ chức lại từ năm 1920
theo mô hình của Thư viện Pierre Pasquier (Thư viện Trung ương Đông Dương). Vào
năm 1935, thư viện này được mở rộng diện tích và sát nhập vào Nha Lưu trữ và Thư
viện Đông Dương.
Thư viện chuyên ngành tiêu biểu là Thư viện EFEO thành lập theo quyết định
của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ngày 15/12/1898. Thư viện ra đời cùng
với sự ra đời của Trường Viễn Đông bác cổ trực thuộc Viện Hàn lâm văn khắc và văn
chương của Pháp (Académie des inscriptions et des belles lettres).
Theo Báo cáo về tình hình lưu trữ thư viện của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương từ năm 1927 đế 1953 (Phông Văn phòng Bộ Thuộc địa Pháp), mạng lưới thư
viện ở Đông Dương được phân bố như sau [113]:
- Những thư viện chính ở Đông Dương:
1. Thư viện EFEO, Hà Nội
2. Thư viện lưu động Bắc Kỳ
3. Thư viện Trung ương Pierre Pasquier (Thư viện trung ương Đông Dương
Hà Nội)
4. Thư viện tổng hợp Đại học Đông Dương, Hà Nội
5. Thư viện thành phố Sài Gòn
6. Thư viện lưu động Nam Kỳ
7. Thư viện thành phố Huế
8. Thư viện thành phố Phnom-pênh
9. Thư viện Hoàng gia Phnom-pênh
10. Thư viện nghệ thuật Campuchia - Phnom-pênh
11. Thư viện Tòa Khâm sứ Trung Kỳ - Huế
12. Thư viện Bảo Đại - Huế
63
- Các thư viện chi nhánh và các hội tại các tỉnh ở Đông Dương:
1. Thư viện quân sự, Sài Gòn
2. Thư viện hội nghiên cứu Đông Dương, Sài Gòn
3. Thư viện Thương mại, Hải Phòng
4. Thư viện liên bang, Hà Nội
5. Thư viện Thanh Hóa
6. Thư viện Đà Nẵng
7. Thư viện Phnom-pênh
8. Thư viện Rive – Droite, Huế
9. Thư viện Vinh
10. Thư viện Qui Nhơn
11. Thư viện Franco-annamite (Pháp - Việt), Quảng Ngãi
12. Thư viện Faifo, Hội An
Có thể thấy các thư viện công cộng và chuyên ngành lớn và nhỏ phần lớn tập
trung ở 3 kỳ của Việt Nam. Đến nay, số tài liệu minh chứng về thư viện thời kỳ này
rất hạn chế, chỉ còn lại chủ yếu về các thư viện lớn như Thư viện Trung ương Đông
Dương, Thư viện Trường Viễn Đông bác cổ, Thư viện Sài Gòn, thư viện Viện Hải
Dương học Nha Trang, Thư viện Đại học Tổng hợp Đông Dương và một số thư viện
phổ thông nhỏ.
2.2.1.3. Cơ sở vật chất và ngân sách thư viện
Sau khi thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, cơ sở vật chất và
ngân sách của thư viện đã được chính quyền thuộc địa quan tâm hơn giai đoạn trước.
Đây là yếu tố quyết định sự ổn định và phát triển của thư viện giai đoạn này.
- Cơ sở vật chất
Tuy cơ sở vật chất của các thư viện ở Việt Nam thời kỳ này đã được quan tâm
hơn, nhưng chưa thích đáng. Việc xây dựng cơ cở vật chất cho các cơ quan lưu trữ
và thư viện bị ảnh hưởng nhiều từ tình hình kinh tế của Pháp. Thời kỳ đầu (sau khi
64
thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương), trụ sở và kho tàng là một vấn đề
rất khó khăn đối với các thư viện và lưu trữ ở Đông Dương. Từ khi thành lập Nha
Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (1917) cho đến năm 1945, kế hoạch xây dựng trụ
sở các sở Lưu trữ Trung Kỳ và Nam Kỳ vẫn không thực hiện được do những khó
khăn về kinh tế và chiến tranh.
Trụ sở của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương cũng sử dụng lại Tòa nhà
của Nha kinh lược Bắc Kỳ cũ. Trong báo cáo năm 1918 về tình hình tài liệu của Phủ
Toàn quyền Đông Dương và Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, Boudet đã đề nghị xây kho lưu
trữ và thư viện trên khu đất của Phòng thương mại và Nông nghiệp Bắc Kỳ (nay là
Thư viện Quốc gia Việt Nam). Tòa nhà này đã được cải tạo lại, sắp xếp và trang bị
bên trong hợp lý. Các giá để sách đều bằng gỗ có thể thay đổi vị trí các ván đợt cho
phù hợp với kích cỡ của sách. Trong phòng đọc, bách khoa thư, niên giám, sách nghệ
thuật, luật, địa lý, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, triết học, tôn giáo, khoa học, một số
sách khác về Đông Dương và Viễn Đông, các bộ ấn phẩm định kỳ về Đông Dương
và những số cuối của 66 ấn phẩm định kỳ Pháp và nước ngoài thường được sắp xếp
trên các tủ giá phục vụ tại chỗ cho độc giả. Cách bố trí này phù hợp với một thư viện
tầm cỡ lớn nhất ở Đông Dương.
Sở Lưu trữ và Thư viện Trung Kỳ được thành lập vào năm 1943 (29/3/1943)
có nhiệm vụ tổ chức lại lưu trữ và thư viện nước bảo hộ và tổ chức lại lưu trữ hoàng
cung. Sở được đặt tạm thời trong phủ Khâm sứ Trung Kỳ. Sở chưa thể tổ chức một
thư viện mở cửa tiếp đón rộng rãi công chúng do chưa có trụ sở và kho tàng chính
thức. Trụ sở tạm thời này gồm một kho sách chứa 28 giá hai mặt và một phòng đọc
có sức chứa khoảng 20 độc giả; bên cạnh đó có kho tài liệu lưu trữ gồm 15 tủ. Trong
quy hoạch, Sở Lưu trữ và Thư viện Trung Kỳ được dành một miếng đất đẹp nhìn ra
Vườn hoa công cộng và đại lộ chính của Huế. Tuy nhiên, chiến tranh nổ ra năm 1946
làm kế hoạch xây dựng kho Lưu trữ và Thư viện trên đại lộ chính của thành phố Huế
không được thực hiện.
Trụ sở của Thư viện Sài Gòn trở nên chật hẹp do vốn tài liệu ngày càng gia
tăng đáng kể. Vấn đề xây dựng một thư viện phù hợp với nhu cầu phục vụ đã được
65
Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ xem xét. Tuy nhiên vì thiếu kinh phí nên vấn đề này
vẫn chưa được giải quyết. Đến năm 1943, vấn đề trụ sở của Sở Lưu trữ và Thư viện
Nam Kỳ vẫn chưa được cải thiện. Sở vẫn sử dụng trụ sở của Sở Mỏ địa chất làm
phòng mượn tạm thời trong tòa nhà chính vốn đã quá chật hẹp [103].
Trong tất cả các thư viện thời kỳ này, Thư viện EFEO là thư viện được quan
tâm hơn cả về cơ sở vật chất. Năm 1943, EFEO được mở rộng thêm một tòa nhà 5
tầng (kinh phí 185.900 phơ-răng (Nghị định ký ngày 17/3/1923 của Toàn quyền Đông
Dương) tại 23, 25 Đại lộ Đồng Khánh, nay là phố Hàng Bài). Hiện nay, tòa nhà này
là kho sách của Thư viện Viện Thông tin khoa học xã hội và trung tâm Thông tin Tư
liệu Khoa học công nghệ Quốc gia [24].
- Ngân sách dành cho thư viện
Ngân sách Trung ương dành cho lưu trữ và thư viện thuộc lĩnh vực các Cơ
quan phúc lợi xã hội (Services d’intérêt sociale) chiếm từ 1,6 đến 2,6% ngân sách
Phúc lợi xã hội. Ngân sách Trung ương chi cho thư viện tăng dần từng năm, đặc biệt
trong hai năm 1944-1945. Tuy nhiên có thể nhận thấy ngân sách chi cho nhân lực thư
viện luôn cao gấp 2 đến 3 lần chi cho cơ sở vật chất (bao gồm toàn bộ các khoản chi
cho thư viện và lưu trữ). Điều này cho thấy phân bổ ngân sách cho cơ sở vật chất và
các hoạt động của thư viện chưa được quan tâm đầu tư thích đáng. Ngân sách chi cho
nhân sự chủ yếu tập trung cho nhân lực người Pháp và người Âu. Lực lượng nhân lực
này được giữ những vị trí việc làm cao cấp và hưởng chế độ lương, phụ cấp cao gấp
nhiều lần các nhân sự bản xứ (Bảng 2-1).
Mặt khác, ngân sách đầu tư cho phúc lợi xã hội ngày càng tăng nhưng tỉ lệ
ngân sách dành cho thư viện ngày càng thấp. Nếu so sánh ngân sách của lĩnh vực
phúc lợi xã hội với ngân sách của lĩnh vực kinh tế và khai thác công nghiệp thì con
số này không đáng kể (Bảng 2-1). Sự hạn chế ngân sách này bắt nguồn từ chính sách
ưu tiên đầu cho kinh tế và khai khoáng phục vụ trực tiếp cho nền kinh tế chính quốc .
66
Bảng 2-1: Ngân sách Đông Dương dành cho lưu trữ và thư viện (1929-1945)
Năm Nhân sự
thư viện-
lưu trữ
Cơ sở vật
chất thư
viện-lưu trữ
Tổng cộng ngân
sách cho thư viện
và lưu trữ
Tổng chi ngân
sách Phúc lợi
xã hội
Tỉ lệ % so với
tổng ngân sách
phúc lợi xã hội
1929 60 16 76 2 941 2,6
1930 65 19 84 3 514 2,4
1932 46 16 62 3 381 1,8
1933 52 17 69 2 803 2,5
1934 48 14 62 2 532 2,4
1935 38 13 51 2 471 2,1
1936 47 14 61 2 602 2,3
1937 48 16 64 3 146 2,0
1938 51 20 71 3 510 2,0
1939 61 23 84 3 920 2,1
1940 67 20 87 4 217 2,1
1941 70 24 94 4 062 2,3
1942 83 30 113 5 166 2,2
1943 85 32 117 6 902 1,7
1944 102 47 149 8 664 1,7
1945 150 59 209 12 816 1,6
Đơn vị: nghìn đồng Đông Dương (milliers piastre).
Nguồn: [37, tr.203, 204], [38, tr.269, 270], [39, tr.237, 238], [40,tr.219, 220], [41,
tr.239, 240], [42, tr.225, 226], [43, tr.241, 242], [44, tr.257, 258].
Bảng 2-2: Ngân sách Đông Dương dành cho 3 lĩnh vực: Phúc lợi xã hội,
kinh tế và khai thác công nghiệp (1929-1945) Năm Phúc lợi xã hội Kinh tế Khai thác công nghiệp
1929 2 941 3 841 7 426
1930 3 514 6 942 8 428
1932 3 381 7 759 7 322
1933 2 803 4 302 6 219
1934 2 532 2 316 5 681
1935 2 471 2 178 5 373
1936 2 602 2 250 6 052
1937 3 146 2 132 6 313
1938 3 510 2 463 7 868
1939 3 920 4 215 8 198
1940 4 217 5 964 8 631
1941 4 062 5 931 9 391
1942 5 166 5 747 10 449
1943 6 902 7 202 26 433
1944 8 664 10 977 14 257
1945 12 816 14 664 10 450
Đơn vị: Nghìn đồng Đông Dương (milliers piastre).
Nguồn: [37, tr.203, 204], [38,tr.269, 270], [39, tr.237, 238], [40,tr.219, 220], [41,
tr.239, 240], [42, tr.225, 226], [43, tr.241, 242], [44, tr.257, 258].
67
Hình 2-1: Ngân sách Đông Dương dành cho cho 3 lĩnh vực: Phúc lợi xã
hội, kinh tế và khai thác công nghiệp (1929-1945)
Đơn vị: Nghìn đồng Đông Dương (milliers piastre).
Nguồn: [37, tr.203, 204], [38,tr.269, 270], [39, tr.237, 238], [40,tr.219, 220], [41,
tr.239, 240], [42, tr.225, 226], [43, tr.241, 242], [44, tr.257, 258].
* Từ năm 1913 đến 1929 không có số liệu ngân sách dành cho thư viện và lưu trữ.
2.2.1.4. Nhân lực thư viện
- Cơ cấu nhân sự và chính sách tuyển dụng
Nhân lực thư viện giai đoạn này có những thay đổi lớn về chất và lượng so với
giai đoạn trước [49, tr.1941].
Cơ cấu nhân sự lưu trữ và thư viện thời kỳ này được chia thành hai ngạch:
ngạch bậc viên chức dàng cho người Pháp, người Âu và ngạch bậc viên chức dàng
cho người bản xứ [49], [77].
- Ngạch bậc viên chức lưu trữ và thư viện cho người Pháp và người Âu bao
gồm: quản thủ cao cấp; quản thủ bậc 1, 2, 3; lưu trữ - thư viện viên bậc 1, 2, 3; lưu
trữ - thư viện viên tập sự.
- Ngạch bậc viên chức người bản xứ bao gồm 3 hạng: Hạng 1: lưu trữ - thư
viện viên chính bản xứ bậc 1, 2, 3; lưu trữ - thư viện viên bản xứ bậc 1, 2, 3, 4, 5;
hạng 2: thư ký chính ngoại bậc; thư ký chính bậc 1, 2, 3, 4; thư ký bậc 1, 2, 3, 4, 5, 6;
thư ký tập sự; hạng thấp: chánh thừa phái bậc 1, 2, 3; thừa phái chính bậc 1, 2, 3, thừa
phái bậc 1, 2, 3; thừa phái tập sự.
68
Viên chức hạng 1 và 2 được tuyển vào các vị trí ổn định, viên chức hạng thấp
thường vào các vị trí không ổn định, nghĩa là có thể thay đổi theo nhu cầu của cơ
quan tuyển dụng. Đối với ngành thư viện và lưu trữ, viên chức bản xứ chỉ được bổ
nhiệm vào chức danh lưu trữ - thư viện viên (tức là viên chức hạng 1), các thư ký và
nhân viên chạy giấy đều là viên chức hạng 2 và hạng thấp. Riêng viên chức chạy giấy
trong các cơ quan lưu trữ và thư viện tuyển dụng ở chế độ không cố định. Đối với các
ngành nghề khác như bác sĩ và kỹ sư trong một số lĩnh vực như nông học, công chính,
điện báo vô tuyến có thể tuyển dụng viên chức bản xứ vào vị trí hạng cao cấp nhưng
chỉ là vị trí việc làm không cố định. Riêng cha cố và giáo viên cấp 1 (tiểu học), giáo
viên có bằng cử nhân hay bằng sư phạm thì được ở hạng cao cấp và vị trí việc làm ổn định.
Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương được lựa chọn trong số các
cựu sinh viên Trường Quốc gia pháp điển, có bằng lưu trữ cổ tự học (Nghị định ngày
29/11/1917). Phó Giám đốc cũng phải đạt tiêu chuẩn về bằng cấp như Giám đốc, hoặc
có bằng cử nhân Văn khoa. Các quản thủ thư viện chỉ được công nhận khi có Nghị
định tiếp nhận của Toàn quyền theo đề nghị của Viên Thủ hiến các kỳ sau khi đã
được Giám đốc Lưu trữ và thư viện xem xét về văn bằng.
Nhân sự của các cơ quan lưu trữ, thư viện của Đông Dương được phát triển
bằng hình thức tuyển trực tiếp và các nhân sự đến từ các cơ quan khác của Đông
Dương. Đối với viên chức người Âu, các lưu trữ - thư viện viên tập sự được tuyển
dụng trong số các cựu sinh viên Trường Quốc gia pháp điển; những người có bằng
cử nhân văn chương hay cử nhân luật [77]. Nhân sự bản xứ của Nha Lưu trữ và Thư
viện Đông Dương chỉ bao gồm một nhân sự hạng một, một hạng hai, một hạng thấp.
Viên chức người bản xứ thuộc các ngành khác từ các công sở ở Đông Dương chuyển
đến được hưởng nguyên lương theo ngạch bậc của họ.
Nhân sự người bản xứ được tuyển dụng với số lượng ít và điều kiện tuyển
dụng rất ngặt nghèo (Nghị định ngày 25/10/1930 của Toàn quyền Đông
Dương).Người được tuyển dụng phải là nam giới có bố là người Pháp, mẹ là người
gốc Á Đông Dương (hoặc mẹ của người được tuyển dụng có bố là người Pháp), những
69
công dân người Á (trừ Đông Dương) hoặc được người Pháp bảo trợ. Các ứng viên
được tuyển dụng vào các vị trí nhân sự người bản xứ của Nha Lưu trữ và Thư viện
Đông Dương phải từ 18 tuổi đến 25 tuổi, hoặc phải được chứng thực từ những cơ
quan làm việc trước đây (để đủ thâm niên hưởng các khoản lương hưu khi 55 tuổi).
Các viên chức hạng một và hai của bộ máy nhân sự bản xứ của Nha Lưu trữ
và Thư viện Đông Dương trước khi vào làm việc cần có các giấy tờ:
Giấy đảm bảo quốc tịch và hộ khẩu;
Bản sao bằng Cao đẳng tiểu học Pháp bản xứ, hoặc chứng chỉ Cao đẳng
tiểu học đối với cán bộ hạng hai, bằng tú tài đối với cán bộ hạng một;
Bản sao lý lịch tư pháp;
Giấy chứng nhận sức khỏe.
Các viên chức bậc thấp được tuyển mộ tùy thuộc vào nhu cầu của đơn vị, ưu
tiên đối với những người đã tham gia quân ngũ. Đối với người đã tham gia quân ngũ
trước khi gia nhập cơ quan lưu trữ và thư viện, nhân sự cần có xác nhận của cơ quan
quân sự.
Các thư ký tập sự được tuyển dụng trong số các ứng viên có bằng cao đẳng
tiểu học và đạt kết quả trong kỳ thi với chương trình và các điều kiện được Giám đốc
Nha Lưu trữ và Thư viện quyết định và được Toàn quyền Đông Dương thông qua [50].
- Sử dụng nhân lực
Việc thăng cấp cho nhân sự lưu trữ và thư viện chủ yếu là do tuyển chọn. Trong
giai đoạn tổ chức và xây dựng bộ máy nhân sự, viên chức làm trong các cơ quan ở
Đông Dương đủ một năm có thể được bổ nhiệm vào một vị trí mới thông qua một Ủy
ban bổ nhiệm của Toàn quyền Đông Dương. Việc bổ nhiệm và thăng cấp nhân sự
người bản xứ của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương được Toàn quyền Đông
Dương thông qua trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Nha Lưu trữ và thư viện Đông
Dương hoặc qua đề nghị của Trưởng phòng hành chính. Việc nâng bậc của các lưu
trữ-thư viện viên và các thư ký của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương hai phần
ba do tuyển chọn và một phần ba do có thâm niên.
70
Vị trí viên chức hạng cao nhất dành cho các các viên chức người Âu và người
Pháp. Không có viên chức bản xứ được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo hạng cao
nhất trừ ông Ngô Đình Nhu (bằng của Trường Đại học quốc gia pháp điển) được bổ
nhiệm làm Phó Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (1938).
Nhận định về chính sách sử dụng nguồn nhân lực của chính quyền thuộc địa,
Pinto cho rằng "Trong tất cả giai đoạn bảo hộ, một nguyên tắc chính được áp dụng là
không một người dân Việt nào, dù cho có đầy đủ khả năng chuyên môn ấy đi nữa, lại
có thể giữ một chức vụ cao cấp trong tổ chức hành chính Đông Dương: có trường
hợp những người tốt nghiệp với thứ hạng cao sau khi theo học các trường danh tiếng
ở Pháp, khi trở về đã phải làm việc dưới quyền những người Pháp có kiến thức chuyên
môn thấp kém hơn, và chỉ được trả lương bổng bằng một phần năm lương trả cho một
người Pháp làm cùng một việc" [1, tr.148].
Đặc biệt, các viên chức nữ người Âu có quyền được đảm nhận các vị trí làm
việc trong các cơ quan của Đông Dương như ở chính quốc, điều này không được thực
hiện đối với phụ nữ người bản xứ, trong đó có phụ nữ Việt Nam [77].
Có thể nói, chính sách sử dụng nhân lực nói chung và nhân lực thư viện nói
riêng giai đoạn này chịu ảnh hưởng của chính sách nô dịch của chính quyền thuộc
địa. Theo đó, nhân lực người bản xứ chủ yếu được sử dụng trong những vị trí công
việc hạng thấp, chế độ lương bổng cũng thể hiện rõ nét sự phân biệt đối xử của chính
quyền thuộc địa đối với người bản xứ. Tuy nhiên, ưu điểm của chính sách sử dụng
nhân lực theo ngạch bậc là thiết lập những tiêu chí rõ ràng cho từng vị trí việc làm.
- Chế độ đãi ngộ
Chế độ đãi ngộ đối với nhân lực thư viện có sự phân biệt lớn giữa người Âu,
người Pháp và người bản xứ, thể hiện qua chế độ lương bổng, phụ cấp và kỷ luật.
+ Lương bổng
Các nghị định của Toàn quyền Đông Dương từ năm 1921-1929 qui định cấp
bậc và lương của người Âu và người bản xứ khác nhau. Cấp bậc, lương bổng và sự
sắp xếp giữa các chức danh cấp bậc và sắp xếp nhân sự người Âu trong các cơ quan
Lưu trữ và Thư viện được xác định trong Bảng 2-3.
71
Bảng 2-3: Bảng qui định cấp bậc và lương của các vị trí việc làm của viên chức
người Âu trong Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương
Cấp bậc sắp xếp Lương
(phờ - răng)/năm
Quản thủ cao cấp 16 000
Quản thủ bậc 1 14 000
Quản thủ bậc 2 12 000
Quản thủ bậc 3 11 000
Lưu trữ - thư viện viên bậc 1 10 000
Lưu trữ - thư viện viên bậc 2 9 000
Lưu trữ - thư viện viên bậc 3 8 000
Lưu trữ - thư viện viên tập sự 7 000
Nguồn: [77].
Các viên chức người Âu trong các ngành khác trong bộ máy hành chính Đông
Dương cũng được hưởng lương theo qui định tương tự.
Đối với nhân sự người bản xứ, Nghị định ngày 25/10/1930 của Toàn quyền
Đông Dương qui định bậc và vị trí tương đương với lương của viên chức thư viện
người bản xứ trong Bảng 2-4.
Bảng 2-4: Bảng qui định cấp bậc và lương của các vị trí việc làm của viên chức
bản xứ trong Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương
(Viên chức hạng 1)
Bậc và vị trí Lương
(phờ-
răng/năm)
Thời gian tối thiểu để
được nâng bậc
Lưu trữ - thư viện viên chính bản xứ bậc 1 3 000
Lưu trữ - thư viện viên chính bản xứ bậc 2 2 736 4 năm
Lưu trữ - thư viện viên chính bản xứ bậc 3 2 472 3 năm
Lưu trữ - thư viện viên bản xứ bậc 1 2 196 3 năm
Lưu trữ - thư viện viên bản xứ bậc 2 1 920 3 năm
Lưu trữ - thư viện viên bản xứ bậc 3 1 644 3 năm
Lưu trữ - thư viện viên bản xứ bậc 4 1 512 2 năm
Lưu trữ - thư viện viên bản xứ bậc 5 1 380 2 năm
Nguồn: [50].
Có thể thấy sự khác biệt lớn giữa lương của viên chức thư viện người Âu và
người bản xứ. Lương của lưu trữ - thư viện viên bậc thấp người Âu cao gấp 2,3 lần
lương của Lưu trữ - thư viện viên chính bậc 1, hạng 1 người bản xứ (7.000 phờ - răng
72
so với 3.000 phờ - răng). Lương của lưu trữ thư viện viên bậc 1 người Âu cao gấp
hơn 4,5 lần so với chức danh lưu trữ -thư viện viên bản xứ bậc 1, hạng 1 (10.000 phờ
- răng so với 2.196 phờ - răng).
Lương của lưu trữ - thư viện viên bản xứ thấp hơn so với lương của viên chức
bản xứ của một số ngành khác như y tế và công nghiệp [Phụ lục 3, tr. 170].
+ Phụ cấp
Chế độ phụ cấp và lương hưu áp dụng đối với nhân sự người bản xứ trong thư
viện cũng giống trong các cơ quan Trung ương và các cơ quan địa phương ở Đông
Dương (Nghị định 29/12/1913, 18/2/1914 và 9/7/1925 của Toàn quyền Đông Dương)
nhận từ Quĩ Trợ cấp dân sự bản xứ. Trợ cấp hưu đối với các cán bộ, nhân viên bản
xứ, trong đó có cán bộ, nhân viên lưu trữ và thư viện bao gồm: trợ cấp thâm niên
(thấp nhất: 90 phờ - răng/năm); viên chức bị tàn phế, mất khả năng lao động trước 20
tuổi được hưởng 25% lương (thấp nhất là 72 phờ - răng/năm), sau 20 tuổi hưởng 25
% lương (mức thấp nhất là 90 phờ - răng/năm); trợ cấp cho con (10 phờ - răng/năm/1
con, với nhiều nhất là 3 con).
Lưu trữ - thư viện viên, thư ký và chạy giấy tập sự chỉ được hưởng chế độ
lương hưu khi được tuyển dụng vĩnh viễn. Thời gian liên tục công tác được tính trong
suốt quá trình làm việc kể cả thời gian tập sự. Chế độ này được tiến hành xem xét
trong thời gian 1 năm trước khi viên chức nghỉ hưu. Khoản lương hưu này tương
đương 6% của khoản tiền nhận được trong quá trình làm việc của viên chức [77].
+ Kỷ luật
Có 4 hình thức kỷ luật đối với viên chức lưu trữ và thư viện bản xứ [77]:
Khiển trách;
Khiển trách và ghi trong hồ sơ viên chức kèm theo kéo dài thời gian
nâng bậc trong 1 năm;
Hạ bậc vị trí công tác;
Cách chức.
73
Hai hình thức kỷ luật đầu đối với nhân sự bản xứ do Giám đốc cơ quan lưu trữ
và thư viện hoặc Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương công bố sau khi
có ý kiến của một Ban điều tra được Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm (bao gồm:
1 viên chức người Âu của Nha làm chủ tịch, 1 viên chức của Phòng Tổ chức cán bộ,
1 viên chức bản xứ cùng ngạch, làm Ủy viên). Trong trường hợp việc xem xét kỷ luật
có những chi tiết dẫn đến Ban điều tra không thể kết luận theo khung kỷ luật thì có
thể đệ trình lên Toàn quyền Đông Dương xem xét quyết định.
Hình thức kỷ luật hạ bậc vị trí công tác hoặc cách chức do Toàn quyền Đông
Dương quyết định theo đề nghị của Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện. Những viên
chức bị hạ bậc chỉ có thể được đề nghị nâng bậc khi đảm bảo những điều kiện về
thâm niên và không tiếp tục vi phạm. Nếu các viên chức đang theo lớp thực tập thư
ký tập sự có thể bị ngừng học theo đề nghị của Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện
và được Toàn Quyền Đông Dương thông qua [77].
Có thể nói, Pháp là một đất nước có nền công nghiệp phát triển từ rất sớm.
Chính vì vậy, kỷ luật lao động được coi là một trong những yếu tố quyết định hiệu
quả và chất lượng lao động. Những hình thức kỷ luật lao động của chính quyền thuộc
địa áp dụng vào Đông Dương đã thay đổi phong cách của người lao động, vốn xuất
thân từ một nước nông nghiệp Á Đông kém phát triển. Những qui định này có nhiều
điểm tương đồng với những qui định về khen thưởng, kỷ luật hiện hành.
- Đào tạo nguồn nhân lực thư viện
Chương trình đào tạo và thi tuyển vào vị trí nhân sự thư viện thời Pháp thuộc
thể hiện những ưu điểm lớn trong việc xây dựng nguồn nhân lực trong các thư viện.
Đào tạo nguồn nhân lực thư viện được thực hiện theo hai phương thức [49]: Đào tạo
chính ngạch tại Trường quốc gia pháp điển. Người bản xứ có rất ít cơ hội được đào
tạo tại Pháp do điều kiện kinh tế hạn hẹp. Đào tạo tại chỗ do Nha Lưu trữ và Thư viện
Đông Dương chịu trách nhiệm từ thiết kế chương trình đến đào tạo trực tiếp.
Trước tình trạng thiếu nhân viên người bản xứ làm việc trong các thư viện,
Boudet đã tìm ra giải pháp đào tạo tại chỗ các các vị trí thư ký - lưu trữ - thư viện cho
tất cả các xứ thuộc Đông Dương. Đối tượng đào tạo chỉ lấy trong số các thư ký tập
74
sự hoặc thư ký chính thức của các cơ quan thuộc bộ máy hành chính của chính quyền
thuộc địa (Nghị định ngày 25/10/1930 của Toàn quyền Đông Dương). Trong thời
gian đào tạo, họ được hưởng nguyên lương và phụ cấp của các của cơ quan đã cử họ
đi tham gia đào tạo. Thời gian đào tạo của mỗi khóa được ấn định từ ngày 1/4 đến
30/9 hàng năm. Mặc dù thời gian đào tại tại chỗ trong sáu tháng nhưng chương trình
đã giới thiệu khá đầy đủ cả lý luận và thực tiễn nghiệp vụ thư viện. Danh sách học
viên mỗi khóa được ấn định không quá 20 người.
Chương trình đào tạo nghiệp vụ thư viện bao gồm bốn phần: Phần một bao
gồm những kiến thức lịch sử, sách, chữ viết và xuất bản; Phần hai gồm những kiến
thức nghiệp vụ thư viện: chu trình xử lý sách, cách sắp xếp tổ chức kho, vệ sinh bảo
quản sách và kho tàng, các hình thức phục vụ độc giả; Phần ba gồm hình thức và tổ
chức thư viện, giới thiệu lịch sử thư viện Pháp, Mỹ và Đức - những quốc gia có sự
nghiệp thư viện phát triển; bổ sung tài liệu, thực hành về trụ sở trang thiết bị thư viện,
hoạt động của các thư viện địa phương, thư viện trong các cơ quan và thư viện lưu
động; công tác kế toán và tài chính; Phần cuối gồm những kiến thức về thư mục và
thư mục Đông Dương: khái niệm thư mục, vai trò của thư mục, nguyên tắc biên soạn
thư mục của Pháp và nước ngoài, nguyên tắc biên soạn những ấn phẩm, những cuốn
sách quan trọng phục vụ nghiên cứu Đông Dương và thư mục sách; dịch vụ tra cứu,
giới thiệu những ấn phẩm định kỳ cơ bản ở Đông Dương [Phụ lục 6, tr. 179].
Các kỳ thi hết khóa đào tạo được tổ chức vào tuần thứ nhất của tháng 10 bao
gồm: ba môn lý thuyết (cả nói và viết) có nội dung về sắp xếp tài liệu, thư viện học,
những khái niệm về tổ chức hành chính ở Đông Dương; các môn thi thực hành có nội
dung về sắp xếp tài liệu cụ thể và biên mục thống kê, quản lý thư viện, biên mục
phiếu, phân loại tài liệu và biên soạn thư mục [Phụ lục 4, tr. 172]. Hội đồng Giám
khảo gồm ba người do Giám đốc Nha Lưu trữ - Thư viện Đông Dương làm chủ tịch,
một người là viên chức của Nha, người thứ ba là viên chức của cơ quan ngoài [50].
Nhìn chung, chương trình đào tạo bao gồm cả lý thuyết và thực hành nhưng
kỹ năng thực hành chiếm tỉ lệ lớn hơn. Việc tổ chức các khóa đào tạo theo cách thức
này giúp học viên những phương pháp làm việc như ở chính quốc.
Các khóa đào tạo được tổ chức đều đặn và ngày càng mở rộng, thu hút nhiều
học viên từ các cơ quan hành chính ở Đông Dương tham gia. Từ năm 1931 đến năm
75
1943, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã đào tạo được 190 nhân viên lưu trữ
và thư viện.
So với giai đoạn trước năm 1917, tổ chức thư viện kể từ sau khi thành lập Nha
Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã có những thay đổi lớn. Tổ chức thư viện đã
được chính quyền thuộc địa quan tâm quản lý bằng các văn bản pháp qui. Chính
quyền thuộc địa đã có định hướng về việc công nhận các thư viện đủ điều kiện trở
thành thư viện công cộng. Các thư viện tổ chức theo mô hình của Thư viện Trung
ương Đông Dương. Nhìn chung, tổ chức mạng lưới chưa gắn kết thành hệ thống, các
thư viện vẫn hoạt động độc lập, dùng kinh phí tự chủ của địa phương và cơ quan chủ quản.
2.2.2. Hoạt động thư viện
2.2.2.1. Xây dựng và phát triển vốn tài liệu
- Cơ cấu vốn tài liệu
Vốn tài liệu của các thư viện thời kỳ này được bổ sung từ nhiều nguồn khác
nhau. Thư viện Trung ương Đông Dương và Thư viện Sài Gòn dù có cách tổ chức và
hoạt động tương đồng nhưng không có nguồn bổ sung giống nhau vì thuộc các cơ
quan chủ quản khác nhau. Thư viện Trung ương Đông Dương có nguồn bổ sung từ
việc mua đều đặn, từ Phủ Toàn quyền và các công sở, nguồn tặng biếu và đặc biệt là
nguồn nộp lưu chiểu. Các thư viện thành lập ở một số tỉnh (Huế, Hải Phòng, Bắc
Ninh), vốn tài chủ yếu dựa vào nguồn mua, kinh phí hoạt động từ ngân sách của
địa phương.
Vốn tài liệu của các thư viện được bổ sung chủ yếu có nội dung liên quan đến
Đông Dương. Bên cạnh đó là các tư liệu quí hiếm bằng tiếng Anh và Pháp về những
vấn đề xã hội của Mỹ và Nhật Bản, Viễn Đông, Ấn Độ, Trung Quốc, vấn đề thuộc
địa và hòa bình thế giới và các loại từ điển, luật.
Thư viện Trung ương Đông Dương và Thư viện Trường Viễn Đông bác cổ là
hai thư viện có nội dung tài liệu phong phú nhất, đặc biệt là những tài liệu về Viễn
Đông: chỉ dẫn về ngôn ngữ học Đông Dương, thư mục thực vật châu Á, điêu khắc
Ấn độ, Trung Quốc, các bản sách chép tay từ năm 1875.
76
Vốn tài liệu của các thư viện tiếp tục được bổ sung thường xuyên và cập nhật
những thay đổi của tư tưởng hiện đại, những tài liệu quí có nội dung tổng hợp (Bách
khoa thư về y học, nghệ thuật của Pháp, từ điển kỹ thuật). Bằng việc bổ sung bằng
kinh phí ưu tiên cũng như một số nguồn khác, chính quyền thuộc địa tham vọng
xây dựng Thư viện Trung ương Đông Dương trở thành một thư viện bách khoa.
Tuy nhiên, do bị chi phối bởi chính sách thuộc địa, việc bổ sung vốn tài liệu
của các thư viện thời kỳ này không cân đối. Ví dụ: Thư viện Trung ương Đông Dương
có sự chênh lệch lớn về thành phần vốn tài liệu giữa các lĩnh vực khoa học. Sách văn
học chiếm tỷ lệ cao nhất (gần 50% vốn sách). Hàng năm, tỉ lệ bổ sung giữa các lĩnh
vực tương tự như nhau thể hiện rõ mục đích của chính quyền thuộc địa trong việc gây
ảnh hưởng văn hóa, kích thích nhu cầu giải trí, không quan tâm đến phát triển khoa
học kỹ thuật (Bảng 2-5).
Hình 2-2: So sánh tỉ lệ các lĩnh vực trong vốn tài liệu của Thư viện
Trung ương Đông Dương
Nguồn: [103].
