Top Banner
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM -----oOo----- NGUYỄN TIẾN LONG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Chuyên ngành : Tài chính Doanh nghiệp Mã số : 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS – TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH Thành phố Hồ Chí Minh Năm 2008
115

QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

Aug 29, 2019

Download

Documents

hoangthuy
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

-----����oOo����-----

NGUYỄN TIẾN LONG

QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính Doanh nghiệp Mã số : 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học:

PGS – TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH

Thành phố Hồ Chí Minh Năm 2008

Page 2: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu, khảo sát và thực hiện của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.

TÁC GIẢ

NGUYỄN TIẾN LONG

Page 3: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN TỔNG QUAN ............................................................. 3

1.1 Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. ... 3

1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại: .......... 3

1.2.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.... 4

1.2.1.1 Rủi ro tín dụng ................................................................................ 4

1.2.1.2 Rủi ro thanh khoản.......................................................................... 4

1.2.1.3 Rủi ro thị trường ............................................................................. 5

1.2.1.4 Rủi ro tác nghiệp............................................................................. 6

1.2.2 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: .......... 7

1.2.2.1 Những nguyên nhân khách quan..................................................... 7

1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng của ngân hàng................. 7

1.2.2.3 Nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân ngân hàng .......................... 8

1.2.3 Hậu quả rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM................... 8

1.2.3.1 Hậu quả của rủi ro đối với ngân hàng............................................ 8

1.2.3.2 Hậu quả của rủi ro đối với khách hàng .......................................... 9

1.2.3.3 Hậu quả của rủi ro đối với nền kinh tế ......................................... 10

1.3 Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM. .... 11

1.3.1. Quản lý rủi ro và quản trị rủi ro ....................................................... 11

1.3.2 Năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại. ...................... 13

1.3.3 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị rủi ro của NHTM. ........... 15

1.3.3.1 Các chỉ tiêu định lượng................................................................. 15

1.3.3.2. Các chỉ tiêu định tính ................................................................... 18

1.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng ... 20

1.4.1 Xuất phát từ đặc điểm và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh

doanh của ngân hàng thương mại.............................................................. 20

1.4.2 Năng lực quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. ............................. 21

Page 4: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

1.4.3 Xu thế hội nhập quốc tế và tòan cầu hóa đòi hỏi phải nâng cao năng

lực quản trị rủi ro. ....................................................................................... 21

1.5 Khủng hoảng kinh tế tài chính tòan cầu và những cảnh báo cho hệ

thống ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................... 22

1.5.1 Nợ dưới chuẩn – Hậu quả của sản phẩm tài chính hiện đại nhưng

nhiều rủi ro .................................................................................................. 22

1.5.2 Hạn chế dư chấn của “Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn Mỹ” đến

thị trường tài chính quốc tế......................................................................... 24

1.5.3 Bài học cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam .......................... 26

CHƯƠNG II: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

VIỆT NAM .......................................................................................................... 28

2.1 Thực trạng hoạt động Ngân hàng thương mại Việt Nam.................... 28

2.1.1 Quy mô tăng vốn ................................................................................. 28

2.1.2 Tình hình huy động vốn ..................................................................... 29

2.1.3 Thực trạng rủi ro trong kinh doanh NHTM Việt Nam ................... 31

2.1.3.1 Rủi ro tín dụng .............................................................................. 31

2.1.3.2 Rủi ro ngoại hối (Rủi ro thị trường) ............................................. 40

2.1.3.3 Rủi ro lãi suất (Rủi ro thị trường)................................................. 46

2.1.3.4 Rủi ro thanh khoản....................................................................... 49

2.1.3.5 Rủi ro tác nghiệp........................................................................... 54

2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động

kinh doanh của ngân hàng thương mại. ....................................................... 57

2.2.1 Chất lượng nguồn nhân lực: ............................................................. 57

2.2.2 Năng lực tài chính của ngân hàng: ................................................... 58

2.2.3 Quy mô vốn chủ sở hữu: .................................................................... 58

2.2.4 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:................................................................. 58

2.2.5 Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ của ngân hàng ......... 59

2.2.6 Môi trường kinh tế xã hội và kinh doanh.......................................... 60

2.3 Những thách thức đối với ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều

kiện hiện nay ................................................................................................... 61

2.3.1 Về hành lang pháp lý.......................................................................... 61

Page 5: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

2.3.2 Về khả năng cạnh tranh ..................................................................... 63

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP GIA TĂNG HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO 65

TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM .......................... 65

3.1 Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại.......................................... 65

3.1.1 Giải quyết vấn đề vốn cho ngân hàng................................................ 65

- Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn. .............................................. 66

3.1.2 Thực hiện mô hình kiểm soát, dự đoán và định lượng rủi ro họat

động tín dụng. .............................................................................................. 69

3.1.3 Giải pháp đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ ............................. 72

3.1.4 Đối với nghiệp vụ thanh toán. ............................................................ 73

3.1.5 Đối với chính sách lãi suất ................................................................. 74

3.1.6 Công tác quản lý nhân lực và đào tạo cán bộ. .................................. 74

3.1.7 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng................................................... 76

3.2 Những đề xuất đối với NHNN Việt Nam.................................................. 78

3.2.1 Thực hịên quy định chung theo sự điều chỉnh của Basel II ............ 78

3.2.2 Phát huy sức mạnh tài chính cho các NHTM: ................................. 80

3.2.3 Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh ......................................... 81

PHẦN KẾT LUẬN: ........................................................................................... 88

PHỤ LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page 6: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NHTM Ngân hàng thương mại

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NHVN Ngân hàng Việt Nam

NHTMNN Ngân hàng thương mại Nhà nước

NHLD Ngân hàng liên doanh

WTO (World trade organision) Tổ chức Thương mại thế giới

NH Ngân hàng

TCTD Tổ chức tín dụng

NQH Nợ quá hạn

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ

Danh mục Trang

Sơ đồ 1.1 : Quy trình quản trị rủi ro ...................................................................12

Bảng 2.1 : Hệ số an toàn vốn của một số ngân hàng .........................................29

Bảng 2.2 : Tình hình huy động vốn của một số ngân hàng ...............................29

Bảng 2.3 : Tình hình tín dụng của một số ngân hàng ........................................30

Bảng 2.4 : Tóm tắt quá trình phát triển các công cụ tài chính phái sinh ...........62

Page 7: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam đang

trong quá trình đổi mới thích ứng với nền kinh tế thị trường, góp phần không nhỏ

trong việc tạo đà cho nền kinh tế quốc dân phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những

chuyển biến vượt bậc đó thì vấn đề rủi ro trong hệ thống NHTM Việt Nam cũng

đang diễn ra hết sức phức tạp, Ngân hàng dễ trở thành nạn nhân của nền kinh tế

thị trường khi không có những biệp pháp phòng ngừa hữu hiệu, những rủi ro

mang lại không chỉ là từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ hay do các

vụ lừa đảo mà còn bao gồm rất nhiều rủi ro từ thị trường như rủi ro về thanh

khoản, rủi ro về thị trường (lãi suất, tỷ giá hối đoái .v.v) . Trong năm 2007 Việt

Nam đã phải đối mặt với lạm phát tăng cao do những vấn đề như: nhập siêu, hiện

tương đầu cơ .v.v đã tác động tới ổn định hoạt động của các ngân hàng và các rủi

ro tiềm ẩn bắt đầu bộc lộ, mặt khác việc mở rộng mạng lưới hoạt động và tổ chức

đã làm cho các NHTM phải đối mặt nhiều hơn với các loại rủi ro trong hoạt động

và ở cấp độ quy mô ngày càng lớn. Tình hình đó đặt ra việc xác định được các rủi

ro tổng thể tiềm ẩn của hệ thống Ngân hàng để xử lý kịp thời. Do vậy để thực

hiện mục tiêu phát triển, an toàn và hiệu quả trong kinh doanh, việc nghiên cứu áp

dụng những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong họat động kinh doanh của các

NHTM Việt nam là vô cùng cần thiết. Chính vì nhận thức được vấn đề trên, đề tài

“Quản trị rủi ro trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam” được lựa chọn

nghiên cứu trong bối cảnh hiện tại.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hỗ trợ để tăng khả năng quản trị rủi ro

của các Ngân hàng thương mại

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề cơ bản của ngân hàng thương mại,

phân tích, đánh giá các rủi ro trong họat động của Ngân hàng thương mại, tìm ra

nguyên nhân các rủi ro từ đó đưa ra những giải pháp hỗ trợ để tăng khả năng quản

trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Page 8: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

2

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp lý thuyết suy luận logic, duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử, phân tích hoạt động kinh tế, toán học, thống kê, so sánh, đối

chiếu, các kinh nghiệm của bản thân và của các nhà nghiên cứu tài chính tiền tệ.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

Chương I: Lý luận tổng quan

Chương II: Quản trị rủi ro trong Ngân hàng thương mại Việt Nam

Chương III: Giải pháp gia tăng hiệu quả quản trị rủi ro trong hệ

thống Ngân hàng thương mại Việt Nam

Page 9: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

3

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN TỔNG QUAN

1.1 Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.

Luật của Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số

20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật các Tổ chức t ín dụng, tại điều 20 có nêu: “ Tổ chức tín dụng là doanh

nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp

luật để hoạt động ngân hàng.

Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động

ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan., theo tính chất và mục

tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng

phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại

hình ngân hàng khác

Đối với NHTM, theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP ban hành ngày 12/9/2000

về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại

là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh

doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh

tế của nhà nước. Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ

ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín

dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.

Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng phân tích, khai thác nội

dung của các định nghĩa đó, có thể hiểu các NHTM đều là những trung gian tài chính

mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của chúng là: Nhận tiền ký thác - tiền gửi

không kỳ hạn và có kỳ hạn - để làm phương tiện thanh toán và sử dụng vào các

nghiệp vụ cho vay duới nhiều hình thức khác nhau và thực hiện các dịch vụ kinh

doanh khác cho chính ngân hàng.

1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại:

Từ việc nghiên cứu về đặc điểm hoạt động kinh doanh của các NHTM nói

trên có thể nhận thấy rằng, rủi ro luôn gắn liền với từng nghiệp vụ trong hoạt động

của NHTM. Đa số các nhà kinh tế thống nhất với nhau quan niệm về rủi ro trong

Page 10: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

4

hoạt động kinh doanh của NHTM là “những biến cố không mong

đợi xảy ra và gây tổn thất đối với ngân hàng”. Mức độ và tính chất rủi ro khác nhau

sẽ gây ra những hậu quả không giống nhau song đều rất nguy hại bởi những tác

động đến uy tín của ngân hàng và khả năng lan truyền. Việc tìm hiểu về các loại rủi

ro, nguyên nhân và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh doanh sẽ trả lời cho

chúng ta câu hỏi tại sao phải quản trị và nâng cao năng lực quản trị rủi ro của

NHTM.

1.2.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể phân chia thành

nhiều loại tùy theo tiêu thức lựa chọn và mục đích nghiên cứu. Trong luận văn

này, rủi ro sẽ được phân chia và trình bày thành bốn loại bao gồm: (1) Rủi ro tín

dụng; (2) Rủi ro thanh khoản; (3) Rủi ro thị trường; và (4) Rủi ro tác nghiệp.

1.2.1.1 Rủi ro tín dụng

Là khả năng khách hàng (người đi vay) nhận khoản vốn vay nhưng không thể

hoàn trả vốn và lãi hoặc hoàn trả không đầy đủ các khoản vay và lãi cho NH, gây tổn

thất cho NH.

Rủi ro tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và phổ biến nhất xuất phát

từ đặc điểm của tín dụng ngân hàng như đã nêu trên đây và trên thực tế, hoạt động

tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của NHTM.

Về cơ bản, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vay vốn không có khả

năng chi trả lãi, chi trả nợ hoặc cả hai. Loại trừ một số ít khách hàng lừa đảo, đối

với đa số khách hàng dù tình hình sản xuất kinh doanh tốt, có tình hình tài chính

lành mạnh và thực thanh toán đầy đủ cho ngân hàng song vẫn có thể xảy ra những

tình huống bất khả kháng dẫn đến không thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Vì

vậy có thể cho rằng rủi ro tín dụng là khách quan, tồn tại song song với tín dụng

ngân hàng và cả NHTM chỉ có thể hạn chế và buộc chấp nhận rủi ro tín dụng ở

mức độ nhất định mà thôi.

1.2.1.2 Rủi ro thanh khoản

Là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực

tế vượt mức dự kiến, hay nói cách khác, ngân hàng không đáp ứng nhu cầu thanh

toán hay rút tiền của khách hàng. Khi khả năng thanh toán bị đe dọa, NHTM buộc

phải tìm kiếm nguồn và thường là gia tăng các khoản đi vay “nóng” với chi phí

Page 11: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

5

rất cao, đặc biệt ở những nơi mà thị trường tiền tệ chưa phát triển. Xét trên giác

độ lý thuyết, rủi ro thanh khoản cũng là điều tự nhiên luôn tiềm ẩn trong hoạt

động kinh doanh ngân hàng bởi lẽ độ thanh khoản của nguồn vốn (cầu thanh

khoản) bao giờ cũng cao hơn các khoản sử dụng vốn (cung thanh khoản). Tuy

nhiên, trên thực tế rủi ro thanh khoản thường ít xảy ra hơn hoặc cũng có thể được

giảm thiểu và “che lấp” bởi các hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.

Điều có thể thấy rất rõ là rủi ro thanh khoản và các loại rủi ro khác đều tác

động đến hoạt động ngân hàng một cách ở mức độ khác nhau và dù có thể bị thua

lỗ hay phá sản thì cũng “dần dần từng bước” do vậy các ngân hàng có thể có cơ

hội để khắc phục và cải thiện tình hình. Song rủi ro thanh khoản nếu xảy ra thì lại

là vấn đề rất nghiêm trọng, thậm chí là đặc biệt nghiệm trọng vì có thể dẫn đến sự

sụp đổ của NHTM trong “chốc lát” khi khách hàng ồ át đến rút tiền.

1.2.1.3 Rủi ro thị trường

Là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng khi có sự biến động không

lường trước của thị trường, bao gồm rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Lãi suất và tỷ

giá là những phạm trù khác nhau, và sự biến động của chúng cũng tác động không

giống nhau đến hoạt động ngân hàng. Trong khi lãi suất biến động thì làm thay

đổi thu nhập và chi phí, thì tỷ giá biến động sẽ làm thay đổi giá trị của tài sản và

nguồn vốn của ngân hàng. Song nếu xét ở giác độ nghiên cứu khác, hai phạm trù

này lại có những điểm giống nhau là luôn thay đổi trên thị trường phụ thuộc vào

các yếu tố cung – cầu về vốn và về ngoại tệ. Quan trọng hơn, việc xác định, đo

lường mức độ và các biện pháp để hạn chế rủi ro của lãi suất và tỷ giá là hoàn

toàn tương tự và đều phải thực hiện thông qua các nghiệp vụ phái sinh trên thị

trường tiền tệ hay thị trường ngoại hối.

Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lãi suất và tỷ giá luôn

được quản lý và duy trì cố định hay ít nhất là ổn định bởi Nhà nước, do vậy các

NHTM không phải lo lắng đến rủi ro lãi suất và tỷ giá. Trái lại, trong điều kiện

nền kinh tế thị trường với sự vận động rất linh hoạt và phức tạp của các luồng

vốn, lãi suất và tỷ giá luôn biến động và khó có thể dự báo. Lãi suất và tỷ giá biến

động theo chiều hướng khác nhau có thể dẫn đến các kết cục khác nhau đối với

các ngân hàng có trạng thái luồng tiền và trạng thái ngoại hối khác nhau. Một

ngân hàng được “hưởng lợi” từ sự biến động tăng của lãi suất hay tỷ giá thì sẽ lại

Page 12: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

6

bị “tổn thất” khi lãi suất hay tỷ giá giảm xuống. Xác suất thu được lợi ích và chịu

tổn thất đối với mỗi ngân hàng là bằng nhau và bằng 50%, song xét về bản chất,

lợi ích mà ngân hàng này có được lại chính là thiệt hại của ngân hàng khác. Do

vậy, các ngân hàng đều tập trung sự quan tâm vào khả năng gặp phải tổn thất có

nghĩa là không chấp nhận sai lầm, cũng từ lẽ đó mà rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá

được coi là điều hoàn toàn tự nhiên đối với các ngân hàng có trạng thái luồng tiền

và ngoại hối khác “mở” và các ngân hàng luôn phải hạn chế rủi ro loại này thông

qua việc đo lường xác định và thực thi các nghiệp vụ phái sinh để phòng và

chống.

1.2.1.4 Rủi ro tác nghiệp

Là những tổn thất xảy do những “trục trặc” trong quá trình vận hành các

hoạt động kinh doanh của NHTM như: Sai lệch về thông tin và xử lý thông tin,

bất hợp lý về quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ và sự phối hợp giữa các bộ phận

chức năng trong ngân hàng, v.v…

Thực ra rủi ro tác nghiệp đã xuất hiện từ lâu và luôn tiềm ẩn trong hoạt

động ngân hàng nhưng chỉ đến những năm gần đây mới được quan tâm nghiên

cứu đẩy đủ hơn. Như đã đề cập trên đây, các hoạt động kinh doanh của NHTM là

rất phức tạp và được thực hiện theo những quy trình và quy định rất chặt chẽ,

song cũng chính vì vậy mà những sai xót rất dễ xảy ra. Bất kỳ một sự bất cẩn hay

là non kém về mặt nghiệp vụ, thu thập xử lý thông tin thiếu chính xác và không

kịp thời của các bộ phận chức năng trong hệ thống đều có thể ảnh đến những

quyết định của giám đốc điều hành và toàn bộ các tác nghiệp tiếp theo.

Rủi ro tác nghiệp của các NHTM có xu hướng ngày càng gia tăng, trước

hết, do sự mở rộng quy mô, phạm vi và sự đa dạng hoá hoạt động kinh doanh;

mỗi ngân hàng thậm chí có thể trở thành các tập đoàn tài chính và là những công

ty đa quốc gia. Thêm nữa, môi trường kinh doanh cũng ngày càng phức tạp hơn,

áp lực công việc tăng do tốc độ và khối lượng giao dịch tăng, sự lệ thuộc vào kỹ

thuật và công nghệ nhiều hơn, v.v… Do vậy, các ngân hàng tiên tiến và có quy

mô lớn trên thế giới luôn nghiên cứu và tối ưu hoá quy trình tác nghiệp trên cơ sở

mô hình tổ chức phù hợp nhất đối với mỗi loại hình ngân hàng.

Page 13: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

7

1.2.2 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:

Rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể nảy sinh từ

những đặc điểm nội tại của hoạt động kinh doanh ngân hàng song cũng có thể

chịu ảnh hưởng từ những điều kiện và môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội.

Trên cơ sở đó, các chuyên gia tài chính ngân hàng đã phân chia nguyên nhân rủi

ro thành 3 nhóm như sau:

1.2.2.1 Những nguyên nhân khách quan.

Đây là những nguyên nhân xảy ra rủi ro như thảm hoạ tự nhiên (bảo lụt,

hạn hán, động đất, v.v…) hay những thay đổi về chính sách quản lý kinh tế – xã

hội của Chính phủ, gây thiệt hại khách hàng hoặc trực tiếp cho các ngân hàng.

Đặc điểm chung của nhóm nguyên nhân này là cả ngân hàng và khách hàng

không thể có bất kỳ hành động nào để hạn chế ngoài việc dự đoán, dự báo, dự

phòng và chịu đựng. Do vậy, các NHTM luôn phải chủ động dự phòng để khắc

phục hậu quả rủi ro là điều có ý nghĩa hơn cả.

1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng của ngân hàng

Bao gồm các cá nhân và doanh nghiệp, kể cả các NHTM và các định chế

tài chính khác. Khi các đối tượng khách hàng không thể hoặc không muốn thực

hiện những cam kết với ngân hàng thì ngân hàng sẽ phải chịu những tổn thất.

Trên thực tế, điều rất dễ nhận thấy là trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đời

sống của khách hàng là có thể gặp phải rủi ro và ít nhất thì một phần rủi ro đó sẽ

được “chia sẻ” hay “chuyển sang” cho ngân hàng. Nói cách khác NHTM cùng

phải chịu tổn thất từ những rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống

của khách hàng. Có thể nói phần lớn (trên 90%) khách hàng không thực hiện cam

kết vời ngân hàng vì bản thân họ gặp rủi ro. Ngoài ra, số ít hơn (dưới 5%) khách

hàng chủ động chối bỏ không thực hiện những cam kết vì những lợi ích nhất thời

nào đó và một số khách hàng (khoảng 3%) chủ động thực hiện những hành vi lừa

đảo đối với ngân hàng. So với nhóm nguyên nhân thứ nhất, nhóm nguyên nhân

này có thể được ngân hàng hạn chế ở mức độ nhất định thông qua việc thực hiện

các biện pháp hỗ trợ, tư vấn để khắc phục sự yếu kém về năng lực quản lý, kinh

nghiệm và trình độ công nghệ giúp khách hàng phòng tránh và hạn chế được chế

rủi ro sau khi đã tiến hành các biện pháp sàng lọc phân loại để loại bỏ những

khách hàng có hành vi hay động cơ không tốt.

Page 14: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

8

1.2.2.3 Nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân ngân hàng

Đối với tất các các ngân hàng trên thế giới, nhóm nguyên nhân này được

coi là quan trọng nhất vì khả năng phòng chống và hạn chế rủi ro phụ thuộc chủ

yếu bởi năng lực của ngân hàng. Có thể thấy rất rõ là từ sự hợp lý về chính sách

đến trình độ công nghệ và đạo đức nghề nghịêp của cán bộ công nhân viên làm

việc trong ngân hàng đều là các nhân tố tác động đến mức độ rủi ro của mỗi ngân

hàng. Các ngân hàng có trình độ công nghệ cao với chủng loại sản phẩm đa dạng

phong phú kết hợp với nguồn nhân lực có phẩm chất tốt luôn có mức độ rủi ro ở

mức thấp, thậm chí, ngay cả khi rủi ro đã xảy ra, các ngân hàng vẫn có thể hạn

chế hậu quả thông qua các biện pháp kinh tế và thị trường để giảm thiểu tổn thất

tài chính và uy tín.

1.2.3 Hậu quả rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM.

Rủi ro được định nghĩa là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng do vậy

khi rủi ro xảy ra đồng nghĩa với ngân hàng phải chịu đựng những tổn thất về tài

chính và uy tín. Điều đáng lưu ý là những tổn thất xảy ra không chỉ ảnh hưởng

đến bản thân ngân hàng mà còn có tác động xấu đến toàn bộ hệ thống ngân hàng

và nền kinh tế như một tổng thể. Chúng ta có thể khái quát về hậu quả của rủi ro

trong hoạt động kinh doanh của các NHTM như sau:

1.2.3.1 Hậu quả của rủi ro đối với ngân hàng

Hậu quả đối với ngân hàng ở mức độ thấp nhất là làm giảm thu nhập của

ngân hàng. Mỗi hoạt động kinh doanh của ngân hàng góp phần mang lại thu nhập

cho ngân hàng nhưng khi xuất hiện một loại rủi ro ở hoạt động nào đó, ngân hàng

không những không có thu nhập từ hoạt động tương ứng mà còn làm giảm thu

nhập từ các hoạt động khác. Ví dụ, nếu khách không trả nợ đúng hạn, sẽ dẫn đến

tình trạng tồn đọng vốn, ngân hàng không thể tiếp tục cho vay hoặc đầu tư, bên

cạnh đó ngân hàng còn phải bỏ ra một khoản chi phí đáng kể để phục vụ cho thu

hồi vốn, trích lập dự phòng rủi ro, và bù đắp v.v. … khi thu nhập chung của ngân

hàng giảm sút thì thu nhập của mỗi cán bộ công nhân viên cũng theo đó giảm

xuống, làm giảm động lực làm việc và quy cơ “ chảy máu chất xám” và rủi ro tác

nghiệp sẽ càng cao.

Ở mức độ tiếp theo sự giảm sút về thu nhập, hậu quả của rủi ro sẽ là sự hạn

chế khả năng tăng trưởng vốn, tác động xấu đến việc mở rộng quy mô hoạt động

Page 15: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

9

và khả năng áp dụng công nghệ và giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng.

Giống như tất cả các doanh nghiệp khác, tăng trưởng vốn được thực hiện thông

qua phân phối lợi nhuận. Khi rủi ro xảy ra lợi nhuận giảm thấp đến mức độ nhất

định thì tăng trưởng vốn của ngân hàng sẽ phải giảm, thậm chí có thể không có

tích luỹ.

Rủi ro cũng làm “tổn thương” đến uy tín và hình ảnh của ngân hàng. Các

ngân hàng với mức độ rủi ro cao sẽ mất dần lòng tin của các đối tượng khách

hàng, sự lo lắng bắt đầu xuất hiện và như hệ quả tất yếu, khách hàng sẽ rút tiền và

chuyển sang sử dụng dịch vụ của các ngân hàng khác có uy tín tốt hơn. Trong

hoàn cảnh đó, mặc dù rất nhiều những cố gắng như trả lãi suất cao và cung cấp

thêm các khoản khuyến mại, v.v…, cũng không thể giữ chân khách hàng, hoạt

động của ngân hàng sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn và tiếp tục đi xuống nếu

không có những cải cách mạnh mẽ, đột biến và chấp nhận những giá phải trả rất

đắt. Mức độ nghiêm trọng hơn, rủi ro đe doạ khả năng thanh toán của ngân hàng

và có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản. Các loại rủi ro xảy ra ở mức độ nhất định sẽ

làm giảm và đe doạ trực tiếp đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Rất nhiều

các ngân hàng của các nước trên thế giới kể cả Mỹ ngay trong năm 2008 đã cho

vay đầu tư vào chứng khoán, bất động sản, v.v… và khi những khoản vay này trở

nên khó được thu hồi, các ngân hàng này rơi vào tình trạng mất khả năng thanh

toán tiền gửi cho khách hàng, dẫn tới thua lỗ và bị phá sản.

Như vậy có thể nói rằng đối với các NHTM, rủi ro làm phát sinh rủi ro

không chỉ dẫn đến giảm thu nhập, sự thua lỗ mà còn có thể gây ra những thiệt hại

nghiêm trọng thậm chí có thể làm phá sản các NHTM. Song không dứng lại ở đó,

các đối tượng khách hàng của ngân hàng (dù có liên quan hay không đến việc xảy

ra rủi ro trong hoạt động ngân hàng) và toàn bộ nền kinh tế cũng phải gánh chịu

những hậu quả nhất định. Trong thời gian gần đây, rủi ro xảy ra đối với các ngân

hàng ở một số nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu, đã có phạm vi tác

động đến hệ thống tài chính và nền kinh tế của các nước khác và toàn cầu.

1.2.3.2 Hậu quả của rủi ro đối với khách hàng

Đối với tất cả khách hàng, cá nhân hay các doanh nghiệp, kể cả bản thân

các doanh nghiệp đang trì hoãn trả nợ cho ngân hàng đều phải chịu những tổn thất

từ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trước hết, các cá nhân và

Page 16: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

10

doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội tiếp cận với nguồn vốn cũng như các dịch vụ tiện

ích khác của ngân hàng. Trong trường hợp đó, khách hàng sẽ phải đi tìm kiếm

những nguồn vốn khác có thể làm tăng chi phí và giảm tính ổn định của quá trình

sản xuất kinh doanh. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở mức phải

xoá nợ, giãn nợ hay đảo nợ có thể tạo ra những tiền tệ xấu trong quan hệ với ngân

hàng. Kế hoạch và nguồn tài chính của khách hàng bị đột ngột thay đổi, khách

hàng mất chủ động về trong việc thực hiện các hợp đồng kinh tế và các nghĩa vụ

tài chính với đối tác bạn hàng, uy tín và hình ảnh của những doanh nghiệp cũng bị

giảm sút. Còn trong trường hợp ngân hàng phá sản, các doanh nghiệp sẽ mất vốn

tiền gửi và thậm chí có thể chịu chung số phận, phá sản theo.

1.2.3.3 Hậu quả của rủi ro đối với nền kinh tế

Biểu hiện đầu tiên về hậu quả của rủi ro là sự tổn thất chung của toàn bộ

nền kinh tế do tốc độ chu chuyển hàng hóa và tiền tệ giảm. Như đã phân tích trên

đây, khi rủi ro xảy ra, cả ngân hàng và khách hàng – các cá nhân, doanh nghiệp và

toàn bộ nền kinh tế đều bị thiệt hại về nhiều mặt. Trên giác độ lý thuyết có thể

thấy rằng rủi ro trong hoạt động ngân hàng không chỉ làm tăng chi phí sản xuất và

lưu thông hàng hoá mà còn gây ra những hiệu ứng tiêu cực đối với quá trình sản

xuất kinh doanh, cung – cầu hàng hóa và cuối cùng là làm mất đi sự ốn định và

khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Trên thực tế ở rất nhiều nước trên thế giới,

khi các ngân hàng gặp phải rủi ro thì hàng loạt các vấn đề kinh tế - xã hội đã nảy

sinh và những giải pháp nhằm ổn định tình hình bao giờ cũng rất tốn kém và hậu

quả có thể còn để lại những di chứng trong thời gian dài, đặc biệt về mặt tâm lý

và lòng tin của công chúng. Ngoài ra, hậu quả của rủi ro còn gây ra làm giảm thấp

uy tín quốc gia, khả năng thu hút vốn nước ngoài và các quan hệ kinh tế đối ngoại

khác đều phải chịu những điều kiện khó khăn hơn.

Tóm lại, rủi ro tất yếu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng trong khi đó

hậu quả rủi ro thực sự rất nguy hiểm nghiêm trọng đối với tất cả các chủ thể,

không chỉ trên giác độ tài chính mà còn tác động đến tất cả các mặt kinh tế –

chính trị – xã hội của nền kinh tế. Tùy theo mức độ phát triển, mở cửa và hội nhập

của nền kinh tế, hậu quả của rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn có thể nghiêm

trọng hơn về mức độ và hành vi ảnh hưởng có thể không phải chỉ dừng lại ở một

quốc gia. Những phân tích trên đây cho thấy lý do tại sao các NHTM thành công

Page 17: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

11

luôn phải giành sự ưu tiên thỏa đáng cho vấn đề quản trị rủi ro song song với việc

nghiên cứu phát triển hoạt động kinh doanh.

1.3 Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM.

1.3.1. Quản lý rủi ro và quản trị rủi ro

Về mặt thuật ngữ, “quản lý rủi ro” và “quản trị rủi ro” đôi khi vẫn được sử

dụng thay thế cho nhau, không có phân biệt một cách rõ ràng, thậm chí một số

người cho rằng quản lý và quản trị rủi ro thực chất là một. Trên thực tế, trong hoạt

động kinh doanh của NHTM, mặc dù có cùng mục tiêu là tối thiểu hóa tổn thất,

đảm bảo an toàn và hiệu quả song quản lý rủi ro và quản trị rủi ro vẫn có sự khác

biệt về cách tiếp cận và về cấp độ quản lý.

Quản lý rủi ro là việc sử dụng các công cụ, biện pháp, quy trình cần thiết

trong các hoạt động kinh doanh cụ thể nhằm hạn chế tối đa khả năng xảy ra tổn

thất cho NHTM. Như vậy, xét ở giác độ ngân hàng, để đạt được mục tiêu quản lý

rủi ro, các ngân hàng chỉ cần né tránh rủi ro thông qua lựa chọn khách hàng giao

dịch với những điều kiện và yêu cầu cao hơn hoặc chỉ lựa chọn những danh mục

đầu tư an toàn hơn. Nghiên cứu trên giác độ quản lý nhà nước, quản lý rủi ro có

thể được thực hiện thông qua các quy định chặt chẽ về hoạt động kinh doanh của

các ngân hàng, khống chế giới hạn hoạt động ngân hàng trong vùng được cho là

an toàn và hiệu quả.

Quản trị rủi ro mạnh mẽ và hiệu quả hơn quản lý rủi ro thông qua việc chủ

động chấp nhận và kiểm sóat rủi ro ở mức độ nhất định trong mối quan hệ với thu

nhập quản trị rủi ro là việc sử dụng hệ thống các biện pháp xác định và đo lường

rủi ro, lựa chọn và chấp nhận rủi ro, quản lý và kiểm soát rủi ro để thực hiện các

quyết định kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu về hiệu quả và an toàn. Như

vậy nội dung và quy trình quản trị rủi ro bao gồm các bước có thể được phác họa

theo sơ đồ sau:

Page 18: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

12

Sơ đồ 1.1 : Quy trình quản trị rủi ro

Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đi kèm với rủi ro vì vậy cách tiếp

cận của quản lý rủi ro theo định hướng không chấp nhận những tài sản rủi ro, chỉ

lựa chọn những hoạt động kinh doanh của ngân hàng ở trạng thái rủi ro không thể

xảy ra là không phù hợp, không tiếp cận với tất cả các đối tượng khách hàng.

Quản lý rủi ro trên cả giác độ ngân hàng hay quản lý Nhà nước như trên đều rất

phức tạp và đòi hỏi trình độ rất cao. Quản lý rủi ro rõ ràng là chưa đủ đối với hoạt

động kinh doanh ngân hàng trong điều kịên và sự phát triển của nền kinh tế thị

trường hiện đại, mở cửa các nước nói chung hiện nay.

Quản trị rủi ro cho phép hoạt động của NHTM hoàn tòan chủ động và mang

tính tích cực, dựa trên nguyên tắc đánh đổi giữa rủi ro và thu nhập, ngân hàng sẽ

lựa chọn một cách khoa học tập hợp các hoạt động kinh doanh với khả năng xảy ra

rủi ro ở mức độ và phạm vi nhất định kèm theo những biện pháp quản lý và kiểm

sóat mức tổn thất khi rủi ro xảy ra nhằm đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng,

Cấp độ quản trị rủi ro cũng ở mức cao hơn: không chỉ là những công cụ,

biện pháp quản lý nhằm hạn chế rủi ro mà còn bao gồm cả những hoạt động góp

phần nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro như: Nhận biết trước về các loại rủi ro có

Nhận biết và xác định rủi ro

Phân tích đo lường rủi ro

Lựa chọn về mức độ và phạm vi tác động

của rủi ro

Kiểm soát và quản lý rủi ro

Báo cáo đánh giá về quản trị

rủi ro

Page 19: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

13

thể xảy ra, đo lường, phân tích rủi ro và thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro.

