TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN - GIAI ĐOẠN THANH NIÊN, TUỔI GIÀ TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN GIAI ĐOẠN THANH NIÊN – TUỔI GIÀ Tác giả: TS. NGUYỄN VĂN ĐỒNG LỜI NHÀ XUẤT BẢN Tâm lý học phát triển là một môn khoa học được nhiều người quan tâm. Năm 2004, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật đã xuất bản cuốn sách Tâm lý học phát triển (được tái bản đầu năm 2012) của TS. Nguyễn Văn Đồng, nguyên là giảng viên khoa Tâm lý học - Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung sách nghiên cứu những thay đổi thể chất, tâm lý, nhận thức và cả những nguyên nhân của sự thay đổi đó của con người từ khi còn trong bào thai cho đến tuổi thanh nhiên. Lần này, chúng tôi cho ra mắt bạn đọc cuốn sách Tâm lý học phát triển giai đoạn thanh niên - tuổi già của cùng một tác giả. Cuốn sách tiếp tục nghiên cứu các giai đoạn tiếp theo trong cuộc đời của mỗi con người: thanh niên, người trưởng thành, có tuổi và cao tuổi. Thông qua cuốn sách, độc giả sẽ nắm bắt được những quy luật tiến hóa và sự hình thành, phát triển cả về thể chất và tâm lý của mỗi giai đoạn phát triển của đời người: từ tuổi thanh niên, trưởng thành đến tuổi già, cái chết; nhận thức đầy
195
Embed
TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN - GIAI ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/488.TamLyHocPhatTrien-GiaiDoan… · Web viewtÂm lÝ hỌc phÁt triỂn - giai ĐoẠn thanh niÊn,
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN - GIAI ĐOẠN THANH NIÊN, TUỔI GIÀ
TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂNGIAI ĐOẠN THANH NIÊN – TUỔI GIÀ
Tác giả: TS. NGUYỄN VĂN ĐỒNG
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Tâm lý học phát triển là một môn khoa học được nhiều người quan tâm.
Năm 2004, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật đã xuất bản cuốn sách
Tâm lý học phát triển (được tái bản đầu năm 2012) của TS. Nguyễn Văn
Đồng, nguyên là giảng viên khoa Tâm lý học - Trường đại học Khoa học xã
hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung sách nghiên cứu những
thay đổi thể chất, tâm lý, nhận thức và cả những nguyên nhân của sự thay đổi
đó của con người từ khi còn trong bào thai cho đến tuổi thanh nhiên. Lần này,
chúng tôi cho ra mắt bạn đọc cuốn sách Tâm lý học phát triển giai đoạn thanh
niên - tuổi già của cùng một tác giả. Cuốn sách tiếp tục nghiên cứu các giai
đoạn tiếp theo trong cuộc đời của mỗi con người: thanh niên, người trưởng
thành, có tuổi và cao tuổi. Thông qua cuốn sách, độc giả sẽ nắm bắt được
những quy luật tiến hóa và sự hình thành, phát triển cả về thể chất và tâm lý
của mỗi giai đoạn phát triển của đời người: từ tuổi thanh niên, trưởng thành
đến tuổi già, cái chết; nhận thức đầy đủ những cơ chế tác động tạo ra sự biến
đổi tích cực của quá trình sống của con người nhằm vận dụng một cách sáng
tạo vào đời sống xã hội, xây dựng những định hướng tâm lý cá nhân và xã
hội lành mạnh.
Để bạn đọc thuận tiện theo dõi, tham khảo, Chương I của cuốn sách
này tác giả có kế thừa nội dung của cuốn sách Tâm lý học phát triển.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 3 năm 2012
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
Chương 1. TUỔI THANH NIÊN
I. DẬY THÌ: BƯỚC CHUYỂN TỪ TUỔI THIẾU NIÊN SANG TUỔI THANH NIÊN
1. Những phát triển thể chất trong tuổi dậy thì
a) Sự phát triển của não bộ trong tuổi thanh niên
Trong tuổi thanh niên, não bộ tiếp tục phát triển. Sự myelin hóa não vẫn
tiếp diễn và nhờ đó mà khẩu độ chú ý được mở rộng, tốc độ xử lý tin được
gia tăng (Kail, 1991). Não vẫn giữ được sự mềm dẻo của nó trong độ tuổi này
(Nelson và Bloom, 1997). Sự tái tổ chức mạng lưới nơron ở vùng vỏ não
trước trán - cơ sở của những hoạt động nhận thức bậc cao như hoạch định
chiến lược – vẫn tiếp tục cho đến năm 20 tuổi (Spreen và đồng nghiệp, 1995;
Stuss và đồng nghiệp, 1992). Mặc dù sự thay đổi của não không diễn ra một
cách vũ bão như trước, nhưng một vài ưu điểm về quá trình nhận thức mà
thanh niên có được là nhờ quá trình tái tổ chức của não trong thời kỳ này.
b) Hiện tượng dậy thì ở tuổi thanh niên
Theo các nhà tâm lý học phát triển, dậy thì là thời điểm mà một cá nhân
đạt được sự hoàn thiện về mặt tính dục và có thể tham gia vào quá trình sinh
sản, duy trì nòi giống.
Quá trình dậy thì bắt đầu khi vùng não hypothalamus - vùng não chịu
trách nhiệm về những nhu cầu sơ cấp như đói, khát,... và điều khiển tuyến
yên - kích thích tuyến yên thượng tiết ra hoóc môn gonadotropic (hay còn gọi
là hoóc môn kích thích phát triển tính dục). Hoóc môn này kích thích buồng
trứng hoặc tinh hoàn tiết hoóc môn giới tính nhiều hơn so với giai đoạn thiếu
niên (tinh hoàn tiết ra testosterone, buồng trứng tiết ra estradiol, một loại hoóc
môn estrogen). Khi mức hoóc môn giới tính đạt đến giá trị tới hạn thì vùng
hypothalamus làm cho tuyến thượng yên gia tăng việc tiết hoóc môn GH
(hoóc môn tăng trưởng), làm cho cơ thể tăng trưởng về chiều cao và trọng
lượng. Đồng thời, hoóc môn giới tính tác động lên toàn bộ các cơ quan sinh
dục bên trong và bên ngoài cơ thể, khởi đầu cho sự phát triển tiếp theo của
chúng. Hoóc môn giới tính cũng làm cho bản thân các tuyến hoóc môn sinh
dục phát triển. Đó là sự phát triển các đặc trưng giới tính sơ cấp. Hoóc môn
giới tính còn thúc đẩy sự phát triển các đặc trưng giới thứ cấp, sự thay đổi
hình thể bên ngoài của em gái và em trai. Sự hoàn thiện về mặt tính dục (đặc
trưng giới tính sơ cấp) luôn đi kèm với sự phát triển bùng nổ về hình thể bên
ngoài (đặc trưng giới tính thứ cấp).
Sự phát triển bùng nổ về hình thể
Tuổi thanh niên bắt đầu bằng sự phát triển mạnh về hình thể. Ở các
nước phương Tây, đối với em gái, sự thay đổi này bắt đầu từ 10 tuổi rưỡi,
chậm lại khi đạt đến tuổi 13, 14. Đối với các xã hội châu Á, các em gái bắt
đầu thay đổi hình thể vào độ tuổi 12, 13 và chậm lại ở độ tuổi 15, 16. Các em
trai bắt đầu quá trình này chậm hơn khoảng hai đến ba năm so với em gái. Vì
các em gái bắt đầu quá trình này sớm hơn nên ở độ tuổi này chúng thường
cao bằng hoặc hơn các em trai cùng lớp. Ngoài việc cao hơn và nặng hơn,
dưới tác động của estrogen, hình thể em gái bắt đầu nở ra ở hông, ngực to
ra, các mô mỡ hình thành dưới da, da mịn và bóng hơn, tử cung và âm đạo to
ra, lông bắt đầu mọc ở những chỗ kín.
Em trai bắt đầu nở vai, tỷ lệ nét mặt cũng thay đổi, trán nhô ra, mũi và
quai hàm nổi hơn, môi to hơn, cơ quan sinh dục to ra, mọc râu ở mặt, mọc
lông ở chỗ kín, bụng và tay chân. Em trai tiếp tục phát triển cơ bắp và sức
mạnh thể lực trong khi em gái giảm tốc độ phát triển cơ bắp tay chân.
Sự khác biệt giới này có cơ sở sinh học và tâm lý. Hoóc môn
testosterone ngoài việc tác động lên các cơ quan sinh dục còn làm cơ bắp,
xương vai và xương sườn của các em trai phát triển. Mặt khác, các thiếu nữ -
do hông và ngực phát triển - thường không mong muốn và không được
khuyến khích tham gia các hoạt động nhiều nam tính và quan tâm nhiều hơn
đến những hoạt động nữ tính (ít vận động thể lực hơn). Một minh chứng cho
việc này là ở độ tuổi dậy thì, các nữ vận động viên điền kinh vẫn tiếp tục phát
triển cơ bắp và khoảng cách thể lực giữa nam và nữ vận động viên điền kinh
không lớn.
Sự hoàn thiện về mặt tính dục
Sự hoàn thiện tính dục bắt đầu đồng thời với sự phát triển bùng nổ về
hình thể và theo một trình tự xác định đối với em gái và em trai.
Sự phát triển tính dục của em gái. Sự hoàn thiện tính dục bắt đầu từ 10
tuổi (ở châu Âu) hoặc 12 tuổi (ở châu Á). Estradiol làm cho các mô mỡ bắt
đầu tập trung lại dưới đầu vú (Herman - Giddens và đồng nghiệp, 1997), ngực
to ra một cách nhanh chóng, lông bắt đầu mọc ở bộ phận sinh dục (Tanner,
1990). Cơ quan sinh dục bắt đầu hoàn thiện: tử cung to ra, các mô cơ ở thành
tử cung phát triển, bộ phận sinh dục bên ngoài to ra. Khoảng 12 tuổi rưỡi, các
em gái bắt đầu có kinh nguyệt. Trong giai đoạn từ 12 đến 18 tháng kinh
nguyệt đầu tiên, trứng chưa rụng, các em gái chưa thể sinh sản.
Sự phát triển tính dục của em trai. Sự hoàn thiện tính dục bắt đầu từ 11
đến 12 tuổi đối với trẻ em châu Âu và từ 13 đến 14 đối với trẻ em châu Á.
Dưới tác động của testosterone, tinh hoàn to ra, lông mọc ở bộ phận sinh
dục. Khoảng 15, 16 tuổi, các em trai có thể xuất tinh trong khi ngủ và bắt đầu
có thể tham gia sinh sản (Tanner, 1990). Muộn hơn một chút, các em trai bắt
đầu có lông măng ở trên môi, dưới cằm. Lông bắt đầu mọc ở chân, tay; lông
ngực mọc chậm hơn, khi gần 20 tuổi. Trong giai đoạn này, các em trai bắt
đầu vỡ giọng do thanh quản dài ra.
Sự khác biệt cá thể trong phát triển thể chất và tính dục. Mặc dù dậy thì
là quy luật chung của loài người nhưng có sự khác biệt cá thể rõ rệt về thời
điểm bắt đầu dậy thì. Có những em gái bắt đầu có mô mỡ ở ngực vào 8 tuổi,
phát triển cơ thể khi 9 tuổi và có kinh nguyệt lúc 10 tuổi rưỡi. Có những em
khác lại chỉ bắt đầu quá trình này khi phần lớn các bạn cùng tuổi đã kết thúc
nó. Thời điểm bắt đầu dậy thì của các em trai cũng vậy. Đây là một hiện
tượng rất bình thường về mặt sinh học và có thể thấy trong các trường phổ
thông.
Xu hướng dậy thì sớm của thiếu niên. Hiện nay, thiếu niên dậy thì sớm
hơn những thế hệ sinh trưởng đầu thế kỷ XX khoảng năm năm. Xu hướng
này bắt đầu xuất hiện khoảng hơn 100 năm trước đây, trong những xã hội
công nghiệp hóa phương Tây và đã kết thúc ở đó, nhưng lại bắt đầu ở những
nước đang phát triển.
