Tiểu luận kinh tế công cộngLời mở đầu Làng nghề truyền thống Việt Nam đã có từ hàng trăm năm, gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc, in đậm dấu ấn đặc trưng của từng vùng miền và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế xã hội, nâng cao đời sống cho người dân. Ở Việt Nam, các làng nghề tập trung chủ yếu ở ngoại vi thành phố hoặc ở vùng nông thôn, là nơi sản xuất các sản phẩm thủ công mang tính truyền thống. Các làng nghề thường được gọi tên là làng nghề thủ công, làng nghề truyền thống, làng nghề cổ truyền… Cùng với những thay đổi tích cực để thích nghi trong giai đoạn hội nhập của đất nước với nền kinh tế thế giới, các làng nghề cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có vấn đề bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững. Hiện nay, các chất thải phát sinh từ nhiều làng nghề đang gây ô nhiễm môi trường, tác động trực tiếp tới sức khỏe người dân. Các kết quả quan trắc trong thời gian gần đây cho thấy mức độ ô nhiễm của làng nghề có xu hướng gia tăng, nhất là ô nhiễm bụi tại các làng nghề gốm, sứ, vật liệu xây dựng, khai thác đá, đồ gỗ mỹ nghệ và các làng nghề tái chế. Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ, nước thải có độ ô nhiễm hữu cơ cao. Công tác thu gom và xử lý chất thải rắn ở các làng nghề vẫn còn nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng đến môi trường sống xung quanh. Vì vậy, nghiên cứu về vấn đề này là một việc hết sức cần thiết nhằm bảo vệ môi trường xung quanh cũng như bảo vệ sức khỏe của người dân sinh sống tại các làng nghề. Trong bài tiểu luận này, chúng em sẽ phân tích ngoại ứng tiêu cực do các các cơ sở sản xuất gây ra, đồng thời đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện tình trạng môi trường, giảm thải ô nhiễm tại các làng nghề Việt Nam. 1
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
có chứa độc tố vượt tiêu chuẩn nhiều lần, gây ảnh hưởng tới sức khỏe của cả người
dân và các sinh vật xung quanh mà không phải bồi thường.
Ngoại ứng tích cực: là việc sản xuất hay tiêu dùng của đối tượng nào đó làm tăng íchlợi cho người khác mà không được trả tiền bởi những người hưởng lợi đó. Ví dụ: một
người trồng hoa trước sân nhà mình tạo quang cảnh đẹp cho cả khu phố nhưng không
được trả công cho hành động đó.
3. Sự tác động của ngoại ứng tiêu cực
Xem xét hoạt động của ngành sản xuất của một làng nghề cụ thể, đó là làng nghề chế
miến Dương Liễu (huyện Hoài Đức) đã gây ra một ngoại ứng tiêu cực là ô nhiễm môi trường,
Giá miến trên thị trường là PE, tương ứng với điểm cân bằng thị trường là E và
sản lượng được sản xuất trên thị trường là QE. Tuy nhiên do các doanh nghiệp sản xuất miến
đã tạo ra một tác động ngoại ứng tiêu cực (xả nước thải chưa xử lý vào môi trường) nên ngoài
chi phí sản xuất 1 tấn miến, nền kinh tế còn phải gánh chịu các chi phí khác về môi trường do
tác động ngoại ứng tiêu cực. Nếu gọi chi phí sản xuất 1 miến của ngành là MC, chi phí biên
ngoại ứng (tiêu cực) là MEC thì chi phí xã hội để sản xuất 1 miến là MSC = MC + MEC. Như
vậy sản lượng miến có hiệu quả phải là sản lượng mà ở đó lợi ích biên xã hội phải bằng chi
phí biên xã hội (MSB =MSC) tương ứng với sản lượng QE’.
Nhận xét: Khi có ngoại tác tiêu cực đã dẫn đến tình trạng:
(1) Hiệu quả thị trường (E) duy trì vượt quá hiệu quả xã hội (E’) mong muốn do chi phí biênthị trường (MC) khác với chi phí xã hội (MSC) vì có ngoại ứng tiêu cực nên cần có chi phí
biên ngoại ứng (MEC)
(2) Sản lượng thị trường vượt quá sản lượng xã hội (QTT > QXH)
Giá cả thị trường thấp hơn giá cả xã hội (PTT < PXH)
(3) Vấn đề là cần phải đảm bảo hiệu quả chung cho xã hội (E’) chứ không chỉ nhằm mang lại
hiệu quả riêng của thị trường (E). Do vậy, hiện nay chưa có biện pháp can thiệp thích hợp thì
thị trường có khuynh hướng sản xuất vượt quá hiệu quả chung của xã hội mong muốn. Điều
đó, gây ra tổn thất kinh tế do thị trường sản xuất vượt quá hiệu quả chung của xã hội tương
ứng diện tích E’BE.