Nói một cách ngắn gọn, quản trị rủi ro bao hàm cả quản lý rủi ro, nâng cao hiệu

quả hoạt động cho ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng đạt được lợi nhuận cao trong

kinh doanh.

Thực tế cho thấy những ngân hàng nào có khả năng chủ động chấp nhận

rủi ro, đo lường và phân tích chính xác mức độ rủi ro thì có thể chủ động trong

việc đưa ra các biện pháp quản lý và kiểm sóat rủi ro phù hợp, tăng cường khả

năng tiếp cận và dịch vụ với khách hàng, tăng khả năng và hiệu quả sử dụng vốn

cho nên có thể tồn tại và luôn phát triển bền vững. Những NHTM như vậy luôn

được đánh giá là có năng lực quản trị rủi ro tốt.

1.3.2 Năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại.

Về năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM và

những khái niệm khác nhau về vấn đề này còn vẫn chưa thống nhất. Phần lớn các

nhà quản trị cho rằng năng lực quản trị rủi ro được thể hiện thông qua hiệu quả

của việc kiểm soát rủi ro hay là hiệu quả của các biện pháp quản lý cụ thể trong

chiến lược của các nhà quản trị rủi ro. Quan niệm như vậy chưa thật sự rõ ràng và

thích hợp, đặc biệt trong liên hệ với nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực quản trị

rủi ro.

Dựa trên những yếu tố phân tích trên đây về quản trị rủi ro chúng ta sẽ cố

gắng xây dựng một quan niệm có thể dễ dàng được chấp nhận hơn về năng lực

quản trị rủi ro của NHTM theo quy trình và nội dung của quản trị rủi ro đã được

khái quát trên đây như sau:

Bước thứ nhất của quy trình quản trị rủi ro là “nhận biết và xác định”

được các loại rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải trong mỗi hoạt động kinh

doanh. Mặc dù là bước khởi đầu và không quá phức tạp song bước thứ nhất này

lại là điều kiện có nghĩa đối với mục tiêu và nội dung quản trị rủi ro. Ngân hàng

có khả năng nhận biết và xác định chính xác thì việc phân tích, đo lường, v.v…. ở

các bước tiếp theo mới thực sự có ý nghĩa và hiệu quả. Nhận biết và xác định rủi

ro đòi hỏi cán bộ không những phải có trình độ chuyên môn, tinh thầy trách

nhiệm mà còn cần có kinh nghiệm và sự thận trọng cần thiết để tập hợp được tất

cả các loại rủi ro có thể xảy ra và phân biệt chúng theo các tiêu thức khác nhau.

Page 20: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

14

Như vậy năng lực quản trị rủi ro trước hết phải bao hàm Năng lực nhận biết và

xác định rủi ro.

Bước thứ hai Trong quy trình quản trị rủi ro là “phân tích và đo lường rủi

ro”. Phân tích và đo lường rủi ro là điều mà tất cả các nhà quản trị ngân hàng đều

rất quan tâm, vì đo lường chính xác chính là cơ sở cho các quyết định lựa chọn

danh mục tài sản cùng các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và chấp nhận rủi ro

một cách chủ động và hiệu quả. Đo lường và phân tích rủi ro trong hoạt động của

ngân hàng cần phải đạt được 2 yếu tố cơ bản và quan trọng nhất bao gồm: (1) khả

năng hay xác suất gặp phải rủi ro; và (2) mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra. Bất kỳ

sai lệch (cao hơn hay thấp hơn) trong việc xác định khả năng và mức độ tổn thất

cũng đều làm mất đi tính chủ động và khả năng chấp nhận của ngân hàng gây

lãng phí và nghiêm trọng hơn khi tổn thất xảy ra trên thực tế lớn hơn mức đo

lường dự kiến. Do vậy, năng lực quản trị rủi ro của NHTM nhất thiết phải bao

gồm năng lực phân tích và đo lường rủi ro.

Bước thứ ba là “ quản lý và kiểm sóat rủi ro” sao cho tổn thất xảy ra nằm

trong khả năng chấp nhận để đảm bảo rằng việc thực hiện các hoạt động kinh

doanh sẽ luôn mang lại hiệu quả và thu nhập cho ngân hàng. Có hai vấn đề chính

phải cân nhắc để ra quyết định ở bước này là khả năng quản lý và kiểm soát rủi ro

trong quan hệ với khả năng chịu đựng tổn thất khi rủi ro xảy ra (mức dự phòng

hoặc thu nhập vượt trội kỳ vọng). Nếu không có khả năng quản lý và kiểm soát

tốt, tổn thất xảy ra có thể vượt quá khả năng chấp nhận thì ngân hàng vẫn có thể

gặp nguy hiểm. Cho nên, năng lực quản trị rủi ro là khả năng quản lý và kiểm

sóat của NHTM trên cơ sở đảm bảo thu nhập của ngân hàng.

Bước cuối cùng trong quy trình là “báo cáo và đánh giá về quản trị rủi ro

trên thực tế” thực sự là bước mang tính chất tổng kết và rút ra những bài học kinh

nghiệm sau mỗi giai đoạn hoạt động kinh doanh của NHTM. Trên cơ sở xác định

tổn thất xảy ra thực tế, đối chiếu với khả năng chấp nhận của một ngân hàng có

thể đưa ra nhận xét và kết luận về hoạt động quản trị rủi ro ngân hàng đó. Do vậy,

năng lực quản trị rủi ro còn bao gồm cả khả năng chấp nhận rủi ro của NHTM.

Báo cáo đánh giá một cách trung thực quy trình quản trị rủi ro góp phần hoàn

thiện và điều chỉnh các bước phân tích đo lường và các biện pháp quản lý, kiểm

sóat rủi ro ở giai đoạn tiếp theo.

Page 21: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

15

Tổng hợp lại, năng lực quản trị rủi ro của NHTM có thể được quan niệm là

khả năng của ngân hàng trong việc xác định và nhận biết, phân tích và đo

lường để chủ động chấp nhận và kiểm soát rủi ro nhằm đảm bảo lợi nhuận

trong hoạt động kinh doanh. Diễn đạt theo cách khác, nếu thừa nhận rằng rủi ro

gắn liền với hoạt động kinh doanh của NHTM thì năng lực quản trị rủi ro đồng

nghĩa với khả năng ngân hàng chủ động chấp nhận và xử lý hậu quả rủi ro một

cách có hiệu quả. Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của một

NHTM phải được đánh giá đồng thời qua tất cả các bước có liên quan chặt chẽ

trong toàn bộ quy trình quản trị rủi ro và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu

định tính và định lượng ở nội dung tiếp sau đây.

1.3.3 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị rủi ro của NHTM.

1.3.3.1 Các chỉ tiêu định lượng

Thứ nhất, nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận

Tỷ số mức sinh lời trên doanh thu = tổng lợi tức sau thuế / doanh thu thuần

(Chỉ tiêu này nói lên 1$ doanh thu tại ra bao nhiêu $ lợi nhuận)

Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) = Lợi nhuận ròng *100/ tổng tài sản

(ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng)

Tỷ suất sinh lợi trên vốn thuần (ROE)= Lợi nhuận ròng*100 / vốn cổ phần

(ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số này đo lường khả

năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường.)

Các NHTM hiện đại và được đánh giá cao về khả năng quản trị rủi ro (10

ngân hàng đứng đầu trong các NHTM Mỹ năm 2002) luôn có tỷ suất lợi nhuận

trên vốn chủ sở hữu từ 15-18% (New Basel II, 2004).

Thứ hai, Nhóm chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán

Khả năng thanh toán ngay = Tài sản có thể thanh toán ngay / tài sản nợ đến

hạn thanh toán ngay. Đối với 01 số ngân hàng thời gian tính khả năng thanh toán

ngay là 01 ngày (ACB, STB .v.v.)

Khả năng thanh toán chung = Tổng tài sản có có thể thanh toán/ Tổng nợ

phải thanh toán.

Vốn hữu dụng = Vốn huy động - DTBB - DT Sơ cấp (TMặt, TG NHNN)

Hệ số khả năng trả lãi = lợi tức trước thuế và lãi / chi phí trả lãi

(Hệ số này đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ)

Page 22: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

16

Thứ ba, nhóm chỉ tiêu về mức dự phòng rủi ro và tổn thất rủi ro thực tế.

Công thức tính số tiền dự phòng như sau:

R = max {0, (A-C)} x r

trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích

A: giá trị khoản nợ

C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết Định 493 quy

định đối với từng loại tài sản bảo đảm)

r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể

Số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ

trích lập dự phòng, mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài

sản bảo đảm sau khi được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị khoản nợ, thì

số tiền dự phòng cũng bằng không có nghĩa là tổ chức tín dụng trên thực tế không

phải lập dự phòng cho khoản nợ đó (Theo Quyết định 493 và quyết định số

18/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung các quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động tín

dụng).

Tỷ lệ nợ xấu = Nợ quá hạn >90 ngày + nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ/ Tổng

dư nợ. (tỷ lệ này càng thấp phản ảnh chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt )

Rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo xác suất nhất định

có nghĩa là một biến cố không chắc chắn, để đảm bảo khả năng chấp nhận rủi ro

các ngân hàng phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro căn cứ vào sự xác định và đo

lường mức độ rủi ro và thường được so sánh với dư nợ cho vay hay tổng sử dụng

vốn. Quy mô và tỷ trọng của quỹ dự phòng càng lớn khả năng chịu chấp nhận rủi

ro của ngân hàng được đánh giá là cao, song nếu dự phòng quá lớn sẽ ảnh hưởng

tới hiệu quả sử dụng vốn và phản ánh chiến lượng kinh doanh “chạy theo rủi ro

của ngân hàng”. Các NHTM trên thế giới xác định quỹ dự phòng trên cơ sở xác

suất xảy ra rủi ro của mỗi khoản mục tài sản cụ thể trong tổng tài sản có nguy cơ

rủi ro.

- Cơ cấu thời hạn và cơ cấu danh mục tài sản: Với một NHTM, cơ cấu

sử dụng vốn phần lớn sẽ là ngắn hạn, tỷ lệ sử dụng vốn trung và dài hạn không

nên vượt quá mức 30 -35% và việc duy trì tỷ lệ này cần căn cứ vào cơ cấu nguồn

vốn theo thời hạn.

Page 23: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

17

Về cơ cấu danh mục tài sản của ngân hàng cũng cần phải đảm bảo mức độ

đa dạng hóa nhất định. Tỷ trọng cho vay của các ngân hàng không quá 30% trên

tổng tài sản sinh lời vì cho vay là hoạt động rất rủi ro và sự tập trung quá mức sẽ

rất nguy hiểm cho hoạt động của ngân hàng. Sử dụng vốn của NHTM cần phải

phân bổ cả cho các hoạt động đầu tư (20 -25%), các hoạt động kinh doanh tiền tệ

(20 -25%) và cung cấp dịch vụ tiện ích và chăm sóc khách hàng. Những hoạt

động này không chỉ phản ánh sự đa dạng hóa, giảm thiểu rủi ro mà còn giúp ngân

hàng thâm nhập, tiếp cận sâu rộng với khách hàng và nền kinh tế.

- Cơ cấu thời hạn và cơ cấu khoản mục nguồn vốn: Cơ cấu thời hạn

nguồn vốn là nhân tố cơ bản quyết định cơ cấu thời hạn sử dụng vốn, đồng thời

cho biết về tính ổn định của nguồn vốn. Kết hợp nghiên cứu cơ cấu thời hạn, lập

bảng kê theo dõi thời hạn của các khoản mục nguồn vốn với khả năng tham gia

vào các hoạt động trên thị trường tiền tệ cho phép đánh giá năng lực quản trị rủi

ro thanh khoản một ngân hàng.

Tương tự như cơ cấu tài sản, sự đa dạng các khoản mục nguồn vốn phản

ánh khả năng và hiệu quả huy động vốn, đặc biệt là các hình thức huy động vốn

qua thị trường; vừa chủ động kịp thời mà chi phí vốn lại thấp.

- Cơ cấu của hoạt động ngân hàng bán buôn: Hoạt động ngân hàng bán

buôn giao dịch giữa các NHTM, các tổ chức tài chính khác kể cả ngân hàng

Trung ương với nhau. Hoạt động ngân hàng bán buôn phản ánh khả năng hoán

đổi tài sản cho nhau giữa các NHTM không chỉ đảm bảo thu nhập mà còn đảm

bảo khả năng kiểm soát về phạm vi và mức độ rủi ro của mọi ngân hàng qua đó

góp phần đảm bảo sự an toàn hiệu quả của cả hệ thống.

Các ngân hàng không bao giờ huy động sẵn một lượng tiền đủ lớn để chờ

đợi khách hàng đến vay, ngược lại sau khi cho vay cũng sẽ không cho thụ động

trông chờ khả năng thu nợ duy nhất từ khách hàng, kể cả việc phong tỏa tài sản

bảo đảm hay khởi kiện khách hàng. Trái lại, tham gia các hoạt động buôn bán và

kết hợp giữa các hoạt động buôn bán và bán lẻ, các ngân hàng sẽ luôn giao dịch

mua bán hay hoán đổi tài sản, nguồn vốn với nhau thông qua thị trường liên ngân

hàng để vừa có chi phí thấp, tổn thất rủi ro thấp tức là khả năng quản trị rủi ro

cao.

Page 24: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

18

1.3.3.2. Các chỉ tiêu định tính

Thứ nhất: Bộ phận chức năng quản trị rủi ro độc lập

Bộ phận quản trị rủi ro độc lập là điều kiện cần để thực hiện các nội dung

và quy trình quản trị rủi ro như đã trình bày trên đây một cách khách quan và hiệu

quả. Hơn nữa, ngoài khả năng hoạt động độc lập, bộ phận này còn phải bao gồm

những cán bộ được đào tạo cơ bản vừa có chuyên môn và kinh nghiệm về rủi ro

vừa có khả năng ứng dụng các công cụ toán học, tin học và công nghệ kinh doanh

ngân hàng hiện tại vào việc nhận biết và xác định một cách chính xác, đầy đủ kịp

thời các lọai rủi ro có thể phát sinh, xây dựng các mô hình phân tích và đánh giá

chính xác mức độ rủi ro. Trên cơ sở đó mới có thể khuyến cáo ban lãnh đạo ngân

hàng và các bộ phận chức năng khác lựa chọn và thực hiện các nghiệp vụ kinh

doanh cũng như các biện pháp kiểm soát phù hợp. Nhiều NHTM, hoạt động quản

trị rủi ro đã được thiết lập song lại do chính những cán bộ tín dụng thực hiện hoặc

đặt ở vị trí trực thuộc phòng tín dụng, cho nên, tình trạng “vừa thổi còi, vừa đá

bóng” là khó tránh khỏi. Để đạt doanh số cho vay cao trong hoạt động, đặc biệt

trong trường hợp khoán lương, một số loại rủi ro tiềm ẩn có thể bị xem nhẹ hoặc

dễ dàng bỏ qua một cách rất chủ quan để đạt mức khoán và lương cao. Hơn nữa,

rủi ro xảy ra trong tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho nên quản trị

rủi ro là hoạt động cần thiết đối với tất cả các hoạt động đó, không chỉ là đối với

riêng hoạt động tín dụng. Điều này cho thấy không thể đánh giá một ngân hàng có

năng lực quản trị cao khi vắng thiếu bộ phận chức năng quản trị rủi ro độc lập.

Biện pháp đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo chỉ tiêu này thông thường là xây

dựng thang chấm điểm cho các yếu tố cấu thành của bộ phận chức năng quản trị

rủi ro và mức độ khách quan, độc lập.

Thứ hai, chiến lược kinh doanh và chọn lựa rủi ro của ngân hàng

Chiến lược kinh doanh được cụ thể hóa bằng các chính sách, kế hoạch,

mục tiêu, định hướng và các văn bản khác có liên quan của ngân hàng . Thông

qua văn bản này, chúng ta có thể đánh giá về tính tính cực chủ động trong việc

thực hiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng và “thái độ” của ngân hàng đối với

rủi ro. Một NHTM với khả năng quản trị rủi ro yếu kém sẽ luôn tập trung vào

những hoạt động kinh doanh thông qua các nghiệp vụ và khách hàng “truyền

thống an toàn”. Việc lựa chọn hoạt động kinh doanh và khách hàng sẽ theo những

Page 25: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

19

nguyên tắc nhất định thường là an toàn hàng đầu, do vậy quy mô sẽ hạn chế, mức

dự phòng và dự trữ rất cao để mong được an toàn nhưng lại lãng phí và kém hiệu

quả do vậy kết cục thực tế lại là không an toàn. Trái lại, ngân hàng có năng lực

quản trị rủi ro cao sẽ luôn hướng tới những hoạt động kinh doanh đa dạng, sáng

tạo, sẵn sàng đáp ứng mọi đối tượng và cung cấp “trọn gói” các dịch vụ theo yêu

cầu của khách hàng, cho nên rủi ro lại là thấp.

Để đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo tiêu thức này, chúng ta cần xem

xét đến nội dung và tính đa dạng của chiến lược kinh doanh và quan điểm của

ngân hàng đối với rủi ro như: “Sợ hãi né tránh”, “chủ động chấp nhận”, hay quan

điểm khác.v.v. Ngoài ra, một chiến lược kinh doanh và quản trị rủi ro tốt không

chỉ dừng lại ở nội dung mà còn khả năng thực hiện, điều có nghĩa là tất cả cán bộ

công nhân viên của ngân hàng cần phải thấm nhuần về quan điểm và cùng chung

ý chí đối với quản trị rủi ro. Cách tốt nhất để đánh giá năng lực quản trị rủi ro

theo chi tiêu này cũng là thiết lập bảng hỏi và chấm điểm.

Thứ ba, khả năng thực hiện các biện pháp kiểm sóat rủi ro

Kiểm soát rủi ro để hạn chế tổn thất ở một mức độ nhất định nhỏ hơn thu

nhập kỳ vọng hay khả năng chịu đựng của ngân hàng. Điều có thể thấy rõ ràng là

việc nhận biết và xác định, phân tích và đánh giá chính xác về phạm vi và mức độ

rủi ro của bộ phận quản trị rủi ro nói trên chỉ thực sự có ý nghĩa khi NHTM có đủ

khả năng tiến hành những biện pháp để quản lý và kiểm soát rủi ro. Mỗi loại rủi

ro cần có những biện pháp và nghiệp vụ kiểm sóat riêng, do vậy để đánh giá năng

lực quản trị rủi ro theo chỉ tiêu này cần phải thông qua các biện pháp nghiệp vụ

mà ngân hàng đã áp dụng để kiểm soát rủi ro trên từng mặt hoạt động kinh doanh

tức là phải bao gồm: các biện pháp kiểm sóat rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản,

rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Cụ thể, khả năng thực hiện các biện pháp

kiểm soát rủi ro được thể hiện thông qua các chỉ tiêu bao gồm:

- Khả năng thực hiện các nghiệp vụ phái sinh để triệt tiêu rủi ro thị trường,

hóan đổi các hợp đồng tín dụng.

- Khả năng kiểm soát và thực hiện chuyển đổi kỳ hạn của các khoản mục

nguồn vốn và tài sản, trên cơ sở đó xác định chính xác cầu thanh khoản của khách

hàng và khả năng thanh tóan của ngân hàng.

Page 26: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

20

- Khả năng quản trị, điều hành và vận hành tác nghiệp của ngân hàng, tính

hợp lý trong bố trí lao động, chế độ đãi ngộ, môi trường làm việc cũng như quy

trình luân chuyển chứng từ, thủ tục hành chính để hạn chế rủi ro tác nghiệp.

Tương tự như hai nhóm chỉ tiêu trên, để đánh giá năng lực quản trị rủi ro

của NHTM qua nhóm chỉ tiêu này, chúng ta cần phải thiết lập một Bảng câu hỏi

về các nội dung bao gồm các loại rủi ro và các biện pháp kiểm sóat rồi áp dụng

thang điểm cho mỗi biện pháp cụ thể. Ngân hàng nhận được nhiều điểm thì càng

được đánh giá là có năng lực quản trị rủi ro cao.

1.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng

1.4.1 Xuất phát từ đặc điểm và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh

doanh của ngân hàng thương mại.

Hoạt động ngân hàng lại là tất yếu khách quan và hết sức cần thiết đối với

các chủ thể và với sự phát triển và ổn định chung của nền kinh tế. Cùng với sự

phát triển của nền kinh tế thị trường, các hoạt động ngân hàng ngày càng mở rộng

và phát triển làm cho các NHTM trở thành “ người bạn đồng hành” với cuộc sống

của người dân và các doanh nghiệp. Song, một khi tiến hành hoạt động kinh

doanh, NHTM luôn phải đương đầu với rủi ro, do vậy chấp nhận mở rộng và phát

triển hoạt động ngân hàng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận sự xuất hiện thêm

các loại rủi ro có thể xảy ra. Như đã chứng minh ở trên, cách chấp nhận tích cực

và hiệu quả nhất chính là thực hiện các biện pháp quản trị rủi ro.

Hiệu quả kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro xảy ra. Cùng

một doanh số hoạt động và mức doanh thu, nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh

doanh cao và ngược lại. Hoạt động trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các

NHTM không chỉ phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của bản thân

ngân hàng mà còn phải chấp nhận những yêu cầu chung như là “luật chơi” để

đảm bảo sự an toàn cho toàn bộ hệ thống. Nền kinh tế càng phát triển với mức độ

thị trường hóa càng cao, “sân chơi” càng bình đẳng thì bản lĩnh của mỗi ngân

hàng càng cần thiết phải được khẳng định. Trong xu thế đó, nếu không chú trọng

củng cố và nâng cao năng lực quản trị rủi ro, các NHTM không thể tồn tại và phát

triển một cách bền vững.

Page 27: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

21

1.4.2 Năng lực quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao

chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.

Giữa năng lực quản trị rủi ro và hiệu quả hoạt động kinh doanh có mối

quan hệ tác động thúc đẩy lẫn nhau. Hoạt động kinh doanh được mở rộng và phát

triển là điều kiện cần thiết cho việc nâng cao doanh thu và lợi nhuận của ngân

hàng. Do vậy, quản trị rủi ro tốt là điều kiện bảo đảm cho hiệu quả kinh doanh

của ngân hàng và nhờ vào hiệu quả kinh doanh cao, ngân hàng có điều kiện chú

trọng và củng cố năng lực quản trị rủi ro. Ngày nay, người ta coi quản trị rủi ro là

một nội dung của quản trị kinh doanh NHTM và là một yêu cầu đối với các cấp

lãnh đạo, những người chịu trách nhiệm quản trị và điều hành ngân hàng. Vì vậy,

nâng cao năng lực quản trị rủi ro có ý nghĩa quan trọng đối các cấp lãnh đạo,

những người chịu trách nhiệm quản trị và điều hành ngân hàng. Vì vậy, nâng cao

năng lực quản trị rủi ro có ý nghĩa quan trọng đối với nâng cao chất lượng quản trị

kinh doanh của các NHTM.

1.4.3 Xu thế hội nhập quốc tế và tòan cầu hóa đòi hỏi phải nâng cao

năng lực quản trị rủi ro.

Dù muốn hay không các nước vẫn phải chấp nhận xu thế hội nhập quốc tế

và toàn cầu hóa, chủ động hay bị “cuốn theo”, xét về kết quả cuối cùng thì không

khác nhiều. Trong bối cảnh đó, hội nhập về ngân hàng tài chính luôn được đặt ra

như là một vấn đề trọng tâm, hết sức quan trọng và nhạy cảm. Khi tham gia hội

nhập, dù được diễn giải thế nào cuối cùng cũng là 2 vấn đề mà các ngân hàng

phải đương đầu với: (1) áp lực cạnh tranh ngày càng cao hơn cả về phạm vi và

mức độ, hoạt động kinh doanh trong môi trường tự do bình đẳng song với “luật

chơi” hà khắc hơn; (2) nguy cơ rủi ro cao hơn với những diễn biến phức tạp hơn.

Thứ nhất, hoạt động đầu tư, kinh doanh của các tổ chức tài chính không

còn bị giới hạn trong phạm vi quốc gia mà là đa ngành và toàn cầu. Do vậy, rủi ro

xảy ra nhiều hơn và tác động cũng trên phạm vi toàn cầu. Đây là một trong những

tác động không mong muốn của quá trình hội nhập kinh tế theo khu vực và xu thế

tòan cầu hóa.

Thứ hai, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng diễn ra quyết liệt hơn một

mặt do yêu cầu mở rộng quy mô hoạt động và sự bùng nổ thông tin, phát triển và

áp dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh với nhau.

Page 28: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

22

Thứ ba, các quy chế tài chính và các ràng buộc pháp lý được nới lỏng cho

nên các tổ chức tài chính có nhiều quyền chủ động hơn trong kinh doanh, do đó

hoạt động đầu tư tài chính và các dự án rủi ro cũng tăng theo.

Thứ tư, sự hình thành và phát triển của các công cụ tài chính và các công

cụ phát sinh (hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp

đồng hóan đổi) với tiến bộ khoa học công nghệ, thông tin và kỹ thuật đã làm tăng

khối lượng giao dịch tài chính trên toàn thế giới. Điều này là cho các tổ chức tài

chính phải đối phó với nhiều nguồn phát sinh rủi ro trên toàn cầu.

Thứ năm, sự biến động của các biến kinh tế vĩ mô như thu nhập, thất

nghiệp, lạm phát, tỷ giá hối đoái, .v.v .. và cuối cùng là những biến cố chính trị xã

hội trên phạm vi quốc tế tác động đến hoạt động ngân hàng tài chính và vì vậy

cũng là những nguyên nhân gây ra rủi ro.

Trong bối cảnh đó, việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các NHTM

không phải chỉ là vấn đề sống còn đối với cá nhân mỗi ngân hàng mà còn là yêu

cầu chung để đảm bảo an toàn cho cả hệ thống tài chính mỗi quốc gia, mỗi khu

vực và trên toàn cầu.

1.5 Khủng hoảng kinh tế tài chính tòan cầu và những cảnh báo cho hệ thống

ngân hàng thương mại Việt Nam

Vụ phá sản của Ngân hàng lehman Brothers, vụ mua lại Merrill Lynch và

nguy cơ sụp đổ của tập đoàn tài chínhBảo hiểm AIG đã làm rung rinh hệ thống

tài chính Mỹ và tác động của nó làm lung lay thị trường tài chính thế giới. Tất cả

đều được quy kết là do hậu quả của việc cho vay dưới chuẩn của thị trường Bất

động sản Mỹ. Vậy bài học gì có thẻ rút ra cho họat động của các Ngân hàng

thương mại Việt Nam?

1.5.1 Nợ dưới chuẩn – Hậu quả của sản phẩm tài chính hiện đại nhưng

nhiều rủi ro

Từ nhiều năm qua, các Ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách

tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Bắt nguồn từ

việc lo ngại sự sụp đổ của các công ty dotcom sẽ ảnh hưởng mạnh đến nền kinh

tế Mỹ hồi những năm 90, chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) lúc bấy giờ,

ông Alan Greenspan, đã tiến hành chiến dịch cắt giảm lãi suất xuống những mức

thấp kỷ lục để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Điều đó đã làm nảy sinh ra những

Page 29: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

23

dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng một lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay

rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Giả dụ rằng bạn đi

vay tiền và sau đó lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, bạn sẽ dễ dàng trong

việc định giá lại tài sản để tiếp tục một khoản vay mới nhằm chi trả cho các

khoản vay mà bạn phải trả. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như:

không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế * (tax

number – những công dân Mỹ, khi đăng ký thuế thu nhập cá nhân với Cục Thuế

Liên Bang sẽ được cấp mỗi người một mã số thuế trong suốt đời) mặc dù đang

trong tình trạng thất nghiệp, hoạt động cho vay này thực sự không đáp ứng đầy

đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng

rủi ro cho các Ngân hàng. Người vay tiền mua nhà sẽ cho vay để dùng tiền cho

thuê trả lãi vay cho Ngân hàng, và khi bất động sản tăng giá họ sẽ được hưởng

lợi. Về phía Ngân hàng, tuy hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các Ngân

hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi suất rất cao. Mặt khác, các công ty tài

chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro

qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một một sản phẩm tài chính gọi là “Mua

lại các khỏan nợ hay khoản phải thu”.

Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một mức

chiết khấu cao, Ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính chuyên biệt (goi là các

SPE) sẽ chứng khoán hóa các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng

khoán để vay tiền với mức lãi suất rất cao. Rõ ràng là rủi ro chồng rủi ro, và

đượng nhiên là các chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ

suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán không được xếp hạng tín nhiệm

nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng.

Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động

sản Mỹ và khi thị trường này đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây

chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi

vay, bất động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải

thu này sụt giá thê thảm, các Ngân hàng không đủ khả năng chi trả các khoản nợ

lâm vào tình trạng phá sản.

Page 30: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

24

Sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro này chính là nguyên nhân

cho cuộc khủng hoảng tài chính cho vay dưới chuẩn mà nước Mỹ đang phải

đương đầu.

1.5.2 Hạn chế dư chấn của “Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn Mỹ” đến

thị trường tài chính quốc tế

Số phận của Lehman Brothers sau cuộc đàm phán thất bại với Ngân hàng

Phát triển Hàn quốc là tâm điểm của giới tài chính phố Wall. Giá cổ phiếu sụt

giảm hơn 40% trong 1 ngày, và khoản lỗ gần 7 tỷ USD từ hoạt động đầu tư bất

động sản đã khiến tài sản của ngân hàng này giảm từ 700 tỷ USD xuống còn xấp

xỉ 50 tỷ, không thể thanh toán các khoản nợ và phải tuyên bố phá sản. Sự kiện

này cùng với việc bị mua lại của Merrill Lynch, và sự khủng hoảng của AIG đã

khiến chỉ số Dow Jones rớt tới 3% trong ngày giao dịch sau đó, thị trường chứng

khoán Châu Á và Châu Âu rớt từ 3 -5%. Và sự việc sẽ không dừng lại ở đó nếu

ngày 17/9, FED không công bố bơm 85 tỷ USD để cứu Tập đoàn AIG. Nhiều

người cho rằng việc FED cứu AIG nhưng lai quay lưng với Lehman Brothers là

không thỏa đáng. Tuy nhiên FED vẫn có những lý do riêng của mình. FED cho

rằng sự sụp đổ của AIG có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng và dây chuyền đến

nền kinh tế Mỹ và các quốc gia khác do mối quan hệ phức tạp và ảnh hưởng của

nó đến rất nhiều cơ quan tài chính và bảo hiểm trên toàn thế giới. Ngay sau động

thái của FED, các chỉ số chứng khoán Mỹ đã tăng trở lại, có lúc đạt mức tăng hơn

1%. Thị trường chứng khoán Châu Á phần lớn cũng tăng trở lại với chỉ số Nikkei

của Tokyo tăng khoảng 1,2%, chỉ số MSCI Asia-Pacific Index tăng 0.9%. Kế

họach giải cứu nền tài chính Mỹ cũng đã được họach định vớii một ngân sách

khổng lồ hơn 700 tỷ USD nhằm cứu vãn nền tài chính phố Wall nhưng cũng

mang lại một khỏang trống khổng lồ trong ngân sách Mỹ. Và suốt trong tuần lễ

cuối tháng 9, gần như toàn bộ nền kinh tế Mỹ cũng như các chuyên gia kinh tế

toàn cầu đều tập trung mọi chú ý đến việc thỏa thuận gói tài trợ 700 tỷ USD cho

việc cứu trợ nền kinh tế Mỹ đang trong cơn khủng hoảng. Việc cứu trợ này được

xem là “ khẩn cấp”mặc dù vẫn còn nhiều nghi ngờ và tranh luận khác nhau về

mục đích của gói cứu trợ này. Một số nhà kinh tế phản đối và cho rằng việc can

thiệp của FED vào thị trường tài chính - tín dụng sẽ ảnh hưởng xấu tới nền kinh

tế Mỹ và thị trường tài chính trong dài hạn. Thậm chí, ứng viên Tổng Thống Mỹ ,

Page 31: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

25

Thượng nghị sĩ John McCain lại ủng hộ một kế hoạch khác là cung cấp bảo hiểm

cho những khoản tín dụng chưa được bảo hiểm thay cho kế hoạch mua lại các

khoản nợ xấu. Tuy nhiên, có thể thấy rằng gói “ cứu trợ” này rất cần thiết phải

được thông qua vì những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, Sự khủng hoảng và đổ vỡ của hệ thống các ngân hàng và công

ty tài chính sẽ không dừng lại nếu không nhận được sự ngăn chặn kịp thời.

Sau số phận của Lehman Brothers và Merrill Lynch là ngân hàng tiết kiệm

lớn nhất nước Mỹ là Washington Mutual Inc đã sụp đổ và bị Cơ quan Bảo hiểm

tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) tiếp quản. Ngân hàng này cũng sẽ phải bán các

khoản vốn huy động của mình lại cho JPMorgan Chase. Các ngân hàng UBS Citi,

Bear Steans, Morgan Stanley, Freddie Mac, Fannie Mae đều gánh chịu các khoản

lỗ nặng nề với tổng số lên tới hàng trăm tỷ USD. Và tiếp theo sau là các ngân

hàng lớn của Châu Âu như: Fortis của Bỉ, Bradford &BingleyPlc của Anh.

Thứ hai, cuộc khủng hoảng từ thị trường tài chính - tiền tệ sẽ tiếp tục ảnh

hưởng đến thị trường hàng hóa. Việc đổ vỡ và khó khăn của hàng loạt các ngân

hàng hàng đầu của Mỹ sẽ tạo một sức ép năng nề lên thị trường vốn cung cấp cho

hệ thống doanh nghiệp Mỹ, các MNC mà hoạt động của chúng mang tính toàn

cầu. Cuộc khủng hoảng này sẽ không dừng chân ở Mỹ mà sẽ lan rông đến nền

kinh tế thế giới.