Nguyên nhân của xu hướng này có thể là do chế độ dinh dưỡng và
chăm sóc sức khoẻ tốt hơn (Tanner, 1990). Trẻ em ngày nay ít bị bệnh về
dinh dưỡng và vì thế đạt được ngưỡng tăng trưởng và dậy thì sớm hơn.
Ngay trong xã hội của chúng ta, những em có chế độ dinh dưỡng kém sẽ dậy
thì muộn hơn những em đủ dinh dưỡng. Nói chung, những em gái cao và to
béo sẽ dậy thì sớm hơn (Graber và đồng nghiệp, 1994). Những em gái tham
gia thường xuyên vào các hoạt động thể lực, thể dục thể thao hoặc những
loại hình hoạt động như nhảy múa, aerobic sẽ dậy thì muộn hơn hoặc bị tạm
dừng kinh nguyệt sau khi đã bắt đầu (Hopwood và đồng nghiệp, 1990).
2. Tác động tâm lý của tuổi dậy thì
a) Phản ứng chung của thanh thiếu niên đối với sự thay đổi sinh lý
Phản ứng của thanh niên đối với sự thay đổi sinh lý phụ thuộc vào nền
văn hóa. Trong những nền văn hóa phương Tây, các em gái rất quan tâm đến
hình thức bề ngoài và việc những người xung quanh nghĩ gì về hình thức của
mình (Cauffman và Steinberg, 1996; Greif và Ulman, 1982). Mong ước thầm
kín của các em là trở nên hấp dẫn nên sự thay đổi này nói chung được chào
đón. Tuy nhiên, các em gái thường hay lo lắng rằng mình quá cao hoặc quá
béo (Swarr và Richards, 1996) và cố gắng bù trừ những điểm khiếm khuyết
này - dù là ảo - bằng cách ăn kiêng hoặc đi giày đế bằng (Rosen, Tracey và
Howell, 1990).
Phản ứng của các em gái đối với kinh nguyệt là một sự pha trộn.
Chúng vừa vui mừng lại vừa hơi xấu hổ, đặc biệt khi chúng dậy thì sớm hoặc
chưa được chuẩn bị tâm lý cho hiện tượng này (Brooks - Gunn, 1988). Một
vài em gái bị chấn động tâm lý khi có kinh nguyệt, nhưng một vài em gái khác
lại vui mừng (Koff và Rierden, 1995; Moore, 1995). Nếu các em gái có kinh
nguyệt muộn thì nói chung chúng cũng lo lắng và tự ti.
Các em trai dễ dàng chấp nhận sự thay đổi hình thể hơn các em gái do
quan điểm về hình thể lý tưởng của chúng là cao, to, khỏe mạnh (Simmons
và Blyth, 1987). Tuy nhiên, các em trai không ý thức được rõ như các em gái
về những thay đổi thể chất của bản thân. Chúng ít khi kể cho người khác
nghe về lần xuất tinh đầu tiên của mình, mặc dù cũng có những cảm giác pha
trộn về sự hoàn thiện cơ quan sinh dục của mình (Gaddis và Brooks - Gunn,
1985; Stein và Reiser, 1994).
Tham khảo: Hai rối loạn về ăn uống nghiêm trọng ở tuổi dậy thì
Vào đầu thập niên 1970, một người mẫu quốc tịch Anh đã mở đầu trào
lưu mốt người dây. Theo cô ta, gầy mới đẹp, béo là xấu. Rất không may là
nhiều thiếu nữ đã đẩy tiêu chí này thành cực đoan, gây nguy hiểm tới tính
mạng. Bệnh biếng ăn (ăn không ngon miệng vì lý do tinh thần) là một rối loạn
ăn uống tác động lên 1/200 thiếu nữ. Người mắc bệnh biếng ăn sợ béo một
cách bệnh hoạn. Họ làm tất cả để đẩy mỡ ra khỏi cơ thể. Bệnh nhân thường
là những thiếu nữ ngoan ngoãn, trầm lặng ở những gia đình trung lưu hoặc
giàu có, bước sang tuổi dậy thì sớm hơn chúng bạn và có biểu hiện đột nhiên
nhịn đói (Graber và đồng nghiệp, 1994; Hsu, 1990). Thoạt đầu, quá trình này
có vẻ như vô hại khi cô gái đặt ra cho mình mục tiêu gầy đi và nhịn ăn để đạt
mục tiêu đó. Nhưng khi đã đạt được thể trọng như ý, người mắc bệnh vẫn
tiếp tục ăn kiêng cho đến khi chỉ còn da bọc xương. Khi cô gái mất đi khoảng
30% thể trọng, những dấu hiệu giới tính thứ cấp - như ngực và hông - sẽ rất
mờ nhạt và kinh nguyệt thường bị ngừng hẳn. Mặc dù chỉ còn khoảng 30 đến
35 kg, gầy như que củi nhưng những người mắc bệnh biếng ăn thường
khẳng định rằng mình ăn uống tốt và nên gầy đi vài cân nữa (Hsu, 1990). Các
cô gái biếng ăn thường đứng rất lâu trước gương để ngắm nghía và thường
nhận định sai về hình thể bề ngoài của mình. Mặc dù ăn rất ít nhưng người
bệnh thường sưu tập sách nấu ăn, nấu những món ăn phức tạp cho người
khác và bận tâm suy nghĩ về thức ăn cũng như chế độ calo. Người biếng ăn
cũng thường tích trữ, cất giấu và hủy hoại thức ăn.
Tại sao chỉ có một vài cô gái mắc bệnh biếng ăn trong khi hầu như tất
cả các thiếu nữ - do áp lực xã hội - đều muốn gầy? Yếu tố di truyền đóng góp
một phần vào việc mắc bệnh vì biếng ăn là bệnh di truyền (Hsu, 1990). Ngoài
ra, bệnh biếng ăn sẽ không nghiêm trọng nếu như không có những quan hệ
gia đình xáo động (Swarr và Richards, 1996). Phần lớn các bệnh nhân không
được tự mình định đoạt công việc và gặp khó khăn trong việc hình thành tính
cách. Bố mẹ của họ rất cương quyết, bao bọc con cái quá mức, sẵn sàng
chịu đựng những sự khác biệt quan điểm nho nhỏ hoặc tính khí thất thường
của con (Minuchin, 1978; Pike và Rodin, 1991). Kết quả là cô gái quyết định
kiểm soát thân hình của mình như một cách thoát khỏi sự kiểm soát của bố
mẹ và tự định đoạt cuộc sống riêng tư (Smolack và Levine, 1993).
Trị liệu gia đình là hiệu quả nhất đối với bệnh biếng ăn. Nếu người
bệnh bị nguy hiểm đến tính mạng thì phải đưa cô ta vào bệnh viện và cho ăn
bằng ống dẫn. Trường hợp bình thường thì phải áp dụng những kỹ thuật thay
đổi hành vi của cô ta, ví dụ, khuyến khích ăn uống và tăng cân. Khi người
bệnh bắt đầu ăn bình thường, trị liệu gia đình có thể tiến hành. Nội dung trị
liệu là khuyên bố mẹ nới lỏng kiểm soát đối với con; đồng thời giải thích cho
bệnh nhân hiểu rằng còn có nhiều cách để đạt được sự tự chủ ngoài cách
nhịn ăn. Thường con số bệnh nhân khỏi bệnh hoàn toàn là dưới 50%.
Khoảng 5 đến 10% bệnh nhân không được chữa trị kết thúc cuộc đời bằng
cách tự tử hoặc nhịn đói đến chết (Hsu, 1990).
Ăn uống vô độ là một rối loạn ăn uống khác có tính phổ biến hơn bệnh
biếng ăn. Trong một bữa, người ăn uống vô độ có thể nạp lượng thực phẩm
lớn hơn nhu cầu calo hàng ngày gấp vài lần. Sau bữa ăn, người này đẩy
lượng thức ăn thừa ra khỏi cơ thể bằng cách nôn ra hoặc uống thuốc nhuận
tràng. Mặc dù người bị bệnh biếng ăn cũng thường là người bị bệnh ăn uống
vô độ, nhưng những người ăn uống vô độ nói chung có thể trọng bình thường
hoặc hơi béo một chút. Giống như những người biếng ăn, người ăn uống vô
độ thường có mặc cảm xấu về thân hình của mình và lo lắng về việc béo ra.
Tuy nhiên những người ăn uống vô độ thường ồn ào, hoạt động nhiều, không
trầm lặng như người biếng ăn. Người ăn uống vô độ thường chiếm khoảng
5% là nữ trong giới trẻ (Hsu, 1990).
Người ăn uống vô độ có thể gặp phải rất nhiều phản ứng phụ. Thuốc
nhuận tràng và lợi tiểu có thể làm cơ thể bị ngộ độc potasium (muối của kali)
và mắc chứng loạn nhịp tim hoặc nhồi máu cơ tim. Thường xuyên nôn mửa
có thể làm sa ruột. Người bệnh có thể bị chết sặc khi nôn. Cuối cùng, ăn
nhiều không phải là giải pháp cho những vấn đề vướng mắc của bản thân,
nhất là với những người đang bị béo phì. Có thể hiểu được tại sao những
người mắc chứng ăn uống vô độ thường bị trầm cảm và một vài người tự tử.
Trị liệu gia đình cho chứng ăn uống vô độ là hiệu quả nhất. Nội dung trị
liệu là giúp người mắc chứng này hiểu được nguyên nhân và tự mình kiểm
soát việc ăn uống. Phải điều trị trầm cảm đối với những người mắc bệnh trầm
cảm. Tuy chứng bệnh này gây ra những hậu quả nghiêm trọng nhưng không
mấy người mắc chứng bệnh này ý thức được sự nghiêm trọng của vấn đề và
tìm kiếm sự giúp đỡ của y tế.
b) Tác dộng xã hội đối với thanh niên khi bước vào tuổi dậy thì
Dậy thì là dấu hiệu của sự trưởng thành về mặt sinh học của thanh
niên. Trong nhiều cộng đồng thổ dân, nghi lễ trưởng thành sẽ thông báo cho
toàn thể cộng đồng về sự kiện bước sang tuổi trưởng thành của các em
(Schlegel và Barry, 1991). Ví dụ, ở bộ tộc Kanguru, Đông Phi, những em trai
dậy thì được dẫn vào rừng, cởi quần áo, cạo hết lông. Sau đó các em phải
cắt da bao quy đầu mà không có thuốc tê, nghe giảng về thực tế sinh hoạt
tình dục của bộ tộc, học những bài hát và nghe chỉ dẫn về cách làm đàn ông.
Cuối cùng, người ta bôi đất đỏ lên người các em và dẫn về làng để tổ chức
nghi lễ trưởng thành. Các em gái của bộ tộc Kanguru chủ động theo dõi xem
khi nào có kinh nguyệt lần đầu. Sau kỳ kinh đầu tiên, âm vật của các em bị cắt
và được chỉ bảo cặn kẽ về sinh hoạt tình dục - thường là do bà ngoại - trước
khi được tái hòa nhập cộng đồng trong vai trò người lớn.
Mặc dù các xã hội văn minh không có nghi lễ trưởng thành cho thanh
thiếu niên nhưng sự thay đổi của tuổi dậy thì cũng tạo ra những hệ quả xã
hội. Trong giai đoạn đầu của tuổi dậy thì, các em không còn là trẻ con nhưng
cũng chưa thành người lớn. Về hình thể, thanh niên rất giống người trưởng
thành nhưng về nhận thức, nhân cách và trải nghiệm, phần lớn các em còn là
trẻ con. Thanh niên chưa trưởng thành về nhân cách nhưng lại có bước
ngoặt lớn trong cách cư xử và nhìn nhận của những người xung quanh đối
với các em. Xã hội đòi hỏi nhiều hơn đối với các em nhưng lại không tin
tưởng các em một cách tương xứng với đòi hỏi mà nó đặt ra.
