Top Banner
Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường A. Một số ví dụ thực tế về các tranh chấp môi trường quốc tế và phương thức giải quyết. 1. Vụ việc tranh chấp giữa Canada và Mỹ (1939 - 1941) Năm 1939 Mỹ kiện Canada ra trọng tài về việc khói thải độc hại phát thải từ lò luyện kim Trail ở Canada gây hại tới tiểu bang Washington (Mỹ). Lò luyện kim này nằm cách biên giới với Mỹ 7 dặm, trong đó Mỹ yêu cầu xác định về việc gây ô nhiễm môi trường của lò luyện kim Trail, hình thức bồi thường thiệt hại và yêu cầu biện pháp nhằm ngăn ngừa những tác hại có thể xảy ra trong tương lai. Trọng tài vụ Trail Smelter phán quyết “không quốc gia nào có quyền sử dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình để phát tán khói gây thiệt hại nghiêm trọng đến lãnh thổ, tài sản và người dân của quốc gia
69

Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Jun 19, 2015

Download

Documents

hajz_zjah
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

A. Một số ví dụ thực tế về các tranh chấp môi trường quốc tế và

phương thức giải quyết.

1. Vụ việc tranh chấp giữa Canada và Mỹ (1939 - 1941)

Năm 1939 Mỹ kiện Canada ra trọng tài về việc khói thải độc hại phát thải từ

lò luyện kim Trail ở Canada gây hại tới tiểu bang Washington (Mỹ). Lò luyện

kim này nằm cách biên giới với Mỹ 7 dặm, trong đó Mỹ yêu cầu xác định về

việc gây ô nhiễm môi trường của lò luyện kim Trail, hình thức bồi thường thiệt

hại và yêu cầu biện pháp nhằm ngăn ngừa những tác hại có thể xảy ra trong

tương lai.

Trọng tài vụ Trail Smelter phán quyết “không quốc gia nào có quyền sử

dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình để phát tán khói gây thiệt hại

nghiêm trọng đến lãnh thổ, tài sản và người dân của quốc gia khác; những thiệt

hại phải thể hiện ở những chứng cứ xác thực và thuyết phục”. Vấn đề chứng cứ

đã được kết luận bằng các thí nghiệm khoa học.

Trong phán quyết cuối cùng, hoạt động của lò luyện kim đã bị hạn chế.

Từ đó trong tập quán quốc tế đã hình thành nên một tập quán mà đã được

nhiều quốc gia áp dụng để giải quyết tranh chấp với quốc gia khác về việc kiểm

soát ô nhiễm không khí xuyên biên giới đó là “các quốc gia chịu trách nhiệm về

mọi tổn thất gây ra do vi phạm nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm không khí xuyên

biên giới”.

Page 2: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Ngoài ra, mặc dù vụ Trail Smelter chỉ đề cập một loại nguồn gây ô nhiễm

xuyên biên giới, quy định này, như kết luận của trọng tài, về nguyên tắc có thể

áp dụng cho hầu hết các loại nguồn gây ô nhiễm không khí tầm xa. Những kỹ

thuật hiện đại về quan trắc và thí nghiệm giúp tính toán với độ chính xác hợp lý

khối lượng các chất gây ô nhiễm xuyên biên giới phát thải từ từng quốc gia và

xác định những khu vực bị ảnh hưởng. Vì vậy, việc thu thập những chứng cứ

cần thiết, thậm chí đạt tiêu chuẩn “xác thực và thuyết phục” như trong phán

quyết của vụ Trail Smelter, không còn là một chướng ngại tiềm tàng để xác định

trách nhiệm đối với việc gây ô nhiễm không khí tầm xa. Do đó, các quốc gia

phải chịu trách nhiệm đối với bất kỳ thiệt hại, thỏa mãn “chuẩn mực” nghiêm

trọng, gây ra do hành vi vi phạm luật quốc tế.

2. Vụ tranh chấp giữa Argentina - Uruguay về việc xây nhà máy bột

giấy gây nguy cơ ô nhiễm môi trường.

Tranh chấp phát sinh từ năm 2003 khi Montevideo (Uruguay)  cho phép xây

dựng Nhà máy bột giấy Botnia tại dòng sông trên mà không tham vấn Buenos

Aires. Khi cơ sở này đi vào hoạt động năm 2006, lo ngại nguy cơ ô nhiễm môi

trường, cư dân địa phương Argentina và các nhà hoạt động môi trường đã phong

tỏa cây cầu bắc qua sông, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động giao thông

và kinh tế, đặc biệt là cho phía Uruguay.

Hai nước đã đưa vụ việc ra Tòa án quốc tế Hague (Hà Lan). Phán quyết của

tòa nêu rõ Uruguay đã vi phạm hiệp ước song phương nhưng vẫn cho nhà máy

Botnia tiếp tục hoạt động vì không tìm được chứng cứ nhà máy gây ô nhiễm.

Trải qua hơn 7 năm đàm phán thương lượng cuối cùng ngày Ngày

28/7/2010, Tổng thống Argentina Cristina Fernández và Tổng thống Uruguay

José Mujica đã ký thỏa thuận cùng kiểm soát môi trường trên sông Uruguay.

Page 3: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Thỏa thuận mới ký kết quy định việc thành lập ủy ban kiểm soát chung gồm

các nhà khoa học hai nước, có nhiệm vụ giám sát hoạt động xử lý chất thải của

mọi cơ sở công nghiệp, nông nghiệp và khu dân cư dọc hai bờ sông Uruguay.

3. Tranh chấp về việc xây đập thủy điện trên sông Mekong

Sông Mekong là một dòng sông quốc tế quan trọng, bắt nguồn từ Tây Tạng

và chảy qua tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, trước khi đến Miến Điện, Lào, Thái

Lan, Cam Bốt và Việt Nam.

Lưu vực Mekong là một trong những khu vực nghèo nhất thế giới, bị tàn phá

bởi bom đạn. Vì thế nên sau khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, các cơ quan

tài chánh thế giới và một số cường quốc như Hoa Kỳ, Úc châu, Nhựt Bản, Liên

hiệp các Quốc gia Âu châu, Liên hiệp Quốc, đã tập trung những nỗ lực để giúp

tái thiết và phát triển khu vực qua các chương trình xóa đói giảm nghèo. Trong

nhiều thập niên vừa qua, nền kinh tế của khu vực Mekong được tăng trưởng, tuy

nhiên điều này dẫn đến tình trạng thiếu hụt điện năng.

Các dự án Đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong

Nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng điện năng trên, các quốc gia trong lưu vực

Mekong, được sự hỗ trợ của các tổ chức tài chánh quốc tế như Ngân hàng Thế

giới, Ngân hàng Phát triển Á châu đã phác họa các kế hoạch khai thác nguồn

nước sông Mekong trong đó có việc xây dựng các đập thủy điện.

Trung Quốc là nước đầu tiên khai thác quy mô tiềm năng thủy điện của sông

Mekong và đã đi được nửa đoạn đường trong công trình xây một chuỗi những

đập thủy điện khổng lồ trên dòng chính thượng nguồn sông Mekong, với 4 đập

lớn đã được đưa vào xử dụng và 4 đập khác trong dự trù. Trong khi đó thì ở

vùng hạ lưu sông Mekong các đập thủy điện chỉ được xây dựng trên các phụ lưu

như Pak Mun ở Thái Lan, Nam Theun ở Lào và Sesan, Seprok ở Cao nguyên

Trung phần Việt Nam.

Page 4: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Tuy nhiên gần đây Camphuchia và Lào đã thiết lập những kế hoạch xây đập

thủy điện trên dòng chính ở hạ lưu sông Mekong với tất cả 11 dự án: 9 nằm

trong lãnh thổ Lào và 2 trong phần đất của Cambốt. Trong số 9 dự án thủy điện

ở Lào (6 ở Bắc Lào, 2 ở Trung Lào và 1 ở Nam Lào) Xayaburi là đập thủy điện

thứ 3 trong chuỗi 6 đập bực thang được dự định xây dựng ở Bắc Lào. Xayaburi

là đề án đầu tiên được đem ra cứu xét và gây ra nhiều tranh cãi trong thời gian

hơn 1 năm qua.

Đập Xayaburi nằm cách Luang Prabang 150km về phía Nam, thuộc loại

“đập tràn”, xử dụng dòng chảy cơ bản để vận hành các động cơ phát điện, có

công xuất 1.285MW, được 4 ngân hàng Thái Lan: Kasikorn Bank, Bangkok

Bank, Krung Thai Bank và Siam Commercial Bank tài trợ; đầu tư công trình là

công ty SEAN và Ch. Karnchang của Thái Lan và phần lớn điện lượng sản xuất

sẽ bán cho công ty EGAT-Thailand.

Theo thỏa ước Mekong năm 1995, thì các quốc gia thành viên của Uỷ hội

sông Mekong (MRC), Camphuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam ngoài việc cam

kết hợp tác để đảm bảo sự phát triển bền vững sông Mekong, còn đồng ý về quy

trình tham vấn liên chính phủ “Thông Báo-Tiền Tham Khảo-Đồng thuận”

(Procedures for Notification, Prior Consultation and Agreement- PNPCA); đây

là một quá trình mà các thành viên của Ủy hội phải tuân theo, khi có ý định khai

thác dòng chính sông Mekong thí dụ như xây đập thủy điện.

Vì thế, đối với đề án Xayaburi chánh phủ Lào phải tuân thủ tiến trình

PNPCA này và ngày 21/09/2010 thông báo với MRC ý định xây đập thủy điện

Xayaburi. Tiếp đến MRC chuyển hồ sơ của đề án đến các quốc gia thành viên

Camphuchia, Thái Lan, và Việt Nam cứu xét. Ủy ban hỗn hợp MRC đã lần lượt

nhóm họp nhiều lần để thảo luận về đề án thủy điện này. Trong lần họp sau cùng

tại Vientiane vào ngày 19/04/2011 kết thúc thời gian ấn định 6 tháng của quy

trình PNPCA, Ủy ban Hổn hợp đã không đạt được sự đồng thuận và phải đệ

Page 5: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

trình lên Hội đồng Bộ trưởng MRC để lấy quyết định. Đại diện của phía Cam

Bốt và Việt Nam cho rằng báo cáo EIA (Environmental Impact Assessment) của

Lào về những tác động của đập thủy điện Xayaburi trên Môi trường của hạ lưu

Mekong thiếu trung thực và có nhiều thiếu sót.

Tác động của 11 đập thủy điện trên hạ lưu sông Mekong và châu thổ

ĐBCL VN

Qua các tài liệu tham khảo, chúng ta có thể nhận ra những ảnh hưởng tiêu

cực rất trầm trọng mà các đập thủy điện xây trên dòng chính hạ lưu sông

Mekong có thể gây ra đối với môi trường, cũng như trên các mặt kinh tế và xã

hội.

Môi trường

Nếu dự án xây đập Xayaburi được chấp thuận sẽ tạo ra một tiền lệ để 10 đập

thủy điện khác được xây tiếp trên dòng chính của hạ nguồn sông Mekong.

Bảng “Đánh giá Môi trường Chiến lược” (Strategic Environmental

Assessment-SEA) của Ủy hội Sông Mekong MRC cho thấy nếu tất cả 11 đập

thủy điện này được xây thì 90% khối lượng phù sa sẽ bị giữ lại, ảnh hưởng đến

đặc tính phì nhiêu và khả năng bành trướng của châu thổ ĐBCLVN.

Sự sút giảm phù sa vận chuyển xuống hạ lưu còn ảnh hưởng đến cấu trúc

của dòng sông và trạng thái cân bằng của nguồn dinh dưỡng: khiến bờ sông bị

sạt lở, lòng sông bị bào mòn, các thảm thực vật và các vùng đất trũng bị hủy

hoại; nguồn dinh dưỡng N và P bị xáo trộn, tạo điều kiện cho các loài rong, tảo

bộc phát, làm tắc nghẽn dòng sông, với hậu quả hệ thủy sinh học bị hủy diệt.