Thứ ba, sự đổ vỡ hàng loạt của các Ngân hàng và công ty tài chính Mỹ sẽ

gây nên sự khủng hoảng niềm tin mang tính toàn cầu, điều này làm cho làn sóng

bán tháo chứng khoán trở nên lan rộng. Hàng loạt đối tác cung cấp vốn cho các

Ngân hàng và công ty tài chính kể cả các cổ đông của các tổ chức này có thể chịu

các khoản tổn thất nặng nề. Đặc biệt, việc thanh lý tài sản của các tổ chức này sẽ vô

cùng khó khăn và làm giá chứng khoán càng thêm suy giảm. Các nhà đầu tư nắm

giữ trái phiếu và cho vay hoặc các hợp đồng phái sinh sẽ chịu các khoản lỗ lớn.

Vậy, có thể thấy rằng việc cung cấp khoản tài trợ 700 tỷ USD của FED là

hết sức cần thiết cho việc hạn chế những dư chấn từ cơn bão khủng hoảng cho

vay dưới chuẩn đến thị trường tài chính thế giới.

Page 32: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

26

1.5.3 Bài học cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Từ cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn của Mỹ với những tác hại của nó

có thể rút ra những bài học rất hữu ích cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng

thương mại Việt Nam nói chung và hoạt động cho vay bất động sản nói riêng:

Thứ nhất, cần kiểm soát rủi ro của hoạt động cho vay bất động sản thông

qua tỷ lệ cho vay bất động sản tối đa trên tổng dư nơ. Có thể thấy rằng trong thời

gian qua, hoạt động cho vay bất động sản của các Ngân hàng thương mại Việt

Nam tuy có chặt chẽ ( vay phải có tài sản thế chấp, có chứng minh thu nhập, và tỷ

lệ cho vay bất động sản không lớn) nhưng vẫn có một số ngân hàng nhỏ xé rào

cần phải cảnh báo. Khi thị trường chứng khoán chựng lại, dòng vốn đầu tư

chuyển hướng sang Bất động sản có thể làm gia tăng nguy cơ này. Theo tinh thần

Basel II, các Ngân hàng nên tự thiết lập cho mình một tỷ lệ cho vay bất động sản

tối đa trên tổng dư nơ nhằm tự bảo vệ mình và bảo vệ cả hệ thống.

Thứ hai, cần có một tổ chức xếp hạng chuyên nghiệp và uy tín trong xếp

hạng tín nhiệm các loại chứng khoán, bao gồm cả chứng khoán vốn và chứng

khoán nợ. Để hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư , cần thiết phải có một tổ chức

xếp hạng chuyên nghiệp và uy tín trong xếp hạng tín nhiệm các loại chứng khoán.

Đặc biệt là trong quá trình phát triển của thị trường tài chính, các sản phẩm phái

sinh tín dụng như chứng khoán hóa các khoản phải thu sẽ xuất hiện trong tương

lai vì bên cạnh yếu tố rủi ro, sản phẩm này vẫn có những lợi ích không thể phủ

nhận như cải thiện dòng tiền của các DN, đẩy nhanh vòng quay các khoản phải

thu, chuyên nghiệp hóa việc thu tiền,…. Việc xếp hạng tín nhiệm sẽ là một kênh

thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư về mức độ rủi ro của loại chứng khoán này.

Thứ ba, cần lưu ý nguyên tắc của phân tích tín dụng là hướng vào rủi ro

thấp thay vì tiềm năng cao. Đối với hoạt động tín dụng dài hạn như cho vay đầu

tư bất động sản, đòi hỏi các nhà cung cấp tín dụng phải có những phân tích chi

tiết hơn và có tầm chiến lược dài hạn hơn. Phân tích tín dụng trong trường hợp

này bao gồm các dự án vay, dòng tiền và đặc biệt quan trọng là xác định độ lớn

của thu nhập ổn định (sustainable earning power). Đây là nguồn chủ yếu bảo

đảm cho khả năng thanh toán nợ trong dài hạn của người đi vay.

Page 33: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

27

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng, giữ cho mạch máu của nền

kinh tế được lưu thông, là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, chức năng hoạt

động đa dạng, các sản phẩm ngày càng đa dạng và phù hợp hơn đáp ứng nhu cầu

của khách hàng

Rủi ro trong họat động ngân hàng là rủi ro do những biến động trong quá

trình kinh doanh của ngân hàng nguyên nhân luôn có thể đến từ những yếu tố bất

khả kháng như thiên tai, bão lụt và cũng có thể là những nguyên nhân từ phía

khách hàng hay do chính bản thân ngân hàng mà hậu quả không chỉ dẫn đến giảm

thu nhập, sự thua lỗ mà còn có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng như có thể

làm phá sản các NHTM. thậm chí nó còn xảy ra phản ứng lan truyền gây ảnh

hưởng đến tòan bộ nền kinh tế

Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn đi liền với rủi ro, việc

không chấp nhận rủi ro là không phù hợp . Chủ động chấp nhận và kiểm sóat rủi

ro ở mức độ nhất định trong mối quan hệ với thu nhập , phân tích rủi ro và thực

hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro dựa trên nguyên tắc đánh đổi rủi ro với thu

nhập là mối quan tâm của Ngân hàng.

Page 34: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

28

CHƯƠNG II QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

2.1 Thực trạng hoạt động Ngân hàng thương mại Việt Nam.

2.1.1 Quy mô tăng vốn

Vốn của Ngân hàng thể hiện năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh. Ngân

hàng có vốn lớn thì khả năng cấp vốn lớn, có thể cải tiến công nghệ, phát triển

mạng lưới và cung cấp những sản phẩm dịch vụ tốt. Tuy nhiên vốn điều lệ của

các NHTM hiện nay còn quá nhỏ bé , vốn thấp, năng lực tài chính hạn chế, do đó

làm tình hình tài chính của một số NHTM không lành mạnh, rủi ro hoạt động cao

và năng lực cạnh tranh thấp. Để nâng cao khả năng tài chính cho các Ngân hàng,

NHNN đã ra Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp

định của các tổ chức tín dụng do Chính phủ ban hành, đối với ngân hàng TMCP,

mức vốn pháp định áp dụng cho đến cuối năm 2008 là 1.000 tỷ đồng và áp dụng

cho đến cuối năm 2010 là 3.000 tỷ đồng.

Theo quy định này thì rất nhiều ngân hàng TMCP đang phải gấp rút thực hiện

kế hoạch tăng vốn để đáp ứng đủ mức vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng như Ngân hàng Mỹ

Xuyên, vốn điều lệ hiện tại 500 tỷ đồng; Ngân hàng Gia Định vốn điều lệ 500 tỷ

đồng, Ngân hàng Đại Á 500 tỷ đồng, Ngân hàng Kiên Long 580 tỷ đồng …

Để bảo đảm an tòan họat động, theo định hướng quản lý rủi ro của Ngân

hàng Nhà nước một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất là quy mô về vốn mà

thước đo cơ bản chính là hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro,

Capital Adequacy Ratio – CAR) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài

chính của các ngân hàng. Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng của ngân

hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro

khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành.

Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, đến năm 2008, hệ số an toàn vốn

tối thiểu của các ngân hàng phải đạt 8%, theo tiêu chuẩn của Basel I do Ủy ban

giám sát các ngân hàng Basel ban hành. Tuy nhiên, trên thế giới, việc áp dụng hệ

số an toàn vốn tối thiểu hiện phổ biến theo tiêu chuẩn của Basal II với mức 12%.

Page 35: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

29

Bảng 2.1: Hệ số an toàn vốn của một số ngân hàng.

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Với quy mô vốn thấp và tỷ lệ an toàn vốn dưới mức thông lệ quốc tế như

hiện nay của ngân hàng thương mại Việt Nam, chúng ta đã bị hạn chế về khả

năng tín dụng, tài trợ cho hoạt động kinh doanh cũng gặp rất nhiều cản trở, khó

mở rộng phạm vi hoạt động và đổi mới công nghệ ngân hàng, và càng khó hơn

trong việc cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài ngay trên lãnh thổ Việt Nam.

2.1.2 Tình hình huy động vốn

Nhiều năm qua (trước 2007), môi trường kinh tế cùng với nền chính trị ổn

định, nền kinh tế phát triển một cách căn bản vững chắc và có chuyển hướng theo

chiều sâu, nền tài chính quốc gia ổn định, lạm phát được kiểm soát, tỷ giá tương

đối ổn định, đời sống người dân có chiều hướng được nâng cao, tỷ lệ tiết kiệm

ngày càng có xu hướng gia tăng mạnh . Sự phát triển của hệ thống ngân hàng đã

thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tạo ra môi trường mới và những kênh huy

động quan trọng cho phát triển kinh tế, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tăng cường

các hình thức huy động vốn với nhiều loại kỳ hạn khác nhau, mở rộng mạng lưới

huy động vốn và sử dụng nhiều hình thức đa dạng như phát hành trái phiếu, kỳ

phiếu ngân hàng. Tình hình huy động vốn của một số ngân hàng được thể hiện

qua hình bảng sau:

Hệ số an toàn vốn của một số ngân hàng tính đến cuối năm 2007 (đơn vị: %)

Vietcombank BIDV Agribank MHB ACB Sacombank EAB

(Đông á)

12 6,7 7,2 9,44 6,19 11,07 14,36

Page 36: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

30

Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn của một số ngân hàng 2006-2007 (tỷ đồng)

Chỉ tiêu BIDV Vietcom

bank

Agribank Sacom

bank

ACB MHB

Năm

2006 116.862 152.579 233.337 34.591 29.390 16.409

Năm

2007 243.055 159.528 305.671 55.692 55.283 25.129

Huy

động

vốn Tăng

trưởng

(%)

117 104 131 161 188 153

(Nguồn:Báo cáo thường niên năm 2006, 2007 của các ngân hàng BIDV, ACB Vietcombank, VietinBank, MHB, Agribank)

- Các NHTM với phương châm “ đi vay để cho vay” đã ngày càng chú

trọng đến việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, từ không kỳ hạn đến có

kỳ hạn với nhiều thời hạn khác nhau như chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm bằng VNĐ

và bằng ngoại tệ; tiết kiệm có bảo đảm giá trị theo vàng; Tiết kiệm kèm theo các

hình thức khuyến mãi như Du lịch, tặng tiền, dự thưởng; kỳ phiếu NHTM bằng

VNĐ và ngoại tệ ; trái phiếu NHTM, tiết kiệm xây dựng nhà ở . Hiện nay hầu hết

các ngân hàng đã thực hiện chuyển đổi công nghệ theo hướng hiện đại hoá gửi

tiền một nơi, lĩnh ở nhiều nơi, Ngân hàng Nhà nước đã phát triển kênh thanh toán

bù trừ, kênh chuyển tiền CITAD tại một số thành phố lớn đã giảm thời gian và

giảm phí chuyển tiền. Dù vậy 6 tháng đầu năm 2008 nền kinh tế có nhiều điều

kiện bất lợi, trên thị trường tài chính nguồn vốn trở nên khan hiếm nên cạnh tranh

trong hoạt động huy động vốn giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, 6

tháng đầu năm nay chúng ta đã chứng kiến những cuộc chạy đua lãi suất huy

động vốn giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam. Hiện nay mức lãi suất huy

động vốn cao nhất của các NHTM phổ biến ở mức 18,5%/năm đối với tiền gửi

bằng VND để bảo đảm khả năng thanh khoản.

Page 37: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

31

2.1.3 Thực trạng rủi ro trong kinh doanh NHTM Việt Nam

2.1.3.1 Rủi ro tín dụng

Phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng

Bảng 2.3: Tình hình tín dụng của một số NHTM (Đơn vị : Tỷ VNĐ)

BIDV Vietcom

bank

Agribank Sacom

bank

ACB MHB

Năm

2006 93.453 67.742 182.361 24.238 17.368 10.013

Năm

2007 125.596 97.531 246.188 35.378 31.974 13.925

Cho

vay

khách

hang

Tăng

trưởng

(%)

134 144 135 146 184 139

Nợ xấu

(%)

Năm

2007

3,98

2,66 1,9

0,24

0,44

1,11

Lợi

nhuận

sau

thuế

Năm

2007 1.155 2.397 4.515 1.280 1.531 138

(Nguồn:Báo cáo thường niên 2006, 2007 của các ngân hàng BIDV, Vietcombank, VietinBank, ACB, MHB, Agribank)

Dư nợ tín dụng tăng với tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân

khoảng 40%. Tuy nhiên, trong năm 2007 tốc độ tăng trưởng tín dụng các Ngân

hàng thương mại quốc doanh như BIDV,VIETCOMBANK .v.v có xu hướng

giảm so với các Ngân hàng cổ phần, ngược lại tốc độ tăng trưởng của các Ngân

hàng thương mại cổ phần khá tốt, điều này báo hiệu một sự cạnh tranh khá quyết

liệt trong hoạt động tín dụng.

- Khủng hoảng tài chính tại Mỹ tất nhiên có những tác động tới nền kinh tế

Việt Nam nói chung và tới hệ thống NHVN nói riêng điều thấy rõ nhất của tác

động này là các Ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài

khó khăn hơn, các hạn mức tín dụng mà các tổ chức tài chính nước ngoài dành

cho các Ngân hàng Việt Nam cũng đắt đỏ hơn. Bên cạnh đó, việc tìm đối tác

Page 38: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

32

chiến lược nước ngoài của các Ngân hàng Việt Nam (cả cổ phần lẫn quốc doanh)

cũng sẽ khó khăn hơn trước nhiều. Ngoài ra, các hoạt động hợp tác đầu tư tài

chính của các tổ chức nước ngoài với các ngân hàng Việt Nam cũng sẽ giảm so

với trước. Khi tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài khó khăn hơn, đắt đỏ hơn

thì đương nhiên là hoạt động cho vay sẽ bị ảnh hưởng

Các Ngân hàng thương mại cần nâng cao chất lượng các công cụ phục vụ

cho việc đánh giá cho vay đối khách hàng như cập nhật nhanh thông tin khách

hàng chính xác và hiệu quả, ứng dụng các phần mềm hiện đại cho việc phân tích

cho vay, … để từ đó giảm được rủi ro trong hoạt động tín dụng.

Về nợ xấu: Đến cuối 2007 tỷ lệ nợ xấu tại Ngân hàng đầu tư là 3,98%;

Sacombank là 0.24% và ACB là 0,18%. Điều này chứng tỏ vấn đề nợ xấu hiện

nay vẫn khiến ngành ngân hàng thấy cần tích cực và quan tâm hơn nữa trong công

tác thẩm định tín dụng, thu hồi nợ xấu. Nợ xấu được coi là căn bệnh phát sinh

nằm ngoài ý muốn của ngân hàng lẫn người đi vay, luôn xuất hiện ở bất cứ nơi

đâu có hoạt động vay – mượn diễn ra. Để nợ xấu của một ngân hàng bằng không

thì trên thực tế, điều đó khó có thể xảy ra. Nghĩa là chúng ta phải chấp nhận

chung sống và cố gắng kiểm soát, duy trì nợ xấu ở một mức độ hợp lý. Vì vậy, để

ngăn chặn nợ xấu và duy trì ở một mức độ cho phép thì chúng ta phải có cái nhìn

đúng đắn về nợ xấu, đặc biệt là không nên che dấu nó dưới bất cứ hình thức nào;

có như vậy chúng ta mới tìm ra được những phương thức hữu hiệu để điều trị nó,

đặc biệt là phòng tránh nó trước khi nó xảy ra. Nguyên nhân cơ bản tạo ra các

khoản nợ xấu đó cũng chính là do các khoản vay đã bị biến dạng dưới nhiều hình

thức khác nhau (gia hạn nợ nhiều lần, đảo nợ… ) nên mức độ “cảnh báo” và

“phòng ngừa trước” đối với những khoản tín dụng kém chất lượng cũng bị biến

dạng theo, tức là chúng ta luôn tự đặt nó vào diện trong hạn và coi đó là khoản tín

dụng lành mạnh. Bên cạnh đó, việc trích lập dự phòng đối với các khoản cho vay

giữa Việt Nam và quốc tế hiện đang còn tồn tại những điểm khác biệt. Cụ thể việc

trích lập dự phòng đối với các khoản cho vay theo thông lệ quốc tế chủ yếu là dựa

vào mức độ rủi ro của từng khoản cho vay để đưa ra một tỷ lệ trích lập dự phòng

tương xứng. Trong khi đó, Việt Nam lại dựa trên cơ sở về thời hạn qúa hạn của

từng khoản vay để trích lập dự phòng (nghĩa là xảy ra rồi mới trích). Chính vì

những khác biệt đó mà trong thời gian qua đã xảy ra hiện tượng “ lãi giả , lỗ thật”

Page 39: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

33

trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, đặc biệt là các NHTM quốc doanh

sau khi các Báo cáo tài chính của các ngân hàng này đã được kiểm toán quốc tế.

Hiện tượng “ lãi giả, lỗ thật” xảy ra bởi vì một số lý do cơ bản sau:

“Lãi” do phương pháp hạch toán kế toán theo thông lệ quốc tế (IAS ) khác

so với thông lệ hạch toán kế toán của Việt Nam (VAS) về trích lập dự phòng đối

với các khoản cho vay có vấn đề. Nếu hạch toán theo IAS thì các NHTM “Lỗ” do

nợ quá hạn cao (vì áp dụng phương pháp quốc tế chuyển NQH theo thông lệ quốc

tế), dẫn đến trích lập dự phòng trước cao, dẫn đến “Lỗ”. Ngược lại, khi phân tích

NQH và trích lập dự phòng theo phương pháp VAS thì hoạt động kinh doanh của

các NHTM đó lại “lãi” do tỷ lệ NQH thấp (chuyển NQH theo kiểu Việt Nam) dẫn

đến trích lập dự phòng trước thuế thấp và cuối cùng xảy ra hiện tượng “lãi” theo

phương pháp VAS.

Thực tế hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời

gian qua chưa tốt, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao là do các nguyên nhân chủ yếu sau:

- Các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa chấp hành nghiêm túc quy

chế tín dụng và điều kiện cho vay.

- Chính sách và quy trình cho vay của các NHTM còn lỏng lẻo, chưa chú

trọng đến phân tích khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc

phương pháp xem xét, phân tích còn hạn chế và chưa chính xác.

Cụ thể là những rủi ro phát sinh từ bên trong ngân hàng do cán bộ tín dụng

làm trái quy trình tín dụng để mưu lợi các nhân; hoặc định giá tài sản thế chấp

không đúng với giá trị thực tế do trình động nghiệp vụ kém hay do có sự thông

đồng với khách hàng hoặc do tài sản thế chấp bị mất giá (Ví dụ: Khi ngân hàng

thẩm định cho vay thì tài sản thế chấp đang giá cao điển hình là bất động sản cuối

năm 2007, thời điểm hiện tại 08/2008 giá giảm mạnh, khách hàng không trả được

nợ, lúc này ngân hàng xiết nợ nhưng không bán được do giá quá thấp hoặc không

có người mua, hoặc là tiền thu về thấp hơn so với số tiền cho vay); cán bộ tín

dụng trực tiếp thu nợ gốc và lãi nhưng không nộp lại cho ngân hàng mà dùng cho

mục đích cá nhân; hoặc lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, vay hộ, nhờ người vay

hộ, vay tiền ngân hàng chuyển cho công ty trách nhiệm hữu hạn gia đình.

Một dẫn chứng về rủi ro tín dụng tại ngân hàng Wasington Mutual, ngân

hàng tiết kiệm và cho vay lớn nhất nước Mỹ đã bị ảnh hưởng nặng nề trong cuộc

Page 40: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

34

khủng hỏang nhà đất và tín dụng tại Mỹ thời gian qua. Ngân hàng Wasington

Mutual có 307 tỷ USD tài sản vốn và 188 tỷ USD tiền gửi, giá cổ phiếu của ngân

hàng này liên tục sụt giảm trong thời gian qua, ngân hàng này có khả năng phải

bán lại cho ngân hàng JPMorgan.

Hiện nay hầu như nhiều ngân hàng thương mại khi phân tích cho vay đối

với một khách hàng chưa chú trọng đến việc đánh giá dòng tiền quay vốn của

doanh nghiệp mà chỉ chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, lợi nhuận hàng tháng, quý,

năm của doanh nghiệp nên đôi khi chưa thể phân tích chính xác khả năng trả nợ

đối với khách hàng trong từng thời kỳ hợp lý, nhất là đối với các khoản vay theo

hạn mức tín dụng xoay vòng dưới một năm. Chẳng hạn như khi một công ty vay

ngân hàng với hợp đồng trả lãi và 01 phần gốc là 03 tháng/lần nhưng vòng quay

vốn của công ty là 06 tháng do vậy đến tháng thứ ba là đúng thời gian phải trả lãi

+ gốc trong khi công ty chưa thể thu hối vốn để thanh tóan điều này đã làm cho

công ty không trả được nợ cho ngân hàng khi đến hạn. Có thể thấy rằng do cán bộ

tín dụng chưa chú trọng đến việc phân tích, tính toán điều kiện và khả năng trả nợ

đối với khách hàng trong khoảng thời gian hợp lý.

- Thiếu sót quy trình kiểm soát nhằm minh bạch thông tin tài chính .

Tính chính xác của các số liệu báo cáo cần phải được xem xét lại vì hiện

nay còn nhiều sơ hở trong quy định để các NHTM tận dụng, chế biến những con

số này theo mục đích của họ.

Vì vậy, rủi ro lớn nhất trong quản trị rủi ro tín dụng là chính chúng ta cũng

không kiểm soát nổi tình trạng nợ xấu tới mức nào và đã được cải thiện tới đâu.

- Về phía người vay nợ.

Nguyên nhân chủ quan là do năng lực điều hành của doanh nghiệp còn hạn

chế, thiếu thông tin thị trường và các đối tác, trong đó cũng phải kể đến việc thiếu

thiện chí trả nợ vay ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn, một số khách hàng lợi

dụng sự thay đổi lãi suất ngân hàng để trục lợi (Ví dụ khi vay vốn mức lãi suất

chỉ là 1% /tháng, khi lãi suất huy động lên tới khỏang 1,4 % tháng, mặc dù thời

điểm này khách hàng đã có tiền có thể trả nợ vay nhưng không trả mà đem gửi

vào ngân hàng để hưởng chênh lệch 0,4%/tháng)

Nguyên nhân khách quan xuất phát từ những tác động bên ngoài như thiên

tai, hoả hoạn, do sự ổn định của nền kinh tế chưa chắc chắn, chính sách quản lý

Page 41: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

35

kinh tế thay đổi đột ngột, do biến động thị trường trong và ngoài nước, do quan hệ

cung cầu hàng hoá thay đổi ...

Các biện pháp phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng hiện nay

Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả và bền vững, góp phần

tăng trưởng kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế. Gần đây, Ngân hàng nhà nước

đã ban hành một số văn bản liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm

ngăn ngừa và hạn chế rủi ro như:

- Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN Ngày 03 /02/ 2005 Thống đốc Ngân

hàng về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế cho vay của tổ chức tín

dụng đối với khách hàng thay thế Quyết định số 1627 / 2001 /QĐ –NHNN về việc

ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng. Việc sửa đổi quy chế

cho vay là do những thay đổi của điều kiện pháp lý và yêu cầu tiếp tục đổi mới

hoạt động tín dụng ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.

Bên cạnh đó, một số quy định của quyết định 1627 chưa phù hợp với yêu cầu

nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các TCTD, chưa phù hợp với

thông lệ và chuẩn mực quốc tế , chưa tạo cơ sở cho việc hạch toán, phản ánh đúng

chất lượng tín dụng. Theo Quyết định 127, đối với khoản nợ vay không trả nợ

đúng hạn, được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và

không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín

dụng đó là nợ quá hạn và tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ,

việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thoả thuận trên

cơ sở quy định của pháp luật. Tổ chức tín dụng phân loại toàn bộ số dư nợ gốc của

khách hàng vay có nợ quá hạn vào tài khoản cho vay thích hợp theo quy định của

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam... . Nhìn chung Quy chế cho vay mới phù hợp với

thông lệ quốc tế trên phương diện phân loại và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng,

đảm bảo phân loại khách hàng, giúp cho việc thu hồi vốn vay hiệu quả hơn. Đây là

một trong những bước đột phá căn bản nhất của ngành ngân hàng trên bước đường

thực hiện cam kết và lộ trình hội nhập quốc tế về hoạt động ngân hàng.

Tiếp theo Quyết Định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3 tháng 2 năm 2005

về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, NHNN Việt Nam đã

ban hành một loạt quyết định và chỉ thị nhằm mục đích nâng cao chất lượng tín

dụng và kiểm soát rủi ro, trong đó có Quyết Định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày

Page 42: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

36

22 tháng 4 năm 2005 và quyết định số 18/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung ban hành

quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng

trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Các nét chính của Quyết Định

493 như sau:

Theo Quyết Định 493, tất cả các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam

(trừ Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội) phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và

sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên,

khác với các quy định trước đây, Quyết Định 493 cho phép chi nhánh ngân hàng

nước ngoài tại Việt Nam được áp dụng chính sách trích lập dự phòng của ngân

hàng nước ngoài nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản.

Mục đích của việc sử dụng dự phòng là để bù đắp tổn thất đối với các

khoản nợ của tổ chức tín dụng.

Dự phòng rủi ro chỉ tính theo dư nợ gốc của khách hàng và được hạch toán

vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng.

Khái niệm "nợ" được định nghĩa rất rộng theo Quyết Định 493. Nợ không

chỉ bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, tái chiết khấu

thương phiếu và giấy tờ có giá khác, tiền trả thay cho người được bảo lãnh, mà

còn bao gồm các khoản ứng trước, thấu chi, các khoản bao thanh toán (một hình

thức cấp tín dụng mới được phép theo Quy chế bao thanh toán của các tổ chức tín

dụng ban hành kèm theo Quyết Định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004

của Thống Đốc NHNN) và "các hình thức tín dụng khác."

Theo Quyết định 493, các khoản cho vay bằng nguồn vốn tài trợ, uỷ thác

của bên thứ ba mà bên thứ ba cam kết chịu toàn bộ "trách nhiệm xử lý rủi ro" và

các khoản cho vay bằng nguồn vốn góp đồng tài trợ của tổ chức tín dụng khác mà

tổ chức tín dụng không chịu bất cứ rủi ro nào thì tổ chức tín dụng chỉ cần tiến

hành phân loại nợ mà không phải trích lập dự phòng rủi ro.

Quyết Định 493 yêu cầu trích lập hai loại dự phòng là dự phòng cụ thể và

dự phòng chung. Dự phòng cụ thể là loại dự phòng được trích lập trên cơ sở phân

loại cụ thể các khoản nợ mà hiện nay các tổ chức tín dụng đang thực hiện và được

quy định rõ hơn theo Quyết Định 493. Ngoài ra, Quyết Định 493 lần đầu tiên yêu

cầu tổ chức tín dụng lập dự phòng chung cho tất cả các khoản nợ của mình bằng

Page 43: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

37

0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 theo cách phân loại tại

Quyết Định 493.

Tổ chức tín dụng không phải là Ngân hàng thương mại Nhà nước phải thực

hiện ngay việc trích lập dự phòng cụ thể theo quy định tại Quyết Định 493, nhưng

chỉ phải trích lập đủ số tiền dự phòng chung trong thời gian 5 năm kể từ ngày

Quyết Định 493 có hiệu lực thi hành (ngày 15 tháng 5 năm 2005).

Đối với ngân hàng thương mại nhà nước, thời hạn trích lập đủ cả dự phòng

chung và dự phòng cụ thể sẽ được thực hiện theo quyết định của NHNN và Bộ

Tài Chính, nhưng thời hạn tối đa không quá 5 năm kể từ ngày Quyết Định 493 có

hiệu lực thi hành.

Phương pháp phân loại nợ và trích tập tự thòng

Ngoài cách phân loại nợ theo phương pháp "định lượng" tương tự như các

quy định trước đây, Quyết Định 493 còn cho phép các tổ chức tín dụng có đủ khả

năng và điều kiện được thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo

phương pháp "định tính" nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản.

Phương Pháp "Định Lượng"

Quyết Định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm:

• Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả

năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương

lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán;

• Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu

lại thời hạn trả nợ;

• Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180

ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày;

• Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và

nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; và

• Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ

cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.

Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại

nợ như trên, tổ chức tín dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất

kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu

đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.

Page 44: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

38

Phương Pháp "Định Tính"

Lần đầu tiên phương pháp "định tính" được Quyết Định 493 cho phép áp

dụng đối với tổ chức tín dụng đủ điều kiện. Theo phương pháp này, nợ cũng được

phân thành năm nhóm tương ứng như năm nhóm nợ theo cách phân loại nợ theo

phương pháp định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn

chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính

sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng được NHNN chấp thuận. Các nhóm nợ

bao gồm:

• Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu

hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn;

• Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi

đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ;

• Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả

năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn;

• Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất

cao; và

• Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không

còn khả năng thu hồi, mất vốn.

Cho dù được phân loại theo phương pháp nào, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ

thể đối với các nhóm nợ 1,2, 3, 4, và 5 lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%.

Việc thi hành các quy định mới sẽ yêu cầu phải có những thay đổi tại các

ngân hàng, chẳng hạn như đủ vốn chủ sở hữu và các nguồn vốn khác để trích lập

dự phòng cũng như các thay đổi liên quan đến cơ cấu tổ chức, nhân sự, hệ thống

thông tin và dữ liệu để quản lý nợ quá hạn. Việc thi hành các quy định mới cũng

đặt ra những yêu cầu đối với NHNN trong việc phát triển cơ cấu tổ chức và nhân

sự để đáp ứng các yêu cầu thực tế. Cụ thể, việc kiểm soát dựa trên đánh giá chất

lượng tài sản sẽ trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các thanh tra NHNN.

NHNN sẽ phải xây dựng một cơ chế kiểm tra và giám sát trong việc thực hiện

nhiệm vụ đánh giá đó.

Cuối cùng, vì chi phí phát sinh từ những thay đổi trên sẽ chuyển sang

khách hàng vay nên chi phí cho vay sẽ có thể tăng. Các ngân hàng cũng sẽ ưu tiên

cho việc cho vay có bảo đảm để giảm gánh nặng về dự phòng rủi ro.

Page 45: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

39

Ngòai ra NHNN còn ban hành một số văn bản sau

- Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/04/2005 yêu cầu các NHTM tuân

thủ đúng các quy định về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao

thanh toán và bảo đảm tiền vay, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả

năng huy động vốn, đảm bảo chú trọng đến công tác quản trị rủi ro, kiểm tra,

kiểm soát nội bộ

- Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005 của Thống đốc

NHNN sửa đổi bổ sung Quy chế cho vay của NHTM đối với khách hàng. Các nội

dung được sửa đổi quy định theo hướng trao nhiều quyền phán quyết hoặc tạo cơ

sở pháp lý cho TCTD chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh.

- Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 của Thống đốc

NHNN ban hành quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của

NHTM cụ thể là quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để

xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD.

- Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp định

của các tổ chức tín dụng do Chính phủ ban hành, đối với ngân hàng TMCP, mức

vốn pháp định áp dụng cho đến cuối năm 2008 là 1.000 tỷ đồng và áp dụng cho

đến cuối năm 2010 là 3.000 tỷ đồng.

- Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 01 năm 2007 của

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy

định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ban hành

kèm theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN, Quyết định số 1328/2005/QĐ-

NHNN ngày 06/9/2005 ban hành Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong

hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và các văn bản quy phạm pháp luật

khác có liên quan.

- Chỉ thị số 05/2008/CT-NHNN ngày 09/10/2008 của Thống đốc NHNN

Về một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ

chức tín dụng. Theo đó các NHTM cần theo dõi chặt chẽ diễn biến và dự báo về

ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng ở Mỹ đối với nền kinh tế,

thị trường tài chính thế giới và khả năng tác động đối với nền kinh tế, thị trường

tiền tệ và hoạt động Ngân hàng Việt Nam để chủ động thực hiện các biện pháp

nhằm ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra; Xây dựng phương án hoạt động kinh doanh,

Page 46: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

40

tiếp tục mở rộng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế với lãi

suất hợp lý, đồng thời phải đảm bảo khả năng thanh toán cho các nhu cầu chi trả,

nhất là dịp Tết dương lịch và Tết Nguyên đán năm 2009; Kiểm soát chặt chẽ chất

lượng tín dụng; trong đó, tiến hành phân tích, đánh giá, phân loại các khoản cho

vay kinh doanh bất động sản để có giải pháp phù hợp đối với từng đối tượng vay

vốn; tiếp tục tăng tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp nông thôn,

các dự án trọng điểm quốc gia, các nhu cầu vốn sản xuất có hiệu quả, chú trọng

mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa mà các khoản cho vay đó đáp

ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật và khả năng cân đối vốn của

tổ chức tín dụng.

- Một số văn bản của các Ngân hàng ban hành Hệ thống xếp hạng tín dụng

nội bộ nhằm hướng dẫn các mô hình chấm điểm và xếp hạng đối với các khách

hàng (Thông qua chỉ tiêu tài chính và phi tài chính => tổng hợp điểm tín dụng =>

xếp lọai từ AAA-AA- ..B.. - D).

2.1.3.2 Rủi ro ngoại hối (Rủi ro thị trường)

Phân tích, đánh giá rủi ro ngoại hối

Tỷ giá hối đoái giữa VND/các lọai ngọai tệ và sự biến động của nó không

chỉ là mối quan tâm trực tiếp của các doanh nghiệp xuất khẩu hay nhập khẩu, của

những người cho vay hay vay ngoại tệ của các NHTM. Trong họat động ngọai hối

nếu không có sự quản lý, kiểm sóat chặt chẽ và không có khả năng dự báo tốt thì

có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại.