0 20000 40000 60000
Văn học
Ấn phẩm định kỳ
Triết học
Toán học
Khoa học
Luật
Ngữ văn học
Thể thao
Địa lý
Tiểu sử
Thời sự
Viễn Đông
Lịch sử
Nghệ thuật
Giáo dục học, du lịch, tôn giáo, nông …
1941-1942 Số lượng (cuốn) 1940-1941 Số lượng (cuốn)
77
Bảng 2-5: Thống kê so sánh tỉ lệ các lĩnh vực trong vốn tài liệu
Các chủ đề 1940-1941 1941-1942
Số lượng (cuốn) Tỷ lệ % Số lượng (cuốn) Tỉ lệ %
Văn học 45 250 46,65 53 489 49,44
Ấn phẩm định kỳ 7 962 8,20 7 642 7,06
Triết học 6 581 6,78 7 049 6,51
Toán học 6 067 6,25 6 733 6,22
Khoa học 6 065 6,25 6 074 5,62
Luật 5 879 6,06 6 123 5,65
Ngữ văn học 2 170 2,23 2 091 1,96
Thể thao 2 143 2,23 2 744 2,56
Địa lý 2 137 2,23 2 213 2,04
Tiểu sử 2 013 2,07 2 137 1,97
Thời sự 1 911 1,97 1 784 1,63
Viễn Đông 1 824 1,89 2 084 1,93
Lịch sử 1 482 1,52 1 585 1,46
Nghệ thuật 1 331 1,37 1 678 1,55
Giáo dục học, du lịch, tôn giáo,
nông nghiệp và vệ sinh
4 182 4,30 4 762 4,40
Tổng cộng: 96 997 108 188
Nguồn: [103].
- Phương thức bổ sung
Vốn tài liệu của các thư viện được bổ sung bằng phương thức phải trả tiền và
không phải trả tiền (bao gồm biếu tặng, cung cấp hành chính, trao đổi). Riêng Thư viện
Trung ương Đông Dương có thêm phương thức bổ sung là nhận lưu chiểu.
+ Phương thức phải trả tiền
Có thể trực tiếp đặt mua sách tại các nhà sách ở địa phương hoặc đặt mua tại
nước ngoài qua danh mục của các nhà sách.
+ Phương thức không phải trả tiền
Phương thức cung cấp hành chính và biếu tặng được thực hiện từ các cơ quan
hành chính địa phương và các văn phòng lớn về sách.
78
Phương thức trao đổi được thực hiện giữa các thư viện hoặc giữa thư viện với
các nhà khoa học và các trường đại học. Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương thực
hiện thường xuyên việc trao đổi sách và ấn phẩm định kỳ với các cơ quan ở Đông
Dương như Phủ Khâm sứ Trung Kỳ, Phủ thống sứ Lào, Phủ Thống đốc - Toàn quyền
Nam Kỳ, Ban hoạt động kinh tế của Phủ Toàn quyền Đông Dương, Trường Trung
học bổ túc Vinh.
+ Phương thức lưu chiểu
Trước khi Thư viện Trung ương Đông Dương ra đời (1917), chế độ lưu chiểu
chưa được quy định rõ ràng. Trường EFEO được nhận lưu chiểu từ các nhà xuất bản
ở Đông Dương dựa vào Thông tư 3/7/1900 của Toàn quyền Đông Dương Paul
Doumer [24].
Đến ngày 31/1/1922, Toàn quyền Đông Dương đã ban hành chính sách mới
về lưu chiểu qui định tập trung quản lý công tác lưu chiểu về Nha Lưu trữ và Thư
viện Đông Dương. Chế độ lưu chiểu ở Đông Dương được soạn thảo trên cơ sở
Luật Báo chí (29/7/1881). Theo đó, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương chịu
trách nhiệm:
Chuyển mỗi xuất bản phẩm một bản tới Bộ Nội vụ và Thư viện Quốc
gia Pháp;
Gửi số bản còn lại tại Thư viện Trung ương Đông Dương;
Soạn thảo danh mục các xuất bản phẩm lưu chiểu và gửi đăng trên Công
báo Đông Dương (Journal officiel de l’Indochine).
Tác giả phải nộp 2 bản cho văn phòng của Chính quyền tỉnh đối với mỗi tỉnh,
vào tòa Đốc lý của mỗi thành phố đối với những thành phố được hưởng chế độ là
thành phố ngoài các chính quyền Trung ương các xứ và tỉnh. Tác giả sẽ được nhận từ
viên chức của văn phòng nhận lưu chiểu giấy xác nhận cho phép lưu hành xuất bản
phẩm. Các văn phòng lưu chiểu, cũng như các cơ quan hành chính nêu trên sẽ gửi
cho Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương vào cuối mỗi tháng những xuất bản phẩm
lưu chiểu và một bảng kê chi tiết.
Từ năm 1922, Thư viện Trung ương Đông Dương chịu trách nhiệm bảo quản
tất cả các sách tiếng Pháp và Đông Dương công bố ở các nước thuộc địa và gửi lưu
chiểu các xuất bản phẩm này đến Thư viện Quốc gia Pháp.
79
Thư viện Trung ương Đông Dương là thư viện duy nhất trong mạng lưới thư
viện ở Đông Dương được quyền nhận lưu chiểu các xuất bản phẩm xuất bản ở Đông
Dương, làm nên sự khác biệt của Thư viện Trung ương Đông Dương với các thư viện
cùng thời kỳ. Điều đó đảm bảo vốn tài liệu tăng trưởng một cách ổn định, lâu dài và
phong phú về thể loại, góp phần đưa Thư viện Trung ương Đông Dương trở thành
một thư viện lớn và quan trọng nhất của Đông Dương thời kỳ này.
Từ năm 1928 đến 1935, số lượng sách lưu chiểu trên toàn Đông Dương tăng
đáng kể (Bảng 2-6). Các báo cáo của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương không
thể hiện con số lưu chiểu của Lào gửi đến Thư viện Trung ương Đông Dương cho
thấy hoạt động in ấn trên đất nước này không được quan tâm. Trong đó, số lượng
sách gửi lưu chiểu của Việt Nam vẫn chiếm số lượng lớn nhất trong các nước Đông
Dương (luôn chiếm từ 94% đến 96% tổng số sách lưu chiểu). Việc mất cân đối giữa
các vùng miền còn thể hiện ở ba kỳ của Việt Nam. Số lượng sách lưu chiểu ở Nam
Kỳ và đặc biệt là Bắc Kỳ luôn lớn hơn so với ở Trung Kỳ. Cụ thể, trong một số năm
nghiên cứu (1934-1939), dù tổng số lượng sách lưu chiểu trên toàn Đông Dương biến
động nhiều nhưng tỷ lệ sách lưu chiểu ở Bắc Kỳ so với tổng số sách lưu chiểu tăng
liên tục từ 47% (1934) lên 55% (1939). Trong khi đó, dù cũng chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng số sách lưu chiểu ở Đông Dương, nhưng tỷ lệ sách lưu chiểu của Nam Kỳ
liên tục giảm từ 43% (1934) xuống 35% (1939). Có thể cho rằng, việc ra đời của Nha
lưu trữ và Thư viện Đông Dương đặt tại Hà Nội (Bắc Kỳ) đã chứng tỏ vai trò của
mình trong hoạt động lưu chiểu ở toàn Đông Dương.
Bảng 2-6: Số lượng sách lưu chiểu trên toàn Đông Dương
từ 1928 đến 1935
Năm 1928 1929 1930 1931 1932 1933 1934 1935 1937 1938 1939
Số bản gửi
lưu chiểu
1272 1070 861 751 995 804 852 1069 944 903 846
Nguồn: [91], [93].
Báo chí nộp lưu chiểu tăng đều từ khi có chế độ lưu chiểu và nhất là từ sau
năm 1936 (Bảng 2-7). Tuy nhiên, lưu chiểu báo định kỳ có dấu hiệu giảm rõ rệt trong
năm 1942 do tình trạng thiếu giấy. Số lượng in ấn hàng năm giảm, cụ thể, báo giảm
20,3%, tập san giảm 7,4%, xuất bản phẩm giảm 12,1%.
80
Bảng 2-7: In ấn phẩm định kỳ của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Đương
Tên loại ấn phẩm 1937 1938 1939
Báo 118 132 136
Bản tin và tạp chí 186 195 216
Xuất bản in hàng năm 153 156 165
Đơn vị: Tên loại ấn phẩm.
Nguồn: [91].
Trong những năm 1943, 1944, số ấn phẩm nộp lưu chiểu chủ yếu bằng tiếng
Pháp và tiếng Việt (Niên giám thống kê năm 1943-1944 (Annuaire statistique de
l’Indochine)). Bên cạnh việc số lượng ấn phẩm bằng tiếng Pháp chiếm tỷ lệ cao nhất,
số lượng ấn phẩm tiếng Việt cũng chiếm tỷ lệ áp đảo so với các ngôn ngữ khác trong
khu vực (Bảng 2-8). Qua đó, có thể thấy chính sách phát triển vốn tài liệu, in ấn và
xuất bản của chính quyền thuộc địa tập trung vào Việt Nam.
Bảng 2-8: Số lượng ấn phẩm định kỳ bằng các ngôn ngữ nộp lưu chiểu năm
1943-1944
Ngôn ngữ 1943 1944
Báo
Tiếng Pháp 38 28
Tiếng Việt 25 20
Campuchia 1 1
Thái đen 1 0
Trung Quốc 1 5
Pháp và Lào 1 1
Pháp và Việt Nam 1 1
Bản tin, tạp chí
Tiếng Pháp 79 69
Tiếng Việt 47 43
Campuchia 3 3
Trung Quốc 1 1
Song ngữ 15 13
Ấn phẩm không định kỳ
Tiếng Pháp 307 272
Tiếng Việt 267 274
Đơn vị: Tên loại.
Nguồn: [44].
81
Nhìn chung các phương thức bổ sung tài liệu này đã được các thư viện thực
hiện hiệu quả, tiêu biểu là Thư viện Trung ương Đông Dương, qua thống kê chi tiết
của 3 thư viện công cộng tiêu biểu cho ba kỳ (Bảng 2-9).
Từ khi Chế độ lưu chiểu có hiệu lực, vốn tài liệu của Thư viện Trung ương
Đông Dương gia tăng đáng kể từ nguồn này. Nếu trong những năm 1924-1925, tỷ lệ
vốn tài liệu bổ sung có nguồn gốc từ lưu chiểu chỉ tương đương với vốn tài liệu bổ
sung từ nguồn biếu tặng (382 bản, tương đương 7,6%) thì trong những năm tiếp theo,
tỷ lệ này không ngừng gia tăng.
Có những lúc cao điểm, tỷ lệ vốn tài liệu từ nguồn lưu chiểu đạt đến gần 40%
(năm 1941-1942). Xét cả giai đoạn từ năm 1924 đến 1943, tỷ lệ vốn tài liệu bổ sung
từ nguồn lưu chiểu tăng hơn 4 lần (từ 382 bản (7,6%) lên 1433 bản (32%)). Qua đó,
có thể thấy, bên cạnh nguồn bổ sung vốn tài liệu từ việc mua, nguồn bổ sung từ lưu
chiểu ngày càng trở nên quan trọng, giúp việc giảm chi phí cho việc mua bổ sung tài
liệu. Nếu trong giai đoạn đầu, nguồn bổ sung vốn tài liệu chủ yếu từ nguồn mua (85%
năm 1924), thì những năm tiếp theo, tỷ lệ này đã được giảm dần. Đến năm 1942-
1943, nguồn bổ sung vốn tài liệu từ nguồn mua giảm một nửa (còn 43% năm 1943).
Bên cạnh đó, việc xã hội hóa thư viện được ngày càng phát huy. Nguồn tài liệu bổ
sung từ nguồn biếu tặng cũng gia tăng nhanh chóng trong giai đoạn này (từ 7% trong
năm đầu lên đến gần 30% trong những năm tiếp theo (1940, 1941, 1942)) (Bảng 2-9).
Bảng 2-9: Vốn tài liệu bổ sung của Thư viện Trung ương Đông Dương Năm Mua Biếu tặng Lưu chiểu Tổng số
1924-1925 4 305 360 382 5 047
1935-1936 2 571 260 1 197 4 882
1937-1938 2 967 205 1 913 5 085
1939-1940 3 285 663 1 612 5 560
1940-1941 1 585 1 031 854 3 470
1941-1942 913 809 1 075 2 797
1942-1943 1 928 1 120 1 433 4 481
Đơn vị: Bản.
Nguồn: [91], [92], [94], [102], [103].
82
Nếu không tính nguồn bổ sung vốn tài liệu từ lưu chiểu, tổng số vốn tài liệu
bổ sung của Thư viện Trung ương Đông Dương vẫn lớn hơn tổng số vốn tài liệu bổ
sung của Thư viện Nam Kỳ và đặc biệt là Thư viện Trung Kỳ. Giai đoạn đầu, có
những thời điểm, vốn tài liệu bổ sung hàng năm, không kể từ lưu chiểu, của Thư viện
Trung ương Đông Dương lớn gấp hơn 5 lần nguồn bổ sung vốn tài liệu của Thư viện
Nam Kỳ (2831 bản so với 539 bản năm 1935-1936). Ngay cả đến những giai đoạn
phát triển về sau, vốn tài liệu bổ sung của Thư viện Nam kỳ cũng chỉ đạt từ 60% đến
85% của Thư viện Trung ương Đông Dương.
Bảng 2-10: Số lượng sách mua, biếu tặng của Thư viện Trung Kỳ và Nam Kỳ
Năm Trung Kỳ Nam Kỳ
Mua Biếu
tặng
Tổng số Mua Biếu
tặng
Tổng số
1924-1925 250
1935-1936 130 529 529
1939-1940 52
1940-1941 974 193 1 167
1941-1942 1 142 316 1 458
1942-1943 114 139 253 1 601 282 1 883
1943-1944 1 329 71 1 400 596 309 905
Đơn vị: Bản.
Nguồn: [91], [94], [102].
- Kinh phí bổ sung vốn tài liệu
Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương 29/11/1917, việc bổ sung sách
mới hoặc bất kỳ loại xuất bản phẩm nào được lấy từ nguồn kinh phí tu bổ và làm cơ
sở mới [49]. Trong quá trình bổ sung tài liệu, hàng năm thư viện dành kinh phí thường
xuyên cho việc mua, đóng sách cũng như đóng bìa để bảo quản sách phục vụ lâu dài,
đặc biệt đối với những sách có bìa mỏng. Thư viện Trung ương Đông Dương là thư
viện thực hiện tốt nhất công tác bảo quản tài liệu (Bảng 2-11).
Ngay sau khi thành lập Thư viện Trung ương Đông Dương, nguồn kinh phí
dành cho việc bổ sung vốn tài liệu tăng đột biến. Năm 1919, nguồn kinh phí rót cho
Thư viện Trung ương Đông Dương tăng 800% (từ 500 đồng Đông Dương lên 4.000
đồng). Giai đoạn tiếp theo, từ năm 1919 đến 1932, nguồn kinh phí bổ sung vốn tài
liệu ổn định và tăng đều quanh mức 5.000–9.000 đồng Đông Dương. Kinh phí dành
83
cho việc mua sách và đóng sách cũng được phân phối theo tỷ lệ ổn định, không có
nhiều đổi. Kinh phí dành cho việc mua sách trong cả giai đoạn này chiếm từ 75% đến
80% tổng kinh phí của Thư viện Trung ương Đông Dương. Suy thoái kinh tế thế giới
cũng ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn kinh phí dành cho việc bổ sung vốn tài liệu. Sau
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào những năm đầu của thập kỷ 30 của thế kỷ XX,
kinh phí dành cho việc bổ sung vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương
bị chững lại trong 4 năm (từ 1933 đến 1936). Kinh phí dành cho việc bổ sung vốn tài
liệu của những năm này chỉ tương đương với những năm 1920-1926.
Bảng 2-11: Kinh phí mua sách và đóng sách của Thư viện Trung ương Đông
Dương 1918-1937
Năm Kinh phí
mua sách
Kinh phí
đóng sách
Tổng cộng
1918 500
1919 4 000
1920 4 000 1 000 5 000
1921 4 000 1 000 5 000
1922 4 000 1 000 5 000
1923 4 000 1 000 5 000
1924 5 000 2 000 7 000
1925 5 000 2 000 7 000
1926 5 000 1 600 6 600
1927 5 000 2 000 7 000
1928 6 000 1 400 7 400
1929 6 000 2 000 8 000
1930 6 000 1 500 7 500
1931 7 000 2 000 9 000
1932 7 100 2 000 9 100
1933 6 500 2 000 8 500
1934 6 500 2 000 8 500
1935 5 000 1 500 6 500
1936 5 000 1 500 6 500
1937 5 500 2 000 7 500
Đơn vị: Đồng Đông Dương.
Nguồn: [99].
84
Hình 2-3: Kinh phí mua sách và đóng sách của Thư viện Trung ương Đông Dương
Đơn vị: Đồng Đông Dương.
Nguồn: [99].
- Phát triển vốn tài liệu
Với các phương thức bổ sung khác nhau, các thư viện thời kỳ Pháp thuộc đã
xây dựng được vốn tài liệu tương đối lớn, tiêu biểu là Thư viện Trung ương Đông
Dương, Thư viện Sài Sòn và Thư viện Trường Viễn Đông bác cổ (Bảng 2-12).
Tổng số vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương có tốc độ tăng
nhanh, liên tục trong giai đoạn 1920 – 1940. Nếu như năm 1920, tổng số vốn tài liệu
của Thư viện Trung ương Đông Dương chỉ là 9.000 cuốn thì đến năm 1940 số vốn
này đã tăng gấp gần 10 lần (87.397 cuốn). Trong những năm đầu của giai đoạn 1920
– 1940, tổng số vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương có tốc độ tăng
đặc biệt nhanh. Tổng số vốn tài liệu này tăng gấp hai lần trong 4 năm (từ 1920 -
1924). Sau đó chỉ cần 3 năm tiếp theo, tổng số vốn tài liệu này đã tăng gấp 3 lần (từ
1924 đến 1927), 4 lần (từ 1927 đến 1930) so với số lượng ban đầu. Sau đó tốc độ tăng
trưởng vốn tài liệu vẫn tăng, tuy nhiên do gặp những vấn đề về khủng khoảng kinh tế
nên không còn giữ được nhịp độ như trước. Nhìn chung trong 20 năm (từ 1920 –
1940), trung bình mỗi năm Thư viện Trung ương Đông Dương bổ sung gần 4000
cuốn vào vốn tài liệu của mình.
85
Bảng 2-12: Vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương và Thư viện
Sài Gòn
Năm Thư viện Trung ương
Đông Dương
Thư viện Sài Gòn
1920 11 228
1921 14 501
1922 16 614
1923 18 704 7 640
1924 22 886 8 963
1925 27 933 10 091
1926 32 546 11 438
1927 35 798 13 422
1928 40 447 15 741
1929 46 508 25 934
1930 52 218 27 444
1931 55 989 28 722
1932 60 375 29 722
1933 64 022 30 233
1934 69 144 30 520
1935 73 436 32 554
1936 78 073 33 286
1937 83 067 34 461
1938 88 152 38 422
1939 92 613 41 794
1940 98 173 44 209
1941 101 643 45 376
1942 104 440 47 259
1943 108 921 48 164
Đơn vị: Bản.
Nguồn: [96], [98].
Thực dân Pháp xây dựng một nền kinh tế thuộc địa mất cân đối trong các
ngành, các lĩnh vực và mất cân đối cả phạm vi vùng miền. Trung Kỳ không được
chính quyền thuộc địa quan tâm. Kinh phí dành cho phát triển vốn tài liệu và cơ sở
vật chất của thư viện Trung Kỳ không được ưu tiên như Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Cho đến
năm 1943, vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương đã đạt đến 108.921
bản, thư viện Sài Gòn là 48.164 bản, trong khi vốn tài liệu của Thư viện Trung Kỳ
mới đạt con số 4.156 bản [96], [98].
Trong số các thư viện thời kỳ này, Thư viện Trường Viễn Đông bác cổ là thư
viện có vốn tài liệu tương đối lớn. “Theo Malleret thì trong vòng 50 năm thư Viện
86
Viễn Đông bác cổ đã có 85.000 cuốn sách, 5.700 bản chép tay Đông Phương, trong
số này 3.500 bản bằng tiếng Việt và 516 bản gốc chữ châu Âu. Viện cũng có phông
bản rập bia Chàm, Khơme, Lào, Việt Nam và Trung Hoa lên tới con số 25.000, còn
có 132 bằng phong thần cùng với các bản sao xếp thành 457 tập. Thư viện cũng thu
thập được 800 chú dẫn, câu hỏi điều tra về truyền thuyết về các vị thần, các địa
phương, các điền bạ (des registres de rizières), các hương ước (coutumiers) và qui
chế xã thôn (règlements communaux). Viện còn có một sưu tập ảnh với hơn 25.000
ghi chép ảnh..." [16, tr.116-117].
Tính đến năm 1945, tư liệu của Trường Viễn Đông bác cổ gồm 36.000 tác
phẩm bằng ngôn ngữ châu Âu, hơn 1.000 tác phẩm bằng tiếng Việt, 2.000 bản đồ,
hơn 7.000 ảnh; các bản viết tay bao gồm: 33.000 bản bằng chữ Hán, 4.000 bản bằng
chữ Nôm và 10.000 bản chữ Nhật; 25.000 bản văn khắc, gần 9.000 bản Hương ước
bằng chữ Việt và chữ Hán, các xuất bản thường kỳ được để lại Hà Nội, đặc biệt là
các báo xuất bản từ đầu thế kỷ trên toàn Đông Dương [24].
Thư viện Hải học viện – Nha Trang (nay là Viện Hải dương học Nha Trang)
lưu giữ 8.000 cuốn sách, trong đó có khoảng 1.000 cuốn sách tổng quát và những
phác trình về các cuộc thám hiểm ở đại dương của Challenger, Siboga, Vladivia,
Prince de Monaco,…Khoảng 260 loại tập san có được xuất bản từ khoảng đầu thế kỷ
XX. Thư viện có hoạt động trao đổi ấn phẩm với 230 cơ quan khoa học quốc tế; thư
viện cũng đảm nhiệm việc xuất bản các ấn phẩm của Viện. Thư viện lưu giữ nhiều
tài liệu quí giá độc nhất về tình hình hải học ở Đông Dương [9].
Thư viện của Đại học Đông Dương Hà Nội có 14.000 cuốn. Thư viện trường
Đại học Y – Dược Hà Nội có 5.000 cuốn sách. Vốn tài liệu này dành phục vụ công
tác nghiên cứu và học tập của giáo sư và sinh viên năm thứ năm [5].
Mặc dù mất cân đối trong thành phần vốn tài liệu nhưng nhìn chung, các thư
viện thời Pháp thuộc đã chú trọng công tác xây dựng và phát triển vốn tài liệu thông
qua các phương thức bổ sung khác nhau. Thư viện đã tập hợp được vốn tài liệu thành
87
văn quí giá, minh chứng cho một thời kỳ lịch sử của Việt Nam cũng như đáp ứng nhu
cầu đọc ngày một gia tăng của độc giả, đặc biệt ở các đô thị lớn.
2.2.2.2. Xử lý tài liệu
Vấn đề xử lý tài liệu đã được Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương qui định
thống nhất từ quy trình xử lý tài liệu, biên mục mô tả và phân loại tài liệu.
- Quy trình xử lý tài liệu
Sách nhập vào thư viện được xử lý theo qui trình thủ công nhưng chặt chẽ,
không chồng chéo giữa các khâu nghiệp vụ (được thống nhất trong Cẩm nang sắp
xếp thư viện ở Đông Dương). Thư viện Trung ương Đông Dương là nơi áp dụng qui
định này khá qui củ [106], [90].
Quy trình xử lý tài liệu:
1- Rà soát sách đã được bổ sung vào thư viện (nếu sách bị trùng thì trả lại
cho nhà sách);
2- Dán tem, đóng dấu của thư viện (dấu hình chữ nhật ghi số đăng ký nhập
vào thư viện, được đóng ở trang tên sách; dấu hình ô van được đóng trên
bìa, trang 39 và trang cuối của cuốn sách.
3- Nhập sách (đăng ký sách vào sổ đăng ký cá biệt);
4- Chia sách theo các khổ cỡ khác nhau;
5- Đánh ký hiệu cho mỗi cuốn sách (từng cỡ) từ 1 đến n và dán nhãn.
6- Đánh chỉ số (mục lục chữ cái tên tác giả đánh chỉ số theo tên tác giả,
mục lục chủ đề đánh theo các chủ đề như văn học, luật, toán…);
7- Mô tả phiếu;
8- Dán phiếu;
9- Sắp xếp phiếu và sách lên giá.
- Đăng ký tài liệu
Sách nhập vào thư viện được tuân theo một qui trình xử lý logic và khoa học,
đảm bảo chu trình đường đi của sách thống nhất, không chồng chéo giữa các bộ phận
trong thư viện. Thư viện sử dụng một hệ thống sổ để đăng ký tài liệu, bao gồm: sổ
88
đăng ký cá biệt, sổ đăng ký vị trí, sổ cho mượn. Trên mỗi tờ của sổ đăng ký chia thành
nhiều cột ghi ký hiệu, số đăng ký đến của tài liệu, tên tác giả, những từ đầu tiên của
nhan đề. Cột cuối cùng ghi những lưu ý để đăng ký sự sắp xếp trên tờ rời và lồng tờ
rời vào mỗi khi một cuốn sách mới đến dưới một ký hiệu đã sử dụng (điều này thường
xảy ra đối với bộ sưu tập sách chuyên ngành (collections spéciales)).
Sổ Đăng ký cá biệt là sổ đăng ký ghi chi tiết những thông tin về cuốn sách,
không được gạch xóa, nhằm mục đích để rà soát lại các hóa đơn của các nhà sách. Sổ
đăng ký cá biệt có tác dụng thống kê vốn tài liệu và giúp cho việc đánh giá trách
nhiệm của nhân viên thư viện.
Sổ Đăng ký vị trí cho phép tìm thấy vị trí cuốn sách theo ký hiệu. Những đăng
ký chỉ dẫn về cuốn sách không cần chi tiết như trong sổ đăng ký cá biệt. Sổ đăng ký
vị trí phục vụ kiểm kê mỗi năm. Số thứ tự đăng ký của sách (cùng 1 khổ) tương đương
với cuốn sách trên giá. Những đăng ký này dùng để tạo ký hiệu nếu tất cả các cuốn
sách được sắp xếp theo thứ tự đến của cuốn sách. Đăng ký vị trí cũng dùng để sắp
xếp sách trên giá theo khổ và chỉ dẫn đến số đăng ký cá biệt của sách.
Bên cạnh các sổ đăng ký trên, thư viện còn sử dụng một số loại sổ khác như:
Đăng ký các ấn phẩm định kỳ, các bộ sưu tập và các xuất bản phẩm liên tục. Các ấn
phẩm định kỳ có ký hiệu riêng: B đối với ấn phẩm định kỳ tiếng Pháp và tiếng nước
ngoài, C đối với ấn phẩm định kỳ của Đông Đương. Trong sổ đăng ký đến, chỉ đăng
ký định kỳ một lần mỗi năm (không đăng ký cho từng số nhập vào thư viện). Trong
mục lục ấn phẩm định kỳ, mỗi loại được thể hiện bằng một phiếu chỉ ghi từ năm mà
thư viện bắt đầu bổ sung ấn phẩm định kỳ đó. Chỉ làm phiếu trích cho những bài báo
có giá trị của một số ấn phẩm định kỳ lớn như: Tạp chí Paris (Revue de Paris), Tạp
chí hai thế giới (Revue de deux Mondes), Tạp chí Sao Thủy của Pháp (Mercure de
France), Tạp chí Pháp mới (Nouvelle Revue française), Báo Mỹ thuật (Gazette des
Beaux-Art), Tạp chí Lịch sử các thuộc địa (Revue de l'Histoire des Colonies).
Mỗi ấn phẩm định kỳ được thể hiện bằng một phiếu trên đó ghi số, thời gian
của mỗi số và thời gian mà số đó bắt đầu được bổ sung về thư viện. Những phiếu này
89
được xếp trong hộp nhỏ hình chữ nhật nhằm mục đích phát hiện nhanh những số
thiếu. Cách làm đơn giản nhất là sắp xếp các phiếu nằm ngang để theo dõi việc đặt
mua các ấn phẩm định kỳ.
Những phiếu tổng hợp này giúp theo dõi thường xuyên ấn phẩm định kỳ. Phía
trên của tờ phiếu ghi ký hiệu, nhan đề, địa chỉ, thời gian bắt đầu đặt mua, nguồn gốc
(biếu tặng, đặt mua, lưu chiểu hay trao đổi). Trên những phiếu này thay vì đăng ký
chi tiết từng số chỉ cần đăng ký theo năm và thông số đủ hay thiếu. Những phiếu tổng
hợp này có kích thước lớn hơn các phiếu kiểm soát.
- Biên mục mô tả
Theo hướng dẫn của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, biên mục mô tả
tuân theo cẩm nang nghiệp vụ thư viện của Pháp có điều chỉnh để phù hợp đặc điểm
xuất bản và chế độ chính trị xã hội ở Đông Dương [106].
- Nguyên tắc đưa thông tin thư mục vào phiếu mô tả:
Căn cứ vào trang tên sách (không sử dụng trang bìa sách);
Các vùng mô tả bắt buộc: tên tác giả, nhan đề, chi tiết xuất bản, ký hiệu
(code) và số đăng ký cá biệt.
- Trật tự sắp xếp: Các vùng, yếu tố và hệ thống ký hiệu được qui định trên các
phiếu mục lục và trong các thư mục [Phụ lục 5, 6, 7, tr.175 – 180]. Tên tác giả được
lấy làm tiêu đề, đặt phía trên cùng của tờ phiếu (họ, tên tác giả được mô tả theo thứ
tự họ - đệm – tên). Sau đó đến nhan đề (được mô tả giống như trên trang tên sách),
tác giả và chi tiết xuất bản (mô tả chính xác theo thư tự trên phiếu như trên trang tên
sách). Trường hợp tên tác giả nằm trong nhan đề, người biên mục lấy tên tác giả làm
tiêu đề mô tả. Các chi tiết về xuất bản ghi trên phiếu theo thứ tự: Nơi xuất bản - Nhà
xuất bản (chỉ ghi địa danh tỉnh, thành của nhà xuất bản) - Năm xuất bản.
Một số lưu ý về các chỉ dẫn mô tả trên phiếu:
1. Ký hiệu ghi ở phía trên bên trái;
2. Tên (các) tác giả được ghi ở phía trên bên phải (trường hợp không có
tên tác giả cần xem chỉ dẫn đặc biệt);
90
3. Nhan đề được ghi lại toàn bộ trừ trường hợp (hiếm gặp) tên sách quá
dài, ít thông tin quan trọng, có thể dùng dấu ba chấm để thay thế phần lược
bỏ của nhan đề;
4. Địa chỉ tra tìm cách nhan đề bằng dấu chấm gạch ngang (.-). Theo thứ
tự tiếp đến: nơi xuất bản, tên nhà xuất bản (hoặc người bán sách, chủ nhà
in được ghi trên bìa sách) và năm xuất bản. Trường hợp không thấy những
thông tin này trên bìa sách có thể xem trên trang cuối hoặc bìa cuối, hoặc
trong các tập thư mục và ghi những chữ viết tắt: s.l.(không nơi xuất bản),
s.d. (không năm xuất bản), s.é. (không nhà xuất bản), s.l.n.d. (không nơi
xuất bản, nhà xuất bản, năm xuất bản) đồng thời chuyển những chỉ dẫn này
đến vị trí dành cho địa chỉ thư mục và để trong ngoặc vuông[ ];
5. Khi cuốn sách đã được đăng ký vào một bộ sách thì cần ghi tên bộ sách
và tên tập (nếu có);
6. Phía dưới ghi số đăng ký cá biệt trong dấu ngoặc đơn để chỉ ra đây là
một cuốn sách dành cho kho mượn;
7. Cuối cùng, ghi ký hiệu mục lục chủ đề, căn cứ vào ký hiệu này có thể xếp
phiếu trong mục lục.
- Hình thức phiếu mô tả cho mỗi tài liệu : Phiếu sử dụng bìa có kích thước
9x12,5cm dùng để mô tả những thông tin của sách. Ban đầu, thư viện dùng máy đánh
phiếu nhập từ Mỹ, giá rất đắt, chỉ sử dụng giấy briton (rất nhanh hỏng). Sau này, thư
viện chuyển sang cách khác: đánh nhiều bản phiếu bằng giấy polure thành hai cột sau
đó được cắt và dán lên bìa và đục lỗ dùng để sâu thanh suốt bằng kẽm hoặc đồng thau
nhằm giữ phiếu trong hộp phiếu. Phần giấy polure đánh máy được dán dưới mép trên
của bìa phiếu 2cm để vị trí trống ghi tên đề mục chủ đề. Các phiếu mục lục được đánh
6 bản (5 bản được in trên giấy polure, bản thứ 6 được in trên giấy dày dùng để theo
dõi mục lục, trên một cột hai mặt, để lề rộng). Khi cần một khối lượng lớn các phiếu
mục lục có thể nhân bản bằng máy hoặc thủ công.
Như vậy, từ những năm đầu thế kỷ 20, thư viện ở Đông Dương đã được áp
dụng qui tắc biên mục tài liệu giống như qui tắc biên mục tài liệu của Pháp. Trong
91
biên mục mô tả, thư viện đã tuân theo nguyên tắc biên mục chặt chẽ và chi tiết như
trong biên mục hiện đại đối với từng yếu tố [Phụ lục 7, tr.180]. Những qui định thống
nhất trong việc mô tả thư mục đã góp phần xây dựng những phương tiện tra cứu khoa
học, tạo điều kiện tra tìm tài liệu nhanh và hiệu quả.
- Phân loại tài liệu
Bên cạnh các tiêu chuẩn áp dụng cho biên mục, thư viện phân loại tài liệu dựa
trên quy định trong Khung phân loại thập phân quốc tế (Cadre de classement
bibliographie du système décimal international) tại Thư viện Trung ương Đông
Dương cũng như các thư viện trên toàn Đông Dương [Phụ lục 8, tr.189]. Có thể nói,
tài liệu thư viện ở Việt Nam thời kỳ này được phân loại, lần đầu tiên, theo một bảng
phân loại tương đối khoa học và chi tiết. Khung phân loại sử dụng 10 chữ số từ số 0
đến số 9 để thể hiện các lớp chính, tương đương với các lĩnh vực cơ bản:
0 Những vấn đề tổng hợp
1 Triết học
2 Tôn giáo, thần học
3 Khoa học xã hội và luật
4 Ngữ văn học
5 Khoa học tự nhiên
6 Khoa học ứng dụng
7 Mỹ thuật
8 Văn học
9 Lịch sử và địa lý
Trong mỗi lớp chính này lại chia thành 9 lớp nhỏ hơn theo nguyên tắc thập
phân. Khung phân loại thập phân áp dụng trong các thư viện ở Đông Dương có một
số đặc điểm:
- Cấu tạo của bảng phân loại này tương đồng với bảng phân loại UDC của
Pháp nhưng có những điểm khác biệt: lớp 4 trong bảng UDC bỏ trống nhưng trong
bảng phân loại áp dụng ở thư viện ở Đông Dương là mục Ngữ văn học ; trong bảng
92
phân loại này, các lớp chia thứ hai chỉ có mục 11, 21, 31….91 mà không có các mục
10, 20, 30 ….90 như trong bảng UDC.
- Đây là khung phân loại thập phân dùng ký hiệu đồng nhất, thể hiện tính
khoa học.
- Trong mục 0 Những vấn đề tổng hợp, Thư viện học được đặt ở một mục riêng
là 02, Thư mục học được đặt ở mục 01 và Thư viện chuyên ngành ở mục 08. Như vậy,
khoa học Thư viện đã chiếm một vị trí ưu tiên trong bảng phân loại.
- Ở khung phân loại này, trong mục 2 Tôn giáo và Thần học, Cơ đốc giáo được
quan tâm nhiều hơn các tôn giáo khác (do Cơ đốc giáo là tôn giáo chính ở Pháp).