Di trú theo mùa là đặc tính sinh học mang tính sinh tồn của các loài cá và

hầu hết khoảng 1700 loài cá của sông Mekong cần phải thay đổi nơi sống, lội

xuôi ngược dòng sông hoặc di chuyển đến những vùng đất trũng, vùng ngập

nước tìm những nơi thích nghi để sinh sản và tăng trưởng. Vì dòng sông là hành

Page 6: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

lang hoán trú của loài cá, nên xây các đập thủy điện trên dòng chính sẽ làm gián

đoạn chu trình sinh lý thiết yếu của cá, như đẻ trứng, gây giống và tăng trưởng.

Đập Xayaburi ngăn cản lộ trình hoán trú của ít nhất 23 loài cá đến vùng thượng

nguồn Luang Prabang ở Lào, Chiang Khong và Chiang Saen ở Thái Lan và tối

thiểu 41 loài cá có thể bị diệt chủng.

Những ảnh hưởng tiêu cực này sẽ rõ rệt hơn khi tất cả 11 đập được xây và

hơn nữa chiều dài của dòng sông sẽ trở thành một chuỗi những hồ nước đọng.

Nếu tất cả các đề án được thực hiện, sẽ có đến 40% khối lượng thủy sản trong hạ

lưu bị thất thoát, tương đương với khoảng trên 1 triệu tấn cá và trị giá mất mát

có thể lên đến 4-5 tỉ Mỹ kim mỗi năm.Ấy là chưa kể đến khối lượng cá sống gần

các cửa sông đổ ra biển của châu thổ ĐBCLVN. Tương tự như thế, đối với Cam

Bốt, những tác động của 11 đập thủy điện cũng rất nghiêm trọng.

Các quốc gia trong lưu vực hạ nguồn sông Mekong cùng chia xẻ các trận lũ

hằng năm. Lũ là món quà thiên nhiên ban cho cư dân lưu vực Mekong. Lũ mang

lại sự sống cho hệ sinh thái phức tạp của lưu vực, làm sạch đồng ruộng và đem

đến thủy sản cho người dân địa phương. Nếu tất cả 11 đề án thủy điện trên hạ

lưu Mekong được xây, thì vào mùa khô các ”đập tràn” phải tích lũy nước để vận

hành và như thế miền Tây Nam phần VN sẽ bị cạn kiệt, nước biển tràn sâu hơn

vào nội địa làm trầm trọng thêm tình trạng ruộng vườn vốn bị nhiễm mặn vào

mùa khô, giảm diện tích canh tác và ngành nuôi trồng thủy sản vùng ven biển

cũng gặp khó khăn.

Nỗ lực Giải quyết tranh chấp của Việt Nam và các quốc gia:

* Những vận động của nhóm Nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai Cửu Long

Do tầm vốc quốc tế của các dự án xây đập thủy điện trên sông Mekong nên

trong thời gian qua nhóm đã nỗ lực kết hợp với các tổ chức quốc tế và giới chính

trị của các quốc gia tài trợ MRC kêu gọi sự hỗ trợ và tìm cách tạo dựng một

Page 7: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

kênh pháp lý thích hợp để những nhận định khách quan của Nhóm được chuyển

đạt đến các giới chức có thẩm quyền quyết định về đề án Xayaburi.

Hợp tác với The Australian Mekong Resource Centre (AMRC), Sydney

University

Tác động của các đập thủy điện xây trên dòng chính hạ lưu Mekong gây ra

những biến đổi phức tạp liên quan đến các lãnh vực khoa học, kinh tế, xã hội,

nhân sinh…. Học viện Nghiên cứu Tài nguyên Sông Mekong (AMRC) thuộc

Đại học Sydney, Australia là một trung tâm nghiên cứu khoa học quốc tế về khu

vực Mekong, ngoài công tác nghiên cứu giảng dạy còn là một tổ chức khoa học

có mục đích hỗ trợ chiều hướng phát triển hợp lý duy trì sự toàn vẹn, đa dạng

của hệ sinh thái khu vực Mekong và tính cộng sinh giữa cuộc sống, những nét

văn hoá đặc thù của khu vực, vì thế Nhóm NCVHĐNCL Úc châu đã kết hợp

chặt chẽ với AMRC để trao đổi và tiếp thu những kiến thức mới liên quan đến sự

phát triển của khu vực Mekong và châu thổ ĐBCLVN.

Kết giao với Tổ chức International Rivers

Nhóm đã kết giao với Tổ chức International Rivers, qua Giám đốc Chương

trình Đông Nam Á, Bà Ame Trandem ở Bangkok , cùng với 263 tổ chức phi

chánh quyền (NGOs) và trên 22 ngàn người dân của hơn 100 quốc gia trên thế

giới kêu gọi hai chánh phủ Lào và Thái Lan hủy bỏ đề án xây đập thủy điện

Xayaburi và 10 đập khác trên dòng chính sông Mekong vì những đập này gây ra

những tác hại nghiêm trọng đến tương lai vùng hạ nguồn.

Tham khảo với giới chức ngoại giao

Những tranh chấp trước đây trong việc sử dụng nguồn nước và chia sẻ

quyền lợi riêng lẻ của từng quốc gia trong các lưu vực sông Nile thuộc vùng

đông bắc Phi châu (giữa Ai Cập, Sudan, Tanzania, Ethiopa, Congo, Tanzania,

Kenya…..), sông Zambezi ở Phi châu (giữa Zambia, Angola, Zimbawe, Malawi,

Tanzania, Botswana, Mozambique và Nambia), sông Jordan ở Trung Đông (giữa

Page 8: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Israel, Jordan, Syria và Lebanon), hệ thống sông Ganges-Brahmaputra-Meghna

(giữa Ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc và Bangladesh) hay chính trong hệ thống

sông Murray-Darling-Murrumbidgee (giữa các tiểu bang và vùng lãnh thổ của

Úc châu) khiến chúng ta không khỏi băn khoăn nghĩ rằng địa chính trị và lợi ích

phe nhóm sẽ đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến những quyết định về các đề

án thủy điện Mekong. Vì thế Nhóm NCVH ĐNCL Úc châu đã ra sức tranh thủ

sự ủng hộ của giới chánh trị ở Úc và Hoa Kỳ.

Úc là quốc gia có những chương trình viện trợ cho Việt Nam với mục đích

xóa nghèo và đồng thời cũng là một trong số các quốc gia cốt yếu tài trợ cho

MRC, nên nhóm NCVHĐNCL đã viết văn thư gởi đến chánh phủ liên bang Úc,

Ngoại trưởng Kevin Rudd, trình bày quan điểm của nhóm về những ảnh hưởng

tiêu cực không thể đảo ngược của 11 đập thủy điện trên cuộc sống của người dân

vùng hạ lưu và châu thổ ĐBCLVN. Cùng lúc Nhóm cũng gởi văn thư đến bà

Dân biểu Julie Bishop, Phó chủ tịch đảng Tự do và phát ngôn viên ngoại giao

của Liên đảng Tự do-Quốc gia, đối lập ở Quốc hội, nêu lên mối quan ngại về

những ảnh hưởng tiêu cực của đập Xayaburi. Ngoài ra, chúng tôi đã gởi văn thư

đến Thượng nghị sĩ Jim Webb, Chủ Tịch Tiểu bang Đông Á và Thái Bình

Dương tại Thượng viện Hoa Kỳ.

Đối với chúng tôi, việc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ, theo đề nghị

của Thượng nghị sĩ Jim Webb, vào ngày 29/11/2011 đã nhất trí thông qua một

nghị quyết kêu gọi bảo vệ lưu vực sông Mekong và đình hoãn việc xây dựng các

đập thủy điện trên dòng chảy chính của con sông này cùng những lời tuyên bố

tại Bali vào tháng 11/2011 của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton trước Diễn

đàn Khu vực Đông Nam Á rằng Washington đang hợp tác với Ngân hàng Phát

triền Á châu và Liên hiệp các quốc gia Âu châu để cải thiện cơ sở hạ tầng và môi

trường ở hạ nguồn sông Mekong cùng kêu gọi ngưng tất cả mọi việc xây thêm

đập cho đến khi nào đánh giá toàn bộ các tác động đối với môi trường là những

Page 9: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

tin tức rất khích lệ, cho thấy sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới dành cho

công trình bảo vệ sông và khu vực Mekong.

Lào vẫn kiên quyết thực hiện dự án Xayaburi

Trong hội nghị lần thứ 18 của MRC tổ chức vào ngày 7-8/12/2011, tại Siem

Reap, Hội đồng Bộ trưởng bốn nước Cam Bốt, Lào, Thái Lan và Việt Nam

quyết định hoãn việc xây dựng đập Xayaburi. Bản thông cáo được Ủy hội Sông

Mekong công bố sau cuộc họp, cho biết các nước thành viên đã đồng ý là cần

phải “ nghiên cứu bổ sung về sự phát triển bền vững và quản lý dòng sông

Mekong, kể cả đối với tất cả các dự án thủy điện”. Thông cáo còn cho biết chính

quyền Nhật Bản sẽ được tiếp cận để giúp thực hiện việc nghiên cứu bổ sung và

những công trình nghiên cứu mới sẽ cung cấp “một bức tranh hoàn chỉnh hơn”

về các vấn đề nẩy sinh từ việc xây đập.

Các nhà bảo vệ môi trường, trong đó có Nhóm NCVHĐNCL Úc châu và

chánh phủ hai quốc gia Camphuchia và Việt Nam tỏ ra phấn khởi với kết quả

trên. Tuy nhiên kết quả này không có nghĩa là đề án thủy điện Xayaburi đã được

khai tử, vì Lào cho thấy sẽ kiên trì vận động.

Đồng ý “nghiên cứu bổ sung” có thể là một chiến thuật để các bên có thêm

thời gian thương lượng. Tối thiểu, Lào không lo ngại về phía Thái Lan, vì đầu tư

công trình là một tổng công ty của Thái Lan, đề án được 4 ngân hàng Thái Lan

đồng ý tài trợ và hầu hết nguồn điện sản xuất sẽ được bán cho Thái Lan; thêm

vào đó Bộ trưởng Tài nguyên Thiên nhiên & Môi trường, Ông Preecha

Reongsomboonsuk khẳng định là Thái Lan không phản đối đề án.

Điều mà nhiều người đang chờ xem là bằng cách nào chính phủ Lào thuyết

phục được Camphuchia và Việt Nam. Xayaburi không phải là con đập duy nhất

được dự định xây trên dòng chính hạ lưu Mekong. Các tổ chức kinh doanh, các

tổng công ty của Camphuchia, Thái Lan và Việt Nam đã có những kế hoạch

tham gia xây thêm 10 đập khác. Cả 4 quốc gia hạ lưu Mekong tuy đều có những

Page 10: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

lo ngại về các tác động tiêu cực đến môi trường, nhưng đồng thời cũng có những

lợi ích trong việc xây dựng các con đập. Vì thế, kế tiếp là những màn vận động

chánh trị bên trong hậu trường với những mặt cả cũng như đánh đổi, để Phnom

Penh và Hà Nội chấp nhận đề án Xayaburi của Lào.

Hơn thế nữa, vấn đề của 11 đập thuỷ điện cần được tìm hiểu trên một phạm

vi rộng lớn hơn, qua khuôn khổ hợp tác của tổ chức Tiểu vùng Mekong mở rộng

(Greater Mekong Subregion- GMS), vì trong tổ chức này Trung Quốc là một đối

tác rất quan trọng và lại có mối quan hệ song phương mạnh mẽ ảnh hưởng đến

các chính sách, chủ trương và đường lối của chánh phủ Lào. Thế thì, liệu mối

bang giao chặt chẽ này cùng sự kiện Trung Quốc đã từng đơn phương xây đập ở

thượng nguồn, bất chấp những phản đối của các quốc gia khác trong lưu vực, đủ

khuyến khích Lào theo đuổi con đường cứng rắn đối đầu với Việt Nam trong

vấn đề đập Xayaburi không?