Xã hội coi thanh niên là những cá nhân có tính cách xáo trộn, chưa
hiểu biết về bản thân, có sự pha trộn yêu, ghét trong tình cảm đối với bố mẹ
và không biết rõ vị trí, vai trò của mình trong xã hội khi trưởng thành.
Giao thời giữa tuổi thiếu niên và thanh niên là giai đoạn mà những thay
đổi do di truyền tương tác với những thay đổi trong môi trường xã hội để tác
động lên trải nghiệm của thanh thiếu niên (Magnusson, 1995; Paikoff và
Brooks - Gunn, 1991). Giai đoạn giao thời này thường được gọi là giai đoạn
"nổi loạn" của thanh thiếu niên.
c) Tác động của thời điểm bắt đầu quá trình dậy thì đối với thanh thiếu niên
Thời điểm bắt đầu quá trình dậy thì có một vài tác động khá rõ nét và
tạm thời đối với tính cách và rất khác biệt đối với thanh niên nam nữ.
Những tác động đối với nam thanh niên. Những nghiên cứu xuyên thời
gian đã tiến hành ở Đại học Tổng hợp bang California khẳng định rằng những
nam thanh niên dậy thì sớm rất thích thú với một loạt các ưu thế xã hội do
tuổi dậy thì đem lại so với những thanh niên dậy thì muộn. Một nghiên cứu
theo dõi những nam thanh niên ở độ tuổi 16 (cả loại dậy thì sớm cũng như
muộn) trong giai đoạn sáu năm cho thấy những nam thanh niên dậy thì muộn
luôn hăm hở, lo lắng và tìm cách gây sự chú ý (đồng thời cũng bị thầy cô
đánh giá là ít nam tính và không lôi cuốn về mặt hình thể) (Jones và Bayley,
1950). Ngược lại, những thanh niên dậy thì sớm luôn tự tin trong mọi hoàn
cảnh xã hội, thường đạt được các danh hiệu thể thao như điền kinh và hay
trúng cử vào các chức trách lãnh đạo của các tổ chức và đoàn thể học sinh.
Mặc dù công trình này chỉ nghiên cứu 32 nam thanh niên nhưng các nhà
nghiên cứu khác cũng khẳng định rằng các thanh niên dậy thì muộn có xu
hướng không tương đồng với xã hội và yếu thế (Duke và đồng nghiệp, 1982;
Livson và Peskin, 1980). Những thanh niên dậy thì muộn cũng có tham vọng
học tập thấp hơn và một vài trường hợp có điểm số thấp hơn trong giai đoạn
đầu của tuổi dậy thì (Dubas, Graber và Petersen, 1991).
Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự ưu việt của những thanh niên
dậy thì sớm là họ có hình thể cao to và khỏe mạnh hơn. Hình thể này cho
phép họ làm những công việc đòi hỏi thể lực dễ dàng và khéo léo hơn, làm
cho họ nổi bật trong đám bạn cùng lứa (Simmons và Blyth, 1987). Hình thể
giống người lớn cũng làm cho những người xung quanh đánh giá vượt mức
khả năng của họ và trao cho họ những trách nhiệm cũng như quyền lợi
thường chỉ dành cho những cá nhân trưởng thành hơn. Thật vậy, bố mẹ
thường có kỳ vọng lớn đối với những đứa con dậy thì sớm (Duke và đồng
nghiệp, 1982) và họ ít khi xung đột với những đứa con này về các vấn đề như
thời gian phải có mặt ở nhà và chọn bạn (Savin - Williams và Small, 1986).
Một môi trường gia đình như vậy rõ ràng là tạo ra cho những thanh niên dậy
thì sớm sự tự tin, tự đánh giá bản thân cao và những đức tính này cho phép
họ được bạn bè quý mến cũng như chiếm được vị trí lãnh đạo trong nhóm
bạn.
Những ưu việt của sự dậy thì sớm trong nhiều trường hợp có tác động
nhất thời. Ví dụ, sự khác biệt học lực biến mất khi thanh niên học đến lớp 12
(Dubas và đồng nghiệp, 1991). Nhưng một số nét tính cách thì còn tồn tại với
thời gian, ví dụ những thanh niên dậy thì sớm trong nghiên cứu của Đại học
Tổng hợp California ở độ tuổi 30 vẫn tự tin, hòa nhập xã hội hơn so với
những thanh niên dậy thì muộn (Jones, 1965).
Tuy nhiên, dậy thì muộn cũng có một vài ưu điểm. Những cá nhân dậy
thì sớm thường cứng nhắc theo quy tắc, còn những cá nhân dậy thì muộn thì
mềm dẻo, sáng tạo và dễ thích nghi với những tình huống tạo stress. Có lẽ
việc dậy thì muộn làm cho cá nhân mềm dẻo hơn và phát triển kỹ năng thích
nghi.
Những tác động đối với nữ thanh niên. Đối với nữ thanh niên, dậy thì
sớm về một phương diện nào đó là một sự bất tiện. Mặc dù việc phát triển
ngực làm cho hình thể cân đối và làm tăng sự tự tin (Brooks - Gunn và
Warren, 1988), nhưng một vài nghiên cứu cho thấy những thiếu nữ dậy thì
sớm ít cởi mở, ít được bạn quý mến (Aro và Taipale, 1987; Clausen, 1975) và
có những biểu hiện lo lắng cũng như trầm cảm (Ge, Conger và Elder, 1996;
Hayward và đồng nghiệp, 1997). Có thể là do những thiếu nữ dậy thì sớm có
hình thể rất khác biệt so với các bạn gái cùng lớp, do đó bị các bạn ghen
ghét. Cũng có thể do những thiếu nữ này có vẻ ngoài già dặn hơn các bạn
nam trong lớp (có tuổi dậy thì muộn hơn khoảng hai đến ba năm) nên không
được họ đánh giá cao (Caspi và đồng nghiệp, 1993). Kết quả là những thiếu
nữ dậy thì sớm thường tìm kiếm bạn bè lớn tuổi hơn (hoặc là được những
người này rủ rê, lôi kéo kết bạn), đa số trường hợp là kết bạn với những nam
thanh niên. Bạn trai thường lôi kéo, rủ rê khiến họ sao nhãng học tập và tham
gia những hoạt động không hay như hút thuốc lá, uống rượu, dùng ma túy và
tình dục, nhất là khi những thiếu nữ này chưa được chuẩn bị để học cách tự
kiềm chế (Caspi và đồng nghiệp, 1993; Stattin và Magnusson, 1990). Nguy cơ
bị stress tâm lý đối với những thiếu nữ dậy thì sớm cao hơn so với những
nam thanh niên dậy thì muộn.
Một vài tác động xấu của dậy thì sớm có thể kéo dài. Một nghiên cứu ở
Thụy Điển cho thấy số thiếu nữ dậy thì sớm tiếp tục học không tốt ở trường
hoặc bỏ học nhiều hơn so với những bạn dậy thì bình thường và muộn
(Stattin và Magnusson, 1990). Tình hình của họ được cải thiện ở những lớp
cuối phổ thông, khi các bạn cùng giới hiểu rằng dậy thì sớm được các bạn trai
thích (Faust, 1960). Tuy nhiên, điều này cũng không làm họ sung sướng hơn
(Stattin và Magnusson, 1990).
Kết luận. Có thể nói là tác động của thời điểm dậy thì đối với nam thanh
niên lớn hơn đối với nữ thanh niên. Tuy nhiên, tác động này không quan trọng
đối với sự hình thành tính cách vì những khác biệt tâm lý giữa các cá nhân
dậy thì sớm và dậy thì muộn bị xóa nhòa theo thời gian.
d) Phản ứng của thanh thiếu niên đối với môi trường gia đình và xã hội dưới tác động của tuổi dậy thì
Phản ứng dễ nhận thấy nhất ở thanh thiếu niên trong giai đoạn này là
thay đổi trong cách ăn mặc. Sau đó là thay đổi trong các mối quan hệ gia đình
và xã hội. Thanh thiếu niên bắt đầu dành nhiều thời gian hơn cho bạn bè.
Thanh niên cũng bắt đầu tự tìm hiểu bản thân mình, nói cách khác là trải
nghiệm cái mà Erikson gọi là "khủng hoảng nhận dạng". Thanh niên bắt đầu
tự đánh giá ngoại hình, nhân cách, khả năng cuốn hút người khác, vị thế xã
hội, khả năng, năng lực và tham vọng của bản thân. Đồng thời, họ cũng xem
xét lại hệ thống giá trị và chuẩn mực được kế thừa từ bố mẹ trong giai đoạn
trước đó. Chính vì vậy mà giai đoạn này tạo ra rất nhiều stress, "bão tố" và
"nổi loạn" ở thanh niên.
Một trong những nguyên nhân quan trọng của việc "nổi loạn" là sự đòi
hỏi quyền tự chủ xuất hiện ở thanh niên trong tuổi dậy thì. Quyền tự chủ có
hai yếu tố cấu thành: (1) tự chủ tình cảm và (2) tự chủ hành vi. Tự chủ tình
cảm là khả năng tự giải quyết các trải nghiệm và vấn đề về tình cảm mà
không lệ thuộc hoàn toàn vào sự ủng hộ, che chở và an ủi của bố mẹ. Tự chủ
hành vi là khả năng tự quyết định, tự quản lý công việc của mình và tự chăm
lo cho bản thân (Steinberg, 1966).
Do nhu cầu tự chủ của thanh niên, trong gia đình thường xảy ra xung
đột. Hiện tượng này xảy ra không phụ thuộc vào sự khác biệt về văn hóa
(Holmbeck và Hill, 1991; Steinberg, 1996; Yau và Smetana, 1996). Cãi vã
thường xoay quanh những chủ đề như cách ăn mặc, cư xử, thời gian biểu,
cách chọn bạn và việc thanh niên trở nên lơ là trong học tập, công việc gia
đình. Những chủ đề này không động chạm đến những giá trị cơ bản của hệ
thống giá trị nhưng cũng khá khó chịu.
Một số bố mẹ cho rằng vì con cái nhận được sự ủng hộ từ bạn bè trong
khi "nổi loạn" nên phải kiểm soát nghiêm ngặt việc kết bạn của con trong thời
kỳ này. Nhưng những quan sát của Bandura (1964) cho thấy hệ thống giá trị
và chuẩn mực của thanh niên thường được hình thành tự nguyện từ tuổi
thiếu niên, trên cơ sở hệ thống giá trị và chuẩn mực của bố mẹ. Bandura
cũng nhận xét rằng mặc dù "bão tố" và "nổi loạn" ở thanh thiếu niên là cuộc
đấu tranh để giành quyền tự chủ nhưng thực ra phần lớn bố mẹ đã cố gắng
dạy con mình tính độc lập ngay từ khi còn rất bé. Cuối cùng, theo Bandura,
sự lựa chọn bạn bè của thanh niên không phải là nguồn gốc của sự bất hòa
giữa bố mẹ và con cái. Bạn bè của thanh thiếu niên được lựa chọn trước tuổi
trưởng thành, theo hệ thống giá trị và chuẩn mực do bố mẹ truyền dạy. Vì
vậy, bạn bè luôn có hệ thống giá trị và chuẩn mực được bố mẹ của chính
thanh niên ấy đồng tình, ủng hộ, do đó không thể là chỗ dựa tinh thần để
chống lại hệ thống giá trị và chuẩn mực được kế thừa từ bố mẹ.
Nguyên nhân trực tiếp của xung đột chính là sự khác biệt trong quan
điểm của bố mẹ và con cái. Bố mẹ thường xem xét hành vi của con cái qua
lăng kính đồng thuận xã hội - tức là những điều mà xã hội chấp nhận - và cảm
thấy mình có trách nhiệm điều tiết hành vi của con mình. Trong khi đó, thanh
niên thường cảm nhận sự điều tiết này như là sự xâm phạm quyền tự chủ và
sự lựa chọn cá nhân (Smetana, 1995; Yau và Smetana, 1996). Con cái ngày
càng tự khẳng định mình và bố mẹ ngày càng phải buông lỏng kiểm soát.