- Mục 4 Ngữ văn học, ưu tiên cho tài liệu bằng ngôn ngữ của những nước châu
Âu (Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Latinh, Hy Lạp). Tất cả các ngôn ngữ khác
chỉ nằm trong một mục. Mục 8 Văn học cũng được bố trí tương tự.
2.2.2.3. Tổ chức và bảo quản tài liệu
Mặc dù cơ sở vật chất của các thư viện chưa được đầu tư thích đáng, nhưng
vấn đề tổ chức và bảo quản kho tài liệu được Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương
rất quan tâm. Các thư viện được áp dụng phương pháp tổ chức và bảo quản của các
thư viện Pháp, có tính đến điều kiện khí hậu và cơ sở vật chất ở Việt Nam.
- Tổ chức tài liệu
Cách sắp xếp tài liệu thư viện được qui định giống như ở các thư viện của Pháp
và các nước phương Tây phát triển thời kỳ này (Cẩm nang sắp xếp thư viện của Nha
Lưu trữ và Thư viện Đông Dương) [106]. Thư viện áp dụng sắp xếp kho theo 2 cách:
theo chủ đề và tác giả (cách xếp ở kho mượn) và theo khổ cỡ (cách xếp ở kho đọc).
Để giúp độc giả tìm sách dễ dàng, thư viện sử dụng các nhãn (étiquette) bằng chữ
đậm dán lên mỗi cuốn sách.
+ Sắp xếp theo chủ đề (Placement méthodique)
Cách sắp xếp theo chủ đề giúp độc giả tìm sách trực tiếp, không cần phải tra
mục lục thư viện. Cách sắp xếp này phù hợp với những thư viện có vốn tài liệu hạn
93
chế, các kho mượn, nơi mà độc giả được tự tìm sách trên giá theo nhu cầu. Tuy nhiên,
đối với những thư viện lớn, cách sắp xếp này có những hạn chế do khó xác định vị trí
dự trữ cho từng chủ đề trong thời gian dài. Mặt khác, theo cách xếp này, các sách có
khổ cỡ khác nhau có thể xếp cạnh nhau, tốn diện tích và không đảm bảo mỹ quan.
Theo cách sắp xếp này, nguyên tắc sắp xếp sách trên giá lại giữ một vai trò rất quan
trọng. Thư viện áp dụng nguyên tắc sắp xếp như sau:
* Sắp xếp theo chủ đề:
Các sách được xếp theo ký hiệu đề mục. Các đề mục không được đánh số liên
tục. Sau một chủ đề lớn, thông thường có hai đề mục để trống nhằm mục đích bổ
sung các chủ đề liên quan gần mà không làm mất đi thứ tự số hiện tại của hệ thống
phân loại (Ví dụ: sau mục 10 Nghệ thuật, mục 11,12 để trống, tương tự với các mục
13 Tiểu sử, 16 Thuộc địa,... [Phụ lục 9, tr. 193]).
Trong từng chủ đề, sách được xếp theo thời gian đến của sách. Nếu thư viện
có sách trùng hai bản thì có thể xếp cuốn sách trùng bên cạnh và đánh một số khác
(Ví dụ: 10(2) và 10(3)) hoặc có thể xếp ở các chủ đề khác nhau nếu cuốn sách thể
hiện hai chủ đề (Ví dụ: một cuốn sách về Naponéon có hai cuốn: 1 cuốn ở mục 13
Tiểu sử, 1 cuốn ở mục 34 Lịch sử Pháp).
* Sắp xếp theo tác giả:
Sách được xếp trên giá theo trật tự chữ cái họ tên (các) tác giả nổi tiếng (mỗi
tác giả được đánh một số). Ví dụ: tác giả About có số 100, Adam có số 101. Sách
được ký hiệu theo bằng số của tác giả kèm thứ tự đánh số của các tác phẩm. Ví dụ:
cuốn "Le nez d'un notaire" của About ký hiệu 100(1), cuốn sách tiếp theo của About
là "Roi des Montagnes" ký hiệu là 100(2). Sách xếp trên lên giá không liên tục, mỗi
tác giả được dành vị trí trống để bổ sung các sách mới của họ.
Những tác phẩm của những tác giả ít nổi tiếng được xếp ở một vị trí khác với
một hệ thống ký hiệu khác bao gồm một chữ và một số. Phần chữ của ký hiệu là chữ
cái đầu của họ tác giả (tác giả có họ bắt đầu bằng chữ A sẽ có ký hiệu là A, tác giả có
họ bắt đầu bằng chữ cái B có ký hiệu là B). Phần số là số thứ tự đến của cuốn sách.
Ví dụ: một cuốn sách của Alem có ký hiệu A.20 nghĩa là cuốn sách này xếp thứ tự
94
thứ 20 của nhóm A. Tiếp theo, một cuốn sách của Alexandre sẽ được ký hiệu là A.21.
Một cuốn sách mới đến của Alem sẽ có ký hiệu là A.22.
+ Sắp xếp theo khổ cỡ kết hợp với số đăng ký cá biệt
Cách sắp xếp này được áp dụng để tổ chức kho đọc và phòng đọc. Đối với
kho đọc, độc giả viết phiếu yêu cầu gửi thủ thư tại phòng đọc sau khi tra cứu
mục lục.
Có 5 khổ được ký hiệu như sau:
- P: sách có khổ nhỏ (dưới 20cm);
- M: sách có khổ trung bình (20cm đến 30cm);
- G: sách có khổ lớn (30cm đến 50cm);
- HG: sách có khổ cực lớn (trên 50cm);
- AT: bản đồ.
Kí hiệu của tài liệu bao gồm chỉ dẫn về khổ cỡ (P, M, G, HG, AT), sau đó là
số thứ tự. Mỗi khổ sẽ tuân theo một thứ tự đánh số cá biệt từ 1 đến vô cùng (Ví dụ:
P1, P2, P3).
Trong phòng đọc, những tài liệu phục vụ thường xuyên, có tần số sử dụng cao
như sách tra cứu, ấn phẩm định kỳ, được mang một kí hiệu cá biệt tạm thời là “usuel”
(sách sử dụng thường xuyên) đặt sau số thứ tự của sách. Ký hiệu cá biệt tạm thời này
sẽ thay thế ký hiệu thực của cuốn sách. Sách khi lấy ra khỏi giá được thay thế bằng
một phiếu thế (fantôme) để đánh dấu vị trí. Ký hiệu cá biệt tạm thời này cũng được
sử dụng đối với những ấn phẩm định kỳ, sách bộ và sách trùng bản thứ hai để thể
hiện những tài liệu này thuộc bộ sách [106].
- Bảo quản tài liệu
+ Môi trường kho tài liệu
Chỉ có một số thư viện công cộng và chuyên ngành ở các thành phố lớn được
quan tâm xây dựng kho tàng (tiêu biểu là Thư viện Trung ương Đông Dương và thư
viện EFEO). Kho tài liệu được xây dựng theo kiến trúc kiểu Pháp, có tính đến yếu tố
95
khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam. Đảm bảo thông gió và ánh sáng hợp lý trong kho là
yếu tố quan trọng trong công tác bảo quản.
Kho được xây bằng bê tông cốt thép kiên cố, tường dày, đảm bảo cách nhiệt
tốt. Các cửa sổ của kho có kích thước rộng và cao, kéo dài xuống mặt sàn tạo điều
kiện tốt cho thông gió tự nhiên với mục đích đẩy các ấu trùng, vi sinh có hại cho tài
liệu ra ngoài. Các cửa sổ này có các màn gió vải dày để che nắng. Các tầng kho cao
2m80, lối đi giữa các giá trong kho rất rộng đảm bảo không khí dễ dàng lưu thông
trong kho. Sàn kho để khuyết lỗ dưới các để tạo luồng không khí lưu thông trong toàn
bộ nhà kho. Sàn kho được làm bằng bê tông xốp không lát gạch đá, mục đích hút ẩm
từ không khí. Các giá sách được để cách cửa sổ một khoảng tạo thành hành lang
nhỏ, giữa hai dãy giá sách có lối đi lớn tạo thành hành lang làm cho không khí
trong kho được lưu thông dễ dàng. Giá tài liệu được làm bằng gỗ lim có tính thẩm
mỹ và độ bền cao.
+ Kiểm kê
Công tác kiểm kê, vệ sinh kho tàng và các biện pháp bảo quản chỉ dành cho
nhân viên thư viện bản xứ thực hiện, theo qui trình kỹ thuật được Nha Lưu trữ và Thư
viện qui định [106]. Việc kiểm tra tài liệu trên giá cũng như tình trạng vật lý của tài
liệu được ghi trên phiếu kiểm kê (bao gồm các nhãn cần thay thế, các cuốn sách phải
tu bổ, những cuốn sách bị mất). Việc kiểm kê tổng thể được thực hiện hàng năm (Thư
viện Trung ương Đông Dương đóng cửa tháng bảy hàng để thực hiện kiểm kê, vệ
sinh sách và kho tàng).
+ Vệ sinh kho tàng
Vệ sinh kho tàng là một trong những công tác bảo quản tài liệu được Pháp
quan tâm. Qui trình và cách thức vệ sinh kho tàng được qui định bắt buộc đối với các
thư viện trong mạng lưới (Cẩm nang nghiệp vụ sắp xếp thư viện). Thư viện Trung
ương Đông Dương là một trong những thư viện áp dụng nghiêm chỉnh qui định này.
Công tác vệ sinh kho tàng cũng được đảm nhiệm bởi các nhân viên thư viện
bản xứ dưới sự hướng dẫn của Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện. Hàng ngày, các
cửa sổ được mở trong nhiều giờ (trừ trường hợp thời tiết quá ẩm). Khi vệ sinh kho
96
tàng, toàn bộ cửa sổ được mở rộng để bụi bay ra ngoài. Không dùng chổi và bàn chải
để vệ sinh sách, kho tàng mà phải lau bằng khăn ẩm để ngăn bụi bay và bám lại tài
liệu. Hơn nữa, không sử dụng lau khăn có tẩm xăng vì ván đợt làm bằng gỗ đánh si.
Khăn len được sử dụng để vệ sinh sách (do dễ hút bụi tĩnh điện và dễ giũ bụi bên
ngoài kho). Khi vệ sinh, sách được mở để kiểm tra tình trạng vật lý bên trong. Nếu
hư hỏng sẽ được đưa đi tu bổ, đóng bìa lại. Nếu hư hỏng nặng thì được gửi đến xưởng
đóng sách để phục chế và đóng bìa. Đối với sách có bìa bằng da nhân viên thư viện
sử dụng "rapid-fluid" (sản phẩm làm sạch nhanh bằng chất lỏng) hoặc sản phẩm tương
đương để ngăn chặn nấm mốc [106].
+ Phòng và chống côn trùng
Biện pháp bảo quản tài liệu và kho tàng áp dụng theo tiêu chuẩn của Pháp có
tính tới thực tiễn khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam, mà mọt gỗ và gián là hai tác nhân phá
hoại tài liệu. Để diệt mọt gỗ, chloropirine được phết lên các bề mặt gỗ và giá (tỉ lệ 2
mg/l nước). Tùy trường hợp côn trùng tấn công sách, thư viện áp dụng các biện pháp
khác nhau như để sách mở trong một hộp tráng kẽm được bịt kín chứa foc-môn và
sun-fua cac-bon. Ngoài ra, có thể xếp sách trong một phòng kín, xông hơi crêzin
nguyên chất (đun sôi, để lửa nhỏ) trong vòng 2 đến 3 giờ. Tuy nhiên, cách làm này
không được khuyến khích vì không thể lật từng trang sách trong môi trường crêzin
độc hại. Một phương pháp đôi khi được áp dụng là phun sương dung dịch lỏng gồm
xăng, creozot, bột pirit vào kẽ hở bìa sách. Tuy nhiên, biện pháp phòng ngừa côn
trùng tốt nhất vẫn là giữ kho tàng, giá sách luôn thông gió, có đủ ánh sáng và giữ sách
trong trạng thái sạch sẽ [106].
2.2.2.4. Sản phẩm thư viện
Những tiến bộ về xử lý nghiệp vụ giúp thư viện thời kỳ này xây dựng được
các sản phẩm thư viện giúp độc giả có thể tìm tài liệu nhanh chóng và hiệu quả tiêu
biểu như mục lục và thư mục.
- Mục lục
Hệ thống mục lục tại các thư viện ở Đông Dương nói chung và ở Việt Nam
nói riêng được tổ chức giống các thư viện ở châu Âu và Pháp. Thư viện Trung ương
97
Đông Dương được tổ chức như một thư viện mẫu: các loại mục lục được bố trí xếp
quanh phòng đọc giúp độc giả có thể tiếp cận dễ dàng (Phụ lục 12, tr. 197). Có hai
loại mục lục được tổ chức: mục lục chữ cái và mục lục chủ đề. Những mục lục này
được sắp xếp theo thứ tự chữ cái tên tác giả hoặc tên sách, chữ cái tên chủ đề. Các
hộp phiếu được trình bày trong các tủ mục lục đóng bằng gỗ lim. Ngoài hộp phiếu
dán nhãn chữ cái (đối với mục lục chữ cái) và chữ cái chủ đề (đối với mục lục chủ
đề). Ngoài những mục lục này, từ năm 1931, thư viện đã xây dựng bộ phiếu trích
những bài báo có giá trị trong các tạp chí.
+ Mục lục chữ cái
Mục lục này được sắp xếp theo thứ tự chữ cái tên tác giả (trong trường khuyết
danh thì sắp xếp theo tên sách).
+ Phiếu được xếp theo chữ cái đầu tiên của tên tác giả (không tính đến tiểu từ.
Ví dụ : de, le, la (tác giả Pháp), von (tác giả Đức)). Đối với tác giả người Việt, tên tác
giả được xếp đầu tiên, họ và đệm được xếp sau và để trong ngoặc đơn.
+ Tên người dịch, người cộng tác, người giới thiệu, người minh họa… được
đặt làm tiêu đề mô tả và ghi bên cạnh tên từ viết tắt chỉ công việc của họ như: trad.
(người dịch), coll.(người cộng tác), préf. (người giới thiệu), ill. (người minh họa).
+ Những cuốn sách khuyết danh được xếp theo từ đầu tiên của nhan đề (không
tính đến các mạo từ le, la, les (tiếng Pháp)).
+ Phiếu mục lục của những cuốn sách cùng tác giả được xếp theo chữ cái của
từ đầu tiên của nhan đề (không tính đến các mạo từ le, la, les (tiếng Pháp)).
+ Mục lục chủ đề
Mục lục chủ đề chia thành nhiều mục chủ đề và sắp xếp theo chữ cái tên chủ
đề của cuốn sách. Mỗi chủ đề có thể chia thành những khía cạnh nhỏ hơn của chủ đề
và sắp xếp theo thứ tự chữ cái. Ví dụ, mục Droit (Luật) sẽ được chia thành các khía
cạnh nhỏ hơn như:
Droit administratif (luật hành chính)
Droit canon (luật giáo hội)
98
Droit civil (luật dân sự)
Droit colonial (luật thuộc địa)
Droit commercial (luật thương mại)
Thậm chí, các khía cạnh quan trọng còn có thể được phân chia chi
tiết hơn:
Droit civil. Codes (Luật dân sự. Bộ luật)
Droit civil. Contrats (Luật dân sự. Hợp đồng)
Droit civil. Famille (Luật dân sự. Gia đình)
Droit civil. Mariage (Luật dân sự. Hôn nhân)
Các chủ đề lịch sử, nghệ thuật và văn học, phiếu được sắp xếp theo niên đại
(lịch sử Pháp được sắp xếp theo thế kỷ và triều đại).
Các mục được ngăn cách bằng các phiếu nhô kim loại có màu sắc khác nhau
giúp cho việc tra tìm dễ dàng. Ví dụ, tên địa danh dùng phiếu nhô màu đỏ, tên cá nhân
màu xanh lá cây, tên chủ đề màu đen, những mục liên quan đến Đông Dương màu
xanh da trời. Trong các mục, các phiếu mục lục được sắp xếp theo thời gian xuất bản
(ấn phẩm mới được xếp trước, ấn phẩm không có thời gian xuất bản được xếp cuối
cùng). Ngoài ra, cũng có những một số ngoại lệ trong sắp xếp:
- Trong các mục tiểu thuyết và kịch, phiếu được sắp xếp theo từ đầu tiên của
nhan đề tác phẩm.
- Trong các mục văn học khác như hồi ký, thư từ trao đổi, phiếu được sắp xếp
theo trật tự chữ cái tên tác giả.
Để tránh sự gia tăng và tích tụ những phiếu trong đề mục Pháp và Đông Dương,
thư viện sắp xếp phiếu về vấn đề chung cùng nhau và không thiết lập thêm các mục
nhỏ hơn. Những cuốn sách liên quan đến các vấn đề chi tiết của Pháp và Đông Dương
được phân chia trong toàn bộ mục lục. Ví dụ, mục “Histoire. France” (Lịch sử. Pháp)
gồm những phiếu liên quan đến lịch sử Pháp. Tương tự, phiếu về lịch sử Đức được
xếp vào “Histoire. Allemagne”. Mục “Voyage. Indochine” (Hành trình. Đông
Dương) gồm những phiếu liên quan đến hành trình ở Đông Dương…
99
Theo khảo sát thực tế tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, các mục lục truyền
thống của khối tài liệu tiếng Pháp xây dựng trong thời kỳ Pháp thuộc được tổ chức
theo đúng nguyên tắc qui định của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương. Cấu trúc
của phiếu mô tả thời kỳ này có một số khác biệt so với ngày nay : ngoài kích thước
của phiếu đứng (phiếu mô tả hiện tại là phiếu nằm ngang), phía dưới bên trái của tờ
phiếu có đánh chỉ số chủ đề của tài liệu [Phụ lục 5, tr. 175].
- Thư mục
Phục vụ cho việc nghiên cứu khai thác thuộc địa, các thư viện ở Đông Dương,
tiêu biểu là thư viện Trung ương Đông Dương tiến hành biên soạn các loại thư mục
nhằm kiểm soát các nguồn tài liệu. Thư viện Trung ương Đông Dương và Thư viện
EFEO đã biên soạn một số thư mục có giá trị sau: Thư mục tổng quát về Pháp (Thư
mục sách về Pháp, Danh mục các nhà xuất bản Pháp, Thư mục của Thư viện quốc
gia Pháp (Xếp theo tên tác giả từ A - L)); Thư mục Đông Dương (Thư mục Annam,
Thư mục Bibliotheca Indosinica, Thư mục sách xuất bản trong năm, Thư mục Đông
Dương thuộc Pháp, Thư mục sách lưu chiểu). Ngoài ra còn các thư mục khác: Thư
mục địa chí, Thư mục ấn phẩm định kỳ (périodique) (gồm 90 loại), Thư mục thông
báo sách mới.
Năm 1921, Thư viện Trung ương Đông Dương công bố một thư mục có tên
Pour mieux connaître l'Indochine, Revue Indochinoise, T. XXVI (nov.-dec.1921),
pp.339-400. (thư mục Để hiểu biết hơn về Đông Dương) trong Tạp chí Đông Dương.
Đến năm 1927, Thư viện Trung ương Đông Dương đã biên soạn tổng hợp tất cả các
tài liệu vào một thư mục.
Trong các thư mục của Thư viện Trung ương Đông Dương, những thư mục về
Đông Dương đặc biệt được quan tâm biên soạn như: Thư mục Annam của Bocage và
thư mục Bibliotheca Indosinica của Cordier tập trung các tài liệu có nội dung về các
lĩnh vực lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán... của vùng Viễn Đông và Việt Nam. Đây
là những thư mục phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa ở Đông Dương, đặc biệt là
Việt Nam. Tuy nhiên kết cấu và cách sắp xếp còn hơi lộn xộn, thiếu bảng tra chữ cái
gây khó khăn trong việc tra cứu.
100
Để khắc phục những hạn chế của các bản thư mục trước, Thư mục Đông
Dương thuộc Pháp 1913-1926 (Bibliographie de l'Indochine Française 1913-1926)
của Boudet và Bourgeois được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất gồm các mục được xếp theo chữ cái, đó là các mục tổng quát
như hành chính, lịch sử, địa lý, các mục chuyên ngành, tên tác giả và tên địa danh.
Một cuốn sách liên quan đến nhiều chủ đề thì các mô tả của nó sẽ được nhắc lại ở các
đề mục liên quan. Trong mỗi đề mục, các sách được xếp theo trật tự chữ cái tên tác
giả (sách khuyết danh được xếp theo từ đầu tiên của nhan đề cuốn sách). Cách sắp
xếp này đơn giản, tạo thuận lợi cho tra cứu. Mỗi một mô tả bao gồm những chỉ dẫn
thư mục như: ký hiệu phân loại thập phân, kí hiệu xếp giá của Thư viện Trung ương
Đông Dương hay Thư viện EFEO. Trong trường hợp những thông tin của sách không
đầy đủ hoặc không chính xác, mô tả thư mục thể hiện những giải thích bằng chữ nhỏ
hơn để cung cấp thêm chi tiết.
Phần thứ hai của thư mục gồm chỉ dẫn chữ cái tên tác giả và tên sách khuyết
danh. Mỗi mô tả chỉ bao gồm tên tác giả và mô tả thư mục (Không có các ký hiệu).
Nhan đề của các ấn phẩm định kỳ không được mô tả ở phần này mà được mô tả ở
phần 1 ("ấn phẩm định kỳ"). Ngoài ra, ở cuối thư mục còn giới thiệu những cuốn sách
và bài trích về Đông Dương thuộc Pháp ở các thư viện thuộc địa hay các thư viện Pháp.
Các Thư mục Đông Dương thuộc Pháp tiếp theo được Boudet và Bourgeois
điều chỉnh và bổ sung những tài liệu liên quan đến các nước Đông Dương trên cơ sở
những góp ý phê bình của bạn đọc: năm 1931 gồm những tài liệu xuất bản từ năm
1927 đến 1929; năm 1933 giới thiệu những tài liệu được xuất bản trong năm 1930.
Kết cấu và phương pháp biên soạn của hai tập này đã được điều chỉnh:
Trong mỗi chủ đề, tài liệu được sắp xếp theo thứ tự thời gian xuất bản
(cũ trước mới sau), chứ không theo trật tự chữ cái của tên các tác giả.
Các chủ đề lớn được chia thành những chủ đề nhỏ giúp tra cứu dễ dàng
hơn, các chỉ dẫn quan hệ được tăng cường nhằm làm nhẹ đề mục chủ
đề chính.
101
Trong bảng tra chữ cái tên tác giả và tên sách khuyết danh, các ấn phẩm
có cùng tác giả được sắp xếp theo từ đầu tiên của nhan đề ấn phẩm thay
vì theo trật tự thời gian xuất bản.
Ký hiệu phân loại thập phân và ký hiệu của Thư viện Trung ương Đông
Dương Hà Nội và Thư viện EFEO được bỏ đi do lợi ích của chỉ dẫn
không nhiều trong khi lại chiếm khá nhiều vị trí trong các mô tả.
Đối với các ấn phẩm định kỳ, trước năm 1912, chỉ có Cordier làm các phiếu
trích một cách đầy đủ. Từ sau năm 1912, chỉ có Boudet và Bourgeois tiếp tục theo
đuổi công việc này. Hai tác giả này đã tiến hành làm phiếu trích cho khoảng 60 ấn
phẩm định kỳ và sau đó bổ sung thêm phiếu trích cho 30 ấn phẩm định kỳ khác.
Thư mục Đông Dương thực sự là một công trình công phu, giúp cho những
người nghiên cứu quan tâm đến Đông Dương sử dụng những chỉ dẫn đến tài liệu một
cách đầy đủ và hiệu quả. Cho đến nay, đáng tiếc hầu hết các thư mục này đã được
mang về lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Pháp, thư mục ở Việt Nam chỉ còn lại Thư
mục Đông Dương thuộc Pháp của Boudet và Bourgeois.
Danh mục ấn phẩm lưu chiểu (Liste des imprimés déposés au service de dépôt
légal) do Thư viện Trung ương biên soạn, xuất bản từ năm 1922-1944 là một tài liệu
tra cứu quí giá về Đông Dương thời kỳ thuộc Pháp. Đây là một thư mục quan trọng
được biên soạn trên cơ sở chế độ lưu chiểu ở Đông Dương, phản ánh khá đầy đủ tài
liệu xuất bản trong thời kỳ này. Trong trường hợp tài liệu không tìm được tại Thư
viện Trung ương Đông Dương, có thể tìm lại tại Thư viện quốc gia Paris (do một bản
đã được gửi lưu chiểu tại đây).
Trong suốt quá trình hoạt động, Thư viện Trung ương Đông Dương liên tục
biên soạn và cập nhật các thư mục. Phương pháp biên soạn thư mục được điều chỉnh
phù hợp với nhu cầu của bạn đọc, tạo điều kiện cho việc tra cứu dễ dàng và hiệu quả.
Cách sắp xếp theo thứ tự chữ cái các chủ đề và chia nhỏ các chủ đề nhỏ trong các chủ
đề lớn là cách sắp xếp khoa học, giúp tra cứu tập trung theo chủ đề. Trong các thư
mục đều có các bảng tra tạo điều thuận lợi cho người sử dụng. Đặc biệt trong các thư
mục ngoài sách còn có các bài trích trong 90 tạp chí.
102
2.2.2.5. Phục vụ bạn đọc
- Đối tượng phục vụ
Đối tượng phục vụ trong các thư viện được Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương qui định rõ (Cẩm nang nghiệp vụ sắp xếp thư viện). Ví dụ, trong “Chỉ dẫn độc
giả sử dụng Thư viện Trung ương Đông Dương” quy định:
1- Độc giả người Âu từ 16 tuổi trở lên;
2- Người Việt Nam phục vụ trong ngành giáo dục;
3- Sinh viên các trường đại học;
4- Người Việt Nam và người châu Á từ 18 tuổi trở lên có đủ trình độ, các
viên chức trong các cơ quan của Đông Dương [90].
Các độc giả thuộc ba đối tượng (2,3,4) muốn sử dụng phòng đọc phải khai
những thông tin về họ tên, nghề nghiệp, nơi ở và thẻ căn cước (chứng minh thư) [90].
Bên cạnh những đối tượng chính theo qui định, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương
còn cho phép học sinh một số trường Trung học phổ thông trực thuộc Nha học chính
Đông Dương tới đọc.
Theo thống kê của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, năm 1937, lượng
độc giả người Việt trong lĩnh vực giáo dục chiếm 72% (54% là học sinh tiểu học, phổ
thông cơ sở và trung học, 14% là sinh viên đại học, 4% là những người làm công tác
giảng dạy). Số còn lại là cán bộ, viên chức, thương nhân, nhà báo [90].
- Hình thức phục vụ
Giai đoạn này, các thư viện đã áp dụng hai hình thức phục vụ chủ yếu là phục
vụ đọc tại chỗ và mượn về nhà. Bên cạnh đó, có hai hình thức phục vụ mới và tiến
bộ là phục vụ thiếu nhi và phục vụ lưu động.
+ Phục vụ đọc tại chỗ
Qui trình phục vụ đọc tại chỗ cũng được tiến hành tương tự các thư viện của
Pháp. Thư viện Trung ương Đông Dương là một ví dụ cụ thể cho cách tổ chức phục
vụ này.
103
Giờ mở cửa của các thư viện được qui định chung từ 9h đến 22h. Tuy nhiên,
các thư viện có thể điều chỉnh thời gian mở cửa phù hợp với đối tượng và vị trí địa lý
cũng như hoàn cảnh thực tế của các thư viện.
Độc giả trình thẻ thư viện khi mượn và trả sách tại phòng đọc. Mỗi yêu cầu
sách được thực hiện trên một phiếu và chuyển đến người tiếp nhận, ghi lại ký hiệu
của cuốn sách và tìm sách trong kho. Một phiếu thế được gài vào vị trí của cuốn sách
lấy ra. Cuối mỗi ngày, những phiếu thế này được gom lại để thống kê thư viện hoặc
kiểm tra trong khi cần thiết.
Phòng đọc của thư viện bố trí các tủ giá phục vụ tại chỗ các tài liệu tra cứu
theo mô hình thư viện ở châu Âu. Cách bố trí này cũng vẫn được áp dụng ở thư viện
các nước tiên tiến trên thế giới đến nay. Các sách tra cứu này gồm bách khoa thư,
niên giám, sách nghệ thuật, luật, địa lý, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, triết học, tôn giáo,
khoa học, một số sách khác về Đông Dương và Viễn Đông, các bộ ấn phẩm định kỳ
về Đông Dương và những số cuối của 66 ấn phẩm định kỳ Pháp và nước ngoài.
Tất cả sách của thư viện tại phòng đọc đều được phục vụ tại chỗ. Việc cho
mượn về nhà chỉ được thực hiện trong những trường hợp đặc biệt. Thời gian mượn
về nhà không quá hai tuần. Độc giả không được phép mang những tài liệu sau ra khỏi
thư viện: sách tra cứu, ấn phẩm định kỳ, bản đồ, bản vẽ, sách lưu chiểu, sách dự trữ.
Mọi hành động hủy hoại, cắt xé hay làm thay đổi hình thức và nội dung của sách, ấn
phẩm định kỳ, an-bom, bản đồ, bản khắc, tranh ảnh đều bị truy tố và xét xử với mức
tiền phạt tùy thuộc vào mức độ vi phạm và có thể phạt tù (qui định ở Điều 254, 255
và 257 của Bộ Luật hình sự). Thủ thư trông coi phòng đọc chịu trách nhiệm nhắc nhở
độc giả giữ gìn trật tự, chỉ dẫn và hướng dẫn độc giả tra cứu các mục lục với một thái
độ lịch sự [106].
Việc chính quyền thuộc địa áp dụng những qui định tại phòng đọc của Thư
viện Trung ương Đông Dương và các thư viện công ở Việt Nam giống như tại các
thư viện Pháp giúp cho thư viện có thể bảo quản và gìn giữ khối tài liệu quí giá và
nâng cao vai trò của thư viện đối với sự phát triển của xã hội.
104
Tuy nhiên, với sự đầu tư mất cân đối giữa các lĩnh vực và vùng miền, có thể
thấy các thư viện có số lượng vốn tài liệu lớn và lượt sử dụng cao đều tập trung ở các
kỳ thuộc Việt Nam. Theo Báo cáo thống kê của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương về số lượt độc giả của Hà Nội, Sài Gòn và Phnompenh năm 1919-1941, có
thể thấy lượt độc giả đến sử dụng thư viện của các thư viện ở Hà Nội vẫn chiếm tỉ lệ
cao nhất (Bảng 2-13), cho thấy vị trí quan trọng của Việt Nam trong chính sách khai
thác thuộc địa của Pháp, cũng như nhu cầu đọc ở các thành phố lớn ở Việt Nam.
Bảng 2-13: Lượt người đọc tại Hà Nội, Sài Gòn, Phnompenh
Năm Hà Nội Sài gòn Phnompenh
1919 12 000
1920 23 000 13 000
1921 30 000 14 000
1922 33 000 15 000
1923 38 000 19 200
1924 43 000 28 191
1925 55 000 34 449 2 000
1926 66 000 51 712 11 000
1927 71 000 47 540 18 300
1928 75 000 47 607 19 000
1929 71 364 45 267 21 000
1930 69 815 46 777 24 000
1931 77 383 44 638 25 449
1932 75 724 46 894 32 982
1933 74 699 50 270 31 249
1934 74 612 50 039 30 090
1935 95 602 56 545 29 418
1936 100 530 52 360 36 506
1937 102 115 46 773 37 857
1938 123 597 52 431 42 331
1939 119 494 67 290 47 378
1940 130 737 82 125 55 636
1941 144 897 89 433 61 381
Đơn vị: Lượt.
Nguồn: [100].
105
Hình 2-4: Biểu đồ so sánh lượt người đọc tại Hà Nội, Sài Gòn, Phnompenh
Đơn vị: Lượt.
Nguồn: [100].
+ Phục vụ mượn về nhà
Hình thức phục vụ này được tổ chức ngay từ trước năm 1917, dưới dạng các
thư viện nhỏ, thư viện phổ thông. Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương cũng đề ra
các qui định chung cho hình thức phục vụ này (Cẩm nang nghiệp vụ sắp xếp thư
viện). Thư viện Trung ương Đông Dương - một thư viện có vốn tài liệu lớn nhất ở
Đông Dương cũng như phục vụ nhiều loại đối tượng, tiêu biểu cho hình thức phục vụ
mới mẻ này.
Hình thức phục vụ mượn về chủ yếu phục vụ những người không có thời gian
đến thư viện. Thư viện phục vụ mượn về nhà có tỷ lệ lớn vốn tài liệu sách giải trí, đặc
biệt là tiểu thuyết. Tuy nhiên, thư viện vẫn có những sách phổ biến khoa học, sách
chỉ dẫn, nghệ thuật và văn chương.
Bộ phận cho mượn cũng hoạt động ngoài giờ làm việc. Ở Hà Nội, phòng mượn
mở cửa liên tục từ 9h sáng đến 20h. Điều kiện được mượn là người đọc phải sống
trong thành phố hay khu vực phụ cận thành phố; xuất trình thẻ căn cước và biên lai
trả tiền nhà. Thư viện không cung cấp thẻ mượn cho những học sinh không chứng
minh được chỗ ở chính xác trong thành phố [106].
Để đảm bảo phục vụ tối đa cho độc giả, bộ phận cho mượn áp dụng cách tổ
chức kho mở. Độc giả được lấy sách trực tiếp trên giá theo nhu cầu. Sách được sắp
106
xếp hợp lý giúp độc giả có thể tìm thấy dễ dàng trên giá mà không phải tra cứu mục
lục. Với cách tổ chức kho này, thủ thư được ngồi ở vị trí có thể quan sát được giá
sách và lối ra, tránh không làm phiền độc giả.
Thư viện hướng tới việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người mượn. Các thư
viện ở Hà Nội, đặc biệt là Thư viện Trung ương Đông Dương áp dụng phương thức
thiết lập số phiếu tương đương với số độc giả đăng ký. Những phiếu này bao gồm
nhiều ô vuông, trên đó các thủ thư cho mượn ghi duy nhất ký hiệu của cuốn sách và
thời gian cho mượn và thời gian trở lại.
Mặc dù hạn chế về đối tượng đọc, yêu cầu cần được đáp ứng của người Việt
Nam theo qui định về đối tượng được sử dụng thư viện đòi hỏi chặt chẽ hơn so với
người Âu, nhưng số người đọc Việt Nam vẫn rất cao và ngày càng gia tăng thể hiện
nhu cầu tiếp thu kiến thức rất lớn của nhân dân Hà Nội nói riêng và nhân dân Việt
Nam nói chung (thống kê của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương). Số lượt độc
giả người Việt tăng đáng kể (năm 1920 là 5.000 lượt, đến năm 1940 là 83.537 tăng
hơn 16,7 lần). Dù có những hạn chế về thành phần vốn tài liệu nhưng đây là một dấu
hiệu tích cực trong việc nâng cao trình độ và tiếp xúc với những yếu tố tích cực của
văn minh phương Tây của một bộ phận tầng lớp trí thức Việt Nam (Bảng 2-14).
Hình 2-5: Số lượt bạn đọc tại Phòng đọc và Phòng mượn
Nguồn: [97].
107
Bảng 2-14: Lượt bạn đọc tại Phòng đọc và Phòng mượn tại Thư viện
Trung ương Đông Dương
Năm Người Việt Người Âu Tổng số Lượt bạn
đọc/ngày Số lượt Tỉ lệ % Số lượt Tỉ lệ %
1920 5 000 55,56 4 000 44,44 9 000 30
1921 5 500 55,00 4 500 45,00 10 000 37
1922 6 000 54,55 5 000 45,45 11 000 38
1923 7 683 56,70 5 867 43,30 13 550 45
1924 11 340 60,51 7 400 39,49 18 740 62
1925 12 919 66,93 6 382 33,07 19 301 75
1926 19 130 74,25 6 636 25,75 25 766 100
1927 21 002 77,99 5 927 22,01 26 929 128
1928 22 857 76,21 7 134 23,79 29 991 130
1929 24 787 74,29 8 577 25,71 33 364 130
1930 26 743 71,23 10 800 28,77 37 543 130
1931 26 666 76,64 8 130 23,36 34 796 131
1932 32 130 75,00 10 712 25,00 42 842 160
1933 36 656 85,98 5 978 14,02 42 634 160
1934 38 885 89,88 4 378 10,12 43 263 162
1935 52 605 88,21 7 028 11,79 59 633 217
1936 58 059 91,96 5 074 8,04 63 133 267
1937 69 883 94,53 4 045 5,47 73 928 270
1938 76 363 94,05 4 828 5,95 81 191 290
1939 79 239 95,19 4 005 4,81 83 244 305
1940 83 537 95,58 3 860 4,42 87 397 315
Nguồn: [97].