Kết quả của phiên họp Hội đồng Bộ trưởng MRC ở Siem Reap không có

nghĩa là sứ mệnh cứu sống dòng sông Mekong đã hoàn tất. Khối đoàn kết gồm

những nhà bảo vệ môi trường, các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và các xã hội

dân sự, với thành phần quan tâm đến sự sống còn của vùng hạ lưu Mekong và

châu thổ ĐBCLVN sẽ phải tiếp tục tích cực vận động để giữ cho dòng sông

được xuôi chảy, nhằm bảo đảm cuộc sống của hơn 60 triệu cư dân trong lưu vực.

Bên cạnh sự tham gia của các nước thành viên Uỷ hội sông Meekong (Việt

Nam, Lào, Thái Lan, Campuchia), Trung Quốc, Nhật Bản thì còn có sự can thiệp

càng ngày càng sâu của Mỹ vào tranh chấp này. Tiến sỹ Cronin thừa nhận rằng

những đề nghị gần đây của Mỹ có liên quan trực tiếp đến địa chính trị. Mối nguy

hiểm là việc gộp lại tất cả các vấn đề môi trường, chính trị và kinh tế-xã hội trên

sông Mê Công vào sự cạnh tranh giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc, điều

Page 11: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

có thể che phủ các bước đi thực tế và các biện pháp xây dựng lòng tin cần thiết

để có thể giải quyết hiệu quả tương lai của dòng sông.

Trên cơ sở 3 ví dụ về tranh chấp môi trường xuyên quốc gia trên, nhóm đưa

ra một vài quan điểm về những vấn đề cơ bản quanh đề tài “Các phương thức

giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế”.

B. Nghiên cứu đề tài.

1. Khái niệm tranh chấp và tranh chấp môi trường quốc tế. Các

biện pháp giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế.

1.1 Khái niệm tranh chấp và tranh chấp môi trường.

Để hiểu rõ khái niệm tranh chấp môi trường quốc tế, trước hết ta cần nghiên

cứu khái niệm “Tranh chấp môi trường”.

Khái niệm “Tranh chấp môi trường” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau

trong từng bối cảnh và cách tiếp cận khác nhau. Thật khó khi đưa ra một định

nghĩa thống nhất về “tranh chấp môi trường” trong khi có quá nhiều cách giải

thích về khái niệm này. Có những tác giả cho rằng tranh chấp môi trường là một

dạng của xung đột môi trường (Environment Conflict) (Pieter Glasbergen,

1995); nhưng cũng có những tác giả lại cố tìm cách lý giải sự khác biệt giữa

tranh chấp môi trường và xung đột môi trường (Gerard Cormick, 1982)

- Theo Từ điển Luật Black, tranh chấp là “một loại xung đột hoặc tranh cãi,

nhất là những xung đột dẫn đến kiện tụng”

- Brown và Marriot định nghĩa “tranh chấp” là “một loại hay một kiểu xung

đột biểu lộ trong những nội dung khác biệt, bị thuộc quyền tài phán.”

Page 12: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

- Cũng với quan điểm tương đồng, Crowfoot và Wondolleck phân biệt bản

chất xác định (Specific nature) của “tranh chấp” với một khái niệm rộng hơn,

không xác định bản chất (non specific nature) của “xung đột”.  Họ mô tả tranh

chấp là “… những khác biệt cơ bản hiện hữu, những điều trái ngược và đôi khi

là sự ép buộc giữa các nhóm lớn trong xã hội về giá trị, hành vi của họ hướng tới

môi trường tự nhiên”. Sự “tranh chấp” không khác biệt với quá trình xung đột

mà là một phần cụ thể, có thể nhận biết của xung đột, gọi là “một nội dung xung

đột cụ thể là một phần của một xung đột xã hội liên tiếp và rộng hơn”.

Xung đột môi trường như định nghĩa ở đây là dựa trên giá trị lớn và tập

trung vào nhóm về tự nhiên, do đó dễ giải quyết hơn. Trái lại, những tranh chấp

có đặc điểm là tính riêng biệt, làm cho tranh chấp khó điều chỉnh và giải quyết.

Felstiner, Abel và Sarat đã chỉ ra sự nảy sinh tranh chấp gồm đến 3 giai đoạn:

“gọi tên, đổ lỗi và yêu cầu” (“naming, blaming and claiming”). “Naming” liên

quan đến việc nhận dạng một trải nghiệm xác định là có hại. “Blaming” liên

quan đến việc quy kết sự có hại đó cho lỗi của cá nhân hay thực thể xã hội, còn

giai đoạn ba, “claiming”, xuất hiện khi cá nhân hay thực thể chịu trách nhiệm

yêu cầu biện pháp cứu chữa. Cuối cùng, khi toàn bộ hay một phần của yêu cầu bị

từ chối, yêu cầu chuyển thành tranh chấp.

Còn đối với khái niệm “môi trường”, dưới tiếp cận hệ thống có thể coi, “môi

trường là tập hợp các phần tử nằm ngoài hệ thống được xem xét và có tương tác

với hệ thống được xem xét”. Như vậy, theo nghĩa rộng nhất, “môi trường” là

một khái niệm bao quát có thể bao hàm bất kì nhân tố nào của môi trường thiên

nhiên bao gồm cả những vấn đề về quản lý tài nguyên thiên nhiên, phát triển

năng lượng, phát triển và công nghiệp hóa.

Thực tế thuật ngữ “môi trường” thậm chí có thể hiểu là mở rộng từ môi

trường tự nhiên đến những phương diện của môi trường nhân tạo, như trong

trường hợp định nghĩa của Luật bảo vệ Môi trường của Việt Nam: “Môi trường

Page 13: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với

nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát

triển của con người và thiên nhiên”

Cesare P.R. Romano cho rằng: tranh chấp môi trường là những tranh chấp

có chứa đựng yếu tố môi trường. Richard Bilder định nghĩa tranh chấp môi

trường ở cấp độ quốc tế là “bất cứ sự bất đồng hoặc xung đột về quan điểm

hoặc lợi ích giữa các quốc gia liên quan tới sự biến đổi của hệ thống môi trường

tự nhiên bằng sự can thiệp của mình.”

Trong các tài liệu về hòa giải và biện pháp giải quyết tranh chấp môi trường

chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều định nghĩa khác nhau về tranh chấp môi

trường. Moore định nghĩa tranh chấp môi trường là “…tình trạng căng thẳng, bất

đồng, cãi lộn, tranh luận, cạnh tranh, thi đấu, xung đột hay cãi cọ về yếu tố nào

đó của môi trường tự nhiên.”

Bingham, trong nghiên cứu về một “thập kỉ của kinh nghiệm” về giải quyết

những tranh chấp môi trường, bà không định nghĩa “tranh chấp môi trường”

nhưng phân loại những tranh chấp được xem xét thành 6 dạng chung: sử dụng

đất, quản lý tài nguyên thiên nhiên và sử dụng đất công, nguồn nước, năng

lượng, chất lượng không khí và chất độc trong không khí.

Để làm rõ sự khác biệt giữa 2 khái niệm “tranh chấp môi trường” và “xung

đột môi trường”, Gerard Cormick, một nhà nghiên cứu có nhiều năm kinh

nghiệm trong việc hòa giải các tranh chấp môi trường đã đưa ra một số phân

tích: Theo ông, “Xung đột môi trường” nảy sinh khi “có sự bất đồng về mặt giá

trị hay do sự khan hiếm của các nguồn tài nguyên” còn “tranh chấp môi trường”

xuất hiện như “có liên quan đến một vấn đề cụ thể về môi trường ngay cả khi các

xung đột về giá trị vẫn đang diễn ra”. Cormick tiếp tục làm rõ luận điểm của

mình khi ông cho rằng: Tranh chấp môi trường có thể được giải quyết một cách

hiệu quả khi các bên liên quan tìm thấy một số thỏa thuận có thể chấp nhận được

Page 14: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

để đưa ra một hướng giải quyết về một vấn đề mà họ đang bất đồng bất chấp

việc họ vẫn đang tiếp tục có rất nhiều các khác biệt về giá trị cơ bản nghĩa là vẫn

tồn tại các xung đột môi trường. Sở dĩ, Cormick đưa ra quan điểm như vậy bởi

xuất phát điểm của ông cho rằng rất khó để có thể giải quyết triệt để được các

xung đột môi trường, trong khi đó tranh chấp môi trường chỉ là một dạng cụ thể

của xung đột môi trường đang tiếp diễn và hoàn toàn có thể giải quyết một cách

triệt để. Chia sẻ quan điểm với Cormic, James E. Crowfoot, Julia Marie

Wondolleck trong tác phẩm “Environmental Disputes: Community Involvement

in Conflict Resolution” coi “xung đột môi trường là một dạng của xung đột xã

hội, nó chính là những khác biệt, sự đối lập cơ bản và liên tục thậm chí là những

sự áp đặt giữa các nhóm khác nhau trong xã hội về giá trị, quan điểm và hành vi

của họ đối với môi trường tự nhiên. Các dạng xung đột như vậy thường rất có

quy mô lớn và nó xuất hiện một phần do sự gia tăng không kiểm soát được của

dân số, sự thay đổi của công nghệ, sự thay đổi cơ cấu xã hội, các chuẩn mực xã

hội. Trong quá trình xung đột môi trường, tất yếu sẽ nảy sinh các tranh chấp về

các vấn đề cụ thể, đó là những mâu thuẫn công khai, không tiềm ẩn, dễ phát hiện

đó chính là những “tranh chấp môi trường”. Như vậy, “tranh chấp môi trường”

là một dạng sơ khai, dễ nhận biết của xung đột môi trường, nói cách khác đó là

một dạng “xung đột môi trường công khai. Cũng chính từ tiếp cận như vậy,

James E. Crowfoot, Julia Marie Wondolleck đã đề xuất việc sử dụng từ

“settlement (giải quyết)” trong việc “giải quyết các tranh chấp môi trường

(Environmental Disputes settlement” và đối với việc “giải quyết xung đột môi

trường (Environment Conflict)” thì nên dùng từ “Resolution” hay “Manage” vì

khó có thể giải quyết được triệt để các “xung đột môi trường” nhưng đối với các

“tranh chấp môi trường” thì hoàn toàn có thể.

Page 15: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Từ những phân tích của Cormick và James E. Crowfoot, Julia Marie

Wondolleck có thể nhận thấy có những khác biệt nhất định giữa “tranh chấp môi

trường” và “xung đột môi trường”. Tuy nhiên, không thể phủ nhận có một mối

quan hệ chặt chẽ giữa xung đột và tranh chấp môi trường. Xung đột môi trường

là khái niệm rộng hơn, nó liên quan đến những xung đột về giá trị hay lợi ích

giữa các nhóm trong xã hội. Xung đột môi trường có thể góp phần thúc đẩy các

mô thức tranh chấp đang tiếp diễn liên quan đến những bối cảnh, những yêu cầu

hay đưa ra các chính sách môi trường xác định hơn. Tranh chấp môi trường có

thể giải quyết tốt còn quá trình xung đột môi trường rộng và phổ biến hơn thì

dường như tiếp diễn thông qua tranh chấp xảy ra sau.

Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau như vậy về tranh chấp môi

trường, nhưng hầu hết các cách hiểu ở trên đều thống nhất ở một quan điểm cho

rằng: tranh chấp môi trường là một dạng sơ khởi; bộc lộ công khai và là một

bộ phận của xung đột môi trường, đó là những mâu thuẫn, tranh chấp, bất

đồng giữa các cá nhân, các nhóm xã hội trong việc khai thác, sử dụng và bảo

vệ môi trường.

Tranh chấp môi trường là những xung đột giữa các tổ chức, cá nhân, các

cộng đồng dân cư về quyền và lợi ích liên quan đến việc phòng ngừa, khắc phục

ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường; về việc khai thác, sử dụng hợp lí các

nguồn tài nguyên và môi trường; về quyền được sống trong môi trường trong

lành và quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản do làm ô nhiễm môi

trường gây nên.

Tranh chấp môi trường quốc tế là “sự bất đồng hoặc xung đột về quan điểm

hoặc lợi ích giữa các quốc gia liên quan đến sự biến đổi của hệ thống môi

trường tự nhiên bằng sự can thiệp của mình.”

