MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG LÊ NGỌC TRÀ (Chủ biên) LÂM VINH - HUỲNH NHƯ PHƯƠNG Chương 1. MỸ HỌC LÀ GÌ? So với đạo đức học và lô-gích học, mỹ học hình thành như một khoa học muộn hơn rất nhiều. Trong Khi các ngành khoa học trên đã được định danh và xây dựng ngay từ những thế kỷ trước Công nguyên, thì mãi đến đầu thế kỷ XVIII mỹ học vẫn chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi triết học để khẳng định vị trí độc lập của nó. Mặc dù vậy, ý niệm về thẩm mỹ và các tư tưởng mỹ học đã xuất hiện ngay từ buổi bình minh của nền văn minh nhân loại. Bởi vì từ khi đứng được trên đôi chân của mình, con người đã cảm thấy đòi hỏi về cái đẹp như một nhu cầu không thể thiếu được, đồng thời với đòi hỏi về sự thật và đạo đức. Để đáp ứng cho khát vọng về chân lý ở con người, lô- gích học đã hình thành như một khoa học có mục đích xác định tính đúng đắn hay tính sai lầm trong những thao tác của trí tuệ. Để đáp ứng cho khát vọng về cái thiện, nhân loại đã xây dựng đạo đức học như một lý thuyết giúp con người nhận chân thiện và ác, như một "khoa học về bổn phận" (Kant) của con người ở đời.
185
Embed
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
LÊ NGỌC TRÀ (Chủ biên)
LÂM VINH - HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Chương 1. MỸ HỌC LÀ GÌ?
So với đạo đức học và lô-gích học, mỹ học hình thành như một khoa
học muộn hơn rất nhiều. Trong Khi các ngành khoa học trên đã được định
danh và xây dựng ngay từ những thế kỷ trước Công nguyên, thì mãi đến đầu
thế kỷ XVIII mỹ học vẫn chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi triết học để khẳng
định vị trí độc lập của nó.
Mặc dù vậy, ý niệm về thẩm mỹ và các tư tưởng mỹ học đã xuất hiện
ngay từ buổi bình minh của nền văn minh nhân loại. Bởi vì từ khi đứng được
trên đôi chân của mình, con người đã cảm thấy đòi hỏi về cái đẹp như một
nhu cầu không thể thiếu được, đồng thời với đòi hỏi về sự thật và đạo đức.
Để đáp ứng cho khát vọng về chân lý ở con người, lô-gích học đã hình
thành như một khoa học có mục đích xác định tính đúng đắn hay tính sai lầm
trong những thao tác của trí tuệ. Để đáp ứng cho khát vọng về cái thiện, nhân
loại đã xây dựng đạo đức học như một lý thuyết giúp con người nhận chân
thiện và ác, như một "khoa học về bổn phận" (Kant) của con người ở đời.
Nhữnc câu hỏi đặt ra trước con người về các hiện tượng thẩm mỹ hình
như phức tạp và tế nhị hơn. Vấn đề ở đây đã đụng chạm đến không chỉ trí tuệ
hay lương tâm mà còn có liên quan đến phần tinh tế nhất trong tình cảm, trực
giác, sự rung động, cả bề sâu tiềm thức và vô thức của con người. Nghịch lý
của vấn đề nằm ở chỗ là con người lại muốn trình bày, diễn đạt những hiện
tượng: có tính chất cảm tính, nhiều khi mơ hồ như sương khói, bằng ngôn
ngữ của lý tính, thậm chí bằng những khái niệm mạch lạc gần như sự diễn
đạt trong lô-gích học và đạo đức học. Do vậy mà trong hơn 20 thế kỷ, nhân
loại đá loay hoay đi tìm bản chất và đặc trưng của đời sống thẩm mỹ và các
hiện tượng có liên quan đến đời sống đó.
I. NHỮNG NỀN MÓNG ĐẦU TIÊN
Chúng ta có thể tìm thấy những dẫn chứng về tình hình trên đây ngay
từ sự quan tâm rất nhiều mặt của các triết gia Hy Lạp thời cổ đại mà những
luận điểm nhằm giải thích điều bí ẩn về cái đẹp của họ nhiều khi mang một
dáng dấp nguyên sơ và chất phác đến độ hồn nhiên.
Xuất hiện ở thế kỷ VI trước Công nguyên, trường phái Pythagore là
trường phái cổ xưa nhất của triết học Hy Lạp đã quan tâm nghiên cứu những
khái niệm cơ bản của mỹ học. Theo Pythagore (571 - 497 trước Công
nguyên), chính con số tạo thành bản chất các sự vật; vì thế việc nhận thức
thế giới có thể giản lược vào việc nhận thức các con số điều hành thế giới.
Tư tưởng mỹ học của Pythagore đặt cơ sở trên luận điểm triết học cho rằng
mọi sự tồn tại đều là tập hợp của hàng loạt những mặt đối lập tạo nên sự hài
hòa của nó! Sự hài hòa của các con số là qui luật khách quan tác động đến
tất cả các hiện tượng của đời sống, bao gồm cả nghệ thuật. Mở rộng ra,
Pythagore lưu ý đến sự hài hòa và thống nhất trong trật tự của toàn thể vũ trụ.
Có thể nói lý thuyết về con số và vũ trụ của Pythagore mang rõ tính chất mỹ
học và việc ông nghiên cứu khái niệm hài hòa trên thực tiễn âm nhạc có một ý
nghĩa to lớn.
Các triết gia thuộc trường phái Pythaffore đã xem xét sự hài hòa, sự
hoàn thiện trong mối thống nhất biện chứng với cái đẹp. Họ đã đề xuất việc
vận dụng âm nhạc để chữa bệnh. Đó chẳng qua chính là cách diễn dạt chất
phác ý tưởng về sức tác động của nghệ thuật đối với con người. Điều này
cho thấy trường phái Pythagore đã sớm ý thức về vấn đề giáo dục thẩm mỹ
thông qua con đường của âm nhạc.
Những quan niệm mỹ học biện chứng còn có tính chất ước đoán của
Pythagore đã được Héraclite (khoảng 530 - 470 trước Công nguyên) triển
khai. Héraclite xem "ngọn lửa sống động vĩnh cữu" là nhân tố nguyên thủy
của mọi tồn tại: "Vũ trụ này, đối với ai cũng chỉ là một, không một vị thần nào
cũng không phải một con người nào đã tạo dựng nên nó, nhưng nó đã tồn tại
từ muôn đời, đang tồn tại và sẽ tồn tại mãi mãi nhờ một ngọn lửa sinh động
vĩnh cửu, cháy sáng cũng có điều độ mà dập tắt đi cũng "có điều độ". Theo
Héraclite, trong thế giới ngự trị một qui luật khắc nghiệt là không có cái gì là
trường tồn — tất cả đều vận hành, thay đổi và biến dịch như những dòng
sông. Với cách diễn đạt hàm súc như những lời cách ngôn hay sấm ngữ,
Héraclite đã tuyên ngôn cái nguyên tắc khắc nghiệt của vũ trụ: Pantarei (Tất
cả đều biến dịch, tất cả đều luôn luôn thay đối). Ông nói: "Không ai tắm hai
lần trong cùng một dòng sông" và "Cùng một sự vật vừa có vừa không có
cùng một lúc".
Cũng như Pythagore, Héraclite cho rằng cái đẹp có cơ sở khách quan;
nhưng cơ sở này không phải nằm ở quan hệ của các con số mà ở phẩm chất
của các sự vật được biểu hiện thành biến thể của lửa. "Bất cứ sự vật gì cũng
có thể biến đổi thành lửa và lửa cũng có thể biến đổi thành bất cứ sự vật gì;
cũng như hàng hóa đổi lấy vàng và vàng đổi lấy hàng hóa vậy". Bàn về cái
đẹp, Héraclite nói đến sự hài hòa như là sự thống nhất của các mặt đối lập.
Theo ông, sự hài hòa và cái đẹp lại xuất hiện thông qua sự đấu tranh: "Cái gì
biến dịch lại đồng thời hòa hợp với chính mình. Giữa những tranh chấp đối
lập, phải có một hòa hợp giống như giữa cây cung và dây đàn". Sự tranh
chấp giữa những đối nghịch sẽ tạo ra sự hài hòa. Với tư cách là cơ sở của
cái đẹp, sự hài hòa mang tính chất phổ quát: nó hiển hiện trong vũ trụ, trong
quan hệ giữa người với người và cả trong tác phẩm nghệ thuật.
Héraclite cũng quan tâm nghiên cứu khái niệm mức độ như là một
phạm trù của mỹ học cổ đại. Theo Héraclite, mức độ cũng có tính chất phổ
quát như sự hài hòa. Nó là cơ sở của vũ trụ, nghĩa là quy luật khách quan,
không phụ thuộc vào con người.
Tóm lại, những phạm trù quan trong nhất của mỹ học là cái đẹp, sự hài
hòa và mức độ đã được Héraclite xem xét như là sự phản ánh các bản chất
và các mối quan hệ của thế giới khách quan.
Quan điểm mỹ học của Socrate (469 - 399 trước CN.) đã tạo nên một
bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng mỹ học thời cổ đại. Trong những bài giảng
về triết học mà học trò ông đã ghi lại được, Socrate tỏ ra ít quan tâm đến
những vấn đề của tự nhiên. Theo ông, triết học về cự nhiên là một khoa học
không có mấy lợi ích. Ông coi nhẹ việc nghiên cứu thực nghiệm về tự nhiên,
bởi vì sự nghiên cứu đó dựa trên những chứng liệu của cảm giác vốn không
có mấy giá trị nhận thức.
Trung tâm chú ý của Socrate là con người. Và ông quan tâm đến con
người từ phương diện hoạt động thưc tiễn, hành vi và đạo đức của nó.
Những vấn đề mỹ học cũng được Socrate tiếp cận từ quan điểm có tính chất
nhân loại học đó. Socrate chính là triết gia đầu tiên đã đề cao con người như
là đối tượng chính yếu của nghệ thuật.
Theo Socrate bất cứ một hoạt động nào của con người, cũng đều nhằm
vào một mục đích nhất định. Hoạt động thẩm mỹ cũng là một hoạt động mang
tính mục đích. Vì thế cho nên những sản phẩm của nó phải được đánh giá
trên quan điểm thực tiễn. Từ đó Socrate công khai nói lên quan niệm rằng đời
sống thẩm mỹ gắn chặt chẽ với tính chất công ích. Ông cho rằng không hề có
cái đẹp nào với tư cách là bản thể tuyệt đối của các sự vật và hiện tượng. Cái
đẹp chỉ bộc lộ ra trong mối quan hệ với cái có ích và đồng nhất với cái có ích.
Một sự vật đẹp là sự vật có ích cho một cái gì đó. Để biện giải cho lập luận
của mình, nhà triết học đã dưa ra một ví dụ rất hình ảnh: cái khiên là vật dụng
được trang trí thẩm mỹ, nhưng nó sẽ trở nên xấu nếu nó không che chở được
cho người kỵ sĩ, còn chiếc giỏ đựng phân sẽ là đẹp nếu nó làm tròn chức
năng của nó.
Ý nghĩa của quan niệm trên đây là ở chỗ Socrate đã phát biểu một cách
thô sơ mối quan hệ giữa đời sống thẩm mỹ và thực tiễn. Ông cũng đã nhấn
mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa đạo đức và thẩm mỹ, giữa cái Thiện và cái
Đẹp: cái Đẹp thuộc về cái Thiện và cái xấu nằm trong cái Ác. Nhưng Socrate
đã tuyệt đối hóa các mối quan hệ đó đến mức đồng nhất các cặp phạm trù với
nhau và xóa nhòa đặc trưng của chính cái đẹp.
Quan niệm thực dụng của Socrate về cái đẹp đã không được Platon
(427 - 347 trước CN.) chia sẻ. Với tư cách là người sáng tạo hệ thống triết
học duy tâm đầu tiên của nhân loại, Platon đã đưa ra cái nhìn nhị nguyên về
thế giới, Theo ông, có hai thế giới song song tồn tại: thế giới của các ý tưởng
hay thế giới khả niệm và thế giới của các vật thể hay thế giới khả giác. Một
thế giới vĩnh hằng, tiên thiên, bất biến, cao siêu, tinh khiết và một thế giới có
tính chất tạm thời, biến dịch vì chỉ là hình bóng của thế giới kia.
Trong tư tưởng mỹ học của Platon, cái đẹp là vấn đề quan trọng nhất.
Nhưng cái đẹp, theo Platon, lại không nên tìm kiếm ở những phẩm chất khả
giác của các sự vật riêng lẻ hay trong mối quan hệ với hoạt động của con
người. Bởi vì trong thế giới hiện thực mà con người có thể cảm nhận bằng
giác quan, thì tất cả đều thay đổi và biến dịch, không có gì là bền vững và
đích thực cả. Platon muốn tìm kiếm một cái đẹp vĩnh cửu và phổ quát cho tất
cả mọi người. Đó là cái đẹp tuyệt đối. Cái đẹp đích thực này chỉ tồn tại trong
thế giới ý niệm, còn những cái đẹp thường ngày mà chúng ta cảm giác được
chỉ là ánh hào quang, là bản sao, là những mảnh vụn của cái đẹp ý niệm mà
thôi. Nói cách khác, ý niệm Đẹp đối lập với thế giới khả giác, nó ở ngoài
không gian và thời gian, nó thường hằng và bất biến.
Cái đẹp mang tính chất siêu nhiên như vậy nên chỉ có thể nhận thức nó
bằng lý trí chứ không phải bằng cảm giác. Phương thức nhận thức cái đẹp
không phải là bằng con đường sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật, mà là bằng
con đường suy luận trừu tượng. Platon đã miêu tả rất độc đáo trạng thái của
con người, khi mà lý trí từng bước tách ra khỏi những sự vật đẹp riêng lẻ,
vươn tới một vật thể đẹp phổ quát, tới những chuẩn mực đẹp phổ quát và
cuối cùng tới nhận thức cao nhất về ý niệm Đẹp.
Cũng như các triết gia tiền bối, Platon đã xem nghệ thuật như là sự tái
hiện thực tế thông qua con đường mô phỏng những sự vật cảm tính. Tuy
nhiên, những sự vật cảm tính này lại chính là những hình tượng phản ánh tư
tưởng. Trong khi tái hiện các sự vật, người nghệ sĩ không thể nào vươn đến
sự nhận thức, cái đẹp đích thực. Thông qua việc xây dựng tác phẩm nghệ
thuật, người nghệ sĩ chỉ sao chép lại những sự vật khả giác, mà bản thân
những sự vật này thì vốn là bản sao của các ý niệm. Do vậy sư miêu tả nghệ
thuật, xét cho cùng, chẳng qua là bản sao của bản sao, sự mô phỏng của sự
mô phỏng, cái bóng của cái bóng. Với tư cách là sự phản ánh hạng hai, sự
phản ánh cái phản ánh, nghệ thuật không có giá trị nhận thức; hơn nữa nó
đánh lừa con người và ngăn cản người ta vươn tới nhận thức về bản chất
đích thực của thế giới. Nghệ thuật, như vậy, chỉ là một cố gắng của con người
nhằm biểu thị cái đẹp trên thế giới siêu nhiên; nhưng tiếc thay, theo Platon, lại
là một cố gắng không hoàn hảo, một cố gắng tuyệt vọng. Hiệu quả khách
quan của nghệ thuật là đẩy con người xa khỏi sự minh triết, và do vậy mà
Plỉaton kết luận rằng không có chỗ cho các loại hình nghệ thuật trong nước
Cộng hòa lý tưởng của ông.
Tư tưởng mỹ học của Platon đã từng chịu sự phản bác ngay từ thời cổ
đại, đặc biệt với Aristote (384 - 322 trước C.N.), người am hiểu sâu sắc các
loại hình nghệ thuật Hy Lạp. Khác với Platon, Aristote luôn luôn xuất phát từ
những sự kiện cụ thể, từ thực tế phát triển của nghệ thuật, chứ không khảo
sát các vấn đề thẩm mỹ một cách cư biện. Bên cạnh những công trình về siêu
hình học, đạo đức học và lô-gích học, những tư tưởng mỹ học mà Aristote để
lại cho hậu thế được trình bày trong hai tác phẩm quan trọng có thể được
xem là bộ "Khai luận về cái đẹp" - đó là Thi pháp học và Tu từ học, và một
phần nào trong tác phẩm Chính trị. Thi pháp học của Aristoce không chỉ là
một công trình lý thuyết quan trọng mà còn là một chứng liệu đáng tin cậy về
sự phát triển của nghệ thuật Hy Lạp.
Cái đẹp cũng là vấn đề trung tâm trong các công trình nghiên cứu của
Aristote. Bằng con đường ngược lại với Platon, Aristote đã kéo cái đẹp trở về
với mảnh đất trần thế, xem nó như là thuộc tính và phẩm chất có thực của
các sự vật. Theo Aristnte, cái đẹp được thể hiện cao nhất nơi các hữu thể
sống, đặc biệt là nơi con người. Con người, với sự hài hòa trong các bộ phận
của cơ thể mình, là hiện thân của cái đẹp và là đối tượng chính của nghệ
thuật. Dấu hiệu quan trọng nhất của cái đẹp là sự toàn vẹn, được Aristote
quan niệm như là cái gì có đầu, giữa và cuối - những thành phần này liên hệ
với nhau và dựa vào nhau mà tồn tại.
Như vậy, đối với Aristote, cái đẹp có tính chất khách quan. Nó không
hiện hữu trong ý niệm - như quan niệm của Platon - hay trong các quan hệ số
lượng trừu tượng - như quan niệm của Pychagore - mà trong những sự vật
thực tế, trong những mối quan hệ và thuộc tính có thực. Do quan niệm rằng
cái đẹp được thể hiện không chỉ trong hành động, mà còn hiện hữu trong
những sự vật không vận động, Aristote đã xem xét sự biểu hiện của cái đẹp
cả trong những đối tượng đứng yên lẫn trong những đối tượng biến dịch.
Những dấu hiệu trên đây của cái đẹp có tính chất phổ quát, nghĩa là
chúng biểu hiện cả trong thiên nhiên, xã hội và con người. Theo Aristote, cái
đẹp hiện thực của thế giới là cội nguồn của ý thức thẩm mỹ và nghệ thuật.
Tuv nhiên, trong khi khẳng định những dấu hiệu khách quan của cái đẹp.
Aristote cũng đồng thời chú ý đến những điều kiện chủ quan của sự tiếp nhận
cái đẹp.
Bàn về nghệ thuật, Aristote xem đó là sự "bắt chước”; nghĩa là sự mô
phỏng, phản ánh hiện thực. Sự mô phỏng này được thực hiện nhờ nhịp điệu,
ngôn từ và hòa âm. Nguvên tắc mô phỏng được vận dụng không chỉ trong
nghệ thuật tạo hình mà cả trong thơ ca và âm nhạc.
Thuyết "bắt chước" đã tạo ra một khoảng cách rất lớn giữa tư tưởng
Platon và tư tưởng Aristote. Như trên đã nói, với Platon, nghệ thuật chẳng
qua là sự tái hiện những sự vật khả giác vốn là ánh xạ của các ý niệm.