Có thể thấy số lượt bạn đọc người Việt đến sử dụng Thư viện Trung ương
Đông Dương luôn nhiều hơn số lượng người Âu, đặc biệt từ năm 1936 đến 1940. Con
số này có thể là do bạn đọc người Âu chủ yếu tập trung vào các viên chức trong các
cơ quan thuộc bộ máy chính quyền thuộc địa vốn có số lượng ít. Mặt khác, giai đoạn
1936-1939, tự do dân chủ ở thuộc địa (ảnh hưởng Mặt trận bình dân ở Pháp) được
108
mở rộng. Bên cạnh đó là phong trào dân chủ 1936-1939 diễn ra trên nhiều lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia. Trong
giai đoạn này, nhiều sách lí luận, chính trị được đưa từ nước ngoài về, nhiều tác phẩm
văn học hiện thực phê phán ra đời như Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), Tắt
đèn, Lều Chõng (Ngô Tất Tố), Dông Tố, Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Thơ (Tố Hữu)...
Cuối năm 1937, Đảng Cộng sản Đông Dương phát động phong trào truyền bá chữ Quốc
ngữ giúp quần chúng đọc sách báo, nâng cao hiểu biết về chính trị và cách mạng [15].
Chính những tác động của tình hình chính trị trong nước và trên thế giới giai
đoạn này làm nảy sinh nhu cầu đọc sách, báo đặc biệt là những người thuộc tầng lớp
tri thức yêu nước muốn cách tân đất nước (Bảng 2-15).
Bảng 2-15: Sử dụng vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương
Năm Tổng số vốn tài liệu Số lượt người đọc
1920 9 000 11 228
1921 10 000 14 501
1922 11 000 16 614
1923 13 550 18 704
1924 18 740 22 886
1925 19 301 27 933
1926 25 766 32 546
1927 26 929 35 798
1928 29 991 40 447
1929 33 364 46 508
1930 37 543 52 218
1931 34 796 55 989
1932 42 842 60 375
1933 42 634 64 022
1934 43 263 69 144
1935 59 633 73 436
1936 63 133 78 073
1937 73 928 83 067
1938 81 191 88 152
1939 83 244 92 613
1940 87 397 98 173
Nguồn: [97].
109
Hình 2-6: Sử dụng vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương
Nguồn: [97].
Trong giai đoạn 1920 – 1940, trên phương diện đáp ứng nhu cầu độc giả, vốn
tài liệu gia tăng không ngừng với tốc độ lớn (trung bình 12,7%/năm). Tốc độ tăng trung
bình của số lượt mượn thấp hơn không đáng kể so với vốn tài liệu (11,6%/năm). Vấn
đề này có thể được lí giải là đối tượng sử dụng của Thư viện Trung ương Đông Dương
chỉ được giới hạn ở tầng lớp trí thức người Pháp (đối tượng chiếm tỷ lệ không nhiều).
Trong thời kỳ đầu của giai đoạn 1920 – 1940, tốc độ tăng trưởng của vốn tài
liệu và lượt người đọc gần như nhau (tốc độ tăng trưởng trung bình 16,7%/năm từ
1920 – 1930). Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế
giới, tốc độ tăng trưởng của tổng số vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông
Dương không theo kịp tốc độ tăng trưởng của số lượt mượn (tốc độ tăng trưởng trung
bình của vốn tài liệu 8,2%/năm từ 1930 – 1934).
+ Phục vụ thiếu nhi
Mặc dù ra đời muộn so với các loại hình phục vụ cho người lớn nhưng sự xuất
hiện phòng đọc cho thiếu nhi trong các thư viện công cộng lớn như Thư viện Trung
ương Đông Dương, Thư viện Sài Gòn là một ưu điểm lớn trong hoạt động của Nha
110
Lưu trữ và Thư viện Đông Dương. Lần đầu tiên trong hoạt động của thư viện Việt
Nam, thiếu nhi là đối tượng bạn đọc và được quan tâm phục vụ ở một bộ phận riêng.
Sự xuất hiện phòng đọc dành cho thiếu nhi là một yếu tố mới du nhập từ văn minh
phương Tây.
Theo Báo cáo hàng năm của Nha Lưu trữ và Thư viện ở Đông Dương, năm
1940, Thư viện Trung ương Đông Dương đã thành lập phòng đọc dành cho thiếu nhi,
thu hút được một khối lượng lớn bạn đọc trẻ em (15 tuổi và dưới 15 tuổi). Phòng đọc
dành cho thiếu nhi thường xuyên có số lượng độc giả đông, con số sách phục vụ lên
tới 15.000 cuốn/năm vào năm 1941-1942 [101], [103]. Tại Thư viện Sài Gòn, phòng
đọc dành cho thiếu nhi có số lượng người mượn tăng đều, đặc biệt vào năm 1940-
1941 (Bảng 2-16):
Bảng 2-16: Số lượt người đọc ở phòng đọc thiếu nhi của thư viện Sài Gòn
Năm Lượt (người)
1939-1940 6 079
1940-1941 9 491
1942-1943 6 760
1943-1944 8 010
Nguồn: [101], [103].
+ Phục vụ lưu động
Mạng lưới thư viện ở Đông Dương phát triển đã tác động mạnh đến đời sống
văn hóa và tinh thần của nhân dân, trong đó phải kể đến sự xuất hiện hình thức phục
vụ thư viện lưu động cho các vùng dân cư hẻo lánh. Hình thức phục vụ thư viện này
được đón nhận nồng nhiệt từ công chúng Nam Kỳ và Bắc Kỳ.
- Cách tổ chức thư viện lưu động thời Pháp thuộc
Theo Cẩm nang sắp xếp thư viện ở Đông Dương, có hai loại thư viện lưu động
được tổ chức [106]:
1. Kho sách lưu động: Tổ chức trung tâm gửi định kỳ một số sách (đóng theo
thùng) tới các địa phương có vùng dân cư hẻo lánh. Việc vận chuyển các thùng sách
bằng các xe cam-nhông nhỏ hoặc bằng đường sắt. Những kho sách này là những thư
viện nhỏ. Sách được chuyển đến trong những thùng có chiều dài 0,90m, rộng 0,70m,
111
cao 0,35cm, được chia làm hai tầng theo chiều dài bằng một ván đợt trở thành 2 giá
sách. Các thùng chồng lên nhau, sách trong thùng đã được sắp xếp như trên giá thư
viện. Kèm theo mỗi thùng là một bản thống kê số sách trong mỗi thùng. Các thùng
sách được luận chuyển, thay thế bằng các thùng mới sau một thời gian để chuyển
sang địa phương khác.
2. Ô tô thư viện: Trong những vùng nơi dân cư sống tản mát, kho sách để cố
định một nơi không phát huy hết được tác dụng phục vụ. Thư viện sử dụng hình
thức tổ chức xe ô tô thư viện. Những giá trong ô tô thư viện có hai mặt và đặt hai
giá trong xe, lối đi giữa để đi lại lấy sách. Một nhân viên thư viện đi theo ô tô thư
viện, mang theo sổ thống kê sách, mục lục và sổ đăng ký cho mượn. Độc giả tự
chọn sách và ghi vào sổ cho mượn. Ở chuyến xe lần sau, độc giả sẽ trả sách cũ và
mượn sách mới. Một mục lục chung của thư viện lưu động được kèm theo mỗi ô tô
thư viện. Nhờ vào mục lục này, độc giả có thể tra cứu toàn bộ cuốn sách và đăng ký
mượn trong chuyến xe sau.
Dự án thư viện lưu động đầu tiên được xây dựng nhằm phục vụ ở Bắc Kỳ, kế
hoạch mở rộng sau đó trên toàn Đông Dương. Trung tâm điều phối sách được thành
lập với mục đích điều phối sách cho các địa phương (sách chữ Pháp, chữ Quốc ngữ
và sách phổ biến khoa học). Trung tâm bao gồm một bộ phận ở Hà Nội và một kho
sách ở các Thủ phủ của mỗi tỉnh. Việc trông coi giao cho một thư ký của Tòa Công
sứ chịu trách nhiệm đăng ký cho mượn và bán sách phổ biến khoa học. Hai xe cam-
nhông nhỏ được trang bị đặc biệt để chở sách qua các tỉnh.
Trên thực tế thư viện lưu động thời kỳ này được tổ chức chủ yếu theo cách sử
dụng ô tô thư viện. Dự án xây dựng thư viện lưu động nhằm phục vụ ở Bắc Kỳ. Tuy
nhiên những thử nghiệm của hình thức phục vụ thư viện này lại được thực hiện trước
ở Nam Kỳ.
- Hoạt động của thư viện lưu động Nam Kỳ
Thử nghiệm đầu tiên về tổ chức thư viện lưu động được thực hiện ở Nam Kỳ
từ tháng 3 năm 1936 đã được đón nhận nhiệt tình từ công chúng . Một xe thư viện
lưu động đã được sử dụng để thực hiện ở 11 tỉnh. Từ khi thực hiện hoạt động này, số
112
lượng bạn đọc của thư viện lưu động tăng nhanh hơn dự kiến (Bảng 2-17). Do chưa
đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc bằng một xe thư viện lưu động, một xe thứ hai đã
được bổ sung và hoạt động từ 6/12/1937 phục vụ cho các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau,
Rạch Giá, Hà Tiên, Châu Đốc, Tây Ninh, Bà Rịa và Vũng Tàu. Thủ phủ các tỉnh thời
điểm này được phục vụ mỗi tháng hai lần.
Tài liệu của thư viện lưu động gồm gần 3800 cuốn được sắp xếp theo chữ cái,
chủ đề và tác giả. Do nhu cầu của độc giả chủ yếu là giải trí và sử dụng thời gian rỗi,
hơn nữa những tài liệu cổ là những cuốn sách khó đọc đối với đa số bạn đọc ở các
tỉnh nên được thay bằng những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn có nội dung dễ hiểu.
Sách chữ Quốc ngữ chiếm được sự quan tâm lớn của bạn đọc. Sau này, thư viện bổ
sung ngày càng nhiều sách mới trong tất cả các lĩnh vực và sách của các tác giả lớn.
Thư viện lưu động đã phục vụ bạn đọc ở Nam Kỳ trong 5 năm từ 1936-1941 và thực
hiện được 138 chuyến.
Bên cạnh việc cho mượn sách, Thư viện lưu động Nam Kỳ còn thực hiện các
hoạt động trao đổi, biếu tặng với các đơn vị khác trong vùng. Năm 1943-1944, Thư
viện lưu động Nam Kỳ đã gửi 60 cuốn sách cho Làng Toàn quyền Nam Kỳ ở Đà Lạt,
30 cuốn cho các kiều dân Pháp ở Sông Bé, 32 cuốn phục vụ và 106 cuốn sách còn
trong tình trạng tốt được tặng cho Nhà tù Nam Kỳ.
Bảng 2-17: Sử dụng vốn tài liệu của thư viện lưu động Nam Kỳ
1936-1937 1937-1938 1939-1940 1940-1941
Số người mượn 1 225 2 581 2 734 2 792
Số lượt mượn 10 016 21 542 22 714 23 540
Nguồn: [91], [92], [93], [94], [101].
Trong giai đoạn 1936-1941, dù số lượng tài liệu của thư viện lưu động Nam
Kỳ không có sự biến đổi (3.759 cuốn) nhưng số lượng người mượn lại tăng nhanh
(Bảng 2-17). Cụ thể có thể thấy tỷ lệ tổng số người mượn hàng năm trên số lượng
sách gia tăng đều đặn từ 33% lên 74%. Tức là trung bình cứ 10 cuốn sách thì có 3
độc giả mượn (33% năm 1936) tăng lên gần 8 độc giả (74% năm 1941). Đặc biệt năm
1937 có sự gia tăng đột biến lượng người mượn lên gấp hai lần (từ 33% lên 69%).
Như vậy đến năm 1941 thì trung bình cứ ba độc giả được mượn bốn cuốn sách.
113
Bên cạnh việc gia tăng số lượng độc giả, vòng quay của sách cũng tăng lên
đáng kể. Trong giai đoạn 1936 – 1941, tỷ lệ số lượng lượt mượn sách trên tổng số
sách đã tăng gấp hai lần (từ 2,7 lần lên 6,3 lần). Có thể thấy, nếu năm 1937, trung
bình mỗi năm một cuốn sách chỉ được mượn 3 lần thì đến năm 1941 cuốn sách này đã
được mượn 6 lần.
Bảng 2-18: Hiệu suất hoạt động của thư viện lưu động Nam Kỳ
1936-
1937
1937-
1938
1939-
1940
1940-
1941
Số người mượn/tổng số vốn tài liệu (%) 33 69 73 74
Số lượt mượn/tổng số vốn tài liệu (lần) 2,7 5,7 6,0 6,3
Nguồn: [91], [92], [93], [94], [101].
Điều này có thể thấy nội dung tài liệu, phương thức hoạt động và phục vụ của
thư viện lưu động Nam Kỳ ngày càng trở nên hiệu quả. Thu hút được nhiều độc giả
đến sử dụng thư viện, thư viện đã làm thay đổi đời sống văn hóa của cộng đồng. Xét
trong bối cảnh trình độ văn hóa và dân trí còn rất hạn chế của những vùng dân cư hẻo
lánh thời kỳ này thì những kết quả đat được của thư viện lưu động Nam Kỳ rất đáng
ghi nhận.
Tuy nhiên, với số lượng độc giả ngày càng gia tăng, trong khi số lượng sách
không phát triển sẽ ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ, chất lượng thông tin và chất
lượng vật lý của vốn tài liệu.
Việc dừng phục vụ của thư viện lưu động cho phép thư viện Nam Kỳ thực hiện
các công việc thống kê và kiểm kê các sách bổ sung kết thúc vào 10/1942. Thư viện
lưu động của Nam Kỳ hoạt động trở lại do Toàn quyền Nam Kỳ đề nghị chuyển đổi
một trong hai xe ô tô lưu động thành xe xà lim phục vụ nhu cầu đọc của Nhà tù Nam
Kỳ. Có thể thấy, việc dành hẳn 50% quỹ thư viện lưu động cho nhà tù thể hiện chính
sách cải huấn tù nhân của chính quyền thuộc địa thời kỳ này.
+ Hoạt động của thư viện lưu động Bắc Kỳ
Ở Bắc Kỳ, thư viện lưu động được tổ chức dưới hình thức khá đặc biệt: thư
viện kết hợp với hiệu thuốc lưu động. Được thành lập ở Bắc Giang, thư viện lưu động
bắt đầu hoạt động từ tháng 1 năm 1937. Thư viện có 406 cuốn sách bằng chữ Quốc
ngữ và tiếng Pháp có nguồn mua từ quỹ Hỗ trợ Xã hội (Assitance Sociale) (241 cuốn)
114
và từ nguồn biếu tặng (145 cuốn). Sách của thư viện này được sắp xếp theo các mục:
1- Kiến thức thông dụng, 2- Khoa học, văn học và du lịch, 3- Tiểu thuyết, 4- Ba đầu tạp
chí định kỳ.
Thư viện lưu động này đi khắp các khu vực lân cận của thủ phủ tỉnh như Lạng
Giang, Yên Dũng, Việt Yên, Yên Thế và đi đến những chợ lớn để phân phát thuốc
miễn phí cho nhân dân và cho mượn sách. Lý Trưởng chịu trách nhiệm quản lý và
tập trung sách cho mượn và trả lại cho các nhân viên thư viện vào chuyến xe sau. Số
lượng độc giả của thư viện tăng liên tục, đến tháng 4 năm 1937 đạt 265 người, số người
bệnh sử dụng hiệu thuốc lưu động miễn phí đạt 4.937 ((La presse Associée) [113]).
So với hoạt động của thư viện lưu động Nam Kỳ, có thể thấy thư viện lưu động
Bắc Kỳ hoạt động kém hiệu quả hơn. Ví dụ, năm 1937, số lượng đầu sách và số lượng
người mượn ở Bắc Kỳ chỉ bằng một phần mười ở Nam Kỳ (406/3.800 cuốn,
265/2.581 người). Việc này có thể được lý giải, dù mục đích ban đầu của việc kết hợp
thư viện lưu động và hiệu thuốc miễn phí là tốt, tuy nhiên có thể do việc tập trung
nhiều hơn cho hoạt động y tế đã giảm hiệu quả hoạt động và tính chuyên nghiệp của thư
viện lưu động Bắc Kỳ.
Tóm lại, hình thức phục vụ thư viện lưu động giai đoạn này đã làm thay đổi
đời sống tinh thần của nhân dân ở những vùng xa xôi, hẻo lánh. Về phương diện phục
vụ độc giả, thư viện lưu động thực sự là một nét tiến bộ trong hoạt động của thư viện
Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Tuy nhiên, dù Toàn quyền Đông Dương và Nha Lưu
trữ và Thư viện Đông Dương quan tâm, ủng hộ, nhưng thư viện lưu động vẫn chỉ hạn
chế phạm vi hoạt động ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ, hình thức phục vụ này không được tổ chức
ở Trung Kỳ.
- Triển lãm tài liệu
Với mục đích quảng bá hình ảnh của Pháp với thế giới, giới thiệu văn hóa
Đông Dương và Việt Nam, chính quyền thuộc địa cũng tổ chức các cuộc triển lãm tư
liệu cùng với các hội chợ, triển lãm phục vụ mục đích xúc tiến thương mại. Đa số các
cuộc triển lãm tư liệu này đều do Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương chủ trì tổ
chức. Ngay từ những năm đầu thành lập, ngoài việc xây dựng phát triển vốn tài liệu
115
và kiện toàn tổ chức bộ máy hoạt động của thư viện, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương đã tổ chức và tham gia nhiều cuộc triển lãm tư liệu trong và ngoài nước. Đây
là một hoạt động tuyên truyền mới xuất hiện của thư viện. Đặc biệt, những cuộc triển
lãm này giúp cho các viên chức người Pháp và người Âu làm việc trong bộ máy chính
quyền thuộc địa hiểu biết về lịch sử, văn hóa và con người Đông Dương và Việt Nam.
Từ năm 1922, Thư viện Trung ương Đông Dương đã tham gia triển lãm sách,
ấn phẩm định kỳ ở Marseille (Pháp) gồm hàng trăm cuốn sách, bộ sưu tập Công báo
Đông Dương và một số tạp chí đặc sắc… Những tài liệu này bước đầu đem đến cho
người Pháp sự hiểu biết về Đông Dương và Việt Nam. Trong khuôn khổ các cuộc
triển lãm ở nước ngoài, vào năm 1939 và 1940, Thư viện Trung ương Đông Dương
đã tham gia hai cuộc triển lãm tư liệu tại San Francisco, Hoa Kỳ. Triển lãm đã gây
được tiếng vang và cảm tình của người xem bằng cách giới thiệu các tài liệu về văn
hóa, nghệ thuật, âm nhạc và tranh ảnh về đất nước và con người Việt Nam. Những
cuộc triển lãm này được nhiều tờ báo ca ngợi (Ví dụ: tờ báo tiếng Pháp "Le Courrier
du Pacifique” (Báo Thái Bình Dương) tại San Francisco [113], [119]).
Năm 1938, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã phối hợp với Hội người
bạn của Hà Nội cổ tổ chức một cuộc triển lãm tài liệu về lịch sử Đông Dương tại Thư
viện Pierre Pasquier (Thư viện Trung ương Đông Dương). Triển lãm giới thiệu tư
liệu về 3 xứ Bắc - Trung - Nam Kỳ và lịch sử Hà Nội, từ thời cổ đại cho đến khi là
thuộc địa của Pháp [48]. Năm 1941, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã tổ chức
một cuộc triển lãm lớn về lịch sử Đông Dương nhân dịp Hội chợ lần thứ 15 của Hà
Nội diễn ra tại Bảo tàng Maurice Long với sự giúp đỡ của chính quyền Trung Kỳ,
Campuchia và Lào. Triển lãm giới thiệu các tư liệu quí như bản đồ cổ, sách, các bản
khắc nhằm giới thiệu với thế giới sự thay đổi của Việt Nam, gắn kết nhân dân các
nước thuộc liên bang Đông Dương và giới thiệu Đông Dương với thế giới. Chương
trình triển lãm còn có các cuộc thi của các cơ quan khoa học và các nhà sưu tầm.
Bên cạnh những cuộc triển lãm ở Hà Nội, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương cũng tổ chức một số hoạt động triển lãm nhỏ dành cho Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ (Ví dụ : cuộc triển lãm tổ chức nhân dịp tết Nam Giao tại điện Di Luân (Huế)
116
[102]). Trong Hội chợ triển lãm năm 1942 của Thư viện Sài Gòn, Thư viện Trung
ương Đông Dương đã hỗ trợ Thư viện Sài Gòn 42 tài liệu ảnh, 12 cuốn sách liên quan
đến những quan hệ đầu tiên giữa Phương Đông với Phương Tây và đời sống của
những người dân Việt Nam thế kỷ 17. Năm 1943, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương cũng tham gia triển lãm giấy, sách và tranh in tay.
2.3. Đánh giá thực trạng thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
2.3.1. Tổ chức thư viện
- Ưu điểm
Có thể nói, ngay từ khi chiếm toàn bộ Đông Dương và trong cả quá trình khai
thác, đô hộ nước ta, thực dân Pháp đã quan tâm đến việc thành lập, phát triển thư viện
và đã đạt được những thành tựu nhất định. Mạng lưới thư viện đã bước đầu được thiết
lập và từng bước kiện toàn bộ máy quản lý. Từ việc các thư viện được thành lập riêng
lẻ trong các cơ quan hành chính và nghiên cứu, mạng lưới thư viện đã từng bước hình
thành. Nha Lưu trữ và thư viện Đông Dương được chính quyền thuộc địa thành lập
với mục đích quản lý nhà nước về lĩnh vực thư viện trên toàn Đông Dương đánh dấu
bước ngoặt của sự nghiệp thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Hệ thống văn bản
pháp qui qui định cụ thể quy trình tổ chức và hoạt động thư viện đã được kịp thời ban
hành, đưa hoạt động của mạng lưới thư viện đi vào hoạt động ổn định, thống nhất.
Mạng lưới thư viện được thành lập theo mô hình của Pháp: thư viện công
cộng và thư viện chuyên ngành. Mạng lưới thư viện thời kỳ này đã được thành lập
chủ yếu ở các đô thị lớn. Hạn chế và nguyên nhân. Thư viện đề cao không gian sử
dụng thoáng đãng, thân thiện, tạo cảm giác dễ chịu cho người đọc. Thư viện phục
vụ miễn phí là một trong những yếu tố đảm bảo tiêu chí phổ cập và công cộng của
thư viện thời kỳ này.
- Hạn chế và nguyên nhân
Do được thành lập bởi chính quyền thuộc địa và chịu ảnh hưởng của chính
sách thuộc địa nên tổ chức của các thư viện bộc lộ những hạn chế nhất định. Mạng
117
lưới thư viện chủ yếu vẫn tập trung ở các đô thị lớn phục vụ công cuộc khai thác
thuộc địa nên chưa cân đối giữa các vùng miền. Việc sử dụng và đào tạo nhân lực thư
viện chưa được quan tâm. Những vị trí quan trọng trong thư viện vẫn do người Pháp
đảm nhiệm nên người Việt không có cơ hội để tiếp cận công nghệ và cách quản lý
thư viện. Đào tạo nhân lực bản xứ không được thực hiện kịp thời và chỉ dừng ở đào
tạo nghề.
Một trong những nguyên nhân chính của những hạn chế này bắt nguồn từ việc
chính quyền thuộc địa trong giai đoạn đầu thành lập thư viện với mục tiêu chỉ để
nghiên cứu phục vụ công cuộc xâm lược và khai thác thuộc địa.
2.3.2. Hoạt động thư viện
- Ưu điểm
Việc xây dựng vốn tài liệu phục vụ nghiên cứu khoa học là được chính quyền
thuộc địa quan tâm hàng đầu. Sự ưu tiên này tập trung vào thư viện chuyên ngành
và những thư viện công cộng ở những trung tâm hành chính lớn. Với chính sách ưu
tiên và các phương thức bổ sung phong phú (mua sách từ kinh phí Đông Dương, từ
các nguồn sưu tầm, trao đổi trong nước và quốc tế, lưu chiểu xuất bản phẩm,…) các
thư viện thời Pháp thuộc đã xây dựng và phát triển được một vốn tài liệu khá lớn,
góp phần quan trọng cho những nghiên cứu về Đông Dương và Viễn Đông. Số
lượng tài liệu được in ấn ở Việt Nam bằng tiếng Việt và tiếng Pháp chiếm ưu thế.
Những xuất bản phẩm này là minh chứng cho một thời kỳ lịch sử nhiều biến động
của đất nước ta.
Vốn tài liệu của các thư viện đã được tổ chức theo mô hình của các thư viện
của Pháp từ xử lý kỹ thuật, sắp xếp bố trí phòng đọc, phòng mượn, tổ chức kho tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm và sử dụng của bạn đọc. Việc sắp xếp tài liệu
phù hợp với từng phương thức phục vụ đã tạo điều kiện để người đọc, với sự đa dạng
về trình độ và nhu cầu, có thể tiếp cận tài liệu trong những hoàn cảnh và điều kiện
phù hợp nhất.
118
Việc bảo quản và sử dụng lâu dài vốn tài liệu cũng được đặc biệt quan tâm
bằng cách áp dụng các phương pháp bảo quản tiên tiến.
Áp dụng bộ chỉ số sử dụng để đánh giá hoạt động thư viện Việt Nam thời kỳ
Pháp thuộc mà chúng tôi đưa ra (Chương 1. Tiểu mục 1.1.5.2.), có thể nhận thấy mức
độ đáp ứng nhu cầu tin của người đọc thông qua số lượng vốn tài liệu đã được nâng
lên. Ví dụ, tại Thư viện Trung ương Đông Dương, đơn cử năm 1935, với dân số Hà
Nội là 125 nghìn người, có thể thấy tỷ lệ giữa tổng số vốn tài liệu luân chuyển so với
tổng số dân cư đã đạt gần một nửa. Năm 1936, tổng số thẻ đăng ký mới tại Thư viện
Trung ương Đông Dương tăng 12% (531 thẻ so với 475 thẻ năm 1935). Tốc độ tăng
vốn tài liệu chưa đáp ứng được với tốc độ tăng của người đọc (năm 1935, tổng số vốn
tài liệu gấp 126 lần tổng số lượng thẻ, năm 1936, tỷ lệ này còn 119 lần). Trong giai
đoạn 1935 – 1940, tổng số vốn tài liệu tăng lên (tăng 47%) nhưng không theo kịp tốc
độ tăng của số lượng bạn đọc làm thẻ thư viện (tăng 60%).
Như vậy có thể nói mức độ đáp ứng nhu cầu tin của người đọc thông qua số
lượng vốn tài liệu đã được nâng lên nhưng không theo kịp tốc độ tăng người đọc. Tuy
nhiên việc đáp ứng nhu cầu tin của người đọc của thư viện thời kỳ này là sự chuyển
biến lớn so với thời kỳ phong kiến (thư viện không dành cho nhân dân).
Qua những số liệu vừa phân tích, có thể thấy khả năng lôi cuốn, hấp dẫn cộng
đồng của thư viện đã tăng lên đáng kể. Trong sáu tháng đầu năm 1936, trung bình
độc giả tới thư viện hàng ngày tăng 23% so với cùng kỳ năm 1935 (267 so với 217
độc giả). Năm 1936, tổng số độc giả của thư viện đã tăng thêm 3.500 người (63.133
so với 59.633 năm 1935). Theo đó, trung bình hàng tháng số lượt độc giả cũng nhiều
hơn 1.200 lượt so với cùng kỳ năm 1935.
Nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu người đọc, các thư viện đã sử dụng phương
thức phục vụ đa dạng: tại chỗ, cho mượn về nhà, phục vụ thiếu nhi. Ngoài ra, thư
viện còn tổ chức các hình thức phục vụ lưu động được áp dụng ở những vùng hẻo
lánh và phục vụ nhu cầu đọc cho nhà tù. Có thể thấy, những hình thức phục vụ của
thư viện ngày càng phong phú, nhất là từ sau khi Nha lưu trữ và Thư viện Đông
119
Dương ra đời, đã làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin và làm thay đổi đời
sống tinh thần của nhân dân.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bạn đọc, giờ mở cửa của các thư viện kéo
dài từ 9h đến 22h và được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi thư
viện. Các phương thức phục vụ đa dạng này đã thể hiện sự tiến bộ, nâng cao vai trò
xã hội của thư viện trong việc phục vụ cộng đồng.
Về khả năng lôi cuốn, bạn đọc được tạo cảm giác thân thiện khi đến sử dụng
thư viện, được hướng dẫn đọc sách hiệu quả, cũng như được hình thành thói quen
tiếp nhận thông tin kiểu mới (chưa từng có ở các thư viện thời kỳ phong kiến). Số
lượt bạn đọc tăng nhanh mỗi năm đặc biệt vào những năm 1940, 1941 đã thể hiện
được sự ảnh hưởng của thư viện đối với đời sống tinh thần người dân và nhu cầu
thông tin ngày càng cao của công chúng thời kỳ này. Bên cạnh hoạt động cơ bản là
phục vụ bạn đọc, thư viện còn tổ chức các hoạt động bổ trợ bằng hình thức tổ chức
triển lãm, hội chợ trong và ngoài nước để quảng bá, tuyên truyền về thư viện cũng
như về đất nước, văn hóa và con người Việt Nam và Đông Dương.
- Hạn chế và nguyên nhân
Một trong những hạn chế cơ bản nhất của hoạt động thư viện thời kỳ này là
thành phần vốn tài liệu của các thư viện không cân đối (tỉ lệ tài liệu văn học chiếm
gần một nửa vốn tài liệu). Vì sự mất cân đối này của vốn tài liệu, nhân dân ta chủ yếu
chỉ tiếp cận được với văn học Pháp và phương Tây, chịu ảnh hưởng của tư tưởng văn
minh phương Tây. Do trình độ văn hóa còn thấp, việc chỉ tiếp cận sách văn học sẽ
hướng người đọc đến việc chấp nhận hoàn toàn văn hóa và sau đó là chấp nhận sự đô
hộ của người Pháp. Đây chính là mục đích của chính sách thuộc địa của thực dân Pháp.
Cũng để thực hiện mục đích trên, thư viện cũng có những định hướng về đối
tượng sử dụng. Thư viện không dành cho tất cả những người có nhu cầu đọc và nhu
cầu sử dụng thư viện. Ngoài việc quy định tuổi của người đọc bản xứ cao hơn người
người Pháp và người Âu, các qui định về trình độ cũng hạn chế cơ hội được sử dụng
thư viện của người Việt Nam. Mặt khác, mạng lưới các thư viện công cộng và chuyên
120
ngành cũng chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị nơi tập trung các bộ máy hành
chính của chính quyền thuộc địa.
Những hạn chế này bắt nguồn từ mục đích khai thác thuộc địa. Trên thực tế,
hoạt động thư viện không phải nhằm mục đích nâng cao dân trí và thỏa mãn nhu cầu
thông tin của người Việt. Thư viện chủ yếu phục vụ các viên chức làm việc trong
bộ máy của chính quyền thuộc địa, các giáo sư, giảng viên, giáo viên và sinh viên,
những người có ảnh hưởng, có tác dụng tuyên truyền văn hóa, văn minh Pháp.
2.4. Tiểu kết
Sự phát triển của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc được chia thành hai
giai đoạn (1858-1917 và 1917-1945) với những đặc điểm riêng biệt về tổ chức và
hoạt động.
Giai đoạn từ 1858 đến 1917, các thư viện được thành lập ngay trong bộ máy
hành chính. Mặc dù chưa được đầu tư thích đáng, nhân lực thư viện còn thiếu và chưa
được đào tạo bài bản, các thư viện ở Việt Nam đã từng bước hình thành, bao gồm thư
viện công cộng và thư viện chuyên ngành. Tổ chức và hoạt động của các thư viện giai
đoạn này còn đơn giản, tự phát và chưa có quy định thống nhất.
Từ 1917 đến 1945, Nha lưu trữ và thư viện Đông Dương ra đời đã dần dần
đưa mạng lưới thư viện Việt Nam đi vào hoạt động quy củ và thống nhất. Các thư
viện công cộng giai đoạn này được thành lập ở những thành phố lớn. Các văn bản
pháp qui qui định tổ chức và hoạt động của thư viện đã tạo hành lang pháp lý giúp
thư viện tổ chức và hoạt động ổn định và phát triển lên một bước mới so với giai
đoạn trước.
Cơ sở vật chất thư viện đã được quan tâm nhưng chưa đúng mức. Thời kỳ này,
không có một thư viện nào được xây trụ sở mà chủ yếu hoán cải, cải tạo từ các trụ sở
của các cơ quan khác. Tuy nhiên, việc sắp xếp và bố trí thư viện đã theo mô hình thư
viện kiểu mẫu ở châu Âu. Công tác đào tạo nhân lực thư viện chỉ dừng ở đào tạo nghề
tại chỗ. Vấn đề sử dụng nhân lực có sự phân biệt. Nhân lực thư viện người Việt Nam
không được quan tâm bồi dưỡng, tiếp cận phương pháp quản lý, vận hành thư viện
mà chỉ sử dụng vào những vị trí việc làm đơn giản.
121
Các qui trình hoạt động thư viện thời kỳ này đã được thiết lập theo tiêu chuẩn
và phương pháp của các thư viện của Pháp như: bổ sung vốn tài liệu, xử lý kỹ thuật
nghiệp vụ, xây dựng các sản phẩm thư viện, tổ chức phục vụ người đọc với nhiều hình
thức và một số hoạt động khác của thư viện như triển lãm tư liệu trong và ngoài nước.
Mạng lưới thư viện có các phương thức phục vụ phong phú, tổ chức và hoạt
động theo mô hình thư viện hiện đại kiểu Pháp đã thu hút một số lượng lớn người đọc
sử dụng thư viện. Điều đó đã góp phần nâng cao trình độ dân trí và phục vụ việc
nghiên cứu của tầng lớp trí thức Việt Nam.
Bên cạnh những ưu điểm, tổ chức và hoạt động của các thư viện thời kỳ này
vẫn còn một số hạn chế. Mạng lưới thư viện chưa rộng khắp để đáp ứng nhu cầu đọc
của nhân dân ở nông thôn. Thành phần vốn tài liệu mất cân đối, chủ yếu là sách văn
học nhằm làm cho người Việt chấp nhận hoàn toàn văn hóa và sự đô hộ của người
Pháp. Đối tượng sử dụng thư viện còn hạn chế đối với người Việt Nam.
122
3. CHƯƠNG 3
ẢNH HƯỞNG CỦA THƯ VIỆN VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC
TRONG SỰ NGHIỆP THƯ VIỆN VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chịu tác động từ bối cảnh lịch sử, đặc biệt là chính sách thuộc địa, sự nghiệp
thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc đã chịu tác động tích cực cũng như tiêu cực
trong quá trình hình thành và phát triển. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, thư
viện Việt Nam thời kỳ này đã ra đời và phát triển góp phần làm thay đổi đời sống
xã hội Việt Nam nói chung và sự nghiệp thư viện và văn hóa Việt Nam nói riêng.
3.1. Ảnh hưởng của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc tới sự nghiệp
thư viện Việt Nam
Với ảnh hưởng của thư viện hiện đại phương Tây, Thư viện Việt Nam thời kỳ
Pháp thuộc đã đánh dấu sự chuyển đổi mô hình thư viện phong kiến kiểu cũ sang mô
hình thư viện hiện kiểu mới. Sự chuyển đổi mô hình này đã đặt nền móng về lý luận
và thực tiễn cho thư viện Việt Nam hiện đại.