Theo thống kê của thời báo kinh tế Việt Nam thì trong mấy năm trước tỷ

giá VND/USD thường khá ổn định, biến động thấp, năm 2004 tăng 0,4%, năm

2005 tăng 0,9%, năm 2006 tăng 1%, năm 2007 giảm 0,03% - bình quân thời kỳ

2004 - 2007 tăng 0,57%. Nếu tính bình quân năm sau so với năm trước thì năm

2004 tăng 1,57%, năm 2005 tăng 0,56%, năm 2006 tăng 0,95%, năm 2007 tăng 0,

62%. Tuy nhiên Bước sang năm 2008, tỷ giá VND/USD có sự biến động khác với

các năm trước. Sự khác nhau thể hiện ở một số điểm sau đây: Một là, biến động

nhiều hơn: giảm liên tục trong 3 tháng đầu, tăng liên tục trong 3 tháng sau. Nếu

trong 3 tháng đầu, người có USD muốn bán cũng rất khó bán, thì trong 3 tháng

sau, đặc biệt là tháng 6, người muốn mua USD cũng rất khó mua vì giá cao; Hai

là, chênh lệch giữa giá USD trên thị trường tự do và ở các NHTM lúc mang dấu

Page 47: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

41

âm, lúc mang dấu dương và chênh lệch khá lớn; Ba là, tỷ giá VND/USD tính theo

năm thì từ tháng 1 đến tháng 4 bị giảm, tháng 5, tháng 6 tăng, đặc biệt tháng 6

tăng cao. Đó là diễn biến tỷ giá VND/USD thời gian qua.

Một ví dụ minh họa thực tế về việc kinh doanh ngọai tệ tại Ngân hàng

Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 3 tháng lỗ 447,6 tỷ đồng. Kết

luận thanh tra về kinh doanh ngọai tệ tại Sở quản lý, kinh doanh vốn và ngọai tệ

(SQL) thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triện Nông thôn cho thấy : do sơ

hở trong quản lý, yếu kém trong quản lý điều hành của lãnh đạo và ý thức chấp

hành quy trình nghiệp vụ của cán bộ chưa nghiêm đã dẫn đến thua lỗ nghiêm

trọng. Chỉ tính trong 3 tháng cuối 2005, việc kinh doanh ngọai tệ tại đây đã thua

lỗ gần 500 tỷ đồng . Kết quả kinh doanh ngọai tệ của SQL đến 31/122004 cho

thấy SQL này có tổng thu 1163,2 tỷ đồng, tổng chi 1.663,1 tỷ đồng nghĩa là bị lỗ

tới 499,8 tỷ đồng. Riêng 3 tháng 10,11,12 số lỗ kinh doanh ngọai tệ của SQL

chiếm 98,9% tổng số lỗ cả năm 2004 với 447,6 tỷ đồng. Trong số này, họat động

kinh doanh của đồng EUR và USD lỗ tới 28,3 triệu USD.

Đặc biệt trong ngày 22 và 23/12/2004 có 2 giao dịch mua 30 triệu

EUR/giao dịch, ngày 24/12 có 04 giao dịch mua 30 triệu EUR/giao dịch, ngày

27/12 có 4 giao dịch mua 30 triệu EUR/giao dịch. Kết quả kiểm tra cho thấy các

giao dịch trực tiếp từ ngày 14/10 đến 31/10/2004 đều do 01 quan chức cao cấp

trực tiếp giao dịch trên máy hoặc chỉ đạo cán bộ phòng kinh doanh ngọai tệ giao

dịch. Các ông này trực tiếp ký tên trên phiếu giao dịch để hạch tóan cho hợp lệ,

còn quan chức cao cấp này trực tiếp ký tên với tư cách là người ký duyệt! như vậy

ở đây xảy ra tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” mà không cần giám sát (các

phiếu giao dịch không có chữ ký của kiểm sóat viên như quy định)

Về trạng thái ngọai tệ, bao gồm các giao dịch chuyển đổi ngọai tệ trong

nước và quốc tế, tại nhiều thời điểm trong tháng 12/2004, trang thái ngọai tệ của

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã vượt quá trạng thái giới hạn

cho phép theo quy định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Đồng

thời, SQL còn vi phạm chế độ báo cáo thống kê. Các báo cáo trạng thái ngọai tệ

của SQL gửi về NHNN Việt Nam không phản ánh chính xác trạng thái ngọai tệ

của Ngân hàng này, chính vì vậy, những dấu hiệu kinh doanh không bình thường

của SQL đã không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời.

Page 48: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

42

Minh họa trên đây cảnh báo cho chúng ta thấy nguy cơ thua lỗ của các tổ

chức tài chính do sơ hở trong quản lý điều hành của lãnh đạo, thiếu sự tăng

cường, kiểm tra giám sát. Đây cũng chính là rủi ro do biến động tỷ gía mạng lại

khi Ngân hàng nông nghiệp mua EUR thì tỷ giá VND/EUR thấp, sau đó tỷ giá

tăng nên sau khi đánh giá kết quả kinh doanh ngoại tệ thua lỗ, tổng thu chỉ đạt

1163,2 trong khi tổng chi 1.663,1 tỷ đồng.

Do tình hình lạm phát trong nước tương đối cao trong năm 2008 (dự báo

của Chính phủ khỏang 25%), tỷ giá USD /VND rất nhiều biến động trong chu kỳ

lạm phát cao như vậy sẽ dẫn đến một hậu quả tất yếu là thâm hụt thương mại

ngày càng lớn, thâm hụt vãng lai ngày càng lớn, đây cũng là rủi ro tiềm ẩn cho

ngân hàng và cho cả nền kinh tế, ngòai ra qua ví dụ minh họa chúng ta thấy còn

nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro ngoại hối tồn tại tại các ngân hàng thương mại

Việt Nam như:

- Kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn để vận hành giao dịch và đo lường

rủi ro quá yếu kém, kỹ năng xử lý dữ liệu bằng điện toán chưa cao, chưa có

những bộ phận nghiên cứu dự đoán sự thay đổi tỷ giá trên thị trường. Hiện nay dù

có tham gia một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các NHTM Việt Nam vẫn

chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích thanh toán, cho vay ngoại tệ

mà quên đi chế độ bảo hiểm tỷ giá nên trong kinh doanh ngoại tệ ngân hàng đóng

vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn là nhà tạo lập thị trường. Cũng chính

vì tư tưởng trên nên nhìn chung các ngân hàng rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc

biệt yếu về phân tích kỹ thuật biến đổi cấu trúc dự trữ giữa các loại ngoại tệ. Hầu

như rất ít ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm cho

phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng chính là một trong những lý do

mà ít ngân hàng ở Việt Nam mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu các ngân

hàng chỉ kinh doanh không công cho khách hàng.

- Các quy định pháp lý về cách xác định trạng thái ngoại hối chưa hoàn

thiện gây rủi ro tỷ giá. Mặc dù NHNN đã thay đổi phương pháp xác định trạng

thái ngoại tệ theo Quyết định số 1081/2002/QĐ-NHNN cho phù hợp với tình hình

thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, việc tính toán trạng thái ngoại tệ cuối tháng được

tính trên cơ sở số dư tại thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng chỉ xét đến trạng

thái ngoại tệ được hình thành do các giao dịch mua bán ngoại tệ của ngân hàng

Page 49: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

43

mà chưa tính đến thu và chi phí trả lãi phát sinh từ các tài sản có và tài sản nợ sinh

lời. Các ngân hàng chưa tính đến các khoản thu và chi này cộng dồn sẽ ảnh hưởng

thế nào đến giá trị giữa trạng thái ngoại tệ thực tế và trạng thái ngoại tệ báo cáo

mà thực trạng này có thể gây rủi ro lớn cho ngân hàng.

- Cơ chế tỷ giá hiện nay chưa phản ánh được quy luật cung cầu trên thị

trường. Mặc dù thời gian qua NHNN đã xoá bỏ sự áp đặt chủ quan trong việc

thiết lập tỷ giá, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường chợ đen

dần dần được thu hẹp. Tuy nhiên, diễn biến tỷ giá trong những năm qua còn nhiều

phức tạp. Cơ chế điều hành tỷ giá còn quy định biên độ mua, bán làm cho việc yết

giá của các NHTM bị cứng nhắc.

Biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối hiện đang áp dụng tại các ngân

hàng thương mại Việt Nam

Để giảm thiểu rủi ro ngọai hối, NHNN đã ban hành một số văn bản liên

quan đến họat động cung ứng dịch vụ ngoại hối của tổ chức tín dụng

- Quyết định số 21/2008/QĐ-NHNN ngày 11/7/2008 ban hành Quy chế

Đại lý đổi ngoại tệ.

- Thông tư số 03/2008/TT-NHNN ban hàng ngày 11/8/2008, nhằm triển

khai thực hiện Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ,

theo đó, NHNN hướng dẫn các điều kiện cụ thể để được cung ứng dịch vụ ngoại

hối đối với các tổ chức tín dụng. Đối với các ngân hàng thì điều kiện để được

NHNN xem xét, xác nhận đủ điều kiện cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường

trong nước bao gồm có phương án hoạt động được Đại hội cổ đông hoặc Hội

đồng quản trị thông qua, có trang thiết bị và điều kiện vật chất đáp ứng được yêu

cầu, có đủ cán bộ am hiểu, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại hối và quản lý rủi ro

kinh doanh ngoại hối

Đối với hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế, các

ngân hàng cần có thêm các điều kiện sau như: Có hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm

toán nội bộ được thiết lập và thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định của NHNN;

tuân thủ các quy định của NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động và

trong việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng; không vi phạm

các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối trong thời gian một năm đến thời điểm

đăng ký và phải kinh doanh có lãi trong năm liền kề năm đăng ký

Page 50: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

44

Ngoài ra, Thông tư cũng hướng dẫn cụ thể điều kiện để các tổ chức tín

dụng phi ngân hàng, các công ty tài chính đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ

ngoại hối trên thị trường trong nước. Ngoài các hướng dẫn trên, Thông tư này có

các hướng dẫn cụ thể về: Phạm vi cung ứng dịch vụ ngoại hối; Hồ sơ, thủ tục xác

nhận đủ điều kiện, xác nhận đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối; Trách

nhiệm của tổ chức tín dụng khi hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối; Hướng

dẫn về việc đình chỉ, thu hồi giấy xác nhận đủ điều kiện, giấy xác nhận đăng ký

hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối.

-Thực hiện các sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro ngọai hối

Thị trường công cụ phái sinh đóng góp cho tăng trưởng kinh tế thông qua

việc phát huy tốt các chức năng của hệ thống tài chính, đó là: Cầu nối giữa tiết

kiệm và đầu tư; Sàng lọc, chuyển giao, và phân tán rủi ro; Giám sát doanh nghiệp;

tăng tính thanh khoản của các công cụ tài chính (vận hành Hệ thống thanh toán

thông suốt, phòng ngừa rủ ro về ngọai hối, lãi suất .v.v. Với vai trò của trung gian

tài chính, các tổ chức tài chính có thể tăng nguồn thu từ thu phí với tư cách của

người môi giới; đặc biệt, khả năng mở rộng, phát triển các mặt hoạt động khác

của tổ chức tài chính như huy động vốn, cho vay, dịch vụ thanh toán, tư vấn...

cũng tăng cao và hiệu quả hơn. Công cụ phái sinh là một loại hình bảo hiểm rủi ro

tài chính khi thực hiện các hợp đồng kinh tế mà bản chất là phân tán rủi ro tiềm

ẩn và đương nhiên, lợi nhuận của các giao dịch cùng được chia sẻ cho các bên.

Nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn (Forward)

Ngân hàng có thể chọn giải pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối của mình

bằng cách sử dụng nghiệp vụ giao dịch có kỳ hạn một năm nghĩa là ngân hàng sẽ

bán ngoại tệ để nhận lại nội tệ. Mục đích của các hợp đồng kỳ hạn là nhằm loại

trừ những khả năng không chắc chắn về tỷ giá giao ngay tại thời điểm tín dụng

đến hạn. Như vậy, thay vì chờ đến tận thời điểm cuối năm, mới chuyển lượng

ngoại tệ thu được thành nội tệ với một mức tỷ giá giao ngay chưa biết trước, thì

ngân hàng có thể tại thời điểm ngày hôm nay bán có kỳ hạn một năm lượng ngoại

tệ dự tính sẽ thu được bao gồm cả gốc và lãi tại mức tỷ giá kỳ hạn đã biết để nhận

nội tệ. Việc giao nhận giữa nội tệ và ngoại tệ được thực hiện tại thời điểm cuối

năm. Như vậy, bằng cách bán kỳ hạn số ngoại tệ đã dự tính thu được với một tỷ

giá đã xác định ngay ngày hôm nay, ngân hàng đã trách được rủi ro tỷ giá biến

Page 51: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

45

động tại thời điểm cuối năm và do đó đảm bảo được mức lợi tức dự tính trong

hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ.

Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu

tiên ở Việt Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các

giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa

NHTM với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các NHTM khác được phép

của NHNN. Hiện nay, nghiệp vụ kỳ hạn được giao dịch khá phổ biến và thỏa mãn

hầu hết các đối tác có nhu cầu bảo hiểm rủi ro mà chủ yếu là các ngân hàng.

Hợp đồng tương lai ( Future)

Các ngân hàng cần phải xác định số lượng hợp đồng mà ngân hàng phải

bán là số lượng mà sao cho lợi nhuận thu được từ các hợp đồng tương lai này để

bù đắp mọi thua lỗ từ khoản tín dụng bằng ngoại tệ khi giá trị đồng ngoại tệ giảm

so với đồng nội tệ. Trong nhiều trường hợp, thị trường tương lai không cho phép

ngân hàng áp dụng hợp đồng dài hạn một năm để bảo hiểm khoản tín dụng có kỳ

hạn một năm. Vì vậy, ngân hàng phải áp dụng phương pháp giao dịch trên thị

trường tương lai và tăng sự không chắc chắn về giá trong các hợp đồng tiếp theo.

Điều này đã khiến cho các nhà quản trị ngân hàng ưu tiên bảo hiểm rủi ro các tài

sản có kỳ hạn dài trên thị trường kỳ hạn hoặc thị trường hoán đổi hơn là thị

trường tương lai.

Nghiệp vụ quyền chọn (Option)

Giống như hoạt động của nhà nhập khẩu và xuất khẩu, nhà đi vay và cho

vay bằng ngoại tệ bảo hiểm rủi ro ngoại hối thông qua hợp đồng quyền chọn tiền

tệ, một khả năng tương tự là việc ngân hàng cũng có thể sử dụng các hợp đồng

quyền chọn nhằm bảo hiểm rủi ro ngoại hối. Tuy nhiên, chúng ta phải trả một

khoản chi phí nhất định khi tham gia giao dịch này và khoản chi phí này sẽ chênh

lệch nhau phụ thuộc vào các yếu tố: sự tồn tại rủi ro cơ bản, tính thanh khoản của

thị trường, kỳ hạn của hợp đồng và bản chất của quyền chọn tương lai.

Giao dịch quyền chọn hiện đã được nhiều ngân hàng thương mại ở Việt

Nam triển khai trong hai năm gần đây, nhưng hầu như số lượng giao dịch rất ít do

hầu như các doanh nghiệp Việt Nam chưa hiểu rõ lắm về nghiệp vụ quyền chọn

và do tỷ giá VND với USD tương đối ổn định nên họ chưa cần đến công cụ bảo

hiểm này. Mặt khác, đa số các doanh nghiệp Việt Nam không có giám đốc tài

Page 52: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

46

chính giống như các công ty nước ngoài nên không có người quản lý thực hiện

hết các rủi ro tài chính trong kinh doanh.

Giao dịch hoán đổi tiền tệ (Swap)

Hoán đổi tiền tệ được các ngân hàng sử dụng rất phổ biến để bảo hiểm rủi ro

ngoại hối của mình. Trong trường hợp các tiền tệ trên bảng cân đối tài sản không cân

xứng với nhau, chúng ta dễ thấy rằng giao dịch hoán đổi tiền tệ thì phần gốc và phần

lãi đều được bao gồm trong hợp đồng. Đối với giao dịch hoán đổi lãi suất thì chỉ

phần thanh toán lãi suất là bao gồm trong hợp đồng. Lý do là vì trong giao dịch hoán

đổi tiền tệ thì cả phần gốc và phần lãi đều bộc lộ rủi ro ngoại hối.

2.1.3.3 Rủi ro lãi suất (Rủi ro thị trường)

Phân tích, đánh giá rủi ro lãi suất

Chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng để điều tiết nền

kinh tế, đặc biệt là đối với một nền kinh tế mà kênh tín dụng đóng vai trò quan trọng đối

với việc cung cấp vốn cho họat động sản xuất kinh doanh và cũng là nguồn mang lại lợi

nhuận chính cho các Ngân hàng.

Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam những năm qua, do thị trường tài

chính ngân hàng vẫn đang trong quá trình cải tổ, sắp xếp lại để hội nhập, do đó

còn nhiều tồn tại, bất cập trong đó có việc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng,

đã xuất hiện sự thay đổi lãi suất liên tục trong thời gian ngắn

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, vấn đề chạy đua lãi suất trong các

năm qua giữa các NHTM nhiều lúc không hợp quy luật, có thời điểm khi mà chỉ

số CPI giảm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở giảm, lãi suất chiết khấu, tái cấp

vốn ổn định thì các ngân hàng vẫn điều chỉnh tăng lãi suất.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là vốn khả dụng ở các ngân

hàng phân phối không đều, một số ngân hàng thiếu vốn, trong khi một số ngân

hàng khác thừa vốn nhưng do thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển,

các ngân hàng cho vay theo những hạn mức chậm được điều chỉnh nên nhiều

trường hợp vốn không luôn chuyển từ ngân hàng thừa vốn đến ngân hàng thiếu

vốn. Kết quả là các ngân hàng thiếu vốn phải đẩy mạnh các hình thức huy động

vốn và đưa ra lãi suất hấp dẫn, vấn đề này lại kéo theo các ngân hàng khác vào

cuộc đua lãi suất .v.v. điển hình như trong thời điểm cuối tháng 2/2008, trên thị

Page 53: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

47

trường liên ngân hàng có một vài giao dịch chấp nhận mức lãi suất lên tới

40%/năm, gây sốc cho thị trường,

Trước tình trạng lãi suất liên ngân hàng tăng cao như vậy, NHNN đã điều

tiết tiền tệ thông qua nghiệp vụ thị trường mở, đồng thời tăng cường công tác

thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM, nhất là những ngân hàng cho vay

vượt quá nhiều nguồn vốn huy động trên thị trường và có chính sách hỗ trợ trực

tiếp nguồn vốn thanh khoản cho các NHTM này từ giữa tháng 5/2008 đến nay, lãi

suất trên thị trường liên ngân hàng tương đối ổn định, xoay quanh mức 18 -

19%/năm đối với kỳ hạn 7 - 14 ngày.

Lãi suất huy động vốn bằng VND của các NHTM cũng có sự gia tăng

mạnh. Đối với kỳ hạn 3 tháng, lãi suất huy động phổ biến trên thị trường tăng từ

mức 7,5 - 8%/năm cuối năm 2007 lên đến mức 17,5%/năm trong tháng 6/2008

(chỉ có một vài ngân hàng nhỏ nâng mức lãi suất lên 19%/năm). Trước đó, lãi suất

huy động có biểu hiện tăng mạnh trong những ngày cuối tháng 2/2008. Sự gia

tăng mạnh của lãi suất huy động như vậy nếu kéo dài có thể gây nên sự đổ vỡ của

hệ thống ngân hàng. Trước tình đó, để ổn định lãi suất thị trường, NHNN đã kịp

thời có công điện yêu cầu các NHTM không được huy động vượt mức 12%/năm

ở tất cả các kỳ hạn. Tuy nhiên, sau hơn hai tháng, trước sức ép lạm phát lên cao,

ngày 16/5/2008, NHNN công bố bỏ quy định khống chế mức trần lãi suất huy

động 12%/năm, thay vào đó là cơ chế điều hành lãi suất mới, quy định lãi suất

cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 12%/năm tại

thời điểm đó; đến ngày 11/6/2008, mức lãi suất cơ bản được nâng lên là

14%/năm. Cho đến thới điểm hiện nay (tháng 09/2008) các ngân hàng thương mại

đang thực hiện quy định trên theo hướng VND không vượt quá 150% lãi suất cơ

bản 14%). dự tính cuối tháng 10 lãi suất cơ bản NHNN quy định sẽ là 13%/năm

Qua phân tích biến động lãi suất trong thời gian qua có thể thấy lãi suất trong

thời gian qua biến động quá nhiều. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất:

- Rủi ro lãi suất là một trong những loại rủi ro đặc thù của NHTM. Rủi ro

này xuất hiện khi lãi suất thị trường thay đổi, mà đặc biệt là thay đổi theo chiều

hướng tăng là nguyên nhân chính gây ra rủi ro lãi suất vì những nguồn thu chính

từ danh mục cho vay và đầu tư cũng như chi trả lãi tiền gửi và các nguồn vay của

ngân hàng điều bị tác động.

Page 54: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

48

- Những thay đổi của lãi suất thị trường có thể tác động tiêu cực tới lợi

nhuận ngân hàng làm cho tăng chi phí nguồn vốn, giảm thu nhập từ tài sản, hạ

thấp giá trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Vì vậy, sự biến động của lãi suất tác

động toàn bộ đến bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của ngân hàng.

- Bên cạnh những nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất, còn có những nguyên

nhân làm hạn chế công tác quản lý rủi ro lãi suất tại các NHTMViệt Nam như:

- Hiện nay, chưa có cơ quan dự báo sự thay đổi của lãi suất trên thị trường

quốc tế tại Việt Nam. Vì trong điều kiện lãi suất thị trường biến động, cơ quan

này sẽ giúp cho ngân hàng dự tính được những thiệt hại có thể phát sinh trong

tương lai, qua đó giúp ngân hàng lựa chọn những phương pháp phòng ngừa hiệu

quả những rủi ro này.

- Thị trường tài chính – tiền tệ chưa phát triển, thể hiện ở chỗ các công cụ

tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và nhỏ bé về lượng giao dịch.

- Kiến thức hiểu biết về các giao dịch phái sinh và vấn đề phòng chống rủi

ro lãi suất còn quá thấp ở các NHTM.

Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất hiện nay.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho phép mở rộng các ngân hàng và các

tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được thực hiện hoán đổi lãi suất. Việc làm này

nhằm giúp các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp phòng ngừa, hạn chế rủi ro do

biến động của lãi suất thị trường. Các trường hợp được thực hiện hoán đổi lãi suất

VND hoặc ngoại tệ thứ nhất là giữa ngân hàng với doang nghiệp vay vốn tại ngân

hàng đó; thứ hai là giữa ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn tại các tổ chức tín

dụng khác, vay vốn nước ngoài; thứ ba là giữa các ngân hàng với nhau và thứ tư

là giữa ngân hàng với tổ chức tín dụng ở nước ngoài.

Hợp đồng hoán đổi lãi suất là thỏa thuận theo đó mỗi bên thanh toán cho

bên kia khoản tiền lãi tính theo lãi suất thả nổi hay lãi suất cố định trên cùng một

khoản nợ gốc trong cùng một khoản thời gian. Đối với khách hàng huy động vốn

trên thị trường bằng hình thức phát hành trái phiếu trung và dài hạn từ 5 đến 10

năm với mức lãi suất cố định, muốn chuyển đổi thành lãi suất thả nổi để giảm chi

phí và cân đối bảng tổng kết tài sản, hoặc khi có dự đoán lãi suất xuống, việc bán

hợp đồng hoán đổi lãi suất có thể đáp ứng được yêu cầu này. Đối với những

khách hàng có nhu cầu đảm bảo có nguồn vốn ổn định và dài hạn cho hoạt động,

Page 55: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

49

có thể hoán đổi các giao dịch vốn ngắn hạn với ngân hàng thành một nguồn vốn

ổn định và dài hạn với lãi suất cố định

Từ tháng 1/2007 NHNN cho phép các ngân hàng thương mại, ngân hàng

liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt

động tại Việt Nam được thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất với các doanh nghiệp

không phải là ngân hàng được thành lập, hoạt động theo pháp luật Việt Nam; giữa

các ngân hàng với nhau, giữa ngân hàng với tổ chức tín dụng ở nước ngoài

Tuy nhiên, hầu như việc sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất chỉ mới được sử

dụng ở một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong khi các ngân hàng trong

nước hầu như còn chưa hiểu rõ nghiệp vụ hoán đổi này nên họ ngại khi phải triển

khai nghiệp vụ này cho các doanh nghiệp và đây cũng chính là một trong những

mặt yếu của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Vì vậy, một mặt để đảm bảo

nguồn vốn trong kinh doanh của các doanh nghiệp, mặt khác tăng sức cạnh tranh

thị trường trong nước, các NHVN cần phải nâng cao khả năng nghiệp vụ của mình

đặc biệt là các nghiệp vụ mới phát sinh để từ đó phát huy thế mạnh nhằm giúp cho

doanh nghiệp trong nước có được những biện pháp phòng ngừa rủi ro trong khi

cạnh tranh với các đối thủ khác trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.

2.1.3.4 Rủi ro thanh khoản

Phân tích, đánh giá rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp ứng các

khoản phải trả khi đến hạn thanh toán, hoặc vì một biến cố nào đó mà khách hàng

rút tiền ào ạt. Rủi ro thanh khoản hiện là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có

liên quan đến sự sống còn của ngân hàng.

Một số ví dụ về rủi ro thanh khỏan: Barings là ngân hàng lâu đời nhất,

danh tiếng và rất có uy tín ở Anh, được thành lập năm 1762, tuy nhiên một biến

cố xảy ra với Barings khi Nick lenson, Giám đốc chi nhánh Barngs tại Singapore

bỏ trốn năm 1995, Lenson đã dùng 1,4 tỷ USD đáng lẽ được dung vào việc đầu tư

các dự án trong tương lai để mua cố phiếu bất động sản tại thị trường chứng

khóan TOKYO, không ngờ trận động đất tại thành phố Kobe, Nhật bản cùng năm

đó đã khiến Kobe thua hết số tiền 1,4 tỷ USD bằng với lợi nhuận tích lũy hàng

năm của Barings. Khi Nick Lenson bỏ trốn và sự việc bị tiết lộ, tòan bộ khách

hàng của Barings đã đổ xô tới rút tiền, dẫn tới ngân hàng phải tuyên bố phá sản

Page 56: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

50

vào ngày 26/02/1995. Sau khi phá sản, công ty tài chính ING của Đức đã mua lại

Barings với giá 1 bảng anh. Một ví dụ khác tại Ngân hàng ACB tháng 10/2003,

một số kẻ xấu tung tin ông Phạm Văn Thiết, Tổng giám đốc ACB bỏ trốn, Trong

ngày 14/10 và ngày 15/10 lượng người kéo đến rút tiền tại ACB tăng vọt, trong

hai ngày lượng tiền ACB chi trả cho khách hàng lên tới 2000tỷ đồng, nếu không

được sự hỗ trợ kịp thời từ Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Vietcombank thì hậu

quả không thể dự đóan trước được. Ngòai ra còn nhiều vụ rủi ro khác như tại

Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Ninh Bình tháng 05/2007, Ngân hàng

Phương nam 07/2007 .v.v.

Trong thực tế hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt

Nam cho thấy rất hiếm khi nguồn cung cấp thanh khoản và nhu cầu thanh khoản

của ngân hàng được cân bằng. Ngân hàng phải thường xuyên đối phó với tình

trạng thâm hụt thanh khoản hoặc thặng dư thanh khoản. Khi cầu về thanh khoản

của ngân hàng vượt quá cung thanh khoản, ngân hàng bị thâm hụt thanh khoản,

buộc phải đối phó nhanh chóng nhằm tránh tình trạng mất khả năng thanh toán.

Ngược lại nếu cung thanh khoản vượt quá cầu thanh khoản, tình trạng thặng dư

thanh khoản xuất hiện và ngân hàng cũng phải xem xét đầu tư các khoản thặng dư

thanh khoản này như thế nào để có được hiệu quả cao nhưng vẫn đáp ứng được

yêu cầu thanh khoản trong tương lai.

Như vậy đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý là một vấn đề không bao

giờ kết thúc đối với hoạt động ngân hàng. Để duy trì và đảm bảo được khả năng

thanh khoản hợp lý mỗi ngân hàng cần phải ước tính được nhu cầu về thanh

khoản, từ đó lựa chọn và xác định nguồn dự trữ thích hợp. Và khi xác định nhu

cầu thanh khoản cần lưu ý: cầu thanh khoản của ngân hàng gồm nhu cầu vay vốn

và nhu cầu thanh toán các khoản nợ của ngân hàng.

Để tính được nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng, cần phân chia tiền gửi và

các nguồn vốn khác của ngân hàng thành nhiều nhóm dựa trên khả năng vốn bị rút

khỏi ngân hàng, từ đó để xác định nhu cầu thanh khoản phù hợp cho mỗi nhóm.

Đối với những khoản vốn nhạy cảm với lãi suất hoặc vốn dự tính sẽ được

rút ra khỏi ngân hàng trong kỳ, nhu cầu thanh khoản là cao nhất, tuỳ theo yêu cầu

quản lý trong từng thời kỳ mà ngân hàng có thể đặt tỷ lệ dự trữ thanh khoản khác

nhau, chẳng hạn có thể đặt tới 90%. Những khoản vốn kém ổn định có thể bị rút

Page 57: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

51

một lần ra khỏi ngân hàng tại một thời điểm nào đó trong kỳ kế hoạch, nhu cầu

thanh khoản được xác định tối đa bằng tỷ lệ vốn được rút ra trong kỳ. Những

khoản vốn có tính ổn định cao ít có khả năng rút ra khỏi ngân hàng trong kỳ, nhu

cầu thanh khoản ở mức thấp nhất, ngân hàng có thể chỉ cần duy trì dự trữ thanh

khoản đối với nhóm này khoảng tối đa 15%.

Nhu cầu thanh khoản trong hoạt động cho vay vốn của ngân hàng được ước

tính dựa trên cơ sở số liệu lịch sử của hoạt động cho vay, kết hợp với việc xem xét

các yếu tố tác động làm thay đổi nhu cầu thanh khoản thường xuyên như: các cam

kết tín dụng, yếu tố thời vụ, chu kỳ kinh doanh, sở thích của các nhà đầu tư.

Ngoài ra, nhu cầu thanh khoản của ngân hàng có thể được thoả mãn bằng

các nguồn cung cấp thanh khoản khác nhau như: tiền mặt tồn quỹ, rút tiền gửi từ

các tài khoản tại các ngân hàng khác, bán các chứng từ có giá, thu nợ vay của

khách hàng, huy động vốn vay trên thị trường tiền tệ. Để đảm bảo được khả năng

thanh toán cho kỳ kế hoạch, mỗi ngân hàng không thể sử dụng mọi nguồn thanh

khoản như nhau, cũng như không thể không duy trì một khoản tiền mặt tồn quỹ

thích hợp. Nhà quản lý ngân hàng cần phải dựa vào tình hình dự trữ thanh khoản

kỳ trước để điều chỉnh và xác định các chỉ số thanh khoản cho kỳ kế hoạch theo

các yếu tố tác động tới dự trữ thanh khoản trong kỳ. Chẳng hạn như nguồn dự trữ

bằng vốn vay từ Ngân hàng trung ương không thể tăng nếu như Ngân hàng trung

ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Nếu lãi suất tăng, sẽ làm tăng chi phí

vốn thanh khoản, lúc này để hạn chế tổn thất cần phải giảm tỷ lệ dự trữ thanh

khoản bằng nguồn vốn đi vay trên thị trường tiền tệ. Mặt khác, nếu lãi suất tăng

thì giá trị thị trường của tài sản sẽ giảm nếu ngân hàng bán tài sản để bù đắp thâm

hụt thanh khoản thì rủi ro tổn thất của ngân hàng sẽ tăng. Ngược lại, nếu lãi suất

giảm ngân hàng cũng không nên hy vọng quá nhiều vào nguồn tiền gửi bổ sung

của khách hàng để bù đắp thâm hụt thanh khoản. Một số nguyên nhân chính gây

ra rủi ro thanh khoản hiện nay:

- Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM năm 2007 là trên 40 %, có

những ngân hàng tăng trưởng tín dụng lên tới 80% (Ngân hàng ACB), tốc độ tăng

trưởng như vậy là “quá nóng so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ huy động

vốn”. Hơn nữa cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập trung lớn vào đầu tư bất động sản

chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường đóng băng, tạo sự mất

Page 58: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

52

cân đối về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều

nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Chính điều này đã tạo ra sự rủi ro thanh

khoản cao đối với ngân hàng thương mại”.

- Công tác dự báo và phân tích thị trường của các ngân hàng thương mại

Việt Nam còn nhiều hạn chế

- Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán

còn yếu.

- Sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo sự xáo trộn

luồng tiền, các khách hàng rút tiền từ ngân hàng này chuyển sang ngân hàng khác

dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.

- Sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu…Ngân hàng Nhà nước

cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn trong

tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của mình”.

- Xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân

khiến “các ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả

thanh khoản của các ngân hàng”. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, lại chưa

minh bạch, một số khách hàng (kể cả pháp nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng

này và chuyển sang ngân hàng khác, đã làm tăng tính bất ổn của thị trường gây

khó khăn cho chính khách hàng.

Biện pháp hạn chế rủi ro thanh khoản hiện đang áp dụng cho các Ngân

hàng thương mại Việt Nam

Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng

trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các NHTM bắt buộc phải tuân

thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc

bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này.

Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường

là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong

những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng

cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.

Thông qua hoạt động tạo tiền, từ tiền cơ sở (gồm tiền mặt lưu thông ngoài

hệ thống ngân hàng cộng với tiền mặt dữ trữ trong hệ thống ngân hàng), các ngân

hàng thương mại tạo ra một lượng cung tiền lớn hơn nhiều so với tiền cơ sở. Tỷ lệ

Page 59: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

53

giữa cung tiền với tiền cơ sở chính là số nhân tiền và được tính toán theo công

thức sau:

m = (1+R):(R+r),

R là tỷ lệ giữa tiền mặt so với tiền gửi (C/D) của các ngân hàng;

r là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Thông thường, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được các ngân hàng trung ương trên thế

giới quy định là tỷ lệ giữa dự trữ tiền mặt so với tiền gửi vãng lai là một bộ phận

cấu thành của M1 mà không quy định tỷ lệ giữa dự trữ tiền mặt với tiền gửi có kỳ

hạn (tiền gửi tiết kiệm..., một bộ phận cấu thành của M2). Dữ trữ bắt buộc có thể

được gửi ở ngân hàng trung ương hoặc giữ tại két dự trữ của NHTM. Tuy nhiên,

thông thường các NHTM sẽ gửi ở ngân hàng trung ương để được hưởng lãi suất.

Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi, nhằm mục đích triển

khai một cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền và góp phần duy trì sự

ổn định của các tổ chức tín dụng và đảm bảo sự phát triển an toàn của ngành ngân

hàng ở Việt Nam. Bảo đảm tiền gửi tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng

trong hệ thống ngân hàng, đã tạo ra một công cụ đầu tư có rủi ro thấp, thích hợp

với những nhà đầu tư không mạo hiểm. Nhờ vào công cụ này mà hệ thống ngân

hàng thu hút được nguồn vốn tiết kiệm nhàn rỗi trong dân cư để thực hiện được

chức năng trung gian tài chính một cách tích cực.

Thông báo các quy định an toàn và cơ chế giám sát hoạt động ngành ngân

hàng, bảo hiểm tiền gửi đã góp phần nâng cao khả năng quản trị rủi ro, khả năng

điều hành ngành ngân hàng nói riêng và ngành tài chính nói chung. Với nuồn lực

là quỹ bảo hiểm tiền gửi đủ khả năng can thiệp kịp thời khi tổ chức tham gia bảo

hiểm tiền gửi đã giúp ngăn chặn và cô lập hiệu ứng rút tiền hàng loạt và sụp đổ

của hệ thống ngân hàng khi một vài tổ chức ngân hàng gặp rắc rối.

Ở Việt Nam, vốn nhàn rổi của quỹ bảo hiểm tiền gửi được đầu tư vào các

trái phiếu Chính phủ và chứng khoán doanh nghiệp nhà nước có rủi ro thấp, tính

thanh khoản cao thể hiện mức độ cẩn trọng của nghiệp vụ đầu tư và quỹ bảo hiểm

tiền gửi thực sự phục vụ cho lợi ích của người gửi tiền.

Việc tạo lập bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam thể hiện quyết tâm của Chính

phủ sử dụng công cụ phi thị trường trong việc thiết lập môi trường an toàn cho

các hoạt động ngân hàng và bình ổn thị trường. Quan điểm thực hiện tiền gửi bắt

Page 60: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

54

buộc có tác dụng tốt trong việc nâng cao tính an toàn của công cụ đầu tư vào tiền

gửi của ngân hàng có lợi ích thiết thực cho người gửi tiền và cho cả hệ thống ngân

hàng. Đối tượng chi phối của bảo hiểm tiền gửi không phân biệt tổ chức tín dụng

trong hay ngoài nước hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Điều

này thể hiện quyết tâm của nhà nước trong việc đưa ngành NHVN hội nhập vào

các chuẩn mực quốc tế.

Ngày nay, hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại trở nên

phong phú và đa dạng hơn bao giờ hết. Bên cạnh các nghiệp vụ ngân hàng mang

tính truyền thống thì các ngân hàng đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ tài

chính mới, hiện đại, những nghiệp vụ tài chính mới này có thể đem lại lợi nhuận rất

cao cho NHTM, nhưng nó cũng chứa đầy những rủi ro. Để có thể hạn chế được rủi

ro này, ngân hàng sẽ phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa là trích lập các dự

phòng rủi ro, dự trữ bắt buộc và sử dụng các công cụ tài chính phái sinh

2.1.3.5 Rủi ro tác nghiệp

Phân tích, đánh giá về rủi ro tác nghiệp

Rủi ro tác nghiệp là nguy cơ tổn thất trực tiếp hoặc gián tiếp do cán bộ

ngân hàng, quá trình xử lý và hệ thống nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt

động hoặc do các sự kiện bên ngoài tác động vào hoạt động ngân hàng

Một ví dụ về rủi ro tác nghiệp Tại một chi nhánh của Ngân hàng ngoại

thương, Ngày 30/10/2006 một khách hàng đến chi nhánh VCB tại Vinh nộp 4

triệu VNĐ vào tài khoản. Do thanh toán viên đã sơ suất khi thao tác trên máy tính

nên chọn nhầm mã nộp là AUD (đô la Úc) thay vì VNĐ (đồng Việt Nam) nên số

tiền được chương trình máy tính tự động quy đổi thành 48.510.360.000 VNĐ và

được ghi có vào tài khoản của khách hàng, cũng may sự việc đã được kịp thời

phát hiện và được khắc phục.

Một ví dụ khác tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), đầu

năm 2008 khi rà soát hoạt động của các chi nhánh, ngân hàng này phát hiện vụ

việc lừa đảo rút tiền từ BIDV khoảng 200 tỷ đồng, nhân viên ngân hàng đã lừa

đảo lập các sổ tiết kiệm tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và

sửa chữa số dư tiền gửi trong sổ cao hơn nhiều lần so với giá trị thực. Sau đó, họ

mang sổ tiết kiệm cầm cố tại BIDV để rút tiền. Do móc nối với một số nhân viên

của BIDV, việc cầm cố diễn ra suôn sẻ và các sổ tiết kiệm qua được các khâu

Page 61: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

55

kiểm soát của ngân hàng. Việc lừa đảo được thực hiện hoàn toàn thủ công, nên đã

qua mắt hệ thống công nghệ của Vietcombank cũng như BIDV, Người trực tiếp

lập các sổ tiết kiệm để mang đi cầm cố là một nhân viên Vietcombank, việc lừa

đảo diễn ra tinh vi gây hậu quả nghiêm trọng.

Qua ví dụ thực tế về những rủi ro tác nghiệp tại một số NHTM Việt Nam

do những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Do cán bộ ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ, nhiệm vụ không được uỷ

quyền hoặc phê duyệt vượt quá thẩm quyền cho phép và không tuân thủ theo quy

định, quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng và các văn bản pháp luật hiện hành. (đã

được minh họa rõ về việc kinh doanh ngọai tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát

triển nông thôn Việt Nam 3 tháng lỗ 447,6 tỷ đồng phần trên)

- Do không tuân thủ các quy định /quy trình của hệ thống hỗ trợ,

- Không chấp hành nội quy cơ quan, Hợp đồng lao động và các văn bản

pháp luật đối với người lao động nơi công sở như: an toàn lao động, thực hành tiết

kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham nhũng...

- Có hành vi lừa đảo và/hoặc hành động phạm tội, câu kết với đối tượng

bên ngoài nhằm trục lợi cá nhân gây thiệt hại cho ngân hàng.

- Ngòai ra do quy định, quy trình nghiệp vụ còn nhiều điểm bất cập, chưa

hoàn chỉnh, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng

- Rủi ro từ hệ thống công nghệ thông tin: Do dữ liệu không đầy đủ hoặc hệ

thống bảo mật thống tin không an toàn; Do thiết kế hệ thống không phù hợp, gián

đoạn của hệ thống (xử lý, truyền thông, thông tin) và/hoặc do các phần mềm /các

chương trình hỗ trợ cài đặt trong hệ thống lỗi thời, hỏng hóc hoặc không hoạt

động, Ví dụ như máy rút tiền ATM, mọi công đoạn từ kiểm tra bảo mật, xử lý

thông tin, chi trả tiền đều do máy ATM tự động thực hiện, do vậy đã có nhiều

trường hợp khách hàng được trả tiền nhiều hơn bút toán ghi nợ hoặc có khi khách

hàng không nhận được tiền như vẫn bị trừ tiền trên tài khoản do máy đếm tiền

không chính xác hoặc do lỗi hệ thống.

- Do việc chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ chưa kịp thời, chưa hiệu quả hoặc

chồng chéo gây khó khăn, ách tắc cho bộ phận nghiệp vụ; Do cơ chế, quy chế về

công tác hỗ trợ chưa phù hợp, chưa đáp ứng các yêu cầu hỗ trợ cho bộ phận

nghiệp vụ.

Page 62: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

56

- Do hành vi lừa đảo, trộm cắp và/hoặc phạm tội của các đối tượng bên

ngoài hệ thống ngân hàng: Có trường hợp tự báo mất thẻ VISA sau đó tới ngân

hàng khác rút tiền, nếu hệ thống không cập nhật kịp thời thì kẻ lừa đảo đã có thể

lấy được tiền của ngân hàng.

- Rủi ro do các sự kiện bên ngoài và/hoặc do tự nhiên (động đất, bão...) gây

gián đoạn thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng

- Rủi ro các văn bản, quy định của chính phủ, các ban ngành liên quan có sự

thay đổi hoặc có những quy định mới làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.

Biện pháp hạn chế rủi ro tác nghiệp hiện đang áp dụng cho các Ngân hàng

thương mại Việt Nam

Nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố con người, các Ngân hàng luôn

chú trọng việc đào tạo bồi dưỡng tư cách đạo đức của cán bộ nhân viên nghiệp vụ

gắn liền với chế độ trả lương, thưởng tương xứng với trình độ chuyên môn nghiệp

vụ của từng cá nhân thừa hành. Các NHTM phối hợp với các đơn vị liên quan tổ

chức các khoá đào tạo bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đề kháng đối với

các rủi ro tác nghiệp. Nhiều ngân hàng thành lập trung tâm đào tạo cán bộ cho

ngành như BIDV, Vietcombank, Agribank .v.v.

Bên cạnh công tác đào tạo cán bộ thì các Ngân hàng luôn cải tiến hệ thống

quản lý công nghệ thông tin gắn kết với việc xử lý, bảo mật và tính chính xác trong

qui trình nghiệp vụ. Chú trọng hơn nữa đến đầu tư công nghệ thông tin nhằm phục

vụ cho việc phân tích đánh giá đo lường rủi ro , trong đó có rủi ro tín dụng.

Các quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng luôn quy định chặt chẽ từng thao tác

thông thường mỗi giao dịch thực hiện thường qua 03 công đoạn (Thực hiện nghiệp

vụ - Kiểm soát nghiệp vụ - Phê duyệt nghiệp vụ) một số giao dịch rủi ro thấp thì ít

nhất cũng qua 02 công đoạn (Thực hiện nghiệp vụ - Kiểm soát phê duyệt)

Đẩy mạnh công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống. Xây

dựng các giải pháp chính sách để hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán

nội bộ trong các tổ chức tín dụng và tiến tới theo các chuẩn mực quốc tế. Hoàn

thiện mô hình thanh tra ngân hàng theo ngành dọc từ trung ương đến cơ sở và có

sự độc lập tương đối về điều hành và hoạt động nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy

của NHNN. Ứng dụng những nguyên tắc cơ bản về giám sát hiệu quả hoạt động

ngân hàng của ủy ban Basel, tuân thủ các nguyên tắc thận trọng trong thanh tra.

Page 63: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

57

2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động

kinh doanh của ngân hàng thương mại.

Tác động và ảnh hưởng đến năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh

doanh của NHTM bao gồm rất nhiều các yếu tốc khác nhau từ vấn đề con người

đến cơ cở vật chất và kỹ thuật; từ môi trường pháp lý, thể chế chính trị đến các

vấn đề quy mô, đặc điểm sản xuất kinh doanh, tâm lý, xã hội của khách hàng,

vv…, liên quan đến hoạt động kinh doanh NHTM. Trong nội dung này của luận

văn sẽ tổng hợp các nhân tố trên thành 4 nhóm, trong đó các nhóm; (1) chất lượng

nguồn nhân lực; (2) năng lực tài chính của ngân hàng; (3) điều kiện về cơ sở vật

chất và kỹ thuật là những nhân tố chủ quan thuộc về bản thân ngân hàng; và nhóm

(4) môi trường kinh tế xã hội và kinh doanh sẽ phản ánh các nhân tố mang tính

khách quan.

2.2.1 Chất lượng nguồn nhân lực:

Chất lượng của nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng nhất quyết

định đến năng lực quản trị rủi ro của NHTM. Nguồn nhân lực tác động đến năng

lực quản trị rủi ro của ngân hàng bao gồm từ nhận thức và quan điểm cho đến khả

năng chuyên môn của ban lãnh đạo, đội ngũ cán bộ quản trị rủi ro và toàn bộ cán

bộ công nhân viên của ngân hàng.

Trước hết, quản trị rủi ro chỉ có thể được thực hiện tốt xuất phát từ quan

điểm, nhận thức của ban lãnh đạo ngân hàng. Tiếp theo, chất lượng đội ngũ cán

bộ của phòng quản trị rủi ro, những cán bộ tác nghiệp trực tiếp thực hiện nhận

biết, xác định, phân tích và đo lường rủi ro, tạo cơ sở cho việc ra quyết định kinh

doanh và kiểm sóat rủi ro. Chất lượng chuyên môn và ý thức nghề nghiệp của các

bộ thuộc bộ phận này trực tiếp quyết định đến năng lực quản trị rủi ro của NHTM

về sự chính xác hiệu quả trong từng nội dung và các bước của quy trình quản trị

rủi ro.

Cuối cùng là chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc tại các phòng ban chuyên

môn khác: cán bộ phòng tín dụng, phòng nguồn vốn, cán bộ phòng nghiên cứu thị

trường, phòng kinh doanh ngoại tệ v.v…, cũng rất quan trọng bởi vì họ chính là

những người trực tiếp tiến hành các hoạt động kinh doanh mặt đối mặt và chịu

đựng những tổn thất khi xảy ra rủi ro. Những kỹ năng, kinh nghiệm và ý thức tác

Page 64: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

58

nghiệp của những cán bộ này tác động rất lớn đến hoạt động quản trị rủi ro và

nâng cao năng lực quản trị rủi ro của NHTM.

2.2.2 Năng lực tài chính của ngân hàng:

Năng lực tài chính tốt cho phép các NHTM có khả năng huy động nguồn

vốn lớn và cho phép tiến hành các hoạt động kinh doanh đa dạng phong phú, do

vậy không những có thể giảm thiểu rủi ro mà còn có khả năng chấp nhận tổn thất

rủi ro. Với ý nghĩa đó, năng lực tài chính của ngân hàng là một nhân tố quan trọng

tác động đến năng lực quản trị rủi ro được đánh giá trên hai khía cạnh: quy mô

vốn chủ sở hữu và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.

2.2.3 Quy mô vốn chủ sở hữu:

Theo quy định chung, quy mô vốn chủ sở hữu lớn thì khả năng huy động

nguồn vốn của ngân hàng (gấp 20 lần vốn chủ sở hữu) sẽ lớn, nguồn vốn lớn sẽ

cho phép ngân hàng hoạt động với quy mô lớn và đa dạng hóa. Quy mô vốn chủ

sở hữu lớn đồng thời cũng là khả năng chịu đựng tổn thất rủi ro lớn. Khi rủi ro

xảy ra, các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bởi trước tiên là lợi

nhuận thông qua quỹ dự phòng rủi ro, sau đó là cuối cùng là vốn chủ sở hữu của

ngân hàng. Các ngân hàng với quy mô vốn lớn luôn có uy tín cao và được khách

hàng tin cậy nhiều hơn và đó là điều kiện quan trọng đảm bảo an toàn cho hoạt

động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra với quy mô vốn chủ sở hữu lớn, các

ngân hàng luôn có khả năng hòan thiện các điều kiện về cơ sở vật chất và bố trí

nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động quản trị rủi ro có hiệu quả.

Các ngân hàng đứng đầu trong số các NHTM của Mỹ 2002 đã nêu trên, có

lợi nhuận và khả năng tăng trưởng vốn cao cũng là những ngân hàng có khả năng

quản trị rủi ro tốt và luôn có tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản có nguy cơ rủi ro ở

mức ít nhất 12% đối với các ngân hàng lớn và 17% đối với các ngân hàng nhỏ,

trong khi quy định của bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC) cũng như của hầu

khắp các nước khác chỉ là 8%.

2.2.4 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng cách so sánh vốn chủ sở

hữu với tài sản có nguy cơ rủi ro và là quy định chung đối với các NHTM nhằm

đảm bảo an toàn chung cho cả hệ thống ngân hàng. Theo Basel II, tỷ lệ an toàn

vốn tối thiểu được xác định như sau:

Page 65: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

59

Vốn tự có (vốn cấp 1 + vốn cấp 2) CAR =

Tổng tài sản có khả năng rủi ro

Quy định của Basel II về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%. Tuy vậy, các

NHTM hàng đầu ở Mỹ luôn có tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản ở mức 9,2%

và tỷ lệ an toàn vốn ở mức thấp nhất là 10% và cụ thể hơn trong đó, tỷ lệ vốn cấp

1 (tier1) là 6% và tỷ lệ vốn cấp 2 (tier 2) là 5% theo xác suất rủi ro của mỗi danh

mục tài sản.

Như vậy, tương tự và kết hợp với quy mô vốn chủ sở hữu, khi đạt được tỷ

lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của các hiệp hội ngân hàng hay các quốc

gia, các NHTM sẽ có khả năng chống đỡ rủi ro tốt hơn. Nếu các nhân tố khác

không đổi, quy mô vốn chủ sở hữu tăng và tỷ lệ an toàn vốn cao hơn sẽ tạo điều

kiện nâng cao năng lực quản trị rủi ro của NHTM. Song cũng cần lưu ý rằng chi

phí vốn chủ sở hữu luôn rất cao và tỷ lệ an toàn vốn có quan hệ ngược chiều với

hiệu quả kinh doanh do vậy NHTM cũng cần phải định mức và duy trì các nhân

tố này ở mức nhất định.

2.2.5 Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ của ngân hàng

Đây là nhân tố bao hàm những trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tạo điều

kiện cho cán bộ ngân hàng có thể có được hệ thống thông tin, dữ liệu cập nhật cho

phép theo dõi thường xuyên, dự báo chính xác và đầy đủ về xu hướng vận động

của nền kinh tế. Từ đó có thể đo lường về mức độ rủi ro và xây dựng các biện

pháp để chủ động và kịp thời xử lý.

Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ còn tác động lớn đến năng

suất lao động và chất lượng của các cán bộ công nhân viên ngân hàng. Không có

trang thiết bị cần thiết và các phần mềm tương ứng, việc áp dụng các mô hình

định lượng để ra quyết định sẽ không thể thực hiện. Ngoài ra, công nghệ hiện đại

còn góp phần làm tăng tính thông suốt của hệ thống thông tin trong nội bộ ngân

hàng và kết nối ngân hàng với thị trường tài chính trong nước và quốc tế, cho

phép thực hiện các nghiệp vụ giao dịch kinh doanh và phòng chống rủi ro một

cách hiệu quả nhất.

Page 66: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

60

2.2.6 Môi trường kinh tế xã hội và kinh doanh

Dù các ngân hàng có đầy đủ khả năng về nguồn nhân tài vật lực và các yếu

tố chủ quan khác nhưng môi trường pháp lý, kinh tế xã hội không thuận lợi thì

năng lực quản trị rủi ro dù được đánh giá cao cũng không thể trở thành hiện thực

và không thể đóng góp hiệu quả cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.Trong khi

việc phòng chống rủi ro lại phải tuân thủ theo các quy định của ngân hàng trung

ương hay của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Trong những trường hợp như

vậy, năng lực quản trị rủi ro của các NHTM hầu như không phát huy tác dụng do

vậy không được chú trọng và củng cố.

Sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và tiền tệ liên ngân hàng

nói riêng là yếu tố quan trọng thứ hai đối với việc nâng cao năng lực quản trị rủi

ro của NHTM. Hầu hết các hoạt động của các NHTM đều có quan hệ với nhau và

các ngân hàng thường xuyên giao dịch trên thị trường tiền tệ. Những hoạt động

của thị trường tiền tệ ngày nay trở thành điều kiện sống còn của các NHTM bởi lẽ

thị trường này không chỉ là cơ sở hình thành lãi suất, tỷ giá mà còn là nơi đáp ứng

nhu cầu về khả năng thanh toán và thực hiện toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh để

phòng chống rủi ro. Giống như điều kiện về môi trường pháp lý, nếu thị trường

tiền tệ liên ngân hàng không phát triển, năng lực quản trị rủi ro trở lên không hòan

tòan có ý nghĩa.

Nhận thức của khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân của ngân hàng

là yếu tố quan trọng thứ ba trong nhóm này, bởi lẽ những suy tính và hành vi giao

dịch của khách hàng góp phần nhất định và rủi ro, chia sẻ rủi ro và đặc biệt là

hành vi phản ứng của khách hàng khi rủi ro xảy ra. ở những nước có trình độ

nhận thức cao, thị trường tài chính phát triển các hoạt động quản trị rủi ro không

chỉ có ý nghĩa mà còn rất được chú trọng phát triển. Khách hàng, dù là các cá

nhân cũng có thể áp dụng các công cụ phòng chống rủi ro để bảo vệ lợi ích của

bản thân và góp phần bảo đảm an toàn cho thị trường. Trái lại, ở những nhận thức

của công chúng hạn chế, dễ nảy sinh tâm lý hoảng lọan, đầu tư hay rút tiền ồ ạt

theo cảm tính, v.v…, sẽ tác động không thuận lợi đến năng lực và hiệu quả quản

trị rủi ro của các NHTM.

Ngoài ra, trong điều kiện các nước theo đuổi và thực hiện chính sách mở

cửa, hội nhập quốc tế như hiện nay thì ảnh hưởng của tình hình thị trường quốc tế

Page 67: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

61

đến việc năng lực quản trị rủi ro càng mạnh mẽ hơn trên cả hai mặt tích cực và

tiêu cực. Về mặt tích cực, các ngân hàng có thể mở rộng hoạt động kinh doanh cả

về quy mô và phạm vi, theo đó các nghiệp vụ phòng chống rủi ro cũng được vận

hành một cách dễ dàng hơn. Cơ hội học tập kinh nghiệm và chuyển giao công

nghệ quản trị rủi ro cũng được thực hiện nhanh chóng với chi phí thấp. Song về

mặt tiêu cực, quan hệ tài chính phát triển thì rủi ro xảy ra nhiều hơn, tính chất

phức tạp và phạm vi tác động ảnh hưởng cũng rộng lớn hơn.

2.3 Những thách thức đối với ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều

kiện hiện nay

Trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia vào quá trình hội nhập chung, các

ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn.Tuy nhiên để đạt được

các mục tiêu định hướng phát triển của lĩnh vực ngân hàng, trước nhu cầu mới,

ngành NHVN cũng đang phải đối mặt với những thách thức lớn:

2.3.1 Về hành lang pháp lý

Hệ thống thông tin báo cáo tài chính, kế toán và thông tin quản lý còn chưa

đạt tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam

còn chưa có các Chuẩn mực tương đồng với các Chuẩn mực kế toán Quốc tế về công cụ

tài chính, đặc biệt trong đó là các Chuẩn mực IAS 39 "Các công cụ tài chính: Ghi nhận

và xác định giá trị"; IAS 32 "Công cụ tài chính: Thuyết minh và trình bày thông tin”.

Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ còn yếu, thiếu tính độc lập; Hệ thống

pháp luật trong nước, thể chế thị trường còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất

quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng. Vì vậy có

hạn chế nhất định đối với sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và phát triển thị

trường tiền tệ. Luật hoạt động của các tổ chức tín dụng hiện hành còn có một số

điểm hạn chế như:

- Luật còn khái quát, chưa cụ thể, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ như vấn đề liên

quan đến tổ chức và hoạt động ngân hàng. Có những phần chưa quy định hoặc

phân công trách nhiệm cụ thể cho Chính phủ hay Thống đốc Ngân hàng Nhà

nước, gây khó khăn cho quá trình thực thi. Các văn bản hướng dẫn luật chưa được

ban hành kịp thời; nhiều thuật ngữ trong Luật Các TCTD chưa được định nghĩa

thật chính xác dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, thiếu định nghĩa một số thuật

Page 68: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

62

ngữ cần thiết như: "dịch vụ ngân hàng", "ngân hàng liên doanh", "chi nhánh ngân

hàng nước ngoài", "chống rửa tiền"…

Nhiều công cụ chính sách tiền tệ xét về nguyên lý là công cụ điều tiết gián

tiếp, nhưng trong sử dụng thực tiễn lại là những công cụ lưỡng tính vừa can thiệp

gián tiếp vừa trực tiếp do thiếu điều kiện phát huy vai trò đích thực của nó như công

cụ tái cấp vốn của NHTW, nghiệp vụ thị trường mở, công cụ lãi suất cơ bản. Cơ chế

điều hành tỷ giá hối đoái còn bị chi phối bởi sự phân tán về quyền quản lý ngoại tệ

quốc gia cũng như các hoạt động tự do trong lĩnh vực thanh toán và tín dụng ngoại tệ

nội địa - chưa đủ sức tạo ra một thị trường hối đoái sôi động.

Các công cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu như (công cụ kỳ hạn, công cụ giao

sau, quyền chọn, hoán đổi…) còn sơ khai và còn nhiều hạn chế có thể tóm tắt quá

trình phát triển các công cụ phái sinh tại Việt Nam như trong bảng sau:

Bảng 2.4 Tóm tắt quá trình phát triển các công cụ tài chính phái sinh.

Công cụ phái sinh Năm phát triển Các lọai sản phẩm

Hoán đổi 1997 Hoán đổi lãi suất, hóan đổi tiền tệ, hóan đổi

tín dụng, hóan đổi lãi suất công dồn

Kỳ hạn 1999 Kỳ hạn về tiền tệ

Quyền chọn 2003 Quyền chọn tiền tệ, quyền chọn vàng,

quyền chọn lãi suất

Giao sau 2004 Giao sau càfê

Nguồn:“Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hậu WTO” – PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang.

Việc tính thuế cũng là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển

công cụ phái sinh, chẳng hạn như quy định về mức thuế đánh trên lãi thu được từ

việc thực hiện nghiệp vụ hoán đổi. Nhiều ý kiến bày tỏ, quy định này vừa kìm

hãm vừa khó thực hiện vì lãi suất thả nổi biến động hàng ngày. Hơn nữa, công cụ

phái sinh mang bản chất phòng ngừa rủi ro để tối đa hóa lợi nhuận chứ không

phải vì mục đích kiếm lời

Cấu trúc hệ thống ngân hàng tuy phát triển mạnh mẽ về chiều rộng (cả ở

khu vực quản lý lẫn khu vực kinh doanh) nhưng còn quá cồng kềnh, dàn trãi,

chưa dựa trên một mô hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt

động còn kém so với khu vực

Page 69: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

63

Mô hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay

vẫn mang tính chất “độc canh”. Sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, thiếu các định

chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như: quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản

có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ .v.v.

Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn bất cập so với nhu cầu của

nghiệp vụ mới, đặc biệt còn coi nhẹ hoạt động nghiên cứu chiến lược và khoa học

ứng dụng làm cho khoảng cách tụt hậu về công nghệ ngân hàng của Việt Nam

còn khá xa so với khu vực.

2.3.2 Về khả năng cạnh tranh

Trong những năm qua, ngành Ngân hàng đã có nhiều đổi mới, song đến

nay, hệ thống NHVN vẫn ở giai đoạn phát triển ban đầu, năng lực tài chính của

nhiều NHTM còn yếu, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. Các chỉ số đánh giá về nợ

quá hạn, về đảm bảo an toàn vốn, về tỷ trọng chi phí quản lý trong doanh số hoạt

động … so với chuẩn quốc tế đều còn ở mức thấp.

Dịch vụ ngân hàng của các NHTM Việt Nam còn đơn điệu, nghèo nàn,

tính tiện lợi chưa cao, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các khách hàng

thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng,

đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau không có nhiều sự

khác biệt. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho các

ngân hàng, các nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới

kinh doanh, tư vấn dự án phát triển hạn chế

Hoạt động tín dụng được mở rộng nhanh chóng nhưng rủi ro tín dụng chưa

được kiểm soát và đánh giá một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với chuẩn mực quốc

tế và yêu cầu hội nhập;

Đội ngũ lao động của các NHTM Việt Nam khá đông nhưng trình độ

chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của điều kiện hội nhập. Cơ

cấu tổ chức trong nội bộ nhiều NHTM còn lạc hậu, không phù hợp với các chuẩn

mực quản lý hiện đại đã được áp dụng phổ biến ở các nước trong nhiều năm qua.

Công nghệ ngân hàng còn yếu kém. Hệ thống mạng nối kết giữa các ngân

hàng còn nhiều hạn chế, công tác triển khai công nghệ mới còn chậm (có thể thấy

mạng lưới họat động của các máy ATM, có những khu vực tập trung rất nhiều

máy của những ngân hàng khác nhau gây lãng phí nếu việc kết nối hệ thống giữa

Page 70: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

64

các ngân hàng như BankNet được triển khai sớm thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều

chi phí).

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong giai đoạn hiện nay, bất ổn kinh tế ngày càng leo thang, giá dầu tăng kỷ lục,

khủng hoảng lương thực toàn cầu, sự sụp đổ trên thị trường cho vay bất động sản

của Ngân hàng Mỹ, các ngân hàng Việt Nam chắc chắn cũng sẽ bị ảnh hưởng,

ngân hàng thương mại Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với những rủi ro về tín

dụng cho vay bất động sản, rủi ro thanh khoản, rủi ro tác nghiệp .v.v

Thời gian qua chúng ta đã chứng kiến những yếu tố rủi ro luôn cận kề các Ngân

hàng thương mại, lạm phát tăng cao, các ngân hàng nhận lãi suất thực âm, khả

năng thanh khoản ở mức báo động, một số ngân hàng gần như không hoạt động

mà trông chờ vào khả năng phục hồi và ổn định của nền kinh tế

Có thể thấy rõ rằng việc kiểm soát và phòng ngừa rủi ro đối với ngân hàng thương

mại Việt Nam trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết

Page 71: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

65

CHƯƠNG III GIẢI PHÁP GIA TĂNG HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Căn cứ vào mục tiêu phát triển hệ thống ngân hàng trong những năm tới và

thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, để nâng cao năng lực

quản trị rủi ro của các NHTM cần tiến hành nhiều giải pháp một cách hệ thống và

liên tục, cả trong ngắn hạn và trong dài hạn.

3.1 Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại

3.1.1 Giải quyết vấn đề vốn cho ngân hàng

- Các NHTM cần tiến hành tăng vốn điều lệ đảm bảo tiềm lực tài chính

thật sự cho các ngân hàng này, để lành mạnh hóa tài chính và trụ vững trong quá

trình hội nhập, có như vậy chất lượng tài sản có của các NHTM mới được cải

thiện, tạo điều kiện thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có đã

hiệu chỉnh rủi ro. Bên cạnh đó để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu >8% thì yếu

tố vốn bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2 , trong đó chủ yếu vẫn là vốn điều lệ đóng

vai trò then chốt quyết định đến mức độ hoàn thành hay không hoàn thành tỷ lệ

này theo quy định của từng ngân hàng.

- Các NHTM tăng cường huy động vốn thông qua nghiệp vụ nhận tiền gửi

và các nghiệp vụ khác của Ngân hàng. Các khoản tiền này không thuộc quyền sở

hữu của Ngân hàng, nhưng Ngân hàng được quyền sử dụng như là những khoản tiền

tạm thời nhàn rỗi. Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng

nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng. Nó phản ánh rõ nhất bản chất trung gian tài

chính của hoạt động ngân hàng. Những món tiền gửi thông qua hoạt động tín dụng

của ngân hàng sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn

Tuy nhiên, các khoản tiền gửi có nguồn gốc xuất phát chủ yếu từ khoản

tiết kiệm của người dân và tiền nhàn rỗi tạm thời của các tổ chức kinh tế - xã hội.

Điều này đồng nghĩa với việc nguồn vốn này khá phân tán về không gian và quy

mô. Mặc dù vậy, đây lại chính là nguồn huy động truyền thống và quan trọng

nhất của các NHTM. Muốn khai thác tiềm năng này một cách hiệu quả và bền

vững, NHTM cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:

Page 72: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

66

- Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn.

Đa dạng hoá các hình thức và phương thức huy động vốn là yếu tố tiên

quyết để tăng cường huy động các nguồn vốn tại chỗ đối với NHTM Việt Nam,

các phương thức huy động vốn phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Thứ nhất, tạo sự thuận tiện tối đa cho người gửi tiền. Thủ tục nhận tiền

gửi phải đảm bảo nhanh gọn, chính xác. Bên cạnh đó, các thủ tục trả lãi cũng cần

được đơn giản hoá, tránh tâm lý nặng nề giữa nhân viên ngân hàng với người

gửi. Thực hiện sản phẩm rút gốc, lãi linh hoạt sẽ tạo cho người gửi tiền tâm lý tin

cậy và thoải mái. Công tác kế hoạch hoá nguồn vốn và nhu cầu của khách hàng

phải được thực hiện tốt. Việc dự báo phải đảm bảo tính chính xác tương đối, nếu

không ngân hàng rất dễ rơi vào tình trạng thiếu tiền mặt trong những khoảng thời

gian nhất định.

Thứ hai, giảm thiểu chi phí phụ cho việc huy động đối với ngân hàng. Chi

phí huy động chính của ngân hàng là lãi trả cho người gửi tiền. Việc tối thiểu hoá

các chi phí phụ cho phép ngân hàng có khả năng tăng lãi suất huy động nhằm thu

hút người gửi tiền. Tiếp tục bổ sung, điều chỉnh các hình thức huy động truyền

thống như: Tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, kỳ phiếu Ngân hàng ghi thu bằng

đồng Việt Nam, bằng ngoại tệ, bằng vàng, tiền gửi tiết kiệm có khả năng chuyển

nhượng, tiền gửi tiết kiệm gửi một nơi lấy nhiều nơi kể cả ở các ngân hàng khác

hệ thống, có như thế mới tạo được thuận lợi cho người gửi tiền có thể gửi vào, lấy

ra theo nhu cầu, kế hoạch của họ, vừa đảm bảo an toàn, bí mật và uy tín đối với

người gửi.

- Mở rộng mạng lưới huy động vốn của Ngân hàng.