Quan hệ bố mẹ - con cái tiến dần từ chỗ bố mẹ nắm quyền tới chỗ vai trò của
bố mẹ và con cái trong các quyết định quan trọng của thanh niên là ngang
bằng nhau (Feldman và Gehring, 1988; Furman và Buhrmester, 1992). Thật
ra, bố mẹ trong những gia đình người châu Á và Mỹ gốc Á có thể nắm giữ
quyền kiểm soát con cái lâu hơn so với bố mẹ trong những gia đình người
châu Âu và Mỹ gốc Âu (Chen và Greenberger, 1996; Yau và Smetana, 1996).
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong những tình huống xung đột, phản
ứng thích nghi của thanh niên thường là sự cắt bỏ những ràng buộc tình cảm
với bố mẹ. Những thanh niên này cảm thấy quan hệ với bố mẹ quá xung đột
và không có tính chất ủng hộ. Họ thường cảm thấy dễ thở hơn khi ở bên
ngoài gia đình và tự chủ tình cảm (Fuhrman và Holmbeck, 1995). Tuy nhiên,
những thanh niên luôn được bố mẹ cởi mở và tỏ thái độ yêu thương chỉ có
thể đạt được sự tự chủ một cách lành mạnh khi gìn giữ mối quan hệ thân thiết
với các thành viên trong gia đình (Lamborn và Steinberg, 1993; Steinberg,
1996).
Liệu hiện tượng "nổi loạn" có phải là quy luật? Tuổi thanh niên có nhất
thiết phải có "bão tố" và stress? Những số liệu nghiên cứu cho thấy không có
câu trả lời chung cho mọi trường hợp. Theo Bandura, mọi giai đoạn của cuộc
sống đều có khủng hoảng và có vấn đề về nhận định; đồng thời, mọi giai
đoạn của cuộc sống đều có thể có vấn đề đối với một vài cá nhân, trong khi
đối với những cá nhân khác lại không nảy sinh vấn đề gì. Vì vậy, những vấn
đề nảy sinh đối với một nhóm thanh niên này có thể không nảy sinh đối với
nhóm thanh niên khác. Trong nghiên cứu của Bandura có một vài thanh niên
có hành vi chống đối xã hội. Tuổi thanh niên của họ thật sự có "bão tố" và
stress. Nhưng không thể coi những vấn đề của số thanh niên này là kết quả
của tuổi dậy thì, những vấn đề của họ đã tồn tại suốt tuổi nhi đồng, thiếu niên.
Điều khác biệt của tuổi thiếu niên so với tuổi dậy thì là bố mẹ kiểm soát hành
vi của họ hiệu quả hơn khi họ còn nhỏ tuổi.
Kết luận rút ra từ nghiên cứu của Bandura (1964) là: (1) thậm chí ngay
cả khi tuổi thanh niên có biểu hiện của stress và "bão tố" thì vẫn không nhất
thiết đó là kết quả của tuổi dậy thì mà có thể là hậu quả của sự phát triển
trước đó; (2) "bão tố" và stress không phải là đặc trưng có tính quy luật của
tuổi thanh niên - có rất nhiều kiểu phát triển của thanh niên có thể hiện diện
trong tuổi dậy thì.
Kết quả nghiên cứu của nhiều công trình cũng khẳng định điều này.
Offer (1969) tìm ra ba con đường chính của sự phát triển trong giai đoạn
thanh niên: tăng trưởng liên tục, tăng trưởng đột xuất và tăng trưởng sôi
động.
Tăng trưởng liên tục chứa đựng những sự thay đổi mềm mại trong ứng
xử. Những thanh niên của nhóm tăng trưởng liên tục không xung đột với bố
mẹ và không cho rằng cách nuôi dạy con của bố mẹ cũng như hệ thống giá trị
và chuẩn mực của bố mẹ là không phù hợp, xa lạ với mình. Phần lớn thanh
niên thuộc loại này.
Nhóm tăng trưởng đột xuất có những thay đổi bất ngờ và nhanh chóng nhưng không đi kèm với "bão tố" và stress.
Chỉ có nhóm tăng trưởng sôi động mới mang đặc trưng khủng hoảng,
stress và có vấn đề. Vì vậy, chỉ có một số rất ít thanh niên thuộc nhóm tăng
trưởng sôi động mới gặp phải "bão tố" và stress. Kết luận này được khẳng
định bởi số liệu nghiên cứu của Douvan và Adelson (1966).
Bố mẹ có thể giúp con vượt qua giai đoạn dậy thì một cách yên ổn
bằng cách duy trì mối quan hệ thân mật với con, giúp con chấp nhận những
thay đổi thể chất và xã hội của bản thân mà tuổi dậy thì mang lại (Swarr và
Richards, 1996).
Bố mẹ có thể tránh được "bão tố" và "nổi loạn" của thanh niên bằng
cách dần dần từ bỏ sự kiểm soát của mình đối với con cái theo mức độ sẵn
sàng tiếp nhận trách nhiệm về bản thân của con đồng thời với việc tiếp tục
điều chỉnh hành vi và đặt ra đòi hỏi cao hơn đối với sự tự quản của con
(Lamborn và đồng nghiệp, 1991; Youniss và Smollar, 1985). Bố mẹ những
thanh niên không "nổi loạn" thường giữ sự điều tiết và quy chuẩn của mình ở
mức tối thiểu, thường tìm cách giải thích yêu cầu của mình và tiếp tục ủng hộ,
thân thiện với con ngay cả khi phải đối mặt với xung đột không thể tránh khỏi
(Steinberg, 1996). Đây chính là kiểu bố mẹ quyền uy mà không gia trưởng.
Bố mẹ cũng có thể làm giảm thiểu những xung đột với con cái nếu họ
có uy tín đối với các bạn của con. Uy tín này dựa trên việc ngay từ tuổi thiếu
niên, nhờ có sự dạy dỗ hợp lý, con của họ đã tự nguyện nội tâm hóa những
chuẩn mực và hệ thống giá trị của họ, chọn bạn theo những tiêu chuẩn này và
do đó, họ được các bạn của con quý mến vì có cùng hệ giá trị và chuẩn mực.
Cần lưu ý rằng, nguyên nhân khiến thanh niên rơi vào nhóm bạn xấu
thường bắt nguồn từ gia đình. Một trong những sai lầm của bố mẹ là quá
nghiêm khắc, khắt khe đối với con, không chịu hoặc không thể hiểu được tính
chính đáng của đòi hỏi tự trị. Điều này làm chia rẽ bố mẹ với con cái và làm
tăng độ nhạy cảm của thanh niên đối với tác động tiêu cực từ bạn bè (Fuligni
và Eccles, 1993). Một thái cực khác là bố mẹ có thể quá thờ ơ với con, coi
nhẹ sự kiểm soát và điều chỉnh hành vi của chúng (Barber và đồng nghiệp,
1994; Brown và đồng nghiệp, 1993; Dishion và đồng nghiệp, 1995).
Không nên quá lo lắng về việc quan hệ bố mẹ - con cái bị xấu đi do sự
"nổi loạn" trong những trường hợp tăng trưởng sôi động. Sau khi giai đoạn
này kết thúc, quan hệ bố mẹ - con cái sẽ trở nên ấm cúng hơn (Greenberger
và Chen, 1996; Larson và đồng nghiệp, 1996).
Văn hóa cũng tác động lên phản ứng của thanh thiếu niên đối với môi
trường xã hội trong giai đoạn dậy thì. Những thanh thiếu niên da trắng người
Mỹ ở độ tuổi 11 đến 13 - độ tuổi mà những thay đổi thể chất diễn ra sôi động
nhất - trở nên độc lập hơn và xa cách bố mẹ hơn (Steinberg, 1981, 1988;
Paikoff và Brooks - Gunn, 1991). Có thể là sự thay đổi trong việc tiết hoóc
môn cũng như tâm trạng trầm cảm và bất an đã góp phần vào những cuộc cãi
vã này (Bunachan, Eccles và Becker, 1992; Udry, 1990). Nhưng những trải
nghiệm này không phải là quy luật. Những thanh thiếu niên người Mêhicô lại
có quan hệ gắn bó hơn với bố mẹ trong tuổi dậy thì. Đó có thể là do sự tác
động của niềm tin văn hóa Mêhicô rằng gia đình rất quan trọng đối với người
trưởng thành (Molina và Chassin, 1996).
II. SỰ KHÁC BIỆT GIỚI TÍNH VÀ SỰ NHẬP VAI GIỚI
Thông tin đầu tiên về một đứa trẻ mới ra đời mà người ta muốn biết
thường là thông tin về giới: trai hay gái. Ngay lập tức, nó được đặt cho một
cái tên phù hợp với giới tính. Trong những năm tiếp theo, bố mẹ cho con
những vật dụng phù hợp với giới của nó: quần áo, đồ chơi,... Những người
xung quanh đối xử phân biệt giữa trẻ trai và gái. Đồng thời, trẻ em trai và gái
thường có cách ứng xử khác nhau trong cùng một tình huống.
Điều gì tạo nên ứng xử giới? Hệ di truyền tất nhiên là có vai trò chính
trong ứng xử giới. Nhưng không phải chỉ có di truyền. Chắc chắn là mỗi nền
văn hóa lại có những chuẩn mực riêng về cách ứng xử của đàn ông và đàn
bà. Trong quá trình phát triển, trẻ em không những tiếp thu nhận dạng giới
của bản thân mà còn hấp thụ những động cơ, hệ giá trị và ứng xử được coi là
phù hợp với giới sinh học của mình trong nền văn hóa mà nó sinh trưởng. Đó
là quá trình phân giới. Nó được bắt đầu từ rất sớm, dưới tác động kết hợp
của gien di truyền, trải nghiệm xã hội và phát triển nhận thức. Tuy nhiên, giai
đoạn phát triển vũ bão nhất của nó lại là tuổi dậy thì. Một vài vấn đề về rối
loạn giới tính chưa thật sự gay gắt khi cá nhân còn ở tuổi thiếu niên, nhưng
khi bước sang tuổi thanh niên lại trở nên gay gắt, đặt cá nhân đối mặt với áp
lực phải lựa chọn. Vì vậy, trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu tỉ mỉ về một
số khái niệm giới và vai giới.
1. Sự phân biệt vai giới và những chuẩn mực vai giới trong xã hội
a) Nhận dạng giới tính và nhận dạng giới
Giới tính và giới là hai khái niệm khác biệt nhau. Giới tính là do di
truyền tạo ra, còn giới là nhận dạng nhân cách mà chúng ta học hỏi được
trong tiến trình xã hội hóa cá nhân.
Có thể phân loại giới tính sinh học theo cách xác định là giới tính di
truyền và giới tính giải phẫu. Có ba loại giới tính: nam, nữ và lưỡng tính.
Có hai giới: nam giới và nữ giới. Giới đăng ký là giới được người khác
gán cho trẻ sơ sinh và ghi vào giấy khai sinh. Giới được nhận dạng là giới mà
cá nhân cảm thấy mình thuộc về nó. Như vậy, giới đăng ký và giới nhận dạng
có thể không trùng nhau. Những người có nam tính thường thuộc về nam
giới, nữ tính thường thuộc về nữ giới. Ngoài ra, còn có một số người có giới
tính là nam nhưng về mặt tâm lý lại tự nhận dạng mình là nữ giới và ngược
lại, có giới tính là nữ nhưng tự nhận dạng mình là nam giới. Những người này
được gọi là người chuyển đổi giới tính.
Thông thường, về mặt sinh học, nếu cặp nhiễm sắc thể thứ 23 của một
cá nhân là XX và hoóc môn estrogen là chủ đạo trong hệ thống hoóc môn giới
tính thì cá nhân đó được nhận dạng là nữ; nếu cặp nhiễm sắc thể 23 này là
XY và hoóc môn testosterone là chủ đạo trong hệ thống hoóc môn thì cá nhân
đó được nhận dạng là nam. Giới tính được nhận dạng theo cặp gien thứ 23
và hoóc môn chủ đạo được gọi là giới tính di truyền. Những cá nhân có rối
loạn ở gien giới tính được gọi là những cá nhân lưỡng tính sinh học thật sự.