3.1.1. Chuyển đổi mô hình thư viện phong kiến sang mô hình thư viện
hiện đại
Thư viện Việt Nam thời kỳ này đã có những biến chuyển mạnh mẽ về cả mô
hình tổ chức và hoạt động.
3.1.1.1. Hình thành mạng lưới thư viện
Nhìn chung, cách tổ chức của thư viện thời kỳ phong kiến trước 1858 và phong
kiến đương thời vẫn chịu ảnh hưởng của thư viện Trung Quốc. Các thư viện hoạt
động độc lập; đối tượng phục vụ chủ yếu là tầng lớp vua chúa, quan lại. Thời kỳ
phong kiến, việc đào tạo cán bộ thư viện không được đặt ra. Người phụ trách thư viện
được chỉ định trong số các nhà Nho.
Theo Trần Nghĩa và Francois Gros trong Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục
đề yếu, mầm mống của thư viện ở Việt Nam hình thành từ thời Lý dưới hình thức là
các nhà tàng kinh. Theo thống kê của hai học giả này từ thế kỷ 11 đến năm 1922, số
123
lượng các thư viện ở Việt Nam đã hình thành có: Nhà Bát giác chứa kinh (năm 1021),
Kho Đại Hưng (năm 1023), Kho Trùng Hưng (năm 1036), Kho kinh Phật ở Thiên
Trường ở Nam Định, Nam Hà (năm 1295), Điện Bảo Hòa một thư viện đời nhà Trần
(năm 1383), Thư viện Bồng Lai thành lập vào đời Lê, Thư viện Sùng Chính thành
lập năm 1791 [18].
Theo Dương Bích Hồng, trong suốt 10 thế kỷ (từ thế kỷ I đến thế kỷ X) ở Việt
Nam thư tịch chủ yếu viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Hình thức xuất bản rất thô sơ,
thủ công. Thế kỷ X, khi đạo Phật hưng thịnh, các tài liệu chủ yếu là các ván khắc
chép tay và phổ biến là kinh Phật. Việc chép sách và in khắc gỗ thủ công kéo dài hàng
chục thế kỷ, từ triều Lý cho đến triều Nguyễn thì kết thúc. Việc tàng trữ thư tịch đã
được đặt ra nhưng do chiến tranh, loạn lạc, sách vở bị đốt và mai một rất nhiều, số
còn lại không được bao nhiêu. Tàng trữ thư tịch qua các triều đại có thể chia thành 3
nhóm: nhóm thư viện nhà nước, kho kinh sách của nhà chùa và tủ sách của các danh
nho, các gia đình, dòng họ [9].
Thư viện Nhà nước do nhà nước phong kiến chủ trương lập ra và quản lý,
trong đó phải nói đến thư viện Bí thư giám trong Quốc tử Giám. Các triều đại Lý,
Trần, Lê, đều hết sức coi trọng các cơ sở tàng trữ này. Bên cạnh các thư viện nhà
nước, có các thư viện được xây dựng trong các chùa chiền, nội dung sách là sách kinh
phục vụ các tầng lớp tăng ni, đối tượng sử dụng rất hạn chế.
Thời kỳ phong kiến nhà Nguyễn, thư viện được quan tâm nhiều hơn. Có một
số thư viện được thành lập: Thư viện Tụ Khuê thành lập đời Minh Mạng (1820-1840),
Thư viện Sử quán thành lập năm Thiệu Trị I (năm 1841), Thư viện tư nhân gia đình
Lê Nguyên Trung đời Thiệu Trị, Thư viện Nội các (năm 1908), Tân Thư viện thành
lập vào đời Duy Tân (1907-1916), Thư viện Viện Cổ học thành lập năm 1922 [18].
Có thể nói thư viện thời kỳ phong kiến có số lượng ít, tồn tại biệt lập, chưa
hình thành mạng lưới thư viện có sự can thiệp của chính quyền về tổ chức, nhân lực,
cơ sở vật chất, kinh phí đầu tư. Thư viện chủ yếu phục vụ cho tầng lớp quan lại và trí
thức phong kiến.
124
Thời kỳ Pháp thuộc, bắt đầu hình thành mạng lưới thư viện có chủ định do
chính quyền thuộc địa thành lập và quản lý; mô hình thư viện hiện đại đã xuất hiện.
Mạng lưới thư viện bao gồm thư viện công cộng và thư viện chuyên ngành. Đối tượng
phục vụ đã mở rộng tới một bộ phận công chúng. Các hình thức phục vụ của thư viện
được đa dạng hóa, đặc biệt là hình thức phục vụ lưu động được tổ chức để phục vụ
những vùng dân cư hẻo lánh.
- Tăng cường quản lý nhà nước với thư viện
Từ năm 1917, vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực thư viện đã thể hiện rõ
bằng việc thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đại diện cho Toàn quyền
Đông Dương quản lý nhà nước lĩnh vực thư viện và lưu trữ. Sau văn bản này là các
văn bản pháp qui của Toàn quyền Đông Dương qui định về bộ máy nhân sự, chế độ
chính sách đối với nhân lực thư viện, đào tạo, tổ chức và hoạt động mạng lưới thư
viện, hoạt động nghiệp vụ trong các thư viện.
Các thư viện công cộng lớn (Thư viện Sài Gòn, Thư viện Trung Kỳ và thư
viện ở các thành phố Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh,…) dần được công nhận, sáp
nhập, chịu sự quản lý và tuân theo những chỉ đạo về nghiệp vụ của Nha Lưu trữ và
Thư viện Đông Dương, cũng như tổ chức theo mô hình của Thư viện Trung ương
Đông Dương. Các thư viện phổ thông hoạt động theo kinh phí của các Hội nhưng
cũng có điều lệ hoạt động, qui định về tổ chức và hoạt động nghiệp vụ thư viện. So
với các thư viện của nhà nước phong kiến trước 1858 và phong kiến đương thời,
mạng lưới thư viện thời Pháp thuộc đã được hình thành có chủ định và từng bước
được quản lý có hệ thống.
Ngân sách dành cho thư viện đã được quy định thành thể chế trong Nghị định
của Toàn quyền Đông Dương với tư cách là một lĩnh vực hoạt động thuộc phúc lợi
xã hội. Việc qui định về ngân sách này tạo điều kiện cho thư viện duy trì hoạt động
ổn định, đặc biệt trong điều kiện thư viện hoạt động theo mô hình mới với đầy đủ các
hoạt động của thư viện hiện đại.
- Bước đầu chú trọng đào tạo nguồn nhân lực
Để vận hành được thư viện theo khuôn mẫu của các thư viện hiện đại đương
thời ở Pháp, chính quyền thuộc địa đã thiết lập các khóa đào tạo tại chỗ để giải quyết
125
khiếm khuyết về nhân lực. Nội dung của các khóa đào tạo đã bước đầu trang bị những
kiến thức về lý luận về thư viện học, thư mục học và đặc biệt là kỹ năng trong tất cả
các khâu nghiệp vụ thư viện. Mặc dù chưa quan tâm đào tạo nguồn nhân lực thư viện
bậc cao nhưng chương trình đào tạo tại chỗ này đã góp phần không chỉ kỹ năng
chuyên ngành mà còn đào tạo, rèn luyện đào tạo, bồi dưỡng nhận thức nghề nghiệp
cho nhân lực thư viện trong một xã hội văn minh. Đây là một trong những vẫn đề
được quan tâm của thư viện học hiện đại.
Việc đào tạo cùng với chế độ lương bổng, đãi ngộ, kỷ luật lao động đã tạo ra
một lớp nhân lực thư viện lành nghề góp phần đưa sự nghiệp thư viện đương thời
hoạt động ổn định.
- Bất bình đẳng trong việc sử dụng nguồn nhân lực
Bên cạnh những ưu điểm của mô hình thư viện kiểu mới hiện đại, thư viện Việt
Nam thời kỳ này cũng bộc lộ một số hạn chế có nguyên nhân từ chính sách thuộc địa.
Vấn đề sử dụng nhân lực thư viện thời Pháp thuộc bộc lộ sự phân biệt trình độ
đối xử của thực dân Pháp đối với người bản xứ. Sự phân biệt này đã làm hạn chế trình
độ của nhân lực thư viện người Việt Nam.
Để được tuyển dụng vào cơ quan thuộc bộ máy của chính quyền thuộc địa,
người bản xứ phải đảm bảo các yêu cầu và điều kiện tuyển dụng rất ngặt nghèo, thể
hiện sự bất bình đẳng giữa người Việt và người Pháp, đồng thời thể hiện rõ nét sự bất
bình đẳng về giới. Trong hầu hết các vị trí việc làm (trừ nữ hộ sinh) trong đó có viên
chức lưu trữ - thư viện, chính quyền thuộc địa chỉ tuyển viên chức nam giới nhưng
phải có nguồn gốc nhân thân liên quan đến người Pháp. Chính vì lý do này, phụ nữ
người Việt Nam dường như không có mặt trong bộ máy hành chính của chính quyền
thuộc địa. Chính vì lý do đó, không có phụ nữ người Việt làm việc trong các cơ quan
thư viện và lưu trữ.
Công tác đào tạo đội ngũ viên chức lưu trữ - thư viện chưa được coi trọng đúng
mức. Gần 15 năm sau khi thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, năm 1931,
vấn đề đào tạo tại chỗ viên chức lưu trữ - thư viện mới được đặt ra và mở được lớp đào
tạo đầu tiên. Việc đào tạo đội ngũ thủ thư thư viện mới dừng ở đào tạo nghề. Sự thiếu
126
quan tâm trong đào tạo nguồn nhân lực bậc cao cho thư viện làm cho việc vận hành tổ
chức và hoạt động trong thư viện sau này thiếu tính chủ động. Những thao tác quản lý
và nghiệp vụ quan trọng thường do người Pháp đảm nhiệm. Đây là nguyên nhân dẫn
đến sự hẫng hụt về nguồn nhân lực thư viện khi Việt Nam hoàn toàn độc lập.
3.1.1.2. Xây dựng và tổ chức kho tài liệu theo các qui tắc thống nhất
Tài liệu trong các thư viện nhà nước phong kiến chủ yếu là chép tay, nghèo
nàn về chủng loại. Thời kỳ phong kiến, công tác xử lý kỹ thuật nghiệp vụ còn sơ sài,
thiếu tính thống nhất. Các sản phẩm dịch vụ chưa phong phú. Vấn đề đào tạo nhân
lực thư viện chưa được đặt ra nên hoạt động của các thư viện chưa có sự thống nhất
về nghiệp vụ, các thư mục chưa thống kê được đầy đủ các tài liệu.
Về công tác xây dựng và phát triển vốn tài liệu, các thư viện thời kỳ Pháp
thuộc này đã có những đóng góp lớn. Bổ sung vốn tài liệu bằng nhiều phương thức,
đặc biệt là phương thức lưu chiểu và trao đổi, những phương thức bổ sung hiện đại,
đã làm hình thành một khối lượng tài liệu đáng kể ở Việt Nam. Trong đó có những
dạng tài liệu chưa từng có trong quá khứ và trong thời kỳ phong kiến đương thời
như báo, tạp chí, tập san, kỷ yếu, đặc biệt là những tạp chí nghiên cứu khoa học tầm
cỡ như Tạp chí Đông Dương (Revue indochinoise). Các dạng tài liệu mới này mang
đến một môi trường nghiên cứu khoa học cho giới trí thức Việt Nam. Bên cạnh đó,
việc chính quyền thuộc địa dành riêng ngân sách đều đặn cho lĩnh vực thư viện nói
chung, công tác bổ sung tài liệu nói riêng là đã đảm bảo tính ổn định và phát triển
vốn tài liệu.
Vấn đề thu thập tài liệu của dân tộc ta đã được chính quyền thuộc địa quan
tâm và đầu tư. Bên cạnh thư viện Trung ương Đông Dương, thư viện của Trường
Viễn Đông bác cổ đã có những đóng góp lớn. Với sự kiên trì và những chi phí không
nhỏ, EFEO đã sao lại các tư liệu tại Nội các nhà Nguyễn từ thời Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức hoặc in khắc gỗ tại Sử quán; thu thập và thuê chép lại tại các địa phương
và các gia đình những văn bản chưa xuất bản, những tư liệu về đền chùa, làng xã và
về các dòng họ… Những cuốn sách này chủ yếu là sách chữ Hán, một số sách chữ
127
Nôm. Ngoài ra còn có những bản dập văn khắc ở các nước Đông Dương, nhiều nhất
là ở Việt Nam [24].
Những tài liệu quí hiếm như Châu bản, Mộc bản triều Nguyễn (trước đây chỉ
phục vụ cho tầng lớp quan lại phong kiến) đã được đầu tư sắp xếp lại và phục vụ công
chúng. Thông qua khối tài liệu quí giá này, nhân dân ta có điều kiện tìm hiểu, nghiên
cứu về lịch sử của đất nước.
Vấn đề tổ chức kho tài liệu theo các tiêu chuẩn của các thư viện Pháp: theo
chủ đề (đối với kho mượn) và theo chữ cái (kho đọc) là một phương pháp sắp xếp
khoa học hướng tới hiệu quả phục vụ người đọc. Theo cách xếp kho theo chủ đề ở
kho mượn, người đọc dễ dàng tìm tài liệu trong thời gian ngắn nhất, phù hợp và kích
thích nhu cầu đọc, tạo cảm giác thoải mái và chủ động. Tuy nhiên, cách tổ chức này
không được thực hiện trong kho mượn ở các thư viện Việt Nam hiện nay.
3.1.1.3. Xử lý nghiệp vụ thư viện theo phương pháp và qui tắc thống nhất
Thời kỳ phong kiến, các thư viện xử lý nghiệp vụ tùy theo quan điểm và trình
độ của người phụ trách thư viện.
Về phân loại, vào thế kỷ 18, về phân loại sách, trong Vân đài loại ngữ, nhà bác
học Lê Quí Đôn đã chia tri thức làm 9 loại: Lí trí (vũ trụ luận), Hình tượng (vũ trụ
học), Khu vũ (địa lý), Vững điểm (điều lệ, chế độ), Văn nghệ (văn học), Am tư (ngôn
ngữ, văn tự), Thư tịch (bàn về sách), Phẩm vật (vật loại thiên nhiên). Sau Lê Quí Đôn
(1726-1784), Phan Huy Chú (1782-1840) trong Lịch triều hiến chương loại chí phân
loại các bộ môn tri thức làm 10 chí:
Địa dư chí: giới thiệu địa lý, lịch sử nước ta;
Nhân vật chí: tiểu sử các vua, quan, nho sĩ, tướng lĩnh, những người
trung trực, trong sạch nổi tiếng trong lịch sử nước ta;
Quan chế chí: chế độ quan lại Việt Nam;
Lễ nghi chí: nghi thức về việc lễ ở triều đình, phẩm phục của vua chúa và
quan lại;
128
Khoa mục chí: chế độ khoa cử, danh sách những người đạu tiến sĩ
trở lên;
Quốc dụng khí: tài chính và chế độ thuế của các triều đại;
Hình luật chí: pháp luật áp dụng dưới các triều đại;
Văn tịch chít: tình hình sách Hán - Nôm từ triều Lý đến triều Lê;
Bang giao: chính sách ngoại giao, lịch sử ngoại giao giữa Việt Nam và
Trung Hoa.
Trong Văn tịch chí (Lịch triều Hiến chương loại chí), Phan Huy Chú cũng
không chia sách thành 10 bộ môn tri thức như ông đã quan niệm, chia làm 4 loại như
Lê Quí Đôn và một phụ loại:
Hiến chương: 26 bộ
Kinh sử: 27 bộ
Thi văn: 106 bộ
Truyện ký: 54 bộ
Phụ loại là các sách phương kỹ.
Về biên mục:
Ở cung điện không có người chuyên trách về thư viện, không có người tổ chức
kiểm tra các văn bản sao chép. Lê Quí Đôn là người đầu tiên dành thời gian lập bản
kê những sách Hán Nôm từ triều Lý đến đầu triều Lê trung hưng. Bản kê đó là một
thư mục tổng quát được ông đặt tên là Nghệ Văn chí biên soạn năm 1759. Nghệ Văn
chí trong bộ Lê triều thông sử là một tài liệu vô giá cho ngành Thư viện và Lưu trữ.
Qua các công trình thư mục, cách biên mục không theo qui tắc chặt chẽ, song
những yếu tố chính đều được đề cập tới. Điều này có thể lý giải do thời kỳ này chưa
có công nghệ in ấn, sách chủ yếu là chép tay và sau này là in trên bản khắc nên các
yếu tố về xuất bản chưa có và số lượng bản còn ít dẫn đến phân loại cũng chưa
phong phú.
Thời kỳ phong kiến nhà Nguyễn, theo Trần Nghĩa, về mô tả thư mục, các yếu
tố thư mục trong Tụ Khuê thư viện tổng mục sách được trình bày theo các yếu tố tên
129
sách, số bộ, số bản, tác giả, tình trạng sách, nguồn cung cấp sách… Nội các thư mục
và Tân thư mục thủ sách đều theo phương pháp làm thư mục của Tứ khố toàn thư.
Thư viện cổ học thành lập tại Huế năm 1922. Cổ học thư tịch thủ sách là bản
thư mục kết hợp giữa thư mục học Trung Quốc và thư mục học Việt Nam. Về mô tả,
các yếu tố thư mục trong Cổ học thư tịch thủ sách được trình bày theo các yếu tố: Tên
sách, số bộ, đủ hoặc thiếu; nội dung sách; người biên soạn; số quyển nguyên có; số
quyển hiện đóng; kí hiệu sách; khắc in hoặc sao chép và lai lịch sách; cách đóng của
sách. Trong mô tả và trong phân loại Cổ học thư tịch thủ sách vừa tiếp thu các nhân
tố hợp lý của Tứ khố toàn thư (Kinh, Sử, Tử, Tập) vừa cải tiến và đổi mới phương
pháp phân loại cho phù hợp với tình hình sách vở và phân ngành học thuật đương
thời [18].
Thời kỳ Pháp thuộc, so với hoạt động của thư viện Việt Nam trước thế kỷ 19
vấn đề xử lý tài liệu của thư viện đã có một bước tiến, theo xu hướng sâu hơn, chuẩn
hóa hơn. Với thế mạnh của một nước phát triển ở châu Âu, Pháp đã du nhập vào Đông
Dương cách tổ chức và hoạt động của các thư viện bước đầu hiện đại ở châu Âu thời
kỳ này. Công tác bổ sung, qui trình xử lý tài liệu, các sản phẩm thư viện, tổ chức và
bảo quản và phục vụ độc giả đều đã được tiêu chuẩn hóa trong các tài liệu hướng dẫn.
Qui tắc biên mục đã được ban hành định ra tiêu chuẩn cụ thể được sử dụng ở
Pháp có điều chỉnh phù hợp với xuất bản ở Việt Nam. Qui tắc biên mục đã qui định
rõ ràng cách mô tả tên người Việt và tên hiệu của vua chúa (thể chế chính trị của Việt
Nam trước khi Pháp đô hộ). Những yếu tố mới được đưa vào biên mục do nghề in ấn
và xuất bản ra đời như nơi xuất bản, nhà xuất bản, nơi in, nhà in. Đặc biệt, việc đánh
chỉ số trên phiếu mô tả là một bước tiến mới khoa học trong biên mục, tạo điều
kiện cho độc giả có thể xác định chủ đề của tài liệu ngay trên phiếu mô tả mục lục.
Bên cạnh đó, tiêu chuẩn này cũng định ra hệ thống dấu kí hiệu ngăn cách các vùng,
yếu tố tạo tiền đề cho việc tiêu chuẩn hóa biên mục sau này.
Phân loại tài liệu được tạo một bước ngoặt từ việc ứng dụng một Bảng phân
loại thập phân quốc tế đáp ứng và phù hợp với tình hình phát triển của xuất bản phẩm
130
gia tăng khi nghề in ấn, xuất bản và du nhập vào Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh
tài liệu bằng các ngôn ngữ phương Tây có nội dung về các lĩnh vực tri thức khoa học
kỹ thuật, luật pháp, y học, văn học du nhập ồ ạt vào Việt Nam thời kỳ này. Các tài
liệu của thư viện Việt Nam thời kỳ này đã được phân loại lại theo một bảng phân loại
mới, khoa học, không giống với cách phân chia theo bộ (ảnh hưởng của phương pháp
phân loại của Trung Quốc). Việc áp dụng một bảng phân loại thập phân quốc tế trong
phân loại tài liệu thư viện thời kỳ này đánh dấu bước tiến cả về lý luận và thực tiễn
của thư viện Việt Nam.
3.1.1.4. Sự đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ thư viện
Mục lục và thư mục là các sản phẩm và dịch vụ thư viện thể hiện ưu việt của
mô hình hoạt động kiểu mới hiện đại thời kỳ này. Các sản phẩm và dịch vụ này hướng
tới việc phục vụ tra tìm cho người đọc thuận lợi và hiệu quả.
Có hai loại mục lục được thiết lập trong các thư viện thời kỳ này là: mục lục
chữ cái và mục lục chủ đề. Việc xây dựng được hai loại mục lục cơ bản này dựa trên
thành tựu về biên mục và phân loại tài liệu của Pháp mà chính quyền thuộc địa cho
áp dụng ở các thư viện Việt Nam. Mặc dù mới ở dạng truyền thống nhưng các mục
lục đã góp phần giúp độc giả tiếp cận với tài liệu nhanh chóng, làm thay đổi chất
lượng phục vụ trong bối cảnh lưu lượng độc giả đến đọc sách ngày càng nhiều. Mục
lục trong các thư viện thời kỳ này là một đóng góp cho thực tiễn thư viện học Việt
Nam. Lần đầu tiên thư viện đã hướng tới người đọc thông qua sản phẩm thư viện, tối
ưu hóa việc tra tìm tài liệu. Đây cũng chính là mục tiêu của thư viện hiện đại mà thư
viện thời kỳ này đã thực hiện được.
Về thư mục, trong các thư viện nhà nước phong kiến, Nghệ văn chí là bản thư
mục liệt kê những sách Hán Nôm ở nước ta từ thời Lý - Trần đến đời Hậu Lê. Cách
mô tả thư mục giống như biên mục. Trong thư mục, mỗi bộ sách chỉ liệt kê tên sách,
tên người biên soạn hay sáng tác, số quyển, nhận xét về tình trạng sách còn hay mất,
thiếu hay đủ, có quyển ghi ý kiến phê bình của tác giả. Đặc điểm của thư mục là bảng
kê tên sách. Nghệ văn chí là bản thư mục đầu tiên của nước ta [16].
131
Tuy nhiên hai thiên thư mục này cũng còn một số hạn chế: Các sách chữ Nôm
chưa được phản ánh đúng vị trí trong khi chữ Nôm thế kỷ 18-19 phát triển khá mạnh.
Nhiều tác phẩm Nôm có giá trị cao không được đưa vào thư mục như Chinh phục
ngâm bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều,
Truyện Kiều của Nguyễn Du... và một số truyện Nôm có giá trị nghệ thuật như Nhị
Độ Mai, Quan Âm Thị Kính..., một số sách về y, dược có giá trị cao chưa được đưa
vào vị trí xứng đáng như Nam dược Thần điệu của Tuệ Tĩnh không được phản ánh
trong Nghệ văn chí của Phan Huy Chú [25].
Sản phẩm thư mục là một thành công lớn của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp
thuộc. Lần đầu tiên các thư mục được biên soạn theo nguyên tắc theo tiêu chuẩn biên
mục hiện đại của Pháp [Phụ lục 6, 179]. Các thư mục chủ yếu do người Pháp biên
soạn nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu về Đông Dương và Việt Nam. Các công
trình thư mục này đã tạo điều kiện cho người nghiên cứu tiếp cận với tài liệu nhanh
nhất thông qua những chỉ dẫn của thư mục. Đặc biệt đã xuất hiện thư mục bậc hai
(Note sur les travaux bibliographies concernant l'Indochine française) và Danh mục
ấn phẩm lưu chiểu (Liste des imprimés déposés au service de dépôt légal) là tiền đề
cho hoạt động thư mục hiện đại.
Như vậy, hoạt động thư mục trong thư viện thời kỳ Pháp thuộc đã phát triển
một bước so với thời kỳ phong kiến trước đây cả về nội dung và phương pháp biên
soạn. Những người biên soạn đã thu thập khá đầy đủ tài liệu trong trong các cơ quan
hành chính, các cơ quan nghiên cứu và trong nhân dân nhằm phục vụ cho công tác
nghiên cứu và học tập. Ngoài thư mục tổng quát, chuyên đề, thư mục sách lưu chiểu,
thư mục bậc hai xuất hiện thống kê những công trình thư mục đã được biên soạn,
tránh việc trùng lặp thư mục thể hiện sự tiến bộ trong lý luận và thực tiễn thư mục
học. Về nội dung, những công trình thư mục biên soạn thời kỳ này không chỉ là nguồn
tài liệu quý báu cho nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam mà còn là những tư liệu
tham khảo và kinh nghiệm thực tiễn cho công tác biên soạn thư mục trong thư viện
ngày nay.
132
Công tác phục vụ bạn đọc đã thể hiện sự rõ nét sự tiến bộ trong khai thác tài
liệu thư viện của hoạt động thư viện thời kỳ này. Các phương thức phục vụ đã được
đa dạng hóa cùng với cách tổ chức bố trí phòng đọc, phòng mượn, kho lưu động để
có thể tiếp đón tối đa bạn đọc. Đặc biệt là hình thức phục vụ thiếu nhi (một đối tượng
đọc lần đầu tiên được quan tâm) và phục vụ lưu động đã phát huy tối đa vai trò xã
hội của thư viện đối với cộng đồng. Một số qui định trong hoạt động phục vụ bạn đọc
như giờ phục vụ người đọc kéo dài và linh hoạt, qui định giữ gìn sách và vệ sinh trong
phòng đọc, phạt tội làm mất sách theo luật định đã thiết lập vai trò quan trọng của
sách đối với cộng đồng. Những qui định này đã góp phần quan trọng trong việc gìn
giữ và bảo quản sách lâu dài. Bên cạnh các đối tượng đọc phổ biến, tù nhân cũng
được phục vụ đọc sách bằng hình thức thư viện lưu động. Hình thức phục vụ này thể
hiện tính nhân văn trong nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhận thức, tâm hồn cho con
người. Theo con số thống kê của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, lưu lượng
người đọc ngày càng tăng theo năm. Có thể nói, thư viện đã làm thay đổi thói quen
tiếp nhận thông tin và làm nảy sinh nhu cầu đọc của nhân dân.
Thiết kế kho tàng để bảo quản lâu dài tài liệu là một vấn đề mới mẻ của thư
viện thời kỳ này. Các thư viện thời phong kiến bảo quản sách trong các tàng thư, đình
chùa có diện tích nhỏ, kho tàng thấp mang đặc trưng của kiến trúc phương Đông. Kho
sách của thư viện thời Pháp thuộc được thiết kế kiên cố, cao, nhiều tầng để có thể
tàng trữ được nhiều sách trong bối cảnh vốn tài liệu tăng nhanh và cũng đảm bảo yếu
tố khí hậu. Pháp là một nước ôn đới có khí hậu khô và lạnh nên việc thiết kế kho để
bảo quản tài liệu không gặp nhiều khó khăn. Tại Việt Nam, chính quyền thuộc địa đã
không áp dụng hoàn toàn thiết kế kho ở chính quốc mà đã thay đổi phù hợp với khí
hậu nhiệt đới, nóng ẩm, mưa nhiều. Kho thư viện và lưu trữ của Nha Lưu trữ và Thư
viện Đông Dương là niềm tự hào của chính quyền thuộc địa.
3.1.1.5. Một số hạn chế
Việc chuyển đổi mô hình thư viện phong kiến sang mô hình thư viện hiện đại
mang lại cho thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc nhiều biến đổi tích cực. Như đã
trình bày ở trên, mạng lưới thư viện đã được hình thành và bước đầu quản lí theo hệ
133
thống; xây dựng, tổ chức kho tài liệu và xử lý nghiệp vụ theo những phương pháp và
qui tắc thống nhất, đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ thư viện. Tuy nhiên, bên
cạnh những biến đổi tích cực, có thể nói thư viện thời kỳ này cũng có một số ảnh
hưởng tiêu cực đến thư viện Việt Nam đương thời như sự bất bình đẳng trong phục
vụ bạn đọc và mất cân đối trong phát triển vốn tài liệu.
- Bất bình đẳng trong phục vụ bạn đọc
Để phục vụ bộ máy chính quyền thuộc địa, mạng lưới thư viện chủ yếu được
thành lập ở các đô thị lớn phục vụ cho một bộ phận người đọc là trí thức, công chức,
giảng viên, giáo viên, sinh viên. Yêu cầu về đối tượng và trình độ đã hạn chế thành
phần người đọc. Số lượng người đọc dù tăng dần hàng năm nhưng chỉ tập trung ở
tầng lớp trí thức, đại đa số nhân dân không được sử dụng thư viện và không có điều
kiện sử dung thư viện, đặc biệt là nhân dân ở nông thôn. Hoạt động của các thư viện
chủ yếu phục vụ cho tầng lớp trí thức phục vụ cho bộ máy chính quyền và khai thác
thuộc địa. Các thư viện đại chúng hoạt động trong các hội chủ yếu phục vụ việc dạy
học tiếng Pháp, tuyên truyền văn hóa và văn minh Pháp. Như vậy, mặc dù đã hình
thành thư viện công cộng và chuyên ngành, nhưng trên thực tế các thư viện vẫn chưa
hoàn toàn thực hiện được chức năng công cộng đó là phục vụ tất cả các tầng lớp nhân
dân, không phân biệt tuổi tác nghề nghiệp.
- Mất cân đối trong phát triển vốn tài liệu
Sự mất cân đối trong thành phần vốn tài liệu của thư viện thời kỳ này đã làm
hạn chế khả năng tiếp cận của người đọc tới các lĩnh vực khoa học tiên tiến. Sự mất
cân đối này cũng làm hạn chế đến việc tiếp cận trong nghiên cứu khoa học và triển
khai trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật làm nền tảng cho hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh đó, việc cấm lưu hành những tài liệu tiến bộ của các trí thức yêu nước trong
các thư viện làm cho di sản văn hóa thành văn thiếu tính toàn diện.
3.1.2. Đặt nền móng lý luận và thực tiễn cho thư viện Việt Nam hiện đại
Những tác động của việc chuyển đổi mô hình, thư viện Việt Nam thời Pháp
thuộc đã làm thay đổi căn bản tổ chức và hoạt động của thư viện Việt Nam đương
134
thời. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi này cũng có những ảnh hưởng tới thư viện Việt
Nam hiện đại về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh lịch sử mới của đất nước.
3.1.2.1. Về lý luận
Có thể nói, thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc đã tạo một bước biến chuyển
mới về tổ chức và hoạt động. Sự chuyển biến này được thể hiện từ việc áp dụng tổ
chức mạng lưới, tạo hành lang pháp lý cho sự nghiệp thư viện, áp dụng những tiến
bộ về tiêu chuẩn, qui tắc nghiệp vụ tạo ra một chất lượng mới trong lĩnh vực thư viện
và đặt nền móng cho thư viện Việt Nam hiện đại; giúp thư viện Việt Nam tiếp cận dễ
dàng với xu thế chuẩn hóa và thống nhất của thư viện thế giới ngày nay.
Những vấn đề lý luận về thư viện hiện đại đã được du nhập vào Việt Nam từ
thời Pháp thuộc thông qua vốn các tài liệu trong thư viện. Những tài liệu có tính lý
luận và chỉ dẫn quốc tế về nghề thư viện của Pháp đã được bổ sung và lưu hành ở
Việt Nam như Tiểu luận về sự phát triển của các thư viện công cộng và các nhà sách
trong hai thế giới (Bibliothèques Essai sur le développement des bibliothèques
publiques et de la librairie dans les deux mondes), Lịch sử sách của Pháp từ nguồn
gốc đến cuối đế chế thứ hai (Le Livre francais des origines à la fin du second empire),
Chế độ lưu chiểu ở Đông Dương (Régime du dépôt légal en Indochine), Bộ sách nhiều
tập về nghề thư viện mang tên cẩm nang nghề thư viện (Manuels d'apprentissage),
Tổng tập về luật, sắc lệnh, dụ, nghị định, thông tư,... về thư viện công cộng, thư viện
tỉnh thành phố, thư viện đại học, trường phổ thông và thư viện đại chúng (Recueil de
lois, décrets, ordonnances, arrêtés, circulaires, etc Concernant les bibliothèques
publiques, communales, universitaires, scolaires et populaire). Những tài liệu có tính
nguyên tắc, khuôn mẫu của thư viện hiện đại trên thế giới là một trong những tiền đề
chuẩn hóa hoạt động của thư viện ở Việt Nam ngày nay.
Hệ thống văn bản pháp qui quản lý nhà nước trong lĩnh vực thư viện thời kỳ
Pháp thuộc đã tạo tiền đề cho tổ chức và hoạt động của mạng lưới thư viện Việt Nam
hiện đại. Từ hệ thống văn bản này, thư viện đã được ghi nhận vai trò như một thiết
chế xã hội hoàn chỉnh, có ý nghĩa với mọi thời đại.
Vấn đề phục vụ công cộng của thư viện đã mở ra một chương mới cho sự
nghiệp thư viện Việt Nam hiện đại. Mạng lưới và hệ thống thư viện Việt Nam ngày
135
nay vẫn duy trì và phát huy tính công cộng của thư viện thời kỳ này, đây cũng là một
tiêu chí quan trọng của thư viện thế giới trong xu thế chung của thời đại. Thư viện là
một phương tiện thúc đẩy sự phát triển của xã hội, phục vụ mục đích kinh tế, văn hóa,
giáo dục của mỗi quốc gia.
Phương pháp đào tạo nhân lực thư viện đề cao thực hành là kinh nghiệm tham
khảo cho công tác đào tạo cán bộ thư viện hiện nay. Mặc dù thời gian đào tạo ngắn,
nhưng nội dung đào tạo bao gồm cả lý luận và thực tiễn về thư viện học và thư mục
học. Các phần kỹ năng thực hành được dành trọng số thời gian nhiều và trọng số điểm
cao. Người giảng dạy và hướng dẫn thực hành là những người có bằng cấp đúng
chuyên ngành, có kinh nghiệm trong lĩnh vực thư viện, có khả năng giải quyết những
vấn đề phức tạp của nghề nghiệp. Sự tuân thủ nghiêm ngặt về thi cử và chương trình
đào tạo đã tạo ra một lớp nhân lực lành nghề đáp ứng những đòi hỏi có tính tiêu chuẩn
của thư viện hiện đại.
Trải qua nhiều cuộc chiến tranh (từ thời phong kiến đến khi thành lập nước
1945) di sản văn hóa thành văn của dân tộc ta đã bị mai một nhiều. Chưa có một cơ
quan nào làm được việc thu thập, lưu giữ và phổ biến tài liệu bằng nhiều ngôn ngữ
và thời kỳ lịch sử khác nhau. Thư viện thời kỳ Pháp thuộc đã không chỉ thu thập tài
liệu từ nhiều nguồn mà còn xây dựng và phát triển vốn tài liệu, tổ chức và bảo quản
lâu dài vốn tài liệu. Có thể nói, bên cạnh những tác ảnh hưởng tích cực về tổ chức và
hoạt động nghiệp vụ của thư viện hiện đại, thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc đã
thành công trong việc thu thập, gìn giữ và bảo quản kho tàng văn hóa thành văn của
dân tộc và tạo ra Thư viện Quốc gia Việt Nam. Đây là một đóng góp lớn cho văn hóa
và thư viện Việt Nam hiện đại.
3.1.2.2. Về thực tiễn
- Phương pháp bảo quản mới
Kinh nghiệm bảo quản tài liệu của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc là
những đóng góp đáng kể cho thư viện Việt Nam hiện đại. Xét trên phương diện kỹ
thuật, việc bảo quản tài liệu phải được xử lý từ khâu thiết kế kho tàng hợp lý, phù hợp
với khí hậu, không áp đặt theo khuôn mẫu của một thư viện hiện đại nào trên thế giới.