Đi đối với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thì cần phải đẩy

mạnh việc mở rộng và phát triển mạng lưới hoạt động của Ngân hàng tạo ra một

cơ cấu hợp lý. Đáng chú ý là nên đặt các điểm huy động vốn ở những nơi trọng

điểm đông dân cư, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu vực kinh tế trọng điểm

mới phát triển, thị trấn, thị tứ, thị xã, gần nơi kinh doanh buôn bán lớn, các chợ,

gần các trường đào tạo chuyên nghiệp. Tuy nhiên khi đẩy mạnh việc mở rộng

mạng lưới hoạt động, Ngân hàng cần phải chú ý tính toán các chi phí có thể làm

ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh và phân bổ hợp lý tránh tình trạng

Page 73: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

67

cạnh tranh thái quá, có điểm rất nhiều ngân hàng cùng hoạt động trong khi những

vùng khác lại không có điểm giao dịch nào.

Cùng với việc mở rộng mạng lưới thì Ngân hàng cũng cần phải củng cố

nâng cao chất lượng hoạt động của các quỹ tiết kiệm, phòng giao dịch hiện có để

thực hiện kinh doanh đa năng trong hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

khách hàng có thể dễ dàng giao dịch với Ngân hàng. Với cách đó Ngân hàng sẽ

thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội.

- Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp với cơ chế lãi suất thoả

thuận do NHNN quy định.

Nếu như hoạt động chính của ngân hàng là kinh doanh trên lĩnh vực tiền

tệ, mặt hàng kinh doanh chính là quyền sử dụng vốn thì lãi suất được ví như là

giá cả. Chính vì vậy, giá cả hay lãi suất là một yếu tố đặc biệt quan trọng trong

chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Đối với hoạt động huy động vốn, lãi suất

là giá mà ngân hàng chào để mua quyền sử dụng vốn của người gửi tiền.

Song song với việc đa dạng hoá hình thức và thời hạn huy động vốn thì

vấn đề lãi suất huy động vốn cũng cần được quan tâm. Thời gian vừa qua các

Ngân hàng đã sử dụng các công cụ lãi suất để phòng chống lạm phát, Tuy việc áp

dụng công cụ này cũng còn chưa có hiệu quả, đầu vào quá cao, do đó để đầu tư

ra được thì nó tác động không nhỏ đến việc sản xuất kinh doanh của các đơn vị

và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng nhưng cũng đã thu hút được một lượng lớn

vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế vào Ngân hàng để tiếp tục đầu tư trở lại

cho phát triển nền kinh tế. Nhìn chung muốn huy động được nhiều vốn cần phải

có mức lãi suất hấp dẫn với người có vốn nhàn rỗi. Từ biến động của thị trường,

ngân hàng cần đưa ra các mức lãi suất phù hợp với người gửi và người vay để họ

chấp nhận được, đồng thời ngân hàng cũng có một phần thu nhập để bù đắp các

chi phí đã bỏ ra.

Thứ ba, tiếp tục hiện đại hoá công nghệ thanh toán để tạo điều kiện thu

hút nguồn vốn hoạt động cho Ngân hàng.

Trong lĩnh vực thanh toán, nếu tốc độ thanh toán nhanh, sẽ góp phần thúc

đẩy tốc độ chu chuyển, vật tư, hàng hoá và dịch vụ. Công tác thanh toán không

dùng tiền mặt của Ngân hàng làm tốt, sẽ thu hút các thành phần kinh tế, các tầng

lớp dân cư mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua Ngân hàng, mở rộng thanh

Page 74: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

68

toán bằng séc cá nhân, thẻ,v.v..., từ đó tăng qui mô tiền gửi thanh toán qua Ngân

hàng. Đẩy mạnh công tác thanh toán qua Ngân hàng, một mặt Ngân hàng quản lý

và điều hành được lượng tiền mặt trong lưu thông để kiểm soát và kiềm chế lạm

phát, mặt khác thu hút được nguồn vốn ngày càng nhiều với lãi suất thấp để đáp

ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển và mang lại hiệu quả cho Ngân hàng.

+ Động viên khuyến khích cá nhân, doanh nghiệp đẩy mạnh việc thanh

toán bằng séc, thẻ thanh toán, thẻ rút tiền tự động thông qua tiền gửi ngân hàng.

Từng bước áp dụng mở rộng thẻ thanh toán điện tử, thẻ thanh toán không dùng

tiền mặt và thẻ rút tiền mặt, thẻ thanh toán séc của Ngân hàng.

+ Cung ứng đầy đủ phương tiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng.

Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế và dân

cư nói riêng và kinh tế nói chung. Phát triển và hoàn thiện môi trường pháp lý, hoà

nhập với thông lệ quốc tế và làm cơ sở thúc đẩy hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành nguồn vốn theo hướng tập trung

và xây dựng cơ chế điều hành linh hoạt.

Cơ chế điều hành nguồn vốn phải đảm bảo yêu cầu đẩy mạnh việc huy động

nguồn vốn ở những địa bàn có chi phí thấp, tập trung điều chuyển vốn cho các địa

bàn có khả năng đầu tư tín dụng an toàn. Chi phí huy động vốn phải được tính toán

đầy đủ, bao gồm cả chi phí cho thông tin, quảng cáo, chi phí dịch vụ, v.v.... Vốn

điều chuyển phải đảm bảo bù đắp chi phí huy động theo nguyên tắc hạch toán công

bằng giữa các đơn vị thành viên. Phát huy thế mạnh trong việc điều hoà nguồn vốn

trong ngân hàng.

Thứ năm, tăng cường huy động các nguồn vốn trung và dài hạn, quản lý

thanh khoản và chuyển hoán nguồn tiền.

Nguồn của doanh nghiệp và các tổ chức khác thường là nguồn ngắn hạn.

Nguồn từ dân cư đã có nhiều thay đổi, nguồn trung hạn đang gia tăng thông qua

phát hành trái phiếu của ngân hàng. Cần nhấn mạnh trước tiên vai trò của các

nguồn vốn trong nước trong điều kiện của Việt Nam. Kinh nghiệm của các nước

trong quá trình phát triển kinh tế là sử dụng tối đa các nguồn nội lực. Với hơn 80

triệu dân, mặc dù còn nghèo nhưng nguồn vốn bằng tiền trong nước vẫn rất lớn.

Huy động các nguồn vốn trong nước phục vụ cho phát triển vừa làm tăng thu

Page 75: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

69

nhập cho các tầng lớp dân cư, khuyến khích tiết kiệm, vừa hạn chế rủi ro do phụ

thuộc quá lớn vào nguồn vốn nóng từ nước ngoài.

- Đẩy mạnh tìm kiếm các nguồn vốn khác.

Trong bối cảnh hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển, mức độ cạnh

tranh trở nên gay gắt giữa các NHTM Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài

hoạt động trên địa bàn, do vậy các NHTM gặp không ít khó khăn về huy động

nguồn vốn tại chỗ, trong khi nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển rất lớn thì việc tìm

kiếm các nguồn vốn khác ngoài vốn huy động là rất cần thiết.

3.1.2 Thực hiện mô hình kiểm soát, dự đoán và định lượng rủi ro họat

động tín dụng.

Nghiên cứu, đưa vào áp dụng các mô hình quản trị rủi ro phù hợp với các

quy định hiện hành, đặc điểm hoạt động của từng NHTM và thông lệ quốc tế.

Mô hình chất lượng: dựa trên yếu tố 5C (Character, Capital, Capacity,

Collateral, Cycle)

• Tư cách người vay (Character ): Tếng tăm của khách hàng vay, thiên ý

trả nợ, lịch sử tín dụng của khách hàng vay

• Vốn (capital) Đóng góp của các chủ sở hữu và các tỷ số nợ

• Năng lực trả nợ ( Capacity ): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ

của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán

thanh lý tài sản, hay tiền từ phát hành chứng khoán… Sau đó cần phân tích tình

hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn để đánh giá năng lực trả nợ của khách

hàng.

• Bảo đảm tiền vay ( Collateral ): đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín

dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể trả nợ vay cho ngân hàng.

• Chu kỳ hoặc các điều kiện kinh tế (Cycle, Conditions): Ngân hàng qui

định các điều kiện tuỳ theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ như cho vay

xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng.

Mô hình xác suất tuyến tính

Chia các khoản vay cũ thành 2 nhóm: nhóm rủi ro mất vốn (Zi=1) và nhóm

không rủi ro (Zi=0)

Thiết lập mối quan hệ giữa nhóm này với nhân tố ảnh hýởng týõng ứng (Xij)

Mô hình: Zi= ∑BjXij + sai số

Page 76: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

70

BJ: phản ánh mức độ quan trọng của chỉ tiêu thứ j

Mô hình phân biệt tuyến tính

Z = 1,2X1 + 1,4X2+3,3X3+0,6X4+0,99X5

X1= TSLĐ/Tổng TSC

X2= Lợi nhuận tích lũy/tổng TSC

X3=LNTT&L/Tổng TSC

X4=giá thị trường VTC/giá trị kế toán của khoản nợ

X5 = doanh thu/Tổng TSC

Z>3: người vay không có khả năng vỡ nợ

1,8>Z>3: không xác định được

Z<1,8: người vay có khả năng rủi ro

Các chỉ tiêu trên được lượng hóa và ngân hàng căn cứ vào đó để quyết

định cho vay hay không. Để đảm bảo an toàn cho vay, hạn chế rủi ro và thất thoát

ngân hàng của các nước phát triển thường lựa chọn đối tượng cho vay và theo dõi

sát sao quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Khách hàng mới hay khách

hàng không đủ độ tin cậy muốn vay thì phải có tài sản thế chấp hay ký quỹ có tính

thanh khoản cao.

- Tổ chức lại việc thu nhập, lưu trữ và khai thác thông tin phục vụ việc ra

quyết định đầu tư, giám sát sau khi cho vay.

- Để giảm rủi ro tín dụng xuống mức thấp nhất, cần thiết có sự độc lập giữa

các chức năng: Quan hệ khách hàng, Quản lý giải ngân, Quản trị rủi ro (hiện rất

nhiều chi nhánh ngân hàng thương mại Việt Nam mỗi cán bộ quan hệ khách hàng

thực hiện tất cả chức năng trên)

- Các ngân hàng thương mại tìm hiểu về phương án kinh doanh, mục đích

vay vốn khả năng trả nợ của khách hàng thông qua các biện pháp chuyên môn và

ngoài ra cần truy cập thông tin về khách hàng thông qua trung tâm CIC Ngân

hàng nhà nước để tìm hiểu về các khoản vay của khách hàng tại các TCTD khác,

yêu cầu hồ sơ tín dụng phải có báo cáo CIC làm cơ sở xác minh việc thẩm định

khách hàng.

- Đối với khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn, được TCTD đánh giá là

không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn

trả nợ , thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và việc phạt

Page 77: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

71

chậm trả đối với nợ qúa hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thỏa thuận trên cơ sở

quy định của pháp luật.

Kể từ ngày Quyết định 127 có hiệu lực, việc gia hạn nợ được thực hiện

theo văn bản quy định của từng TCTD, phù hợp với quy định tại khoản 6 Quyết

định 127. Đối với những khoản vay sau khi đã phân loại vào các nhóm nợ được

coi là nợ quá hạn , nếu trong khoảng thời gian sau đó , khách hàng vay thực hiện

đúng các cam kết trả nợ và được đánh giá là có uy tín với TCTD, thì các khoản

nợ của khách hàng đó có thể được điều chỉnh vào những nhóm nợ vay có chất

lượng nợ tốt hơn, phù hợp với quy định về phân loại nợ của NHNN.

- Dự đoán yếu tố môi trường kinh tế xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động sản

xuất kinh doanh như lạm phát, chính trị, tỷ giá hối đoái...

- Đa dạng hóa các danh mục cho vay.

Là việc ngân hàng đa dạng hóa danh mục cho vay để phân tán rủi ro. Việc

đa dạng hóa có thể theo đối tượng vay, mục đích và lĩnh vực sử dụng vốn vay ,

thời hạn cho vay , loại tiền cho vay… Nếu cho vay quá tập trung vào một dạng

nào đó ngân hàng có thể chịu tổn thất nặng nề khi dạng cho vay đó không đạt

hiêu quả hay đổ vỡ. Trong xu thế hội nhập, tự do hóa tài chính hiện nay cùng với

sự phát triển của khoa học công nghệ , việc phân chia địa bàn hoạt động cho các

NHTM chỉ là tương đối nên phải rất linh hoạt và mềm dẻo để tránh cạnh tranh

không lành mạnh nhưng cũng không tạo ra độc quyền bất hợp lý. Hướng phát

triển hiện nay của các NHTM là vươn ra khỏi khuôn khổ mang tính chuyên

doanh, đa dạng hóa tín dụng cho vay chống lại chia cắt thị trường. Để giảm thiểu

rủi ro, NHTW thường có các quy định bắt buộc ngân hàng phải đa dạng hóa cho

vay như không được cho một khách hàng hay một nhóm khách hàng vay quá một

tỷ lệ nào đó so với vốn của ngân hàng hay tổng vốn cho vay, hiện nay đối với 01

khách hàng vay không vượt quá 15% vốn tự có của TCTD. Một số ý kiến cho

rằng quy định tỷ lệ này hiện nay của nước ta là cứng nhắc và cản trở các doanh

nghiệp vay vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên chúng ta không nên tăng tỷ lệ quy định này

vì mức độ rủi ro tín dụng cho vay hiện nay còn rất lớn, tình trạng tài chính yếu

kém của nhiều doanh nghiệp luôn đe dọa tài chính của các ngân hàng với biểu

hiện là mức nợ quá hạn cao, nếu nới lỏng quy định này có thể đặt nhiều NHTM

vào tình trạng phá sản trong ngắn hạn. Ngoài ra , NHNN đã có cơ chế cho vay

Page 78: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

72

hợp vốn (đồng tài trợ) để giải quyết những khoản vay quá lớn vượt khỏi giới hạn

của một ngân hàng. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận quy mô vốn ngân hàng quá

nhỏ hiện nay không cho phép mở rộng tín dụng và do đó không đáp ứng nhu cầu

vay của các doanh nghiệp lớn đang trên con đường hội nhập

Việc đa dạng hoá các danh mục cho vay các doanh nghiệp thuộc cùng

ngành, cùng quy mô, cùng lãnh thổ … vì có thể có tương quan rủi ro tín dụng

cao. Quản trị danh mục cho vay cần chỉ ra được với tỷ suất sinh lời chấp nhận

được thì tỷ trọng đầu tư tối ưu vào mỗi ngành, vùng, quy mô … sao cho rủi ro ở

mức thấp nhất.

3.1.3 Giải pháp đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ

Hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong ngân hàng có chức năng cung cấp

giao dịch ngoại tệ trong thương mại quốc tế cũng như giúp luân chuyển các khoản

đầu tư quốc tế, giao dịch tài chính quốc tế và cả cung cấp các công bảo hiểm rủi

ro tỷ giá cho các khoản thu xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu, các khoản đầu tư

hay đi vay bằng ngoại tệ. Như vậy nhu cầu về ngoại tệ cho doanh nghiệp cũng

như sự phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của các NHTM trong tiến trình

hội nhập là rất lớn.

Các ngân hàng thương mại cần đa dạng hoá các loại ngoại tệ là cách phòng

tránh rủi ro trong hoạt động ngoại hối của ngân hàng. Việc đầu cơ chỉ một loại

ngoại tệ với một số lượng quá lớn có thể sẽ đem lại lợi nhuận lớn nếu đi đúng với

xu hướng biến động của tỷ giá, nhưng bên cạnh đó cũng tiềm ẩn rủi ro rất lớn và

cũng sẽ không lường hết được hiệu quả.

Cần xây dựng chiến lược kinh doanh ngoại tệ trong từng giai đoạn cụ thể

vì ngày nay bất cứ ngân hàng nào cũng có chiến lược kinh doanh cụ thể trong một

giai đoạn nhất định. Chẳng hạn như nếu ngân hàng huy động được lượng ngoại tệ

lớn thì ngân hàng sẽ phải định kế hoạch đầu tư số ngoại tệ này tương ứng với thời

hạn huy động.

Để hạn chế rủi ro ngoại hối, NHTM có thể áp dụng giải pháp cho vay bằng

loại ngoại tệ này nhưng thu nợ bằng loại ngoại tệ khác ổn định hơn với tỷ giá đã

được ấn định trứơc trong hoạt động tín dụng.

Xây dựng các hạn mức kinh doanh ngoại tệ, khối lượng giao dịch, giới hạn

loại tiền kinh doanh một cách hợp lý và linh hoạt. Điều này có nghĩa là tuỳ vào

Page 79: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

73

tình hình thị trường của các nước cũng như đơn vị tiền tệ của nước đó để đưa ra

được kế hoạch đầu tư sao cho hợp lý và hiệu quả.

Để đo lường và hạn chế rủi ro tỷ giá, các NHTM nên giới hạn trạng thái

ngoại hối của từng loại ngoại tệ vào cuối mỗi ngày giao dịch. Ngân hàng có thể so

sánh trạng thái ngoại hối với vốn tự có, hoặc với tổng tài sản có. Với giải pháp

này, ngân hàng sẽ xác định được mức lỗ có thể xảy ra và giới hạn nó trong khả

năng chịu đựng rủi ro tối đa của ngân hàng. Ngoài ra, biện pháp này còn nhằm

mục đích đảm bảo chắc chắn rằng lỗ về tỷ giá không làm nguy hại đáng kể đến độ

an toàn trong kinh doanh của ngân hàng.

Đối với các ngoại tệ dễ biến động về tỷ giá và khó chuyển đổi, ngân hàng

nên duy trì trạng thái ngoại hối thuần thấp hơn so với các ngoại tệ ổn định và dễ

chuyển đổi.

Từ các nghiệp vụ vốn có của hầu hết các NHTM là hoạt động cho vay và

huy động vốn, các nhà quản trị ngân hàng phải điều chỉnh các khoản cho vay và

huy động vốn ngoại tệ một cách sáng suốt, tỉnh táo có kết hợp với việc nghiên

cứu sự biến động của thị trường trong nước và quốc tế.

Ngoài một số phương pháp nhằm hạn chế rủi ro tỷ giá trên, ngân hàng cần

trích lập một phần lợi nhuận để dành làm quỹ rủi ro về kinh doanh ngoại tệ, rủi ro

luôn luôn xuất hiện đồng thời với giao dịch mở nghĩa là trạng thái ngoại tệ không

cân bằng.

3.1.4 Đối với nghiệp vụ thanh toán.

Để hạn chế rủi ro thanh khoản mỗi Ngân hàng thương mại trung ương nên

quản lý vốn tập trung để không bị lãng phí nguồn vốn và cần phải phân chia nguồn

vốn sao cho phù hợp với mức độ rủi ro khi thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng

Nâng cao hiệu quả, cạnh tranh lành mạnh, nâng cao uy tín của hệ thống

ngân hàng bằng việc tăng vốn hoạt động đối với các ngân hàng thương mại. Một

ngân hàng có uy tín không chỉ thể hiện qua cơ cấu tổ chức, trình độ kinh nghiệm

làm việc, lợi nhuận, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn tự có, thanh toán đúng hạn mà còn

được đánh giá qua vốn hoạt động vì mức vốn thấp sẽ hạn chế ngân hàng trong

việc mở rộng nghiệp vụ.

Đưa ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng

nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo

Page 80: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

74

sớm những tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD thông qua việc thành lập đoàn

khảo sát trực tiếp theo nguyên tắc chọn mẫu ngẫu nhiên, phân tích báo cáo tài

chính để xác định các điểm nhạy cảm trong báo cáo tài chính và đưa ra các biện

pháp xử lý.

Mặt khác, đối với từng ngân hàng, để hạn chế rủi ro thanh khoản, các

NHTM cần xác định chính xác mức độ ổn định nguồn vốn ngắn hạn, để có thể sử

dụng một tỷ lệ nhất định nhằm bảo đảm an toàn cho việc đầu tư trung dài hạn của

ngân hàng. Đồng thời xây dựng các chính sách nhằm tạo được lòng tin đối với

người gửi tiền, khuyến khích khách hàng gửi tiền với kỳ hạn dài để tạo được

nguồn vốn ổn định cho ngân hàng.

3.1.5 Đối với chính sách lãi suất

Hiện nay ngân hàng đang rơi vào chu kỳ lãi suất tăng. Do vậy rủi ro về lãi

suất sẽ rất lớn. Vì vậy, để có thể hạn chế rủi ro lãi suất các ngân hàng cần thực

hiện cơ chế lãi suất thả nổi đối với những khoản vay lớn, thời hạn dài, bên cạnh

đó cần thực hiện việc dự báo lãi suất, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất như

cung cầu về vốn tín dụng, tỷ suất lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp, tỷ lệ

lạm phát dự kiến, chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ.

Tuy nhiên, các Ngân hàng thương mại phải ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất

huy động vốn, lãi suất cho vay) bằng Đồng Việt Nam đối với khách hàng theo

nguyên tắc lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do

NHNN công bố áp dụng trong từng thời kỳ. Định kỳ hàng tháng, NHNN công bố

lãi suất cơ bản. Trong trường hợp cần thiết, NHNN công bố điều chỉnh kịp thời

lãi suất cơ bản (Thời điểm 08/2008 lãi suất cơ bản NHNN là 14%/năm).

3.1.6 Công tác quản lý nhân lực và đào tạo cán bộ.

Các NHTM cần thực hiện đồng bộ các chính sách, chế độ để nâng cao

chất lượng cán bộ. Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu kinh

doanh; khai thác triệt để mọi khả năng, tiềm năng của người lao động; phát huy

truyền thống văn hoá doanh nghiệp, tinh thần gắn bó lâu dài với doanh nghiệp;

quản lý nguồn nhân lực theo thông lệ quốc tế hiện đại phù hợp với điều kiện cụ

thể của Việt Nam.

Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ, cần chú ý

các vần đề sau:

Page 81: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

75

Một là, rà soát lại trình độ cán bộ có tính đến xu hướng phát triển dài hạn

của ngân hàng trong bối cảnh hội nhập và mở cửa thị trường tài chính để có kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm hoàn thiện kiến thức chuyên môn. Đối với cán bộ

ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng, trước hết phải có một kiến thức chuyên môn

vững chắc: sâu trong lĩnh vực ngân hàng và rộng trong các lĩnh vực kinh tế xã hội có

liên quan. Do đó, căn cứ vào kết quả rà soát, ngân hàng kiên quyết và có cơ chế hỗ trợ

yêu cầu các nhân viên chưa đạt chuẩn theo các chương trình đào tạo lại. Bên cạnh đó,

do sự biến đổi nhanh của môi trường kinh doanh, ngay cả các cán bộ có chuyên môn

và kinh nghiệm cũng cần được đào tạo lại định kỳ. Mỗi cán bộ phải chuyên sâu và

giỏi một lĩnh vực, nắm được nhiều việc. Xây dựng đội ngũ chuyên gia trên các lĩnh

vực chuyên môn mũi nhọn: Sản phẩm mới, công nghệ ngân hàng.

Hai là, phổ biến và quán triệt đối với toàn bộ cán bộ, công nhân viên của

ngân hàng phưong châm: Hướng tới khách hàng để phục vụ, sự thành công của

khách hàng sẽ mang lại thành quả cho ngân hàng.

Ba là, phân công cán bộ phụ trách và theo dõi từng mảng công việc sâu

theo từng lĩnh vực để tạo ra sự chuyên môn hoá. Mặt khác, xây dựng cơ chế luân

chuyển để tránh sự trì trệ và đề phòng phát sinh các mối quan hệ không lành

mạnh với khách hàng. Quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý kế cận để có kế hoạch

theo dõi, bồi dưỡng nhằm tạo nguồn cán bộ, đảm bảo sự liên tục và kế thừa. Cơ

cấu cán bộ phải đảm bảo sự hợp lý về độ tuổi, kết hợp sự năng động và nhạy cảm

của cán bộ trẻ với kinh nghiệm của cán bộ cũ.

Bốn là, Thực hiện các chính sách động lực như: Chính sách tuyển dụng,

thu hút nhân tài; Chính sách sử dụng, bố trí nhân lực; Chính sách đào tạo, bồi

dưỡng nhân lực; Về tiền lương, tiền thưởng, v.v. có cơ chế gắn liền thu nhập và

tính tự chịu trách nhiệm của cán bộ với hiệu quả công việc. Kiên quyết xử lý tình

trạng cán bộ ngân hàng lợi dụng quyền hạn để mưu cầu những toan tính cá nhân,

gây thiệt hại về vật chất và ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.

Đối với các ngân hàng cần có trung tâm đào tạo được trang bị hiện đại,

nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở đào tạo trong ngành ngân hàng.

Chương trình đào tạo phải thiết thực, cụ thể nhằm trau dồi, nâng cao kỹ năng

nghiệp vụ của ngân hàng. Tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập

quốc tế, nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết

Page 82: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

76

hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác

pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới

3.1.7 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.

Trong nền kinh tế thị trường, sức mạnh nằm trong tay những ai có đặc

quyền về thông tin. Giả định các điều kiện khác như nhau, thì phần thắng trong

kinh doanh tiền tệ thuộc về những chủ ngân hàng có đủ và sớm các thông tin cần

thiết. Hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng hết sức đa dạng và phức tạp, nhất là

trong bối cảnh nền kinh tế thông tin, kinh tế tri thức đang trở thành xu thế phát

triển mới của thời đại. Các NHTM Việt Nam không thể không tính đến sự phát

triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong

thời gian vừa qua và những năm tiếp theo. Một khi công nghệ thông tin trở thành

nhân tố không thể thiếu, chi phối hoạt động của ngân hàng thì tính phức tạp trong

xử lý nghiệp vụ được giải quyết một cách nhanh chóng mang tính hệ thống và tính

toàn cầu. Chính vì vậy, áp dụng công nghệ tiến tiến để hiện đại hoá hoạt động là

một yêu cầu tất yếu trong quá trình hội nhập của các NHTM Việt Nam

Trong lĩnh vực thanh toán, nếu tốc độ thanh toán nhanh, sẽ góp phần thúc

đẩy tốc độ chu chuyển, vật tư, hàng hoá và dịch vụ. Công tác thanh toán không

dùng tiền mặt của Ngân hàng làm tốt, sẽ thu hút các thành phần kinh tế, các tầng

lớp dân cư mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua Ngân hàng, mở rộng thanh

toán bằng séc cá nhân từ đó tăng qui mô tiền gửi thanh toán qua Ngân hàng. Đẩy

mạnh công tác thanh toán qua Ngân hàng, một mặt Ngân hàng quản lý và điều

hành được lượng tiền mặt trong lưu thông để kiểm soát và kiềm chế lạm phát,

mặt khác thu hút được nguồn vốn ngày càng nhiều với lãi suất thấp để đáp ứng

nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế và mang lại hiệu quả cho Ngân

hàng. Từ đó, góp phần giảm đáng kể lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường.

Đối với các hoạt động khác như cho vay, cung ứng các sản phẩm tiện

ích, dịch vụ khách hàng, quản lý rủi ro, quản lý dự trữ và ngoại hối... vai trò của

công nghệ cũng đặc biệt quan trọng. Với các sản phẩm, tiện ích mới được triển

khai như dịch vụ gửi tiền nhiều nơi rút nhiều nơi, chuyển tiền tự động, thấu chi,

rút tiền từng phần, máy rút tiền tự động, thẻ thanh toán,v.v..., uy tín của ngân

hàng được tăng lên rất nhiều, niềm tin của công chúng đối với ngân hàng cũng ổn

định. Các dịch vụ ngân hàng cũng tạo cơ sở và thói quen cho khách hàng tiếp cận

Page 83: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

77

với trình độ của khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập. Công tác quản lý,

điều hành và tác nghiệp được đổi mới cả về mặt hình thức lẫn quy trình với

phương thức trực tuyến, đảm bảo nhanh nhất, hiệu quả nhất.

- Công nghệ hiện đại luôn đi kèm với tính phức tạp trong điều hành và xử

lý thông tin. Do đó, cần đặc biệt chú ý và có đề án, quy chế để đảm bảo tính bảo

mật tối đa. Mặc dù trong phần mềm hệ thống đã xác lập rõ và phân quyền chi tiết

đến từng đối tượng từ khách hàng, nhân viên đến các cấp lãnh đạo cao nhất của

hệ thống nhưng thực tiễn hoạt động ngân hàng ở các nước phát triển cho thấy an

ninh mạng luôn là vấn đề gây đau đầu cho các nhà quản trị. Chỉ cần một sơ suất

nhỏ trong hệ thống bảo mật, thiệt hại cho ngân hàng là rất to lớn. Do đó, cần thiết

phải có bộ phận chuyên trách về xử lý sự cố và đảm bảo an toàn trong vận hành ở

từng NHTM

- Tiếp tục duy trì, ổn định và nâng cấp các sản phẩm ứng dụng hiện có

nhằm đáp ứng các nhu cầu nghiệp vụ trước mắt. Cần nâng cao việc chuẩn hoá

các quy trình và yêu cầu nghiệp vụ để có thể xây dựng các sản phẩm ứng dụng có

chất lượng và đáp ứng được yêu cầu ngày càng phức tạp. Đổi mới các công nghệ

nền tảng cho các ứng dụng nhằm nâng cao chất lượng và tính ổn định của các sản

phẩm hiện có.

- Nhanh chóng tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài nhằm đưa

nhanh vào ứng dụng các sản phẩm ứng dụng tiên tiến và theo tiêu chuẩn thông lệ

quốc tế, đặc biệt chú trọng các ứng dụng ngân hàng cốt lõi, từ đó phát triển tiếp các

kênh phân phối dịch vụ đa dạng cho các khách hàng. Từng bước đổi mới quy trình

nghiệp vụ phù hợp với mô hình nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế.

- Tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật đủ về số lượng và chất

lượng thông qua tuyển dụng, đào tạo nhằm có thể đáp ứng được yêu cầu ngày

càng nhiều và phức tạp. Bồi dưỡng kiến thức quản trị dự án công nghệ thông tin

cho các cán bộ chủ chốt, phổ cập các kiến thức cơ bản về nghiệp vụ ngân hàng,

đặc biệt cho đội ngũ liên quan xây dựng và quản trị các chương trình ứng dụng.

- Tăng cường sự hợp tác có hiệu quả về phát triển ứng dụng công nghệ

thông tin với các đối tác bên ngoài như: các công ty công nghệ thông tin trong và

ngoài nước, các ngân hàng nước ngoài, Cục Công nghệ Tin học Ngân hàng, …

Page 84: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

78

Tóm lại, trong thời điểm hiện tại, các NHTM cần rà soát, chỉnh sửa và

hoàn thiện các quy trình nội bộ về hoạt động tín dụng, kinh doanh tiền tệ, ngoại

hối, thanh toán, chuyển tiền, ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với các quy

định của pháp luật có liên quan. Đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong từng

quy trình nghiệp vụ để triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa, xử lý rủi ro.

Báo cáo kịp thời các khó khăn, vướng mắc về hoạt động kinh doanh cho Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam để xem xét giải quyết; thực hiện việc cung cấp thông

tin và báo cáo về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng theo đúng thời hạn và

đảm bảo chính xác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

3.2 Những đề xuất đối với NHNN Việt Nam

3.2.1 Thực hịên quy định chung theo sự điều chỉnh của Basel II

Từ hiệp ước Basel mới đặt ra những trụ cột cơ bản về yêu cầu vốn tối

thiểu, quy trình đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và tính kỷ luật của thị

trường. Quá trình hội nhập hệ thống tài chính - ngân hàng quốc tế đặt ra yêu cầu

cần thiết phải nâng cao tính minh bạch thông tin nhằm kiểm soát rủi ro trong hệ

thống Ngân hàng, những trụ cột này là để hướng tới đảm bảo cho hệ thống tài

chính hiện đại phát triển bền vững hơn. Việt Nam cần phải thực hiện những quy

định chung này, Basel II sắp tới sẽ không chỉ có nước phát triển áp dụng mà là cả

các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu

các tư tưởng cơ bản của Basel II để có thể vận dụng đơn giản hơn nhưng vẫn hiệu

quả cho hệ thống Ngân hàng Việt Nam.

Các chính sách điều hành trong hệ thống Ngân hàng cần phải được thực

hiện trên tinh thần công bằng, kiểm soát được tính an toàn của hệ thống nhưng

đồng thời phải đảm bảo tính cạnh tranh. Mỗi một chính sách ra đời vừa phải bảo

đảm an toàn của toàn hệ thống nhưng không làm hạn chế năng lực cạnh tranh của

các ngân hàng và không đi ngược với xu hướng đa dạng hóa sản phẩm và lợi thế

cạnh tranh của hệ thống tài chính hiện đại.

- Tăng cường công tác quản trị rủi ro

Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn NHTM cách thức tính toán, đo lường rủi

ro cho mình, thiết lập chương trình quản trị rủi ro của mình và gửi bản đề xuất ấy

cho NHNN. NHNN sẽ xem xét, có các điều chỉnh cần thiết, rồi xem đó là một bản

hợp đồng ghi nhớ mà NHTM phải tuân thủ, NHNN sẽ định kỳ yêu cầu báo cáo,

Page 85: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

79

kiểm tra giám sát việc tuân thủ bản hợp đồng ấy. Mặt khác, chính NHTM phải gia

tăng tính minh bạch trong các báo cáo của mình, “trình bày” cho công chúng rõ

hơn về những rủi ro mà mình chấp nhận, các cách thức quản trị, mức độ vốn dự

phòng của mình cho các rủi ro, … Chính điều này sẽ tạo ra một “kỷ luật thị

trường” cho các ngân hàng và gia tăng tính an toàn cho hệ thống Ngân hàng. Áp

dụng theo Basel II, NHNN chỉ cần yêu cầu các ngân hàng phân loại, định mức tín

nhiệm và rủi ro của tài sản các ngân hàng (bao gồm các khoản vay), cho phép các

ngân hàng chọn lựa phương thức đánh giá rủi ro và quản trị rủi ro phù hợp (trong

số các phương pháp do Basel II đề xuất), với điều kiện phải báo cáo về cách đánh

giá, phương thức quản trị phù hợp để NHNN thông qua và giám sát. Bên cạnh đó,

theo tinh thần Basel II, cần yêu cầu các ngân hàng phải minh bạch, công khai các

thông tin về các rủi ro mình đang gặp phải, cấu trúc vốn của ngân hàng và mức độ

dự phòng, cũng như khả năng đầy đủ vốn để đáp ứng trong trường hợp có rủi ro

tức là một tỷ lệ phần trăm vốn dự phòng cần có trên các tài sản có rủi ro, tức là

phần tài sản đã được điều chỉnh cho hệ số rủi ro của chúng. Bên cạnh đó NHNN

trên cơ sở nghiên cứu cập nhật số liệu báo cáo thống kê từ các ngành, để đưa ra

dự báo về xu hướng phát triển, rủi ro có thể gặp của các ngành kinh tế từ đó các

NHTM có định hướng đầu tư một cách hiệu quả hạn chế được rủi ro

- Nâng cao tính tin cậy của các tổ chức định mức tín nhiệm.