Aristote, trái lại nhận thức đầy đủ sự phong phú của thế giới khả giác, của các
sự vật và hiện tượng thực tồn. Theo ông, nghệ thuật dựa trên một thiên
hướng của con người là thiên hướng về sự phản ánh. Trong Thi pháp học,
Aristote viết: "Con người có khả năng phản ánh ngay từ thuở ấu thơ, và nó
càng phân biệt với các động vật khác thì khả năng này càng phát triển, nhờ
đó mà nó sở đắc được những kiến thức đầu tiên". Do vậy, nghệ thuật có
thuộc tính nhận thức, hay nói đúng hơn, đó là một trong những hình thức hoạt
động nhận thức của con người. Việc nghiên cứu năng lực phản ánh của con
người đã tạo điều kiện cho Aristote đặt ra một cách sâu sắc vấn đề chân lý
nghệ thuật, không phải bằng những suy luận trừu tượng mà dựa trên những
thành tựu của nghệ thuật Hy Lạp.
Aristote cũng dành một vị trí thích đáng trong các công trình của mình
để bàn về vai trò giáo dục của nghệ thuật. Theo ông, nghệ thuật không phải là
lĩnh vực tự trị với những giá - trị - tự nó. Nghệ thuật liên quan mật thiết với đời
sống của con người, nó đem lại cho con người "niềm vui của sự nhận thức"
và góp phần hoàn thiện con người về mặt đạo đức. Tác phẩm nghệ thuật
nâng cao phẩm giá con người, vì thông qua sự "thanh lọc" về tâm hồn, nó đã
giải phóng con người khỏi những dục vọng xấu xa.
Những tư tưởng có tính chất đặt nền tảng cho mỹ học duy vật của
Aristote sau này sẽ được phát triển một cách hệ thống bởi các nhà mỹ học
duy vật thời khai sáng như Voltaire, Diderot; những nhà mỹ học dân chủ cách
mạng Nga như Biélinski, Tchernvchevski, Herzen. Dobrolioubov; và những
nhà lý luận của mỹ học mác-xít.
II. MỸ HỌC - KHOA HỌC VỀ CÁI ĐẸP HAY TRIẾT HỌC VỀ NGHỆ THUẬT?
Trong suốt hơn hai mươi thế kỷ, mỹ học đã nép mình trong triết học.
Cuộc tranh luận giữa thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật đã chi
phối các quan niệm thẩm mỹ. Mặc dù vậy, càng về sau giữa các triết gia
thuộc các trường phái khác nhau vẫn có những chỗ gặp nhau trong việc xác
định vị trí của đời sống thẩm mỹ trong xã hội. Sự phát triển của chính tư
tưởng triết học đã từng bước thúc đẩy sự hình thành của mỹ học như một bộ
môn độc lập. Ở đây cần ghi nhận công lao của A. Baumgarterv (1714 - 1762),
nhà mỹ học người Đức. Trong tuyển tập các bài báo xuất bản năm 1735 nhan
đề Những suy niệm triết học về các vấn đề có liên quan đến sáng tác thơ ca,
Baumgarten vẫn chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa triết học và mỹ học.
Nhưng 15 năm sau, khi bộ công trình Mỹ học của ông lần lượt ra đời (tập I
năm 1750, tập II năm 1758) thì lần đầu tiên ngành khoa học này mới được
định danh và định nghĩa rành mạch.
Mặc dù bộ Mỹ học được biên soạn dở dang khiến cho nhiều luận điểm
của Baumgarten chưa được luận chứng thấu đáo, nhưng những đóng góp có
ý nghĩa nền tảng của ông cho sự phát triển của mỹ học là không thể chối cãi
dược. Baumgarten đã định nghĩa một cách súc tích: "Mỹ học là khoa học về
cái đẹp".
Thuật ngữ "Mỹ học" (eschétique, aesthetics) có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp aischetikos - có nghĩa là cảm giác, thuộc về sự tiếp nhận của cảm giác.
Baumgarten đã kế thừa ý nghĩa đó khi ông cho rằng mỹ học là khoa học về
nhận thức cảm tính nhằm vươn tới và sáng tạo ra cái đẹp được diễn đạt trong
những hình tượng nghệ thuật, (Ở một chỗ khác, Baumgurten khẳng định cái
đẹp là sự hoàn thiện của nhận thức cảm tính. Ông hiểu cảm tính không chỉ là
cảm giác mà còn cả cảm xúc, ký ức, trực giác, tưởng tượng. Các công trình lý
luận của Baumgarten có ý nghĩa ở chỗ không chỉ ông đã chính thức khai sinh
ra tên gọi "mỹ học" mà còn tách mỹ học thành một bộ môn độc lập với triết
học và nâng nó lên thành một khoa học.
Baumgarten cũng là người đầu tiên trong lịch sử mỹ học cổ điển Đức
đặt vấn đề nghiên cứu cái cao cả và xác định mối quan hệ giữa thẩm mỹ và
đạo đức. Mặt khác, ông cho rằng mỹ học phải làm rõ những quy luật chung
của sáng tạo nghệ thuật, thể hiện trong những ngành nghệ thuật riêng biệt.
Bên cạnh sự trau chuốt về nghệ thuật, tác phẩm cần phải có sự phong phú về
nội dung, tính chân thực và sinh động về nhận thức, vẻ đẹp, sự hoàn thiện về
thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật bao hàm trong sự hòa hợp giữa nội dung,
kết cấu và sự biểu hiện. Trong các công trình của mình, Baumgarten cố gắng
vươn tới nhận thức về đặc trưng của nghệ thuật, phân biệt chân lý lô-gích và
chân lý thẩm mỹ, nhấn mạnh tính chất cảm tính của hình tượng, khẳng định
vai trò quan trọng của cá nhân đối với sự phát triển của ý thức nghệ thuật.
Trên thực tế Baumgarten có mở rộng sự quan tâm đến các lĩnh vực
khác của mỹ học như cái cao cả, ý thức nghệ thuật...; nhưng khi định nghĩa
”mỹ học là khoa học về cái đẹp", ông đã tự giới hạn đối tượng nghiên cứu của
mỹ học, ít nhất là trên bình diện lý thuyết. Định nghĩa đó thật ra cũng phản
ánh và thâu tóm được những tìm tòi của nhiều triết gia trước ông. Nhưng sự
phát triển của mỹ học trong thời Baumgarten và sau đó đã chứng minh rằng,
dù cái đẹp là phạm trù trung tâm của mỹ học và thẩm mỹ là bản chất của
nghệ thuật, đối tượng của mỹ học không hề bị thu hẹp như quan niệm của
Baumgarten. Đời sống thẩm mỹ đòi hỏi mỹ học nghiên cứu không chỉ cái đẹp
mà cả cái bi, cái hài...
Hai triết gia cổ điển người Đức là E.Kanc và Hegel đã đẩy mỹ học tiến
thêm một bước khá dài và góp phần quan trọng vào việc nhận chân đối tượng
của mỹ học.
Trong bộ ba công trình của mình, bên cạnh Phê phán lý trí thuần túy và
Phê phản lý trí thực tiễn, Kant (1724 - 1804) đã dành một phần quan trọng
của Phê phán khả năng phán đoán để phác thảo ra một nền mỹ học của
tương lai. Kant là người đầu tiên chú ý một cách thích đáng nhất khía cạnh
tinh tế của các hiện tượng thẩm mỹ để phân biệt với các lĩnh vực khác của
đời sống vật chất. Nhà tư tưởng này đã lưu tâm xem xét hai phạm trù cơ bản
của mỹ học là cái đẹp và cái cao cả. Cái đẹp, trong quan niệm của Kant,
không gắn liền với tính chất thực tiễn, nó đem lại khoái cảm và thỏa mãn
những đòi hòi tinh thần có tính chất chủ quan của cá nhân. Cái đẹp là hình
thức hợp lý của sự vật mà trong khi cảm nhận không cần phải hình dung ra
mục đích của nó. Cái đẹp là cái làm vui thích tất cả mọi người mà không
thông qua một khái niệm nào cả. Một cái đẹp thuần túy như vậy sẽ là biểu
tượng củùa cái Thiện, nó thể hiện những sức mạnh thẩm mỹ sẽ đem lại động
lực cho nhận thức mà không đồng nhất với nhận thức.
Hướng tới cái đẹp trong ta, do ta và chờ ta, mỹ học Kant, một mặt,
không chú ý đầy đủ đến ý nghĩa thực tiễn - xã hội của các hiện tượng thẩm
mỹ: mặt khác rất đề cao vai trò của chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật và cảm
thụ thẩm mỹ. Ảnh hưởng của Kant trong sự phát triển tư tưởng mỹ học to lớn
đến mức nhiều nhà nghiên cứu xem trước tác của ông đánh dấu mốc cho cả
một thời kỳ được gọi là thời kỳ phê phán trong mỹ học. B.Croce, chẳng hạn,
chia lịch sử mỹ học thành ba giai đoạn: giai đoạn trước Kant, giai đoạn phê
phán gắn với tên tuổi Kant và giai đoạn sau Kant còn gọi là giai đoạn thực
nghiệm. D. Huisman thì nói đến giai đoạn giao lưu nay trường phái Platon,
giai đoạn phê phán bay trường phái Kant và giai đoạn hiện đại hay trường
phái thực nghiệm.
Từ khi xuất hiện Hegel (1770 - 1831), triết gia duy tâm cổ điển người
Đức, một đỉnh cao của tư tưởng mỹ học nhân loại, quan niệm "mỹ học là khoa
học về cái đẹp" đã phần nào mất ưu thế. Với Hiện tượng học về tinh thần và
Khoa lô-gích học, triết học Hegel dã có đầy đủ cơ sở để trở thành một hệ
thống chặt chẽ mang tính chất lý tính khi nó nhìn lịch sử như là sự vận động
của Tinh thần tuyệt đối, trừu tượng và nhất quán. Các bài giảng về mỹ học
của Hegel đã dành sự quan tâm cho hoạt động thẩm mỹ như một hoạt động
cao nhất, của trí tuệ, bởi vì theo ông, sự thật và điều kiện đã được liên kết
một cách chặt chẽ trong cái đẹp và chỉ trong cái đẹp. Nhưng Hegel lại hạn
chế cái đẹp trong phạm vi nghệ thuật và định nghĩa mỹ học là triết học về
nghệ thuật. Dưới nhãn quan triết học của Hegel, cái đẹp được xem như hình
thức cảm tính của tư tưởng và nghệ thuật là nơi kết tinh của cái dẹp. Với tư
cách là sự miêu tả cảm tính các tư tưởng, nghệ thuật là một bậc thang của
Tinh thần tuyệt đối; là một hình thức đặc biệt giúp con người đạt đến chân lý
tuyệt đối. Tách khỏi cái đẹp sẽ không có và không thể có nghệ thuật, nhưng
điều đó không có nghĩa là người nghệ sĩ giới hạn đối tượng của mình trong
vẻ đẹp của thế giới khách quan.
Khi định nghĩa "mỹ học là triết học về nghệ thuật"; Hegel đã đặt mỹ học
trên cơ sở của ý thức sáng tạo. Lịch sử đã chứng minh rằng tư tưởng mỹ học
đã phát triển song hành dưới sự tác động hỗ tương của các trào lưu và
trường phái nghệ thuật: hiện thực, lãng mạn, tượng trưng, ấn tượng, siêu
thực, lập thể... Quan niệm của Hegel vì vậy, đã được nhiều nhà mỹ học hiện
đại chia sẻ. Hướng về cái đẹp trong nghệ thuật hơn là cái đẹp của thiên
nhiên, nhiều nhà mỹ học thế kỷ XX đã cố gắng tổng hợp những đặc điểm
chung của các khuynh hướng nghệ thuật để rút ra những tinh hoa của các
khuynh hướng ấy. Hơn nữa mỹ học không chỉ đi tìm nghĩa cho cái đẹp, mà từ
mảnh đất phong phú của các loại hình nghệ thuật (văn học, hội họa, điện ảnh,
sân khấu, âm nhạc...), trong đó có sự hiện thân của cả cái đẹp lẫn cái cao cả,
cái bi, cái hài, mỹ học vươn tới những suy tưởng khái quát về nghệ thuật. Ch.
Lalo, trong một công trình mỹ học có tính chất nhập môn, đã viết: "Cũng như
lô-gích học là sự suy tưởng triết học về những qui luật đạt tới chân lý mà
trước hết là về những ngành khoa học đã sáng tạo ra các qui luật đó; cũng
như đạo đức học là suy tưởng triết học về tâm lý của hành vi cá nhân và xã
hội và về khoa học các phong hóa; tương tự như thế, mỹ học được hiểu thấu
đáo trước hết phải là sự suy tưởng triết học về nghệ thuật, về phê bình và lịch
sử nghệ thuật, những ngành đã dọn đường cho mỹ học".
III. ĐI TỚI XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG CỦA MỸ HỌC
Định nghĩa "mỹ học là triết học về nghệ thuật" tuy đã nêu bật được đối
tượng then chốt nhất của mỹ học là sự sáng tạo nghệ thuật, nhưng vẫn chưa
làm bằng lòng tất cả các nhà nghiên cứu, đặc biệt là những nhà nghiên cứu
mác-xít. Ở đây, bên cạnh sự khác nhau về cách nhìn, về quan niệm, nguyên
do còn ở chỗ nền văn minh nhân loại phát triển mạnh mẽ đã mở rộng phạm vi
nghiên cứu của mỹ học, khiến cho đối tượng của nó là một vấn đề vẫn còn bỏ
ngõ.
Các nhà mỹ học mác-xít cho rằng quan niệm "mỹ học là triết học về
nghệ thuật" vô hình trung đã gạt bỏ một bộ phận hết sức quan trọng làm
nguồn gốc, cội rễ của nghệ thuật, đó là đời sống thẩm mỹ. Mỹ học mác-xít
khước từ cách nhìn nghệ thuật trước hết như sự tự biểu hiện, sự hóa thân
của thế giới tâm linh người nghệ sĩ để kiên trì luận điểm cho rằng nghệ thuật
xét cho cùng là sự phản ánh hiện thực khách quan - một sự phản ánh năng
động và đặc thù. Do vậy, mỹ học, cùng với sự nghiên cứu về nghệ thuật, phải
đặt nhiệm vụ hàng đầu là nghiên cứu đời sống thẩm mỹ với những khách thể
thẩm mỹ tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác, tình cảm, tư tưởng của con
người. Cái đẹp trước hết là cuộc sống, nghĩa là một thực thể khách quan. Ở
đây chúng ta thấy ranh giới giữa các nhà mỹ học mác-xít với những nhà mỹ
học chủ trương cái đẹp trước hết là ở con người; còn thiên nhiên tự nó là phi
thẩm mỹ (anesthétique), nó chỉ có giá trị thẩm mỹ khi được nhìn qua lăng kính
của nghệ thuật, cũng như núi chỉ trở thành đẹp từ khi con người trở thành
lãng mạn.
Nhấn mạnh thuộc tính thẩm mỹ khách quan của thế giới hiện thực, các
nhà mỹ học mác-xít đã cung cấp cho chúng ta những định nghĩa, đôi khi khá
dài dòng, về mỹ học. Trong cơ sở mỹ học Mác-Lênin, J.Lukin và V.
Skatershikov viết: "Mỹ học là khoa học về cái thẩm mỹ” trong hiện thực, về
bản chất và các qui luật của nhận thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ của
con người, là khoa học về các qui luật chung của sự phát triển nghệ thuật với
tư cách là một hình thức đặc thù của sự phán ánh và cải tạo thế giới". Còn
đây là định nghĩa của bộ giáo trình Mỹ học Mác - Lênin do giáo sư
M.Ovsannikov chủ biên: "Mỹ học là khoa học về cái thẩm mỹ trong thiên nhiên
và xã hội, trong nền sản xuất vật chất và tinh thần, về những nguyên tắc
chung trong sự sáng tạo theo qui luật của cái đẹp về nguồn gốc, những qui
luật phát triển và vận động của ý thức thẩm mỹ, trong đó có nghệ thuật với tư
cách là một hình thức đặc thù của sự phản ánh thực tại".
Cơ sở của hai định nghĩa trên chính là lý luận phản ánh của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, theo đó ý thức của con người - trong đó có ý thức thẩm
mỹ - là tính thứ hai so với hiện thực - bao gồm hiện thực tự nhiên và xã hội -
là tính thứ nhất. Dưới ảnh hưởng của phản ánh luận nghệ thuật, trong bình
diện ý thức thẩm mỹ của con người, đã được nhìn nhận ở chức năng phản
ánh, khám phá hơn là chức năng sáng tạo, phát minh.
Phương diện sáng tạo, phát minh ra những giá trị mới, đặc biệt là
những giá trị nhân văn có ý nghĩa toàn thế giới, được J. Borev chú ý khi ông
đưa ra một định nghĩa trong công trình Mỹ học: "Mỹ học là khoa học về bản
chất của những giá trị toàn nhân loại hình thành về mặt lịch sử, về sự khai
sinh, tiếp nhận, đánh giá và khai thác các giá trị đó. Mỹ học là một khoa học
có tính chất triết lý về những nguyên tắc chung nhất của sự khám phá thẩm
mỹ đối với thế giới trong tiến trình hoạt động của con người, trước hết là trong
nghệ thuật, nơi mà qui luật của cái đẹp đã hình thành, kết tinh và đạt đến độ
hoàn thiện”.
Sự khám phá thẩm mỹ trong tiến trình hoạt động của con người có một
phạm vi rộng rãi hơn nghệ thuật rất nhiều. Trong thời đại khoa học kỹ thuật
hiện nay, đời sống thẩm mỹ phát triển hết sức năng động. Những nhân tố
thẩm mỹ đã thấm sâu vào các lĩnh vực hoạt động và ý thức con người đến độ
có thể nói đến "sự thay đổi về vị thế của một nền văn hóa mà trong thời hiện
đại về căn bản, đã mang hình thái của mỹ học”.
Nói cách khác, nền văn hóa và văn minh nhân loại đang được mỹ học
hóa. Điều đó thể hiện qua sự xuất hiện và phát triển của các loại hình hoạt
động thẩm mỹ nằm ngoài phạm vi của sáng tạo nghệ thuật, chẳng hạn design
hay mỹ học ứng dụng, mỹ học kỹ thuật, giáo dục thẩm mỹ, tổ chức thẩm mỹ
môi trường, việc thẩm mỹ hóa các ngành hoạt động có tính xã hội như du lịch,
thể thao...
Trong các loại hình hoạt động đó, sự phát triển của design đã đặt ra
cho các nhà mỹ học nhiệm vụ nghiên cứu mối tương quan giữa cái thẩm mỹ
và cái thực dụng trong sáng tạo khoa học và công nghệ, hiệu quả xã hội của
hình thức thẩm mỹ trong các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng. Design có liên
quan đến các phẩm chất hình thức của đồ vật, chẳng hạn như các máy móc
và công cụ lao động, các phương tiện chuyên chở hàng hóa, các sản phẩm
lao động làm ra..., và đây không chỉ là những đặc điểm bên ngoài mà còn là
mối liên hệ cấu trúc tạo nên sự thống nhất về chức năng của các đồ vật đó.