Bác sĩ có thể dựa trên hình thể cơ quan sinh dục bên ngoài và cấu tạo
cơ quan sinh dục bên trong như dương vật, tinh hoàn, âm vật, buồng trứng,
âm đạo,... để nhận dạng giới tính. Giới tính được nhận dạng theo cách này
gọi là giới tính giải phẫu. Những cá nhân bị ngộ nhận giới tính giải phẫu (do
hình dạng của cơ quan sinh dục bên ngoài mơ hồ) là những cá nhân giả
lưỡng tính.
b) Chuẩn mực vai giới trong xã hội
Chuẩn mực vai giới là hệ giá trị, động cơ và một lớp những ứng xử
được coi là phù hợp với thành viên của một giới hơn với thành viên của giới
kia. Nói chung, chuẩn mực giới cho ta mẫu ứng xử của từng giới trong cộng
đồng.
Có thể nêu ví dụ về vai giới trong các xã hội công nghiệp như sau. Vai
giới của phụ nữ là sinh đẻ (vai này được tất cả các nền văn hóa công nhận).
Phụ nữ được khuyến khích nhận vai tình cảm, tức là hiền lành, biết chăm sóc
người khác, hợp tác và nhạy cảm với nhu cầu của người khác. Những nét
tâm lý này được coi là sẽ chuẩn bị cho vai trò làm vợ và làm mẹ, hoàn thành
chức năng gia đình và nuôi dạy con cái thành công. Ngược lại, nam giới được
khuyến khích vai phương tiện. Là người chồng và người cha, nam giới phải
cung cấp phương tiện sinh sống và bảo vệ gia đình. Vì vậy, trẻ trai được kỳ
vọng trở thành những người có ưu thế, quyết đoán, độc lập và có tính cạnh
tranh. Tuy nhiên, không phải nền văn hóa nào cũng có chuẩn mực vai giới
tương tự.
c) Những khác biệt tâm lý giữa hai giới
Trong một tổng quan về 1.500 nghiên cứu so sánh nam và nữ giới,
Eleanor Maccoby và Caron Jacklin (1974) đã rút ra một số nét mẫu của vai
giới.
- Khả năng nói. Nữ giới có khả năng nói tốt hơn nam giới. Bé gái hấp
thụ ngôn ngữ và phát triển khả năng nói sớm hơn bé trai. Đồng thời, bé gái
thể hiện sự ưu việt (tuy nhỏ) trong các test đọc hiểu so với bé trai xuyên suốt
thời thơ ấu và thanh niên (Halpern, 1997; Hedges và Nowell, 1995). Sự khác
biệt này có cơ sở sinh học là sự khác biệt trong cấu trúc, vị trí và chức năng
vùng ngôn ngữ nói trên bán cầu não của hai giới.
- Khả năng thị giác/không gian. Nam giới có trình diễn tốt hơn nữ giới
trong các test thị giác/không gian. Đó là các test tìm ra sự tương ứng giữa các
thông tin hình ảnh hoặc nói cách khác là quay vật thể bằng trí tưởng tượng.
Sự ưu việt của nam giới trong test này không lớn mặc dù được phát hiện khi
còn nhỏ tuổi và tồn tại suốt đời (Kerns và Berenbaum, 1991; Voyer, Voyer và
Bryden, 1995).
- Khả năng toán học. Bắt đầu từ tuổi thanh niên, nam giới thể hiện sự
ưu việt (tuy nhỏ) trong các test lý luận số học (Halpern, 1997; Hyde, Fennema
và Lamon, 1990). Nữ giới có kỹ năng tính toán tốt hơn nhưng nam giới học
được nhiều phương pháp giải toán hơn, do đó trình diễn tốt hơn khi phải giải
quyết những vấn đề toán học phức tạp. Sự ưu việt của nam giới thể hiện rõ
hơn trong toán học cao cấp: có nhiều thiên tài toán học là nam giới hơn.
- Tính hiếu chiến. Nam giới hiếu chiến hơn nữ giới về phương diện thể
chất và lời nói. Tính cách này bắt đầu thể hiện từ năm 2 tuổi. Nam giới dễ
dàng bị lôi kéo vào các hành vi chống xã hội và bạo lực trong tuổi thanh niên
gấp 10 lần so với nữ giới. Tuy nhiên, nữ giới thường thể hiện hình thức thù
địch ngầm đối với cá nhân khác bằng cách làm mất mặt, phớt lờ, tìm cách hạ
thấp vị thế xã hội hoặc phá hoại quan hệ của họ (Crick và đồng nghiệp, 1997;
Crick và Grotpeter, 1995).
Ngoài ra, những nghiên cứu gần đây cho thấy còn có các khác biệt tâm
lý giữa hai giới như sau:
- Mức hoạt động. Ngay từ trong bào thai, bé trai có hoạt động thể chất
cao hơn bé gái (DiPietro và đồng nghiệp, 1996) và chúng vẫn hoạt động tích
cực hơn trong suốt thời thơ ấu, đặc biệt là khi tương tác với bạn cùng lứa
(Eaton và Enns, 1986; Eaton và Yu, 1989).
- Sự sợ hãi, tính rụt rè và mạo hiểm. Ngay từ năm đầu tiên của cuộc
sống, bé gái sợ hãi và rụt rè hơn bé trai trong những tình huống không chắc
chắn. Chúng ít quả quyết và ít mạo hiểm hơn bé trai (Christophersen, 1989;
Feingold, 1994).
- Tính dễ bị thương tổn trong phát triển. Bé trai dễ bị thương tổn thể
chất - do các tác nhân độc hại và bệnh tật của mẹ - hơn bé gái ngay từ trong
bào thai. Bé trai cũng dễ gặp phải những vấn đề về phát triển hơn - đó có thể
là không biết đọc, nói ngọng, hiếu động quá mức, rối loạn xúc cảm, tình cảm
và thiểu năng trí tuệ (Halpern, 1997; Henker và Whalen, 1989).
- Khả năng biểu cảm và nhạy cảm. Nữ giới biểu cảm hơn nam giới. Bé
gái 2 tuổi đã dùng nhiều từ biểu cảm hơn bé trai cùng tuổi (Cervantes và
Callanan, 1998). Bố mẹ nói chuyện với con gái về chủ đề tình cảm nhiều hơn
(Kuebli, Buttler và Fivush, 1995; Reese và Fivush, 1993). Có lẽ sự hỗ trợ xã
hội này giải thích cho việc phụ nữ cho rằng tình cảm của họ sâu sắc hơn,
mạnh mẽ hơn cũng như dễ dàng thể hiện tình cảm hơn nam giới (Diener,
Sandvik và Larson, 1985; Fúch và Thelen, 1988; Saarni, 1993). Tuy nhiên,
không có sự khác biệt giữa hai giới trong tính đồng cảm. Mặc dù phụ nữ vẫn
cho rằng mình biết chăm sóc và thương người hơn nam giới,nhưng trong
những tình huống tự nhiên thì nam giới tỏ ra không kém phụ nữ trong việc
chăm sóc những người thân thích lớn tuổi và các con vật nuôi (Melson, Peet
và Sparks, 1991).
- Sự phục tùng. Ngay ở giai đoạn tiền tiểu học, bé gái đã có tính phục
tùng những đòi hỏi của bố mẹ, thầy cô và những người có quyền lực cao hơn
bé trai (Feingold, 1994; Maccoby, 1990). Khi muốn người khác phục tùng
mình, các bé gái thường dùng cách đề nghị tinh tế và lịch sự trong khi các bé
trai thường dùng những chiến lược bạo lực hoặc yêu cầu thẳng thừng
(Cowan và Avants, 1988; Maccoby, 1990).
Khi xem xét sự khác biệt giới, chúng ta phải luôn nhớ rằng số liệu phản
ánh ứng xử trung bình của nhóm chứ không phản ánh hành vi của một cá
nhân cụ thể nào đó. Ví dụ, sự khác biệt giới mà Maccoby và Jacklin nêu ra rất
nhỏ và không phải lúc nào cũng đúng. Trong những xã hội như ở Ixraen - nơi
mà phụ nữ có cơ hội tuyệt vời để hành nghề kỹ sư - nữ giới trình diễn rất tốt
trong những test toán học, đôi khi còn vượt xa nam giới (Barker và Jones,
1992). Những kết quả kiểu này chỉ ra rằng phần lớn sự khác biệt giới không
có nguồn gốc sinh học và những tác động văn hóa và xã hội đóng một vai trò
quan trọng trong sự phát triển đặc tính giới (Halpern, 1997).
Phần lớn các nhà tâm lý học phát triển thống nhất rằng nam giới và nữ
giới giống nhau nhiều hơn là khác nhau. Thậm chí ngay cả những số liệu
được ghi chép cẩn thận về sự khác biệt cũng rất khiêm tốn. Vì vậy, không thể
dự báo chính xác những đặc tính như tính hiếu chiến, kỹ năng toán học, mức
hoạt động hoặc sự biểu cảm của bất kỳ một cá nhân nào mà chỉ dựa trên giới
tính của họ.
d) Nhận định truyền thống của các nền văn hóa về vai giới
Các nhà tâm lý học phát triển đều công nhận một phát biểu của
Maccoby và Jacklin là rất nhiều đặc trưng giới là "huyền thoại văn hóa" và
không có cơ sở thực tiễn. Những "huyền thoại" phổ biến nhất được đưa ra ở
Bảng 1.
Bảng 1. Một vài nhận định không có cơ sở thực tế về sự khác biệt vai
giới
Nhận định của văn hóa Thực tiễn
1. Nữ giới có tính xã hội hơn
nam giới
Cả hai giới đều quan tâm như nhau đến kích
thích xã hội, đến đáp ứng những củng cố xã
hội và thu lợi ngang nhau khi học hỏi mô hình
xã hội. Có những độ tuổi con trai dành nhiều
thời gian cho bạn hơn con gái.
2. Phụ nữ dễ bị lay chuyển
hơn nam giới
Phần lớn các nghiên cứu về tính dễ bị lay
chuyển không chỉ ra sự khác biệt. Tuy nhiên,
đôi khi con trai dễ tiếp nhận những giá trị của
nhóm hơn con gái mặc dù những giá trị này
xung đột với giá trị của bản thân.
3. Phụ nữ có tự đánh giá
thấp hơn nam giới
Hai giới rất giống nhau trong bình diện tự
đánh giá trong suốt giai đoạn thanh thiếu niên.
Sự khác biệt sau này giữa hai giới có lẽ là sự
phản ánh việc nam giới có nhiều tự do hơn và
được khuyến khích giữ vai phương tiện (Block
và Robins, 1993).
4. Phụ nữ làm tốt những thao
tác đơn giản, lặp đi lặp lại
trong khi nam giới nổi bật
trong những thao tác đòi hỏi
trí tuệ cao
Những bằng chứng đã thấy không ủng hộ
khẳng định này. Cả hai giới đều làm tốt các
thao tác học hỏi cơ bản lẫn thao tác trí tuệ
cao.
5. Nam giới lý trí hơn phụ nữ Sự khác biệt về khả năng trí tuệ giữa hai giới
rất nhỏ. Họ không khác biệt nhau trong các
test về phân tích và lôgích.
6. Phụ nữ không có động cơ
thành đạt
Không tồn tại một sự khác biệt nào cả. Sở dĩ
huyền thoại này tồn tại một cách dai dẳng vì
hai giới hướng tới hai mục tiêu thành đạt khác
hẳn nhau.
Theo Maccoby và Jacklin (1974), những quan niệm sai lầm này tồn tại
dai dẳng vì hình mẫu là một khái niệm rất mạnh. Nếu sự khái quát hóa của
người quan sát về một nhóm người nào đó đã định hình thành hình mẫu và
trở thành niềm tin thì ứng xử phù hợp với hình mẫu của một người trong
nhóm sẽ khẳng định hình mẫu và làm hình mẫu thêm mạnh; nếu ứng xử của
người thuộc nhóm khác với kỳ vọng của người quan sát thì có vẻ như ứng xử
này sẽ trôi qua, không được nhận ra và hình mẫu của người quan sát sẽ
được bảo vệ để khỏi bị tan vỡ.
