ĐÁNH GIÁ SUY KIỆT TÀI CHÍNH CHO DOANH NGHIỆP MỞ RỘNG LĨNH VỰC HOẠT ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH KHỞI NGHIỆP ThS.Đinh Thị Thu Thảo ĐH Nguyễn Tất Thành Tóm tắt Trong làn sóng khởi nghiệp hiện nay, thu hút được nguồn vốn từ các nhà đầu tư, quỹ đầu tư là một trong những vấn đề cốt lõi ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của các nhà khởi nghiệp. Dự đoán khả năng suy kiệt tài chính là một việc làm cần thiết trong quá trình ra quyết định đầu tư. Hầu hết các nghiên cứu nổi tiếng về suy kiệt tài chính đều được thực hiện tại Mỹ và các nước châu Âu. Tại Việt Nam, chủ đề nghiên cứu này vẫn còn mới và chỉ được thực hiện bởi một số ít nhà nghiên cứu trong nước nhưng chưa nghiên cứu trên các công ty bị hủy niêm yết. Số lượng công ty bị hủy niêm yết tăng trong những năm gần đây và để lại hậu quả tổn thất về tài chính và làm giảm niềm tin của công chúng. Do đó, tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá khả năng suy kiệt tài chính của các công ty bị hủy niêm yết trên TTCK Việt Nam. Dựa vào dữ liệu từ 80 công ty bị hủy niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán ở Việt Nam trong khoảng thời gian 2012-2015, tác giả đưa ra ngưỡng thích hợp cho thị trường Việt Nam. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với các công ty, nhà đầu tư, cơ quan quản lý và kiểm toán viên trong việc đánh giá khả năng suy kiệt tài chính của doanh nghiệp. Từ khóa: Suy kiệt tài chính, Chỉ số H. Abstract In the current wave of start-up, attracting funds from investors, investment funds are one of the core issues affecting the success or failure of the entrepreneur. Corporate financial distress is a necessary job in making investment decisions. Most famous study of corporate financial distress was conducted in the US and European countries. In Vietnam, this research topic is still new and no research on the companies being delisted. The number of companies being delisted increased in recent years and the consequences of financial losses and reduced public confidence. Therefore, the authors carried out this study to evaluate the corporate financial distress listed on the Stock Exchange was delisted Vietnam. Based on data from 80 companies were delisted on the HNX and HOSE exchanges in the period 2012- 2015, the author made the appropriate threshold for the Vietnam market. The study results have implications for companies, investors, regulators and auditors in assessing the corporate financial distress of the enterprises. Keywords: financial distress, H-score.
13
Embed
ĐÁNH GIÁ SUY KIỆT TÀI CHÍNH CHO DOANH NGHIỆP MỞ RỘNG …tckt.ntt.edu.vn/wp-content/uploads/2016/12/DinhThiThuThao_ST2016.pdf · suy kiệt tài chính, nó sẽ không
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
ĐÁNH GIÁ SUY KIỆT TÀI CHÍNH CHO DOANH NGHIỆP MỞ RỘNG LĨNH VỰC HOẠT
ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH KHỞI NGHIỆP
ThS.Đinh Thị Thu Thảo
ĐH Nguyễn Tất Thành
Tóm tắt
Trong làn sóng khởi nghiệp hiện nay, thu hút được nguồn vốn từ các nhà đầu tư, quỹ đầu tư là
một trong những vấn đề cốt lõi ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của các nhà khởi nghiệp. Dự
đoán khả năng suy kiệt tài chính là một việc làm cần thiết trong quá trình ra quyết định đầu tư. Hầu hết
các nghiên cứu nổi tiếng về suy kiệt tài chính đều được thực hiện tại Mỹ và các nước châu Âu. Tại Việt
Nam, chủ đề nghiên cứu này vẫn còn mới và chỉ được thực hiện bởi một số ít nhà nghiên cứu trong nước
nhưng chưa nghiên cứu trên các công ty bị hủy niêm yết. Số lượng công ty bị hủy niêm yết tăng trong
những năm gần đây và để lại hậu quả tổn thất về tài chính và làm giảm niềm tin của công chúng. Do đó,
tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá khả năng suy kiệt tài chính của các công ty bị hủy niêm
yết trên TTCK Việt Nam. Dựa vào dữ liệu từ 80 công ty bị hủy niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng
khoán ở Việt Nam trong khoảng thời gian 2012-2015, tác giả đưa ra ngưỡng thích hợp cho thị trường
Việt Nam. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với các công ty, nhà đầu tư, cơ quan quản lý và kiểm toán
viên trong việc đánh giá khả năng suy kiệt tài chính của doanh nghiệp.