Mục đích của mỹ thuật công nghiệp là đưa cái đẹp vào sản xuất và đời
sống, tạo ra sự hài hòa trong môi trường, phương tiện, điều kiện lao động,
sản phẩm lao động, góp phần tiến tới thẩm mỹ hóa chính bản thân người lao
động. Sự hài hòa của toàn bộ không gian, ánh sáng, màu sắc, âm thanh bao
bọc chung quanh con người là điều kiện cần thiết để hình thành nên một thế
giới được nhân hóa, trong đó con người trở nên đẹp hơn, cũng đồng thời trở
nên nhân đạo hơn.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà những bước tiến của nền
văn minh cũng song hành với sự hình dung của con người về cái đẹp thông
qua những vật dụng hằng ngày, từ bộ ly uống nước, chiếc máy điện thoại, cái
nôi của em bé cho đến một chiếc ô-tô theo kiểu mới nhất. Con người đã tạo
ra nền văn minh bằng cách cải tiến các vật dụng đó không chỉ theo hướng
hiện đại hơn để thuận tiện cho cuộc sống của mình, mà còn theo hướng thẩm
mỹ hơn, đẹp hơn, tinh tế hơn. Sự vận động về phương diện thẩm mỹ trong
nền sản xuất ở các xã hội công nghiệp cũng là một đối tượng nghiên cứu của
mỹ học. Nếu nghệ thuật là những ngày hội thẩm mỹ của nhân loại thì hoạt
động, mỹ thuật công nghiệp là những ngày thường của cuộc sống và mỹ học
lấy nó làm đối tượng nghiên cứu chính là mỹ học của cái thường ngày.
Như vậy là cùng với quá trình mở rộng phạm vi đối tượng nghiên cứu
của mình, mỹ học đã từng bước trở thành một lĩnh vực độc lập với triết học và
nghệ thuật học là hai ngành mà nó phụ thuộc xưa nay.
Với tư cách là một khoa học nhân văn, mỹ học mang tính chất triết lý,
nhưng đồng thời nó cũng có đặc trưng riêng, đối tượng riêng với những quy
luật tồn tại của nó. Nếu triết học nghiên cứu những qui luật chung nhất của
toàn bộ hệ thống các hình thái ý thức và tư tưởng, thì mỹ học tập trung
nghiên cứu ý thức thẩm mỹ chi phối sự khám phá và phát minh của con
người theo qui luật của cái đẹp.
Như một cầu nối giữa triết học và nghệ thuật học, mỹ học đã trở thành
lý thuyết chung nghiên cứu những vấn đề phổ quát của nghệ thuật. Còn nghệ
thuật học lại nghiên cứu nguồn gốc, đặc điểm, chức năng và qui luật phát
triển của các loại hình nghệ thuật cụ thể trong đời sống tinh thần của xã hội.
Mỹ học không thể cung cấp cho chúng ta kiến thức về tất cả các ngành nghệ
thuật như văn học, sân khấu, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, kiến trúc...; nhưng
lại là cơ sở lý luận và định hướng triết lý cho các ngành nghệ thuật chuyên
biệt – những bộ phận hợp thành hệ thống tri thức chung về sáng tạo nghệ
thuật. Mỹ học củng cố mối quan hệ mật thiết với tâm lý học sáng tạo và cảm
thụ nghệ thuật, với xã hội học nghệ thuật.
Nghệ thuật học - và tương ứng với nó là những ngành nghệ thuật,
chuyên biệt - bao gồm ba bộ môn: lý luận nghệ thuật, lịch sử nghệ thuật và
phê bình nghệ thuật. Không thể hình dung những nhà nghiên cứu hoạt động
trong các bộ môn này lại thiếu tri thức về mỹ học. Mặt khác, cần phải nhấn
mạnh rằng: những tư tưởng mỹ học sâu sắc nhất bao giờ cũng được gieo
trồng và thu hoạch trên mảnh đất màu mỡ của các thành tựu nghệ thuật. Qui
luật của sự khai thác và phát minh thẩm mỹ biểu hiện tập trung nhất, đầy đủ
nhất và trực tiếp nhất trong nghệ thuật. Vì vậy, nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo
những giá trị thẩm mỹ có ảnh hưởng quyết định đối với sự phát triển của mỹ
học. Nếu việc giới hạn đối tượng của mỹ học trong phạm vi nghệ thuật là một
phiến diện, thì việc đặt nghệ thuật ngang hàng với những lĩnh vực khác của
đời sống thẩm mỹ cũng là một điều phiến diện không kém. Trong đời sống
tinh thần của xã hội ta hiện nay, các tư tưởng mỹ học còn nghèo nàn. Một
trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đó là do chưa có những
đỉnh cao về sáng tạo nghệ thuật có tầm cỡ thế giới và chưa có một công
chúng nghệ thuật đạt trình độ cao.
Ngày nay mỹ học bao gồm các lĩnh vực lý luận về bản chất và qui luật
của sáng tạo nghệ thuật, lý luận về design và sự khám phá môi trường đồ vật,
lý luận về giáo dục thẩm mỹ. Sự khám phá thẩm mỹ của con người không chỉ
hướng tới thế giới mà còn hướng vào chính mình, bởi vì cái đẹp không chỉ là
"quà tặng của hiện thực” mà còn là hoa trái từ cõi tâm linh sâu thẳm của con
người. Cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật, theo F. Nietzsche, là biểu hiện
hoàn tất nhất của nhân cách tác giả một tấm danh thiếp đặc biệt tinh vi. Với tư
cách là chủ thể thẩm mỹ, con người không dừng lại ở sự khám phá thẩm mỹ
mà còn tiến đến sự phát minh, sáng tạo ra những giá trị mới theo qui luật của
cái đẹp. Sự phát minh đó sẽ để lại dấu ấn trên đời sống tinh thần và làm cho
thế giới trở thành thế giới của con người, do con người.
Từ những nhận xét trên, chúng ta có thể đi tới kết luận: Mỹ học là khoa
học về bản chất của ý thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ nơi con người
nhằm khám phá và phát minh ra những giá trị trên cơ sở qui luật của cái đẹp,
trong đó nghệ thuật là giá trị cao nhất.
Một quan niệm như vậy về mỹ học bao gồm các tiền đề lý luận sau đây:
1. Mỹ học là một khoa học, nghĩa là nó được xây dựng trên cơ sở của
các khái niệm và mệnh đề suy lý của tư duy trừu tượng, hướng đến việc tìm
hiểu những vấn đề có tính bản chất và qui luật của ý thức thẩm mỹ và hoạt
động thẩm mỹ.
2. Đó là khoa học về hoạt động của tinh thần, ý thức con người trong
khi hướng tới thế giới; và chính mình. Như vậy mỹ học không nhằm nghiên
cứu vẻ dẹp của một dòng sông hay một bản nhạc mà nhằm nghiên cứu ý
thức của con người, trong khi phát hiện ra vẻ đẹp của dòng sông và sáng tạo
ra cái đẹp của nhạc phẩm, tới đó mà rút ra đặc điểm chung của phạm trù "cái
đẹp”...
3. Mỹ học gắn liền không chỉ với sự khám phá ra những giá trị đã có
trong thế giới hiện thực hay trong thế giới tâm linh của con người, mà còn với
sự phát minh, sáng tạo ra những giá trị mới. Như vậy mỹ học không thể bằng
lòng với lý luận phản ánh mà phải vươn tới lý luận về sự sáng tạo của con
người theo qui luật của cái đẹp.
4. Những giá trị nói ở đây là những giá trị được hình thành và phát
minh trên cơ sở qui luật của cái đẹp, tức là những giá trị thẩm mỹ. Nói đến giá
trị là nói đến cái nhìn, cách đánh giá, nghĩa là nói đến mối quan hệ. Chỉ có thể
khám phá, phát minh ra những giá trị thẩm mỹ nếu xác lập được cái nhìn
thẩm mỹ và mối quan hệ thẩm mỹ. Tư cách chủ thể của con người đối với thế
giới hiện ra trên nhiều mối quan hệ khác nhau: kinh tế, chính trị, đạo đức...
Quan hệ thẩm mỹ không nhất thiết đối lập với các quan hệ đó, nhưng nhất
thiết phải khác về bản chất với các quan hệ đó. Quan hệ thẩm mỹ không đặt
nền tảng trên sự thỏa mãn những động cơ về kinh tế, sự mưu cầu những lợi
ích về chính trị hay sự chiều theo những qui luật đạo đức hiện hành. Quan hệ
thẩm mỹ là quan hệ làm thanh lọc con người, tách con người khỏi những mối
ràng buộc có tính cách vật chất nhằm thiết lập một sợi dây tinh thần giữa con
người đối với thế giới và đối với chính mình trên cơ sở của cái đẹp.
5. Thừa nhận thiết kế mỹ thuật và những phương diện khác của đời
sống thẩm mỹ cũng là hoạt động khám phá và phát minh ra cái giá trị thẩm
mỹ, điều đó không có nghĩa là đánh đồng vai trò của chúng với vai trò của
nghệ thuật trong tư cách đối tượng nghiên cứu của mỹ học. Cần phải xem
nghệ thuật, là giá trị thẩm mỹ cao nhất bửoi vì ở đó qui luật về sự hài hòa -
tức là qui luật của cái đẹp - được thực hiện hoàn hảo hơn đâu hết. Không
phải ai khác mà chính những nghệ sĩ tài năng là thầy dạy cho công chúng biết
thế nào là giá trị thẩm mỹ. Mặt khác, với tư cách là đối tượng ưu tiên nhất của
nghiên cứu mỹ học, nghệ thuật không những tạo tiền đề cho sự thai nghén và
ra đời những tư tưởng mỹ học sâu sắc mà còn góp phần điều chỉnh, uốn nắn
những tư tưởng mỹ học đã lỗi thời và lạc hậu.
Với một quan niệm như vậy về đối tượng của mỹ học, cơ cấu của công
trình Mỹ học đại cương bao gồm các chương sau đây:
- Mỹ học là gì?: giải quvết vấn đề đối tượng và xác lập một định nghĩa
cho mỹ học.
- Ý thức thẩm mỹ: nghiên cứu những cấp độ hoạt động ý thức của con
người với tư cách là chủ thể thẩm mỹ.
- Các phạm trù thẩm mỹ: nghiên cứu các phạm trù thẩm mỹ như cái
đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài như là những công cụ của tư duy nhằm nhận
thức và đánh giá các hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống và trong nghệ thuật.
- Nghệ thuật như một lĩnh vực thẩm mỹ nghiên cứu bản chất và đặc
trưng của ngnệ thuật, lãnh vực hoạt động trung tâm của sự sáng tạo ra những
giá trị theo qui luật của cái đẹp.
- Các Loại hình nghệ thuật: nghiên cứu đặc điểm của các loại hình
nghệ thuật (văn học, hội họa, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, điêu khắc...)
nhằm làm rõ bản chất và qui luật của sự khám phá và phát minh thẩm mỹ.
- Vấn đề giáo dục thẩm mỹ: trả lời câu hỏi có thể giáo dục thẩm mỹ cho
con người hay không và giáo dục bằng cách nào.
Chương 2. Ý THỨC THẨM MĨ
I. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC THẨM MỸ
"Con người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ" (L.
Pascal): năng lực ý thức chính là dấu hiệu phân biệt con người với các động
vật khác. Ý thức con người là một hợp thể bao gồm nhiều phương diện đa
dạng như chính sự đa dang của hoạt động con người. Với tư cách một bộ
phận của ý thức nói chung, ý thức thẩm mỹ cũng là nền tảng tinh thần bảo
đảm cho sự thống nhất hài hòa và mối quan hệ nội tại giữa các phương diện
khác nhau đó trong đời sống tinh thần của con người và của cả xã hội. Mặc
dù có thể được trừu tượng hóa như một bộ phận độc lập, ý thức thẩm mỹ vẫn
có chức năng tổng hợp, điều phối các phương diện khác của ý thức nói
chung. Khái niệm chân lý và điều thiện không thể được quan niệm đầy đủ nếu
thiếu khái niệm về cái đẹp, và đến lượt nó, cái đẹp bộc lộ ra khi ý thức con
người tiếp cận với chân lý và ý chí con người vươn đến điều thiện.
Ý thức thẩm mỹ không chỉ ở dạng tiềm thể nơi những con người có văn
hóa thẩm mỹ mà còn được hiện thực hóa thông qua hoạt động thẩm mỹ.
Tuy nhiên, không nên quan niệm hoạt động thẩm mỹ như một lãnh vực
tách biệt một cách tuyệt đối khỏi các hình thức hoạt động khác của đời sống
con người. Thật ra trong bất kỳ hoạt động nào của con người và xã hội cũng
đều có những nhân tố tác động đến sự nảy sinh và phát triển của ý thức thẩm
mỹ. Những nhân tố thẩm mỹ đó với những mức độ quan trọng khác nhau, giữ
vai trò trong tất cả các lãnh vực của hoạt động sản xuất, hoạt động tinh thần,
hoạt động giao tiếp hằng ngày và đặc biệt là hoạt động sáng tạo và tiếp nhận
nghệ thuật.
Trong hoạt động sản xuất, con người tạo ra những sản phẩm không chỉ
mang giá trị sử dụng mà còn mang tính thẩm mỹ. Nhu cầu về cái đẹp của đồ
vật vừa biểu hiện lại vừa tác động đến ý thức của cả người sản xuất, chế tạo
ra đồ vật lẫn của người tiêu dùng. Sở dĩ như vậy là vì con người, ngay trong
quá trình sản xuất, có khả năng tách ra khỏi những nhu cầu thực dụng trực
tiếp của bản thân để vươn tới sự sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Điều này
đã được chính K. Marx nhấn mạnh trong Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844: “Súc vật cố nhiên cũng sản xuất. Nó xây dựng tổ, chỗ ở cho nó như
con ong, con hải ly, con kiến v.v... Nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản
thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến, sản xuất một chiều; còn con người thì
sản xuất một cách phổ biến; súc vật chỉ sản xuất dưới sự thống trị của nhu
cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó thì con người sản xuất ngay khi thoát khỏi
nhu cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó thì mới sản xuất theo ý
nghĩa chân chính của chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân mình, còn
con người thì tái sản xuất ra toàn bộ tự nhiên; sản phẩm của súc vật trực tiếp
gắn liền với cơ thể vật chất của nó, còn con người thì đối lập một cách tự do
với sản phẩm của mình. Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu
cầu của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo
của bất kỳ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho
đối tượng; do đó con người nào cũng nhào nặn vật chất theo qui luật của cái
đẹp".
Ý thức thẩm mỹ không bao giờ cắt đứt hoàn toàn mối quan hệ với ý
thức thường ngày. Một con người bình thường vẫn có thể có ý thức thẩm mỹ
tốt dựa trên kinh nghiệm sống của người ấy. Tuy nhiên, nếu ý thức thường
ngày bị giới hạn bởi lợi ích thực tiễn, thì ý thức thẩm mỹ lại thể hiện tính vô tư
và tầm bao quát hiện thực một cách rộng rãi, hướng tới những hiện tượng
không đụng chạm trực tiếp tới thực tiễn xã hội thông qua phương thức khai
thác và khám phá một cách toàn vẹn thế giới bên ngoài và bên trong con
người.
Ý thức, thẩm mỹ có thể xuất hiện trong từng hành vi tích cực của con
người, dù đó là nghiên cứu khoa học hay nhận thức xã hội, hoạt động sản
xuất hay sinh hoạt hằng ngày. Với cái nhìn thẩm mỹ, con người đánh giá bất
cứ hiện tượng khách quan nào được họ chứng kiến và đưa vào kho tàng kinh
nghiệm sống của họ.
Nghệ thuật, với tư cách lãnh vực hoạt động thẩm mỹ chuyên biệt, đã
biến ý thức thẩm mỹ từ một bộ phận hợp thành của ý thức con người nói
chung trở thành nhân tố chủ đạo và do đó cái đẹp trở thành cứu cánh của
nghệ thuật. Nghệ thuật là lãnh vực mà trong đó ý thức thẩm mỹ thực hiện trọn
vẹn nhất, là hình thái cao nhất của sự biểu hiện ý thức thẩm mỹ. Nói cách
khác, nghệ thuật là hình thức hoạt động triển khai đầy đủ nhất những đặc
trưng của ý thức thẩm mỹ xét trên bình diện xã hội lẫn trên bình diện cá nhân.
Trong lịch sử tư tưởng mỹ học đã hình thành hai quan niệm đối lập
nhau về bản chất của ý thức thẩm mỹ.
1. Quan niệm có tính chất bản thể luận, xem xét ý thức thẩm mỹ như là
sự phản ánh bản thân tồn tại bằng những nguyên tắc đặc biệt.
2. Quan niệrn có tính chất nhận thức luận, trái lại cắt nghĩa ý thức thẩm
mỹ như là một phẩm chất, thuộc tính của ý thức con người (chủ yếu biểu hiện
trong nghệ thuật - hình thức, đặc biệt của hoạt động con người) và bất cứ
những dự tính nào đưa cái đẹp trở về với thế giới khách quan cũng bị quan
niệm này xem là sự dung tục hóa cái đẹp, sự phủ nhận tính chất độc lập và tự
trị của nghệ thuật.
Thật ra cả hai quan niệm trên đều có tính chất cực đoan. Một mặt
những phẩm chất thẩm mỹ bao giờ cũng mang "tính người", nghĩa là có tính
chất nhận thức luận; do vậy mà không thể xem xét chúng như những yếu tố
nguyên ủy của thế giới hiện hữu không phụ thuộc vào con người. Vấn đề của
mỹ học là tìm hiểu các hiện tượng thẩm mỹ tồn tại như thế nào, đồng thời
được con người tiếp nhận ra sao. Sự hiện hữu của con người là điều kiện tất
yếu để biến những giá trị thẩm mỹ từ khả năng thành hiện thực. Chính trong ý
nghĩa đó mà Hegel đã nhấn mạnh rằng thiên - nhiên - tự - nó không bao giờ
tồn tại trong phạm trù của cái đẹp.
Nhưng mặt khác, sự phụ thuộc của các phẩm chất thẩm mỹ đối với con
người hoàn toàn không có nghĩa là những phẩm chất đó chỉ có thể bộc lộ
trong nghệ thuật, hoạt động thẩm mỹ đặc biệt của con người, mà thôi. Bởi vì
đối với chủ thể, thiên nhiên, tha nhân và tất cả những sản phẩm của hoạt
động con người đều có ý nghĩa biểu cảm về mặt thẩm mỹ. Các phẩm chất
thẩm mỹ, do vậy nói lên bản chất khách quan của mối quan hệ hỗ tương và
đa dạng giữa con người và thế giới. Theo ý nghĩa đó, các phạm trù thẩm mỹ
vừa mang tính chất khách quan, vừa là những phạm trù nhận thức luận.
Như vậy, bản chất của ý thức thẩm mỹ là một cái gì lưỡng tính, có mối
quan hệ biện chứng, phụ thuộc đồng thời vào cả chủ thể lẫn khách thể thẩm
mỹ. Chẳng hạn, sự phụ thuộc của cảm xúc thẩm mỹ với khách thể thẩrn mỹ
thể hiện ở chỗ cảm xúc đó chỉ xuất hiện với điều kiện có một nguồn kích thích
từ bên ngoài: một phong cảnh thiên nhiên, một khuôn mặt thiếu nữ hay một
tác phẩm nghệ thuật với một hình thức và chất liệu nhất định. Tính truyền
cảm của hình thức bên ngoài này là khởi nguyên của cảm xúc thẩm mỹ.
