LỜI MỞ ĐẦU Khi xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống đô thị chật chội cùng với sự ô nhiễm môi trường, ô nhiễm tiếng ồn, căng thẳng trong công việc làm cho con người tìm đến những nơi không gian thoáng đãng, không khí trong lành ngày càng nhiều. Có nhiều người tìm về những vùng núi non có những rừng cây xanh mát hay những làng quê thanh bình. Ở Việt Nam với nhiều làng quê và những làng nghề truyền thống đã thu hút được nhiều khách du lịch. Du lịch sinh thái làng quê ngày càng trở nên phổ biến, không xa lạ gì với mọi người. Hội An là một trong những điểm du lịch hấp dẫn của khu vực miền Trung và cả nước. trở thành đô thị loại III năm 2006, đô thị văn hóa đầu tiên và điển hình toàn quốc. Ở dải đất miền trung với nhiều di sản thế giới, trong đó phố cổ Hội An được UNESCO công nhận là di sản thế giới, hàng năm đón rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm. Nhưng du khách đến đây hầu hết không chỉ ghé thăm những gì nằm trong lòng phố cổ mà còn tìm đến những làng nghề truyền thống ven phố cổ. Thành phố Hội An tập trung hướng đến xây dựng Hội An - thành phố “sinh thái – văn hóa - du lịch” và phấn đấu trở thành đô thị loại II vào năm 2020. Vì vậy việc phát triển du 1
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
LỜI MỞ ĐẦU
Khi xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống đô thị chật chội cùng với sự ô nhiễm
môi trường, ô nhiễm tiếng ồn, căng thẳng trong công việc làm cho con người tìm
đến những nơi không gian thoáng đãng, không khí trong lành ngày càng nhiều.
Có nhiều người tìm về những vùng núi non có những rừng cây xanh mát hay
những làng quê thanh bình. Ở Việt Nam với nhiều làng quê và những làng nghề
truyền thống đã thu hút được nhiều khách du lịch. Du lịch sinh thái làng quê
ngày càng trở nên phổ biến, không xa lạ gì với mọi người. Hội An là một trong
những điểm du lịch hấp dẫn của khu vực miền Trung và cả nước. trở thành đô thị
loại III năm 2006, đô thị văn hóa đầu tiên và điển hình toàn quốc. Ở dải đất miền
trung với nhiều di sản thế giới, trong đó phố cổ Hội An được UNESCO công
nhận là di sản thế giới, hàng năm đón rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến
thăm. Nhưng du khách đến đây hầu hết không chỉ ghé thăm những gì nằm trong
lòng phố cổ mà còn tìm đến những làng nghề truyền thống ven phố cổ. Thành
phố Hội An tập trung hướng đến xây dựng Hội An - thành phố “sinh thái – văn
hóa - du lịch” và phấn đấu trở thành đô thị loại II vào năm 2020. Vì vậy việc phát
triển du lịch sinh thái làng quê ở đây cũng đang được chú trọng nhiều.
Bài viết này tôi muốn tìm hiểu về làng nghề du lịch sinh thái Hội An, những cơ
hội và thách thức. Tuy đã cố gắng nhưng bài viết sẽ không tránh được những
thiếu sót, mong được sự góp ý thêm.