Page 16: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Tranh chấp môi trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển

của xã hội. Nó được nảy sinh như một hệ quả tất yếu của quá trình khai thác và

bảo vệ môi trường khi có sự tranh giành lợi thế dẫn đến đối chọi lợi ích giữa các

nhóm xã hội. Nguồn tài nguyên của môi trường là hữu hạn trong khi nhu cầu của

con người là vô hạn, do vậy, luôn tồn tại hiện tượng tranh chấp, giành giật quyền

lợi trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên môi trường dẫn tối một hiện

tượng đặc biệt trong tranh chấp xã hội đó là tranh chấp môi trường. Những tranh

chấp đó có thể xuất hiện giữa các cá nhân, giữa các nhóm cùng chia sẻ các

nguồn tài nguyên môi trường, cũng có thể xuất hiện giữa các địa phương, các

quốc gia trong việc khai thác và bảo vệ môi trường...Tranh chấp môi trường có

quá trình bắt đầu, kết thúc và hoàn toàn có thể giải quyết được một cách triệt để

thông qua các biện pháp đối thoại, phân xử, hòa giải môi trường...

Trong các ví dụ đầu tiên, ta có thể thấy có các tranh chấp môi trường cơ bản

sau:

- tranh chấp về ô nhiễm không khí tầm xa giữa Canada với Mỹ.

- tranh chấp về ô nhiễm sông giữa Arhentina với Uruguay.

- tranh chấp về việc xây dựng các đập thủy điện trên sông Mekong giữa các

quốc gia thành viên có lãnh thổ sông Mekong chảy qua.

Đây đều là những tranh chấp diễn ra hết sức phức tạp và nan giải, ảnh hưởng

đến một bộ phận lớn dân cư, khó giải quyết... bởi nó mang yếu tố quốc tế trong

mỗi vụ việc tranh chấp.

Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế là các hoạt động khắc phục, loại

trừ tranh chấp đã phát sinh bằng một phương pháp nào đó, nhằm bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội, duy

trì một môi trường trong sạch để hướng tới sự phát triển bền vững.

Page 17: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

1.2 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế:

Vì những đặc thù về chủ thể, vụ việc và sự nhạy cảm chính trị của các tranh

chấp môi trường quốc tế mà các phương pháp gỡ rối những mâu thuẫn này cần

có những nguyên tắc riêng.

- Nguyên tắc đầu tiên và có lẽ cũng là quan trong nhất khi giải quyết các

tranh chấp về môi trường quốc tế đó là giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp

hòa bình.

Theo Hiến chương Liên hợp quốc, các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết tranh

chấp quốc tế của mình chỉ bằng các biện pháp hoà bình để từ đó hoà bình, an

ninh quốc tế và công lí không bị đe doạ. Cụ thể là không được sử dụng sức mạnh

hoặc đe doạ sử dụng sức mạnh, không được ép buộc hoặc áp đặt để giải quyết

tranh chấp và không được dùng biện pháp khống chế để buộc bên tranh chấp

khác phải theo cách giải quyết có lợi cho mình. Điều 33, Hiến chương Liên hợp

quốc quy định một loạt biện pháp hoà bình để các bên tranh chấp có thể tự do

lựa chọn. Đó là đàm phán trực tiếp, trung gian, hoà giải, toà án quốc tế, vv. Việc

lựa chọn biện pháp thích hợp hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý chí và sự thoả thuận tự

nguyện của các bên tranh chấp. Trong trường hợp các bên tranh chấp sau khi đã

áp dụng một trong các biện pháp hoà bình, vẫn chưa đạt kết quả, sẽ tiếp tục cùng

nhau thương lượng để giải quyết hoà bình tranh chấp đó, đồng thời tự kiềm chế

để không có những hành động làm phức tạp thêm quan hệ của mình hoặc nguy

hại hoà bình và an ninh quốc tế. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hòa bình các

tranh chấp quốc tế được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên bố

của Liên hợp quốc về các nguyên tắc của luật pháp quốc tế năm 1970, và trong

nhiều văn bản pháp lí quốc tế quan trọng khác.

-   Ưu tiên bảo vệ các quyền và lợi ích chung về môi trường của cộng đồng,

của các quốc gia;

Page 18: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

-   Đảm bảo duy trì mối quan hệ bảo vệ môi trường giữa các quốc gia để

hướng tới mục tiêu phát triển bền vững;

-   Ngăn chặn sớm sự xâm hại đối với môi trường. Do tính chất không thẻ

sửa chữa được đối với những thiệt hại môi trường nên các tranh chấp môi trường

nảy sinh khi thiệt hại thực tế chưa xảy ra cũng phải được giải quyết triệt để nhằm

ngăn chặn trước hậu quả.

- Đảm bảo xác định một cách có căn cứ giá trị thiệt hại về môi trường

-   Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các tranh chấp môi trường nảy sinh

nhằm bảo đảm trật tự xă hội, tránh sự chuyển hoá những tranh chấp nhỏ, đơn

giản thành các cuộc biểu tình chính trị, khiếu kiện kéo dài, gây rối loạn trật tự xă

hội, mất tình đoàn kết giữa các quốc gia.

2. Các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế cơ

bản.

Ngày nay, vấn đề sự khan hiếm cũng như sự phân bố không đồng đều về các

nguồn tài nguyên và các dịch vụ môi trường đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay

khi các nguồn tài nguyên của môi trường ngày càng trở lên hạn hẹp là những vấn

đề nóng bỏng nhất, thu hút sự quan tâm hết sức đông đảo của cả thế giới.

Thật không khó một chút nào cho những người quan tâm khi tìm kiếm qua

internet các chủ đề về lĩnh vực tranh chấp môi trường hay các cơ quan/ tổ chức

tư vấn giải quyết tranh chấp môi trường tại các quốc gia trên thế giới như: Hội

đồng chất lượng môi trường (Council on Environmental Quality - CEQ), Hoa

Kỳ; Viện giải quyết các tranh chấp về môi trường (Institute fo mediate

disputes on Environment), Hoa Kỳ; Trung tâm đánh giá và giải quyết tranh

chấp môi trường (Center for Environment Disputes Assessment and Resolution

- CEDAR), Đại học NewSouthWales, Australia hay Hiệp hội liên kết giải

quyết tranh chấp môi trường của Nhật Bản (The Environmental Dispute

Page 19: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Coordination Commission...Điều này càng chứng tỏ tranh chấp môi trường đang

ngày càng trở nên một chủ đề nóng hổi thu hút sự quan tâm, theo dõi của nhiều

ngành, cấp trong xã hội.

Một thống kê cho biết: (Theo thời báo New York (New York time)) ra ngày

thứ 4, ngày 15 tháng 11 năm 2007: Hàng năm, Viện giải quyết các tranh chấp về

môi trường của Hoa Kỳ phải giải quyết bằng hình thức đưa ra tòa hàng nghìn vụ

tranh chấp môi trường.Tại Nhật Bản, theo số liệu của Hiệp hội liên kết giải quyết

các tranh chấp môi trường từ 01 tháng 4 năm 2000 đến 31 tháng 3 năm 2001,

trên toàn nước Nhật có 83.881 đơn thư khiếu kiện có liên quan đến tranh chấp

môi trường được gửi đến các cấp chính quyền cơ sở. Kể từ khi thành lập năm

1970 đến tháng 3 năm 2001, Hiệp hội liên kết giải quyết tranh chấp môi trường

đã thụ lý 743 vụ tranh chấp môi trường trong đó đã có 736 vụ được giải quyết

triệt để, cũng trong thời gian đó, Hiệp hội kiểm tra ô nhiễm môi trường toàn diện

Nhật Bản (The Perfectural Population Examination Commission) đã thụ lý 924

vụ tranh chấp môi trường trong đó có 875 vụ được giải quyết. Theo Zhou

Shengxian, Chủ tịch Hội đồng bảo vệ Môi trường quốc gia thì trong năm 2005

đã có trên 50.000 vụ tranh chấp môi trường xảy ra trên toàn lãnh thổ Trung

Quốc. Cũng theo Zhou các tranh chấp môi trường liên quan đến việc gây ô

nhiễm môi trường đã gây tổn hại lên đến 105 triệu nhân dân tệ tương đương 13.1

triệu đô la Mỹ trong năm 2005. Còn theo Zou Keynuan thì tranh chấp môi

trường đã “không dừng lại ở trong biên giới của các quốc gia nữa mà đã vượt ra

khỏi đường biên giữa các quốc gia trở thành các tranh chấp môi trường xuyên

quốc gia do hiện tượng di dân tự do, hiện tượng tăng dân số không kiểm soát,

các luồng di cư và nhập cư bất hợp pháp...những tranh chấp này hoàn toàn có

khả năng trở thành các xung đột môi trường và đe dọa an ninh quốc gia…

Trong quá trình khai thác và bảo vệ môi trường, các vấn đề môi trường

(Environment problems) như tranh chấp môi trường và xung đột môi trường, kỳ

Page 20: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

thị môi trường...giữa các nhóm xã hội này thường xuyên xảy ra và có xu hướng

ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng dân số, tiến bộ khoa học và công nghệ

và đồng nghĩa với nó là sức ép ngày càng lớn đối với môi trường tự nhiên

(Gladwin 1979). Sự tranh giành lợi thế này dẫn đến hậu quả là đã khoét sâu bất

bình đẳng xã hội, đối chọi lợi ích giữa các nhóm xã hội, và cuối cùng là tranh

chấp, xung đột giữa các cá nhân, các nhóm quyền lợi. Những vấn đề này ngày

càng trở lên bức thiết đối với con người trong việc bảo vệ môi trường sống của

mình trong hiện tại và cho thế hệ tương lai.

Bertram I. Spector, trong bài viết “Transboundary Environmental Disputes”

(Tranh chấp môi trường xuyên biên giới) cho rằng để giải quyết dạng tranh chấp

môi trường đặc biệt này giải pháp chủ yếu và đang được xem như tối ưu nhất là

thương lượng, đàm phán, hòa giải.

Michael McCloskey trong “Đánh giá một cách hệ thống kiểu quản lý tài

nguyên trên cơ sở cộng đồng” đã cho rằng đàm phán và thương lượng giữa các

đối tác ngày càng được sử dụng như là các giải pháp tốt nhất để giải quyết các

tranh chấp môi trường

Peter T Ailen, trong bài viết “Public Participation in resolving

Environmental Disputes and the problem of representativeness” (Vai trò của

công chúng trong việc tham gia giải quyết các tranh chấp môi trường và vấn đề

của việc đại diện) đã thông qua các luận cứ thực tiễn về giải quyết tranh chấp

môi trường tại Đức, Australia để khẳng định những ưu điểm và vai trò của việc

tham gia của người dân (tham gia của cộng đồng) trong việc giải quyết các vấn

đề về tranh chấp môi trường. Ông cũng chỉ ra những hạn chế của việc giải quyết

tranh chấp môi trường bằng các phương pháp đàm phán, hay đại điện. Theo ông,

những cá nhân hay nhóm xã hội, tham gia đàm phán hay đối thoại thường rất dễ

đi vào xu hướng thoả hiệp và từ đó tranh chấp môi trường tưởng như đã được

giải quyết nhưng trên thực tế nó vẫn tồn tại.

Page 21: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Tanis M. Frame, Thomas Gunten and J.C. Day đã sử dụng phương pháp ra

quyết định trên cơ sở chia sẻ sự sáng tạo (Innovative Shared Decision Making)

hay mô hình lập kế hoạch hợp tác (Collaborative planning Models) để giải quyết

các tranh chấp môi trường về đất đai. Nhóm tác giả này đã tiến hành nghiên cứu

17 trường hợp tranh chấp đất đai tại Bristish Columbia. Từ đó đi đến khẳng định

hiệu quả của mô hình lập kế hoạch hợp tác trong việc giải quyết các tranh chấp

môi trường.