Xếp hạng tín nhiệm được thực hiện trên trọng số rủi ro quốc gia và trọng

số rủi ro công ty. Tuy vậy, việc đánh giá và xếp hạng rủi ro của nước ta vẫn còn

những điểm chưa đồng nhất dựa trên những tiêu chuẩn xếp hạng rủi ro khác nhau

căn cứ vào các mô hình xếp hạng rủi ro như: mô hình ICRG ( International

country risk guide, mô hình Beta quốc gia, …. ). Điều này có thể xuất phát từ

những quan điểm khác nhau trong đánh giá rủi ro nhưng nguyên nhân quan trọng

hơn hết là tính minh bạch và sự thống nhất trong các thông tin được công bố.

Vấn đề này cũng tồn tại trong các xếp hạng tin nhiệm đối với các công ty, vì vậy

để đảm bảo độ tin cậy của bảng xếp hạng này làm cơ sở cho quản trị rủi ro của

các NHTM, các doanh nghiệp cần gia tăng tính trung thực, kịp thời và chịu trách

nhiệm về các thông tin do mình công bố, đồng thời, Nhà nước cần có những biện

pháp chế tài thích đáng trong những trường hợp vi phạm các quy định về công bố

thông tin, tránh tình trạng “ giơ cao đánh khẽ” như thời gian qua.

Page 86: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

80

- Phối hợp các ban ngành liên quan để hoàn thiện hệ thống kế toán theo

thông lệ quốc tế.

Xây dựng các giải pháp chính sách để hoàn thiện phương pháp kiểm soát

và kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng, phối hợp với các bộ, ngành hòan

thiện hệ thống kế tóan theo chuẩn mực kế tóan quốc tế (IAS).

3.2.2 Phát huy sức mạnh tài chính cho các NHTM:

Phương án then chốt trong việc tăng sức mạnh tài chính cho các NHTM là

giảm bớt số lượng những tổ chức tài chính nhỏ, không đáp ứng nhu cầu vốn tối

thiểu, tăng cường số lượng các ngân hàng có quy mô vốn lớn, hoạt động hiệu

quả. Có thể thực hiện được điều này thông qua một số giải pháp như: Trước hết,

thực hiện tăng vốn tự có của các ngân hàng bằng lợi nhuận giữ lại, cho phép và

khuyến khích các ngân hàng phát hành cổ phiếu, trái phiếu huy động vốn dài hạn

trên thị trường chứng khoán sơ cấp .v.v.

Thứ hai, nhanh chóng xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân

đối. Xây dựng cơ chế ngăn chặn sự gia tăng của nợ xấu mới. Nâng cấp cơ sở hạ

tầng tài chính cho các NHTM, phát triển thị trường vốn theo hướng tạo điều kiện

đa dạng hóa các chủ thể tham gia, các công cụ và phương thức giao dịch trên thị

trường, đặc biệt là các sản phẩm phái sinh, công cụ phòng ngừa rủi ro. Đồng thời

hỗ trợ tổ chức tín dụng phát hành các giấy tờ có giá có độ an toàn cao, bao gồm

các loại trái phiếu niêm yết trên thị trường tập trung.

Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, quy định về

tổ chức, hoạt động và quản lý, điều hành thị trường tiền tệ theo hướng mở rộng

quyền tiếp cận thị trường và khả năng phát hành các công cụ tài chính có mức độ

rủi ro thấp, trong đó khuyến khích một số ngân hàng thương mại lớn có đủ điều

kiện và năng lực trở thành thành viên chủ đạo, có vai trò kiến tạo trên các thị

trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường tiền tệ phái sinh. Phát triển thị trường chứng

khoán theo hướng tăng số lượng, chủng loại hàng hóa tham gia trên thị trường.

Thực hiện tốt yêu cầu minh bạch và công khai hóa thông tin đối với mọi nhà đầu

tư. Có những quy định chặt chẽ và xử lý nghiêm những tổ chức cá nhân thực hiện

đầu cơ và tạo giá trên trị trường. Xu hướng tự do hóa tài chính và các giao dịch

tài chính là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cấp cơ sở hạ tầng

Page 87: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

81

tài chính tại VN hiện nay. Xem xét và bãi bỏ những rào cản pháp luật, những quy

định không cần thiết gây cản trở quá trình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.

3.2.3 Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh

- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho việc kinh doanh sản phẩm phái sinh:

Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan có liên quan cần nhanh chóng nghiên

cứu, xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh

điều chỉnh hoạt động kinh doanh các công cụ tài chính phái sinh của các NHTM.

Do tính chất mới mẻ của các sản phẩm phái sinh nên cho đến tận bây giờ các

chuẩn mực kế toán và quy định về thuế vẫn chưa đuổi kịp với thế giới các công cụ

phái sinh. Trong rất nhiều năm, các sản phẩm phái sinh được ghi chép vào các

khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán (như ở Việt Nam thì hạch toán vào các chi

phí khác, chi phí tài chính, doanh thu từ hoạt động khác, hoạt động tài chính …)

vì thế cho nên rất khó xác định từ các báo cáo tài chính truyền thống các công cụ

phái sinh nào được sử dụng và tác động của những giao dịch phái sinh lên thu

nhập của công ty như thế nào. Hầu hết những khó khăn này bắt nguồn từ việc sử

dụng rộng rãi và các ứng dụng của các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro,

nên đã tạo ra các phức tạp đáng kể trong kế toán.

Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, việc xây dựng và ban hành các

văn bản nêu trên cần phải lưu ý một số vấn đề pháp lý sau đây:

Về hình thức văn bản: Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Nhà nước xem xét

ban hành luật giao dịch công cụ tài chính phái sinh điều chỉnh thống nhất về tổ

chức, hoạt động của thị trường tài chính phái sinh (không chỉ chú ý vào các thị

trường có tổ chức như sàn giao dịch giao sau, sàn giao dịch quyền chọn, mà phải

chú ý vào các giao dịch OTC vì theo kinh nghiệm thì đây là những giao dịch phổ

biến hơn tại Việt Nam) và hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh

như thông lệ ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực.

Về mặt quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh các công cụ tài

chính phái sinh của các NHTM theo nguyên tắc và theo thông lệ quốc tế, các

NHTM có thể tham gia thực hiện các nghiệp vụ phái sinh theo một trong các tư

cách: (1) Người cung cấp dịch vụ ngân hàng liên quan đến công cụ phái sinh hoặc

cung cấp dịch vụ môi giới, tư vấn cho khách hàng mua, bán công cụ phái sinh (

ngân hàng cung cấp dịch vụ); (2) Nhà đầu tư mua, bán các sản phẩm phái sinh.

Page 88: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

82

Theo loại tài sản cơ sở, các sản phẩm phái sinh có thể chia thành các sản phẩm

phái sinh dựa trên tài sản tài chính (như ngoại tệ, lãi suất, cổ phiếu, trái phiếu,

khoản vay, tiền gửi …) và các sản phẩm phái sinh dựa trên hàng hoá (như gạo,

cao su, cà phê, xăng dầu …)

- Xây dựng tiêu chí trong việc quản lý và cấp phép sản phẩm phái sinh

Nâng cao tiêu chí trong việc cấp giấy phép và đòi hỏi kỹ thuật đối với các

NHTM dựa trên những tiêu chuẩn về độ vững chắc tài chính và các chỉ số an tòan

trong họat động các Ngân hàng thương mại; căn cứ vào tính chất của từng loại

hình công cụ phái sinh, mức độ rủi ro và tư cách tham gia vào giao dịch phái sinh

của NHTM để có hình thức quản lý phù hợp.

Thứ nhất, nhóm các hoạt động /dịch vụ không cần xin phép là các dịch vụ

ngân hàng cung cấp cho khách hàng kinh doanh các công cụ phái sinh như hoạt

động môi giới, tư vấn, nhận ủy thác và quản lý tài khoản đầu tư vào các sản phẩm

phái sinh của khách hàng. Với tư cách là người cung cấp các dịch vụ cho khách

hàng đầu tư vào sản phẩm phái sinh, NHTM không phải gánh chịu rủi ro nảy sinh

từ hoạt động kinh doanh công cụ phái sinh, do vậy, việc cấp phép riêng cho các

nghiệp vụ này là không cần thiết.

Thứ hai, nhóm các hoạt động/ dịch vụ cần xin phép là hoạt động kinh

doanh công cụ tài chính phái sinh giữa các NHTM và giữa NHTM với khách

hàng. Với tư cách là một bên tham gia giao dịch mua bán các công cụ tài chính

phái sinh, các Ngân hàng thương mại sẽ phải gánh chịu rủi ro từ giao dịch nên

việc cấp phép, thanh tra và giám sát của Ngân hàng Nhà nước là cần thiết để bảo

vệ lợi ích của người gửi tiền, bảo đảm sự an toàn của bản thân ngân hàng và sự ổn

định của cả hệ thống.

Về quy trình, điều kiện cấp phép và giám sát rủi ro, do yêu cầu của quá

trình cải cách hành chính, Ngân hàng Nhà nước cần thay đổi căn bản cơ chế cấp

phép cho việc cung cấp từng dịch vụ tài chính phái sinh cụ thể của các ngân hàng

thương mại theo hướng: Ngân hàng Nhà nước không cấp phép cho từng sản phẩm

tài chính phái sinh của NHTM, mà quy định các điều kiện cần thiết để được cung

cấp từng nhóm sản phẩm tài chính phái sinh (trên cơ sở đảm bảo an toàn, có chính

sách quản trị rủi ro phù hợp, có đủ năng lực cung cấp dịch vụ). Khi có đủ các điều

kiện này, tổ chức tín dụng sẽ được thực hiện hoạt động kinh doanh các sản phẩm

Page 89: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

83

tài chính phái sinh và Ngân hàng Nhà nước chi giám sát, thanh tra việc cung cấp

dịch vụ của tổ chức tín dụng trên cơ sở tuân thủ các điều kiện do Ngân hàng Nhà

nước quy định, Ngân hàng Nhà nước không nên quy định cụ thể các loại sản

phẩm tài chính phái sinh mà NHTM được phép cung cấp trong giấy phép của

từng ngân hàng, mà nên quy định chung theo nhóm các dịch vụ tài chính phái

sinh sẽ được cung cấp (có thể theo tiêu chí phân loại dựa vào tài sản tài chính gốc

của công cụ phái sinh như các công cụ tài chính phái sinh dựa trên giao dịch

ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế, tiền gửi, khoản vay, lãi suất …).

- Tổ chức thị trường chính thức về công cụ tài chính phái sinh, tăng cường

giám sát, quản lý thông qua các quy định và kiểm toán bắt buộc

Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức thị trường chính thức về công cụ tài

chính phái sinh, cần có các cơ chế, chính sách chặt chẽ để thị trường vận hành

thông suốt. Đồng thời, cơ quan giám sát an toàn thị trường tài chính phải có đầy

đủ thông tin và có năng lực thanh tra, giám sát tốt đối với các thành viên tham gia

thị trường.

Để đảm bảo thị trường công cụ phái sinh hoạt động hiệu quả cần thực hiện

các quy định sau:

+ Quy định giới hạn giá mua và mức phí các sản phẩm phái sinh

Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá quá

cao hay quá thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác,

đây là những quy định nhằm kiểm soát các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc

kết hợp các chiến lược phòng ngừa rủi ro trong các sản phẩm phái sinh là rất

phong phú, nó cho phép kết hợp vừa phòng ngừa vừa tiến công khi có cơ hội (đặc

biệt đối với các định chế muốn tìm kiếm lợi nhuận). Dĩ nhiên mặt trái là đầu cơ

rất cao. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các sản

phẩm phái sinh đăc biệt là sản phẩm quyền chọn

+ Quy định về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh

Ngân hàng Nhà nước cần phải đưa ra quy định về mức tài khoản ký quỹ và

mức duy trì cao hơn mức quy định trên thị trường thế giới để bảo đảm việc tuân

thủ hợp đồng mặc ngay cả trong những khi có biến động cao trong giá, có thể lên

tới 25% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các nhà

môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù

Page 90: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

84

họ chỉ là những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao

dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các

ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi

ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới

+ Quy định bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế

Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống NHTM trong nước

không được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc

kỳ hạn. Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong

nước và sau đó đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng

trong hầu hết các nứơc phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt

buộc các ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến

những yếu kém về vốn trong hệ thống NHTM, Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét

và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận giao dịch hoán đổi theo quy định

quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng tái bảo hiểm từ

các giao dịch phái sinh trong nước

+ Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các

hợp đồng phái sinh

Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ

biến hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể

nói “thí điểm” hiện nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách.

Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ

là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế

giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người

mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công

cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư,

hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với

cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên

những thị trường bất đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì

thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ

các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh. Và dĩ nhiên đi liền với đó

là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này

Page 91: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

85

Thực hiện cơ chế giám sát các thành viên tham gia thị trường bằng

việc thanh tra trực tiếp hoặc yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính

(Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả

thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường

phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau,

tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch)

- Tư vấn, đào tạo các công cụ phái sinh và phòng ngừa rủi ro cho các

doanh nghiệp (đối tác mua, bán công cụ tài chính phái sinh với các NHTM)

Sản phẩm phái sinh là loại sản phẩm cao cấp và tương đối phức tạp. Việc

kết hợp các sản phẩm này trong các chiến lược phòng ngừa rủi ro rất đa dạng và khó.

Hiện nay các doanh nghiệp tuy có nhu cầu phòng ngừa rủi ro nhưng đa số họ chưa

biết sử dụng công cụ này. Muốn cho các doanh nghiệp triển khai chiến lược phòng

ngừa rủi ro thì vai trò tư vấn vô cùng quan trọng, đây là một quá trình dài cùng với

việc đào tạo thực tiễn về các công cụ phái sinh. Ngân hàng Nhà nước cùng với các

NHTM vừa phải đảm nhiệm vai trò đào tạo thực tiễn vừa làm công tác tư vấn cho

các doanh nghiệp về cách sử dụng các chiến lược phòng ngừa cũng như tổ chức các

chương trình quản trị rủi ro phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp.

- Xây dựng văn hoá quản trị rủi ro cho toàn xã hội

Hiện nay trong nền kinh tế nước ta tồn tại một tâm lý ỷ lại và liều lĩnh khá

phổ biến. Đó là người dân sẵn sàng đi gửi tiền ở một ngân hàng có số vốn khá

nhỏ, lại thường xuyên phải đi vay tiền trên thị trường liên ngân hàng để bù đắp

thanh khoản hàng ngày. Người dân “ liều lĩnh” như vậy một phần vì họ thiếu

thông tin, nhưng quan trọng hơn là vì họ ỷ lại Ngân hàng Nhà nước sẽ “bảo kê”

cho hệ thống ngân hàng, không để xảy ra hiện tượng khủng hoảng tín dụng như

nhiều năm trước đây.

Khi đã tạo ra một văn hoá quản trị rủi ro cho toàn xã hội và có các công cụ

phòng ngừa rủi ro thì người dân và doanh nghiệp sẽ tự cứu được bản thân họ, ví

dụ khi Thị trường chứng khoán giảm giá người ta có thể bán khống cổ phiếu,

hoặc phòng phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn, cho nhà đầu tư công cụ tự bảo vệ

khi giảm giá như bán khống hay quyền chọn, vừa không đi ngược quy luật, vừa

tạo ra cơ hội kinh doanh cho công ty chứng khoán và nhà đầu tư.

Page 92: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

86

Một số quan điểm cho rằng dùng công cụ phòng ngừa rủi ro đôi khi lại còn

bị thua lỗ nhiều hơn. Đã có biết bao người bị lỗ khi kinh doanh quyền chọn vàng,

ngoại tệ, giao sau, cà phê .. Nhưng vấn để ở chỗ là khi cho làm sản phẩm nào thì

phải khuyến khích người ta học, tìm hiểu rõ ràng về sản phẩm, phải có tư vấn bài

bản cho người dùng.

Đặc biệt đối với một nước đang phát triển như nước ta, những rủi ro các

chính sách mang tính chiến thuật ngắn hạn để đối phó với diễn biến kinh tế phức

tạp là khá lớn, thì cần phải làm cho người dân biết tự bảo vệ mình. Làm được như

vậy thì cũng tạo ta tính độc lập cho chính sách mang tính chiến lược dài hạn của

Nhà nước, không phải bận tâm ra các quy định ngắn hạn làm yên lòng dân nữa.

- Nâng cao chất lượng các công cụ đo lường rủi ro

Để xác định được mức độ rủi ro trong các hoạt động của NHTM một cách

chính xác hơn, các NHTM cần phải nâng cao chất lượng các công cụ đo lường rủi

ro cũ và tiếp tục áp dụng các công cụ đo lường rủi ro mới. Chẳng hạn như đối với

việc dự báo tỷ giá, để dự đoán được sự tăng hoặc giảm của tỷ giá, NHTM cần

đánh giá được tình hình ngoại tệ đó trên thị trường qua màn hình Reuter và áp

dụng mô hình dự báo tỷ giá thích hợp. Từ đó, ngân hàng tìm ra giải pháp để ngăn

ngừa rủi ro tỷ giá thích hợp. Hoặc đối với hoạt động tín dụng, cần nâng cao chất

lượng các công cụ phục vụ cho việc đánh giá cho vay đối khách hàng như cập

nhật nhanh thông tin khách hàng chính xác và hiệu quả, ứng dụng các phần mềm

hiện đại cho việc phân tích cho vay, … để từ đó giảm được rủi ro trong hoạt động

tín dụng. Tuy nhiên nếu lựa chọn một phương pháp quá hiện đại trong khi nền

tảng về cơ sở hạ tầng chưa đủ sẽ tạo ra một hiệu ứng ngược, làm tăng rủi ro trong

hoạt động của cả hệ thống NHTM trong khi các rủi ro khác vẫn còn tiềm ẩn.

Trong điều kiện của VN hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho quá trình

phân tích và đánh giá rủi ro là một trong những khó khăn lớn, bên cạnh đó còn

thiếu các văn bản hướng dẫn, thiếu các điều kiện tiên quyết về tính chủ động

trong mỗi ngân hàng cũng như khó khăn về mặt chi phí, cho nên cần lựa chọn

phương pháp đo lường rủi ro phù hợp

- Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong dự trữ

Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò cuối cùng trong hoạt động can thiệp thị

trường khi cần thiết. Tập trung dự trữ ngoại tệ có kế hoạch sử dụng hợp lý. Quỹ

Page 93: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

87

dự trữ ngoại tệ có tác dụng khi thị trường liên ngân hàng đóng băng, ngoại tệ

khan hiếm, lúc này ngân hàng nhà nước sẽ dùng quỹ này để can thiệp. Và khi thị

trường ổn định ngân hàng nhà nước sẽ mua vào để tăng trạng thái ngoại tệ.

NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, tạo ra một thị trường

ngoại hối phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ. NHNN cần tiếp tục nới rộng

biên độ dao động so với tỷ giá bình quân và thường xuyên điều chỉnh linh hoạt

biên độ này cho phù hợp với thị trường hơn. Đây là cơ sở để NHTM cũng như

doanh nghiệp quen dần với các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá.

NHNN cần tăng cường hơn nữa vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân

hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều

hành nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ

chức tín dụng là thành viên thị trường. Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường

với tư cách là người mua, người bán cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết

vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Qua việc phân tích những rủi ro đối với Ngân hàng thương mại Việt Nam,

những định hướng phát triển của hệ thống ngân hàng và những thách thức trong

quá trình hoạt động và hội nhập quốc tế, các Ngân hàng thương mại Việt Nam

cần phải xây dựng và hòan thiện những giải pháp cụ thể để phòng ngừa và kiểm

soát rủi ro. Nguyên nhân do chính bản thân ngân hàng sẽ được phòng ngừa qua

các quy trình nghiệp vụ và kỹ năng kiểm soát. Vận dụng một cách linh hoạt, kịp

thời và hợp lý các biện pháp phòng ngừa rủi ro sẽ hạn chế được rủi ro. Ngoài ra

cần có sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng nhà nước thông qua các thông tư, quyết định

và nhất là một hành lang pháp lý thông thoáng từ đó giúp các ngân hàng thương

mại Việt Nam ngày càng vững mạnh hơn trong quá trình chuẩn bị hội nhập vào

nền kinh tế khu vực và kinh tế quốc tế hiện nay.

Trong chương 3 cũng đề cập nhiều đến việc phòng ngừa rủi ro thông qua

việc vận dụng các công cụ phái sinh. Giải pháp phát triển sản phẩm phái sinh nếu

được kiểm sóat tốt sẽ giảm thiểu rủi ro không chỉ cho Ngân hàng mà cho cả

doanh nghiệp

Page 94: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

88

PHẦN KẾT LUẬN

Cuộc khủng hoàng tài chính xảy ra ở Mỹ và châu Âu đầu năm 2007 đã ảnh

hưởng tới các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, Do đó trong tình hình hiện

nay việc quản trị rủi ro trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam rất cần thiết và

cấp bách. Khủng hoảng tài chính không thể một sớm một chiều mà có thể ngăn

chặn mà cần phải có thời gian và các phương thuốc thích hợp.

Nhận thức được tầm quan trọng trong việc kiểm soát rủi ro, qua luận văn

này tác giả chỉ mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé về việc nhận định rủi ro và

đưa ra một số giải pháp vể quản trị rủi ro trong hệ thống Ngân hàng thương mại

Việt Nam :

1. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động kinh

doanh và rủi ro chủ yếu của Ngân hàng thương mại Việt Nam. khái niệm, bản

chất, phân loại, nguyên nhân rủi ro.

2. Luận văn đưa ra khái niệm về rủi ro tín dụng, Rủi ro thanh khoản, Rủi ro

thị trường, Rủi ro tác nghiệp và đánh giá toàn diện thực trạng và những rủi ro trong

hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Những thành tựu đã đạt được

cũng như những tồn tại trong các mặt hoạt động . Qua đó đi sâu phân tích một cách

sâu sắc những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng rủi ro trong hoạt động Ngân hàng cả

về môi trường kinh tế, pháp lý, bản thân các Ngân hàng và khách hàng của họ.

3. Luận văn đã đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện một số giải pháp

phòng ngừa rủi ro cụ thể:

- Đối với các Ngân hàng thương mại: Luận văn đã kiến nghị một số vấn đề

nhằm tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động của ngân hàng thương mại hạn chế

được những rủi ro có thể xẩy ra.

- Đối với Ngân hàng Nhà nước, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị nhằm

tạo điều kiện thuận lợi để các Ngân hàng thương mại có những công cụ phòng

ngừa rủi ro hũu hiệu.

Tuy nhiên kinh nghiệm còn hạn chế, công trình nghiên cứu không thiếu

khỏi thiếu sót. Kính mong Quý thày cô và các bạn đóng góp thêm cho luận văn.

Page 95: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

PHỤ LỤC 1

BASEL II VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NHTM VIỆT NAM.

Giới thiệu về sự hình thành và hoạt động của Ủy ban Basel.

Ủy ban Basel được thành lập vào năm 1974 bởi thống đốc ngân hàng trung

ương của nhóm 10 nước (G10). Hiện nay, các thành viên của Ủy ban này gồm các

nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxemembourg, Nhật, Pháp, Tây

Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Các quốc gia được đại diện bởi ngân hàng

trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng. Ủy ban này được nhóm

họp 4 lần trong một năm. Trong Ủy ban còn có 25 nhóm kỹ thuật và một số bộ

phận khác được nhóm họp thường xuyên để thực hiện các nội dung công việc của

Ủy ban. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh

toán Quốc tế ở Basel. Hội đồng thư ký 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt

động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tài chính

thành viên. Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các

cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có

bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của nó không có tính pháp lý

và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy

ban này chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát

rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng

các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho

hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp

dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các

kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban báo cáo cho thống đốc ngân

hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm G10. Từ

đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Những tiêu chuẩn bao

quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan trọng trong công

việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ

bản là (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám

sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu đề ra, từ năm

Page 96: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liên quan đến

vấn đề này. Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường

vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay

Basel I. Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn

tối thiểu là 8%. Từ năm 1988, Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia

thành viên mà còn ở hầu hết các nước khác với các ngân hàng hoạt động quốc tế.

Trong nhiều năm qua, Ủy ban Basel đã dịch chuyển nhanh chóng để đưa ra các

tiêu chuẩn giám sát rộng rãi toàn cầu. Qua việc hợp tác chặt chẽ với nhiều ủy ban

giám sát hoạt động.

Basel II được ban hành vào ngày 26/06/2004. Tài liệu này có thể làm cơ sở

cho các quá trình phê duyệt và xây dựng luật lệ quốc gia về giám sát hoạt động

ngân hàng và cho các ngân hàng hoàn chỉnh sự chuẩn bị của họ cho việc thực

hiện các tiêu chuẩn mới. Tuy nhiên, tình hình thực hiện hiệp ước đã bị đình trệ.

Tháng 9 năm 2005, các đại diện của phía ngân hàng ở Mỹ (bao gồm FED, FDIC,

OCC và OTS) đã đề nghị xem xét lại vấn đề áp dụng Basel 2 ở Mỹ. Việc này làm

tiến trình áp dụng chậm đi 12 tháng, chủ yếu là để điều chỉnh lại cách tính rủi ro

thị trường và hiệu ứng không có khả năng chi trả kép (double default effects). Và

sau đó tiến trình này tiếp tục chậm lại đến mãi tháng 11/2007 thì phía Mỹ mới

chính thức chấp nhận áp dụng Basel 2. Và tiếp đó là đến năm 2008 thì tất cả ngân

hàng của khối EU mới tiến hành báo cáo về mức độ an toàn vốn (captial

adequacy) theo chuẩn mực Basel mới. Hiệp ước Basel II bao gồm những khuyến

nghị về luật và quy định ngành ngân hàng, được ban hành bởi Uỷ ban Basel về

giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision – BCBS). Hiệp

ước mới tỏ ra là một bước tiến bộ lớn, cụ thể:

- Về mặt kinh tế, Về mặt định lượng công tác đo lường rủi ro tín dụng,

Hiệp ước này đưa ra một chọn lựa giữa các phương pháp “được tiêu chuẩn hóa”,

“cơ bản” và “nâng cao”. Nó khắc phục những hạn chế của các “tỷ số Cooke”,

bằng một số hạn chế các trọng số và một trọng số duy nhất cho mọi đối tác rủi ro

100%. Không có thay đổi nào đối với định nghĩa về vốn và vốn Cấp 1/Cấp 2 lẫn

hệ số 8%.

Page 97: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

- Một loạt các tỷ số mới (các tỷ số McDonough) được đưa ra nhằm khắc

phục sự thiếu sót này. Các trọng số về rủi ro xác định tỷ lệ vốn quy định đối với

rủi ro tín dụng. Các trọng số được dựa trên “các thành phần” rủi ro tín dụng, sẽ

cho phép phân biệt rủi ro tín dụng rõ hơn nhiều. Các ngân hàng đã dựa vào các

trọng số quy định và tiền phạt không gắn với rủi ro, dẫn tới sự bóp méo trong

đánh giá rủi ro, giá cả và các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động đã điều chỉnh

với rủi ro v.v… Hiệp ước Mới cung cấp một khung “nhạy cảm với rủi ro” hơn, sẽ

giảm đáng kể những bóp méo như vậy. Hơn nữa, nó làm rõ rằng ưu tiên chính sẽ

là thu thập số liệu về tất cả các nhân tố quan trọng gây ra rủi ro tín dụng, sẽ tạo ra

một động cơ lớn giải quyết “sự không đầy đủ” của dữ liệu rủi ro tín dụng.

- Nó cũng mở rộng phạm vi yêu cầu vốn đối với rủi ro hoạt động. Các đo

lường về rủi ro hoạt động vẫn rất “sơ sài” trong một thời gian bởi vì thiếu thông

tin, nhưng hiệp ước này sẽ kích thích sự thay đổi một cách nhanh chóng.

Từ quan điểm kinh tế, hiệp ước này gặp phải những hạn chế về sự chính

xác của các chỉ tiêu đo lường dựa trên tiền phạt, một hạn chế được làm giảm nhẹ

bởi nhu cầu làm cân đối giữa tính chính xác và tính thực tiễn.

Basel II sử dụng khái niệm “ba trụ cột” :

Trụ cột 1: Các yêu cầu về vốn tối thiểu

Trụ cột 2: Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất lượng

quản lý rủi ro của ngân hàng

Trụ cột 3: Tuân thủ kỷ luật thị trường

Ba trụ cột này sẽ góp phần tạo ra một mức độ an toàn và lành mạnh cao

hơn trong hệ thống tài chính.

Trụ cột 1: Các yêu cầu về vốn tối thiểu

Những thay đổi cơ bản đối với yêu cầu vốn tối thiểu được đề ra trong Hiệp

ước 1988 là những phương cách tiếp cận rủi ro tín dụng và tính cả những yêu cầu

vốn về rủi ro hoạt động. Hiệp ước này đưa và một loạt những “chọn lựa nhạy cảm

với rủi ro” để nhấn mạnh đến cả hai loại rủi ro. Đối với rủi ro tín dụng, những

chọn lựa này bao gồm phương pháp chuẩn hóa, với những yêu cầu đơn giản nhất,

và mở rộng thành các phương pháp Dựa trên Xếp hạng Nội bộ (IRB) “cơ bản” và

Page 98: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

“nâng cao”. Xếp hạng nội bộ là những đánh giá rủi ro tín dụng tương đối của

người đi vay và/hoặc các tổ chức đi vay, do các ngân hàng quy định.

Hiệp ước mới mong muốn không đưa ra một sự gia tăng thuần hoặc giảm

thuần – tính trung bình – trong vốn điều lệ tối thiểu. Với các phương pháp IRB,

mục tiêu cuối cùng là nâng mức vốn điều lệ để hỗ trợ cho rủi ro tín dụng và để

đưa ra những khích lệ về vốn đối với phương pháp chuẩn hóa thông qua trọng số

rủi ro tín dụng thấp cho các phương pháp “cơ bản” và “nâng cao”.

Theo Hiệp ước mới này, mẫu số của tỷ số tổng vốn tối thiểu sẽ bao gồm 3

phần: tổng tài sản đã điều chỉnh với rủi ro đối với rủi ro tín dụng, cộng với 12,5

lần tổng tỷ lệ vốn quy định cho rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Giả định

rằng một ngân hàng có 875$ tài sản đã điều chỉnh rủi ro, vốn quy định đối với rủi

ro thị trường là 10$ và vốn quy định cho rủi ro hoạt động là 20$, mẫu số của tỷ số

tổng vốn sẽ bằng 875+[(10+20)x12.5] hay bằng 1.250$.

Các trọng số rủi ro theo Trụ cột 1

Hiệp ước mới này phân biệt rõ ràng giữa các trọng số rủi ro, sử dụng một

“danh mục” các phương pháp được chọn là “chuẩn hóa”, “cơ bản”, “nâng cao”.

Như trong hiệp ước hiện tại, các trọng số rủi ro phụ thuộc vào loại người đi vay:

quốc gia, ngân hàng, hoặc công ty. Không giống như trong hiệp ước hiện nay, sẽ

không có sự khác biệt về trọng số đối với rủi ro quốc gia phụ thuộc vào việc quốc

gia đó có là thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) hay không.

Thay vào đó, các trọng số rủi ro đối với các yếu tố rủi ro phụ thuộc vào đánh giá

tín dụng bên ngoài. Việc xử lý khả năng bị rủi ro ngoài bảng cân đối kế toán vẫn

hầu như không thay đổi trừ một vài ngoại lệ.

Để cải thiện độ nhạy cảm rủi ro trong khi vẫn giữ phương pháp chuẩn được

đơn giản, Ủy ban đề nghị cơ sở để xác định trọng số rủi ro là đánh giá tín dụng

của các tổ chức bên ngoài. Việc sử dụng các trọng số giám sát là sự khác biệt lớn

so với phương pháp IRB, mà chủ yếu dựa trên việc xếp hạng của tổ chức bên

ngoài. Phương pháp này nhạy cảm với rủi ro hơn hiệp ước hiện tại, thông qua việc

đưa thêm rủi ro công ty vào (50%), cộng với trọng số rủi ro 150% cho khả năng

xếp hạng thấp. Trường hợp không được xếp hạng có trọng số 100%, thấp hơn

trọng số 150%. Loại có rủi ro cao (150%) cũng được dùng cho một số loại tài sản

Page 99: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

nhất định. Phương pháp chuẩn hóa không cho phép trọng số thay đổi theo kỳ hạn,

ngoại trừ trong trường hợp cho vay ngắn hạn đối với các đối tác ngân hàng trong

loại xếp hạng trung bình, nơi trọng số giảm từ 50% xuống còn 20% và từ 100%

xuống còn 50% tùy thuộc vào mức độ xếp hạng.

Loại chưa được xếp hạng có trọng số 150% có thể gây ra một hành vi “lựa

chọn ngược/bất lợi”, theo đó các thể nhân bị xếp hạng thấp có thể từ bỏ việc xếp

hạng để hưởng trọng số rủi ro 100% thay vì 150%. Mặt khác, hầu hết các công ty –

và ở nhiều nước, phần lớn các ngân hàng – không cần có xếp hạng để tài trợ cho

các hoạt động của họ. Do vậy, việc mà một người đi vay không có xếp hạng thường

không phải là một dấu hiệu về chất lượng tín dụng thấp. Hiệp ước này cố gắng phá

bỏ sự thỏa hiệp giữa các sự kiện mâu thuẫn này và khuyến khích các tổ chức thanh

gia giám sát của quốc gia có sự linh hoạt trong việc điều chỉnh trọng số. Trọng số

150% hiện nay vẫn phụ thuộc vào việc tham vấn của ngành ngân hàng.