Thiết kế kho tàng phù hợp kết hợp với việc đóng mở kho theo độ ẩm hàng ngày, giữ
136
gìn thoáng gió trong toàn bộ kho bằng thông gió tự nhiên vẫn là cách bảo quản lý
tưởng và tiết kiệm năng lượng bên cạnh việc áp dụng máy móc hiện đại như các thiết
bị hút ẩm vào những ngày có thời tiết ẩm ướt. Xét trên phương diện hiệu quả, kỹ thuật
bảo quản thư viện đã góp phần to lớn vào việc giữ gìn những tài liệu quí giá như Châu
bản và Mộc bản triều Nguyễn.
Mặc dù ở những năm đầu thế kỷ XX, thư viện chưa được trang bị những thiết
bị hiện đại để bảo quản và phục chế, nhưng trên thực tế tài liệu của thư viện luôn
được gìn giữ hiệu quả. Những biện pháp này vẫn được sử dụng trong các thư viện
sau khi giành độc lập, trong chiến tranh chống Mỹ và những năm đất nước còn khó
khăn. Sau chiến tranh, kho lưu trữ và thư viện được xây dựng từ thời Pháp thuộc, các
tài liệu vẫn được bảo quản và sử dụng hiệu quả mà không cần đến các thiết bị bảo
quản tốn kém. Đây là một thành công trong xây dựng kho tàng trong điều kiện vật
chất hạn chế và điều kiện khí hậu không thuận lợi..
Những tài liệu này đến nay hầu như vẫn trong tình trạng vật lý tốt và được
phục vụ rộng rãi người đọc. Kho tài liệu quí hiếm tiếng Pháp của thư viện Quốc gia
Việt Nam vẫn giữ nguyên ký hiệu của thư viện Trung ương Đông Dương trước đây
để tổ chức phục vụ và số hóa tài liệu. Châu bản triều Nguyễn được chuyển từ Quốc
sử quán sang Văn thơ viện và được bảo quản, tổ chức, sắp xếp lại cũng như mở cửa
phục vụ rộng rãi nhân dân. Ngày nay những tài liệu quí giá này được Nhà nước ta
bảo quản và phục vụ công chúng tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1- Cục Lưu trữ Nhà
nước. Kho tài liệu còn lại của Thư viện Trung ương Đông Dương (Thư viện Quốc
gia Việt Nam), Thư viện trường Viễn Đông bác cổ (Thư viện Viện Khoa học xã
hội), thư viện Viện Hải Dương học Nha Trang... là một sưu tập tài liệu có tính lịch
sử, khoa học có giá trị phục vụ công tác nghiên cứu khoa học ngày nay.
- Thiết lập chức năng cơ bản cho Thư viện Quốc gia Việt Nam
Hoạt động của thư viện thời Pháp thuộc mà điển hình là hoạt động của Thư
viện Trung ương Đông Dương đã đặt móng cho một số hoạt động cơ bản của Thư
viện Quốc gia ngày nay, đó là thiết lập chế độ nhận lưu chiểu ở Đông Dương và biên
soạn Thư mục thống kê hay còn gọi là Danh mục ấn phẩm lưu chiểu (Liste des
imprimés déposés au service de dépôt légal). Chế độ lưu chiểu này đã được duy trì
137
và phát huy sau khi Việt Nam độc lập thông qua Sắc lệnh 18 được chủ tịch Hồ Chí
Minh ký năm 1946. Sắc lệnh này đã được thay thế bằng Luật xuất bản phù hợp với
tình hình mới của đất nước. Bên cạnh đó, Thư viện Trung ương Đông Dương đã tham
gia hỗ trợ chuyên môn và triển lãm tư liệu cho một số thư viện (trong đó có thư viện
Sài Gòn) thể hiện vai trò, chức năng của một thư viện trung tâm. Đây là những chức
năng cơ bản của Thư viện Quốc gia Việt Nam vẫn được duy trì cho đến nay.
3.2. Ảnh hưởng của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc tới văn hóa
Việt Nam
Thời kỳ Pháp thuộc là một giai đoạn lịch sử đặc biệt của đất nước ta. Sự giao
lưu và tiếp biến văn hóa Đông - Tây đã làm thay đổi diện mạo văn hóa Việt Nam, đặc
biệt là thư viện với tư cách là một thiết chế văn hóa. Bên cạnh đó, với ảnh hưởng từ
chính sách văn hóa của thực dân Pháp, thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc đã có
những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới văn hóa Việt Nam.
3.2.1. Môi trường thuận lợi cho giao lưu, tiếp biến văn hóa Đông - Tây
Với chức năng văn hóa và thông tin, thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc đã có
những mang đến cho văn hóa Việt Nam một sắc thái mới, tạo điều kiện cho quá trình
tiếp biến và giao lưu văn hóa Đông – Tây. Bên cạnh việc tiếp thu những ấn phẩm từ
nền văn hóa phương tây, thư viện thời kỳ này đã có những hoạt động tổ chức, bảo
quản và phục vụ khai thác sử dụng tài liệu Hán Nôm cổ, góp phần bảo tồn di sản văn
hóa thành văn của dân tộc.
Những đặc điểm lịch sử của Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc đã tác động mạnh
mẽ đến văn hóa Việt Nam. Từ một đất nước với nền văn hóa đậm nét phương Đông
lâu đời, Việt Nam đã tiếp thu và giao lưu với nền văn hóa phương Tây khác biệt và
hiện đại. Thư viện thời kỳ này đã trở thành cầu nối giữa hai nền văn hóa tạo nên sự
phong phú đa dạng của văn hóa Việt Nam hiện đại.
3.2.1.1. Phương tiện tiếp nhận văn hóa phương Tây
Các ấn phẩm in, báo và tạp chí được bổ sung của các thư viện mặc dù nhằm
mục đích chủ yếu phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa nhưng đồng thời cũng trở
thành phương tiện quan trọng cho sự giao lưu văn hóa Pháp - Việt.
138
Sách văn học chiếm tỉ lệ lớn nhất ở Thư viện Trung ương Đông Dương (gần
50%) [Bảng 2-5, tr.77] một mặt thể hiện sự phiến diện trong thành phần vốn tài liệu,
mặt khác đã đem đến Việt Nam một luồng tư tưởng mới, làm thay đổi tư duy và
phương pháp sáng tác văn học của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam thời kỳ này. Có
thể kể đến những tác phẩm văn học nổi tiếng của các đại văn hào Pháp Victor Huygo,
Balzac, La Fontaine có ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam. Chính từ thời kỳ này,
văn học Việt Nam đã xuất hiện thể loại tiểu thuyết văn xuôi.
Với chính sách lưu chiểu cùng với việc du nhập tài liệu bằng tiếng Pháp và
tiếng nước ngoài, thư viện Việt Nam đã trở thành một trung tâm lưu giữ những ấn
phẩm về các lĩnh vực khoa học, lịch sử, xã hội và nhân văn. Các tài liệu xuất bản
bằng chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp tại Đông Dương, trong đó có cả tài liệu lưu trữ là một
nguồn sử liệu quí giá minh chứng cho cả một giai đoạn lịch sử của dân tộc ta. Các tài
liệu khoa học, văn học, nghệ thuật du nhập từ phương Tây và Pháp vào Việt Nam
được lưu giữ và phổ biến trong thư viện đã góp phần làm thay đổi lối tư duy từ duy
cảm vốn có của người Việt Nam sang lối tư duy duy lý của các trí thức, các nhà
nghiên cứu Việt Nam.
Thành phần bạn đọc đã minh chứng cho việc thư viện ở Việt Nam trong thời
kỳ Pháp thuộc là nơi giao lưu của một lớp trí thức mới Việt Nam, những trí thức thấm
đậm tư tưởng Nho học lại được tiếp thu những tinh hoa của văn minh phương Tây.
Chính lớp trí thức này là những tinh hoa của dân tộc trong việc gìn giữ và bảo vệ văn
hóa Việt Nam và xây dựng đất nước sau này.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của báo chí đã làm thay đổi lớn thành phần
vốn tài liệu của các thư viện. Bên cạnh loại hình tài liệu truyền thống là sách đã có
các ấn phẩm định kỳ xuất hiện trong thư viện. Báo chí đã mang vào một mầu sắc mới
trong đời sống văn hóa của một bộ phận công chúng được sử dụng thư viện, trong đó
phải kể đến độc giả là giới trí thức Việt Nam bắt đầu giao lưu và ảnh hưởng phong
cách nghiên cứu khoa học của phương Tây. Ngoại trừ những tờ báo có nội dung nô
dịch, thì báo chí đã làm thay đổi mầu sắc của đời sống văn hóa của nhân dân ta và
thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin đại chúng.
139
Bên cạnh công tác in ấn phát hành trực tiếp, thư viện là nơi lưu giữ toàn bộ các
ấn phẩm định kỳ trong đó báo và tạp chí là một loại hình tài liệu mới nhất xuất hiện
ở Đông Dương và Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Loại hình tài liệu mới
này là một nguồn dữ liệu phong phú phục vụ cho nghiên cứu trong các lĩnh vực chưa
từng xuất hiện trước đây trong thư viện ở Việt Nam.
Thư viện cũng là một công cụ quan trọng tác động mạnh đến giáo dục ở Việt
Nam thời Pháp thuộc. Trước khi tiếp xúc với phương Tây, chế độ giáo dục của Việt
Nam chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, học chữ Hán để đi thi. Chế độ giáo dục này
này phổ biến chặt chẽ trên toàn quốc. Cách học là thuộc lòng, tập làm câu đối, làm
văn. Đối tượng thường là những người có chức sắc hay giàu có rồi mới đến một số
học sinh trong làng. Đây là cách học thụ động không làm nảy sinh nhu cầu nghiên
cứu cũng như đọc sách.
Sau khi chiếm Nam Bộ, thực dân Pháp bỏ hẳn chế độ thi cử phong kiến và mở
trường thông ngôn, một số trường dạy tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Đến năm 1905,
Toàn quyền Paul Beau chủ trương cải cách giáo dục, lập Hội đồng cải cách giáo dục
toàn Liên bang và Nha học chính Đông Dương (1905). Thi Hội cũng chấm dứt năm
1919, kết thúc chế độ khoa cử phong kiến ở nước ta. Bậc đại học thực sự được thành
lập vào năm 1919, lúc đầu chỉ có các trường Cao đẳng chuyên nghiệp để giúp việc
cho người Pháp ở các công sở. Đến năm 1927 thành lập các trường Y khoa, Dược,
Luật, Hành chính, Sư phạm theo mô hình Pháp. Các trường hậu bổ, sĩ hoạn để đào
tạo quan lại kiểu cũ bị bãi bỏ.
Với sự thay đổi lớn về cơ cấu ngành nghề và bậc học, giáo dục và đào tạo ở
Việt Nam đã từng bước đi theo cách giáo dục và đào tạo của Pháp và phương Tây.
Sự thay đổi về giáo dục và đào tạo là một trong những yếu tố thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của thư viện. Trên thực tế, thư viện thời kỳ Pháp thuộc đã thực hiện được
vai trò quan trọng trong việc cung cấp học liệu cho các cơ sở giáo dục đào tạo. Việc
tổ chức lại các thư viện ở Đông Dương đã có những tác động tích cực đối với giáo
dục. Trong Báo cáo của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương năm 1917-1937 về
140
thành phần độc giả tại Thư viện Trung ương Đông Dương Hà Nội nêu rõ 54% độc
giả người Việt là học sinh tiểu học, phổ thông cơ sở, 14% là sinh viên đại học, 4% là
những người làm công tác giảng dạy, chiếm 72% số lượng độc giả. Số phần trăm còn
lại là các cán bộ, viên chức, thương nhân, nhà báo [93]. Có thể nói, đây chính là hiệu
ứng tích cực của thư viện đối với giáo dục Việt Nam, chuyển từ nền giáo dục kiểu cũ
sáng nền giáo dục kiểu mới năng động và hiện đại.
3.2.1.2. Trung tâm truyền bá các giá trị văn hoá Việt Nam trong nước và
thế giới
Sự chuyển đổi sang mô hình thư viện kiểu mới với đầy đủ các hoạt động của
thư viện hiện đại đã mang đến những sắc thái mới cho sự nghiệp thư viện Việt Nam.
Một trong các hoạt động nổi bật của thư viện thời kỳ này là triển lãm tư liệu. Hoạt
động Hội chợ và triển lãm, một hoạt động đặc thù phổ biến ở các nước phương Tây
thời kỳ này. Mục đích của các hội chợ và triển lãm là đưa hàng hóa của Pháp vào
Đông Dương đồng thời giới thiệu và bán các sản phẩm quí của Đông Dương ra nước
ngoài. Theo Vũ Thị Minh Hương trong “Nội thương Bắc Kỳ thời kỳ 1919-1939”,
“các cuộc triển lãm và hội chợ đã bắt đầu được tổ chức tại Hà Nội, sau đó lan dần
đến các tỉnh và thành phố thuộc Bắc Kỳ, đặc biệt là thời kỳ từ năm 1919 đến 1939”
[11, tr. 124]. Hội chợ và triển lãm trở thành một thị trường trao đổi lớn của Pháp ở
Đông Dương cũng như ở nước ngoài, là biện pháp thúc đẩy hoạt động thương mại
của các thương nhân người Pháp. Bên cạnh mục đích kinh tế thương mại, các cuộc
triển lãm này cũng lồng ghép những hoạt động văn hóa nhằm mục đích truyên truyền
những thành công của Pháp ở thuộc địa và giới thiệu lịch sử, văn hóa, con người
Đông Dương.
Triển lãm tư liệu - một phương thức truyền thông hiện đại được thư viện thời
kỳ Pháp thuộc thực hiện thường xuyên. Từ năm 1922 đến năm 1943, Nha Lưu trữ và
Thư viện Đông Dương đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm tư liệu trong nước và nước
ngoài, trong đó có ba cuộc triển lãm quốc tế vào năm 1922 ở Marseille (Pháp) và năm
1939, 1940 ở San Francisco (Mỹ). Các tài liệu mang tới triển lãm phong phú về thể
loại bao gồm sách, tranh ảnh bản đồ, bản khắc, sách chép tay. Nội dung của tài liệu
141
giới thiệu về lịch sử, văn hóa, đất nước và con người Đông Dương và Việt Nam. Các
cuộc triển lãm tư liệu trong nước và nước ngoài là một cơ hội để nhân dân Đông
Dương và Việt Nam mở rộng những hiểu biết về lịch sử và văn hóa của đất nước.
Cũng như giới thiệu hình ảnh con người và văn hóa Việt Nam với nhân dân Pháp và
nhân dân thế giới; mở ra một tương lai cho việc xúc tiến du lịch và đầu tư trong lĩnh
vực văn hóa và các lĩnh vực khác.
Chế độ lưu chiểu ở Đông Dương qui định nộp 01 bản tới Thư viện Quốc gia
Pháp không những góp phần làm giàu kho sách của Thư viện Trung ương Đông
Dương mà còn góp phần quan trọng giới thiệu về đất nước và con người Việt Nam
với nhân dân Pháp và thế giới. Trong cơ sở dữ liệu thư mục của Thư viện Quốc gia
pháp có thể tìm thấy những tài liệu ở các dạng khác nhau trước năm 1945 liên quan
đến các vấn đề của Đông Dương. Cụ thể về Bắc Kỳ có 10.114 tài liệu, Trung Kỳ có
6957 tài liệu và Nam Kỳ có 9.624 tài liệu. Bên cạnh đó còn có rất nhiều tài liệu nói
về Đông Dương nói chung, trong đó có Việt Nam (18.442 tài liệu) [120].
Công tác in ấn và công bố là một hoạt động nổi bật của thư viện Việt Nam thời
Pháp thuộc có tác động mạnh đến công tác nghiên cứu của giới trí thức trong và ngoài
nước. Tạp chí Đông Dương (Revue Indochinoise) được sát nhập với Nha Lưu trữ và
Thư viện Đông Dương từ tháng 7 năm 1919. Đây là tạp chí được ưa chuộng nhất ở
Viễn Đông, là một cơ quan tuyên truyền hình ảnh của Đông Dương với thế giới thời
kỳ này. Tạp chí cung cấp những bài báo có giá trị khoa học cho trí thức và những
người ham mê nghiên cứu và được đánh giá cao trong các nước thuộc địa cũng như
ở Paris, Bordeaux, Marseille (Pháp), Thượng Hải và Bắc Kinh (Trung Quốc). Tất cả
các chủ đề liên quan đến Đông Dương đều được đề cập trong tạp chí và được duy trì
thường xuyên bởi các cộng tác viên có trình độ và am hiểu sâu sắc về Đông Dương.
Đây thực sự là một Tạp chí nổi tiếng ở Viễn Đông và giữ vai trò là một cơ quan tuyên
truyền của Pháp.
Bên cạnh công tác công bố và in ấn về Đông Dương, chính quyền thuộc địa đã
có những ý tưởng xây dựng tập trung các quần thể kiến trúc văn hóa bảo tàng, lưu trữ
và thư viện ở 3 kỳ trong đó có Huế. Theo sáng kiến của Khâm sứ Trung Kỳ tập hợp
142
xung quanh Bảo tàng Khải Định và Bảo Đại là Lưu trữ và Thư viện Hoàng gia tạo
thành quần thể tri thức ở Huế. Sự qui tụ quần thể này phải đảm bảo yêu cầu thanh
lịch và thuận tiện cho người tham quan.
Theo điều 3 và 4 của Dụ ngày 11/8/1943, Sở Lưu trữ và Thư viện Hoàng gia
có trách nhiệm phân loại và bảo quản thường xuyên tài liệu, dịch và đưa ra phục vụ
nhiều tập tài liệu của triều đại vua Gia Long và Minh Mạng. Với sự quan tâm Khâm
sứ Trung Kỳ, Sở lưu trữ và thư viện Trung Kỳ đã có thể thực hiện trong một thời gian
ngắn những điểm chính của chương trình được Toàn quyền Đông Dương thông qua
trong Nghị định ngày 29/3/1943, đặc biệt đối với tài liệu lưu trữ hoàng gia. Việc làm
này đã góp phần gìn giữ, bảo quản và đưa ra phục vụ công chúng tài liệu châu bản và
mộc bản triều Nguyễn.
3.2.1.3. Tiếp thu hài hòa phong cách kiến trúc thư viện phương Tây
Trong hoàn cảnh hạn hẹp về kinh phí dành cho cơ sở vật chất cho thư viện,
với sự quan tâm của chính quyền thuộc địa và quan điểm hiện đại của Pháp về thư
viện học, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã có những cố gắng nhất định trong
việc cải tạo các tòa nhà theo kiến trúc châu Âu dành cho các thư viện. Điển hình là
tòa nhà của Nha Kinh lược Bắc Kỳ được cải tạo làm cơ sở của Nha Lưu trữ và Thư
viện Đông Dương.
Sau này chính quyền thuộc địa đã cho mở rộng phòng đọc và kho tài liệu vào
năm 1935 phù hợp với khí hậu của Việt Nam cũng như tình hình số lượng độc giả gia
tăng nhanh chóng (khi hòa bình lập lại cho đến năm 2009, kho tài liệu này được sử
dụng làm kho lưu giữ tài liệu lưu trữ). Thư viện Trung ương Đông Dương đã trở thành
một thư viện kiểu mẫu với khuôn viên cây xanh cũng như hệ thống kho tàng, phòng
đọc, phòng mượn được bố trí sắp xếp như các thư viện của Pháp đương thời. Theo
khảo sát tại các thư viện của Pháp hiện nay, trong đó có hai thư viện Quốc gia Paris,
đặc biệt là thư viện Quốc gia đầu tiên của Pháp tại phố Richelieu (Paris), có thể thấy
Thư viện Trung ương Đông Dương có kiến trúc và bố trí kho tàng và hệ thống phòng
đọc và phòng mượn tương đồng [Phụ lục 15, tr. 200].
143
Về phong cách kiến trúc và bố trí kho tàng, những thư viện lớn ở Việt Nam
thời kỳ Pháp thuộc đều có phong cách kiến trúc của các thư viện hiện đại của phương
Tây và Pháp. Kiến trúc Thư viện Trung ương Đông Dương (nay là Thư viện Quốc
gia Việt Nam), Thư viện Trường Viễn đông bác cổ (Thư viện Viện Hàn lâm khoa học
xã hội cũ), thư viện Viện Hải Dương học Nha trang là kiến trúc có sự kết hợp hài hòa
giữa phương Tây và phương Đông. Thư viện luôn có khuôn viên cây xanh dành cho
người đọc có thể thư giãn sau khi đọc sách. Kiến trúc của thư viện mang phong cách
cổ điển và lãng mạn, hiền hòa rất phù hợp với con người Việt Nam đem lại sự tĩnh
tại, hòa hợp với thiên nhiên. Hiện nay, dù đã được tu sửa và mở rộng nhiều lần nhưng
Thư viện Quốc gia Việt Nam vẫn luôn giữ được dáng vẻ của kiến trúc và khuôn viên
của Thư viện Trung ương Đông Dương.
Thiết kế không gian kho tàng, phòng tra cứu và phòng đọc bên trong tòa nhà
thư viện cũng thể hiện sự tinh tế về ánh sáng, cây xanh, bàn ghế, giá tủ bố trí trong
phòng đọc - một trong những yếu tố thành công của tổ chức lao động khoa học trong
thư viện ở các nước phương Tây (Pháp đã áp dụng từ những năm giữa và cuối thế kỷ
19). Ngày nay, dù theo xu thế thiết kế của thế giới, nhưng thư viện Việt Nam vẫn chịu
ảnh hưởng phong cách thư viện thời Pháp thuộc. Quần thể kiến trúc sân vườn của thư
viện thời Pháp vẫn phù hợp với thư viện hiện đại ngày nay ở các nước phát triển và
Việt Nam [Phụ lục 10, 11, 12, tr. 195 - 197].
3.2.2. Bảo tồn di sản văn hóa thành văn của dân tộc
Từ năm 1943, chính quyền thuộc địa đã đầu tư cơ sở vật chất cho các thư viện
và sắp xếp lại theo phương pháp hiện đại. Các thư viện như Văn thơ viện, Thư viện
Bảo Đại, đã được sửa sang thiết kế, bố trí lại phòng đọc. Tài liệu của Vua Gia Long,
Minh Mạng được xây dựng mục lục và các công cụ tra cứu, phục vụ công chúng. Đây
chính là những yếu tố giúp cho những tài liệu lịch sử quí giá của triều Nguyễn còn
lưu giữ được đến ngày nay cũng như được công chúng khai thác và nghiên cứu. Có
thể nói, bên cạnh những thành công của phương pháp bảo quản hiện đại, giữ gìn tài
liệu lâu dài, thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc đã giáo dục nhận thức cho người
làm công tác thư viện, đó là ý thức gìn giữ di sản, trong đó có di sản thành văn.
144
Chế độ lưu chiểu ban hành ngày 31 tháng 1 năm 1922 theo Nghị định của Toàn
quyền Đông Dương [49], cùng với kinh phí bổ sung đều đặn của Chính quyền thuộc
địa, đã biến Việt Nam thành một nơi lưu giữ xuất bản phẩm, một trung tâm nghiên
cứu đầy đủ và phong phú nhất ở Đông Dương và Viễn Đông. Với việc tổ chức theo
tiêu chuẩn của các thư viện lớn ở Pháp, thư viện Trung ương Đông Dương được xếp
cùng hạng với các thư viện của những thành phố lớn ở Pháp thời kỳ này. Các thư viện
ở Việt Nam đã trở thành niềm tự hào của Pháp ở thuộc địa.. Ngày nay, nhiều nhà
khoa học trên thế giới đã đến Việt Nam để nghiên cứu các tài liệu của thời kỳ lịch sử
đầy biến động này.
3.2.3. Công cụ phục vụ mục tiêu khai thác thuộc địa và nô dịch
Bị chi phối bởi chính sách thuộc địa, bên cạnh những đóng góp tích cực, thư
viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc cũng có những tác động tiêu cực đến văn hóa Việt
Nam. Thư viện trở thành một trong những công cụ truyền bá văn hóa Pháp, nô dịch
và kìm hãm văn hóa Việt Nam.
Các thư viện đã được thành lập ngay trong các cơ quan hành chính của Pháp
như Phủ thống sứ Bắc Kỳ, Phủ Thống đốc Toàn quyền Nam Kỳ và phủ Khâm sứ
Trung Kỳ, phục vụ nhu cầu đọc của các viên chức trong bộ máy cai trị, nghiên cứu
về Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam. Bên cạnh đó, mạng lưới thư viện ở Việt Nam
và Đông Dương thời kỳ này là một công cụ quan trọng để thực hiện mục đích thực
hiện cuộc xâm lược văn hóa: xóa bỏ Nho giáo (vốn ăn sâu trong tiềm thức của người
Việt Nam), loại bỏ văn hóa Trung Hoa (vốn ảnh hưởng hàng nghìn năm đến văn hóa
Việt Nam), truyền bá văn hóa phương Tây và văn hóa Pháp.
Báo chí - một bộ phận của thành phần của vốn tài liệu trong các thư viện trở
thành một trong những công cụ thực hiện mục tiêu xâm lược văn hóa của thực dân
Pháp. Trong giai đoạn đầu của công cuộc khai thác thuộc địa, báo chí tiếng Pháp
chiếm vị trí chủ yếu trên diễn đàn. Cùng với các báo chí tiếng Pháp, những tờ báo
chữ quốc ngữ, ngoài việc phục vụ bộ máy hành chính thuộc địa, thực hiện vai trò
tuyên truyền văn hóa Pháp. Một số lượng lớn các tác phẩm Pháp tán dương chủ trương
Pháp - Việt đề huề, thừa nhận chế độ cai trị của của Pháp, tuyên truyền ca ngợi văn
145
minh Pháp được công bố trong báo, tạp chí như Nam Phong, Đông Dương tạp chí,
Hội Khai trí Tiến Đức.
Thành phần vốn tài liệu của những thư viện lớn như Thư viện Trung ương
Đông Dương và Thư viện Sài Gòn thể hiện sự mất cân đối rõ nét. Sách văn học, tiểu
thuyết trinh thám vẫn chiếm một tỉ lệ rất lớn (gần 50%) so với các tài liệu thuộc các
lĩnh vực khác [Bảng 2-5, tr. 77]. Có thể thấy các tài liệu về khoa học kỹ thuật chiếm
một tỉ lệ rất nhỏ (5,62%) so với sách văn học. Sự mất cân đối về thành phần vốn tài
liệu thể hiện chính sách thuộc địa của thực dân Pháp: không phát triển khoa học kỹ
thuật; không làm ảnh hưởng đến nền kinh tế chính quốc; dùng văn học, báo chí để
tuyên truyền văn hóa Pháp; thừa nhận chế độ cai trị của Pháp.
Không chỉ bị hạn chế tiếp cận tài liệu khoa học kỹ thuật, độc giả người Việt
còn bị giới hạn quyền sử dụng thư viện. Người Việt Nam bình thường không làm
trong các cơ quan hành chính của Pháp hoặc không đủ trình độ yêu cầu thì không
được vào đọc trong những thư viện công cộng. Đối tượng đọc người bản xứ được qui
định trong Chỉ dẫn độc giả sử dụng thư viện Trung ương Đông Dương [90] như sau:
người Việt Nam phục vụ trong ngành giáo dục, sinh viên các trường đại học, người
Việt Nam và người châu Á từ 18 tuổi trở lên có đủ trình độ, các viên chức trong các
cơ quan của Đông Dương. Như vậy, đối tượng bạn đọc được sử dụng thư viện chủ
yếu tập trung ở các đô thị lớn, nơi có các cơ quan hành chính, trường học. Theo tác
giả Phan Trọng Báu trong cuốn Giáo dục Việt Nam thời Cận đại tỷ lệ người Việt
được đi học rất thấp, chỉ chiếm khoảng 1,44% dân số. Đại đa số dân ta thời điểm này
mù chữ và không thể sử dụng thư viện. Bên cạnh đó, thư viện tập trung ở các đô thị
lớn ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Nhân dân ta ở đô thị nhỏ, vùng nông thôn không có cơ hội
tiếp cận văn hóa, tri thức. Điều này tạo nên sự mất cân đối về trình độ văn hóa giữa
các vùng miền.
Bên cạnh việc chủ động làm mất cân đối thành phần vốn tài liệu, chính quyền
thuộc địa còn chủ trương nghiêm cấm các ấn phẩm có tư tưởng chống đối, các ấn
phẩm tiến bộ phản ánh tiếng nói của nhân dân, những tờ báo cách mạng. Chính vì
146
vậy, những tài liệu này đã không thể có mặt trong các thư viện. Đây là nguyên nhân
của sự hạn chế trong tuyên truyền, sáng tạo văn hóa của nhân dân ta.
3.3. Tiểu kết
Trong gần một thế kỷ đô hộ, thực dân Pháp đã từng bước thành lập mạng lưới
thư viện ở Việt Nam nhằm xóa bỏ Nho giáo, tuyên truyền văn hóa Pháp và phục vụ
bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương. Với sự chi phối của chính sách thuộc địa, tổ
chức và hoạt động của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc còn những hạn chế. Tuy
nhiên, chính quyền thuộc địa đã áp dụng phương pháp tổ chức và hoạt động thư viện
hiện đại phương Tây làm đổi mới hoàn toàn hoạt động thư viện ở Việt Nam. Đây là
tiền đề về lý luận và thực tiễn cho sự nghiệp thư viện Việt Nam sau này.
Thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc cũng có những tác động tích cực và tiêu
cực đối với tiến trình phát triển văn hóa Việt Nam. Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp
thuộc đã có những tác động tích cực, làm biến đổi và phát triển văn hóa Việt Nam.
Thư viện trở thành trung tâm tàng trữ văn hóa phẩm của dân tộc, tạo môi trường thuận
lợi cho giao lưu, tiếp biến văn hóa Đông - Tây trên các lĩnh vực giáo dục, văn học,
nghệ thuật. Đặc biệt, thư viện thời kỳ này đã góp phần làm thay đổi tư duy khoa học
của tầng lớp trí thức và thói quen tiếp nhận thông tin đại chúng của người Việt Nam.
Tuy nhiên, chính quyền thuộc địa đã chủ đích sử dụng thư viện để nô dịch và kìm
hãm việc tiếp cận khoa học công nghệ của nhân dân ta. Việc phát triển không đồng
đều vốn tài liệu, hạn chế tiếp cận thư viện và việc cấm đoán ấn phẩm tiến bộ đã
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam.
147
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4. Kết luận
1. Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc ra đời và phát triển trong giai đoạn
lịch sử tăm tối của một dân tộc thuộc địa. Toàn bộ nền kinh tế, chính trị xã hội và văn
hóa Việt Nam có những biến đổi lớn và phức tạp. Việt Nam trở thành một nước thuộc
địa nửa phong kiến với nền kinh tế thuộc địa, què quặt, mất cân đối. Xã hội Việt Nam,
dưới tác động của nền kinh tế có yếu tố tư bản và chính sách thuộc địa, đã hình thành
những giai cấp mới.
Văn hóa Việt Nam chịu những tác động mạnh mẽ của văn minh phương Tây
và có những biến đổi căn bản. Bên cạnh một nền văn hóa truyền thống, hình thành
một nền văn hóa mới sản phẩm của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa Đông - Tây. Với
mục đích biến Việt Nam và Đông Dương trở thành một thuộc địa thực thụ, thực dân
Pháp đã thực hiện cuộc xâm lăng văn hóa như tuyên truyền văn hóa, văn minh Pháp,
áp đặt chính sách văn hóa nhằm thủ tiêu tư tưởng Nho giáo và truyền thống văn hóa
Việt Nam.
Ảnh hưởng của chính sách khai thác thuộc địa, sự phát triển của thư viện Việt
Nam thời kỳ Pháp thuộc cơ bản được chia thành hai giai đoạn 1858–1917 và 1917–
1945. Trong giai đoạn lịch sử này, thư viện Việt Nam đã có những biến đổi tích cực
và tiêu cực.
2. Đứng trên quan điểm phát triển, hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ
Pháp thuộc đã có những chuyển biến tích cực.
Nhằm mục đích phục vụ bộ máy cai trị, chính quyền thuộc địa đã bước đầu
thiết lập một mạng lưới thư viện có chủ định tại các thành phố lớn, các cơ quan hành
chính và các trung tâm nghiên cứu. Mạng lưới thư viện công cộng và chuyên ngành
chuyển từ mô hình tổ chức và hoạt động kiểu cũ sáng mô hình thư viện kiểu mới .
Với tư duy thực tiễn thư viện học châu Âu, người Pháp vận dụng thành tựu
khoa học đương thời trong lĩnh vực thư viện vào Việt Nam, đặc biệt là tổ chức thông
tin. Thư viện thời kỳ này có mặt như một thiết chế văn hóa, tồn tại và phát triển cùng
148
với sự phát triển của xã hội cũng như trở thành một nhân tố thúc đẩy xã hội ngày một
văn minh.
Sự xuất hiện thư viện công cộng đã làm thay đổi thói quen tiếp cận thông tin
đại chúng của người Việt Nam. Mặc dù có những hạn chế về đối tượng phục vụ, thư
viện thời kỳ Pháp thuộc đã bước đầu hướng tới các tầng lớp nhân dân, phục vụ mục
đích phát triển xã hội, nâng cao trình độ dân trí và khoa học. Người đọc tiếp cận thư
viện và được thỏa mãn nhu cầu đọc bằng nhiều phương thức khác nhau: tại chỗ, mượn
về nhà, phòng đọc dành cho thiếu nhi và phục vụ lưu động.
Vấn đề quản lý nhà nước sự nghiệp thư viện lần đầu tiên được đặt ra thông qua
các văn bản pháp qui của chính quyền thuộc địa, tạo hành lang pháp lý cho tổ chức
mạng lưới và hoạt động thư viện trên toàn Đông Dương, trong đó có Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển vốn tài liệu bằng nhiều phương thức khác nhau,
đặc biệt là phương thức lưu chiểu, thư viện Việt Nam đã đã trở thành một kho tàng
ấn phẩm thành văn lớn nhất ở Đông Dương, góp phần tích cực thúc đẩy quá trình
giao lưu và tiếp biến văn hóa Đông - Tây.
Thư viện là phương tiện tiếp nhận văn hóa phương Tây thông qua nguồn tài
liệu du nhập từ Pháp và nước ngoài. Điều này đã mang đến một luồng tư tưởng mới,
làm thay đổi tư duy của tầng lớp trí thức Việt Nam. Sự du nhập các tác phẩm văn học
nghệ thuật của Pháp đã làm thay đổi phương pháp sáng tác của các nhà văn, nhà thơ
Việt Nam. Không những thế, thư viện còn trở thành một trung tâm nghiên cứu về
Việt Nam.
Qui trình xử lý nghiệp vụ tài liệu thư viện tiên tiến ở Pháp đã được áp dụng
ở Việt Nam: bổ sung vốn tài liệu; xử lý nghiệp vụ tài liệu; đặc biệt là các sản phẩm
thư viện (mục lục và thư mục); bảo quản và tổ chức kho tài liệu; phục vụ người đọc.
3. Chịu ảnh hưởng trực tiếp từ bối cảnh lịch sử, chính sách văn hóa của thực
dân Pháp, thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc đã có những biến đổi lớn mang tính
tiêu cực.
Các thư viện thời Pháp thuộc được thành lập chủ yếu nhằm giải quyết việc đào
tạo và phục vụ lớp trí thức người Pháp và bộ máy của chính quyền thuộc địa. Thư
149
viện trở thành công cụ thực hiện mục tiêu nô dịch và xâm lăng văn hóa, kìm hãm,
ngăn cản nhu cầu văn hóa chân chính của nhân dân ta. Việc hạn chế thành phần vốn
tài liệu dẫn đến việc tiếp cận tri thức một cách phiến diện, hạn chế sự phát triển khoa
học kỹ thuật của đất nước ta.