Những nguyên tắc giải quyết trên đây là cơ sở cho việc đối thoại, thương

lượng, điều hoà và giải quyết các tranh chấp môi trường. Tuy nhiên, vì đặc thù

riêng của tranh chấp môi trường mà khó có thể có một phương án vẹn toàn để

giải quyết mọi tranh chấp và xung đột. Mọi đàm phán, thỏa thuận đều phải căn

cứ trên chuẩn mực giá trị chung về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Chuẩn mực đó bao gồm cả những chuẩn mực về kỹ thuật và những chuẩn mực

về đạo đức để chống lại các hành vi phá hoại môi trường.

Tranh chấp môi trường đang diễn ra rất phức tạp và tồn tại dưới nhiều hình

thức, quy mô và cấp độ khác nhau đặc biệt là các tranh chấp môi trường xuyên

biên giới và liên quốc gia, đòi hỏi những nhà quản lý môi trường phải có những

nhìn nhận và đánh giá đúng đắn tầm quan trọng của các dạng tranh chấp để từ đó

vận dụng các thiết chế xã hội, tìm các biện pháp thương thuyết, hoà giải giữa các

bên xung đột để từ đó đưa ra các hướng giải quyết có hiệu quả.

2.1 Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bằng phương thức thương

lượng.

Thương lượng hoặc đàm phán là biện pháp được sử dụng ở nơi mà các bên

tham gia có các quyền lợi xung đột nhưng đều có nhu cầu chung là đạt tới một

Page 22: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

thỏa thuận nào đó. Cuộc đàm phán hợp lý, đúng đắn sẽ tạo ra một thỏa thuận

khôn ngoan

Thương lượng luôn là hình thức quan trọng của việc giải quyết tranh chấp

môi trường vì tính chất đơn giản và hiệu quả của nó: “Các cuộc đàm phán,

thương lượng hợp lý, đúng đắn chắc chắn sẽ đạt đến một sự thỏa thuận khôn

ngoan, làm hài long tất cả các bên”. Đây là cơ hội tốt nhất để các bên thu thập

thêm thong tin, xem xét hoàn cảnh xảy ra sự việc, đánh giá đúng bản chất của vụ

việc, giải tỏa những hiểu lầm, khúc mắc và cùng tìm đến các giải pháp tối ưu

trong điều kiện chi phí về thời gian, sức lực và tài chính ở mức thấp nhất.

Thượng lượng thường được diễn ra giữa các chủ thể đại diện. Do số lượng

người có liên quan trong mỗi vụ tranh chấp môi trường quá đông nên quá trình

thương lượng thường không diễn ra trực tiệp giữa tất cả những người có liên

quan.

2.2. Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bằng hòa giải:

Hòa giải môi trường (Environmental Mediation) là quá trình đàm phán mang

tính chính thức hơn và ngắn gọn hơn giữa các đại diện chính thức được thừa

nhận của các bên chịu tác động. Bước này được thực hiện sau khi xung đột đã

diễn ra hoàn toàn. Các bên đương sự mong muốn tham gia hòa giải đã có thể xác

định rõ. Trong các tình huống tranh chấp, các đương sự chỉ thực sự mong muốn

đàm phán khi họ cảm thấy rằng họ không thể đạt được mục tiêu của mình mà

không mất chi phí.

Đối thoại chính sách (Policy dialogue) được thực hiện thông qua các hội

nghị không chính thức để thỏa thuận và cố vấn cho các cơ quan. Cuộc đối thoại

này được thực hiện từ các cơ quan khác nhau trên một nhóm liên cơ quan, hoặc

họ có thể là các chuyên gia bên ngoài-người sẽ phải đệ trình báo cáo cho những

người ra quyết định.

2.2.1. Khái niệm, đặc điểm của hòa giải

Page 23: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Hòa giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp trong

đời sống xã hội, nhưng quan niệm về hòa giải còn nhiều vấn đề chưa thống nhất.

Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải: Hòa giải (conciliation)

là sự can thiệp, sự làm trung gian hòa giải; hành vi của người thứ ba làm trung

gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh

chấp (GQTC) giữa họ. Việc GQTC thông qua người trung gian hòa giải (bên

trung lập); Hòa giải là một quá trình mà bên thứ ba tạo điều kiện và phối hợp để

các bên thương lượng với nhau. Từ điển pháp lý của Rothenberg định nghĩa hòa

giải là “hành vi thỏa hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp, mỗi bên nhượng bộ

một ít”. Một định nghĩa khác của hòa giải là “việc GQTC giữa hai bên thông qua

sự can thiệp của bên thứ ba, hoạt động một cách trung lập và khuyến khích các

bên xóa bớt sự khác biệt”. Theo Từ điển tiếng Việt, “hòa giải là việc thuyết phục

các bên đồng ý chấm dứt xung đột, xích mích một cách ổn thoả”. Từ những quan

niệm trên, có thể rút ra một số đặc trưng chung của hòa giải như sau:

Một là, hòa giải là một biện pháp GQTC.

Hai là, chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung gian giúp cho các bên

tranh chấp thỏa thuận với nhau về GQTC. Điều này làm cho hòa giải có sự khác

biệt với thương lượng. Người trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư

vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Người này phải có vị

trí độc lập với các bên và hoàn toàn không có lợi ích liên quan đến tranh chấp.

Bên thứ ba làm trung gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và

không có quyền đưa ra phán quyết.

Ba là, sự điều chỉnh, thỏa thuận về giải quyết các tranh chấp phải do chính

các bên tranh chấp quyết định. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của quá trình

hòa giải không có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện

chí, sự tự nguyện của các bên.

Page 24: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Như vậy, có thể hiểu hòa giải là một phương thức GQTC với sự giúp đỡ của

một bên thứ ba trung lập, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết các

tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội.

     Trong nhiều thế kỷ, “hòa giải” đã được sử dụng như một hình thức

GQTC. Trong xã hội phương Tây hiện đại, nó thường được mô phỏng như một

hình thức GQTC “thay thế”, và hòa giải là một nét đặc trưng nổi bật của xu

hướng GQTC thay thế. Điều này đặt ra câu hỏi là nó thay thế cho cái gì. Nếu câu

hỏi như vậy được đưa ra trong ngữ cảnh pháp luật, thì câu trả lời sẽ gắn với hình

thức tố tụng. Ở đây, “thay thế” hàm nghĩa những khác biệt về định tính với hình

thức tố tụng, nó bao gồm một tập hợp các nguyên tắc và quy định mà có thể là

đối lập với những nguyên tắc và quy định về hoạt động của Tòa án. Trong ngữ

cảnh này, “thay thế” còn hàm ý một sự lựa chọn, các bên cố ý lựa chọn sử dụng

trung gian hòa giải vì những lợi thế được cảm nhận so với hình thức tố tụng.

Tuy nhiên, có thể sẽ có sự hiểu lầm khi coi hòa giải là biện pháp thay cho tố

tụng. Hầu hết các tranh chấp trong xã hội hiện đại được chính các bên tự giải

quyết thông qua đàm phán. Trong số tương đối ít vụ tranh chấp cần đến luật sư,

thì chỉ có một tỷ lệ rất ít số vụ như vậy được tiến hành theo trình tự thủ tục tố

tụng, thậm chí số vụ tranh chấp được đưa ra Tòa án xét xử còn ít hơn thế. Trong

số những vụ cần đến luật sư và không được giải quyết bằng tố tụng, thì một vài

vụ đơn giản là không được theo đuổi nữa, còn những vụ khác thì được luật sư

giải quyết hoặc các bên giải quyết thông qua đàm phán hay thỏa thuận. Vì vậy,

xét về phương thức chủ đạo được sử dụng để GQTC trong xã hội hiện đại, thì

bản thân tố tụng lại chính là một phương thức “thay thế” với nghĩa là nó hiếm

khi được sử dụng. Nếu trung gian hòa giải được cho là một phương thức thay

thế, thì nó cần phải được nhìn nhận như một phương thức thay thế cho hầu hết

các phương pháp GQTC thường được sử dụng nhất. Vì đa số các vụ tranh chấp

được giải quyết thông thường bên ngoài hệ thống Tòa án, nên yêu cầu áp dụng

Page 25: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

phương thức hòa giải phải được đánh giá khác với các phương thức thay thế

khác cho hình thức tố tụng, kể cả việc giải quyết tại Tòa án.

2.2.2. Ưu điểm của hòa giải

*  Linh hoạt về thủ tục

Hòa giải có thể được tiến hành trong nhiều môi trường khác nhau, thủ tục có

thể được thỏa thuận và điều chỉnh cho thích nghi. Tính linh hoạt đem lại lợi thế

là các bên được bày tỏ ý kiến xem quá trình nào thì phù hợp với họ; cho phép có

những điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp và các bên tranh chấp đòi hỏi phải

vậy; tránh khả năng về việc có những yêu cầu về thủ tục kỹ thuật quá phức tạp.

Ngược lại, phương thức tố tụng Tòa án có một cách thức tổ chức cứng nhắc hơn,

có những quy định và thủ tục cố hữu. Có một vài yếu tố mang tính kỹ thuật đòi

hỏi rất cao, buộc các bên phải nghiêm chỉnh chấp hành cả trong thời gian trước

và đang diễn ra quá trình xét xử.

Một sự khác biệt quan trọng giữa hòa giải và biện pháp tố tụng là những

thông tin và chứng cứ nào có thể được sử dụng, sử dụng và kiểm chứng như thế

nào. Trong tố tụng, vấn đề này được điều chỉnh theo quy định về chứng cứ và

thủ tục để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy. Trong hòa giải thường không có

quy định nào về chứng cứ và cũng không có quy định về kiểm chứng cũng như

xem xét về mặt thủ tục. Chỉ có những quy định thủ tục mở về phương pháp nói

chuyện và giao tiếp. Các bên tranh chấp được phép kể chuyện của họ nếu thấy

phù hợp và có thể biểu lộ tình cảm mà không bị bài bác và bị cho là không có ý

nghĩa.

Tuy nhiên cũng có những giới hạn đối với tính linh hoạt của hoạt động hòa

giải. Mặc dù nó không phải là một quá trình cứng nhắc, nhưng khi các hòa giải

viên hướng dẫn, các bên vẫn phải có sự thống nhất cao trong các giai đoạn khác

nhau. Các hòa giải viên phải thực hiện một cách có hệ thống qua từng giai đoạn

của hoạt động hòa giải theo trình tự cụ thể. Điều này giúp khai thác được từng

Page 26: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

điểm mạnh trong toàn bộ quá trình hòa giải, vì mỗi một giai đoạn trong quá trình

đó đều có cái lý lẽ riêng của nó. Vì thế, mặc dù có sự linh hoạt, nhưng hòa giải

mang tính tổ chức hơn so với những cuộc đàm phán có tính chất tùy tiện. Một

trong những đóng góp của một hòa giải viên là có thể xác lập trật tự trong những

cuộc đàm phán vô tổ chức và thiếu thống nhất.

*  Tính thân mật

Tính thân mật trong hòa giải luôn luôn gắn liền với tính linh hoạt của nó. Ở

đây, tính thân mật là muốn nói đến không gian và môi trường, phong thái và

ngôn ngữ trong hòa giải, hành vi giao tiếp và ứng xử của những người tham gia.

Hoạt động này thân mật, hoặc có khả năng thân mật, từ góc độ trang phục ăn

mặc, địa điểm tổ chức, không gian và môi trường, ngôn ngữ sử dụng và thời gian

tham dự. Hòa giải không có thủ tục nghi lễ và không gian trầm tĩnh huyền bí như

của hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử tại Tòa án luôn thể hiện tính trang trọng,

nghi lễ và tính thứ bậc. Nhưng trong hòa giải, các bên tham gia thường không có

cảm nhận về hình thức nghi lễ và tính thứ bậc trong đó.