Ngược lại, cảm xúc thẩm mỹ cũng phụ thuộc vào chủ thể thưởng
ngoạn và điều này thể hiện ở chỗ trong khi đánh giá tính chất biểu cảm của
hình thức bên ngoài nơi đối tượng, chủ thể nhất thiết phải tăng cường sức
mạnh tinh thần để khám phá ý nghĩa bề sâu của nó. Đối tượng chỉ đạt đến
chất lượng biểu cảm khi nào nó không những được cảm nhận mà còn được
thức nhận với đầy đủ ý nghĩa của một hành vi thẩm mỹ. Bản thân đối tượng
phải được "nhân hóa", nghĩa là phải đi qua "lò luyện phản ứng" của tinh thần
con người để đạc đến một sự thức nhận thích hợp. Và chỉ trong trường hợp
hội đủ hai điều kiện là hình thức bên ngoài của đối tượng và ý nghĩa tinh thần
đã được nhân hóa của nó thì mới có thể nói đến một hiện tượng thẩm mỹ.
Cần phải nói thêm rằng trong hành vi nhận thức thẩm mỹ, không chỉ đối
tượng được nhân hóa mà cả chủ thể cũng được đối tượng hóa, hay nói đúng
hơn, hóa thân vào đối tượng. Trong khi khám phá ra ý nghĩa bên trong của
đối tượng, con người cũng dồng thời ban tặng cho thiên nhiên những mảnh
tinh thần của mình. Trong quan hệ thẩm mỹ, con người tự chiêm nghiệm
mình trong một thế giới do mình sáng tạo nên. Dưới hình thức, cụ thể và cảm
tính, bản chất con người được khách thể hóa trong tiến trình lao động nghệ
thuật và trong quá trình thưởng ngoạn thẩm mỹ những thành quả do lao dộng
nghệ thuật tạo ra. Trong khi tập trung sáng tạo và tái tạo thế giới các đối
tượng, con người đã truyền bản chất của mình cho các đối tượng ấy. Và đến
lượt chúng, những đối tượng ấy lại truyền cải bản chất người cho công chúng
quan tâm thưởng ngoạn và chiêm ngưỡng.
Ý thức thẩm mỹ có mối quan hệ phát sinh với sự phát triển của các
hình thức hoạt động và các mối giao tiếp của con người. Tuy nhiên, sẽ là sai
lầm nếu tuyệt đối hóa mối quan hệ đó, nếu xem mối quan hệ phát sinh này là
phổ quát trong toàn bộ đời sống thẩm mỹ. Tuy xuất hiện trong quá trình lao
động, nhưng càng về sau ý thức thẩm mỹ càng được giải phóng khỏi cội
nguồn sản sinh ra nó và trở nên độc lập đối với những hoạt động có mục đích
thực tiễn. Giá trị của xúc cảm thẩm mỹ không phải do nó đạt đến một mục
đích thực dụng trực tiếp nào đó. mà chính là một giá trị tự than. Điều đó, tất
nhiên, không có nghĩa là cái thẩm mỹ và cái công ích về nguyên tắc không thể
cùng dung hợp trong một đối tượng. Điều đó chỉ nhằm nói lên rằng không có
một mệnh lệnh nào có thể bắt buộc chúng ta phải xem cái đẹp chỉ như là cái
có ích hiển nhiên.
Ý thức thẩm mỹ chỉ có thể thực hiện thông qua hoạt động thẩm mỹ.
Đồng thời, ý thức thẩm mỹ cũng có tính độc lập tương đối so với hoạt động
thẩm mỹ và nghệ thuật, cũng như có đặc điểm riêng so với các hình thái ý
thức khác.
Với một trình độ tổng hợp cao. Ý thức thẩm mỹ luồn luôn hiện ra trong
hình thức cảm tính, trực tiếp, nối kết hình ảnh về thế giới được biến cải bởi trí
tưởng tượng với sự đánh giá từ một lý tưởng thẩm mỹ nhất định. Tuy mang
hình thức cảm tính, nhưng ý thức thẩm mỹ lại là một hiện tượng tinh thần nảy
sinh qua sự thống nhất và hòa hợp giữa chủ quan và khách quan, cảm xúc và
trí tuệ, tình cảm và ý chí, vô thức và ý thức, nghĩa là tất cả những lực lượng
tinh thần của con người trong thể toàn vẹn của chúng.
Qua khái niệm ý thức thẩm mỹ, chúng ta muốn nói đến thực thể tinh
thần đa dạng bao gồm nhiều thành tố có tác động và thẩm thấu với nhau tạo
thành một hệ thống nhất định. Những thành tố cơ bản hợp thành ý thức thẩm
mỹ là cảm xúc thẩm mỹ; thị hiếu thẩm mỹ, tư tưởng thẩm mỹ. Bên cạnh đó,
có những thành tố không cơ bản nhưng cũng góp phần tạo nên hệ thống ý
thức thẩm mỹ; như khát vọng về chân lý, ý thức trách nhiệm, lương tâm....
Ý thức thẩm mỹ bị qui định bởi nhu cầu và trình độ thẩm mỹ một thời
đại. Nhưng thông qua những cá nhân kiệt xuất - như những nhà tư tưởng;
những nghệ sĩ có tầm cỡ - nó có thể vượt qua giới hạn của một thời đại.
Ngược lại, ý thức thẩm mỹ của một thời đạị chỉ được thể hiện thông qua ý
thức của những cá nhân tiếp nhận và làm phong phú ý thức đó bằng những
kinh nghiệm sống của riêng mình. Ý thức thẩm mỹ của thời đại sẽ mất hết ý
nghĩa nếu không được thể nghiệm thông qua những cảm xúc thẩm mỹ cá
nhân.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức thẩm mỹ không chỉ
phản ánh tồn tại xã hội mà còn sáng tạo ra những giá trị mới và tác động tích
cực đối với sự phát triển của tồn tại xã hội. Ý thức thẩm mỹ không chỉ cung
cấp cho chúng ta một hình ảnh đúng đắn và gợi cảm về thế giới mà còn phác
họa và dự báo cho con người con đường vươn tới một thế giới mới đẹp hơn,
nhân đạo hơn. Như vậy, ý thức thẩm mỹ không chỉ là một hình thái nhận thức
thế giới mà là hình thái tự nhận thức và tự hoàn thiện của con người. Có thể
nói ý thức thẩm mỹ đã nối dài ý nghĩa sự hiện hữu của con người trên mặt đất
này.
II. CẢM XÚC THẨM MỸ
Đó là trạng thái xúc động trực tiếp nảy sinh khi con người tri giác các
khách thể thẩm mỹ: thiên nhiên, con người, các sản phẩm lao động, các công
trình nghệ thuật.
Cảm xúc thẩm mỹ có thể là niềm hân hoan, vui sướng, thích thú trước
cái đẹp; là nỗi đau xót, mến phục, thương tiếc trước cái bi; là niềm cảm phục,
tôn kính trước cái cao cả... Đó là dấu hiệu thường trực xác nhận sự có mặt
của quan hệ thẩm mỹ, là biểu thị đầu tiên của ý thức thẩm mỹ trước thế giới.
Đồng thời, cảm xúc thẩm mỹ cũng là bằng chứng nói lên khả năng cảm thụ
thẩm mỹ của con người trước các hiện tượng thẩm mỹ trong thiên nhiên, xã
hội và đời sống tâm linh, là bằng chứng xác nhận rằng con người không "tật
nguyền về cảm quan" trước cái đẹp! Qua cảm xúc thẩm mỹ con người khám
phá ra vẻ đẹp của thế giới và của chính mình, đồng thời bước đầu "nhân hóa"
thế giới và nhân hóa chính mình.
Khởi nguyên của cảm xúc thẩm mỹ là một nguồn kích thích mà đối
tượng gây ra cho chủ thể. Đối tượng thẩm mỹ tác động đến chủ thể sẽ tạo ra
sự tiếp nhận phản ứng về mặt tình cảm với hai khả năng tích cực hoặc tiêu
cực. Lúc cảm xúc thẩm mỹ xuất hiện cũng là lúc đối tượng không còn là sự -
vật - tự - nó mà trở thành sự - vật - cho - ta và ý thức trở thành ý - thức – về!
Không có nguồn kích thích của đối tượng thì tất nhiên không có cảm xúc thẩm
mỹ; nhưng nếu không có ý hướng của tinh thần về phía đối tượng thì cũng
không thể có cảm xúc thẩm mỹ.
Như vậy cảm xúc thẩm mỹ không chỉ đơn giản do các khách thể tương
ứng sinh ra, mà là kết quả sự nhập cảm của ý thức chủ thể vào đối tượng. Ý
thức thẩm mỹ dường như thâm nhập vào các đối tượng này, bộc lộ và phân
phát "bản chất người" của nó vào toàn bộ cấu trúc của đối tượng bằng một
sự thấm đẫm sâu sắc. Nói cảm xúc thẩm mỹ biến thế - giới - tự - nó thành thế
- giới - cho - ta là vì vậv.
Vấn đê khả năng nhập cảm của con người là nội dung của lý thuyết mỹ
học - tâm lý học với các nhà tư tưởng có tên tuổi như Fisher, Lipps... Các nhà
mỹ học này cho rằng sự nhập cảm là cơ sở của cảm xúc thẩm mỹ. Theo
Fisher, nhà mỹ học người Đức, sự nhập cảm chính là mối quan hệ giữa cảm
xúc nội tại với sự tri giác hình thức bên ngoài, là sự phản chiếu của tình cảm
trên những hình tượng được chủ thể tiếp nhận. Fisher còn đẩy ý tưởng đó đi
xa hơn đến chỗ cho rằng bản chất của đối tượng được tiếp nhận chính là kết
quả của sự di chuyển trạng thái tình cảm của chủ thể đến đối tượng. Như
vậy, thiên nhiên tự nó không vui không buồn, chỉ có con người đem cái buồn
của mình mà trải lên cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(NGUYỄN DU)
hay:
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong
(THÂM TÂM)
Về phương diện tâm lý học, Lipps, nhà tư tưởng người Đức, xác định
mối quan hệ giữa cảm xúc thẩm mỹ với cơ chế cảm xúc của tâm lý con người
và khẳng định rằng con người chỉ nhận ra được các giá trị thẩm mỹ trong
những hình tượng cảm tính phản ánh chính bản thân mình, một sự phản ánh
trực tiếp và năng động của chủ thể. Theo Lipps, sự nhập cảm chính là một
tình cảm tự thân được đối tượng hóa. Trong sách Tâm lý văn nghệ, Chu
Quang Tiềm gọi đây là thuyết Di tình tác dụng hay là Vật ngã đồng nhất.
Sư kích thích của đối tượng làm nảy sinh ra cảm xúc thẩm mỹ hoàn
toàn khác với sự kích thích có tính chất sinh lý. Cảm xúc thẩm mỹ là nỗi xúc
động và niềm vui tinh thần, hoàn toàn khác với sự thỏa mãn của con người
khi đang lạnh mà được sưởi ấm, đang đói mà được cho ăn no. Bản chất của
cảm xúc thẩm mỹ là sự tổng hòa những yếu tố tinh thần bao gồm tình cảm,
nhận thức, cả truyền thống văn hóa mà một con người tiếp thu được.
Sự rung cảm của con người trước những ấn tượng thẩm mỹ nhận
được là một điều kiện không thể thiếu trong sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ
thuật. Nếu không có cảm xúc, người sáng tác sẽ sản sinh ra những tác phẩm
nghèo nàn, mất máu, thiếu sức sống Nguyên lý này phù hợp không chỉ với
các thể loại trữ tình vốn bộc lộ tâm trạng con người, mà còn với tất cả các loại
hình nghệ thuật và thể loại văn học.
Về phía người thưởng thức và phê bình nghệ thuật, cảm xúc thẩm mỹ
cũng là một yếu tố tiên quyết để nắm bắt giá trị đích thực của tác phẩm. Ở
đây, các khái niệm lý luận, kiến thức khoa học... rất cần thiết để cảm thụ nghệ
thuật, nhưng nhiều khi không đủ để tiếp cận cái hay, cái độc đáo của tác
phẩm. Năng khiếu của nhà phê bình gắn liền với sự trực cảm, với những ấn
tượng tươi mới, những rung động xuất phát từ đáy sâu tâm hồn. Chúng ta
hiểu vì sao cho đến nay Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh vẫn được xem là
công trình phê bình xuất sắc nhất về phong trào Thơ Mới 1932 - 1945.
Tuy nhiên theo A. Buliough, nhà Mỹ học người Anh, cảm xúc thẩm mỹ
còn phụ thuộc vào một yếu tố quan trọng mà ông gọi là khoảng cách tâm lý
(distance psychologique). Một mặt, nếu giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng
thẩm mỹ có một khoảng cách quá xa, thì chủ thể không thể lĩnh hội được giá
trị thẩm mỹ của đối tượng và không thể nào có thái độ cộng hưởng với cái
đẹp. Đó chính là trường hợp chủ thể đứng ngoài đời sống thẩm mỹ của đối
tượng, trở thành người bàng quan, dửng dưng không cảm xúc.
Mặt khác, nếu giữa chủ thể và đối tượng có một khoảng cách quá gần
thì dễ nảy sinh ra một động cơ thưởng ngoạn có tính chất thực dụng. Hậu
quả của tình trạng này là sự đồng nhất đối tượng thẩm mỹ với hiện thực, dẫn
đến lời phê bình chiếu nội dung nghệ thuật với thế giới thực tại, đồng nhất
nguyên mẫu với nhân vật, ngôn ngữ văn chương với ngôn ngữ toàn dân, thời
gian nghệ thuật với thời gian vật lý.
Trong nghệ thuật, khoảng cách tâm lý gắn liền với việc tổ chức tác
phẩm sao cho chủ thể tiếp nhận không có ảo tướng về tính hiện thực của nó
mà luôn luôn ý thức về tính ước lệ của sự sáng tạo. Chẳng hạn trong hội họa,
luật phối cảnh cho phép thể hiện không gian ba chiều của đối tượng lên mặt
tranh, đồng thời giới hạn bức tranh trong cái khung để tách nó ra khỏi không
gian hiện thực. Trong sân khấu, nhà đạo diễn, tác giả kịch bản, các diễn viên,
người hóa trang một mặt tạo cho khán giả ấn tượng về một thế - giới – giống
– như - thật đang diễn ra trước mắt mình; mặt khác lại phá hủy thế giới đó
thông qua những phương tiện như mặt nạ, cảnh trí, ánh sáng v.v... Với kịch
tự sự biện chứng của B. Brecht, nhà viết kịch người Đức, thì vai trò của
khoảng cách tâm lý này càng được nhấn mạnh bằng thủ pháp "lạ hóa" nhằm
"đánh thức" khán giả để họ tỉnh táo suy xét các hiện tượng đang xảy ra trước
mắt và giữ một khoảng cách cần thiết mà nhận định và phê phán các diễn
biến của vở kịch thay vì rơi vào ảo tưởng đồng nhất giữa sân khấu và cuộc
đời.
Nói theo L. Feuerbach, triết gia người Đức, nghệ thuật không bao giờ
đòi hỏi phải thừa nhận nó như là hiện thực. Vì vậy, khoảng cách tâm lý là một
điều kiện cần thiết để làm cho tác phẩm trở thành đối tượng của sự suy
ngảm, chiêm nghiệm, và cho phép chúng ta đánh giá sự tái hiện nghệ thuật
đối với thế giới cũng như tính cách của các nhân vật và quan niệm nghệ thuật
của tác giả. Đồng thời một khoảng cách tâm lý thích ứng cũng sẽ tạo nên hiệu
quả của việc "đồng sáng tạo" của công chúng đối với tác phẩm nghệ thuật,
làm cho họ có khả năng tiếp nhận tác phẩm từ cấu trúc bên trong và đưa tác
phẩm vận hành vào trong đời sống. Theo ý nghĩa đó, việc xem nhẹ vấn đề
khoảng cách tâm lý trong bất kỳ trường hợp nào cũng đều có hại cho nghệ
thuật.
Với tư cách là thành tố cơ bản của ý thức thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ
có quan hệ mật thiết với năng lực trực quan của con người. Nếu cảm xúc
thẩm mỹ là dấu hiệu về -sự giao tiếp của chủ thể với đối tượng, thì điểm xuất
phát của sự giao tiếp đó chính là cái nhìn có tính chất trực quan của chủ thể.
Điều này vô cùng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật, bởi vì nếu cái nhìn
trực quan này mà chính xác thì người nghệ sĩ mới có cơ may đạt đến sự
phong phú và chân thực của hình tượng nghệ thuật. Nhà danh họa Matisse
từng nói: "Đối với người nghệ sĩ thì sự sáng tạo bắt đầu từ cái nhìn. Nhìn
chính là một hành động sáng tạo đòi hỏi sự căng - thẳng - của tư duy".
Trực quan thẩm mỹ còn có ý nghĩa như một hình thức độc lập của hoạt
động thẩm mỹ tinh thần. Hình thức này đặc biệt phát triển trong nền văn hóa
và nghệ thuật các nước phương Đông, nơi mà những yếu tố duy lý có vai trò
rất mờ nhạt trong sáng tạo nghệ thuật. Chúng ta không mấy khó khăn để
nhận ra điều đó qua tranh thủy mạc của Trung Quốc, thơ Thiền thời Lý - Trần,
thơ Tagore, tiểu thuyết Kawabata...
Nảy sinh trong quá trình khám phá thẩm mỹ đối với thế giới và con
người, cảm xúc thẩm mỹ đá tác động tích cực đến sự hình thành những đặc
điểm của con người phát triển toàn diện và hài hòa. Cảm xúc thẩm mỹ góp
phần quan trọng vào việc điều tiết các chức năng tâm lý và sinh lý của con
người, giúp con người được thanh lọc về mặt tình cảm, đạo đức và tâm linh
để vươn tới đỉnh cao về nhân cách. Vì vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
hình thành cảm xúc thẩm mỹ tích cực và năng lực trực quan thẩm mỹ nhạy
bén ở con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của văn hóa
thẩm mỹ. Điều này có ý nghĩa đặc biệt thời sự trong hoàn cảnh nhân loại
đang đứng trước nguy cơ của sự tàn phá môi trường sinh thái như hiện nay.
III. THỊ HIẾU THẨM MỸ
Là một bộ phận hợp thành của ý thức thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹv thể
hiện sự bằng lòng và hứng thú của chủ thể khi tiếp nhận và đánh giá các đối
tượng thẩm mỹ nhất định. Trong thị hiếu thẩm mỹ, những cảm xúc thường có
ở một con người đã đi vào thể ổn định và hợp thành một thực thể tương đối
bền vững để biến thành sở thích thẩm mỹ của người đó.
Thị hiếu thẩm mỹ là một hiện tượng xã hội - lịch sử, trong đó kết hợp
những yếu tố có tính nhân loại, những yếu tố thuộc về tầng lớp, giai cấp, giới
tính và những yếu tố cá nhân. Nhấn mạnh một yếu tố này mà xem nhẹ các
yếu tố kia đều rơi vào quan điểm phi lịch sử và phiến diện. Thị hiếu thẩm mỹ
của một thời đại, một cộng đồng người luôn luôn biểu hiện thông qua những
thị hiếu cá nhân đa dạng, riêng biệt, độc đáo. Về phần nó, thị hiếu thẩm mỹ cá
nhân hình thành trên cơ sở kinh nghiệm thẩm mỹ của nhân loại, thời đại và
cộng đồng; đồng thời bao hàm những kinh nghiệm mới mà chính cá nhân đó
nếm trải khi tiếp xúc với đời sống thẩm mỹ không ngừng biến đổi và phát
triển.