1. Lí do chọn đề tài
Du lịch là một ngành kinh tế ngày càng có vai trò quan trọng tại Việt Nam và
đang được chính phủ định hướng để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Việt Nam
là một quốc gia có tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng. Du lịch sinh thái
ngày càng được du khách lựa chọn. Hội An - vùng đất yên lành, một địa danh du
lịch nổi tiếng với những hoạt động văn hóa du lịch ẩn chứa chiều sâu văn hóa đất
1
Quảng. Năm 2006, Quảng Nam đã được chọn làm Năm Du lịch quốc gia. Những
năm gần đây du lịch Hội An cũng có sự phát triển nhanh chóng với uy tín là
điểm đến an toàn, thân thiện. Tỷ trọng du lịch - dịch vụ lên tới trên 60% tổng giá
trị sản xuất năm 2006. Hội An là một vùng du lịch sinh thái tuyệt vời với biển
đảo, sông nước, làng quê, các làng nghề truyền thống,..Ngày 16.8, Tổ chức Phát
triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) và UBND TP.Hội An khởi động
dự án thí điểm phát triển đô thị sinh thái Hội An. Với những điều kiện đặc biệt
của một thành phố di sản, việc xây dựng Hội An theo hướng đô thị sinh thái vừa
đặt ra những thách thức mới và lớn, vừa kỳ vọng làm nên một hình mẫu đô thị
phát triển bền vững để tiếp tục nhân rộng ở Việt Nam.
Với mong muốn nhìn thấy những thành tựu mà du lịch sinh thái Hội An đã đạt
được, những trở ngại đang gặp phải và cơ hội mà Hội An đang có để phát triển
bền vững. Vì lí do đó nên tôi chọn đề tài này để làn bài niên luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhìn lại những thành tựu mà du lịch Hội An đạt được. Tìm hiểu, phân tích những
tiềm năng du lịch sinh thái sẵn có, những khó khăn, trở ngại mà du lịch sinh thái
gặp phải làm cản trở sự phát triển. Tìm ra những cơ hội và thách thức phát triển
du lịch sinh thái Hội An.
3. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu giới hạn trong phạm vi thành phố Hội An. Đối tượng
nghiên cứu là những làng nghề Hội An với sự phát triển du lịch sinh thái.
Thời gian nghiên cứu dự tính trong 1 tháng từ 28/11/2012 đến 28/12/2012
4. Phương pháp nghiên cứu
2
Bài viết sử dụng phương pháp thống kê, thu thập những thông tin từ Internet,
sách báo.
Phương pháp phân tích, tổng hợp để phân tích những thông tin thu thập được và
rút ra những kết quả, và giải pháp.
Ngoài ra bài viết còn sử dụng các phương pháp diễn dịch, quy nạp, so sánh, liệt
kê, miêu tả, …
3
NỘI DUNG
Chương 1
HỘI AN VÀ CÁC LÀNG NGHỀ
1. Sơ lược về Hội An
1.1 Địa lý tự nhiên
Thành phố Hội An nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông Thu Bồn, được giới hạn bởi tọa
độ từ 15o15’26” đến 15o55’15” vĩ độ Bắc và từ 108o17’08” đến 108o23’10” kinh
độ Đông, cách quốc lộ 1A khoảng 9 km về phía Đông, cách thành phố Đà Nẵng
khoảng 25 km về phía Đông Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 50 km về
phía Đông Bắc.
Nơi đây xưa kia đã có một thời nổi tiếng với tên gọi Faifoo mà các thương nhân
Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Ðào Nha, Italia ... đã biết đến từ thế kỷ XVI- XVII.
Từ thời đó, thương cảng Hội An đã thịnh vượng, là trung tâm buôn bán lớn của
vùng Đông Nam Á, một trong những trạm đỗ chính của thương thuyền vùng
Viễn Ðông. Hội An từng nổi tiếng trên thương trường quốc tế với nhiều tên gọi
khác nhau như Lâm Ấp, Faifo, Hoài Phố, Hội An…
Phần đất liền của Hội An phía Nam giáp huyện Duy Xuyên với ranh giới chung
là sông Thu Bồn, phía Tây và phía Bắc giáp huyện Điện Bàn, phía Đông là bờ
biển dài 7 km. Cách đất liền 18 km là cụm đảo Cù Lao Chàm, bao gồm nhiều
hòn đảo lớn nhỏ: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Ông, Hòn Tai, Hòn Lá, Hòn
Khô, Hòn Nồm với diện tích chiếm một phần tư thành phố Hội An. Các hòn đảo
này quần tụ thành hình cánh cung hướng mặt ra Biển Đông, được hình tượng hoá
như người hoa tiêu khổng lồ, như bức bình phong che chắn cho đất liền. Tổng
diện tích tự nhiên toàn thành phố là 6.171,25 ha, phần diện tích đất liền 4.850 ha,
diện tích hải đảo 1.654 ha.