Giá trị của tính thân mật là ở chỗ nó có thể làm cho quá trình trung gian hòa

giải gần gũi và thân thiện với các bên tranh chấp hơn, không tạo ra sự lo lắng và

căng thẳng so với hoạt động xét xử tại tòa. Đặc biệt hơn là trong trung gian hòa

giải, các bên có thể sử dụng ngôn ngữ thông tục hàng ngày, khác hẳn với những

hình thức giao tiếp được phong cách hóa trong môi trường Tòa án. Tuy nhiên,

hòa giải viên cũng có thể yêu cầu sử dụng ngôn ngữ trang trọng và các bên tranh

chấp cũng có thể khách sáo trong việc sử dụng ngôn từ khi hòa giải. Khác với hệ

thống Tòa án, mức độ trang trọng đến đâu thì cũng có thể được các bên thỏa

thuận để phù hợp với văn hóa của các bên tranh chấp.

*  Sự tham gia của các bên vào quá trình hòa giải

Chính tính thân mật và tính linh hoạt của hòa giải cho phép sự tham gia trực

tiếp của các bên vào quá trình này. Sự tiếp cận và tham gia trước hết dành cho

Page 27: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

các bên tranh chấp. Trong hòa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao

đổi, đàm phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ quá trình. Quá trình

hòa giải tạo cơ hội cho mỗi bên bày tỏ quan điểm của mình về tranh chấp. Đây là

một bước rất quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp của hòa giải. Hòa

giải đem lại cơ hội cho các bên trình bày, giải thích và đưa ra lời xin lỗi với

nhau. Sự tham gia trực tiếp của các bên tranh chấp trong hòa giải là rất cần thiết

vì nó đề cao được tinh thần trách nhiệm của các bên đối với các lựa chọn của

mình. Thông thường, so với việc để những người bên ngoài như thẩm phán hay

trọng tài viên đưa ra quyết định thì bản thân các bên thường đưa ra những quyết

định có lợi hơn cho mình. Bằng cách này, sự tham gia có thể xóa bỏ cảm giác

của các bên khi cho rằng họ phải chịu áp lực để đưa ra một quyết định nào đó.

Nếu các bên nhận thấy rằng họ “làm chủ” quá trình, thì họ có thể dễ dàng ủng hộ

kết quả hơn. Không một phương pháp GQTC nào có thể đảm bảo sự tham gia

trực tiếp của các bên được như hình thức hòa giải, các bên đánh giá rất cao

“quyền tự quyết” của hình thức này dù tranh chấp chưa được giải quyết. Quá

trình tham gia vào hòa giải cũng mang tính giáo dục cho các bên ở chỗ họ được

trực tiếp tham gia và học được cách thức giải quyết vấn đề mà có thể áp dụng

trong những hoàn cảnh khác.

Ngược lại, mô hình tố tụng truyền thống chỉ cho phép sự tham gia rất hạn

chế và theo nguyên tắc nhất định đối với những bên có lợi ích hợp pháp liên

quan. Nó khuyến khích sự thụ động, sự phụ thuộc và thiếu vắng trách nhiệm lựa

chọn.

* Đặt con người ở vị trí trung tâm

Trong khi phần lớn việc GQTC có xu hướng tập trung vào hành vi, vào tình

tiết là chính thì trong hòa giải, trọng tâm là con người chứ không phải tình tiết

vụ việc. Việc này đòi hỏi hòa giải viên phải xét đến nhu cầu hiện tại cũng như

mối quan tâm của các bên. Hòa giải cho phép giải quyết vụ việc dựa trên lợi ích

Page 28: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

mong muốn của các bên. Hòa giải viên thường không yêu cầu các bên phải

thuyết phục hay làm cho họ tin về những tình tiết thực tế, hơn nữa, họ cũng thiếu

những cơ chế hỗ trợ điều tra hoặc kiểm nghiệm sự thật. Mặt khác, các bên cũng

không có điều kiện để chất vấn hay kiểm chứng những lời nói hay tuyên bố của

nhau theo những cách thức giống như trong tố tụng Tòa án.

* Duy trì mối quan hệ

Bên cạnh việc đặt con người ở vị trí trung tâm, hòa giải còn đặt trọng tâm

vào khía cạnh duy trì mối quan hệ. Điều này mang ý nghĩa nhân văn của GQTC.

Các bên có cơ hội thể hiện tình cảm, bày tỏ sự quan tâm đến các quan hệ trong

tương lai giữa các bên. GQTC bằng hòa giải có thể duy trì hoặc cải thiện quan hệ

giữa các bên nhờ việc xem xét đến lợi ích và quan tâm thực tế của các bên, có

thủ tục dễ dàng và áp dụng phương pháp cùng tham gia, xây dựng mô hình đàm

phán và các kỹ thuật giải quyết vấn đề mang tính xây dựng, có cách quản lý

xung đột đầy tính nhân văn… làm cho hòa giải trở thành một phương thức

GQTC mềm dẻo chứ không cứng nhắc như tố tụng Tòa án. Mặc dù hoạt động tố

tụng cũng sẽ giải quyết được tranh chấp thông qua xét xử, nhưng nó có thể dẫn

đến sự thiệt hại mà không thể sửa chữa được trong các mối quan hệ vì gắn với

hoạt động tố tụng là những ngôn ngữ không thiện chí. Thậm chí, hoạt động trọng

tài cũng không thường xuyên đảm bảo việc duy trì các mối quan hệ được tiếp tục

lâu dài.

*  Tạo lập quy chuẩn

Khi đưa ra quyết định, Tòa án và các trọng tài viên đều dựa vào các quy

phạm pháp luật, nghĩa là các quy tắc và nguyên tắc được quy định trong các đạo

luật. Trong hòa giải, các bên không viện dẫn các quy phạm để định hướng giải

quyết, nhưng các quy phạm lại có thể được các bên rút ra từ chính kết quả giải

quyết vụ việc.

Page 29: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Trong hòa giải, các bên được tự do không áp dụng các quy tắc, nguyên tắc

và chính sách mà vốn có tính ràng buộc với các Tòa án, trọng tài viên. Thỏa

thuận giữa các bên có thể đạt được trên cơ sở lợi ích chung vì nó chỉ diễn ra vào

một thời điểm cụ thể nhất định. Các bên thường có cách nhìn của họ về lợi ích

rộng hơn so với một thẩm phán. Chính vì vậy, các doanh nghiệp mong muốn

sớm đi đến một thỏa thuận GQTC trước đó mà không cần phải đề cập đến quyền

và nghĩa vụ pháp lý để sao cho họ có thể lồng ghép những thương vụ làm ăn sau

này vào trong thỏa thuận giải quyết. Khi xây dựng các quy phạm riêng để

GQTC, các bên có thể quyết định những lợi ích riêng của họ, xác lập những ưu

tiên, cân đối và hoàn thành hợp đồng xét theo cách thức kinh doanh hay đánh giá

xã hội và phương pháp giải quyết của chính họ. Đây là một biểu hiện của quyền

tự định đoạt. Một khía cạnh khác trong bản chất của việc tạo lập quy phạm trong

hòa giải là tính linh hoạt của kết quả. Các bên có thể nhất trí về kết quả mà có lẽ

chẳng bao giờ giống như kết luận của Tòa án. Tuy nhiên, các quyết định hòa giải

của các bên phải là một thỏa thuận phải hợp pháp hoặc không được trái với

chính sách công theo quy định trong luật.

*  Sự kín đáo và tính bảo mật

Sự kín đáo và tính bảo mật được thể hiện ở việc: phiên họp hòa giải được tổ

chức kín, người ngoài chỉ có thể biết được trình tự thủ tục và nội dung nếu được

các bên đồng ý; không công bố công khai nội dung được trao đổi trong phiên

họp; việc công bố điều khoản giải quyết là vấn đề phải được hai bên thỏa thuận.

Trình tự, thủ tục hòa giải được tiến hành trên cơ sở “không có sự phản

cung”, nghĩa là không cho phép các bên được sử dụng những tuyên bố trong hòa

giải làm chứng cứ nếu sau này phải xét xử tại Tòa và hòa giải viên cũng thường

bị ràng buộc bởi nguyên tắc bảo mật. Những yêu cầu này tạo điều kiện để có các

cuộc đàm phán thẳng thắn và cởi mở và vì lợi ích của một bên hay của các bên

Page 30: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

nếu muốn tránh để các vấn đề riêng tư của họ bị công bố với các đối thủ cạnh

tranh làm ăn kinh doanh, những người thân quen hoặc bạn bè.

2.3. Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bằng trọng tài.

Trong vụ tranh chấp giữa Mỹ với Canada về ô nhiễm không khí tầm cao ở

trên, phía Mỹ đã lựa chọn phương thức bằng trọng tài để giải quyết cho tranh

chấp của mình. Cuối cùng phán quyết của trọng tài đã trở thành một tập quán

quốc tế có hiệu lực bắt buộc đối với các quốc gia trên thế giới do tính nghiêm

minh và xác đáng của các phán quyết trọng tài.

“Trọng tài” là một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, trong đó,

các bên tham gia tranh chấp thống nhất tranh chấp phát sinh nếu có sẽ do một

hoặc một số người (“trọng tài viên”, “Ủy ban trọng tài”) giải quyết, và quyết

định của một hoặc một số người đó (“phán quyết”) có tính chất bắt buộc thực

hiện. Có thể hiểu “trọng tài” một cách đơn giản là một biện pháp giải quyết tranh

chấp mang tính pháp lý, giống như việc kiện tụng ở tòa án, và hoàn toàn khác

biệt với nhóm các biện pháp không mang tính bắt buộc về mặt pháp lý như đàm

phán, trung gian, điều tra và hòa giải.

Ngày nay, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được xem như phương thức

phổ biến nhất. Trọng tài không chỉ xét xử những tranh chấp phát sinh giữa cá

nhân với cá nhân, mà thậm chí cả những tranh chấp giữa cá nhân với quốc gia

hay quốc gia với quốc gia.

Phân xử ràng buộc là hướng giải quyết do trọng tài quyết định. Nó có áp lực

pháp luật với các bên tham gia.

- Đặc điểm của biện pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: Các bên

thường mong muốn đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài bởi lẽ biện pháp

này có nhiều ưu thế so với tòa án, cụ thể như sau:

Page 31: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

+ Thứ nhất, việc tự do lựa chọn trọng tài viên: đối với những tranh chấp có

tính chuyên môn cao, các bên có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chuyên

môn đúng với lĩnh vực tranh chấp.

+ Thứ hai, thời gian nhanh chóng, thủ tục linh hoạt: thủ tục giải quyết tranh

chấp tại trọng tài nhanh hơn kiện tụng tại tòa án.

+ Thứ ba, phán quyết trọng tài được công nhận rộng rãi.

+ Thứ tư, tính chung thẩm: nhìn chung, phán quyết của trọng tài mang tính

chung thẩm, các bên tham gia tranh chấp không có quyền kháng cáo đối với

phán quyết của trọng tài (tuy nhiên, tòa án vẫn có quyền hạn nhất định đối với

việc ra quyết định  hủy phán quyết trọng tài hoặc tuyên bố phán quyết của trọng

tài vô hiệu).

+ Thứ năm, tính bảo mật: nội dung tranh chấp được giữ bí mật, phán quyết

của trọng tài không được công bố rộng rãi. Điều này rất có lợi khi công ty muốn

giữ uy tín của mình.

Mặc dù trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp rất được ưa chuộng

hiện nay song trên thực tế, có nhiều quốc gia không ủng hộ biện pháp này. Khả

năng thứ nhất là họ không muốn sử dụng công cụ pháp lý để giải quyết tranh

chấp bởi vì các biện pháp ngoại giao sẽ đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp

được quyết định bởi các bên. Khả năng thứ hai là vấn đề thực thi phán quyết của

trọng tài còn chưa có sự đảm bảo chắc chắn. Mặc dù phán quyết của trọng tài

được thừa nhận rộng rãi, tuy nhiên, việc thực thi phán quyết, hay hiệu lực của

phán quyết trọng tài còn phụ thuộc vào ý thức và hành vi của các bên trong tranh

chấp.