Nếu cảm xúc thẩm mỹ thiên về khía cạnh trực giác, cảm quan và tình
cảm; thì trong thị hiếu thẩm mỹ đã có sự hòa hợp và cân bằng giữa cảm tính
và lý tính, giữa trực giác tức thời và sự nghiền ngẫm lâu dài. Vì vậy, chỉ
những người có trình độ văn hóa sâu, có sự từng trải và kinh nghiệm phong
phú, có đời sống đạo đức - tinh thần lành mạnh mới có thể có thị hiếu thẩm
mỹ cao quí. Ngược lại, những kẻ què quặt về kiến thức và tâm hồn, nghèo
nàn về kinh nghiệm sống, buông thả về mặt đạo đức thì nhất định sẽ có thị
hiếu thẩm mỹ thấp kém.
Thị hiếu thẩm mỹ là một hình thái biểu hiện năng lực và nhu cầu tinh
thần của cá nhân. Và sở dĩ một cá nhân ưa thích những hiện tượng thẩm mỹ
nào đó là do người ấy đã tiếp nhận một nền giáo dục có những thói quen, tính
cách, kinh nghiệm sống và giao tiếp nhất định nào đó. Chính là dưới ảnh
hưởng từng bước, diễn ra hằng ngày của môi trường chung quanh, của lối
sống của những nhân tố thẩm mỹ trong lao động và sinh hoạt, và nhất là của
nghệ thuật, mà thị hiếu thẩm mỹ của một cá nhân được hình thành. Không
phải ai khác hơn là chính các nghệ sĩ, bằng hoạt động sáng tạo và những tác
phẩm nghệ thuật đích thực của mình, góp phần quyết định vào việc nâng cao
thị hiếu thẩm mỹ của công chúng. Theo ý nghĩa đó, thị hiếu nghệ thuật là biểu
hiện tập trung nhất, là hạt nhân của thị hiếu thẩm mỹ.
Những xã hội văn minh và dân chủ luôn luôn coi trọnc việc nâng cao thị
hiếu thẩm mỹ của con người, đồng thời với việc bảo vệ sự phát triển đa dạng
của thị hiếu đó. Một mặt cần phải đấu tranh chống lại sự thỏa hiệp với những
thị hiếu thấp kém, tầm thường làm mục ruỗng đời sống tinh thần của con
người. Không nên xem việc cho ra đời những cuốn sách nhạt nhẽo, những bộ
phim vô vị là chuyện bình thường. Tình trạng đó kéo dài và trở nên phổ hiến
như trong đời sống văn hóa nghệ thuật ở nước ta hiện nay cần phải xem như
một căn bệnh trầm kha sẽ kéo cả xã hội đi xuống vực thẳm của sự suy sụp về
tinh thần và đạo đức.
Mặt khác, phải kiên quyết bảo vệ sự tồn tại và phát triển hợp pháp của
các thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh đa dạng. Xã hội cũng sẽ rơi vào sự tàn tạ về
văn hóa nếu nó chứa đựng nguy cơ bào mòn tất cả mọi khía cạnh độc đáo
muôn màu muôn vẻ của thị hiếu, để chỉ còn một loại sở thích độc tôn. Đối với
một nền nghệ thuật, không có gì đáng sợ cho bằng khi nó bị đầu độc bởi sự
giáo điều và đơn điệu. Lúc đó, con người bị tước mất khả năng chọn lựa,
những khát vọng của nó về cái đẹp bị vo tròn cho vừa với những cái khôn
đóng sẵn giống như những cái giường của Procuste.
Trên lĩnh vực nghệ thuật, quan điểm "văn nghệ phục vụ công nông
binh" ngày nay đã không còn có sức thuyết phục nữa. Nói theo một nhà
nghiên cứu, văn hóa là "hóa thành văn", nghĩa là phải làm cho cuộc sống vật
chất và tinh thần của con người mang cái vẻ đẹp vẻ sáng của văn minh, chứ
không phải chỉ tạo ra những món ăn vừa khẩu vị của tầng lớp "công nông
binh". Mỗi nền văn hóa phong phú đa dạng mới dẫn đến sự phong phú, đa
dạng về thị hiếu, thẩm mỹ. Và ngược lại, có chấp nhận sự đa dạng, phong
phú của thị hiếu mới tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng, phong phú của
văn hóa... Một nền văn hóa khô cứng và công thức tất sẽ đẻ ra những thị hiếu
nghèo nàn, què quặt và ngược lại.
Vấn đề sự đa dạng của thị hiếu thẩm mỹ có liên quan tới một hiện
tượng tâm lý xã hội rất phức tạp và tế nhị là "mốt" (mode).
"Mốt" là hiện tượng thay đổi từng phần các hình thức biểu hiện của đời
sống văn hóa dưới ảnh hưởng của các nguyên nhân kinh tế, xã hội, tâm lý,
đạo đức, thẩm mỹ. Hiện tượng xã hội này diễn ra có tính chất định kỳ và
nhiều khi lặp đi lặp lại.
Phạm vi ảnh hưởng của "mốt" không chỉ hạn chế trong lĩnh vực y phục,
nơi "mốt" có một sức mạnh đăc biệt mà ai cũng thừa nhận. Nó xâm chiếm
ngay cả trong lĩnh vực sản xuất và chính trị, khoa học và nghệ thuật, tư tưởng
và tâm lý xã hội.
Trong khi thực hiện chức năng xã hội của mình, "mốt" đã góp phần làm
phong phú những hình thức truyền thống của đời sống văn hóa. Bằng cách
này hay cách khác, những tập quán tồn tại trong một xã hội nhất định vẫn
thường khúc xạ thông qua "mốt", đồng thời ngay trong những tập quán đó
vẫn lưu giữ những "mốt" bền vững nhất của quá khứ. Với tư cách là một hình
thức nhất thời trong ứng xử và hành vi của một cộng đồng người, "mốt" biểu
hiện phương thức, hành vi, chuẩn mực mà cộng đồng đó thực hiện trong một
khoảng thời gian nhất định.
Trong hệ thống các chuẩn mực xã hội - thẩm mỹ, vị trí của "mốt" chủ
yếu do tính chất của môi trường - xã hội qui định. "Mốt" luôn luôn được biểu
hiện, thông qua những hình thức đánh giá mang tính cụ thể - cảm tính, nhờ
vậy mà nó gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của con người thông qua một kiểu y
phục, một kiểu tóc, một cách ứng xử... "Mốt", do đó, phản ánh trình độ và đặc
điểm về thị hiếu thẩm mỹ của công chúng trong một giai đoạn lịch sử nhất
định.
Giữa "mốt” và lối sống của con người có mối quan hệ rất chặt chẽ. Điều
này thể hiện ở chỗ "mốt" là dấu hiệu bên ngoài của một nội dung cuộc sống
đang vận động. Thông qua các sở thích về y phục, âm nhạc, các điệu vũ...
người ta có thể thấy được sự thay đổi về quan niệm sống, về mức sống và về
lối sống.
Sự xuất hiện của "mốt" trong đời sống xã hội nhiều khi là một phép thử
cần thiết về tính bảo thủ cứng rắn của xã hội đó hay về khả năng thích nghi
của nó. Những công dân, trong đó có cả những trí thức, đại diện cho sự trì trệ
của xã hội thường là dị ứng với những "mốt" mà lớp trẻ lại nhiều khi vồ vập.
Nhà văn Nga J. Bondarev, chẳng hạn, có những phản ứng rất tiêu cực với sự
xuất hiện của cái quần jeans: ông cho đó là biểu hiện của văn hóa tiêu dùng,
làm thui chột nền văn hóa Nga. Tương tự như vậy, đã từng có những phản
ứng rất quyết liệt và thiếu công bình đối với các loại nhạc pop, nhạc rock, xem
chúng như là sản phẩm của văn minh suy đồi phương Tây. Nhưng ngày nay
nhiều người đều thấy rằng cái quần jeans cũng như nhạc pop, nhạc rock,
không có tội lỗi gì. Thậm chí cần phải thấy may mắn khi những sản phẩm đó
đáp ứng được đòi hỏi của công chúng trẻ, dù chỉ là một bộ phận hạn chế đi
nữa.
Tóm lại, không nên xem "mốt" như một hiện tượng thẩm mỹ thuần túy
mà còn là một hiện tượng xã hội. Theo Kant, khi con người chạy theo "mốt" là
nhằm chứng tó rằng mình cũng đáng chú ý không kém gì kẻ khác, nhằm ganh
đua để vượt lên kẻ khác. Giản lược bản chất của "mốt" chỉ như hiện tượng
thẩm mỹ thuần túy cũng sẽ không cho phép chúng ta giải thích một cách
thuyết phục nguyên nhân và ý nghĩa xã hội của nhiều hiện tượng văn hóa.
Chẳng hạn sự phổ biến những hình thức văn hóa phản thẩm mỹ bằng
phương tiện nghệ thuật hay thái độ hư vô chủ nghĩa khi phủ nhận những giá
trị văn hóa đích thực.
Trong xã hội ngày nay, sự phát triển về "mốt" cần phải được căn cứ
trên hành vi có ý thức của những cá nhân có khả năng chọn lựa và quyết định
một cách tự do, để "mốt" có thể tác động tích cực vào sự hình thành thị hiếu
thẩm mỹ cao đẹp thể hiện trong hành vi và lối sống của con người.
IV. LÝ TƯỞNG THẨM MỸ
Con người là một sinh vật không bao giờ bằng lòng với những điều
đang có trước mắt. Nó luôn luôn có khát vọng vươn tới sự hoàn thiện hoàn
mỹ trong viễn cảnh tương lai. Sự hoàn thiện hoàn mỹ đó có thể con người sẽ
không bao giờ đạt tới nhưng bao lâu con người còn đứng trên đôi chân của
mình thì bấy lâu vẻ đẹp lý tưởng còn có sức vẫy gọi nó đi về phía trước,
Lý tưởng - đó là ý niệm về sự hoàn thiện, là ước mơ về tương lai. Lý
tưởng phát huy sức mạnh của trí tuệ và ý chí con người, làm cho hành động
của con người vươn tới một mục tiêu rõ rệt. Sự thể hiện và thực hiện lý tưởng
đòi hỏi một tiền đề tất yếu là con người phải có tự do trong tất cả những hoạt
động thực tế của mình. Trong những lĩnh vực hoạt động đa dạng của con
người có thể nói đến lý tưởng xã hội - chính trị, lý tưởng đạo đức, lý tưởng
thẩm mỹ, Lý tưởng xã hội - chính trị là quan niệm về một cơ cấu xã hội hoàn
chỉnh và một chế độ chính trị tiến bộ nhất. Lý tưởng đạo đức là quan niệm về
những chuẩn mực của hành vi con người. Còn lý tưởng thẩm mỹ là quan
niệm mang tính cụ thể - cảm tính về sự phát triển tự do và đầy đủ nhất những
khả năng thể chất và tinh thần của con người, về vẻ đẹp hài hòa của đời sống
thiên nhiên và xã hội, về chuẩn mực cao nhất của sự hoàn thiện hoàn mỹ và
con đường để vươn tới đó.
Nếu cảm xúc thẩm mỹ nảy sinh từ sự tiếp xúc với những cái đẹp thực
tế, thì lý tưởng thẩm mỹ lại hướng tới cái đẹp trong ước mơ và khát vọng của
con người. Nó nêu bật hình ảnh về những giá trị thẩm mỹ mà con người cho
rằng cần phải có, cần nên có. Nếu thị hiếu thẩm mỹ là kết quả sự tổng hợp
những kinh nghiệm thẩm mỹ còn mang nhiều tính chủ quan, thì lý tưởng thẩm
mỹ là sự đúc kết mang tính khách quan và sâu sắc những kinh nghiệm không
chỉ của một con người, một tầng lớp xã hội mà còn của cả một thời đại nhất
định.
Lý tưởng thẩm mỹ có hình thức biểu hiện rất đặc biệt. Các lý tưởng xã
hội - chính trị, đạo đức thường được diễn tả bằng những khái niệm, phạm trù
trừu tượng; chẳng hạn: "Lý tưởng của tôi là nước cộng hòa", "Lý tưởng đạo
đức của xã hội phong kiến là trung, hiếu, tiết, nghĩa"... Còn lý tưởng thẩm mỹ
thì có liên quan mật thiết đến quan hệ cảm tính của con người với môi trường
chung quanh, nên có hình thức biểu hiện mang tính cụ thể cảm tính, mà nếu
thiếu nó, sẽ không thể tạo ra ấn tượng về hình ảnh cái đẹp cần phải có, cái
đẹp trong ước mơ.
Trong lý tưởng thẩm mỹ, chiều sâu của sự nhận thức về qui luật phát
triển của cuộc sống, về viễn cảnh tương lai được kết hợp một cách hài hòa
với tính trực quan của hình tượng và sự cá thể hóa. Chẳng hạn lý tướng thẩm
mỹ của xã hội nguyên thủy được biểu hiện thông qua hình tượng con người
chinh phục các bộ lạc và giành được ngọn lửa thiêng trong tay thần linh. Lý
tưởng thẩm mỹ trong xã hội Hy Lạp thời cổ đại được nêu bật qua hình ảnh
nhà hiền triết thông thái hay người công dân anh hùng, gan dạ như Achille
trong Iliade. Đối với xã hội phong kiến thời Trung cổ, hiện thân của lý tưởng
thẩm mỹ là người hiệp sĩ và nhà tu hành. Thời Phục hưng để lại dấu ấn về lý
tưởng thẩm mỹ qua những cá tính phát triển hài hòa mà L. de Vinci, Rafael,
Michel Ange... đã xây dựng nên. Trong thời đại của chủ nghĩa cổ điển, lý
tưởng thẩm mỹ được phản ánh trong những hình tượng thể hiện quan niệm
cao cả về nghĩa vụ như những nhân vật trong kịch của Corneille, Racine...
Trong văn học thời đại Ánh sáng, lý tưởng thẩm mỹ gắn liền với những hình
tượng nhân vật đại diện cho lý trí như Faust của Goethe, Robinson của
Defoe...
Lịch sử tư tưởng mỹ học đã ghi nhận Vinckelmann và sau đó Lessing là
những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "lý tưởng thẩm mỹ". Nhưng bản
thân vấn đề lý tưởng thẩm mỹ thì Platon đã từng đặt ra khi ông nêu lên tiêu
chí của sự đánh giá thẩm mỹ gắn liền với những lý tưởng vĩnh cữu và bất
biến về cái đẹp. Những tiêu chí này thoát khỏi tính chất cảm tính và chủ quan
của cá nhân. Sau Platon, Aristote cho rằng người nghệ sĩ cần phải xây dựng
lý tưởng thẩm mỹ cho mình bằng cách bắt chước ở những mẫu người khác
nhau một số đặc điểm hoàn thiện nào đó. Trong xã hội Hy Lạp cổ, lý tưởng
thẩm mỹ có liên quan đến ý niệm về sự hài hòa giữa tâm hồn và "thể xác bên
trong" và bên ngoài. Nhưng đến mỹ học thời Trung cổ thì khái niệm lý tưởng
thẩm mỹ lại gắn liền với khái niệm tinh thần như là tiêu chí cao nhất để đánh
giá hoạt động nghệ thuật và được thể hiện thông qua nội dung mang tính chất
tôn giáo, đặc biệt là trong hội họạ và kiến trúc.
Sang thời đại Phục hưng, lý tưởng thẩm mỹ mang một nội dung mới khi
mà con người, với sự phong phú về tình cảm và khả năng nhận thức của nó
được xem là tiêu chuẩn lý tưởng của cái đẹp. Như Shakespeare đã khẳng
định, "Con người là vẻ đẹp của thế gian, là kiểu mẫu của muôn loài". Thời
Phục hưng đã chứng kiến sự ra đời một trào lưu triết học, văn hóa, nghệ
thuật tiến bộ hướng đến việc giải phóng cá tính con người khỏi những ràng
buộc và sự trì trệ về tư tưởng của chủ nghĩa phong kiến và thần học Ki- tô
giáo. Thời kỳ này việc nghiên cứu vấn đề lý tưởng thẩm mỹ đã tiến xa hơn
một bước trong sáng tác của các nghệ sĩ cũng như trong công trình của các
nhà lý luận nghệ thuật. Họ đã khẳng định mối quan hệ giữa hiện thực và lý
tưởng trong nghệ thuật; đã hoàn thiện cái – đang - có bằng cách sáng tạo cái
– phải – có, cái – cần - có.
Mỹ học thời khai sáng đã mở rộng khái niệm "bắt chước tự nhiên" mà
Aristote đề xướng, bao hàm trong đó cả môi trường xã hội. Diderot,
Winckelmann, Lessing... tiếp tục phát triển theo cách của mình tư tưởng về
mối quan hệ giữa lý tưởng và hiện thực, lý tưởng và chân lý. Diderot là người
đầu tiên nhấn mạnh chức năng nhận thức của lý tưởng. Winckelmann cũng
như Lessing đã chỉ ra vai trò và ý nghĩa của lý tưởng thẩm mỹ trong việc nhân
thức bản chất của nghệ thuật cổ đại, đồng thời vạch ra sự khác biệt giữa vẻ
đẹp hình thức bên ngoài với lý tưởng tâm hồn bên trong. Winckelmann xem lý
tưởng thẩm mỹ như là mục đích của sáng tạo nghệ thuật, ông đặt lý tưởng
cao hơn cả chân lý. Còn Lessing thì khẳng định quan niệm hiện thực về cái
đẹp, ông cho rằng lý tưởng thẩm mỹ phản ánh chân lý đời sống.
Triết học duy tâm cổ điển Đức gắn liền việc nghiên cứu lý tưởng thẩm
mỹ với những vấn đề nhận thức luận cơ bản. Baumgarten đã xem lý tưởng
như một cái gì hoàn thiện, ông yêu cầu người nghệ sĩ phải mô phỏng tự nhiên
để có thể tiếp cận được lý tưởng. Sau Baumgarten, mỹ học ngày càng phân
biệt rõ ràng hơn khái niệm lý tưởng thẩm mỹ với sự hoàn thiện nghệ thuật
cũng như chất lượng nghệ thuật của tác phẩm.
Khái niệm lý tưởng thẩm mỹ được nghiên cứu một cách sâu sắc trong
mỹ học Hegel nơi mà phạm trù lý tưởng trở thành vấn đề trung tâm và có
quan hệ với sự thay đổi của Ý thức thẩm mỹ được nhà triết học xem như một
tiến trình lịch sử có tính chất tất yếu. Hegel là người đầu tiên đã xem xét lý
tưởng thẩm mỹ như một thái độ sống được nhận thức và diễn tả thông qua
nghệ thuật. Và nghệ thuật được ông xác định là sự biểu hiện lý tưởng về cái
đẹp trong hình thức cụ thể - cảm tính của hình tượng. Hegel cho rằng Hy Lạp
cổ là nơi mà tình trạng thế giới phù hợp với lý tưởng và nghệ thuật Hy Lạp là
nền nghệ thuật thực sự mang tính cổ điển. Trong thời đại mới, theo tư tưởng
của nhà triết học, nội dung xã hội phải được chuyển sang phạm vi cá nhân,
cái tinh thần sẽ thống trị cái cảm tính, tư tưởng nghệ thuật sẽ có tính chất trừu
tượng. Điều này sẽ dẫn đến sự thống trị của cái duy lý so với cái thẩm mỹ và
hậu quả sẽ là sự hủy hoại của bản thân lý tưởng thẩm mỹ.