Như vậy, mẫu vai giới là những sơ đồ nhận thức đã được định hình
chắc chắn và chúng ta dùng nó để diễn giải và bóp méo ứng xử của nam giới
và nữ giới. Thậm chí chúng ta còn sử dụng sơ đồ này để phân loại ứng xử
của trẻ em. Trong một nghiên cứu (Condry và Condry, 1976), sinh viên được
xem một băng video quay trẻ 9 tháng tuổi. Đứa trẻ được giới thiệu với một
nhóm là con gái (Dana), với nhóm kia - là con trai (David). Sau khi xem trẻ
chơi một cái hộp có hình nộm bật ra khi mở nắp hộp, sinh viên được yêu cầu
diễn giải phản xạ của trẻ đối với đồ chơi. Ấn tượng về ứng xử của đứa trẻ
hoàn toàn phụ thuộc vào giới giả định của nó. Ví dụ, phản ứng mạnh của trẻ
đối với cái hộp được coi là "giận dữ" đối với trường hợp đứa trẻ được giả
định là con trai; được coi là "sợ hãi" đối với trường hợp đứa trẻ được giả định
là con gái.
e) Tác động của quan điểm truyền thống đối với sự khác biệt của vai giới
Năm 1968, Goldberg yêu cầu các nữ sinh viên đoán xem một số bài
báo của J. McKay là của nam (John McKay) hay nữ (Joan McKay) tác giả.
Những nữ sinh này đã dựa trên nhận định rằng: những bài báo được viết bởi
nam tác giả có chất lượng cao hơn so với nữ tác giả để đoán tên.
Những nữ sinh này phản ánh niềm tin trong rất nhiều cộng đồng cho
rằng: phụ nữ thiếu tiềm năng để vượt trội trong toán học, khoa học cũng như
trong những nghề nghiệp đòi hỏi hiểu biết về chúng. Những bé gái mẫu giáo
và cấp I cũng cho rằng chúng không thể học toán giỏi như con trai. Trong suốt
những năm cấp I, trẻ em cho rằng lĩnh vực của con gái là đọc, viết chính tả,
nhạc họa; còn toán, thể dục thể thao và cơ khí là lĩnh vực của con trai (Eccles
Teal, 1990, 1993; Entwisle và Baker, 1983). Hơn thế nữa, một điều tra về
nghề nghiệp cho thấy rằng, phụ nữ công tác nhiều trong những lĩnh vực cần
kỹ năng nói (ví dụ, khoa học về thư viện, cô giáo ở cấp mẫu giáo, tiểu học,...)
và ít làm các nghề khoa học kỹ thuật (ví dụ, làm kỹ sư cơ khí). Có nhiều nhà
tâm lý học phát triển cho rằng, mẫu vai giới đã tạo ra những ước vọng thúc
đẩy sự khác biệt giới trong trình diễn trí tuệ và lái nam, nữ đi vào những con
đường sự nghiệp khác nhau.
Tác động của gia đình. Bố mẹ thường góp phần tạo ra sự khác biệt giới
về năng lực và tự nhận biết thông qua sự phân biệt đối xử giữa con trai và
con gái. Theo Eccles (1990), quá trình tác động của bố mẹ có thể theo trình
tự sau:
1. Bố mẹ - dưới ảnh hưởng của mẫu vai giới - kỳ vọng con trai phải học
toán tốt hơn con gái. Thậm chí ngay trước khi các con học những bài đầu tiên
về toán, các bà mẹ ở Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan đã thổ lộ niềm tin rằng con trai
có khả năng học toán tốt hơn con gái (Lummis và Stevenson, 1990).
2. Bố mẹ cho rằng những thành tích đạt được của con trai khi học toán
là nhờ khả năng, thành tích của con gái là nhờ sự chăm chỉ (Parsons, Adler
và Kaczala, 1982). Việc này tiếp tục củng cố niềm tin rằng con gái không có
khả năng học toán, điểm số cao là nhờ chăm chỉ.
3. Con cái bắt đầu tin theo niềm tin của bố mẹ. Con gái bắt đầu tin rằng
chúng không có khả năng toán học (Jacobs và Eccles, 1992).
4. Vì cho rằng mình không có khả năng toán học, con gái ít quan tâm
đến toán học hơn, ít hứng thú học toán hơn và do đó ít theo đuổi những nghề
nghiệp liên quan đến toán học sau khi tốt nghiệp trường phổ thông hơn
(Benbow và Arjimand, 1990).
Hiệu ứng tiêu cực của việc bố mẹ ít kỳ vọng ở con gái cũng thể hiện
ngay cả khi kết quả học toán của con trai và con gái là như nhau.
Tác động của trường học. Thầy cô giáo cũng có niềm tin dựa trên mẫu
vai giới về khả năng của con trai và con gái trong những bộ môn khác nhau.
Ví dụ, thầy dạy toán lớp 6 cho rằng trò trai có khả năng toán học cao hơn,
nhưng trò gái chăm học hơn (Jussim và Eccles, 1992). Mặc dù điểm số cao
hơn các bạn trai, nhưng thông điệp của thầy cô đối với trò gái đã khiến nhiều
nữ sinh có khả năng toán học chuyển nỗ lực của mình sang những lĩnh vực
khác "phù hợp" hơn như ngữ văn, tiếng mẹ đẻ,...
Như vậy, những niềm tin không có cơ sở về sự khác biệt giới vẫn làm
cho một số ngành, nghề khoa học kỹ thuật có ít phụ nữ tham gia. Tình trạng
này đang được khắc phục dần theo thời gian cùng với sự gia tăng bình quyền
của nữ giới. Bố mẹ ngày càng coi trọng con gái hơn, tạo cho con gái những
điều kiện ngang bằng con trai. Xã hội cũng bớt kỳ thị giới hơn, cơ hội việc làm
ở những ngành kỹ thuật đối với phụ nữ trong các công ty cũng được gia tăng.
Những phụ nữ thành đạt trong các ngành khoa học cũng làm giảm sự kỳ thị
giới và thay đổi phần nào mẫu vai giới.
2. Những xu hướng phát triển trong việc thể hiện vai giới của cá nhân
Trẻ dưới 2 tuổi đã có được sự nhận dạng giới của bản thân và của
người khác. Nhưng trẻ không biết được tại sao một cá nhân lại là nam giới
hoặc nữ giới. Lớn 3 tuổi, trẻ biết được việc phân loại giới theo giải phẫu, tuy
nhiên một vài trẻ cho rằng có thể thay đổi giới nếu thay đổi kiểu quần áo và
kiểu tóc. Khi được 5 tuổi, trẻ biết rằng giới là đặc trưng không thay đổi của cá
nhân. Khái niệm về giới và giới của bản thân được hình thành vững chắc ở
cuối độ tuổi tiền tiểu học.
Đối với hầu hết mọi người, nhận dạng giới là bẩm sinh và phù hợp với
giới đăng ký cũng như giới giải phẫu. Đối với những trường hợp có sự lệch
lạc trong vấn đề nhận dạng giới thì họ cũng tuân thủ hoặc muốn gia nhập một
trong hai vai giới và vì vậy, chúng tôi sẽ chỉ thảo luận về sự phát triển mẫu vai
nam giới và nữ giới ở tuổi thanh niên.
Quan điểm của thiếu niên khi bước sang tuổi thanh niên về những nét
tính cách của nam và nữ giới, những sở thích cũng như nghề nghiệp phù hợp
với giới ngày càng trở nên mềm dẻo khi chúng bắt đầu học những lớp đầu
cấp III. Nhưng quan điểm này sau đó lại rất nhanh chóng trở nên cứng nhắc,
thể hiện ở thái độ không khoan nhượng với những cung cách ứng xử không
phù hợp giới (Alfieri, Ruble và Higgins, 1996; Sigelman, Carr và Begley, 1986;
Signorella và đồng nghiệp, 1993). Các nhà tâm lý học phát triển cho rằng, sự
gia tăng đợt hai của tính cực đoan giới có liên quan đến quá trình tăng cường
vai giới - gia tăng khác biệt giữa hai giới và do đó gia tăng áp lực bắt tuân thủ
vai giới.
Quá trình tăng cường vai giới đồng hành với quá trình dậy thì (Boldizar,
1991; Galambos, Almeida và Petersen, 1990; Hill và Lynch, 1983). Nam thiếu
niên sẽ tự thấy mình đàn ông hơn và nữ thiếu niên sẽ tìm cách nhấn mạnh
yếu tố nữ tính. Một trong những nguyên nhân của tăng cường vai giới là sự
tác động của bố mẹ. Khi thiếu niên bước sang tuổi trưởng thành, mẹ sẽ có
nhiều hoạt động chung với con gái hơn và bố sẽ có nhiều hoạt động chung
với con trai hơn (Crouter, Manke và McHale, 1995). Tuy nhiên, tác động của
bạn bè còn quan trọng hơn. Ví dụ, thanh niên sẽ thấy rằng họ phải tuân thủ
chuẩn mực vai giới để thành công trong việc hẹn hò với bạn khác giới. Những
cô gái vô tư, nghịch ngợm như con trai sẽ thấy rằng phải ăn mặc và ứng xử
nữ tính hơn để có được bạn trai, hoặc các nam thanh niên thấy cần phải tỏ ra
đàn ông hơn để các cô gái chú ý đến nhiều hơn (Burn, O'Neil và Nederend,
1996; Katz, 1979).
Áp lực xã hội đối với thanh niên trong việc tuân thủ vai giới cũng có thể
giải thích phần nào việc gia tăng sự khác biệt nhận thức giữa hai giới khi
chuyển sang tuổi thanh niên (Hill và Lynch, 1983; Robert và đồng nghiệp,
1990). Trong những năm cuối cấp III, khi thanh niên đã quen thuộc với vai
giới mới của mình (là những người đàn ông và đàn bà trẻ tuổi), họ sẽ một lần
nữa có quan điểm mềm dẻo về vấn đề vai giới (Urberg, 1979), nhưng những
người đàn ông trẻ tuổi vẫn không khoan nhượng đối với một người đàn ông
không tuân thủ vai giới (Levy và đồng nghiệp, 1995).
3. Hiện tượng lưỡng tính và chuyển đổi giới tính
a) Hiện tượng lưỡng tính sinh học (lưỡng tính thật và giả lưỡng tính)
Trong thực tế có những người bị khuyết tật về gien: cặp gien thứ 23
chứa ít nhất hai nhiễm sắc thể X và một nhiễm sắc thể Y; đó có thể là tổ hợp
XXY, XXXY hoặc XXXXY - tức là có cả XX và XY. Họ có thể có (a) một buồng
trứng và một tinh hoàn; (b) hai buồng trứng và hai tinh hoàn; (c) có hai tuyến,
mỗi tuyến có lẫn lộn cả mô buồng trứng lẫn mô tinh hoàn. Hình thức cơ quan
sinh dục ngoài không rõ ràng, có thể bị người khác ngộ nhận là âm vật hoặc
dương vật lúc mới chào đời. Trẻ sơ sinh có thể được nhận dạng là nam hoặc
nữ. Khi dậy thì, những đặc trưng nữ giới thứ cấp xuất hiện: ngực và hông nở
ra; những đặc trưng nam giới bị suy giảm: dương vật và tinh hoàn nhỏ do
thiếu hụt hoóc môn testosterone. Đây là những người lưỡng tính sinh học
thực sự.
Hiện tượng lưỡng tính tuy hiếm ở người nhưng rất phổ biến trong giới
động vật. Có khoảng 30% động vật lưỡng tính. Một số loài động vật có thể tự
thay đổi giới tính tùy thuộc vào tỷ lệ cá thể đực, cái trong quần thể để bảo tồn
giống nòi. Một số loài, ví dụ như loài rắn, còn có cơ quan sinh dục của cả hai
giới trong một cá thể.