4. Nhìn chung, hoạt động của thư viện thời Pháp thuộc đã để lại những dấu ấn
lớn đối với sự nghiệp thư viện và văn hóa Việt Nam. Những tác động dù tiêu cực hay
tích cực của thư viện thời kỳ này đã được con người Việt Nam chắt lọc những tinh
hoa và phát triển thêm một bước phù hợp với xu thế phát triển của thư viện và giao
lưu văn hóa thế giới. Hoạt động của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc là tiền đề cho
những lý luận và thực tiễn thư viện học hiện đại của Việt Nam sau khi đất nước hoàn
toàn độc lập và hội nhập với quốc tế.
5. Kiến nghị
Trên quan điểm phát triển, những vấn đề về sự nghiệp thư viện thời kỳ Pháp
thuộc cần được xem xét đầy đủ hơn và bổ khuyết trong các tài liệu nghiên cứu và
giảng dạy thư viện để người nghiên cứu có cái nhìn tổng thể, khách quan về những
đóng góp tích cực của thư viện thời kỳ này đối với sự nghiệp thư viện Việt Nam. Từ
việc nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ này,
chúng tôi đề xuất một số kiến nghị như sau:
1. Nâng cao vai trò của quản lý Nhà nước về thư viện
Ra đời từ những năm đầu thế kỷ 20, nhưng vấn đề xây dựng hành lang pháp lí
đã được chính quyền thuộc địa quan tâm và được thể chế hóa từ văn bản pháp qui cao
nhất đến các qui định về qui trình hoạt động trong thư viện. Để thư viện trở thành một
phương tiện góp phần đưa Việt Nam xây dựng một nền kinh tế tri thức, các cấp quản
lý cần quan tâm kịp thời và hiệu quả bằng việc nhanh chóng ban hành các văn bản
pháp qui tạo tiền đề cho sự phát triển của thư viện. Như vậy, các nhà quản lý ngành,
các nhà thư viện học phải là những người tiên phong trong công tác soạn thảo, đảm
bảo tính pháp lý, khoa học và chuyên nghiệp.
150
2. Vận dụng thành tựu khoa học công nghệ một cách hợp lý
Tiếp thu những thành quả tiến bộ từ thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc, sự
nghiệp thư viện Việt Nam đã có những thuận lợi để phát triển về tổ chức hoạt động:
cơ sở vật chất, vốn tài liệu, tiêu chuẩn nghiệp vụ, đào tạo cán bộ, tổ chức thông tin,
kiến trúc và bố trí kho tàng, bảo quản tài liệu. Tuy nhiên, có những thành tựu của sự
nghiệp thư viện thời kỳ này chưa được đánh giá và kế thừa đầy đủ. Tiêu biểu như
trong thiết kế kho tàng và bảo quản tài liệu.
Các cơ quan lưu trữ và thư viện ngày nay đã bỏ hệ thống thông gió tự nhiên
trong thiết kế kho tàng cũ và thay vào là hệ thống máy móc hiện đại chi phí năng
lượng cao. Trong điều kiện thuận lợi về thời tiết, hệ thống thông gió tự nhiên không
chỉ giúp lưu thông không khí trong toàn bộ kho mà còn thổi các ấu trùng và côn trùng
gây hại tài liệu ra ngoài. Hệ thống này hoàn toàn không làm ảnh hưởng đến hệ thống
máy hút ẩm, điều hòa không khí khi thời tiết không thuận lợi.
3. Chú trọng kỹ năng thực hành của nguồn nhân lực
Chương trình đào tạo của nhân viên thư viện thời kỳ này, dù ngắn hạn, vẫn
quan tâm đến lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là vấn đề tổ chức thư viện ở các nước phát
triển trên thế giới như Mỹ, Đức, giúp người học có thể có sự so sánh và học hỏi. Vấn
đề thực hành kỹ năng rất được quan tâm trong tất cả các nội dung chương trình đào
tạo. Đây là vấn đề vẫn chưa được quan tâm đúng mức trong các chương trình đào tạo
nhân lực thư viện hiện nay dẫn đến người học sau khi ra trường gặp khó khăn trong
công việc thực tiễn nghề nghiệp.
Từ kinh nghiệm này, chương trình đào tạo nhân lực thư viện ngày nay ở tất
cả các bậc, các học phần thuộc ngành Khoa học thông tin - thư viện cần đưa vào nội
dung thực hành, đặc biệt là ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động thư viện.
4. Thực hiện chuẩn hóa trong các khâu hoạt động thư viện
Vấn đề chuẩn hóa các khâu hoạt động thư viện cần được thể chế bằng văn bản
và được tập huấn đầy đủ cũng như thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện. Công việc
151
này không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo sự thống nhất các khâu hoạt động
thư viện mà còn trong việc đồng bộ dữ liệu và chia sẻ tài nguyên thông tin giữa các
thư viện, tiết kiệm kinh phí, phục vụ người đọc với hiệu quả và chất lượng cao nhất.
5. Tổ chức kho mở trong thư viện
Tổ chức kho mở trong các thư viện lớn, đặc biệt là thư viện các trường đại học
là một tiêu chuẩn bắt buộc. Đây là cách tổ chức kho ở thư viện các nước văn minh
trên thế giới nhằm tạo điều kiện tiếp cận thông tin chủ động và hiệu quả nhất cho
người đọc. Công việc này đã được thực hiện tốt trong các thư viện thời kỳ Pháp thuộc.
Tuy nhiên, không phải tất cả các thư viện Việt Nam hiện nay đều thực hiện điều này
vì những lý do khác nhau như thiếu thốn cơ sở vật chất, trang thiết bị kiểm soát người
đọc, tài liệu. Đồng thời ý thức kém của người đọc cũng là một trong những trở ngại
cho việc hiện thực hóa tổ chức kho mở. Để kho mở được tổ chức thành công và phổ
biến, nhà nước cần quan tâm đầu tư về ngân sách, chú trọng công tác thanh tra, kiểm
tra và đào tạo người dùng tin.
6. Tổ chức hình thức phục vụ lưu động đến vùng sâu, vùng xa
Tổ chức thư viện lưu động là hình thức phục vụ phổ biến ở các nước phát triển
như Mỹ, Úc, Pháp và các nước phương Tây nhằm đáp ứng nhu cầu đọc của cộng
đồng ở những vùng xa xôi, hẻo lánh. Hình thức phục vụ này đã được áp dụng khá
hiệu quả ở Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Tuy nhiên, hình thức phục vụ này đã không
được tiếp tục duy trì thường xuyên và rộng khắp ở Việt Nam từ năm 1954 đến nay.
Để duy trì và phát triển hình thức phục vụ lưu động, nhà nước và các cấp quản lý cần
thể chế hóa bằng văn bản nhằm đưa hình thức phục vụ này vào hoạt động của mạng
lưới thư viện; cung cấp ngân sách trang bị phương tiện cũng như bổ sung vốn tài liệu
đều đặn. Việc triển khai tốt hình thức phục vụ vày sẽ góp phần nâng cao dân trí, văn
hóa đọc và làm giàu đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân vùng sâu, vùng xa.
152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Lê Thanh Huyền (2009), “Về sự ra đời của Thư viện ở Đông Dương”, Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, số 300 (tháng 6), tr. 77 - 79.
2. Lê Thanh Huyền (2012), “Chế độ lưu chiểu ở Đông Dương thời kỳ Pháp thuộc”,
Tạp chí Thư viện Việt Nam, số 6 (tháng 11), tr. 15 -19, 43.
3. Lê Thanh Huyền (2012), “Hoạt động của thư viện Quốc gia Việt Nam thời Pháp
thuộc”, Tạp chí Xưa và Nay, số 114 (tháng 10), tr. 13 -17.
4. Lê Thanh Huyền (2013), “Hoạt động của thư viện lưu động ở Việt Nam thời Pháp
thuộc”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 345 (tháng 3), tr. 63 -65.
5. Lê Thanh Huyền (2013), “Hoạt động của thư viện Sài Gòn thời Pháp thuộc”, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật, số 343 (tháng 1), tr. 69-73.
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
[1.] Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nxb. Văn học,
Hà Nội.
[2.] ALA từ điển giải nghĩa thư viện học và tin học Anh – Việt (1996), Galen Press
Ltd, Tucson, Arizona, USA.
[3.] Toan Ánh (1971), “Thư viện Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Năm thứ
nhất, bộ mới 3, tr. 27.
[4.] Phan Trọng Báu (2006), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[5.] Nguyễn Hùng Cường (1971), “Lịch sử thư viện và thư tịch Việt Nam”, Văn hóa
tập san, số 1, tr.67-100.
[6.] Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Cúc, Đức Uy (2004), Những vấn đề cơ bản của khoa
học tổ chức, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7.] Nguyễn Tiến Hiển, Nguyễn Thị Lan Thanh (2002), Quản lý thư viện và Trung
tâm thông tin, Nxb. Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội
[8.] Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp Việt ở Bắc Kỳ, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
[9.] Dương Bích Hồng (1999), Lịch sử sự nghiệp thư viện Việt Nam trong tiến trình
văn hóa dân tộc, Vụ thư viện - Bộ Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
[10.] Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thành, Dương Trung Quốc (2000), Lịch sử báo chí
Việt Nam 1865-1945, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[11.] Vũ Thị Minh Hương (2002), Nội Thương Bắc Kỳ. Luận án tiến sĩ ,Viện Sử học,
Hà Nội.
[12.] Vũ Thị Minh Hương (2002), “Paul Boudet người sáng lập và những đóng góp cho
lưu trữ Đông Dương”, Tạp chí Văn Thư Lưu trữ Việt Nam, số 2, tr. 45-48.
[13.] Vũ Thị Minh Hương (2002), “Paul Boudet người sáng lập cơ quan lưu trữ và
thư viện Đông Dương”, Tạp chí Xưa và Nay, số 123 (tháng 9), tr. 32-33.
154
[14.] Nguyễn Văn Khánh (2004), Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858-1945), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[15.] Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (1998), Đại cương lịch
sử Việt Nam, tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[16.] Nguyễn Ngọc Mô (2002), Tìm hiểu Lịch sử ngành Thư viện - Lưu trữ hồ sơ Việt
Nam, Nxb. Thế Giới, Hà Nội
[17.] Nguyễn Ngọc Mô (1996), “Tìm hiểu lịch sử thư viện Việt Nam thời thuộc
Pháp”, Tập san Thư viện, tr.3-7.
[18.] Trần Nghĩa, Gros, F. (1993), Di sản Hán - Nôm Việt Nam, tập I, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
[19.] Trần Viết Nghĩa (2012), Tri thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây
thời Pháp thuộc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[20.] Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Minh Giang, Đỗ Quang Hưng,...(2009), Tiến trình
lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[21.] Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp, Nxb. Văn hóa Thông
tin, Viện Văn hóa, Hà Nội.
[22.] Dương Kinh Quốc (2005), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám 1945.- Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[23.] Phạm Mạnh Phan (1943), “Vài con số về các thư viện ở Đông Dương”, Tri Tân,
số 94, tháng 6, tr.358-359.
[24.] Hồ Sĩ Quí, Vương Toàn (2011), Thư viện Khoa học xã hội, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
[25.] Nguyễn Thị Lan Thanh (2006), Thư mục học, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
[26.] Nguyễn Văn Thâm, Vương Đình Quyền, Đào Thị Diến, Nghiêm Kỳ Hồng
(2010), Lịch sử Lưu trữ Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
[27.] Bùi Loan Thùy, Lê Văn Viết (2001), Thư viện học đại cương, Đại học Quốc
gia, Tp. Hồ Chí Minh.
[28.] Tạ Thị Thúy, Ngô Văn Hòa, Vũ Huy Phúc (2007), Lịch sử Việt Nam, T.3:1919-
1930, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
155
[29.] Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Công Bình, Văn Tạo,...(2004), Lịch sử Việt Nam,
T.2 1858-1945, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[30.] Tiêu chuẩn Việt Nam 5453-1991. Hoạt động thông tin khoa học và tư liệu: Thuật
ngữ và khái niệm cơ bản, Nxb. Trung tâm Thông tin tư liệu khoa học và công
nghệ Quốc gia, Hà Nội.
[31.] Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), tập 2, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
[32.] Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), tập 4, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
[33.] Từ điển tiếng Việt (2010), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
[34.] Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 10. Pháp lệnh thư viện (2000),
[35.] Nguyễn Hữu Viêm, Lê Văn Viết (2002), Thư viện Quốc gia Việt Nam – 85 năm
xây dựng và trưởng thành (1917-2002), Thư viện Quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
TIẾNG NGA
[36.] Буй Лоан Тxу (2003), Библотечное дело и библиотековедение Вьетнама
(история, современное состояния и перспективы) Кан. Дис. Пед. наук
05.25.03/Буй Лоан Тxу. - Санкт-Петербург. - 403c.; 30см+1реф. (Sự nghiệp
thư viện và thư viện học Việt Nam lịch sử, hiện trạng và triển vọng: Luận án
phó tiến sĩ)
TIẾNG PHÁP
[37.] S357 - Annuaire statistique de l’Indochine 1930-1931, Hanoi, 1932.
[38.] S359 - Annuaire statistique de l’Indochine 1932-1933, Hanoi, 1935.
[39.] S361 - Annuaire statistique de l’Indochine 1934-1935- 1936, Hanoi, 1937.
[40.] S362 - Annuaire statistique de l’Indochine 1936-1937, Hanoi, 1938.
[41.] S363 - Annuaire statistique de l’Indochine 1937-1938, Hanoi, 1939.
[42.] S364 - Annuaire statistique de l’Indochine 1939-1940, Hanoi, 1942.
[43.] S365 - Annuaire statistique de l’Indochine 1940- 1942, Hanoi, 1945.
[44.] S366 - Annuaire statistique de l’Indochine, Vol 111943-1946, Saigon, 1948.
156
[45.] Boudet, P. (1919), “Les archives et les bibliothèque de l’Indochine.”, Revue
Indochinoise, 1919, tr. 721- 738.
[46.] Đào Thị Diến (2004), Les archives coloniales au Vietnam (1858-1954) Les
fonds conservés au Dépôt Central de Hanoi, Fonds de la Résidence
supérieure au Tonkin (Lưu trữ thuộc địa ở Việt Nam (1858-1954) Các phông
bảo quản ở kho Lưu trữ Trung ương tại Hà Nội, phông phủ Thống sứ Bắc
Kỳ), Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Paris VII, Cộng hòa Pháp, 405 tr.
[47.] S1220. Conseil de Gouvernement de l’Indochine. Session ordinaire de 1925.
Rapport sur la Direction des Archives et des Bibliothèques (juin 1924-juin
1925), H., 1925, 12p; 27cm.
[48.] L'Indochine dans le passé Exposition de documents relatifs à l''Histoire de
l''Indochine, organisée par la Direction des Archives et de Bibliothèques, avec
le concours des Amis du Vieux Hanoi (22 - 30 Nov. 1938), Impr. Lê Vạn Tân,
Hanoi, 117 p.
[49.] J 1091 - Journal officel de l'Indochine 29 dec. 1917.
[50.] J1143- Journal officel de l'Indochine, 2e semestre 1930
[51.] Lelièvre, P. (1950), Genèse et évolution des bibliothèques publiques en France,
Bibliothèques, Numéro spécial de l’Education nationale, décembre 1950, pp.
5 - 6. (Sự hình thành và phát triển của các thư viện công cộng ở Pháp), Thư
viện, Số đặc biệt về giáo dục quốc gia, 12/1950, tr. 5 - 6.)
[52.] Pasquel-Rageau, C. (1992), “Les bibliothèques de l’Indochine francaise”,
Histoire des bibliothèques francaises, tome 4, Paris.
[53.] Robert, U. (1883), Recueil de lois (décrets, ordonnances, arrêtés, circulaires
etc.) concernant les bibliothèques publiques (communes, universitaires,
scolaires et populaires) publié sous les auspices du Ministère de l’Instruction
publique, H. Champion, Libraire, Paris.
157
Tài liệu lưu trữ tại Hà Nội
Phông Toàn quyền Đông Dương(GGI)
[54.] GGI - V8 - 01897. Etat des abonnements aux journaux et revue périodiques
nécessaire aux Services Militaires et Maritime de l’Annam et du Tonkin
pendant l’année 1898, 22fs.
[55.] GGI - V3 - 074183. A/s fondation de la bibliothèque populaire au public de
Hanoi, 1898, 7fs.
[56.] GGI - V8 - 03456. Impression de l’annuaire colonial de 1906, 1904-1905, 5fs.
[57.] GGI - V3 - 02821. Ouverture et règlement de la Bibliothèque Franco-Annamite,
1907, 7fs.
[58.] GGI - V8 - 05177. A/s des abonnement aux journaux, périodiques officiels et
autres par diver Servises de l’Indochine, 1908, 4fs.
[59.] GGI - V8 - 05178. A/s des souscription à diverses publication, 1908, 10fs.
[60.] GGI - V8 - 02025. Annuaire des marées – Répartition – Abonnement, 1911-
1912, 5fs.
[61.] GGI - V0 - 07815. Bibliothèque des Servise économiques et correspondances
diverse 1916-1917, 91fs.
[62.] GGI - V8 - 06412. Lettre et correspondances relatives à l’échange des divers
imprimés, 1919.
[63.] GGI - V7 - 07209. Coupure de presse concernant le Gouverneur général Pierre
Pasquier, 1928, 18fs.
Phông Thống sứ Bắc Kỳ (Résidence Supérieure au Tonkin - RST)
[64.] RST - V3 - 022935. Création des bibliothèques populaire coloniales, 1891, 2fs.
[65.] RST - V4 - 075532. Procès – verbaux de la prise de possession de poste de
bibliothécaire, archivistes de la Résidence supérieure au Tonkin à Hanoi à la
date du 3 juin 1904, 155fs.
158
[66.] RST - V6 - 27.095. Avis relatif au prêt à domicile des livres de la Bibliothèque
Franco-annamite, 1907, 2fs.
[67.] RST - V0 - 008116. A/s de la création d’une bibliothèque à l’usage des indigène
à Bacninh, 1910, 2fs.
[68.] RST - H7 - 075531. Réparation et entretien de l’immeuble de la bibliothèque
populaire 12/10/1908 – 28/2/1910, 9fs.
[69.] RST - V4 - 004470. A/s de la bibliothèque de Namdinh, 1914, 3fs.
[70.] RST - V3 - 074181. Création à Hanoi d’une bibliothèque franco-annamite,
1906-1916, 177fs.
[71.] RST - V3 - 013689. A/s de la création et réfection de la bibliothèque et archives
de la Résidence supérieure au Tonkin, 1902-1917, 82fs.
[72.] RST - V5 - 044995. A/s du dépôt légal des imprimés de 1917 versés à la
Bibliothèque centrale de l’Indochine, 1917, 28fs.
[73.] RST - V5 - 044989. A/s du dépôt légal de la Revue indochinoise de 1904 à 1918
versés à la Bibliothèque centrale de l’Indochine, 1904-1918, 76fs.
[74.] RST - V5 - 044996. A/s du dépôt légal des imprimés de 1919 versés à la
Bibliothèque centrale de l’Indochine, 1919, 48fs.
[75.] RST - V5 - 044999. A/s du trensfert des archives et de la bibliothèque de la
Résidence supérieure au Tonkin à la Direction des Archives et bibliothèque à
Hanoi, 1919-1921, 28fs.
[76.] RST - V5 - 044997. A/s du dépôt légal des imprimés de 1920 à 1921 versés à la
Bibliothèque centrale de l’Indochine, 1920-1921, 51fs.
[77.] RST - A1, C.0 - 1014-04. Recueil des arrêtés du Gougal de l'Indochine portant
les règlementations sur l'avancement, la solde, les indemnités, les congés,
...des fonctionnaires et agents en service en Indochine, 1921-1929, 121 fs..].
[78.] RST - V5 - 074199. Organisation du dépôt légal au Tonkin, 1881-1928, 130fs.
[79.] RST - V5 - 045016. A/s du dépôt légal des publications périodique et non-
périodique versés à la Direction des Archives et des Bibliothèque de
l’Indochine, 1929-1930, 61fs.
159
[80.] RST - V5 - 045017. A/s du versement de divers imprimés au dépôt légal à la
Résidence supérieure au Tonkin, 1923-1931, 238fs.
[81.] RST - V3 - 85406. Règles de placement des livres dans la bibliothèque centrale
de Hanoi, 1934, 42fs.
[82.] RST- V5 - 045023. Formalité de l’envoi au dépôt légal des imprimés, 1925-
1934, 21fs.
[83.] RST - V1 - 074177. Ouverture d’un cours professionnel à la Direction des
Archives et des Bibliothèque, 1937, 4fs.
[84.] RST - V1 - 074176. Cours de formation des sécrétairé archivistes
bibliothécaires, 1936-1940, 10fs.
[85.] RST - V5 - 074199-02. Bordereaux des publication périodiqué expédiés au
Service du dépôt légal des Archives et des Bibliothèque de l’Indochine.
Phông Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (Direction des Archives et
des Bibliothèques de l’Indochine)
[86.] V0 - 37. Organisation du Service des Archives et des Bibliothèques de
l'Indochine. 20fs
[87.] V0 - 38. Création de la Direction des Archives et des Bibliothèques de
l'Indochine, 1917, 32fs
[88.] V0 - 9. Rapport sur l’organisation et le fonctionnement de la Direction des
Archives et des Bibliothèques de l'Indochine. 1921, 13fs.
[89.] V0 - 10 Rapport sur le fonctionnement de la Direction des Archives et des
Bibliothèques de l'Indochine. 1922, 16fs.
[90.] V3 - 877. Guide du lecteur à la Bibliothèque centrale de l’Indochine. 1933, 10fs.
[91.] V0 - 1421. Rapport annuels sur le fonctionnement des Services des Archives
des Bibliothèques de l'Indochine pendant les années 1935-1936, 127fs.
160
[92.] V0 - 1418. Rapport annuels sur le fonctionnement des Services des Archives et
des Bibliothèques de l’Indochine pendant les annés, 1937-1938, 115fs.
[93.] V0 - 1625. Rapport sur le fonctionnement de la Direction des Archives et des
Bibliothèques de l’Indochine, 1937-1939, 28fs.
[94.] V0 - 1413. Rapport annuels sur le fonctionnement des Services des Archives et
des Bibliothèques de l’Indochine pendant les annés, 1939-1940, 59fs.
[95.] V0 - 1636. Statistique de l’acroisement annuel de 1922 à 1941 des collections
de la Bibliothèque centrale de Hanoi, 1922-1941, 4fs.
[96.] V3 - 1638. Statistiques annuelles de 1920 à 1941 des livres en magasin de la
Bibliothèque centrale de Hanoi, 2fs.
[97.] V0 - 1631. Statistiques du nombre des lecteurs indigènes et européens
fréquentés à la Bibliothèque centrale de Hanoi. 1920-1941, 9fs.
[98.] V3 - 1626. Statistiques de l'accroissement des collections des ouvrages à la
Bibliothèque de la Cochinchine. 1923-1941, 3fs
[99.] V0 - 1633. Statistiques annuelles de 1918 à 1941 des crédits pour achat et reliure
des livres de la Bibliothèque centrale de Hanoi. 1918-1941, 5fs.
[100.] V0 - 1632. Statistiques annuelles de 1919 à 1941 des lecteurs fréquentés dans
les Bibliothèques de Hanoi, Saigon et Phnom Penh. 1919-1941,1f.
[101.] V0 - 1412. Rapport annuels sur le fonctionnement des Services des Archives
et des Bibliothèques de l’Indochine pendant les annés, 1940-1941, 73fs.
[102.] V0 - 1411. Rapports annuels sur le fonctionnement des Services des Archives
et des Bibliothèques de l'Indochine pendant les années 1941-1942, 85p.
[103.] V0 - 1410. Rapport annuels sur le fonctionnement des Services des Archives
et des Bibliothèques de l’Indochine pendant les annés, 1942-1943, 78fs.
[104.] V0 - 1669. Organisation et fonctionnement de la Direction des Archives et des
Bibliothèques de l'Indochine. 1945-1946, 40fs.
[105.] V3 - 05. Division du cadre de classement bibliographie du système décimal
international, 8fs.
[106.] V3 - 1276. Manuel d’appentisage du classement des bibliothèques, 91fs.
161
[107.] V0 - 11. Rapport sur l'Organisation des Archives du Gouvernement général à
Hanoi et des archives et de la bibliothèque de la Résuper au Tonkin, sd, 14fs.
Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (Aix - en – Provence
Cộng hòa Pháp)
Phông Toàn quyền Đông Dương (Gouvernement Général de l’Indochine -
GGI)
[108.] GGI - C2 - 4610. Situation du bibliothècaire – archiviste du Parquet général,
1907.
[109.] GGI - R41 - 50883. Bibliothèque de l’École francaise d’Extrême Orient.
Bibliothèque, 1910.
[110.] GGI - V4- 47457. Projet de création de bureaux des publications indigènes et
de bibliothèque à l’usage des annamites, 1929.
[111.] GGI - V4- 47458. Création de bibliothèque populaire à l’usage des indigènes
1929-1930.
[112.] GGI- V4- 47466. Subvention du buget général pour journaux de propagande
et bibliothèque indigène en Annam (Questions d’enseignement), 1929-1931.
Phông Bộ Thuộc địa (Fond Ministériels Agence des Colonies)
[113.] 368. Archives et bibliothèque, 1927-1953. Fond Ministériels Agence des
Colonies.
Phông Thống sứ Bắc Kỳ (Fond RST – NF)
[114.] 4195. Création et forrmation du corps des sécrestaires archivistes
bibliothécaires, 1943-1944.
[115.] 4197. Dépôt légalpieces de principe, liste mensuelles des périodiques
paraissant au Tonkin, 1881-1945.
Thư mục
[116.] BOUDET, Paul Boudet, BOURGEOIS, Rémy (1929), Bibliographie de
l''Indochine Francaise 1913-1926, Impr. d''Extrême-Orient, Hanoi, vii, 346p..].
162
110. BOUDET, Paul Boudet, BOURGEOIS (1931), Bibliographie de
l''Indochine Francaise 1927-1929, Impr. d''Extrême-Orient, Hanoi, vii, 240p.
[117.] BOUDET, Paul Boudet, BOURGEOIS (1933), Bibliographie de l''Indochine
Francaise 1930, Impr. d''Extrême-Orient, Hanoi, 196p.
Tài liệu điện tử
[118.] Ron. Bentley. French Indochina participation in the Golden Gete Exposition.
www.sicp-online.org
[119.] Cơ sở dữ liệu thư mục của Thư viện Quốc gia Paris
http://www.bnf.fr/fr/acc/x.accueil.html.
[120.] Nguyễn, T. B., Vĩnh, Q.B., Ngô, T.H.Đ., Nguyễn, T.T.M., Prestley, C. (2010),
Cung cấp thông tin thông qua thư viện công cộng Việt Nam: chuẩn đánh giá
hoạt động và tác động. Hội thư viện Việt Nam. Bản tin các Trung tâm Học liệu
số 8 © 2012 Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên.
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
LÊ THANH HUYỀN
THƯ VIỆN VIỆT NAM
THỜI KỲ PHÁP THUỘC
PHỤ LỤC LUẬN ÁN
HÀ NỘI - 2014
164
MỤC LỤC
Phụ lục 1: Nghị định ngày 29 tháng 11 năm 1917 thành lập các kho lưu trữ và
thư viện công cộng ở Đông Dương .............................................................................. 165
Phụ lục 2a: Bảng qui định cấp bậc và lương của các vị trí việc làm của viên chức
bản xứ trong Nha lưu trữ và Thư viện Đông Dương ................................................... 168
Phụ lục 2b: Bảng qui định cấp bậc và lương của các vị trí việc làm của viên chức
bản xứ trong Nha lưu trữ và Thư viện Đông Dương ................................................... 169
Phụ lục 3 : Bảng lương một số ngành .......................................................................... 170
Phụ lục 4 : Chương trình đào tạo và thi lấy bằng nhân viên lưu trữ và thư viện
bản xứ ........................................................................................................................... 172
Phụ lục 5: Phiếu mô tả thư mục và mục lục ................................................................. 175
Phụ lục 6: Thư mục Đông Dương thuộc Pháp ............................................................. 179
Phụ lục 7: Qui tắc biên mục mô tả ............................................................................... 180
Phụ lục 8 : Khung phân loại thập phân quốc tế ........................................................... 189
Phụ lục 9: Cách sắp xếp sách theo chủ đề trong kho mượn ........................................ 193
Phụ lục 10: Thư viện Trung ương Đông Dương .......................................................... 195
Phụ lục 11: Thư viện trường Viễn Đông bác cổ .......................................................... 196
Phụ lục 12: Quang cảnh phòng đọc Thư viện Trung ương Đông Dương .................... 197
Phụ lục 13: Quang cảnh phòng mượn Thư viện Trung ương Đông Dương ................ 198
Phụ lục 14: Quang cảnh kho mượn Thư viện Trung ương Đông Dương .................... 199
Phụ lục 15: Thư viện quốc gia Pháp ............................................................................ 200
165
PHỤ LỤC 1: NGHỊ ĐỊNH NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 1917 THÀNH LẬP CÁC KHO
LƯU TRỮ VÀ THƯ VIỆN CÔNG CỘNG Ở ĐÔNG DƯƠNG
166
167
168
PHỤ LỤC 2A: BẢNG QUI ĐỊNH CẤP BẬC VÀ LƯƠNG CỦA CÁC VỊ TRÍ VIỆC
LÀM CỦA VIÊN CHỨC BẢN XỨ TRONG NHA LƯU TRỮ VÀ THƯ VIỆN ĐÔNG
DƯƠNG
(VIÊN CHỨC HẠNG 2)
Bậc và vị trí Lương hiện tại/năm Thời gian tối thiểu
để được nâng bậc
Thư ký chính ngoại bậc 1.920
Thư ký chính bậc 1 1.644 3 năm
Thư ký chính bậc 2 1.428 3 năm
Thư ký chính bậc 3 1.344 2 năm
Thư ký chính bậc 4 1.248 2 năm
Thư ký bậc 1 1.152 2 năm
Thư ký bậc 2 1.044 18 tháng
Thư ký bậc 3 948 18 tháng
Thư ký bậc 4 852 18 tháng
Thư ký bậc 5 756 18 tháng
Thư ký bậc 6 660 18 tháng
Thư ký tập sự 564 1 năm
* Thời gian nghỉ phép cá nhân sẽ bị khấu trừ trong thời gian liên tục thâm niên được tính để
nâng bậc.
Nguồn: A1, C.0 - 1014-04. Tổng tập các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương về các qui
định nâng bậc, lương, phục cấp, nghỉ phép,...của các viên chức làm việc trong các cơ quan ở
Đông Dương, 1921-1929. Phông Thống sứ Bắc Kỳ.
169
PHỤ LỤC 2B: BẢNG QUI ĐỊNH CẤP BẬC VÀ LƯƠNG CỦA CÁC VỊ TRÍ VIỆC
LÀM CỦA VIÊN CHỨC BẢN XỨ TRONG NHA LƯU TRỮ VÀ THƯ VIỆN ĐÔNG
DƯƠNG
(VIÊN CHỨC HẠNG THẤP)
Bậc và vị trí Lương hiện tại/năm Thời gian tối thiểu để
được nâng bậc
Chánh Thừa phái bậc 1 648
Chánh Thừa phái bậc 2 588 3 năm
Chánh Thừa phái bậc 3 540 3 năm
Thừa phái chính bậc 1 468 3 năm
Thừa phái chính bậc 2 408 3 năm
Thừa phái chính bậc 3 336 2 năm
Thừa phái bậc 1 300 2 năm
Thừa phái bậc 2 276 2 năm
Thừa phái bậc 3 240 2 năm
Thừa phái tập sự 210 18 tháng
Nguồn: A1, C.0 - 1014-04. Tổng tập các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương về các qui
định nâng bậc, lương, phục cấp, nghỉ phép,...của các viên chức làm việc trong các cơ quan ở
Đông Dương, 1921-1929. Phông Thống sứ Bắc Kỳ.
170
PHỤ LỤC 3 : BẢNG LƯƠNG MỘT SỐ NGÀNH
KHUNG LƯƠNG CỦA KỸ SƯ NGÀNH ĐO ĐẠC BẢN ĐỒ
Cấp bậc và vị trí Lương/năm (đơn vị
franc)
Thời gian tối thiểu được
nâng bậc hoặc thưởng tại bậc
Kỹ sư đo đạc bậc cao 2.640
Kỹ sư đo đạc bậc 1 2.340 3 năm
Kỹ sư đo đạc bậc 2 2.100 3 năm
Kỹ sư đo đạc bậc 3 1.860 3 năm
Kỹ sư phó đo đạc bậc 1 1.620 2 năm
Kỹ sư phó đo đạc bậc 2 1.440 2 năm
Kỹ sư phó đo đạc bậc 3 1.260 2 năm
Kỹ sư phó đo đạc bậc 4 1.080 2 năm
Kỹ sư phó đo đạc bậc 5 960 2 năm
Kỹ sư phó đo đạc tập sự 840 Từ 2 đến 3 năm Nguồn: A1, C.0 - 1014-04. Recueil des arrêtés du Gougal de l'Indochine portant les règlementations sur
l'avancement, la solde, les indemnités, les congés, ...des fonctionnaires et agents en service en Indochine, 1921-
1929, 121 fs.(Phông Thống sứ Bắc Kỳ)
KHUNG LƯƠNG CỦA GIÁO VIÊN CÓ BẰNG CỬ NHÂN HOẶC GIÁO VIÊN
CÓ BẰNG SƯ PHẠM NGƯỜI BẢN XỨ
Vị trí, cấp bậc Lương/năm (đơn vị franc)
Giáo viên chính ngoại bậc 3.600
Giáo viên chính bậc 1 3.300
Giáo viên chính bậc 2 3.000
Giáo viên chính bậc 3 2.700
Giáo viên bậc 1 2.430
Giáo viên bậc 2 2.160
Giáo viên bậc 3 1.900
Giáo viên bậc 4 1.640
Giáo viên tập sự 1.400 Nguồn: A1, C.0 - 1014-04. Recueil des arrêtés du Gougal de l'Indochine portant les règlementations sur
l'avancement, la solde, les indemnités, les congés, ...des fonctionnaires et agents en service en Indochine, 1921-
1929, 121 fs. (Phông Thống sứ Bắc Kỳ)
171
KHUNG LƯƠNG CỦA GIÁO VIÊN TIỂU HỌC NGƯỜI BẢN XỨ
Vị trí, cấp bậc Lương/năm (đơn vị franc) Giáo viên chính ngoại bậc 3.000
Giáo viên chính bậc 1 2.700
Giáo viên chính bậc 2 2.430
Giáo viên chính bậc 3 2.160
Giáo viên bậc 1 1.900
Giáo viên bậc 2 1.640
Giáo viên bậc 3 1.400
Giáo viên bậc 4 1.160
Giáo viên tập sự 960 Nguồn: A1, C.0 - 1014-04. Recueil des arrêtés du Gougal de l'Indochine portant les règlementations sur
l'avancement, la solde, les indemnités, les congés, ...des fonctionnaires et agents en service en Indochine, 1921-
1929, 121 fs. (Phông Thống sứ Bắc Kỳ)
KHUNG LƯƠNG CỦA BÁC SĨ NGƯỜI BẢN XỨ
Vị trí, cấp bậc Lương/năm (đơn vị franc) Bác sĩ chính ngoại bậc 4.800
Bác sĩ chính bậc 1 4.400
Bác sĩ chính bậc 2 4.000
Bác sĩ chính bậc 3 3.600
Bác sĩ bậc 1 3.200
Bác sĩ bậc 2 2.800
Bác sĩ bậc 3 2.400
Bác sĩ bậc 4 2.100
Bác sĩ tập sự 1.800 Nguồn: A1, C.0 - 1014-04. Recueil des arrêtés du Gougal de l'Indochine portant les règlementations sur
l'avancement, la solde, les indemnités, les congés, ...des fonctionnaires et agents en service en Indochine, 1921-
1929, 121 fs. (Phông Thống sứ Bắc Kỳ)
KHUNG LƯƠNG CỦA KỸ SƯ CÔNG CHÍNH NGƯỜI BẢN XỨ
Vị trí, cấp bậc Lương/năm (đơn vị franc) Kỹ sư ngoại bậc 4.800
Kỹ sư bậc 1 4.400
Kỹ sư bậc 2 4.000
Kỹ sư bậc 3 3.600
Kỹ sư phó bậc 1 3.200
Kỹ sư phó bậc 2 2.800
Kỹ sư phó bậc 3 2.400
Kỹ sư phó bậc 4 2.100
Kỹ sư tập sự 1.800 Nguồn: A1, C.0 - 1014-04. Recueil des arrêtés du Gougal de l'Indochine portant les règlementations sur
l'avancement, la solde, les indemnités, les congés, ...des fonctionnaires et agents en service en Indochine, 1921-
1929, 121 fs. (Phông Thống sứ Bắc Kỳ).