Từ khóa: Suy kiệt tài chính, Chỉ số H.
Abstract
In the current wave of start-up, attracting funds from investors, investment funds are one of the
core issues affecting the success or failure of the entrepreneur. Corporate financial distress is a necessary
job in making investment decisions. Most famous study of corporate financial distress was conducted in
the US and European countries. In Vietnam, this research topic is still new and no research on the
companies being delisted. The number of companies being delisted increased in recent years and the
consequences of financial losses and reduced public confidence. Therefore, the authors carried out this
study to evaluate the corporate financial distress listed on the Stock Exchange was delisted Vietnam.
Based on data from 80 companies were delisted on the HNX and HOSE exchanges in the period 2012-
2015, the author made the appropriate threshold for the Vietnam market. The study results have
implications for companies, investors, regulators and auditors in assessing the corporate financial
distress of the enterprises.
Keywords: financial distress, H-score.
1. GIỚI THIỆU
Trong những năm gần đây, chủ đề "dự báo khả năng suy kiệt tài chính" đã phát triển là một mảng
nghiên cứu trong tài chính doanh nghiệp. Sử dụng dữ liệu được bố công khai và phương pháp thông kê,
nhiều nghiên cứu học thuật đã được thực hiện để tìm hiểu và dự báo khả năng suy kiệt tài chính hiệu
quả. Hơn nữa, từ quan điểm của họ, các nhà kinh tế trên thế giới đã cố gắng để dự báo " khả năng suy
kiệt tài chính" theo những cách khác nhau. Theo Gordon (1971), suy kiệt là giảm lợi nhuận, do đó làm
giảm khả năng của công ty trong việc trả nợ và lãi vay. Mặt khác, Beaver (1966) định nghĩa này thuật
ngữ kinh tế là "một công ty không có khả năng để thanh toán các nghĩa vụ tài chính của mình khi chúng
đến hạn". Định nghĩa này cũng tương tự như trong các nghiên cứu sau này của Andrade và Kaplan
(1998) và Brown, James và Mooradian (1993). Tiếp cận một cách khác nhau, Whitaker (1999) tin rằng
suy kiệt tài chính có thể được nhận ra khi dòng tiền của công ty là thấp hơn chi phí của các khoản nợ dài
hạn. Ngoài ra, bằng cách làm cho việc so sánh giữa nợ và giá trị tài sản, Gestel và cộng sự (2006) phân
tích suy kiệt tài chính và phá sản như là kết quả của sự thua lỗ kéo dài gây ra một sự gia tăng không cân
xứng về công nợ kèm theo sự sụt giảm trong giá trị tài sản.
Huỳnh Thanh Điền (2015) cho rằng khởi nghiệp có hai dạng là khởi sự mới và khởi nghiệp trên
nền tảng có sẵn. Nguyễn Thanh Phương, Bùi Văn Thời, Lê Anh Tuấn (2016) cho rằng khởi nghiệp
là quá trình tìm kiếm lợi nhuận từ sự kết hợp mới, độc đáo và có giá trị của các nguồn lực trong một
môi trường không chắc chắn và không rõ ràng. Khởi nghiệp bao gồm cả việc các cá nhân khởi
xướng hoạt động kinh doanh mới lẫn việc các doanh nghiệp thực hiện những điều đang làm theo
một cách mới.
Bài viết nhìn nhận dưới khía cạnh đánh giá suy kiệt tài chính do các công ty mở rộng lĩnh vực
kinh doanh mới, làm ảnh hưởng nặng nề đến kết quả hoạt động kinh doanh chung của toàn công ty.
Đây cũng được xem là phù hợp với bối cảnh khởi nghiệp hiện nay.
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức hoạt động vào tháng 7/2000, trong suốt 15 năm hình
thành và phát triển, số lượng các CTNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng tăng lên trên
cả hai sàn giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX). Thị trường chứng khoán
đang ngày càng trở thành kênh huy động vốn hiệu quả. Vốn huy động qua TTCK ban đầu chỉ chiếm tỷ
trọng nhỏ so với cung tín dụng (năm 2010 chỉ đạt 11%), nhưng đã có sự cải thiện nhanh chóng nhờ
chính sách phát triển thị trường chứng khoán. Đến nay, tỷ lệ vốn huy động qua thị trường chứng khoán
đạt khoảng 60% so với cung tín dụng qua hệ thống ngân hàng. Tính đến hết tháng 8/2015 số lượng công
ty niêm yết là 697 trong đó có 385 công ty niêm yết trên sàn HNX và 312 công ty niêm yết trên HOSE
(theo tổng hợp website www.cophieu68.vn). Hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với một số lượng lớn các