4. Hệ thống biện pháp khắc phục của chính phủ.
a. Hệ thống các biện pháp kinh tế
a.1. Đánh thuế là biện pháp kinh tế được chính phủ áp dụng đối với các chủ thể gây ra
tác động ngoại vi tiêu cực. Nguyên nhân khiến các nhà máy sản xuất không hiệu quả là do giácả các đầu vào mà nhà máy phải trả để sản xuất không phản ánh đúng chi phí xã hội biên. Vì
thế nhà kinh tế học A. C. Pigou đã nghĩ ra giải pháp là đánh thuế ô nhiễm. bản chất thuế
Pigou là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị sản phẩm đầu ra của hãng gây ô nhiễm, sao cho nó
đúng bằng chi phí ngoại ứng biên tại mức sản lượng tối ưu xã hội.
a.2. Trợ cấp:
Đối với trường hợp các yếu tố ngoại ứng có tác động tiêu cực với số lượng người gây
ô nhiễm là cố định, để hạn chế sự tác động đó chính phủ cũng có thể dùng chính sách trợ cấp(thường thông qua thuế hoặc giá thu mua). Bằng việc trợ cấp đúng bằng sự chênh lệch giữa
lợi ích biên xã hội và lợi ích biên cá nhân, chính phủ đã điều chỉnh mức độ hạn chế tác động
tiêu cực đến mức hiệu quả.
b. Hệ thống biện pháp về hành chính và pháp luật
Biện pháp hành chính đòi hỏi chính phủ phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn quốc
gia, ban hành các văn bản pháp luật, các quy định cụ thể buộc các cá nhân phải tuân thủ triệt
để và sẽ xử lý hành chính theo quy định khi có sự vi phạm.
•Giấy phép xả thải: Chính phủ sẽ bán giấy phép cho phép các nhà sản xuất được xả một
lượng phế thải nhất định. Các hãng sẽ tiến hành đấu giá để mua những giấy phép này.
Mức giá sẽ là mức cân bằng thị trường, sao cho lượng ô nhiễm sẽ đúng bằng mức
chính phủ mong muốn.
•Mức chuẩn thải: mỗi hãng sẽ được quy định chỉ được gây ô nhiễm ở 1 mức nhất định,
gọi là mức chuẩn thải, nếu không sẽ bị buộc đóng cửa.
•Chính phủ sẽ quy định một mức sản lượng nhất định hãng được phép sản xuất.
Biện pháp về pháp luật thường giải quyết mâu thuẫn giữa chủ thể gây ra tác động và
đối tượng bị tác động một cách trực diện bằng một hệ thống pháp luật tỏ ra có ưu thế. Cơ sở để giải quyết các mâu thuẫn về mặt pháp luật đòi hỏi chính phủ phải công nhận và thiết lập về
quyền tài sản của các cá nhân cũng như của cộng đồng.
II. Thùc tr¹ng « nhiÔm t¹i c¸c lµng nghÒ
Trong nh÷ng n¨m qua, c¸c lµng nghÒ ViÖt Nam ®· ®ãng gãp cho x·
Người lao động chủ yếu xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp nên ý thức bảo vệ môi
trường chưa cao, có thói quen xấu tuỳ tiện đổ xả thải, kể cả những chất thải độc hại từ sản
xuất ra ao hồ, sông ruộng..
Một nguyên nhân nữa là do sản xuất ở làng nghề đa phần là người nghèo, vốn đầu tư chủ
yếu là vốn vay nên việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải là việc không đơn giản.
1.2 Tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ :
Với đặc trưng là sản xuất gia đình, công nghệ sản xuất ở các làng nghề phần lớn còn lạc
hậu, công tác vệ sinh môi trường, an toàn lao động không được quan tâm đúng mức.
Ở các làng nghề, dân thường sử dụng ngay diện tích đất ở để làm nơi sản xuất. Khi quy
mô sản xuất tăng lên hoặc sử dụng các thiết bị, hoá chất, đã làm môi trường sống bị ô nhiễm
nặng nề, đặc biệt ở các làng nghề chế biến thực phẩm và hải sản.
Theo Bộ trưởng Bộ TNMT Phạm Khôi Nguyên, một trong những nguyên nhân gây khó
cho hoạt động xử lý ô nhiễm làng nghề chính là sự đa dạng hoá nhưng lại lẻ tẻ, không tập
trung. Với nhiều ngành nghề khác nhau, chất thải hữu cơ, vô cơ trộn lẫn với nhau khiến các
nhà môi trường rất khó xử lý.