Hội An là vùng cửa sông, ven biển và là nơi hội tụ của các con sông lớn của xứ
Quảng: sông Thu Bồn đoạn sông Thu Bồn chảy qua Hội An được gọi là sông Cái
4
hoặc sông Hội An, với chiều dài qua địa phận thành phố là 8,5 km, sông Trường
Giang, sông Cổ Cò (tên chữ là Lộ Cảnh Giang), đoạn sông Cổ Cò chảy qua Hội
An gọi là sông Đế Võng, chiều dài 7km. Các nguồn sông Thu Bồn, Trường
Giang, Đế Võng hợp lưu với nhau trước khi đổ ra biển Đông qua Cửa Đại.
Đặc điểm về vị trí địa lý, cấu trúc địa chất và lịch sử làm cho khí tượng, thủy
văn, địa hình, địa mạo của Hội An khá phong phú và đa dạng. Hội An vừa có đô
thị cổ, đô thị mới; vừa có đồng bằng, vừa có biển, có hải đảo tạo nên nguồn tài
nguyên thiên nhiên dồi dào về lâm, thổ, hải sản...Phần lớn diện tích tự nhiên của
Hội An được bao bọc bởi hệ thống sông lớn nhỏ, mương lạch chằng chịt và bị
chia cắt bởi những bãi, nổng, trảng, dốc, cồn cát, những bàu, đầm, hói, vũng,
ao…và những rừng dừa nước.
Địa hình Hội An nhìn chung thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, độ dốc
thoải. Địa hình các vùng đồng bằng của Hội An chia thành ba vùng:
Vùng cồn cát tập trung ở phía Tây Bắc, trải dài từ dốc Lai Nghi địa bàn phường
Thanh Hà, sang xã Cẩm Hà, qua phường Cẩm An, chạy dọc biển xuống phường
Cửa Đại, kết nối với vùng cát phía Đông huyện Điện Bàn.
Vùng thấp trũng gồm các phường Cẩm Phô, Minh An, Sơn Phong, Cẩm Nam,
Cẩm Châu và xã Cẩm Kim bờ Nam sông Thu Bồn.
Vùng mặt nước sông ngòi gồm phần lớn diện tích xã Cẩm Thanh.
Do phía Bắc được ngăn bởi dải Hoành Sơn, phía Tây được che bởi khối núi Bắc
tỉnh Kon Tum nên cũng như các địa phương khác của Quảng Nam và các tỉnh,
thành phố lân cận, ở Hội An không có mùa đông lạnh. Mùa khô từ khoảng tháng
2 đến tháng 8, mùa mưa thường kéo dài từ tháng 9 đến tháng Giêng năm sau.
1.2 Địa lý hành chính - dân cư
Hội An là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam, gồm 9 phường: Minh An, Sơn
Phong, Cẩm Phô, Tân An, Thanh Hà, Cẩm Châu, Cẩm An, Cửa Đại, Cẩm Nam
và 4 xã: Cẩm Thanh, Cẩm Kim, Cẩm Hà, Tân Hiệp (cụm đảo Cù Lao Chàm). Có
5
nhiều cơ quan, đơn vị, trường học trực thuộc tỉnh và Trung ương đóng trụ sở tại
Hội An.