Chúng ta đưa ra bảng về các trọng số rủi ro cho xếp hạng ngân hàng và

công ty.

Bảng 1.1: Trọng số rủi ro cho xếp hạng ngân hàng và công ty

Trọng số rủi ro ngân hàng

Từ AAA

đến AA-

A+ đến

A-

BBB+

đến BBB-

BB+ đến

B-

Dưới B- Không được

xếp hạng

Trọng số

rủi ro

0% 20% 50% 100% 150% 100%

Trọng số rủi ro công ty

Từ AAA

đến AA-

A+ đến A- BBB+ đến

BB-

Dưới BB- Không được

xếp hạng

Trọng số

rủi ro

20% 50% 100% 150% 100%

Phương pháp IRB đề ra những nguyên tắc để đánh giá rủi ro tín dụng về

mặt kinh tế. Nó đề xuất một sự xử lý tương tự với phương pháp chuẩn hóa cho rủi

ro công ty, ngân hàng và quốc gia, cộng với các chương trình riêng cho khả năng

Page 100: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

bị rủi ro của ngân hàng bán lẻ, tài chính dự án và vốn cổ phần. Có hai phiên bản

của phương pháp IRB: phương pháp “cơ bản” và phương pháp “nâng cao”.

Đối với mỗi loại rủi ro, việc xử lý sử dụng ba thành tố chính được gọi là

“các thành phần rủi ro”. Một ngân hàng có thể sử dụng hoặc là ước tính riêng của

mình cho từng ngân hàng hoặc các ước tính giám sát được chuẩn hóa, phụ thuộc

vào phương pháp này. Một “Chức năng trọng số rủi ro” chuyển các thành phần

rủi ro thành các trọng số rủi ro để tính tài sản được điều chỉnh rủi ro.

Các thành phần rủi ro là xác suất vỡ nợ (DP), thiệt hại do vỡ nợ (Lgd) và

“Dễ bị vỡ nợ - Exposure At Default” (EAD). Ước tính về DP phải thể hiện quan

điểm bảo thủ về DP trung bình dài hạn, “thông qua chu kỳ này” hơn là đánh giá

ngắn hạn về rủi ro. Các trọng số rủi ro là một chức năng của DP và Lgd.

Kỳ đáo hạn là một thành phần rủi ro tín dụng mà sẽ ảnh hưởng đến các

trọng số rủi ro, căn cứ vào mục tiêu của độ nhạy cảm rủi ro đã tăng lên. Tuy

nhiên, việc tính đến cả kỳ đáo hạn sẽ làm tăng thêm tính phức tạp và làm nản chí

đối với việc cho vay dài hạn. Do vậy, hiệp ước này đưa ra các công thức thay thế

cho việc tính đến cả kỳ đáo hạn, mà làm giảm bớt ảnh hưởng đơn giản của cơ chế

lên vốn.

Phương pháp này đưa vào Trọng số Rủi ro Tiêu chuẩn (BRW) cho việc

tính đến ảnh hưởng của kỳ đáo hạn lên rủi ro tín dụng và các trọng số vốn. Chức

năng này phụ thuộc vào xác suất vỡ nợ DP. Các tiêu chuẩn rủi ro đề cập đến

trường hợp cụ thể của một tài sản có kỳ hạn 3 năm, với các xác suất vỡ nợ khác

nhau và một Lgd 50%. Ba điểm đại diện này thể hiện độ nhạy của các trọng số

rủi ro đối với xác suất vỡ nợ hàng năm.

Độ nhạy cảm về trọng số rủi ro có tính đến kỳ hạn: trường hợp tiêu chuẩn

(tài sản có kỳ hạn 3 năm, 50% Lgd)

Xác suất vỡ nợ (%) DP 0.03 0.7 20

Trọng số rủi ro tiêu chuẩn (%)

BRW 14 100 625

Đối với DP = 0.7, BRW là 100% và trọng số rủi ro tối đa, với DP = 0,2 đạt

625%.Giá trị này là mức trần cho mọi kỳ đáo hạn và mọi xác suất vỡ nợ. Nét đặc

Page 101: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

trưng trọng số này với sự thay đổi DP nhạy cảm hơn các trọng số trong phương

pháp chuẩn hóa mà thay đổi từ 20% đến 150% cho mọi kỳ hạn dài hơn 1 năm.

Những trọng số này tăng với tỷ lệ ít hơn với xác suất vỡ nợ cho đến khi chúng đạt

mức trần.

Hiệp ước này đề nghị sử dụng kỳ hạn phạt 3 năm đối với mọi tài sản cho

phương pháp “cơ bản” nhưng để mở cửa đối với việc sử dụng kỳ đáo hạn hiệu

dụng. Các trọng số rủi ro đã điều chỉnh đối với kỳ hạn hiệu dụng được áp dụng

trong phương pháp “nâng cao”.

Khả năng bị rủi ro cho các khỏan cho vay cá thể

Hiệp ước này đề nghị xếp các khả năng bị rủi ro của từng nhóm thành các

loại khác nhau.Việc đánh giá thành phần rủi ro sẽ theo mức độ của từng loại hơn

là mức độ sẽ bị rủi ro của từng cá nhân.Trong trường hợp có khả năng bị rủi ro

bán lẻ, hiệp ước này cũng đề nghị một sự đánh giá khác về rủi ro, để đánh giá một

cách trực tiếp “lỗ kỳ vọng”. Lỗ kỳ vọng là sản phẩm của xác suất vỡ nợ (DP) và

thiệt hại do vỡ nợ (Lgd). Phương pháp này né tránh việc đánh giá riêng, cho từng

loại của DP và Lgd

Phương pháp IRB cơ bản

Phương pháp xếp hạng nội bộ IRB “cơ bản” cho phép các ngân hàng đáp

ứng các chuẩn mực giám sát thiết thực để đưa vào đánh giá của chính mình về xác

súât vỡ nợ cùng với con nợ. Những ước tính về những nhân tố rủi ro tăng thêm

như thiệt hại xảy ra bị gánh chịu bởi ngân hàng trên cơ sở vỡ nợ sẽ theo những

ước tính được chuẩn hóa. Khả năng bị rủi ro không được đảm bảo bởi một hình

thức cầm cố sẽ gặp phải thiệt hại vỡ nợ cố định và phụ thuộc vào việc giao dịch

này là giao dịch chính hay giao dịch phụ. Các yêu cầu tối thiểu cho phương pháp

IRB cơ bản liên quan đến sự khác biệt đầy ý nghĩa về rủi ro tín dụng với hoạt

động xếp hạng nội bộ, tính toàn diện của hệ thống xếp hạng, các tiêu chí của hệ

thống xếp hạng..

Có nhiều phương pháp và nguồn dữ liệu mà các ngân hàng có thể sử dụng

để kết hợp một ước tính về DP với từng mức điểm nội bộ của nó. Ba phương

pháp lớn là: sử dụng dữ liệu dựa trên kinh nghiệm vỡ nợ của chính ngân hàng;

Page 102: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

phác thảo dữ liệu bên ngoài và sử dụng mô hình thống kê về phá sản. Do vậy, một

ngân hàng có thể sử dụng phương pháp cơ bản để xếp hạng theo xác suất vỡ nợ.

Phương pháp IRB nâng cao

Sự khác biệt đầu tiên so với hương pháp “cơ bản” là việc các ngân hàng

đánh giá các thành phần rủi ro đó cộng với thông số thiệt hại vỡ nợ nhằm mô tả

sự phục hồi. Thường thì các ngân hàng đã thực hiện các thang xếp hạng trong một

thời gian, nhưng họ thiếu dữ liệu rủi ro về sự phục hồi.

Việc xử lý kỳ đáo hạn cũng khác phương pháp “cơ bản”, đề cập đến một

chuẩn mực duy nhất cho mọi tài sản. Phương pháp trong số rủi ro tiêu chuẩn

(BRW) phụ thuộc vào kỳ đáo hạn trong phương pháp “nâng cao”. Mức trần 625%

sẽ áp dụng như trong mức phạt kỳ hạn 3 năm. Ảnh hưởng kỳ hạn này phụ thuộc

vào xác suất vỡ nợ hàng năm như trong phương pháp “cơ bản”, cộng với số hạng

b trong hàm BRW của xác suất vỡ nợ và kỳ đáo hạn phụ thuộc vào kỳ đáo hạn

hiệu dụng của tài sản. Đây là một phản ứng toàn diện hơn đối với nhu cầu làm

cho vốn nhạy cảm hơn với ảnh hưởng kỳ hạn. Nó phá vỡ một thỏa thuận giữa “sự

nhạy cảm rủi ro” và yêu cầu thực tế về việc tránh tỷ lệ vốn quy định nặng đối với

các cam kết dài hạn mà sẽ làm nản lòng các ngân hàng trong việc tham gia vào

các giao dịch như vậy.

Cần chấm dứt ngay việc cho phép các ngân hàng tính yêu cầu vốn của họ

dựa trên các mô hình rủi ro tín dụng của danh mục của chính mình. Các lý do là

hiện nay thiếu độ tin cậy của các thông tin đầu vào được đòi hỏi bởi các mô hình

như vậy, cộng với khó khăn trong việc xác định độ tin cậy của các ước tính về

vốn của mô hình. Tuy nhiên, bằng cách đề ra việc hình thành dữ liệu rủi ro cho ba

năm tới, Hiệp ước Basel Mới chuẩn bị cho việc thực hiện sau này.

Do khó khăn của việc đánh giá ý nghĩa của những phương pháp này về yêu

cầu vốn, có thể đưa ra một vài hướng dẫn thận trọng như mức vốn tối thiểu của

Ngân hàng. Các ngân hàng có thể dự đoán và thiết lập mức đệm vốn tăng thêm

của chính họ (cụ thể thông qua Trụ cột 2) trong các kỳ tăng trưởng kinh tế.

Tài sản bảo đảm

Hiệp ước Mới chấp nhận sự ghi nhận rộng hơn về các kỹ thuật làm giảm rủi

ro tín dụng, kể cả cầm cố, bảo đảm, và các phái sinh tín dụng, và tính giá trị ròng.

Page 103: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

Vật cầm cố

Định nghĩa về tài sản cầm cố hợp lệ rộng hơn định nghĩa trong Hiệp ước

năm 1988. Nói chung, các ngân hàng có thể công nhận tài sản cầm cố là: tiền mặt;

một số loại chứng khoán nợ do các quốc gia phát hành, các tổ chức thuộc khu vực

công, ngân hàng, các công ty chứng khoán, và các công ty cổ phần phát hành; các

chứng khoán vốn được giao dịch trên các thị trường chính thống; các cổ phần của

các quỹ hỗ tương, vàng.

Để cầm cố, cần thiết phải tính đến thay đổi thời gian của giá trị cũng như

khả năng bị rủi ro của vật cầm cố. “Mức vay thế chấp” xác định tài sản cầm cố bổ

sung cần thiết đối với khả năng bị rủi ro để đảm bảo việc bảo vệ rủi ro tín dụng

một cách hiệu quả, căn cứ vào các khoảng thời gian cần thiết để điều chỉnh lại

mức độ cầm cố (cầm cố bổ sung), ghi nhận thất bại của đối tác trong việc thanh

toán hoặc giao lợi nhuận và khả năng thanh lý vật thế chấp của ngân hàng.

Tài sản đảm bảo và các phái sinh tín dụng

Đối với một ngân hàng, để đạt được bất kỳ sự trợ giúp về vốn nào đó từ

việc nhận các sản phẩm phái sinh tín dụng hoặc vật bảo đảm, việc bảo đảm tín

dụng phải là trực tiếp, rõ ràng, không thể hủy ngang và không có điều kiện. Các

ngân hàng chỉ chịu thiệt hại trong các giao dịch được đảm bảo khi có sự vỡ nợ

của cả người mắc nợ và người bảo đảm. Ảnh hưởng “sự vỡ nợ của cả hai” sẽ

giảm rủi ro tín dụng nếu có tương quan thấp giữa xác suất vỡ nợ của người mắc

nợ và người bảo lãnh. ( Ảnh hưởng “vỡ nợ kép”).

Khả năng kết thành danh mục

Một mở rộng khác của Hiệp ước mới là yêu cầu vốn tối thiểu không chỉ

phụ thuộc vào tính chất của khả năng bị rủi ro của cá nhân mà còn phụ thuộc vào

“rủi ro tập trung” của danh mục cho vay của ngân hàng. Sự tập trung chỉ rõ những

quy mô lớn về khả năng bị rủi ro đối với những người đi vay đơn lẻ, hoặc các

nhóm những người đi vay có quan hệ chặt chẽ với nhau, về mặt tiềm năng gây ra

thiệt hại lớn. Hiệp ước này đưa ra một chỉ tiêu đo lường tính kết thành danh mục

(granularity) và gắn nhân tố rủi ro này vào phương pháp IRB bằng cách điều

chỉnh vốn giám sát chuẩn được áp dụng cho mọi khả năng bị rủi ro, ngoại trừ

những khả năng trong danh mục bán lẻ. Xử lý này không bao gồm ngành, địa lý,

Page 104: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

hoặc các dạng tập trung rủi ro tín dụng hơn là tập trung về quy mô. Điều chỉnh

“tính kết thành danh mục” áp dụng đối với toàn bộ những tài sản được điều chỉnh

rủi ro ở cấp độ ngân hàng hợp nhất.

Các rủi ro cụ thể khác

Hiệp ước mới nhắm vào các loại rủi ro khác nhau: chứng khoán hóa tài

sản, tài chính dự án, khả năng bị rủi ro của vốn cổ phần.

- Hiệp ước này xem việc chứng khoán hóa tài sản cần phải xử lý nghiêm

khắc hơn.

- Nó cũng đặt ra một nguyên tắc “clean break” theo đó việc bán tài sản

miễn truy đòi nên là không mơ hồ, giới hạn sự cám dỗ của các ngân hàng đối với

việc hỗ trợ các cơ cấu được tài trợ vì động cơ danh tiếng (rủi ro danh tiếng).

- Các vấn đề chứng khoán khác liên quan đến rủi ro hoạt động. Sự chứng

khoán hoá quay vòng có đặc điểm trừ dần trong giai đoạn đầu, hoặc các dòng

thanh khoản được cung cấp cho các sản phẩm phái sinh.

- Hiệp ước này cũng đặt ra các phương pháp nhạy cảm với rủi ro cho các vị

thế vốn CP được nắm giữ trong sổ sách của ngân hàng. Mục đích là cứu vãn khả

năng các ngân hàng có thể hưởng lợi từ một tỷ lệ vốn quy định thấp hơn khi họ

nắm giữ vốn cổ phần hơn là nợ.

Rủi ro lãi suất

Hiệp ước này cho rằng sẽ phù hợp hơn nếu xử lý rủi ro lãi suất trong sổ

sách ngân hàng theo Trụ cột 2, hơn là xác định các yêu cầu vốn. Việc này hàm ý

không có gánh nặng về vốn, nhưng sẽ có một quy trình giám sát nâng cao. Hướng

dẫn về rủi ro lãi suất xem hệ thống nội bộ ngân hàng là công cụ chính cho việc đo

lường rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng và phản ứng của hoạt động giám sát.

Để tạo điều kiện cho việc điều hành rủi ro lãi suất của các chuyên gia giám sát

của các định chế, các ngân hàng nên đưa ra kết quả từ hệ thống đánh giá nội bộ

của mình thông qua việc sử dụng các biến động lãi suất được chuẩn hóa. Nếu các

chuyên gia giám sát xác định rằng ngân hàng đang không nắm giữ mức vốn tương

xứng với mức độ rủi ro lãi suất, họ có thể đòi hỏi ngân hàng giảm rủi ro hoặc gia

tăng lượng vốn nắm giữ hoặc cả hai.

Page 105: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

Rủi ro hoạt động

Hiệp ước mới nêu ra một định nghĩa chuẩn về rủi ro hoạt động: “ là loại rủi ro

xảy ra tổn thất do các qui trình, hệ thống hay nhân viên trong nội bộ ngân hàng vận hành

không tốt hoặc do các nguyên nhân khách quan bên ngoài”.

Đây là căn cứ đầu tiên trong việc phát triển tỷ lệ vốn quy định tối thiểu,

ước tính rủi ro hoạt động ở mức 20% vốn điều lệ tối thiểu như được đo lường

theo Hiệp ước 1988. Hiệp ứơc mới đề nghị một loạt gồm 3 phương pháp đo lường

mức vốn tối thiểu căn cứ vào rủi ro hoạt động là: chỉ số cơ bản; tiêu chuẩn; đo

lường nội bộ.

“Phương pháp chỉ số cơ bản” nối tỷ lệ vốn quy định cho rủi ro hoạt động

với một chỉ số duy nhất được dùng như một con số chung đo lường khả năng bị

rủi ro của toàn hệ thống ngân hàng. Ví dụ, nếu chỉ số này là thu nhập gộp, mỗi

ngân hàng sẽ nắm giữ vốn cho rủi ro hoạt động bằng với một tỷ lệ phần trăm cố

định của thu nhập gộp.

“Phương pháp chuẩn” xây dựng trên cơ sở phương pháp chỉ số cơ bản

bằng cách chia các hoạt động của ngân hàng thành một số hoạt động kinh doanh

tiêu chuẩn (cụ thể là tài chính doanh nghiệp và ngân hàng bán lẻ). Với mỗi loại

hoạt động kinh doanh, tỷ lệ vốn quy định là một chỉ số riêng về rủi ro hoạt động

nhân với một tỷ lệ cố định.

“Phương pháp đo lường nội bộ” cho phép các ngân hàng riêng lẻ dựa trên

dữ liệu nội bộ đề tính toán vốn điều lệ. Kỹ thuật này đòi hỏi 3 thông tin nhập lượng

cho một nhóm những hoạt động kinh doanh cụ thể và các loại rủi ro: chỉ số khả

năng bị rủi ro hoạt động; xác suất xảy ra thiệt hại, những thiệt hại do những sự kiện

như thế gây ra. Đồng thời, những thành phần này tạo nên một sự phân phối thiệt hại

cho các rủi ro hoạt động. Tuy nhiên, phân phối thiệt hại này có thể khác phân phối

thiệt hại trong toàn ngành, bằng cách ấy đòi hỏi một sự điều chỉnh.

Trụ cột 2: Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất

lượng quản lý rủi ro của ngân hàng

Trụ cột thứ hai của hiệp ước mới nhắm vào việc đảm bảo rằng mỗi ngân

hàng có quy trình nội bộ tốt để đánh giá mức an toàn vốn dựa trên đánh giá toàn

diện về rủi ro. Các chuyên gia giám sát sẽ chịu trách nhiệm đánh giá ngân hàng

Page 106: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

làm tốt như thế nào trong việc đánh giá nhu cầu vốn của họ tương quan với rủi ro.

Ủy ban này lưu ý đến tính lỷ luật của thị trường thông qua việc cải tiến việc công

bố thông tin như là một phần cơ bản của Hiệp ước mới. Nó xem yêu cầu công bố

thông tin và những kiến nghị sẽ cho phép các thành viên của thị trường đánh giá

các mẩu thông tin quan trọng để áp dụng hiệp ước điều chỉnh.

Các phương pháp tính độ nhạy cảm với rủi ro do Hiệp ước mới phát triển

sẽ chủ yếu dựa trên các phương pháp nội bộ, cho ngân hàng nhiều chủ động hơn

trong việc tính toán yêu cầu vốn của họ. Do vậy, các yêu cầu công bố thông tin

riêng rẽ trở thành những điều kiện tiên quyết cho việc ghi nhận hoạt động thanh

tra giám sát của các phương pháp nội bộ đối với rủi ro tín dụng, kỹ thuật làm

giảm rủi ro tín dụng và những lĩnh vực hoạt động khác.

Bốn nguyên tắc cơ bản tạo nên chính sách của các chuyên gia giám sát:

- Các ngân hàng nên có một quy trình đánh giá tổng thể vốn tương quan

với rủi ro và một chiến lược duy trì mức vốn của họ.

- Các chuyên gia giám sát nên xem xét và đánh giá việc đánh giá và chiến

lược bảo đảm đủ vốn nội bộ của các ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và

đảm bảo sự tuân thủ với các tỷ số vốn điều lệ. Các chuyên gia giám sát sẽ thực

hiện các hành động giám sát thích hợp nếu họ không thỏa mãn với kết quả của

quá trình này.

- Các chuyên gia giám sát sẽ kỳ vọng các ngân hàng hoạt động trên mức

các tỷ số vốn điều lệ tối thiểu và sẽ có khả năng đòi hỏi ngân hàng nắm giữ vốn

cao hơn mức tối thiểu này.

- Các chuyên gia giám sát sẽ cam thiệp ngay ở giai đoạn đầu tiên để ngăn

chặn tình trạng vốn giảm xuống thấp hơn mức tối thiểu cần có để hỗ trợ cho rủi ro

của một ngân hàng cụ thể, và nên đòi hỏi các hành động điều chỉnh nếu vốn

không được duy trì và khắc phục

Trụ cột thứ III: Tuân thủ kỷ luật thị trường.

Trụ cột thứ III làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân

hàng phải công bố. Phần này được thiết kế để cho phép thị trường có một bức

tranh hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro tổng thể của ngân hàng và cho phép các đối

tác của ngân hàng định giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý

Page 107: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo

nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách

các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về

cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy

cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro

tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.

Như vậy, với quá trình phát triển của Uỷ Ban Basel và những Hiệp ước mà

tổ chức này đưa ra, các NHTM càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách

minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy

vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.

Page 108: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

PHỤ LỤC 2

VỐN ĐIỀU LỆ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Stt Tên ngân hàng Số, ngày cấp

giấy phép

Vốn điều

lệ (Tỷ

đồng)

Địa chỉ trụ sở chính

1 Ngân hàng Chính sách xã hội

Việt Nam

230/QĐ-NH5

ngày

01/09/1995

5.988

68 Đường Trường

Chinh, Đống Đa, Hà

Nội

2 Ngân hàng Công thương Việt

Nam

285/QĐ-NH5

ngày

21/09/1996

7.554 108 Trần Hưng Đạo,

Hà Nội

3

Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn Việt

Nam

280/QĐ-NH5

ngày

15/01/1996

10.400 Số 2 Láng Hạ, Ba

Đình, Hà Nội

4 Ngân hàng cổ phần ngọai

thương Việt Nam

Quyết định số

115/CP Ngày

30/10/1962

12.100

198 Trần Quang

Khải, Hoàn Kiếm,

Hà Nội

5 Ngân hàng Phát triển nhà

Đồng bằng sông Cửu Long

769/TTg ngày

18/09/1997 744

Số 9 Võ Văn Tần -

Quận 3 - TP Hồ Chí

Minh

6 Ngân hàng phát triển Việt

Nam

108/2006/QĐ-

TTg ngày

15/05/2006

5.000 25A Cát Linh, Hà

Nội

7 Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Việt Nam

287 /QĐ-NH5

ngày

21/09/1996

7.490 191 Bà Triệu, Hoàn

Kiếm, Hà Nội

8 An Bình (An Binh 0031/NH-GP 2.300 47 Điện Biên Phủ,

Page 109: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

Commercial Joint Stock

Bank- ABB)

ngày

15/04/1993

Q1, TPHCM

9 Bắc Á (Bac A Commercial

Joint Stock Bank)

0052/NHGP

ngày

01/09/1994

940 117 Quang Trung.

TP Vinh. Nghệ An

10

Dầu khí Toàn Cầu (Global

Petro Commercial Joint Stock

Bank)

0043/NH-GP

ngày

13/11/1993

1.000 273 Kim Mã, Ba

Đình, Hà Nội

11

Gia Định (Gia Dinh

Commercial Joint Stock

Bank)

0025/NHGP

ngày

22/08/1992

500

135 Phan Đăng Lưu,

Q. Phú Nhuận,

TPHCM

12

Hàng hải (Maritime

Commercial Joint Stock

Bank)

0001/NHGP

ngày

08/06/1991

1.500

Tòa nhà VIT 519

Kim Mã, Ba Đình,

Hà Nội

13

Kiên Long (Kien Long

Commercial Joint Stock

Bank)

0054/NH-GP

ngày

18/09/1995

580

44 Phạm Hồng Thái

– P.Vĩnh Thanh

Vân–TX Rạch giá-

Tỉnh Kiên Giang

14

Kỹ Thương (Vietnam

Technological and

Commercial Joint Stock

Bank)

0040/NHGP

ngày

06/08/1993

2.521 70-72 Bà Triệu. Hà

Nội

15

Liên Việt (LienViet

Commercial Joint Stock

Bank)

91/GP-NHNN

ngày 28/3/2008 3.300

32 Nguyễn Công

Trú, TX Vị Thanh,

Tỉnh Hậu Giang

16 Miền Tây (Western Rural

Commercial Joint Stock

0016/NH-GP

ngày 1.000

127 Lý Tự Trọng, P.

An Hiệp, TP Cần

Page 110: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

Bank) 06/04/1992 Thơ

17

Nam Việt (Nam Viet

Commercial Joint Stock

Bank)

0057/NH-GP

ngày

18/09/1995

1.000

39-41-43 Bến

Chương Dương, Q1,

TPHCM

18

Nam Á (Nam A Commercial

Joint Stock Bank- NAMA

Bank)

0026/NHGP

ngày

22/08/1992

1.252 97 bis Hàm Nghi,

Q1, TPHCM

19

Ngoài quốc doanh (Vietnam

Commercial Joint Stock Bank

for private Enterprise)

0042/NHGP

ngày

12/08/1993

2.000 Số 8 Lý Thái Tổ,

Hoàn Kiếm, Hà Nội

20 Nhà Hà Nội (Habubank)

0020/NHGP

ngày

06/06/1992

2.000 B7 Giảng Võ, Ba

Đình. Hà Nội

21

Phát triển Nhà TPHCM

(Housing development

Commercial Joint Stock

Bank)

0019/NHGP

ngày

06/06/1992

1.000 33-39 Pasteur. Q1.

TP HCM

22 Phương Nam

0030/NHGP

ngày

17/03/1993

1.434 279 Lý Thường

Kiệt. Q11. TP HCM

23

Phương Đông (Orient

Commercial Joint Stock

Bank)

0061/NHGP

ngày

13/04/1996

1.111 45 Lê Duẩn. Q1. TP

HCM

24

Quân Đội (Military

Commercial Joint Stock

Bank)

0054/NHGP

ngày

14/09/1994

2.000 03 Liễu Giai. Q Ba

Đình. Hà Nội

25 Quốc tế (Vietnam 0060/NHGP 2.000 64-68 Lý Thường

Page 111: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

International Commercial

Joint Stock Bank- VIB)

ngày

25/01/1996

Kiệt. Hà Nội

26 Sài Gòn (Saigon Commercial

Joint Stock Bank-SCB)

0018/NHGP

ngày

06/06/1992

1.970 193- 203 Trần Hưng

Đạo, Q1 TPHCM

27

Sài Gòn-Hà Nội (Saigon-

Hanoi Commercial Joint

Stock Bank)

0041/NH-GP

ngày

13/11/1993

2.000

138- Đường 3/2-

Phường Hưng Lợi –

TP Cần Thơ - Tỉnh

Cần Thơ

28 Sài gòn công thương (Saigon

bank for Industrial and trade)

0034/NHGP

ngày

04/05/1993

1.020 Số 2C Phú Đức

Chính,Q1. TPHCM

29 Sài gòn thương tín

(Sacombank)

0006/NHGP

ngày

05/12/1991

4.449

266-268 Nam kỳ

khởi nghĩa.

Q3.TPHCM

30

Thái Bình Dương (Pacific

Commercial Joint Stock

Bank)

0028/NHGP

ngày

22/08/1993

566

340 Hoàng Văn Thụ,

Q.Tân Bình,

TPHCM

31

Tiên Phong ( TienPhong

Commercial Joint Stock

Bank)

123/GP-NHNN

ngày

05/05/2008

1.000

Tòa nhà FPT, Lô B2

Cụm SX tiểu thủ

công nghiệp và công

nghiệp nhỏ, P.DỊch

Vọng Hậu, Cầu

Giấy, Hà Nội

32

Việt Nam Thương tín (Viet

Nam thuong tin Commercial

Joint Stock Bank)

2399/QĐ-

NHNN ngày

15/12/2006

500

35 Trần Hưng Đạo,

TX Sóc Trăng, tỉnh

Sóc Trăng

Page 112: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

33 Việt Á (Viet A Commercial

Joint Stock Bank)

12/NHGP ngày

09/05/2003 1.000

115-121 Nguyễn

Công Trứ.Q1.TP

HCM

34

Xuất nhập khẩu (Vietnam

Commercial Joint Stock

Export-Import Bank-

Eximbank)

0011/NHGP

ngày

06/04/1992

2.800 7 Lê Thị Hồng Gấm.

Q1. TPHCM

35

Xăng dầu Petrolimex

(Petrolimex Group

Commercial Joint Stock

Bank)

0045/NH-GP

ngày

13/11/1993

500

132-134 Nguyễn

Huệ, Thị xã Cao

Lãnh-Tỉnh Đồng

Tháp

36 Á Châu (Asia Commercial

Joint Stock Bank- ACB)

0032/NHGP

ngày

24/04/1993

2.630

442 Nguyễn Thị

Minh Khai. Q3. TP

HCM

37

Đông Nam Á (South East

Commercial Joint Stock

Bank)

0051/NHGP

ngày

25/03/1994

3.000 16 Láng Hạ, Đống

Đa, Hà Nội

38

Đông Á (Dong A

Commercial Joint Stock

Bank-EAB)

0009/NHGP

ngày

27/03/1992

1.600

130 Phan Đăng Lưu.

Q Phú Nhuận.

TPHCM

39

Đại Dương (Ocean

Commercial Joint Stock

Bank)

0048/NH-GP

ngày

30/12/1993

1.000

Số 199-Đường

Nguyễn Lương

Bằng - TP Hải

Dương

40

Đại Tín (Great Trust

Commercial Joint Stock

Bank)

0047/NH-GP

ngày

29/12/1993

504

Xã Long Hoà-Huyện

Cần Đước-Tỉnh

Long An

Page 113: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

41

Đại Á (Great Asia

Commercial Joint Stock

Bank)

0036/NH-GP

ngày

23/09/1993

500

56-58Đường Cách

mạnh tháng 8-Thành

phố Biên Hoà-Tỉnh

Đồng Nai

42 Đệ Nhất (First Joint Stock

Commercial Bank)

0033/NHGP

ngày

27/04/1992

609 715 Trần Hưng Đạo.

Q5. TPHCM

43 Mỹ Xuyên

0022/NH-GP

ngày

12/09/1992

500

248,Trần Hưng Đạo-

Phường Mỹ Xuyên-

Thị xã Long Xuyên-

Tỉnh An Giang

Nguồn : Ngân hàng nhà nước

Page 114: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Sách

1. PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa, “Hiệp ước BASEL mới và vần đề kiểm soát rủi

ro trong các ngân hàng thương mại” –Tạp chí phát triển kinh tế 6/2008

2. PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, “Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh

nghiệp Việt Nam thời kỳ hậu WTO”

3. PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, “Quản trị rủi ro tài chính”, NXB Thống kê 2006.

4. TS. Trần Huy Hoàng, “Quản trị ngân hàng thương mại”, NXB thống kê 2003.

5. PGS. TS. Nguyễn Đăng Dờn, “Tiền tệ ngân hàng”, NXB thống kê 2004,

6. PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt, “Đầu tư tài chính”, NXB Thống kê 2006

7. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa, PGS.TS Phan Thị

Bích Nguyệt, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, TS.Nguyễn Thị Uyên Uyên,

“Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, NXB Thống kê 2007

8. PGS.TS Sử Đình Thành (2006), “Lý Thuyết tài chính- tiền tệ”, NXB Thống kê

9. Basel II - Sự thống nhất quốc tế về đo lường và các tiêu chuẩn vốn, NXB VHTT 2008

II. Tạp chí, thời báo, các văn bản

1. Báo cáo thường niên 2006, 2007 Ngân hàng đầu tư phát triển, Ngân hàng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Ngọai thương .v.v.

2. Thời báo kinh tế Việt Nam 2006-2007

3. Thời báo kinh tế Sài Gòn số 04/2008; 05/2008; 06/2008; 07/2008

4. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX ngày 12/12/1997, luật số

20/2004/Qh11 ngày 16/05/2004 sử đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng.

5. Quyết định số 663/2003/QĐ-NHNN ngày 26/6/2003; Quyết định

627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001;Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày

03/02/2005; Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005; Quyết định

số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN

ngày 22/04/2005 .v.v

6. Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/04/2005.

7. Nghị định 49/2000/NĐ-CP ban hành ngày 12/9/2000

8. Một số quyết định, thông tư, chỉ thị khác

Page 115: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI …dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cao-hoc/file_goc_782864.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo

III. Thông tin tham khảo trên các Website

http://vneconomy.vn

http://www.sbv.gov.vn - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

http://www.mof.gov.vn – Bộ tài chính Việt Nam

http://vneconomy.vn – Thời báo kinh tế Việt Nam Online

http://www.tapchiketoan.com – Tại chí kế tóan Online

http://www.tienphongonline.com.vn – Báo tiền phong Online

http://www.laodong.com.vn – Báo lao động Online

http://hanoitimes.net- Thời báo tài chính Hà Nội Online

http://www.div.gov.vn- Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

http://www.tuoitre.com.vn – Báo tuổi trẻ Online

http://www.vov.org.vn – Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam Online

http://vietnamnet.vn

http://vietbao.vn – Trung tâm báo chí và hợp tác truyền thông quốc tế

http://atpvietnam.com Công ty chứng khóan KIMENG Việt Nam

http://www.inteves.com – Tin nhanh chứng khóan

http://www.sacombank.com.vn –Ngân hàng TMCP Sài gòn thương tín Online

http://www.tcptkt.ueh.edu.vn/ -Tạp chí phát triển kinh tế - ĐHKT-TP.HCM