1.3 Cơ quan nhà nước chưa có sự lưu ý quan tâm đủ cần thiết :
Cán bộ chỉ đến các cơ quan để họp bàn, ko đi trực tiếp các làng nghề.vẫn biết đây là việc
của các cq điều tra , kiểm nghiệm có chuyên môn tuy nhiên cán bộ cũng cần phải đi đến địa
phương để thấy đc mức độ bức thiết của vấn đề. Các đoàn giám sát của Quốc Hội về thựchiện chính sách, pháp luật môi trường tại các làng nghề trên thường chỉ có các buổi làm việc
với lãnh đạo các Sở ban ngành thành phố. Vấn đề ô nhiễm môi trường và quy hoạch phát
triển làng nghề được các đại biểu quan tâm đóng góp ý kiến trên bàn giấy!
1.4 Công nghệ lạc hậu:
Công nghệ sử dụng thường là công nghệ đơn giản, thủ công, dễ áp dụng ở quy mô vừa
và nhỏ, với loại sản phẩm không yêu cầu có chất lượng cao, phù hợp với trình độ kỹ thuật củangười dân.
Một số nơi có mua máy về sản xuất thì hầu hết hệ thống máy móc thiết bị sử dụng thuộc
loại cũ (đã qua thanh lý của các cơ sở sản xuất công nghiệp), hoặc chắp vá không đồng bộ.
Quá trình vận hành chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên hiệu quả sản xuất không cao, tiêu tốn
nhiều năng lượng và nguyên liệu, vấn đề vệ sinh công nghiệp không được chú ý. Do đó môi
trường ngày càng ô nhiễm.
Một nguyên nhân nữa là do sản xuất ở làng nghề đa phần là người nghèo, vốn đầu tư chủ
yếu là vốn vay nên việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải là việc không đơn giản.
2. Giải pháp
2.1.Từ phía Người dân:Đổi mới công nghệ :ở một số làng nghề đã chủ động đổi mới công nghệ cho hiệu quả sản
xuất cao đồng thời thân thiện với môi trường. Như ở làng gốm bát tràng, công nghệ ở đây
sạch, thân thiện môi trường.
Đặc biệt, khi Việt Nam gia nhập WTO, người dân làng nghề, nhất là các làng nghề sản
xuất thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, các thị trường nước ngoài thậm chí còn tới tận nơi sản xuất
để xem xét sản phẩm này được sản xuất có gây ô nhiễm môi trường hay không? Liệu lúc đó,
họ có còn đặt mua sản phẩm?
2.2 Từ phíaNhà nước:
a ) Nâng cao ý thức người dân:
Trước tiên, phải có những chính sách khuyến khích phát triển làng nghề bền vững bao
gồm chính sách bảo vệ môi trường và hỗ trợ bảo vệ môi trường cho các làng nghề.
Tiếp theo là nâng cao trình độ nhận thức về bảo vệ môi trường trong cộng đồng làng
nghề, từ chính người sản xuất và người không làm nghề nhưng sống trong làng nghề và nhậnthức về bảo vệ môi trường của những cán bộ chính quyền của địa phương có làng nghề. Bên
cạnh đó, cần tăng cường các biện pháp truyền thông nâng cao nhận thức về bảo vệ môi
trường tại làng nghề, có thể tuyên truyền ở các trường học, các hội như hội cựu chiến binh,
hội phụ nữ, hội người cao tuổi
b) Xây dựng các công trình công xử lí chất thải:
Tại Hội thảo, chuyên gia của Trung tâm bảo tồn và phát triển tài nguyên nước (Warecod)
đưa ra giới thiệu giải pháp DEWATS, còn được gọi là giải pháp xử lý và thu gom nước thải
phi tập trung. Đây là một công nghệ tổng hợp có chuẩn hoá các mô hình xử lý nước thải được
đánh giá cao khác. Giải pháp sử dụng các phương pháp xử lý cơ học và vi sinh (hiếu khí, kỵ
khí), đặc biệt phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới. Giải pháp này có ưu điểm là có thể xử
lý nước thải hữu cơ từ các hộ gia đình và nguồn thải công nghiệp, chỉ cần một trạm xử lý tập
trung nên việc bảo dưỡng dễ dàng hơn, chi phí xây dựng thấp và không đòi hỏi nhiều diện
tích, nước có thể xử lý ngay tại nguồn, không cần đưa đi xa, có thể xử lý từ 1 đến 1000 mét
khối/ngày bằng phương pháp phi tập trung. Nước qua xử lý có thể tái sử dụng với nhiều mục
đích khác nhau. Tại một số đơn vị trên cả nước như: Bệnh viện huyện Kim Bảng, tỉnh Hà
Nam, Trung tâm cứu hộ gấu Tam Đảo- Vĩnh Phúc, trạm xử lý nước thải phi tập trung tại
Xóm Cầu 1- Xã Kiêu Kỵ, gia Lâm, Hà Nội, Lò mổ Hà Phong, thành phố Hạ Long, tỉnhQuảng Ninh..., giải pháp DEWATS đã được thực hiện, đem lại lợi ích cho người sử dụng và
có hiệu quả tối đa trong việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường.
c) Quy hoạch lại làng nghề:
Quy hoạch các khu/cụm công nghiệp gây ô nhiễm nặng ra khỏi khu vực dân cư, đồng
thời tại các khu vực này phải có hệ thống xử lý nước thải, thu gom chất thải rắn.