Quan niệm duy tâm trên đây về lý tưởng thẩm mỹ đối lập với lý luận
của các nhà dân chủ — cách mạng Nga vốn khẳng định sự gắn bó giữa nghệ
thuật và đời sống và xem lý tưởng thẩm mỹ như là phương thức cải tạo hiện
thực. Theo V. Bielinski, không nên xem lý tưởng như một cái gì đưa vào từ
bên ngoài mà cần phải rút nó ra từ chính hiện thực. Ông cho rằng "lý tưởng
không phải là trò chơi ngẫu hứng của trí tưởng tượng, không phải là điều bịa
đặt, là những giấc mơ; đồng thời lý tưởng cũng không phải là bản sao chép
của hiện thực mà là khả năng của một hiện tượng nào đó được trí tuệ phỏng
đoán và trí tưởng tượng cảm nhận ra".
Herzen và Tchernychevski cũng có những đóng góp đáng kể vào việc
nghiên cứu lý tưởng thẩm mỹ. Đối với hai ông, lý tưởng là sự phản ánh trong
ý thức con người những xu hướng nổi bật của cuộc sống và những khả năng
căn bản của sự phát triển. Tehernychevski xem xét vấn đề ý tưởng thẩm mỹ
trong mối quan hệ mật thiết với vấn đề nhân vật lý tưởng: Mâu thuẫn giữa
hiện thực và lý tưởng, giữa cuộc sống như nó đang tồn tại với cuộc sống như
nó phải phù hợp với quan niệm của con người cần được nhà văn giải quyết
không phải bằng cách biến lý tưởng phải phục tùng hiện thực mà bằng cách
miêu tả hiện thực với tinh thần phê phán, từ lập trường của lý tưởng dân chủ
- cách mạng.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx đã xem xét vấn đề lý tưởng
thẩm mỹ như là vấn đề mối quan hệ giữa lý tưởng và hiện thực trong điều
kiện xã hội có mâu thuẫn giai cấp đối kháng. Các mục tiêu lý tưởng và khát
vọng của con người lần đầu tiên đã được đặt ra trong mối quan hệ với những
nhiệm vụ thực tiễn nhằm cải tạo thế giới. Marx và Engels đã phê phán tính
chất ảo tưởng của các lý tưởng mà đằng sau nó không có sự hỗ trợ của
những lực lượng xã hội hiện thực đặt cơ sở trên sự nhận thức những quy luật
lịch sử khách quan. Hai ông chỉ ra rằng tất cả những lĩnh vực của ý thức xã
hội và hoạt động thực tiễn đều có liên quan với phạm trù lý tưởng. Marx viết:
"Không phải con người chỉ thực hiện sự thay đổi hình thức trong những vật
liệu do tự nhiên cung cấp mà thôi; đồng thời con người còn thực hiện mục
đích có ý thức của chính mình, mục đích này chính là quy luật quyết định
phương thức và tính chất hành động của con người, nó bắt ý chí của con
người phải phục tùng vào nó".
Theo quan điểm mác-xít, giá trị của lý tưởng phụ thuộc trực tiếp vào
khả năng thực hiện nó trong lịch sử. Và lý tưởng thẩm mỹ chỉ được thực hiện
trọn vẹn không phải trong quá khứ mà trong tương lai. khi mà "sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"
(K. Marx).
Trong khi giữ nội dung độc lập và đặc trưng riêng của nó, lý tưởng
thẩm mỹ vẫn có liên quan mật thiết với lý tưởng xã hội. M. Gorki từng khẳng
định một ý kiến cho rằng "mỹ học là đạo đức học của tương lai". Bằng
phương thức nghệ thuật, người nghệ sĩ khám phá ra những khuynh hướng
phát triển của đời sống, đặt vấn đề về cái cần phải có. Và cũng như lý tưởng
xã hội hay lý tưởng đạo đức, lý tưởng thẩm mỹ được hình thành trong một
thời đại nhất định và mang một nội dung xác định về mặt lịch sử. Lý tưởng
thẩm mỹ tiên tiến của mỗi thời đại luôn luôn dựa trên những khả năng và tiềm
lực khách quan của thực tế.
Nhưng nếu lý tưởng xã hội trước hết là mục đích cơ bản của vận động
xã hội, nếu lý tưởng đạo đức là phạm trù về chuẩn mực; thì lý tưởng thẩm mỹ
đại diện cho tính tất yếu, phổ quát của cái đẹp, đồng thời vẫn bao hàm những
nội dung chủ yếu của lý tưởng xã hội và lý tưởng đạo đức.
Lý tưởng thẩm mỹ nói lên phẩm chất trung thực của cái đẹp khi nó thể
hiện vẻ đẹp của tâm hồn con người và tầm cao của nhân dân. Những người
sáng tạo ra lý tưởng và đấu tranh để khẳng định nó trong cuộc sống. Và giá trị
cao nhất, của lý tưởng thẩm mỹ được tim thấy thông qua ý nghĩa toàn nhân
loại của nó.
Để phán xét một con người về mặt lý tưởng thẩm mỹ, có thể căn cứ
trên thái độ đối với thế giới, căn cứ trên hoạt động và hành vi của người đó.
Còn để diễn đạt lý tưởng thẩm mỹ ở một mức độ đầy đủ nhất và làm cho
người khác có thể tiếp nhận được, thì phải bằng con đường của nghệ thuật
nơi mà mọi hiện tượng của đời sống đều được nhìn thông qua lăng kính của
lý tưởng thẩm mỹ.
Như trên đã nói, lý tưởng thẩm mỹ là quan niệm nghệ thuật về sự hoàn
thiện hoàn mỹ, là việc miêu tả cái đẹp như nó cần phải có. Trong tác phẩm lý
tưởng thẩm mỹ bộc lộ trong thế giới nghệ thuật được xây dựng từ mối quan
hệ với đời sống như nó đang tồn tại và như nó phải tồn tại theo quan niệm
của nhà văn. Điều đó có nghĩa là hiện thực được miêu tả không chỉ theo quy
luật của tính tất yếu lịch sử mà còn theo quy luật của cái đẹp. Lý tưởng thẩm
mỹ diễn ra toàn vẹn đầy đủ nhất tất cả khát vọng của con người trong những
điều kiện lịch sử nhất định chính là phương thức khám phá ra sự đa dạng của
cuộc sống. Trong khi xây dựng hình tượng nghệ thuật, người nghệ sĩ luôn
luôn đánh giá cái được miêu tả, khẳng định hoặc phủ định nó. Lý tưởng thẩm
mỹ đòi hỏi gắn liền chân lý đời sống với quan niệm về mục đích của nghệ
thuật.
Lý tưởng thẩm mỹ không thể tách rời với sự bộc lộ tình cảm và ước mơ
của con người về một tương lai tươi đẹp. Được thể hiện trong nghệ thuật, lý
tưởng thẩm mỹ trở thành phương thức dự báo sự vận động tiến hóa của xã
hội, phương thức bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cho con người. Hơn nữa,
lý tưởng thẩm mỹ còn có sức mạnh nêu gương, nó phác vẽ ra hoạt động cụ
thể của con người nhằm đạt đến những mục tiêu cao quý.
Vì vậy, trong nghệ thuật, lý tưởng thẩm mỹ của người nghệ sĩ thường
được hóa thân trong hình tượng những nhân vật tích cực (Prométhée trong bi
kịch của Eschille, Jean Valjean trong Những người khốn khổ của V. Hugo,
Dũng trong Đôi bạn của Nhất Linh...). Tuy nhiên, lý tưởng thẩm mỹ không
phải chỉ được khắc họa qua một hình tượng riêng biệt nào, mà bộc lộ trong cả
hệ thống tổ chức hình tượng - ngôn từ, trong toàn bộ cấu trúc nghệ thuật của
tác phẩm. Có những tác phẩm mà lý tưởng thẩm mỹ không phải là đối tượng
miêu tả trực tiếp, nhưng lại là mục đích của sự miêu tả. Dưới ánh sáng của lý
tưởng thẩm mỹ, những nhân vật và hình tượng tiêu cực đã bộc lộ ra sự tầm
thường, giả dối, ích kỷ, đê tiện của chúng. Như vậy, rõ ràng không phải tác
phẩm nào thiếu vắng những nhân vật mang lý tưởng thì tác phẩm đó cũng
thiếu vắng những nhân tố lý tưởng thẩm mỹ. Miêu tả những con người xa rời
khỏi lý tưởng, bóc trần sự suy đồi về nhân cách của họ, của nhà văn đã gợi
lên sự căm ghét và phản kháng đối với sự tàn phá cái đẹp, gợi lên nỗi buồn
về lý tưởng. Đó là công lao của Molierè, Gogol, Santykov – Sedrin, Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thiệp...
Đặc trưng của lý tưởng thẩm mỹ trong nghệ thuật là sự thuyết phục của
nó không chỉ tác động tới lý trí mà còn tạo ra những âm hưởng về cảm xúc,
làm rung động trái tim con người. Vì thế, trong khi miêu tả những hiện tượng
và tính cách, dù là tích cực hay tiêu cực, người nghệ sĩ chân chính luôn luôn
gợi lên sự đồng cảm với lý tưởng thẩm mỹ của mình, làm cho công chúng trở
thành người đồng hành và người kế tục lý tưởng mà mình đề cao. Đó cũng là
đóng góp của nghệ thuật trong việc giáo dục thẩm mỹ cho con người.
Lý tưởng thẩm mỹ là một phạm trù xã hội - lịch sử, quan niệm về cái
đẹp thay đổi tùy theo chỗ đứng của người bảo vệ quan niệm đó. Bản thân
cuộc đấu tranh vì lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến cũng là cuộc đấu tranh vì tương
lai của nhân loại, vì con đường mà nhân loại phải dấn bước để thực hiện
những ước mơ và hoài bão của mình.
Chương 3. CÁC PHẠM TRÙ THẨM MỸ
Phạm trù thẩm mỹ là khái niệm thể hiện nhận thức khái quát của con
người về những hiện tượng thẩm mỹ trong tự nhiên và trong xã hội, ở con
người và trong nghệ thuật. Phạm trù rộng nhất là phạm trù cái thẩm mỹ được
xác định trong sự tồn tại cụ thể của các phạm trù hẹp hơn như: cái đẹp, cái bi,
cái hài, cái cao cả v.v... Theo ý nghĩa đó, cái thẩm mỹ là phạm trù chung nhất,
khái quát nhất bao gồm cả các phạm trù thẩm mỹ phổ biến (cái đẹp, cái cao
cà) tồn tại trong thiên nhiên, trong sản phẩm lao động, ở con người và trong
nghệ thuật; cũng như các phạm trù thẩm mỹ chỉ đặc trưng cho nghệ thuật (cái
bi, cái hài...). Hệ thống và số lượng các phạm trù thẩm mỹ cho đến nay vẫn là
vấn đề chưa được nghiên cứu đầy đủ và còn đang tranh cãi. Bên cạnh một số
phạm trù đã được thừa nhận rộng rãi từ lâu như cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái
hài, các phạm trù khác như: cái thẩm mỹ, cái anh hùng, cái toàn vẹn, cái hài
hòa v.v... cũng đang được khảo sát và đi dần vào các sách giáo khoa mỹ học.
Dưới đây, chúng ta chỉ dừng lại ở một số phạm trù chính.
I. CÁI ĐẸP
Cái đẹp là phạm trù trung tâm của mỹ học. Vị trí đó không phải do các
nhà lý luận xác lập mà do chính vai trò của cái đẹp trong đời sống quy định.
Điều đó cũng có nghĩa rằng cái đẹp trước hết chính là những đặc tính của thế
giới tồn tại trong thiên nhiên, trong xã hội, trong sản xuất vật chất và tinh thần,
trong nghệ thuật... Phạm trù cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách
quan trong đời sống, nhưng đồng thời nó cũng là một hình thức khái quát của
tư duy, thể hiện nhận thức của con người về loại đặc tính thẩm mỹ này của
các sự vật hiện tượng. Nhận thức này bao gồm nhiều mặt. Nhưng thông
thường nó bắt đầu bằng việc trả lời câu hỏi: cái đẹp là gì. Từ những quan sát
bình thường chỉ ra xem cái gì đẹp, cái gì xấu, đến chỗ rút ra xem cái đẹp là gì,
nhận thức con người phải trải qua một chặng đường dài từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, từ cụ thể đến khái quát. Quá trình này vốn đã
hết sức phức tạp, lại trở nên phức tạp và khó khăn hơn đối với lĩnh vực cái
đẹp ít nhất cũng do hai nhân tố sau đây. Trước hết, cái đẹp bao gồm rất nhiều
hiện tượng thuộc các loại khác nhau. Có cái đẹp của ánh trăng, ngọn núi, có
cái đẹp của ánh mắt, tà áo, có cái đẹp của ngôi nhà, cái đẹp của lời nói, cử
chỉ, cái đẹp của tâm hồn, tư tưởng v.v... Có cái đẹp ở trong tự nhiên, có cái
đẹp trong xã hội, có cái đẹp do con người làm ra, có cái đẹp nằm ngay trong
chính bản thân con người. Đâu là mẫu số chung cho tất cả các hiện tượng ấy,
đâu là công thức đúng cho mọi cái đẹp? Mặt khác, cái đẹp thuộc loại hiện
tượng rất tinh tế, đến với con người trước hết qua cảm giác, trực giác. Có
người ví cái đẹp với tình yêu, cảm nhận thì được nhưng rất khó lý giải, cắt
nghĩa. Vậy có cần và có thể có được một khái niệm, một định nghĩa về cái
đẹp không, hay ở đây chỉ nên để mặc nó trong "vương quốc" của cảm giác,
dành hoàn toàn cho sự thưởng thức trực tiếp để khỏi phải phá vỡ tính toàn
vẹn, đánh mất vẻ tươi nguyên của nó, như một số người quan niệm?
Lịch sử tư tưởng thẩm mỹ của nhân loại chứng tỏ rằng con người luôn
luôn tìm cách khắc phục những khó khăn trên đây để nắm bắt bản chất cái
đẹp. Goethe đã từng khẳng định: "Có thể có được khái niệm về cái đẹp và có
thể diễn tả được "khái niệm ấy". Nhưng trong quá trình đi tìm lời giải cho bài
toán trên đây, do sự đa dạng của đối tượng cũng như do những quan niệm,
những cách tiếp cận khác nhau, đã có nhiều đáp số, nhiều định nghĩa khác
nhau về cái đẹp.
Chẳng hạn, nhà triết học cổ Hy Lạp Aristote viết: "Cái đẹp nằm trong
kích thước và trong trật tự. Bởi vậy không có vật nào quá nhỏ cũng như quá
lớn mà lại có thể được coi là đẹp".
Nhà lý luận Đức thế kỷ XVIII là Herder thì nói: "Cốt lõi của toàn bộ cái
đẹp là chân lý, bất kỳ cái đẹp nào cũng cần dẫn tới chân lý và điều thiện".
Còn Gorki thì xác định: "Cái đẹp là sự phối hợp các chất liệu khác nhau
cũng như các âm, màu, từ ngữ - sao cho tác phẩm tạo ra được một hình thức
có thể tác động lên tình cảm và lý trí như một sức mạnh khơi dậy ở con người
sự ngạc nhiên, lòng kiêu hãnh và niềm sung sướng trước khả năng sáng tạo
của mình”.
Còn có thể dẫn ra đây rất nhiều định nghĩa nữa về cái đẹp. Có trường
hợp nó được giải thích như cái có ích, có trường hợp nó được đồng nhất với
cái chân hay cái thiện, có trường hợp lại hiểu như sự cân đối, hài hòa... Vậy
bản chất của cái đẹp nằm ở đâu? Để lĩnh hội được bản chất này, tốt nhất là
xem xét đối tượng dưới góc độ triết học. Bởi vì chỉ trong bình diện này chúng
ta mới thoát khỏi ấn tượng về vô số biểu hiện cụ thể của cái đẹp để đạt tới sự
khái quát về nó. Nếu làm như vậy, ở đây thay vào câu hỏi: cái đẹp là gì? sẽ
xuất hiện câu hỏi khác: cái đẹp do đâu mà có? Một vật đẹp là do nó có những
phẩm chất gì đó hay do thiện cảm của con người.
Các nhà duy vật cho rằng cái đẹp bắt nguồn từ đời sống, toát ra từ
những phẩm chất vật lý, hóa học của sự vật, hiện tượng. Từ đây họ thường
nhấn mạnh đến các khái niệm và kích thước, mức độ, tỉ lệ... Chẳng hạn nhà
mỹ học thời Phục hưng ở Italia là Alberti viết: "Cái đẹp là sự phù hợp, sự hòa
nhịp như thế nào đó giữa các phần trong cái tổng thể mà chúng tạo thành, sự
hòa hợp và hòa nhịp này phải đáp ứng những số liệu chặt chẽ, đáp ứng sự tổ
chức và bài trí mà sự hài hòa - tức cái nguyên lý tuyệt đối và khởi nguyên của
tự nhiên - đòi hỏi".
Ngược lại, các nhà duy tâm thì xem cái đẹp chỉ như cái được mang từ
bên ngoài vào sự vật, chứ không có cơ sở khách quan. Người theo quan
điểm duy tâm chủ quan thì khẳng định: "Cái đẹp không phải là phẩm chất tồn
tại trong bản thân sự vật; nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người quan sát nó".
Còn đối với các nhà triết học duy tâm khách quan thì hoặc đó là hình
ảnh, hồi quang của một cái gì siêu nhiên, thần thánh (Platon) hoặc là phẩm
chất đặc biệt của ý niệm tuvệt đối khi nó đã tìm được hình thức thể hiện phù
hợp nhất. (Hegel).
Khi nghiên cứu bản chất của cái đẹp, rõ ràng chúng ta không thể bỏ
qua những tiền đề duy vật, khẳng định những cơ sở khách quan của các cảm
giác thẩm mỹ. Đồng thời cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của những
nhân tố khách quan tạo nên phẩm chất thẩm mỹ của sự vật, hiện tượng, xem
đó là nguồn gốc duy nhất quyết định vẻ đẹp của chúng. Cần chú ý rằng cái
đẹp là một phạm trù giá trị. Một vật được coi là đẹp hay xấu phụ thuộc không
chỉ vào những phẩm chất nó vốn có mà còn vào quan hệ của chúng với con
người, với sự đánh giá căn cứ vào những thước đo do thực tiễn xã hội trong
từng thời kỳ lịch sử đặt ra. Sự đánh giá này rõ ràng mang tính chủ quan - một
thứ chủ quan tất yếu mà nếu thiếu nó sẽ không có ngay cả thực tiễn xã hội
của con người - song đồng thời không phải là thứ chủ quan tùy tiện, bởi vì nó
gắn liền không phai với ý muốn của mọi cá nhân riêng lẻ mà với tiêu chuẩn xã
hội - thực tiễn có tính khách quan rõ rệt.