- Các hình thức trọng tài

Kể cả khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài từ trước (thỏa thuận trong đó

quy định tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết tại trọng tài), hay khi tranh

chấp đã phát sinh và các bên quyết định sẽ đưa tranh chấp giải quyết tại trọng

Page 32: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

tài, việc đầu tiên phải thống nhất là hình thức trọng tài được lựa chọn. Các bên

tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận sử dụng trọng tài vụ việc ad hoc hoặc

trọng tài định chế (hay còn gọi là trọng tài quy chế).

+ Trọng tài vụ việc

Trọng tài vụ việc không thuộc một tổ chức trọng tài nào, do đó, các bên

tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận quyết định tất cả các vấn đề về trọng tài

như số lượng trọng tài viên, cách thức chỉ định, thủ tục tố tụng trọng tài, luật áp

dụng… Trọng tài vụ việc có ưu điểm là linh hoạt, chi phí thấp và thủ tục nhanh

chóng hơn, với điều kiện là các bên tham gia tranh chấp có ý chí hợp tác.

Đối với trọng tài vụ việc, Ủy ban trọng tài là do các bên hoặc do đại diện của

các bên chỉ định. Sau khi Ủy ban trọng tài được thành lập, việc phân xử sẽ do

Ủy ban trọng tài thực hiện và các bên không được tham gia vào việc phân xử đó.

+ Trọng tài định chế

Trọng tài định chế (hay còn gọi là trọng tài quy chế) là hình thức tổ chức,

một trung tâm trọng tài hoạt động thường trực (thực chất là họ cung cấp dịch vụ

trọng tài) với những quy định có sẵn về những vấn đề liên quan tới trọng tài như

thủ tục, cách tiến hành tố tụng trọng tài … Có thể kể tên một số trung tâm trọng

tài nổi tiếng trên thế giới như LCIA (The London Court of International

Arbitration) ở London, CIArb ( The Chartered Institute of Arbitrators) ở Anh

hay ICC (The International Court of Arbitration) ở Paris.

Thông thường, khi các bên thống nhất đưa tranh chấp ra xét xử theo phương

thức trọng tài định chế, trung tâm trọng tài được lựa chọn sẽ chịu trách nhiệm

chỉ định trọng tài viên cho Ủy ban trọng tài.

Trọng tài định chế, với những quy định và thủ tục riêng của mình, thường

được xem là “chính thống” hơn so với trọng tài vụ việc. Tuy nhiên, chi phí cho

trọng tài định chế thường cao hơn, và thủ tục tố tụng lại chậm hơn so với trọng

tài vụ việc.

Page 33: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

2.4. Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bằng con đường Tòa Án:

Cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc, Toà án công lý quốc tế của Liên hợp

quốc hoạt động theo Hiến chương liên hợp quốc 1945 và Quy chế Tòa án công

lý quốc tế. Hiến chương dành cả chương XIV từ Điều 92 đến Điều 96 để quy

định các vấn đề cơ bản về tổ chức, nhiệm vụ, chức năng và hoạt động của Tòa.

Quy chế Tòa án quốc tế gồm 70 điều là cơ sở pháp lý để Tòa tiến hành các hoạt

động tư pháp.

Hoạt động chức năng của Tòa được tiến hành bởi các Thẩm phán được bầu

theo quy chế. Cơ quan có thẩm quyền đề cử và bầu thành viên của Tòa án công

lý quốc tế Liên hợp quốc là Đại hội đồng là Hội đồng bảo an. Tòa Án công lý

quốc tế Liên hợp quốc là cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp phát sinh

giữa chủ thể là các quốc gia. Các quốc gia có thể lựa chọn thẩm quyền giải quyết

tranh chấp của Tòa được thiết lập theo ba phương thức, như chấp nhận thẩm

quyền của Tòa theo từng vụ việc, chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án trong

các điều ước quốc tế hoặc tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của

Tòa.

Tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc tiến hành xét xử một vụ tranh chấp

theo hai trình tự đầy đủ và rút gọn. Thành phần của một phiên tòa có thể là toàn

bộ các thẩm phán, có thể ít hơn nhưng tối thiểu là 9 vị thẩm phán. Các bước

thuộc trình tự xét xử của Tòa thường gồm 2 giai đoạn là giai đoạn xem xét về

hình thức, giai đoạn thứ 2 là giai đoạn xét xử về nội dung vụ việc, theo 2 thủ tục

nói và viết.

Về pháp lý, phán quyết của Tòa có giá trị chung thẩm và bắt buộc đối với

các bên. Nếu một trong các bên không chịu thi hành bản án, phía bên kia có

quyền yêu cầu Hội đồng bảo an can thiệp, buộc phải chấp hành. Phán quyết của

Tòa chỉ có giá trị pháp lý trong mối quan hệ giữa các bên tranh chấp. Trong

Page 34: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

trường hợp các bên bất đồng trong việc giải thích và thực hiện phán quyết thì có

thể yêu cầu Tòa giải thích hoặc sửa đổi phán quyết, Tòa xem xét và có thể chấp

nhận hay từ chối yêu cầu này.

3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bởi các tổ

chức quốc tế.

Các tổ chức quốc tế hiện nay không chỉ là trung tâm phối hợp hành động của

các quốc gia nhằm hướng tới những lợi ích chung mà còn có vai trò rất to lớn

trong việc giải quyết những tranh chấp quốc tế, trước hết là tranh chấp giữa các

quốc gia thành viên. Căn cứ vào các điều ước quốc tế thành lập các tổ chức quốc

tế, có thể khẳng định, việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ là quyền hạn

mà còn là chức năng của chính các tổ chức đó. Tuy nhiên, khi các quốc gia thành

viên của một tổ chức quốc  tế và đồng thời cũng là một bên trong một tranh chấp

quốc tế thì họ không chỉ có thể tìm đến những cơ chế giải quyết trong khuôn khổ

của tổ chức quốc tế đó mà còn hoàn toàn có quyền tự do thỏa thuận lựa chọn

những cơ chế giải quyết phù hợp khác.

Chính việc nâng cao vai trò của tổ chức quốc tế trong quan hệ quốc tế và

việc gia tăng số lượng các tổ chức quốc tế đã mang lại sự thay đổi nhất định

trong hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế giữa các

quốc gia. Mỗi tổ chức quốc tế đều có đặc trưng riêng trong cơ chế giải quyết

tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình.

*  Liên hợp quốc

Liên hợp quốc là một tổ chức quốc tế phổ cập có vai trò rất quan trọng

trong quan hệ quốc tế. Theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, các cơ

quan chính, ở các mức độ khác nhau, đều có thể tham gia vào quá trình giải

Page 35: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

quyết tranh chấp quốc tế, trong đó, vai trò chính thuộc về Hội đồng bảo an và

Tòa án quốc tế.

Hội đồng bảo an là cơ quan có trách nhiệm chính trong việc duy trì hòa

bình và an ninh quốc tế và có chức năng rộng lớn nhất trong giải quyết hòa bình

các tranh chấp quốc tế, trong đó bao gồm tranh chấp về môi trường quốc tế. Nói

chung, thẩm quyền của Hội đồng bảo an được xác định đối với các loại hình

tranh chấp quốc tế mà khả năng kéo dài có thể đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế.

Với những loại tranh chấp đó, Hội đồng bảo an có quyền:

- Yêu cầu các bên giải quyết tranh chấp giữa họ bằng các biện pháp nêu ở

Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc;

- Điều tra mọi tranh chấp hoặc tình thế nếu xét thấy diễn biến có thể gây

bất hòa giữa các nước hoặc đe dọa hòa bình an ninh quốc tế;

- Kiến nghị các bên những thủ tục hoặc phương thức giải quyết thỏa đáng.

Mặt khác, nếu Hội đồng bảo an xét thấy có sự đe dọa hoặc phá hoại hòa

bình, có hành vi xâm lược thì cơ quan này có quyền:

- Yêu cầu các bên tuân thủ những biện pháp tạm thời;

- Quyết định áp dụng những biện pháp phi quân sự

- Áp dụng những biện pháp quân sự.

Như vậy, trên cơ sở của chương VI Hiến chương Liên hợp quốc thì Hội

đồng bảo an có toàn quyền thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp thông qua

các biện pháp trung gian, hòa giải, ủy ban điều tra, ủy ban hòa giải.

Ngoài Hội đồng bảo an, các cơ quan chính khác của Liên hợp quốc như

Đại hội đồng cũng có thể thực hiện chức năng hòa giải nếu tranh chấp không

được chuyển giao cho Hội đồng bảo an xem xét và giải quyết.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Tổng thư ký có vai trò quan trọng.

Tổng thư ký có quyền thông báo cho Hội đồng bảo an về các vấn đề về bất kỳ

mà theo nhận định của Tổng thư ký có thể đe dọa việc duy trì hòa bình và an

Page 36: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

ninh quốc tế. Tổng thư ký có thể đưa vấn đề tranh chấp ra trước Hội đồng bảo an

xem xét mặc dù Tổng thư ký không có tiếng nói quyết định. Trong thực tiễn hoạt

động của Liên hợp quốc, Tổng thư ký theo yêu cầu của Đại hội đồng của Liên

hợp quốc, Tổng thư ký theo yêu cầu của Đại hội đồng và Hội đồng bảo an có thể

đóng vai trò trung gian, hòa giải.

* Tổ chức quốc tế khu vực và tổ chức quốc tế.

Văn bản pháp lý của một số tổ chức quốc tế khu vực và tổ chức quốc tế có

quy định về trình tự, thủ tục và hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết các

tranh chấp giữa các thành viên của mình. Việc sử dụng tổ chức quốc tế khu vực

để giải quyết tranh chấp quốc tế có thể được thực hiện theo sáng kiến của các

quốc gia tranh chấp, thành viên của các tổ chức quốc tế này, theo sáng kiến của

Hội đồng bảo an Liên hợp quốc hoặc theo quy định của tổ chức quốc tế khu vực.

Trong một số tổ chức quốc tế hiện nay, có nhiều tổ chức khu vực đã có

những hợp tác để cùng hỗ trợ nhau trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, phát triển

bền vững cũng như tự mình giải quyết các tranh chấp môi trường giữa các quốc

gia thành viên hoặc giữa các quốc gia thành viên với quốc gia ngoài khu vực như

hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Asean, liên minh châu Âu EU, cơ quan năng

lượng nguyên tử quốc tế IAEA, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế của khối

các nước công nghiệp phát triển (OECD) ….

Ví dụ về việc hợp tác khu vực trong việc kiểm soát ô nhiễm xuyên biên giới

tầm xa của các quốc gia châu Âu. Từ năm 1975, Hội nghị về An ninh và Hợp tác

châu Âu đã tạo một động lực chính trị cần thiết cho sự ban hành một chính sách

chung về kiểm soát ô nhiễm không khí, và những biện pháp đặc biệt đã được

thảo luận thông qua Ủy ban Kinh tế khu vực châu Âu của Liên Hiệp Quốc ví dụ

thành lập chương trình quan trắc châu Âu năm 1976, và sau đó vào năm 1979

ban hành Công ước Geneva về ô nhiễm không khí tầm xa.

Page 37: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Công ước này được coi như là thỏa thuận khu vực duy nhất quy định việc

kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa, trong đó bầu khí quyển châu Âu được coi

như là một nguồn tài nguyên dùng chung và do đó bắt buộc các quốc gia phải có

sự hợp tác xây dựng và thực hiện các biện pháp kiểm soát ô nhiễm cũng như

những tiêu chuẩn phát thải chung. Vì vậy, mục tiêu của Công ước là ngăn ngừa,

giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa, từ bất kể nguồn gây ô nhiễm

nào, nhưng không quy định trách nhiệm đối với tổn hại do ô nhiễm không khí.

Công ước có hiệu lực năm 1983, và hiện nay hơn 30 quốc gia ở Tây và Đông Âu

tham gia, kể cả Liên bang Nga và tất cả các quốc gia là nguồn gây ô nhiễm chủ

yếu. Canada và Mỹ cũng đã phê chuẩn. Các quốc gia chịu thiệt hại từ ô nhiễm

không khí không thỏa mãn với những quy định của Công ước, tuy nhiên sự

thống nhất chỉ có thể đạt được trên cơ sở những cam kết về lợi ích thiết thực của

các bên.