Căn cứ vào quy mô, các làng nghề có thể được quy hoạch tập trung theo cụm công
nghiệp nhỏ hoặc có thể được quy hoạch phân tán, cho sản xuất ngay tại gia đình kết hợp cải
thiện điều kiện sản xuất và cải thiện vệ sinh môi trường. Với quy hoạch phân tán có thể kết
hợp hoạt động sản xuất của làng nghề với du lịch.
3. Biện pháp đề xuất
a)Nên có một cách nhìn mới về xử lý ô nhiễm làng nghề
Cùng chung quan điểm này, ông Nguyễn Đăng Vang, Phó Chủ nhiệm UB Khoa học
Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, sản xuất kinh doanh tại làng nghề Bắc
Ninh nhỏ, công nghệ lạc hậu, mới có 29/53 cụm công nghiệp được phê duyệt, triển khai
nhưng đã ô nhiễm nặng nề, nếu cả 53 cụm công nghiệp đi vào hoạt động thì ô nhiễm sẽ gia
tăng hơn nữa. "Bắc Ninh phát triển tốt nhưng chưa bền vững. Theo tôi, không nên chỉ bỏ tiền
ra xử lý ô nhiễm làng nghề như hiện nay vì không hiệu quả. Cần phải nhìn nhận ở góc độ
khác, đó là vấn đề quy hoạch làng nghề. Nếu không quy hoạch lại, không thể phát triển bền
vững. Cần rà soát lại toàn bộ làng nghề, những cơ sở, ngành hàng nào gây ô nhiễm nặng nề,
không đủ tiêu chí làng nghề thì nên loại bỏ" - ông Vang khẳng định.
Mặc dù chưa phải là kết luận chính thức, Chủ nhiệm UB Khoa học Công nghệ và Môitrường, Trưởng Đoàn giám sát của UB Thường vụ Quốc Hội, ông Đặng Vũ Minh đề cập tới 5
nhóm giải pháp cần thiết đối với công tác môi trường làng nghề, đó là các nhóm giải pháp về
văn bản pháp luật, tuyên truyền, quy hoạch, thanh tra kiểm tra, nguồn kinh phí. "Tuyên truyền
vận động để người dân hiểu được là phải tự bảo vệ lấy mình và người đứng đầu quan tâm đến
công tác môi trường làng nghề là điều hết sức quan trọng"- ông Đặng Vũ Minh nhấn mạnh.
b) Hệ thống quản lí môi trường nên đi sâu hơn đến từng địa phương :
Hiện nay, hệ thống quản lý môi trường mới chỉ đến cấp huyện, đối với các xã có làng
nghề nên tăng cường hệ thống quản lý, phát hiện kịp thời các hiện tượng ô nhiễm môi trường.
Việc quy hoạch lại các cơ sở sản xuất tại các làng nghề cũng cần chú ý nhiều tới đặc thù của
quy mô và loại hình sản xuất cho phù hợp với từng làng nghề.
Chính sách quản lí của cấp địa phương(huyện và xã) là rất quan trọng.tùy từng địa
phương có chính sách phù hợp
c)áp dụng công nghệ sạch phù hợp:
Các làng nghề không thể sử dụng công nghệ của các nước tiên tiến – “con nhà giàu”- bởi
nó có thể giải quyết được về mặt kỹ thuật nhưng lại không kinh tế. Bộ TNMT sẽ tổ chức cuộc
thi nhằm phát hiện các sáng chế, phát minh của người dân, các nhà khoa học Việt Nam trong
việc xử lý ô nhiễm làng nghề”.
d) Xây dựng các trung tâm quan trắc, thoi dõi sát mức ô nhiễm tại các làng nghề :
Để có thể giải quyết kịp thời các vấn đề xảy ra,tránh trường hợp ô nhiễm nặng nề mới xử
lí gây khó khăn tốn kém.
e) Nâng cao mức phạt : với các cơ sở sản xuất vi phạm ô nhiễm môi trường, tuy đây là
một biện pháp mạnh tay, nhưng là công cụ hành chính rất hữu hiệu bởi chỉ có đánh vào kinh
tế, người dân mới có thể nghĩ tới lợi ichx của mình và cộng đồng.
IV. Kết luận
Khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước thì các làngnghề thủ công truyền thống ở nhiều địa phương cũng được phục hồi và phát triển sản nhanh