172
PHỤ LỤC 4 : CHƯƠNG TRINH DAO TẠO VA THI LẤY BẰNG NHAN VIEN LƯU
TRỮ VA THƯ VIỆN BẢN XỨ
Nguồn: J 1143- Công báo Đông Dương, quí 2 năm 1930 (Journal officel de l'Indochine, 2e
semestre 1930).
Chương trình thi tuyển của viên chức lưu trữ-thư viện bản xứ bao gồm những
nội dung sau: Những kiến thức lý luận chung về thư viện và lưu trữ :
Công tác tư liệu và sắp xếp tài liệu
1- Kiến thức chung
2- Kiến thức hành chính
Khái niệm
Phân biệt các tài liệu
Sắp xếp tài liệu
Trang thiết bị hiện đại
Ứng dụng các nguyên tắc vào vận hành tổ chức một văn phòng trong một cơ quan
Sắp xếp tài liệu lưu trữ
Tài liệu lưu trữ
Vai trò của tài liệu lưu trữ
Phân biệt Phông lưu trữ
Những nguyên tắc và phương pháp sắp xếp
Chỉnh lý tài liệu lưu trữ
Biên mục bên trong tài liệu
Biên soạn danh mục thống kê tài liệu
Sắp xếp tài liệu trong kho
Cơ sở vật chất (nhà kho)
Trang thiết bị
Phòng chống côn trùng và độ ẩm
Tài liệu Hành chính Đông Dương
Phục vụ tài liệu cho các cơ quan hành chính và cho công chúng
Thực hành thực tiễn và đánh máy phiếu mục lục
Tham quan kho lưu trữ
Sắp xếp trong các thư viện
1- Các sách: Theo khái niệm lịch sử và thực tiễn
173
2- Các công việc của cán bộ thư viện: Lựa chọn sách, tiếp nhận sách, sắp xếp, làm
mục lục, lưu trữ và bảo quản, nguyên tắc đặc thù cho ấn phẩm định kỳ, các bộ sưu
tập, sách nhập liên tục (ouvrages à suite) và sách mỏng; phục vụ sách cho độc giả,
cho mượn sách.
3- Hình thức và tổ chức hoạt động thư viện: lịch sử thư viện, thực hành thư viện, cách
làm mới thư viện, vận hành hoạt động của một thư viện địa phương, thư viện cơ quan
hành chính và thư viện lưu động.
4 - Thư mục Đông Dương.
Cụ thể trong phần thi tuyển viên chức lưu trữ-thư viện viên, kiến thức về sắp
xếp thư viện được Nghị định ngày 25/10/1930 qui định như sau:
1- Đối với sách:
+ Khái niệm lịch sử của chữ viết, bản chép tay, sách xuất bản
+ Về thực hành: in ấn, sửa bản in, khổ, đóng bìa, đóng sách.
2 - Những công việc của thư viện viên:
+ Lựa chọn sách và làm phiếu đặt mua
+ Tiếp nhận sách: đối chiếu sách nhận với danh mục đặt mua, đóng dấu, đăng ký vào sổ, định
giá, dán nhãn (bài tập thực hành)
- Sắp xếp sách trong kho, bao gồm:
+ Theo chủ đề căn cứ vào cách cũ hoặc theo hệ thống phân loại thập phân
+ Theo khổ và số thứ tự; ưu điểm của cách sắp xếp này
- Biên soạn mục lục:
+ Biên soạn phiếu mục lục (tác giả, nhan đề, địa chỉ thư mục); vai trò của việc biên soạn
phiếu mục lục (bài tập thực hành)
+ Nguyên tắc sắp xếp phiếu theo tác giả; theo chủ đề (bài tập thực hành)
- Giữ gìn và bảo quản
+ Vệ sinh, đóng sách, phòng chống côn trùng và độ ẩm
- Các qui tắc đặc thù cho ấn phẩm định kỳ, các bộ sưu tập, sách và sách mỏng
(có bìa mỏng)
174
- Phục vụ sách cho độc giả: thẻ độc giả, sổ theo yêu cầu, sử dụng tự do các sách
tra cứu và các ấn phẩm định kỳ mới trong thư viện.
- Cho mượn sách
+ Nguyên tắc cơ bản tự do lấy sách trên giá
+ Nhóm các tiểu thuyết cùng tác giả
+ Sắp xếp theo chủ đề, theo số thứ tự và ưu điểm và nhược điểm của các cách sắp xếp này
3- Hình thức và tổ chức thư viện
- Lịch sử thư viện quá khứ và hiện tại ở Pháp, Mỹ và Đức
- Thực hành: trụ sở thư viện (phòng đọc, kho tàng, sơ đồ đối với thư viện nhỏ và lớn);
trang thiết bị, giá sách;
- Bổ sung tài liệu
+ Đặt mua, nhận biếu tặng và lưu chiểu
+ Qui trình nhận lưu chiểu ở Pháp và Đông Dương. Đăng ký vào sổ và đăng ký hàng tháng
(có bài tập thực hành)
- Hoạt động của thư viện địa phương
- Hoạt động của thư vện của cơ quan hành chính: những ấn phẩm hành chính, danh
mục tài liệu.
- Hoạt động của thư viện lưu động: các hệ thống thư viện lưu động khác nhau ở Mỹ,
trang bị bên trong xe cam nhông lưu động. Kiểm tra nội dung của các két sách. Kế toán
và cơ sở vật chất.
4- Thư mục Đông Dương
Khái niệm thư mục; sự cần thiết của thư mục; Những tổng tập thư mục Đông
Dương; Những nguyên tắc của thư mục Pháp và nước ngoài; Nguyên tắc tóm tắt các
phiếu thư mục; Những cuốn sách quan trọng phục vụ nghiên cứu Đông Dương và danh
mục sách; Những dịch vụ phục vụ tra cứu và sử dụng sách; Những ấn phẩm định kỳ cơ
bản của Đông Dương và Bảng danh mục công bố những ấn phẩm định kỳ này.
175
PHỤ LỤC 5: PHIẾU MÔ TẢ THƯ MỤC VÀ MỤC LỤC
176
177
178
179
PHỤ LỤC 6: THƯ MỤC ĐÔNG DƯƠNG THUỘC PHÁP
180
PHỤ LỤC 7: QUI TẮC BIÊN MỤC MÔ TẢ
Họ tên
Nếu tên của tác giả chỉ được thể hiện trên cuốn sách bằng chữ cái đầu thì có thể tìm tên
đầy đủ dưới sự hỗ trợ của từ điển hay mục lục và được mô tả đầy đủ. Nếu tác giả có hai
tên (tên kép) thì mô tả cả hai tên.
Ví dụ: VODOYER (Jean-Louis)
Nếu tác giả có trên ba tên thì chỉ mô tả tên đầu.
Trường hợp có tiểu từ đằng trước họ tên của tác giả: các tiểu từ de hay d’ được
để trong ngoặc đơn sau tên và không được tính khi sắp xếp họ của tác giả trong hộp
phiếu.
Ví dụ: LAMARTINE (Alphonse de)
ALEM (Gilbert d’)
Nếu họ bắt đầu bằng de la được xếp theo la và để sau tên của tác giả
Ví dụ: Georges de la Fouchardière sẽ được xếp theo La Fouchardière (Georges de)
Nếu họ bắt đầu bằng du được mô tả bắt đầu bằng du
Ví dụ: Madeleine du Genestoux được mô tả Du GENESTOUX (Madeleine)
Nếu họ bắt đầu bằng le, la, les được xếp bắt đầu bằng le, la, les
Ví dụ: La fayette được xếp theo La Fayette
Những từ này được sắp xếp như là một từ viết liền.
Nếu họ được bắt đầu bằng des được xếp theo des
Ví dụ: Marquis des Méloises được xếp theo des Méloises (Marquis)
Như vậy chỉ có tiểu từ De hay D’ là phải đổi chỗ khi sắp xếp
Trường hợp họ kép cách nhau bằng dấu gạch ngang, phiếu tên tascgiar được xếp
theo họ đầu. Nếu từ thứ hai cả tác giả được đứng riêng để chỉ học tác giả người ta có
thể mô tả một phiếu theo họ thứ 2 để chỉ đến phiếu họ thứ nhất. Ví dụ: Lacour – Gayet,
Gayet xem Lacour Gayet-Gayet.
181
Nhiều tác giả có thói quen để họ và tên cách nhau bằng dấu gạch ngang, ví dụ
Pol-Neveux. Trường hợp này xếp theo họ đầu và làm một phiếu chỉ dẫn đến họ thứ hai.
Trường hợp con của các nhà văn nổi tiếng khi viết văn lấy tên của cha đặt trước
họ và nối bằng một dấu gạch ngang (Paule Henry-Bordeaux).
Phiếu sẽ được mô tả như sau: Bordeaux, Paule Henry.
Phiếu chỉ dẫn được mô tả: Henry-Bordeaux, Paule, Xem: Bordeaux, Paule
Henry
Sắp xếp phiếu: Đối với những họ kép được xếp sau những họ đơn (họ đầu)
Ví dụ:
Durand, Henry
Durand, Victor
Durand – Rosé, Jacques
Biệt hiệu, bút danh
Khi tác giả mang bút danh, biệt hiệu hay họ giả, mô tả phiếu theo họ được thể
hiện trên sách và làm phiếu chỉ dẫn tới họ thật.
Ví dụ Pierre Loti là bí danh của Julien Viaud, họ mà tác giả không bao giờ dùng
trên tác phẩm. Mô tả phiếu chính cho Loti và làm phiếu chỉ dẫn:
Viaud, Julien, Xem: Loti (Pierre)
Nếu tác giả nổi tiếng hơn ở họ thật sẽ sắp xếp họ của tác giả với phiếu chỉ dẫn bí
danh, biệt hiệu đến Họ thật. Ví dụ: Mat-Gieng, Xem: Crayssac, René.
Tuy nhiên, tất cả các phiếu trong mục lục được sắp xếp theo họ chính, phiếu chỉ
dẫn chỉ được làm một lần cho tất cả các phiếu dưới tên ít sử dụng ngay cả khi tác giả sử
dụng lúc họ này, lúc họ khác.
Thời kỳ Pháp thuộc, các thư viện lập danh mục các tác giả cùng bí danh, biệt
hiệu hay họ giả để tiện xử lý trong biên mục phiếu.
Khi họ tác giả bắt đầu bằng một chữ cái, sẽ có hai trường hợp xảy ra:
182
1- Chữ cái bắt đầu là chữ các chính của họ: Nếu họ của tác giả nổi tiếng, thêm
vào họ của tác giả dấu ngoặc đơn. Nếu chữ cái đầu của họ đứng một mình, và trong
trường hợp đầu sẽ làm một phiếu chỉ dẫn đến chữ cái đầu của họ.
Ví dụ: R.C. Crayssac (René)
R.C. voir: Crayssac (René)
Sắp xếp chữ cái đầu tiên của họ theo trật tự chữ cái không phân biệt giữa chữ cái
đầu của họ hay tên. Ví dụ R.C. không xếp C.(R)
2- Chữ cái đầu của họ tác giả được viết tắt là x, y, hay z: Nếu họ tác của bắt đầu
bằng những chữ cái trên cần làm phiếu chỉ dẫn đến họ trên phiếu chính.Ví dụ: Maurice
Larouy viết tác phẩm “L’Odyssé” dưới biệt hiệu là Y, phải sắp xếp phiếu như sau:
Larrouy, Maurice nhưng phải làm một phiếu chỉ dẫn: Y, xem Larrouy (Maurice).
Trong trường hợp không biết tên tác giả thì xếp phiếu theo Y, Z…
Trường hợp họ của tác giả được thể hiện bằng nhiều chữ cái viết tắt người ta
biên soạn phiếu theo chữ cái theo trật tự thể hiện trên trang tên sách và xếp phiếu theo
chữ cái đầu tiên và coi chữ cái thứ hai như là từ thứ hai. Trường hợp có nhiều phiếu
trong đó có những phiếu ghi tên tác giả viết tắt và những phiếu tên tác giả không viết
tắt nhưng đều bắt đầu bằng chữ cái như nhau thì xếp phiếu có tên tác giả viết tắt trước,
tên tác giả đầy đủ sau.
Ví dụ: L.G.K
Lamartine
Ludendorff
Tên Thánh
Tên thánh luôn được thể hiện như là tên của tác giả chứ không phải là họ. Ví dụ:
Saint Augustin sẽ mô tả như sau: Augustin(Saint). Khi sắp xếp phiếu tác giả có tên
thánh luôn đứng trước những tác giả có cùng tên.
Ví dụ:
Augustin(Saint)
183
Augustin(Antoine)
Tuy nhiên có nhiều trường hợp tác giả có họ bắt đầu bằng Saint nhưng kèm theo
là dấu gạch ngang, trường hợp này không có nghĩa là tên thánh, có thể mô tả bắt đầu
bằng Saint.
Ví dụ: Saint-Exupéry (Antoine de)
Tên tác giả nữ
Khi tên của tác giả lấy tên thời con gái của mình và sau đó trong tác phẩm khác
lại mang họ chồng, xếp theo họ được sử dụng nhiều nhất và làm phiếu chỉ dẫn đến họ
khác.
Ví dụ: Colette Simone là họ thời con gái nhưng viết văn dưới họ của hai người
chồng: Willy và De Jouvenel và sử dụng Colette là Tên. Xếp các phiếu theo Colette và
làm hai phiếu chỉ dẫn Willy(Colette), xem Colette và Jouvenel (Colette de), xem
Colette
Tên vua, hoàng hậu, hoàng tử:
Các phiếu của các tác phẩm của họ được mô tả theo tên.
Ví dụ: Marguerite de Navarre được xếp theo Marguerite, không xếp theo
Navarre.
Danh hiệu danh dự
Những danh hiệu danh dự như Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp, Thành viên của
Hội…đều bỏ khi mô tả phiếu trừ các cấp bậc trong quân đội và danh hiệu tiến sĩ, đôi
khi cả chức danh hành chính và được để trong ngoặc đơn. Ví dụ: Toàn quyền Đông
Dương(Gouverneur Générale). Tuy nhiên các thư viện thường thay thế chức danh này
bằng tên. Ví dụ Pierre Pasquier, Toàn quyền Đông Dương, được mô tả Pasquier
(Pierre)
Người dịch, xuất bản, đề tựa
Họ được coi như là tác giả và được lập danh mục.
184
Người dịch
Khi sắp xếp một cuốn sách dịch, thư viện tiến hành mô tả phiếu chính cho họ
tên tác giả, sau đó mô tả một phiếu cho người dịch và ghi thêm chữ viết tắt chỉ công
việc của họ như dịch (trad.)
Người xuất bản
Chức danh này được hiểu theo hai nghĩa: Trong ngôn ngữ hàng ngày, nghiêng
theo nghĩa thương mại, người xuất bản phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về cuốn sách.
Tuy nhiên đồng thời xét theo công việc khoa học và văn học, người xuất bản chịu trách
nhiệm sửa chữa, sắp xếp những ghi chép của tác giả, có nghĩa là người xuất bản trí
thức. Trường hợp này thường xảy ra đối với các tác phẩm là di cảo và với những nhà
xuất bản truyền thống. Người ta làm một phiếu theo họ tên của Người xuất bản và kèm
theo từ chỉ công việc của họ: éd.(xuất bản). Ví dụ: Richilieu & Gaucheron, éd.
Người đề tựa
Bài đề tựa dẫn dắt và mở đầu của tác phẩm được thực hiện bởi một người khác
không phải là tác giả, trong khi lời giới thiệu được tác giả thực hiện. Người biên mục
làm một phiếu cho họ tên người đề tựa như với trường hợp người dịch và xuất bản kèm
theo từ chỉ công việc của họ: préf. (đề tựa)
Người minh họa
Khi tác phẩm có nhiều minh họa mang tính nghệ thuật thì người minh họa được
mô tả trên phiếu. Trong mục lục tác giả, người biên mục mô tả một phiếu riêng có tiêu
đề mô tả là tên của người minh họa kèm theo từ chỉ công việc minh họa: ill.
Ví dụ: DORE (Gustave), ill.
Sắp xếp các phiếu của người dịch và người xuất bản
Khi một tác phẩm của một tác giả bao gồm các bản gốc, các bản in và bản
dịch…người ta sắp xếp đầu tiên theo chữ cái chức danh của những tác phẩm gốc, sau
đó là những tác phẩm dịch hay xuất bản theo vần chữ cái tác giả của các ấn phẩm.
Ví dụ:
185
Ch.Baudelaire. Vers latin….
Ch.Baudelaire, trad.
Những người đề tựa, dịch và giới thiệu được xếp theo vần chữ cái các tác giả
Baudelaire (Charles), éd.
Baudelaire (Charles), préf.
Những lưu ý khi biên soạn phiếu
Mô tả nhan đề
- Khi Nhan đề qua dài có thể lược bỏ những từ trong câu nhưng không làm thay đổi ý
nghĩa của nhan đề và thay thế bằng dấu ba chấm vào phần lược bỏ. - Trường hợp nhan
đề của cuốn sách không hoàn chỉnh, thiếu rõ ràng, người biên mục có thể hoàn chỉnh
câu và để phần thêm vào đó trong ngoặc vuông ngay sau nhan đề hoặc ở phần cuối của
phiếu.
- Trường hợp một cuốn sách thiếu nhan đề có thể thiết lập một nhan đề ngắn gọn và rõ
ràng và để trong ngoặc vuông.
- Có thể lược bỏ chức danh, biệt hiệu sau tên người trừ trường hợp đòi hỏi cần phải
giữ lại.
- Những từ Monsieur (ông), Son Excellence (ngài), Docteur (tiến sĩ) được thể hiện đầy
đủ có thể thay thế bằng từ viết tắt các chức danh đó.
- Có thể lược bỏ những thông tin chung đôi khi có ở phía trên nhan đề như " Cộng hòa
Pháp", " Chính quyền bảo hộ Bắc kỳ",...
- Có thể lược bỏ những thông tin về để trong ngoặc đơn về bộ sách hoặc nguồn gốc của
sách được ghi trên đầu cuốn sách trừ khi những thông tin này cần thiết cho nhan đề của
sách.
- Nhan đề bằng tiếng nước ngoài được đặt trong dấu ngoặc vuông và dịch nhan đề, trừ
các ngôn ngữ thông dụng như tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Latinh.
186
Ghi chú về khổ và số trang
Thời gian đầu, khổ được đặt sau yếu tố thời gian xuất bản và cách bằng dấu
chấm phẩy. Sau đó khổ thay thế bằng chiều cao và chiều rộng của sách tính bằng
milimet (220/190).
Số trang được đặt sau khổ. Số trang của sách được lấy là số trang ghi trên trang
cuối của sách.Tuy nhiên nếu trang giới thiệu sách được đánh số theo chữ số La mã, ghi
số trang của phần giới thiệu trước rồi đến phần số trang của chính văn bằng chữ số Ả
rập. Số trang nào được đứng trước hay sau tùy thuộc vào sắp xếp thứ tự đánh số của
sách. Ví dụ: XXV-617pp.
Ghi chú về phần địa chỉ thư mục
Địa chỉ thư mục bao gồm Nơi xuất bản, Nhà xuất bản, Năm xuất bản cách nhau
bằng dấu phẩy. Sau đó đến khổ và số trang, ngoài ra có thể ghi những thông tin khác về
hình thức, kiểu đóng, bản đồ...(nếu có)
Khi sách không ghi thông tin về nhà xuất bản có thể thay thế bằng những ghi
chép như Tên pháp lý, địa chỉ. Khi tên pháp lý của nhà in hay nhà xuất bản mang tên
của Giám đốc hay người thừa kế có quyền đối với nhà xuất bản hay nhà in thì mới
được ghi nhận là thông tin của địa chỉ xuất bản.
Khi trang tên sách không ghi địa chỉ xuất bản và ở phần khác của sách (trang
sau của trang tên sách hay trang cuối cùng của sách) cung cấp những thông tin chính
xác, có thể lấy những thông tin này để mô tả trong phần địa chỉ thư mục nhưng để
trong ngoặc đơn.
Đối với những cuốn sách nước ngoài, địa chỉ thư mục được trình bày bằng tiếng
của chính nước đó, trừ tiếng Nga và phương Đông thì cần dịch ra tiếng Pháp trước khi
mô tả.
Năm xuất bản luôn được mô tả bằng chữ số Ả rập ngay cả khi được thể hiện
trên sách bằng chữ số La Mã, trừ các thời kỳ cách mạng. Nếu các thời kỳ cách mạng
được thể hiện trên sách bằng chữ số Ả rập thì vẫn được mô tả bằng chữ số Ả rập. Khi
187
một cuốn sách bao gồm nhiều phần hay nhiều tập xuất bản trong nhiều năm, khi mô tả
lấy năm cuối cùng. Nếu tập đầu có năm xuất bản sau các tập khác thì chỉ rõ ở phần
chú thích.
Khi sách không có năm xuất bản khi mô tả ghi chữ viết tắt s.d.(sans date). Nếu
người biên mục tìm thấy năm xuất bản thì để trong ngoặc vuông. Đối với những cuốn
sách không ghi năm xuất bản trên trang tên sách nhưng vẫn không coi là không có
năm, có thể sử dụng năm nộp lưu chiểu làm năm xuất bản.
Từ đồng nghĩa
Phiền toái chính của mục lục chủ đề các từ đồng nghĩa. Nếu không lưu ý có thể
dẫn đến tình trạng có nhiều phiếu của cùng một chủ đề do các tác giả khác nhau sử
dụng các thuật ngữ khác nhau để thể hiện cùng một chủ đề. Trong trường hợp này chỉ
chọn một thuật ngữ duy nhất để xếp tất cả các phiếu có cùng chủ đề. Làm phiếu chỉ
chỗ cho các từ đồng nghĩa đến thuật ngữ được lựa chọn. Ví dụ: ba cuốn sách gastrite
(viêm dạ dày), gastropathie (thủ thuật cố định dạ dày), estomac (dạ dày) thì xếp tất cả
các cuốn sách vào thuật ngữ estomac( dạ dày) được lựa chọn trong các thuật ngữ nêu
trên và làm phiếu chỉ chỗ: gastrite voir estomac (viêm dạ dày xem dạ dày)... Phải luôn
lưu ý chọn thuật ngữ cho phép nhóm chủ đề tốt nhất, sử dụng nhiều và đơn giản nhất.
Trường hợp từ đồng âm
Khi xếp các phiếu có chứa từ đồng âm khác nghĩa cần lưu ý giải nghĩa từ và để
trong ngoặc đơn. Ví dụ: Décoration (art) và Décoration (phân biệt danh dự)
Cách viết chính tả khác nhau
Trường hợp một từ có những cách viết khác nhau gây khó khăn trong nhận biết
phiếu, người biên mục phải chọn một cách viết chính tả thông dụng thay cho những
cách viết khác nhau, sau đó làm phiếu chỉ chỗ cho những cách viết khác. Ví dụ:
Halong, xem Along. Shanghai xem Changhai
Từ nhiều bộ phận
188
Trong nhiều trường hợp, chủ đề được thể hiện bằng một từ gồm nhiều bộ phận.
Ví dụ: Calcul des probabilité (phép tính xác suất). Người biên mục sẽ xếp phiếu theo từ
đầu tiên mặc dù không đầy đủ nghĩa bằng từ thứ hai. Sau đó làm một phiếu chỉ chỗ:
"Probabilités" (Calcul), xem Calcul des probabilités.
Từ cùng gốc
Khi gặp những từ cùng gốc, người biên mục phải tìm một thuật ngữ khái quát
nhất để nhóm các phiếu dưới một tiêu đề mô tả. Ví dụ: Japon inconnu (Nước Nhật xa
lạ), Japonerie d'automne (Mỹ nghệ Nhật mùa thu), Le sourise japonais (Nụ cười Nhật
Bản), tất cả các từ này đều được xếp dưới tiêu đề là Japon (Nhật Bản).
Nguồn: Manuel d’apprentisage du classement des bibliothèques, 91fs.(Phông Nha Lưu
trữ và Thư viện Đông Dương)
189
PHỤ LỤC 8 : KHUNG PHÂN LOẠI THẬP PHÂN QUỐC TẾ
0 OUVRAGES GÉNÉRAUX (SÁCH VỀ VẤN ĐỀ TỔNG HỢP)
01 Bibliographie ( Thư mục học)
02 Bibliothéconomie (Thư viện học)
03 Encyclopédie général ( bách khoa thư tổng hợp)
04 Collections générales d'essais (Các bộ sưu tập tiểu luận tổng hợp)
05 Périodique généraux. Revue (Ấn phẩn định kỳ tổng hợp. Tạp chí)
06 Sociétés générales. Académies (Các hội. Viện hàn lâm)
07 Journaux. Journalisme ( Báo chí. Nghề làm báo)
08 Bibliothèque spéciales (Thư viện chuyên ngành)
09 Manuscrits et livres précieux (sách chép tay và sách quí hiếm)
1 PHILOSOPHIE (Triết học)
11 Généralités (đại cương)
12 Métaphisique (Siêu hình)
13 L'esprit et le corps (ý thức và vật chất)
14 Systèmes philosophiques (Hệ thống triết lý)
15 Psycchologie (Tâm lý học)
16 Logique (lôgich)
17 Morale (Đạo đức)
18 Philosophies enciens (Triết học cổ điển)
19 Philosophies modernes (Triết học hiện đại)
2 RELIGION. THEOLOGIE (TÔN GIÁO. THẦN HỌC)
21 Théogie, religion naturelles ( Thần học, tôn giáo tự nhiên)
22 Bible évangile (Kinh Phúc âm)
23 Théologie doctrinale (Thần học chủ nghĩa)
24 Pratique religieuse. Dévotion (Thực hành tôn giáo. Sùng đạo)
190
25 Oeuvres pasterales (Công việc giám mục)
26 L'Eglise (Nhà thờ)
27 Histoire de l'Eglise (Lịch sử Nhà thờ)
28 Eglise et sectes chrétiennes (Nhà thờ và Cơ đốc giáo)
29 Religions non - chrétiennes (Những tôn giáo khác)
3 SCIENCE SOCIALE ET DROIT (KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ LUẬT)
31 Statistique (Thống kê)
32 Science politique (Khoa học chính trị)
33 Economie politique (Kinh tế chính trị)
34 Droit (Luật)
35 Administration. Droit administre ( Hành chính. Luật hành chính)
36 Assistance. Assurance. Associat. (Cứu trợ. Bảo hiểm. Hiệp hội)
37 Enseignement. Esducation (Giáo dục. Đào tạo)
38 Commerce. Transport. Communic. (Thương mại. Giao thông. Truyền thông)
39. Coutumes. Costumes (Tập quán. Trang phục)
4 PHILOLOGIE (NGỮ VĂN HỌC)
41 Philologie comparée ( Ngữ văn học so sánh)
42 Anglaise (Tiếng Anh)
43 Germanique (Tiếng Đức)
44 Francaise (Tiếng Pháp)
45 Italienne (Tiếng Ý)
46 Espagnole (Tiếng Tây Ban Nha)
47 Latine (Tiếng Latinh)
48 Grecque (Tiếng Hy Lạp)
49 Những ngôn ngữ khác
191
5 SCIENCES NATURELLES (KHOA HỌC TỰ NHIÊN)
51 Mathématique (Toán học)
52 Astronomie. Géodésie. Navigation (Thiên văn học. Trắc địa học. Hàng không)
53 Physique (Vật lý)
54 Chimie et minéralogie (Hóa học và khoáng vật học)
55 Géologie (Địa chất học)
56 Paléontelogie (Cổ sinh vật học)
57 Biologie. Anthropologie (Sinh học. Nhân loại học)
58 Botanique (Thực vật học)
59 Zoologie (Động vật học)
6 SCIENNES APPLIQUES ( KHOA HỌC ỨNG DỤNG)
61 Médecine (Y học)
62 Art de l'ingénieur (Kỹ sư kỹ nghệ)
63 Agriculture (Nông nghiệp)
64 Economie domestique. (Kinh tế)
65 Commerce. Transport (Thương mại. Vận tải)
66 Industries chimiques ( Công nghiệp hóa học)
67 Manufactures (Chế tạo máy)
68 Industrie mécanique et métiers (Công nghiệp cơ khí và nghề cơ khí)
69 Construction (Xây dựng)
7 BEAUX ART (MỸ THUẬT)
71 Paysages de jardins (Phong cảnh vườn)
72 Architecture (Kiến trúc)
73 Sculpture. Nominatique (Điêu khắc. Định danh)
74 Dessin. Décoration (Vẽ. Nghệ thuật trang trí)
75 Peinture (Hội họa)
76 Gravure (Khắc)
77 Photographe (Nhiếp ảnh)
192
78 Musique (âm nhạc)
79 Diversements. Jeux. Sport.
8 LITTÉRATURE (VĂN HỌC)
81 Généralités (Văn học nói chung)
82 Anglaise (Văn học Anh)
83 Germanique (Văn học Đức)
84 Francaise (Văn học Pháp)
85 Italienne (Văn học Ý)
86 Espagnole (Văn học Tây Ban Nha)
87 Latine (Văn học Latinh)
88 Grecque (Văn học Hy Lạp)
89 Văn học các nước khác
9 HISTOIRE ET GEOGRAPHIE (LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ)
91 Géographie et voyage (Địa lý và Du lịch)
92 Biographie (Tiểu sử)
93 Histoire ancienne (Cổ sử)
94 Histoire mod. Europe (Lịch sử hiện đại châu Âu)
95 Histoire mod. Asie (Lịch sử hiện đại châu Á)
96 Histoire mod. Afrique (Lịch sử hiện đạichâu Phi)
97 Histoire mod. Amérique du Nord (Lịch sử hiện đại Bắc Mỹ)
98 Histoire mod. Amérique du Sud (Lịch sử hiện đại Nam Mỹ)
99 Histoire mod. Océanie. Régions polaires (Lịch sử hiện đại châu Đại Dương. Các
vùng địa cực)
Nguồn: V3 - 211 - 05. Division du cadre de classement bibliographie du système décimal
international, 8fs.(Phông Nha Lưu trữ và thư viện Đông Dương)
193
PHỤ LỤC 9: CÁCH SẮP XẾP SÁCH THEO CHỦ ĐỀ TRONG KHO MƯỢN
1- Các tác phẩm tự do
2- Minh họa- Sân khấu
3- Minh họa - Tiểu thuyết
4- Tạp chí Hai thế giới (Revue de Deux
mondes)
5- Tạp chí Paris (Revue de Paris)
6- Tạp chí Pháp (Revue de France)
7-Mercure
8 và 9 (để trống)
10- Nghệ thuật - Khảo cố - Âm nhạc
11 và 12 (để trống)
13- Tiểu sử
14 và 15 (để trống)
16- Thuộc địa
17 và 18 (để trống)
19- Luật
20 và 21 (để trống)
22 - Kinh tế
23 và 24 (để trống)
25 - Giáo dục
26 và 27 (để trống)
28 - Địa lý - du lịch
29 và 30 (để trống)
31- Chiến tranh - Quân đội - Hải quân
32 và 33 (để trống)
34- Lịch sử và chính trị Pháp
35 và 36 (để trống)
37- Lịch sử và chính trị các nước khác
38 và 39 (để trống)
40- Đông Dương
41 và 42 (để trống)
43 Công nghiệp
44 và 45 (để trống)
46 - Ngôn ngữ
47 và 48 (để trống)
49 - Văn học: phê bình
50 và 51 (để trống)
52 - Y học - Vệ sinh
53 và 54 (để trống)
55 - Hồi ký - Thư từ
56 và 57 (để trống)
58- Phong tục - Tập quán - truyền
thuyết
59 và 60 (để trống)
61- Triết học
62 và 63 (để trống)
64 - Thơ
65 và 66 (để trống)
67- Tôn giáo
68 và 69 (để trống)
70 - Khoa học
71 và 72 (để trống)
194
73 - Thể thao - Giải trí
74 và 75 (để trống)
76 - Sân khấu và điện ảnh
77 và 78 (để trống)
79 - Cuộc sống thường thức
80 và 81 (để trống)
82- Sách cho trẻ em
84 và 85 (để trống)
101-999- Các tác giả chính
1001-3.999 (để trống)
4.001-5.999 Sách có khổ trung bình
6.001-7.999 (để trống)
8.000 Sách khổ lớn
A-Z: Tiểu thuyết phụ (ít phổ biến) sắp
xếp theo chữ cái đầu tiên của họ tác giả
195
PHỤ LỤC 10: THƯ VIỆN TRUNG ƯƠNG ĐÔNG DƯƠNG
Nguồn: HS 598 Đổi tên thư viện Trung ương Đông Dương mang tên Thư viện Pierre
Pasquier, 1934-1935- Phông Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương ( Changement le nom de
la Bibliothèque central de l'Indochine à la rue de Trang Thi - Hanoi au nom de bibliothèque
Pierre Pasquier, 1934-1935)
196
PHỤ LỤC 11: THƯ VIỆN TRƯỜNG VIỄN ĐÔNG BÁC CỔ
Nguồn: Tòa nhà của Trường Viễn đông bác cổ - Cơ sở dữ liệu ảnh Thư viện Viện hàn lâm
khoa học xã hội)
Nguồn: Tòa nhà của Trường Viễn đông bác cổ, mặt phía tây, phòng của Giám đốc
Mã số ảnh N60-00982 (Cơ sở dữ liệu ảnh Thư viện Viện hàn lâm khoa học xã hội)
197
PHỤ LỤC 12: QUANG CẢNH PHÒNG ĐỌC THƯ VIỆN TRUNG ƯƠNG
ĐÔNG DƯƠNG
Nguồn: V0 – 1421.Rapports annuels sur le fonctionnement des Services des Archives et des
Bibliothèques de l'Indochine pendant les années 1935-1936,127fs. (Phông Nha Lưu trữ và
Thư viện Đông Dương).
198
PHỤ LỤC 13: QUANG CẢNH PHÒNG MƯỢN THƯ VIỆN TRUNG ƯƠNG
ĐÔNG DƯƠNG
Nguồn: V0 – 1421.Rapports annuels sur le fonctionnement des Services des Archives et des
Bibliothèques de l'Indochine pendant les années 1935-1936,127fs. (Phông Nha Lưu trữ và
Thư viện Đông Dương).
199
PHỤ LỤC 14: QUANG CẢNH KHO MƯỢN THƯ VIỆN TRUNG ƯƠNG
ĐÔNG DƯƠNG
Nguồn: V0 – 211- 1421.Rapports annuels sur le fonctionnement des Services des Archives et
des Bibliothèques de l'Indochine pendant les années 1935-1936,127fs. (Phông Nha Lưu trữ và
Thư viện Đông Dương).
200
PHỤ LỤC 15: THƯ VIỆN QUỐC GIA PHÁP
(Phố Richelieu, Paris)
Nguồn: dữ liệu từ website Thư viện Quốc gia Pháp https://www.google.com.vn/search?q=bibliotheque+nationale+de+Paris+Richelieu&client=firefox-beta&hs=j3N&rls=org.mozilla:en-
US:official&channel=np&tbm=isch&tbo=u&source=univ&sa=X&ei=uGbLUtn5MsyaiAe7vIHoDg&ved=0CFUQsAQ&biw=1366&bih=664
#facrc=_&imgdii=_&imgrc=LUe_P4o6iAqRSM%3A%3BQ6ECdmyt1rT6zM%3Bhttp%253A%252F%252Fblog.bnf.fr%252Fuploads%252Flecteurs%252F2010%252F08%252Fsalle_lecture_mazarine.jpg%3Bhttp%253A%252F%252Fblog.bnf.fr%252Flecteurs%252Findex.php%2
52Ftag%252Facces-a-internet%252F%3B800%3B533