Thừa nhận cơ sở tự nhiên của cái đẹp tức là trước hết thừa nhận vẻ
dẹp khách quan của màu sắc, âm thanh, đường nét, mảng khối, nhịp điệu
v.v... Từ đây sẽ xuất hiện những khái niệm về tiêu chuẩn thẩm mỹ như: sự
cân đối, tỉ lệ phù hợp, tính chất có mức độ, sự hài hòa.... Các tiêu chuẩn này
về cái đẹp trong nhiều trường hợp thường có cả cơ sở sinh lý của nó. Chẳng
hạn, một bản nhạc êm dịu làm thần kinh bớt căng thẳng, một bức tranh có
màu sắc hài hòa, tươi mới làm cho con người thấy phấn khởi, dễ chịu. Điều
này giải thích vì sao có hiện tượng cây thích "nghe" nhạc, rắn nghe nhạc, cá
nhảy múa theo nhạc... Nếu căn cứ vào đây để nói rằng sinh vật cũng có cảm
giác thẩm mỹ thì điều đó mới chỉ đúng một phần nhỏ. Quả thật sinh vật cũng
"thích" cái đẹp, nhưng chúng chỉ thích những yếu tố tự nhiên nào phù hợp với
sinh lý, bản năng của chúng mà thôi.
Đối với con người không phải chỉ như vậy. Bằng cớ là có những cái rất
cân đối, hài hòa nhưng không gây nên cảm xúc thẩm mỹ; trong khi nhiều sự
vật, hiện tượng không mang đặc tính gì đặc biệt có thể gây nên cảm giác dễ
chịu về sinh lý thì vẫn được xem là đẹp. Plekhanov dẫn ra tài liệu của các nhà
dân tộc học kể lại rằng. Ở nhiều bộ lạc Châu Phi, phụ nữ thường đeo vòng
sắt ở tay và chân. Đôi khi các thiếu phụ nhà giàu còn đeo ở mình hơn 16kg
đồ trang sức loại đó. Khi có người hỏi vì sao đeo nhiều đồ như thế, họ trả lời:
để cho đẹp. Lại có trường hợp khác, ở miền thượng lưu sông Dămberơ,
người dân nào không bẻ gãy các răng cửa ở hàm trên thì bị coi là xấu xí.
Điều đó chứng tỏ rằng cái đẹp không phải chỉ có cơ sở tự nhiên mà còn có cơ
sở xã hội. Bản chất của cơ sở xã hội này nằm ở chỗ con người đánh giá sự
vật, hiện tượng theo quan niệm của mình. Nhà mỹ học dân chủ cách mạng
Nga nổi tiếng Tchernychevski đã phát biểu một tư tưởng rất sâu sắc: "Một tồn
tại được gọi là đẹp - Ông viết - là tồn tại trong đó chúng ta nhìn thấy cuộc
sống đúng như quan niệm của mình,...
Có thể xuất hiện câu hỏi: nếu cái đẹp là cái phù hợp với quan niệm con
người thì quan niệm đó là quan niệm nào? Bởi vì quan niệm của con người
rất nhiều mặt: cái đẹp có thể gắn với quan niệm về chân lý, về đạo đức, về sự
duyên dáng v.v... Thực tế cho thấy, quan niệm về cái đẹp là một quan niệm
có tínn tổng quát rất cao. Cái đẹp gắn liền với ý niệm về những điều mong
ước, về cái có tính lý tưởng. Những gì là hình ảnh, dấu hiệu biểu hiện của cái
mà con người thiết tha mong muốn, khao khát đạt tới thường gợi ra cảm xúc
về cái đẹp. Cánh đồng lúa chín vàng đẹp vì nó nằm trong liên tưởng về một
mùa bội thu hứa hẹn, về sự no đủ mà người làm ruộng hằng mong mỏi, chờ
đợi. Cái cây tươi tốt, cành lá xum xuê đẹp vì nó là hình ảnh của sự sống sung
mãn mà con người bao giờ cũng mơ ước đạt tới. Nhà văn pháp Stendhal nói:
"Cái đẹp là sự mời gọi hạnh phúc" có lẽ cũng chính trong nghĩa như vậy. Cái
đẹp là một hình thức của ước mơ, của lý tưởng, nó thường mang trong mình
những yếu tố của cái được đánh giá ở mức cao nhất, tức là những cái ít
nhiều mang tính chất lý tưởng.
Chính vì vậy cái đẹp gắn rất chặt với khái niệm về sự hoàn thiện. Hoàn
thiện là tiêu chuẩn cao nhất của cái đẹp. Những gì đạt tới sự phát triển cao
nhất, trình độ cao nhất so với sự vật, hiện tượng cùng loại với chúng, thường
gợi ra cái đẹp. Trong một hàng cây, cái cây đẹp là cây phát triển đầy đủ, dồi
dào sức sống. Trong nhiều người, người đẹp là người mà sự sống đạt tới
mức phát triển cao, khỏe mạnh, cân đối, hoàn thiện cả về hình thể và đời
sống tinh thần. Điều này cũng giải thích vì sao sự hài hòa thường được xem
là đẹp. Cấu trúc về sự hài hòa, chính là cấu trúc lý tưởng của tự nhiên và đời
sống xã hội. Không hài hòa là trạng thái tạm thời, còn hài hòa là nguyên lý
phổ biến của sự sống, là cái đích lý tưởng mà mọi cấu trúc, từ thế giới vô cơ
đến hữu cơ đều vươn tới. Một sự vật có hình dáng hoặc tổ chức bên trong
hài hòa thường khơi gợi cảm xúc thẩm mỹ có lẽ vì trong cơ sở sâu xa của
mình nó gợi ra ý niệm về sự hoàn thiện, về cái mang tính chất lý tưởng. Tính
lý tưởng là một trong những đặc điểm vô cùng quan trọng của cái đẹp.
Dostoievski có một câu nói nổi tiếng: "Cái đẹp cứu thế giới". Nó không cứu
thế giới bằng sức mạnh vật chất, nhưng nó cứu bằng cách làm cho nhân loại
không bao giờ mất lòng tin vào những điều tốt đẹp, vào tương lai. Còn mơ
ước, còn hy vọng, còn tin có tương lai, con người sẽ vượt qua khó khăn, cải
tạo hoàn cảnh, biến đổi thế giới. Ở đây, khi xác định cái đẹp như trên, chúng
ta sẽ giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa cái đẹp, cái chân và cái thiện.
Rõ ràng không thể đồng nhất cái đẹp với cái chân hoặc chỉ với cái thiện. Cái
đẹp gắn liền với cả hai. So với sự giả dối, chân lý là cái đẹp, cũng như so với
điều ác, cái thiện là đẹp. Còn trong nội bộ cái chân hoặc cái thiện thì cái đẹp
lại tùy thuộc vào mức độ tính hoàn thiện, sự hài hòa, tính lý tưởng của chúng.
Đồng thời, khi xem xét cái đẹp như một phạm trù giá trị gắn nó không
chỉ với những thuộc tính vật chất khách quan mà còn với quan niệm của con
người về cái mong ước. Chúng ta phải tính đến vai trò của các yếu tố xã hội -
lịch sử mà quan niệm này tất yếu phải có. Nói cách khác, nếu cái đẹp là ý
niệm thì nó nhất định có quan hệ thế này hoặc thế kia với các quan điểm
chính trị - xã hội, với đặc điểm tâm lý dân tộc, với sở thích cá nhân của mỗi
người cũng như với sự thay đổi của lịch sử. Trước hết, phải thừa nhận rằng ý
niệm về cái đẹp trong những mức độ khác nhau, thường mang dấu ấn quan
điểm chính trị - giai cấp của con người. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì
một khi cái đẹp là sự đánh giá sự vật, hiện tượng theo tiêu chuẩn về mức độ
hoàn thiện và tính lý tưởng, thì trong một chừng mực nào đó quan niệm về sự
hoàn thiện và lý tưởng cũng có những nội dung rất khác nhau ở những người
có địa vị và quyền lợi xã hội khác nhau. Nói như vậy không có nghĩa là chúng
ta phủ nhận tất cả các yếu tố thẩm mỹ chung đối với mọi người và bao giờ
cũng phân định thật rạch ròi mọi hiện tượng theo ranh giới giai cấp để rồi từ
đó đi đến kết luận rằng cái đẹp đối với một giai cấp này không thể có bất cứ
khía cạnh nào đẹp với giai cấp khác.
Quan niệm về cái đẹp cũng mang sắc thái dân tộc rất rõ nét, nhất là ý
niệm về sự hài hòa cụ thể, về các phẩm chất tự nhiên của cái đẹp. Chẳng hạn
với dân tộc này màu vàng được ưa chuộng nhưng ở dân tộc khác, màu vàng
lại gắn liền với một định kiến nào đó không hay. Người nước này ưa cái đẹp
nhuần nhị kín đáo, người nước kia lại thích cái đẹp ồn ả, sôi động. Những
điều kiện tự nhiên - xã hội, tâm lý và tính cách dân tộc để lại dấu vết rất sâu
trong quan niệm về cái đẹp.
Riêng trong lĩnh vực thẩm mỹ, bên cạnh các yếu tố trên đây, cần phải
chú ý cả đến vai trò của sở thích cá nhân khi đánh giá cái đẹp. Người ta có
thể không thích cái mà mọi người thích, hoặc ngược lại, thích cái mà nhiều
người không ưa chuộng. Điều đó nên được tôn trọng. Song ở đây tuyệt nhiên
không được đồng nhất sở thích cá nhân với giá trị thẩm mỹ khách quan của
sự vật hiện tượng. Thích hay không thích tùy anh, nhưng không nên xem điều
đó đã là chân lý. Trong một bức thư gửi bạn. L. Tolstoi có lần viết: "Mấy hôm
rồi, để kiểm tra nhận xét của mình về Shakespeare tôi đọc "Vua Lia" và
"Hămlét" và nếu tôi đã từng có đôi chút hoài nghi rằng mình đã ghét
Shakespeare một cách không đúng, thì bây giờ sự nghi ngờ ấy đã hoàn toàn
biến mất. Hămlét quả thực là một tác phẩm thô bạo, phi đạo đức, bỉ ổi và vô
nghĩa". Chúng ta thấy rõ ràng ở đây nhà văn vĩ đại đã không đúng.
Cuối cùng là sự biến đổi lịch sử của quan niệm về cái đẹp. Một thể thơ
trước đây được xem là hay bây giờ không được ưa thích nữa. cách hát ấy
trước đây được ưa chuộng, ngày nay ít người còn thích. v.v... Điều đó hoàn
toàn hợp quy luật. Nó chỉ chứng tỏ sự phong phú và đa dạng của trí tuệ và
tâm hồn con người mà thôi. Có điều, ở đây cần lưu ý rằng, sự biến đổi của
quan niệm về cái đẹp không có nghĩa là cái đẹp sau cao hơn cái đẹp trước,
cái đẹp hôm nay cao hơn cái đẹp hôm qua. Vấn đề tiến bộ của các giá trị
thẩm mỹ hết sức phức tạp. Khi xem xét vấn đề này phải có quan điểm lịch sử
- cụ thể và phải nhìn con người như một chủ thể năng động, phong phú, luôn
luôn phát triển thông qua sự tác động qua lại với hoàn cảnh, qua thực tiễn.
Trong quá trình đó, những năng lực bản chất, những mặt khác nhau của con
người sẽ bộc lộ dần dần với tính chất độc đáo, không lặp lại nhưng đồng thời
cũng mỗi ngày một đa dạng hơn, sâu sắc hơn.
Cái đẹp là một trong những hiện tượng thẩm mỹ vô cùng phong phú và
có phạm vi bộc lộ rất rộng rãi. Nó bao gồm các lĩnh vực sau đây.
Thièn nhiên là nơi bắt đầu của mọi cái đẹp. Vẻ đẹp của mây, gió, trăng,
hoa, núi, sông là nguồn cảm hứng và đồng thời là đối tượng mô tả của nghệ
thuật. Vẻ đẹp của thiên nhiên ngày một phong phú là nhờ hoạt động thực tiễn
của con người. Chính trong mối quan hệ với thực tiễn đó, thiên nhiên mỗi
ngày lại có thêm nét đẹp mới. Nhiều hiện tượng thiên nhiên trở thành đối
tượng trực tiếp của cảm thụ thẩm mỹ, đi vào nghệ thuật là nhờ quan hệ của
chúng với thực tiễn. Chinh phục tự nhiên và bảo vệ thiên nhiên đang là một
trong những vấn đề sống còn của thời đại chúng ta và mai sau. Giữ gìn cái
đẹp của phong cảnh, môi trường là nghĩa vụ xã hội của mỗi công dân trong
thời đại hiện nay. Ở đây, thẩm mỹ đang trở thành đạo đức của ngay ngày
hôm nay.
Những sản phẩm do con người làm ra là "thiên nhiên thứ hai" (Gorki)
được sang tạo bằng bàn tay lao động của con người. Khác với cái đẹp của
thiên nhiên, cái đẹp của các sản phẩm, công trình có được không phải chỉ do
chúng gắn liền với những ý niệm nào đó về lý tưởng, về sự hoàn thiện mà vì
chính chúng được tạo ra theo những thước đo của sự hoàn thiện, theo những
khuôn mẫu lý tưởng. Cái đẹp này hết sức phổ biến, ở đâu có lao động là ở đó
cái đẹp có khả năng xuất hiện, bởi vì đây là quy luật chung của hoạt động
sáng tạo. Marx viết: "Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu
của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của
bất cứ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối
tượng: do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”.
Nói như thế không có nghĩa là bất cứ sự lao động nào cũng tất yếu sinh
ra cái đẹp. Từ cái đẹp nảy sinh một cách tự phát bên cạnh cái có ích, người
ta dần dần có ý thức tạo ra những ngành sản xuất chuyên biệt về cái đẹp.
Hiện nay trên thế giới các ngành mỹ học kỹ thuật hay mỹ thuật công
nghiệp (design) đang phát triển rất mạnh. Việc sản xuất hàng loạt theo một
dây chuyền công nghệ đang tạo ra nguy cơ hạ thấp chất lượng thẩm mỹ của
các sản phẩm, làm cho cảm thụ thẩm mỹ của con người trở nên đơn điệu,
nghèo nàn. Bởi vậy việc nâng cao chất lượng thẩm mỹ của các sản phẩm
công nghiệp không phải chỉ có ý nghĩa kinh tế - thương mại mà còn có ý
nghĩa nhân văn sâu sắc. Tạo ra một môi trường thẩm mỹ không phải chỉ bằng
cây cối, chim muông mà còn bằng những sản phẩm đẹp do con người làm ra,
từ lọ hoa đến ngôi nhà hoặc cả thành phố, là nhiệm vụ rất quan trọng. Đó
cũng là một hình thức giáo dục thẩm mỹ, cải tạo thị hiếu và bồi dưỡng sự
phong phú thẩm mỹ cho con người.
Cái đẹp trong hoạt động của con người thể hiện ở tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ vui chơi, giải trí đến cưới xin, ma chay, từ thể thao, hội
hè đến lao động sản xuất, thậm chí ở cả hoạt động quân sự. Ngày nay người
ta đã bắt đầu nói đến mỹ học trong thương nghiệp, mỹ học y tế, mỹ học thể
thao, mỹ học quân sự, v.v... Cái đẹp trong lĩnh vực này rất phong phú, nhiều
màu nhiều vẻ, nó phối hợp được cả vẻ đẹp của màu sắc, âm thanh, hình
dáng, cả vẻ đẹp bên ngoài với vẻ đẹp bên trong bắt nguồn từ những quan
niệm chính trị - đạo đức, những truyền thống, phong tục v.v... Mỗi trường hợp
như vậy đều đòi hỏi phải xem xét cụ thể riêng.
Cái đẹp của con người cũng là một đối tượng khảo sát của mỹ học.
Con người là sản phẩm của tự nhiên nên cũng có những vẻ đẹp mang tính
vật chất. Có thể gọi đó là vẻ đẹp bên ngoài, thể hiện trên khuôn mặt, ở hình
thể (chân tay, mắt, mũi, vóc dáng v.v...) và trang phục (quần áo, mũ nón, đồ
trang sức v.v...). Coi nhẹ vẻ đẹp này là không đúng. Song ngoài cái đẹp trên
đây, con người này có một vẻ đẹp khác – vẻ đẹp bên trong - toát ra từ hành
vi, hoạt động và toàn bộ thế giới tinh thần của nó. Văn hóa thẩm mỹ của lời
nói, cách cư xử, hành động là một trong những biểu hiện cao của trình độ văn
hóa của con người. Vẻ đẹp tinh thần là vẻ đẹp không nhìn thấy nhưng có thể
cảm thấy và nhận thức được. Nó bộc lộ trong sự hoàn thiện của các phẩm
chất đạo đức, trong tính nhân đạo và tiên tiến của các quan điểm chính trị - xã
hộ, trong sự phát triển cao của các năng lực tinh thần, của trình độ văn hóa,
trong sự hài hòa giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài. Phấn đấu làm cho
con người ngày mỗi ngày thêm đẹp đẽ, có điều kiện phát triển đầy đủ và hài
hòa - đó là mục tiêu cao cả và nhân đạo của xã hội văn minh.
Cái đẹp trong nghệ thuật thể hiện tập trung nhất quan hệ thẩm mỹ của
con người với hiện thực. Nói cách khác, trong bất kỳ hoạt động nào con
người cũng đều sáng tạo theo quy luật của cái đẹp nhưng không ở đâu quy
luật ấy lại bộc lộ rõ nét, không ở đâu việc sáng tạo ra cái đẹp lại chiếm một vị
trí quan trọng như trong nghệ thuật. Ở đây tạo ra cái đẹp là một trong những
mục tiêu chủ yếu mà nghệ sĩ đặt ra từ đầu. Nghệ thuật không phải là nơi độc
quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng nó là hình thức chuyên nghiệp, chuyên môn
hóa cao nhất, tập trung nhất, lãnh trách nhiệm nặng nề nhất trong việc thỏa
mãn nhu cầu thẩm mỹ của xã hội.
Chính từ đây xuất hiện đặc điểm đầu tiên của cái đẹp trong lĩnh vực
này - đó là sự hoàn chỉnh; tính gợi cảm, trau chuốt của các yếu tố hình thức
trong tác phẩm nghệ thuật. Xét về sự phong phú, tươi mới, nguồn gốc và tính
có trước mà rõ ràng cái đẹp của tự nhiên cao hơn cái đẹp của nghệ thuật.
Nhưng đứng về phương diện khác, thì lại không thế. Nhờ quá trình sáng tạo
theo nguyên tắc điển hình hóa mà nhiều sự vật hiện tượng của đời sống khi
bước vào nghệ thuật như trải qua một khoảng cách thần diệu, cái bình
thường cũng thành đẹp đẽ, cái vốn đã đẹp thì lại càng đẹp hẳn lên. Nghệ sĩ
thường góp nhặt, thâu tóm cái đẹp khắp nơi để tạo ra cái đẹp cho tác phẩm
của mình, bởi vậy tác phẩm thường có được vẻ hoàn thiện và sự hấp dẫn.
Hoàng Đức Lương nói: "Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp,
vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm
thường mà nếm được".
Đặc điểm thứ hai là so với cái đẹp trong thiên nhiên, thậm chí cả trong
lĩnh vực công nghiệp nữa. Các nhân tố vật chất tạo thành cái đẹp trong nghệ
thuật mang sắc thái biểu cảm rất rõ. Một màu hoa tự nhiên đẹp là do thuộc
tính vật lý của nó hoặc do những liên tưởng chủ quan mà người ngắm gán
cho nó. Còn trong bức tranh, một màu đẹp bên cạnh sắc độ dễ coi, thường
chứa đựng một điều gì đó mà nghệ sĩ chủ động, cố tình thể hiện trong nó. Bởi
vậy âm thanh tự nhiên và âm thanh âm nhạc, màu tự nhiên và màu hội họa
rất khác nhau.