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009, dân số toàn
thành phố có 88.933 người. Địa bàn thành thị có 68.639 người. Địa bàn nông
thôn có 20.294 người. Dân số thường trú các xã phường quản lý gồm 85.805
người. Dân số là sinh viên các trường học, trường dạy nghề thuê ở trọ tại các địa
phương (chủ yếu ở các phường Sơn Phong, Tân An, Thanh Hà, Cẩm Châu và
Cẩm Phô) gồm 1.042 người. Dân số là nhân khẩu đặc thù (bao gồm sinh viên ở
các ký túc xá của các trường, nhân khẩu ở khu điều dưỡng thương binh nặng, trại
xã hội, các cơ sở tôn giáo...) gồm 2.086 người. Bên cạnh người Kinh chiếm đa số
còn có cộng đồng người Hoa định cư làm ăn sinh sống từ bao đời nay, gắn với
lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Hội An.
Ngoài dân số tăng tự nhiên tại chỗ, hằng năm ở Hội An tốc độ gia tăng dân số cơ
học khá cao. Mặt khác, hàng ngày có một lượng du khách khá lớn đến tham quan
du lịch, nhiều lao động từ các địa phương khác trong và ngoài tỉnh đến buôn bán
làm ăn và không ít các nhà khoa học, cán bộ, công chức, viên chức, nghệ sĩ... đến
nghiên cứu, công tác.
1.3 Những giá trị truyền thống
Diễn trình lịch sử hình thành và phát triển của đô thị- thương cảng Hội An đã có
ý nghĩa quyết định đến diện mạo di sản văn hóa Hội An khá đa dạng, phong phú
và đậm bản sắc đặc trưng.
Hội An có 1.360 di tích, danh thắng. Riêng các di tích được phân thành 11 loại,
gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ thần linh, 23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5 hội
quán, 11 giếng nước cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ cổ. Trong khu vực đô thị cổ có hơn
1.100 di tích. Mỗi loại hình kiến trúc đều có những đặc điểm, sắc thái riêng và
đều góp phần tăng thêm tính phong phú, đa dạng văn hóa của đô thị cổ Hội An.
6
Trong đó, hạt nhân cơ bản là quần thể di tích kiến trúc khu phố cổ được xem như
một “bảo tàng sống”, bởi từ bao đời nay thị dân Hội An vẫn “sống cùng phố cổ,
sống với phố cổ, sống vì phố cổ”. Hàng ngày cuộc sống đời thường diễn ra ngay
trong lòng phố cổ, từng công trình kiến trúc cổ đều in đậm, hằn sâu nếp sống, lối
sống văn hóa đặc trưng của con người Hội An.
Hội An là nơi tụ cư, hợp cư của con người từ nhiều lớp, nhiều nguồn, nhiều dân
tộc; là cái nôi truyền bá Thiên chúa giáo và Phật giáo ở Đàng Trong- Việt Nam.
Là điểm gặp gỡ, giao thoa các nền văn minh Chămpa- Việt – Trung Hoa - Nhật
Bản - Ấn Độ và các nước Phương Tây. Các yếu tố văn hóa từ nhiều nguồn trải
qua quá trình chọn lọc, tiếp biến để rồi định hình sắc thái riêng rất độc đáo của
kho tàng văn hóa phi vật thể Hội An.
Ở Hội An có rất nhiều lễ hội, gồm các lễ hội của cư dân sông nước như lễ hội
cầu ngư- tế Cá Ông- đua thuyền của cư dân thương nghiệp như lễ hội vía Tài
Thần, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Bổn Đầu Công, Lục Tánh Vương Gia; của cư dân
nông nghiệp như Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết Trung Thu, Lễ cầu
bông, long chu, xô cộ...Ngoài ra còn có các lễ hội tế Xuân, tế Tổ nghề Mộc- nghề
May- nghề Gốm - nghề khai thác Yến sào...Và những năm gần đây các lễ hội
hiện đại, các sự kiện văn hóa- du lịch, kỷ niệm những ngày lễ lớn được tổ chức
khá hoành tráng đã thu hút sự tham gia đông đảo, nồng nhiệt của cả cộng đồng
dân cư và du khách.
Hội An còn có những làng nghề nổi tiếng như làng mộc Kim Bồng, làng gốm