Có những người về sinh học là nam hoặc là nữ (họ có hoặc hai buồng
trứng hoặc hai tinh hoàn) nhưng do tác động của môi trường lên hoóc môn
hoặc mắc những chứng bệnh về hoóc môn nên cơ quan sinh dục bên ngoài
phát triển không đầy đủ, có hình dạng khó phân biệt hoặc có hình dạng của
giới tính đối lập. Những người này được gọi là người giả lưỡng tính.
Ví dụ, hội chứng thiếu hụt DHT (dihydrotestosterone) làm cho trẻ sơ
sinh nam đẻ ra có cơ quan sinh dục bên trong là tinh hoàn, ống dẫn tinh phát
triển đầy đủ, nhưng có cơ quan sinh dục bên ngoài không phát triển và do đó
giống với cơ quan sinh dục ngoài của nữ giới. Chúng thường bị nhận dạng
nhầm là nữ. Khi dậy thì, bộ phận sinh dục ngoài được phát triển thành dương
vật hoàn chỉnh, về mặt sinh học, những cá nhân này là nam.
Hội chứng không nhạy cảm với androgen (còn gọi là nữ tính hoá tinh
hoàn) làm cho trẻ sơ sinh nam được sinh ra với hai tinh hoàn nhưng do cơ
thể không thể hấp thụ được testosterone nên tác động của hoóc môn
estrogen chiếm thế chủ đạo. Kết quả là trẻ được sinh ra có âm hộ và âm đạo
nhưng không có buồng trứng, ống dẫn trứng và tử cung cũng như ống dẫn
tinh. Những trẻ này thường bị nhận dạng nhầm là nữ. Khi dậy thì, những đặc
trưng nữ tính thứ cấp như ngực, hông,... phát triển. Tuy vậy, những cá nhân
này không có kinh nguyệt. Họ có thể tiếp tục là phụ nữ, lấy chồng như phụ nữ
bình thường nhưng tất nhiên không thể có con.
Hội chứng tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh làm trẻ sơ sinh nữ với
hai buồng trứng và âm đạo được sinh ra với dương vật và hai túi chứa tinh
nhưng không có tinh hoàn. Do dương vật có thể rất nhỏ nên trẻ có thể được
nhận dạng là nam hoặc nữ. Nếu được coi là nữ, phải chữa trị hoóc môn. Nếu
coi là nam, khi phát hiện vấn đề, hoặc phải chữa trị hoóc môn hoặc phải làm
phẫu thuật chuyển đổi giới tính.
Trong thực tế người lưỡng tính hoặc bị nhận dạng nhầm giới tính
thường chỉ được phát hiện khi bước vào tuổi dậy thì hoặc khi đã trưởng
thành.
Tham khảo: Điều trị cho người lưỡng tính
Điều trị cho những bệnh nhân lưỡng tính được đặt lên ưu tiên hàng đầu
ở Việt Nam. Trước khi cắt bỏ bộ phận sinh dục thừa hoặc phẫu thuật tạo
hình, các bác sĩ phải xem xét xem kiểu hình gien, kiểu hình bộ phận sinh dục
thiên về giới nào. Bên cạnh đó phải tính đến ngoại hình và cá tính của bệnh
nhân, phải hỏi và đáp ứng nguyện vọng của cha mẹ và bản thân bệnh nhân
về giới tính tương lai của người bệnh. Sau khi mổ, tâm lý bệnh nhân đạt được
khoảng 80%, về mặt nhận dạng giới tính bản thân, tức là xác định được mình
là nam hay nữ. Hình dạng bộ phận sinh dục ngoài đạt được khoảng 80%, còn
đời sống tình dục đạt 60%. Bệnh nhân có thể lập gia đình nhưng không bảo
đảm có con. Bệnh nhân phải uống thuốc nội tiết tố suốt đời. Tuổi thọ của
bệnh nhân thấp, thường không quá 50 tuổi. Ngoài ra, bệnh nhân còn có thể
gặp những rắc rối xã hội như vấn đề chứng minh thư, dư luận xã hội,...
Những người giả lưỡng tính là những người có vấn đề về hoóc môn
giới tính hoặc tăng sản tuyến thượng thận. Thường những người bệnh loại
này phải được làm phẫu thuật chỉnh hình cho bộ phận sinh dục ngoài và uống
thuốc điều trị suốt đời do thiếu hụt hoóc môn.
b) Hiện tượng chuyển đổi giới tính
Hiện tượng chuyển đổi giới tính là hiện tượng có tính tâm lý hơn là tính
sinh học và di truyền. Những người chuyển đổi giới tính là những người bình
thường về mặt giới tính sinh học nhưng cảm thấy về mặt tâm lý mình thuộc
giới đối lập với giới tính sinh học của bản thân. Trong những nền văn hóa coi
hình dạng cơ quan sinh dục bên ngoài là biểu hiện của giới tính, những người
này mong muốn phẫu thuật để chuyển cơ quan sinh dục của mình thành cơ
quan sinh dục của giới mà họ muốn gia nhập chứ không muốn thay đổi tính
cách của mình. Họ ít quan tâm đến vấn đề tình dục và sẵn sàng đánh đổi thỏa
mãn tình dục lấy hình thức bề ngoài của bộ phận sinh dục. Những người
chuyển đổi giới tính được chia làm hai loại: đã qua phẫu thuật và chưa qua
phẫu thuật.
Người chuyển đổi giới tính không phải là những người đồng tính luyến
ái hoặc người mặc quần áo của người khác giới (Garber, 1991). Mặc dù
người chuyển đổi giới tính mặc quần áo khác giới và có định hướng tình dục
đối với người cùng giới sinh học, nhưng người đồng tính luyến ái và người
mặc quần áo khác giới lúc nào cũng ý thức được giới tính sinh học của mình,
còn người chuyển đổi giới tính lại luôn cho là mình thuộc giới đối lập với giới
tính sinh học của bản thân.
Một số nền văn hóa khá bao dung với hiện tượng chuyển đổi giới tính.
Những nền văn hóa này không coi cơ quan sinh dục ngoài là biểu hiện của
giới và có quan niệm về giới thứ ba, gồm những cá nhân thuộc cả hai giới
nhưng tự cảm thấy mình thuộc giới đối lập. Những cộng đồng này cho rằng
những cá nhân thuộc giới thứ ba có quyền lực siêu nhiên. Có thể nêu ví dụ:
một số tộc người thổ dân da đỏ châu Mỹ, người Acault ở Mianma (Bullough,
1991; Coleman, Colgan và Gooren, 1992; Roscoe, 1991).
Chưa xác định được nguyên nhân của hiện tượng chuyển đổi giới tính.
Chuyển đổi giới tính có thể bắt đầu từ thời thơ ấu (chuyển đổi giới tính sơ
cấp) hoặc bắt đầu khi đã trưởng thành (chuyển đổi giới tính thứ cấp).
Bố mẹ những trẻ chuyển đổi giới tính sơ cấp dễ dàng nhận ra hiện
tượng này. Ví dụ, họ có thể nhận thấy con trai của mình ở độ tuổi từ 4 đến 5
tự coi mình là con gái, có tâm lý của bé gái và cư xử như bé gái ngay từ đầu.
Nó luôn tham gia các trò chơi của các bé gái, ăn mặc và đi đứng như con gái.
Bạn chơi của nó là con gái. Khi đến tuổi dậy thì, nó có thể yêu cầu làm phẫu
thuật chuyển đổi giới tính. Vì trong suốt thời thơ ấu, thanh niên này đã học hỏi
vai nữ giới nên "chị ta" có thể dễ dàng vượt qua những trở ngại tâm lý và ứng
xử như một người phụ nữ thực thụ.
Tuy nhiên, vấn đề lại không đơn giản đối với những người chuyển đổi
giới tính thứ cấp. Vì phần lớn thời gian họ sống với vai giới đăng ký trong khai
sinh của mình nên họ gặp khó khăn khi phải hòa nhập với vai giới mong
muốn của mình (Leavitt và Berger, 1990). Một nghiên cứu về những người
chuyển đổi giới tính từ nam sang nữ chưa qua phẫu thuật cho thấy: 44% lẩn
tránh hoạt động tình dục, 19% hoạt động tình dục không dùng dương vật và
37% hoạt động tình dục có dùng dương vật và thỏa mãn với trải nghiệm của
mình.
Rất nhiều người chuyển đổi giới tính không chịu nhìn nhận vấn đề của
mình là vấn đề tâm lý; theo họ đây là vấn đề giải phẫu.
Tham khảo: Phẫu thuật chuyển đổi giới tính
Ở những nước cho phép giải phẫu chuyển đổi giới tính, những phẫu
thuật này thường được tiến hành theo bốn bước sau:
1. Trị liệu triệu chứng chuyển đổi giới tính. Bệnh nhân gặp gỡ nhà trị
liệu hoặc những người chuyển đổi giới tính khác đều đặn trong sáu tháng.
Bệnh nhân phải chứng tỏ cho nhà trị liệu thấy rằng ý nguyện chuyển đổi giới
tính đã được ấp ủ ít nhất hai năm (Chong, 1990). Một nghiên cứu cho thấy
rằng sau khi trị liệu như vậy chỉ còn 23% bệnh nhân tiếp tục mong muốn phẫu
thuật chuyển đổi giới tính Burns, Farrell và Christie - Brown, 1990).
2. Trị liệu hoóc môn. Bệnh nhân muốn chuyển đổi từ nam thành nữ
được trị liệu estrogen; bệnh nhân muốn chuyển đổi từ nữ sang nam được
điều trị testosterone. Những trị liệu này sẽ đem lại các đặc tính giới thứ cấp
cần thiết cho người bệnh. Ví dụ, làm phát triển ngực ở người muốn chuyển
đổi từ nam thành nữ; phát triển lông ngực, râu và làm âm vật phát triển giống
như dương vật ở người muốn chuyển đổi từ nữ thành nam.
3. Sống theo cách của giới được chọn lựa. Bệnh nhân phải sống ít
nhất một năm theo cách của giới mà mình chọn lựa. Đây là một công việc
không dễ dàng. Phải thay đổi cung cách hành xử, giọng nói và cử chỉ, hành
động,... tức là tất cả vẻ ngoại hình đã học được từ bé. Phải phẫu thuật
chuyển đổi giọng nói (Gunzberger, 1995).
4. Phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Để chuyển đổi đàn ông thành đàn
bà, nhà phẫu thuật cắt bỏ dương vật và tinh hoàn, dùng dương vật làm âm
vật, mô và da dương vật làm bộ phận sinh dục bên ngoài và âm đạo nhân tạo
(Hage, Bout, Bloem và Negiens, 1993). Để chuyển đổi đàn bà thành đàn ông,
người ta tạo hình âm vật thành dương vật, cấy ống nhân tạo để làm dương
vật, tạo ra hai tinh hoàn giả (Eldh, 1993; Fang, Chen và Ma, 1992).
Có khoảng 10.000 đến 15.000 người chuyển đổi giới tính ở Mỹ, trong
đó có khoảng 3.000 đến 4.000 đã qua phẫu thuật. Hiện chưa có nghiên cứu
xuyên thời gian quy mô lớn về những người này. Tuy nhiên, một nghiên cứu
trên 13 người đã phẫu thuật chuyển đổi giới tính từ nam thành nữ cho biết có
một phần ba thấy rằng phẫu thuật chuyển đổi là một sai lầm (Lindemalm,
Korlin và Uddenberg, 1986). Có nhiều người đã tự tử sau một thời gian làm
phẫu thuật chuyển đổi giới tính.
Có một vài yếu tố ảnh hưởng tới cuộc sống tâm lý của người chuyển
đổi giới tính sau khi làm phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Thứ nhất là phẫu
thuật phải hoàn hảo để người chuyển đổi giới tính thỏa mãn về hình thể thể
chất của mình (Ross và Need, 1989). Thứ hai là những người đồng tính luyến
ái thường thỏa mãn hơn với vị thế của mình so với người dị tính luyến ái
(Blanchard, Steiner, Clemmensen và Dickey, 1989). Thứ ba là người chuyển
đổi từ nữ thành nam được thỏa mãn cuộc sống tình dục và quan hệ gần gũi
hơn người chuyển đổi từ nam thành nữ. Điều này đúng với cả người chuyển
đổi giới tính đã phẫu thuật và chưa phẫu thuật (Kockott và Fahrner, 1988).