Ô nhiễm không khí tầm xa là loại ô nhiễm ảnh hưởng đến một khoảng cách

mà khó có thể phân biệt được những nguồn phát thải riêng biệt hay những nhóm

nguồn gây ô nhiễm (Điều 1, b). Do đó, vụ Trail Smelter sẽ không thuộc phạm vi

của định nghĩa này, mà chỉ những vấn đề khu vực như mưa acid hay những chất

thải có khả năng phát tán xa. Công ước cũng không chỉ giới hạn ở những ảnh

hưởng có hại đến sức khỏe hoặc tài sản mà được quy định rộng hơn, thậm chí

hơn cả những quy định trong các thỏa ước về ô nhiễm môi trường biển, bao gồm

tổn hại đến nguồn sinh vật, hệ sinh thái, cơ sở hạ tầng và việc sử dụng hợp lý các

nguồn tài nguyên môi trường (Điều 1, Tóm lại, mục đích của Công ước là giảm

đến mức thấp nhất các tổn hại tiềm tàng đến môi trường.

Công ước không quy định bất kỳ một nghĩa vụ cụ thể nào về việc cắt giảm

các nguồn ô nhiễm không khí, mà các bên chỉ cam kết xây dựng một chính sách

kiểm soát ô nhiễm, trên cơ sở những nguyên tắc và mục tiêu chung. Với những

từ ngữ không mang tính cưỡng chế, ví dụ nghĩa vụ “nỗ lực hạn chế” và “dần dần

Page 38: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

cắt giảm và ngăn ngừa” ô nhiễm không khí (Điều 2), Công ước bị xem chẳng

hơn một “chiến thắng biểu trưng” nhằm làm yên tâm cả người gây ô nhiễm và

nạn nhân, nghĩa là các quốc gia cam kết xây dựng chính sách, chiến lược và

những biện pháp kiểm soát, nhưng phải cân đối với sự phát triển và tính khả thi

kinh tế của các công nghệ hữu hiệu nhất sẵn có (Điều 6). Vì vậy, các quốc gia có

toàn quyền quyết định mức độ nỗ lực kiểm soát ô nhiễm của họ, cũng như chi

phí họ sẵn lòng bỏ ra cho toàn bộ quá trình phát triển kinh tế. Đối với một số

quốc gia gây ô nhiễm chủ yếu, ví dụ Anh và Tây Đức, nghĩa vụ linh động này là

điều kiện tiên quyết để họ phê chuẩn Công ước vào năm 1979, và tạo điều kiện

để Mỹ tiếp tục gây ô nhiễm trầm trọng cho Canada mà không vi phạm Công

ước.

Công ước Geneva cũng quy định về nghĩa vụ thông báo và thảo luận trong

trường hợp có những rủi ro nghiêm trọng có thể dẫn đến ô nhiễm tầm xa. Những

quy định này khá lỏng lẻo so với những quy tắc tập quán liên quan đến quá trình

thảo luận về những rủi ro đối với các nguồn tài nguyên dùng chung. Quy định

này chỉ được áp dụng đối với những thay đổi chủ yếu trong chính sách hoặc sự

phát triển công nghiệp có khả năng gây ra những thay đổi đáng kể về ô nhiễm

không khí tầm xa, và do đó các quốc gia mới có nghĩa vụ thông báo cho các

quốc gia khác. Nếu không, việc thảo luận chỉ được tổ chức do yêu cầu của các

bên “thực sự bị ảnh hưởng hoặc có khả năng bị một rủi ro đáng kể về ô nhiễm

không khí tầm xa” (Điều 5), có nghĩa là cơ chế thảo luận không hiệu quả bằng

những Công ước liên quan đến Đánh giá Tác động Môi trường (nghĩa vụ tổ chức

thảo luận ngay từ khi đề xuất dự án sau khi đã thông báo cho tất cả các bên có

khả năng chịu tổn hại từ hoạt động phát triển để họ có thể tham gia).

Ngoại trừ những khiếm khuyết đã nêu, Công ước Geneva đã xây dựng được

một khung pháp lý cho sự hợp tác và tạo tiền đề cho việc phát triển những biện

pháp kiểm soát ô nhiễm. Các điều 3, 4, 5 và 8 xác định nghĩa vụ các quốc gia

Page 39: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

trao đổi thông tin, nghiên cứu và thảo luận về chính sách, chiến lược và các biện

pháp nhằm cắt, giảm ô nhiễm không khí. Công ước là cơ sở để tiếp tục nghiên

cứu về vấn đề này nhằm tìm những giải pháp để cùng hợp tác giải quyết. Các

bên đều nhất trí về ảnh hưởng tích cực của Công ước đối với việc kiểm soát ô

nhiễm không khí và quản lý chất lượng không khí trong khu vực, thể hiện ở

những hành động của các quốc gia để cải thiện môi trường, giảm tỷ lệ phát thải ô

nhiễm, và phát triển công nghệ. Ở một mức độ nào đó, Công ước được xem là

một thành công đáng khích lệ, đặc biệt đối với việc làm thay đổi chính sách

trong Cộng đồng châu Âu và thúc đẩy mối quan tâm của công chúng đối với vấn

đề này.

Tuy nhiên, Công ước Geneva chỉ có giá trị ràng buộc với một số quốc gia

châu Âu và Bắc Mỹ, trong khi đó vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới

đang đe dọa sự tồn tại của cả nhân loại. Do đó, ở mức độ toàn cầu, cơ sở để xác

định trách nhiệm đối với hành vi gây ô nhiễm không khí tầm xa vẫn là nghĩa vụ

tập quán quốc tế, đã trình bày ở phần đầu.·

Nguyên tắc cơ bản trong quan hệ song phương về môi trường được hình

thành từ phán quyết trọng tài đối với tranh chấp Trail Smelter 2 năm 1941

“không quốc gia nào có quyền sử dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của

mình để phát tán khói gây thiệt hại nghiêm trọng đến lãnh thổ, tài sản và người

dân của quốc gia khác”. Nguyên tắc này được mở rộng và nhấn mạnh trong

Tuyên bố Stockholm “các quốc gia có trách nhiệm bảo đảm những hoạt động

thuộc chủ quyền quốc gia không gây thiệt hại đến môi trường của các quốc gia

khác hoặc các khu vực vượt quá giới hạn chủ quyền quốc gia” (Nguyên tắc 21).

Một loạt các văn bản quốc tế, cả cưỡng chế lẫn khuyến nghị, đều ghi nhận

nguyên tắc này, điển hình là ý kiến tư vấn của Tòa án Quốc tế ngày 08/7/1996:

“môi trường không phải là khái niệm trừu tượng, mà thể hiện một không gian

nhằm bảo đảm chất lượng cuộc sống và sức khỏe của con người, kể cả những thế

Page 40: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

hệ chưa được sinh ra. Do đó, các quốc gia có nghĩa vụ bảo đảm những hoạt động

trong phạm vi chủ quyền quốc gia phải được tiến hành theo cách thức tôn trọng

môi trường quốc gia khác hoặc những khu vực vượt quá giới hạn chủ quyền

quốc gia. Đây trở thành một cách giải thích luật quốc tế trong những vấn đề môi

trường”.

Từ đó, nghĩa vụ của quốc gia thông báo cho quốc gia khác về hiểm họa môi

trường cũng được thừa nhận, về bản chất, là một quy tắc tập quán. Nguyên tắc

này lần đầu tiên được ghi nhận năm 1974, trong một văn bản khuyến nghị của

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD – Organization for Economic

Cooperation and Development) của khối các quốc gia công nghiệp phát triển.

Sau khi xuất hiện ở rất nhiều văn bản, cả khuyến nghị lẫn cưỡng chế, năm 1982,

Công ước Luật biển đã chính thức quy định “khi biết được môi trường biển đang

có nguy cơ sắp phải chịu thiệt hại hay đã bị thiệt hại do ô nhiễm, các quốc gia

phải thông báo cho quốc gia có nguy cơ phải chịu những tổn thất, cũng như

thông báo cho các tổ chức có thẩm quyền” (Điều 198). Một vấn đề quan trọng

cần lưu ý là không hành động (bất hành vi) cũng có thể được xem là sự áp dụng

thường xuyên của quốc gia, ví dụ chấp nhận một mức độ ô nhiễm hoặc các hành

vi gây suy thoái môi trường mặc nhiên được hiểu rằng các quốc gia thừa nhận

điều đó phù hợp với luật quốc tế.

Đối với sông Mekong, trong quá trình tranh chấp xảy ra, đã có nhiều ý kiến

đề nghị đưa tranh chấp ra tổ chức hiệp hội các quốc gia  Đông Nam Á để giải

quyết nhưng cho đến nay vẫn chưa đạt được sự thống nhất trong tất cả các quốc

gia.

Page 41: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Kết luận

Bảo vệ môi trường sống là một thông điệp khẩn thiết của thời đại. Nhân loại

đang chuyển hướng từ con đường phát triển phi cấu trúc, trong đó con người

chạy đua ráo riết trên con đường tàn phá, huỷ diệt tài nguyên thiên nhiên và môi

trường để thoả mãn tối đa nhu cầu mức sống vật chất, đến con đường phát triển

có cấu trúc với sự phát triển hài hoà với môi trường sống. Trên con đường phát

triển đó, việc nảy sinh các tranh chấp, xung đột môi trường giữa các nhóm xã

hội trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường là điều không thể tránh

khỏi.

Tranh chấp môi trường là một dạng của xung đột môi trường, đó là những

mâu thuẫn, tranh chấp, bất đồng giữa các cá nhân, các nhóm xã hội trong việc

khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường. Tranh chấp môi trường nảy sinh như

một hệ quả tất yếu của quá trình khai thác và bảo vệ môi trường khi có sự tranh

giành lợi thế dẫn đến đối chọi lợi ích giữa các nhóm xã hội do nguồn tài nguyên

của môi trường là hữu hạn trong khi nhu cầu của con người là vô hạn.

Tranh chấp môi trường đang diễn ra rất phức tạp và tồn tại dưới nhiều hình

thức, quy mô và cấp độ khác nhau đặc biệt là các tranh chấp môi trường xuyên

biên giới và liên quốc gia, đòi hỏi những nhà quản lý môi trường phải có những

nhìn nhận và đánh giá đúng đắn tầm quan trọng của các dạng tranh chấp để từ đó

vận dụng các thiết chế xã hội, tìm các biện pháp thương thuyết, hoà giải giữa các

bên xung đột để từ đó đưa ra các hướng giải quyết có hiệu quả.

Giải quyết tranh chấp môi trường trên cơ sở có sự tham gia của cộng đồng

và vận dụng tiếp cận mạng lưới trong quản lý xung đột môi trường cần được

xem như một nguyên tắc quan trọng, cần thiết trong các thương lượng, hoà giải

các tranh chấp môi trường nhằm tiến tới một mục tiêu phát triển bền vững./.

Page 42: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình luật môi trường - nhà xuất bản đại học luật hà nội.

2. Hiến chương liên hợp quốc.

3. Xem Lê Thanh Bình,  Phạm Thị Bích Hà, Xung đột môi trường, trong Xã

hội học môi trường do Vũ Cao Đàm chủ biên, NXBKH&KT, 2002

4.  Tạp chí Luật Quốc tế, số 35 (Mỹ xuất bản – bản tiếng Anh), 1941, tr.

716.

5. Công ước ô nhiễm không khí tầm xa.

6. giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế trong khuôn khổ hiến chương

liên hợp quốc (từ Doko.vn - thư viện luận văn).

7. Tranh chấp môi trường (từ Cepsta.net - trung tâm nghiên cứu và phân tích

chính sách) - tác giả Đào Thanh Trường.

8. Thongtinphapluatdansu.wordpress.vn

Page 43: Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 14

Họ và Tên Mã sinh viên đánh giá

Nguyễn Thái Thu Hà 09065022

Nguyễn Thị Hằng 09065026

Nguyễn Lưu Ly 09065062

Lê Bùi Phương Nhung 09065080

Phạm Thị Phương Thảo 09065101