Thứ tư là những người chuyển đổi giới tính sơ cấp dễ dàng vượt qua thách
thức chuyển đổi này hơn những người chuyển đổi giới tính thứ cấp, do đã có
nhiều kinh nghiệm ứng xử theo giới mà mình lựa chọn (Leavitt và Berger,
1990).
c) Hiện tượng lưỡng tính tâm lý
Trong rất nhiều năm, các nhà tâm lý cho rằng nam tính và nữ tính là hai
thái cực của một chiều đo thống nhất. Nếu cá nhân có những nét tính cách
nam giới mạnh mẽ thì không thể có những nét tính cách nữ giới. Năm 1974,
Bem đưa ra giả thiết rằng cá nhân thuộc cả hai giới có thể thuộc loại lưỡng
tính tâm lý - tức là sự cân bằng hoặc pha trộn cả hai thể loại tính cách đặc
trưng của nam và nữ giới.
Theo mô hình của Bem, tính cách nam giới và tính cách nữ giới là hai
chiều đo tách biệt của tính cách. Một cá nhân (đàn ông hay đàn bà) có nhiều
tính cách nam và ít tính cách nữ được xác định là cá nhân có tính cách kiểu
nam giới. Nếu cá nhân có nhiều tính cách nữ và ít tính cách nam thì được gọi
là cá nhân có tính cách kiểu nữ giới. Nếu cá nhân có cả hai nét tính cách cân
bằng nhau thì được gọi là lưỡng tính tâm lý và cá nhân không có cả nét tính
cách đặc trưng nam và nữ giới là những cá nhân tính cách không rõ rệt.
Trong xã hội công nghiệp hiện đại, nơi mà vai trò của nữ giới ngày
càng được nâng cao, hiện tượng lưỡng tính tâm lý (pha trộn vai giới) ngày
càng trở nên phổ biến (Roopnarine và Mounts, 1987). Hiện tượng lưỡng tính
tâm lý thể hiện ở tính mềm dẻo trong vai giới và sự phối hợp nhuần nhuyễn
những nét phương tiện và tình cảm trong cuộc sống (Bem, 1975; Kaplan,
1979). Người lưỡng tính tâm lý có thể là nam hoặc nữ. Họ có thể thể hiện
những nét tính cách thường được coi là của giới đối lập nhưng không bị coi là
ái nam ái nữ hoặc chuyển đổi giới tính. Nam giới có thể khóc trước mặt người
khác, biết chăm sóc, nấu ăn ngon,... Nữ giới có thể hiếu chiến, ham quyền lực
và có những nghề nghiệp đòi hỏi sức khỏe và sự khéo tay cơ khí.
Hình 1. Thể loại định hướng vai giới trên quan điểm tính cách nam giới
và tính cách nữ giới là hai chiều đo tách biệt
Tính cách nam
giới
Tính cách nữ giới
Cao Thấp
Cao Lưỡng tínhKiểu tính cách
nam giới
ThấpKiểu tính cách nữ
giới
Tính cách không
rõ rệt
Đặc trưng của người lưỡng tính tâm lý là tính mềm dẻo và sự kết hợp
các đặc tính của cả hai giới. Nếu người phụ nữ luôn hiếu chiến ở cơ quan và
phục tùng ở nhà thì chị ta không phải là người lưỡng tính tâm lý vì những ứng
xử này là có chủ ý (ứng xử ở cơ quan để đòi kiêng nể và ở nhà để mong yên
ổn). Những người lưỡng tính tâm lý thường có tính thích nghi cao đối với
những đòi hỏi của tình huống và môi trường, biết cách điều chỉnh hành vi
tương xứng.
Tỷ lệ người có thể coi là lưỡng tính tâm lý không rõ ràng. Trong một
điều tra ở Mỹ (Binion, 1990), 37% phụ nữ da đen coi mình là người lưỡng tính
tâm lý, 18% thấy mình có nữ tính, 24% thấy mình có nam tính, số còn lại
không cho biết nhận định về bản thân. Điều này không làm các nhà nghiên
cứu kinh ngạc, vì cuộc sống trong xã hội công nghiệp hiện đại đòi hỏi ở người
phụ nữ nhiều tính cách trước đây được coi là nam tính.
III. TÌNH YÊU LỨA ĐÔI, TÌNH DỤC VÀ ĐỊNH HƯỚNG TÌNH DỤC
1. Tình yêu lứa đôi
Tình yêu lứa đôi là một trong những tình cảm đằm thắm nhất của loài
người. Tất cả các nền văn hóa đều công nhận sự tồn tại của tình yêu, nhưng
biểu hiện tình yêu ở các nền văn hóa lại rất khác biệt nhau. Tuy nhiên vẫn có
những điểm chung. Đó là tình yêu bao gồm cả cảm xúc và hành động. Khi
một cá nhân yêu một ai đó, cá nhân ấy hành động theo cung cách của những
người đang yêu: vừa yêu vừa giận, vừa cảm thấy mềm lòng vừa không muốn
khoan nhượng, vừa muốn phụ thuộc vừa không muốn phụ thuộc, vừa thờ ơ
vừa quan tâm,... tóm lại là đầy mâu thuẫn trong ứng xử. Tình yêu thường
chứa đựng nhiều sóng gió và biến động. Hàng thế kỷ nay, các nhà triết học,
tâm lý học đã tìm cách định nghĩa tình yêu nhưng không thể đi đến thống
nhất. Một số nhà nghiên cứu cho rằng không thể nào có được định nghĩa tình
yêu (Fehr, 1988; Kelley, 1983). Bản chất của tình yêu cho đến nay vẫn chưa
được các nhà tâm lý học và xã hội học nghiên cứu đầy đủ. Họ mới chỉ nghiên
cứu bước đầu về quan hệ giữa tình yêu và tình dục, những biểu hiện của tình
yêu mà con người thể hiện.
a) Tình yêu lứa đôi và tình dục
Tình yêu lứa đôi và tình dục được coi là gắn bó chặt chẽ với nhau
(Aron và Aron, 1991). Trước đây, các nền văn hóa châu Âu, châu Á và những
người di cư sang châu Mỹ coi hôn nhân là khung cảnh duy nhất chấp nhận
được đối với tình dục. Hiện nay, quan niệm này đã bị thay đổi ở nhiều giai
tầng cộng đồng và lứa tuổi trong các nền văn hóa khác nhau. Một số rất ít coi
tình dục là vấn đề tách biệt hẳn khỏi tình yêu, một số khác cho rằng tình yêu
biện hộ cho tình dục trước và ngoài hôn nhân. Tuy nhiên, đây chỉ là quan
niệm của cá nhân chứ chưa phải là chuẩn mực cho nhóm xã hội hoặc một
cộng đồng xã hội. Trong quan hệ tình yêu và tình dục, cá nhân hành động
theo những chuẩn mực của bản thân và tự chịu trách nhiệm về hậu quả.
Tình yêu lứa đôi có thể có giữa những người khác giới (dị tính luyến
ái), người cùng giới (đồng tính luyến ái). Có một số rất ít người có thể có tình
yêu lứa đôi với cả hai giới (lưỡng tính luyến ái).
Có thể chia quan hệ giữa cá nhân với đối tượng tình yêu thành hai loại:
quan hệ tôi - người yêu và quan hệ tôi – đồ vật yêu. Trong quan hệ tôi - người
yêu, cá nhân coi đối tác là một nhân cách, coi trọng đối tác. Nhờ đó, nhân
cách và tính độc đáo của đối tượng được nâng lên tầm cao mới. Trong quan
hệ tôi – đồ vật yêu, đối tượng tình yêu bị đối xử như đồ vật. Đối tượng chỉ có
giá trị hữu ích như một người – đồ vật để cá nhân sử dụng.
Nam giới và nữ giới có những kỳ vọng khác nhau khi đã có quan hệ
tương đối thân mật. Thường thì nam giới có xu hướng tách tình dục khỏi cảm
xúc trong khi nữ giới thì lại mong tình dục gắn liền với tình cảm. Các nghiên
cứu thường xuyên chỉ ra rằng đối với nam giới, tình dục và tình yêu có thể
tách biệt (Blumstein và Schwartz, 1983; Carroll, Volk và Hyde, 1985;
Laumann và đồng nghiệp, 1994). Tuy nhiên, đối với nam giới, tình yêu trong
tình dục cũng rất quan trọng (Levine và Barbach, 1983).
Nữ giới thường có xu hướng xem xét tình dục dưới góc độ quan hệ tình
cảm. Mức độ tình cảm và chất lượng quan hệ đóng vai trò quan trọng đối với
phụ nữ khi quyết định quan hệ tình dục (Christopher và Cate, 1984). Thường
thì nữ giới không quan hệ tình dục nếu không yêu và yêu người có quan hệ
tình dục với mình (Peplau, Rubin và Hill, 1977).
Trong quan hệ yêu đương, khi nữ giới nói chung tìm kiếm quan hệ tình
cảm thì một số nam giới chủ động tìm kiếm quan hệ tình dục. Sự khác biệt dự
định này khiến cho phía nữ khổ sở, dằn vặt. Nêu đồng ý thì sau đó người đàn
ông sẽ bỏ rơi cô ta. Nếu không đồng ý thì người đàn ông có thể sẽ nói: "Anh
rất kính trọng em" và rồi cũng bỏ đi (Cassell, 1984).
Quan hệ giữa tình yêu và tình dục không có tính đồng hành. Một cá
nhân có thể yêu ai đó nhưng không nhất thiết có quan hệ tình dục với người
đó, và ngược lại.
b) Những biểu hiện thường gặp của tình yêu
Để có thể đưa ra những biểu hiện thường gặp của tình yêu, Beverly
Fehr (1988) đã yêu cầu 172 người liệt kê những nét đặc trưng của tình yêu.
Sau đây là 12 nét đặc trưng được nhắc đến nhiều nhất:
1. Tin cậy lẫn nhau
2. Chăm sóc
3. Trung thực
4. Là bạn của nhau
5. Kính trọng nhau
6. Quan tâm đến sự yên ổn của nhau
7. Nghe lời nhau
8. Trung thành
9. Chấp nhận nhau như vốn có
10. Ủng hộ nhau
11. Muốn ở cạnh nhau
12. Quan tâm lẫn nhau
Những đặc trưng này được biểu hiện qua thái độ và ứng xử (Kelley,
1983). Zick Rubin (1973) cho rằng có bốn tình cảm giúp con người nhận biết
tình yêu:
- Quan tâm chăm sóc người mình yêu: mong muốn giúp đỡ người mình
yêu.
- Cần đến người mình yêu: có khát vọng mãnh liệt được ở bên cạnh
người mình yêu và được người mình yêu chăm sóc.
- Tin tưởng vào người mình yêu: trao đổi, tâm sự với nhau.
- Khoan dung, độ lượng với người mình yêu: độ lượng với cả sai lầm
và khuyết điểm của người mình yêu.
Trong bốn tình cảm này, quan tâm chăm sóc là quan trọng nhất, sau đó
là cần đến người mình yêu, tin tưởng và khoan dung độ lượng (Steck,
Levitan, McLane và Kelley, 1982). Ngoài ra còn có các tình cảm nội tâm khác
như hăng hái, lạc quan và vui vẻ. Người đang yêu cảm thấy hài hòa và thống
nhất với người mình yêu. Họ quan tâm nhiều hơn đến người khác và cảm
thấy toàn tâm toàn ý với người yêu.
Tình yêu cũng được biểu hiện trong một số ứng xử đặc trưng. Một
nghiên cứu cho thấy tình yêu có thể được biểu hiện bằng nhiều cách
(Swensen, 1972). Biểu hiện tình yêu thường chồng chéo với suy tư về nó.