Từ đây xuất hiện một đặc điểm quan trọng nữa của cái dẹp nghệ thuật
là sự thống nhất giữa nội dung được thể hiện và hình thức thể hiện nó. So với
cái đẹp trong tự nhiên, cái đẹp nghệ thuật là cái đẹp có tính nội dung. Tính nội
dung này thể hiện không phải chỉ ở chỗ cái đẹp trong nghệ thuật nằm cả trong
hình thức và nội dung được thể hiện, (cái đẹp thiên nhiên không có nội dung
này), mà còn ở chỗ, bản thân hình thức nghệ thuật cũng mang tính nội dung.
Đồng thời sự gắn bó giữa nội dung với hình thức ở đây chặt chẽ hơn so với
các sản phẩm khác do con người làm ra và cũng có cái đẹp. Nếu màu sắc
của chiếc máy cày chủ yếu mang tính trang trí, không phụ thuộc hoàn toàn
vào ý nghĩa, chức năng của nó và nếu thay đổi vẫn không ảnh hưởng đến
chức năng đó, thì ngược lại, trong tác phẩm nghệ thuật, thay màu này bằng
màu kia, thay âm này bằng âm khác, chữ này bằng chữ khác, đều làm biến
đổi tính chất và ý nghĩa của hình tượng. Ngược lại trong trường hợp nội dung
các phẩm sai lầm (chẳng hạn, tư tưởng được thể hiện là vô nhân đạo) chắc
lượng thẩm mỹ của nó cũng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng.
Cái đẹp trong nghệ thuật bộc lộ trước hết ở cái đẹp của hiện thực được
phản ánh. Đó có thể là vẻ đẹp của phong cảnh thiên nhiên, vẻ đẹp của con
người, của những hoạt động, của những tư tưởng, những tình cảm. Không
phải nghệ thuật chỉ truyền đạt cái đẹp. Nó viết, vẽ cả cái xấu. Song nói chung
cái đẹp vẫn là đối tượng chính của nghệ thuật. Nghệ sĩ nào cũng khao khát
ghi lại càng nhiều càng tốt, diễn tả càng đạt càng hay những cảnh đẹp, nét
đẹp trong cuộc sống, và thường thì những người sáng tác bao giờ cũng tìm
cách khuếch đại, phóng to lên để cái đẹp rực rỡ, lộng lẫy hơn.
Trong trường hợp phải mô tả cái xấu, cái ác, tác phẩm nghệ thuật vẫn
có thể trở thành đối tượng của sự cảm thụ thẩm mỹ nhờ hai cách. Thứ nhất là
nhờ vẻ đẹp của tư tưởng - tình cảm tác giả, vẻ đẹp của lý tưởng mà nhà văn
đã xuất phát khi mô tả, đánh giá cái xấu. Gogol, văn hào Nga thế kỷ XIX, tác
giả của vở kịch "Quan thanh tra", đã từng nói rằng trong tác phẩm này tất cả
các nhân vật đều là phản diện, chỉ có một nhân vật tích cực duy nhất - đó là
tiếng cười. Tiếng cười của nhà văn gắn liền với những lý tưởng xã hội tiến bộ,
xuất phát từ những tiêu chuẩn rất cao về con người, vì vậy nó cũng gắn liền
với sự hoàn thiện, với cái đẹp. Đồng thời, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, cũng
như trong bất kỳ trường hợp nào khác, không phụ thuộc toàn bộ vào đối
tượng mà nó miêu tả, đánh giá. Cái đẹp có thể toát ra từ bản thân hình thức
nghệ thuật của tác phẩm, trong kết cấu, bố cục, trong trình độ làm chủ chất
liệu, trong cách xây dựng nhân vật; tổ chức tác phẩm v.v... Tiêu chuẩn cơ bản
để xác định cái đẹp này là sự hoàn thiện về hình thức, kỹ thuật và sự hài hòa
của các phương tiện hình thức với nội dung cần thể hiện. Trong rất nhiều
trường hợp, đặc biệt là đối với những kiệt tác, sự hoàn thiện trình độ nghệ
thuật điêu luyện đem lại cho tác phẩm hiệu quả thẩm mỹ vô cùng to lớn.
Tuy nhiên không nên đồng nhất cái đẹp và nghệ thuật, không nên xem
xét cái đẹp chỉ trong nghệ thuật cũng như trong nghệ thuật chỉ thấy có vấn đề
cái đẹp. Đừng quên rằng nghệ thuật chỉ là một trong những lĩnh vực có cái
đẹp và ngbệ thuật không phải chỉ có nhiệm vụ tạo ra cái đẹp. Nghệ thuật là
một hoạt động tinh thần thực tiễn của con người, có nhiệm vụ góp phần thỏa
mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người, nhưng đồng thời cũng là một phương
tiện để giao tiếp, một hành động nhận thức, có khả năng tác động rất lớn đối
với con người và xã hội.
II. CÁI CAO CẢ, CÁI BI, CÁI HÀI.
1. Cái cao cả với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ bước vào lịch sử mỹ
học khá muộn. Chỉ trong thời đại Khai sáng nó mới có được ý nghĩa độc lập,
mặc dù những hiện tượng cao cả đã được phản ánh trong nghệ thuật rất sớm
và ngay trong thời cổ La Mã đã có công trình Bàn về cái cao cả của Longinus
(213 - 273). Cái cao cả là đặc tính của các hiện tượng, sự vật khách quan hay
là sản phẩm thuần túy của đầu óc con người? Tùy theo quan điểm triết học
khác nhau, các nhà mỹ học đã trả lời theo cách khác nhau.
Cái cao cả tồn tại khách quan, vốn là đặc tính của các sự vật, hiện
tượng trong mối quan hệ của nó đối với con người. Cái cao cả là cái có tầm
vóc lớn lao, phi thường, có thể gây ra ở con người cảm giác choáng ngợp,
chiêm ngưỡng, kính phục, đôi khi pha lẫn chút bối rối, sợ hãi. Cái cao cả có
trong tự nhiên dông bão, thác đổ, núi cao, sông rộng, trời xanh, biển động
v.v...). Trong xã hội (các biến động lịch sử, chiến công các vĩ nhân, anh hung
và trong nghệ thuật (hình tượng Prométhée trong tác phẩm Eschille hay hình
tượng Thánh Gióng trong truyện cổ Việt Nam v.v...). Phạm trù cái cao cả
không chỉ liên quan đến đặc tính của các sự vật, hiện tượng khách quan mà
còn có quan hệ với tình cảm chủ quan của con người. Có cái cao cả của núi
ngất trời, nhưng đồng thời cũng có cái cao cả của tình cảm, khát vọng. Trong
nghệ thuật, cái cao cả được tạo thành bằng cả hai nguồn đó.
Cái cao cả có những điểm gần gũi với cái đẹp. (Hellgel cho rằng cái
đẹp ở mức tuyệt đỉnh - đó là cái cao cả). Nét tương đồng chủ yếu giữa hai
loại hiện tượng này là cả hai đều gợi ra những cảm giác tích cực. Cái đẹp là
ước mơ, lý tưởng gần gũi, dịu dàng. Cái cao cả là lý tưởng cao siêu, con
người chủ yếu chỉ chiêm ngưỡng, hướng tới nhưng dường như không dám
mơ ước đạt tới. Đồng nhất cái cao cả với cái đẹp là tước mất tầm vóc, sự kỹ
vĩ của nó. Ngược lại, đối lập hai cái với nhau sẽ lam cho cái cao cả chỉ còn là
cái gì ghê gớm, đáng sợ mất đi chất lãng mạn, vẻ huyền bí rất hấp dẫn.
Cái cao cả rất cần cho đời sống. Nó làm cho cuộc sống không bị tầm
thường và nhỏ bé đi, làm cho thế giới hiện ra lúc nào cũng to lớn, hùng vĩ,
khó khăn nhưng cũng đầy cảm hứng về những thử thách, chiến công, sự
phiêu lưu và những hành động phi thường. Cảm giác về cái cao cả biến đổi
lịch sử, trong quá trình chinh phục tự nhiên và xã hội của con người; dòng
sông hôm qua chảy xiết hung dữ nay đã trở nên hiền hòa, núi ngày xưa cao
hiểm trở, không có dấu chân người, nay đã có đường xe lửa chạy qua, nhà
mọc ngay trên đỉnh. Nhưng cái cao cả không bao giờ mất, lại sẽ xuất hiện,
những hiện tượng mới chưa bị chinh phục, chưa được nhận thức. Sự sùng
bái, khuất phục hoàn toàn cái cao cả dễ dẫn đến thủ tiêu óc sáng tạo, tính tích
cực chủ quan, đến sự phục tùng mù quáng. Đồng thời coi thường cái cao cả,
không xem có cái gì thiêng liêng nữa cũng sẽ làm cho cuộc sống trở nên
buông thả, tầm thường.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật, nhất là nghệ
thuật trong những bước ngoặt trọng đại của lịch sử, là dấy lên ở con người
tình cảm cao cả, lớn lao: David của Michel Ange, Tự do trên chiến lũy của
Delacroix, Giao hưởng anh hùng của Beethoven, Hămlét của Shakespeare
v.v...
Nghệ thuật thấm nhuần chất lý tưởng nhưng không chấp nhận sự lý
tưởng hóa đơn điệu. Bằng cảm hứng anh hùng và lãng mạn chân chính, nó
chắp cánh cho con người bay tới những chiến công trong sự nghiệp cải tạo
hoàn cảnh và biến đổi thế giới.
2. Cái bi là một phạm trù thẩm mỹ, khác với bi kịch là một thể loại của
văn học kịch và sân khấu. Cái bi được đề cặp một cách sâu sắc và hệ thống
lần đầu tiên trong tác phẩm "Thi pháp học" của nhà lý luận cổ Hy Lạp Aristote.
Khi nói cái bi là một phạm trù thẩm mỹ, rõ ràng chúng ta thấy khái niệm
thẩm mỹ ở đây có nội dung rất khác với cái đẹp. Cái đẹp có cả trong tự nhiên
và xã hội, cái bi như một phạm trù thẩm mỹ chủ yếu chỉ có trong nghệ thuật.
Cái đẹp có cả trong nội dung và hình thức của nghệ thuật, còn cái bi chủ yếu
chỉ có trong nội dung tác phẩm. Cái đẹp thì vui, hào hứng, còn cái bi thì buồn,
đau thương, mất mát. Cái đẹp gắn với sự hài hòa, còn cái bi thì với sự xung
đột.
Bản chất của cái bi là sự xung đột. Nội dung cụ thể của xung đột này
thay đổi qua các thời kỳ lịch sử và có những biểu hiện độc đáo trong từng lĩnh
vực khác nhau. Chẳng hạn, trong nghệ thuật cổ Hy Lạp nó thường hiện ra
như mâu thuẫn giữa con người và định mệnh; trong chủ nghĩa cổ điển thì đó
là giữa dục vọng và nghĩa vụ; còn trong nghệ thuật phương Tây hiện đại thì
đó là xung đột giữa cá nhân và xã hội, con người và hoàn cảnh. Hoàn cảnh
này có thể được mô tả dưới dạng những lực lượng xã hội đen tối và độc ác
(như trong Chí Phèo của Nam Cao) hoặc những chuẩn mực đạo đức quan
phương trống rỗng, tàn nhẫn (như trong Anna Carenina của L.Tolstoi).
Do chỗ cái bi là sự xung đột giữa "tự do và tất yếu" nên nó không bị
hạn chế chỉ trong phạm vi cá nhân. Có những cái bi cá nhân (trong tình yêu,
gia đình) và có cả những cái bi lịch sử (như thất bại của phong trào yêu
nước). Trong lịch sử nghệ thuật thế giới, có những tác phẩm chủ yếu mô tả
số phận bi kịch của cá nhân, có những tác phẩm khác dành cho những xung
đột xã hội - lịch sử. Đồng thời cũng có những tác phẩm mà trong đó, đằng
sau cái bi cá nhân hiện ra cả những xung đột xã hội to lớn, mang tầm vóc lịch
sử. Hămlét của Shakespeare, chẳng hạn, là một trong các tác phẩm như vậy.
Cái bi thường gắn với sự mất mát, đau thương. Song không phải xung
đột nào dẫn đến mất mát đau khổ cũng đều mang tính bi. Nhà văn Anh thế kỷ
XIX. J.Ruskin có nói rằng thơ ca chỉ có thể lên tiếng về nỗi buồn của cô gái
khóc thương tình yêu trong trắng bị tan vỡ, chứ không thể viết về giọt nước
mắt của kẻ hà tiện đánh mất tiền. Cũng tương tự như vậy, nhân vật và lực
lượng bi kịch phải có sức mạnh lớn lao, phẩm chất cao cả, đại diện cho sự
phát triển tiến bộ của lịch sử, mang trong mình những lý tưởng đẹp đẽ, khát
vọng chân chính. Tính cách nhân vật bi kịch không thể yếu đuối, càng không
thể tiêu cực hoặc phản động. Sự kháng cự của những lực lượng đã mất hết ý
nghĩa tiến bộ, bị lịch sử bỏ rơi không còn chất bi, mà ngược lại chỉ mang tính
hài sâu sắc. Cái bi là sự mất mát, nhưng là sự mất mát của lý tưởng, của cái
cao cả, cái đẹp). Bởi vậy cái bi rất gần gũi với cái cao cả.
Việc thể hiện trong nghệ thuật những xung đột mang tính bi có ý nghĩa
nhận thức và giáo dục rất sâu sắc. Nó giúp chúng ta lĩnh hội cuộc sống trong
sự phong phú, phức tạp có thật của nó. Đồng thời khơi những tinh cảm cao
cả lành mạnh, kích thích những hành động mãnh liệt và sự tham gia tích cực
hoạt động thực tiễn.
3. Cái hài được nghiên cứu rất sớm. Các nhà tư tưởng thời cổ Hy Lạp
như Platon. Aristote đã xem xét và nêu lên những tư tưởng sâu sắc về đặc
điểm của cái hài. Quan niệm của Kant, Diderot, Schiller, Hegel,
Tchenychevski về cái hài, tuy ở mức độ khác nhau, nhưng đều chứa đựng
những kiến giải độc đáo. Nhiều điều cho tới ngày nay vẫn còn có giá trị. Việc
tìm hiểu cái hài thể hiện nguyện vọng muốn khám phá bản chất, của một kiểu
quan hệ đặc thù của con người đối với thế giới, một hình thức độc đáo của
nhận thức và đánh dấu hiện thực trong nghệ thuật, bởi vì khác với cái đẹp,
cái hài không phải là một phạm trù thẩm mỹ phổ biến mà trước hết là một
phạm trù thẩm mỹ của nghệ thuật.
Cái hài thường gắn bó với cái cười. Không thể hình dung cái hài thiếu
cái cười. Song cũng không phải cái cười nào cũng mang tính hài. Khi bị cù,
khi trong lòng cảm thấy sung sướng, thỏa mãn, người ta có thể cười. Đó là
cái cười thiên về bản năng sinh lý. Cái cười mang tính hài đòi hỏi trước hết
phải có một đối tượng cười, tức là cái có thể gây cười và bị cười. Vậy những
gì có thể gây cười? Trong cuộc sống rất nhiều hiện tượng có thể gây cười,
mỗi thứ một vẻ, hết sức đa dạng. Song nói chung những cái gây cười, xét về
bản chất là cái có mâu thuẫn hiểu như là sự đối lập, không cân xứng, không
hài hòa. Khái quát lại, đó có thể là mâu thuẫn giứa hình thức và nội dung,
giữa bộ phận với toàn thể, giữa ý nghĩa và phương tiện, giữa ước muốn và
khả năng thực tế, giữa cái được phép và cái không được phép, quen và
không quen, bình thường và không bình thường.
Có cái có thể gây cười rồi (đối tượng) lại còn phải có chủ thể cười. Đây
là mặt thứ hai - mặt chủ quan - của cái hài, không có nó, không có cái hài.
Bản thân đối tượng cười không thể gây nên tiếng cười nếu chủ thể không
nhận thức được những mâu thuẫn chứa đựng trong nó. Điều này giải thích vì
sao có người xem tranh vui, đọc truyện cười mà vẫn không cười, đến lúc hiểu
ra thì mới cười. Cái hài, do vậy là một kiểu nhận thức. Đặc điểm của loại nhận
thức gắn với tiếng cười là sự phát hiện ra một số loại mâu thuẫn nào đó trong
sự vật, hiện tượng và quan sát chúng ở một bình diện khác, từ một phía khác,
từ góc độ của cái buồn cười. Xét theo phép biện chứng, điều này có ý nghĩa
rất quan trọng. Platon đã từng viết: "Trong thực tế không thể nhận thức được
cái nghiêm chỉnh nếu thiếu cái buồn cười, và nói chung, cái đối lập được
nhận thức nhờ cái đối lập với nó!
Đồng thời, tiếng cười trong cái hài cũng mang khuynh hướng xã hội,
thể hiện không chỉ nhận thức mà còn cả thái độ. Cười là một hình thức chế
ngự cái xấu. Dám cười cái xấu tức là dám tin, tự khẳng định sự tốt đẹp của
mình hoặc ít ra thì cũng là tự thừa nhận ngẫm rằng cái xấu là xấu, là đáng
ghét, đáng cười. Cái hài là một hình thức đánh giá, thể hiện trình độ con
người làm chủ đối tượng, làm chủ bản thân mình - "Khi cười cái xấu, chúng ta
trở nên cao hơn nó”. Cái cười chân chính, bởi vậy không thể là vũ khí của kẻ
yếu, của những lực lượng đã mất hết vai trò lịch sử. Nó thuộc về chính nghĩa,
về tương lai.
Cái hài có nhiều loai. Sự đa dạng này phụ thuộc cả vào tính chất nhiều
màu nhiều vẻ của đối tượng có thể gây cười lẫn chủ thể cười. Nhìn chung có
mấy loại sau đây:
Hài hước: Ở đây cái cười xuất phát từ những mâu thuẫn bề ngoài và
mang tính chất nhẹ nhàng, thoải mái.
Dí dỏm: Cái hài ở đây có tính chất trí tuệ hơn, những sự đối lập gây
cười nằm sâu trong bản chất sự vật, hiện tượng hơn. Tiếng cười trong trường
hợp này có ý nghĩa nhận thức.
Châm biếm, mỉa mai: Tiếng cười ở đây bắt đầu mang màu sắc phê
phán nhưng mức độ còn nhẹ nhàng, không mang tính chất thù địch, nó dành
cho những hiện tượng buồn cười, thậm chí mù quáng nhưng có thể sửa chữa
được.
Đả kích: Loai hài này thể hiện khuynh hướng xã hội mạnh mẽ nhất. Sư
phê phán ở đây mang tính chất phủ định. Trong trường hợp này có thể không
có tiếng cười hoặc chỉ cười một cách nghiêm chỉnh.
Các loại cái hài trên đây đều có ý nghĩa xã hội riêng của mình. Không
nên coi thường tiếng cười hài hước, vui tươi nhẹ nhàng, xem nó như thứ gì
vô bổ. Mặt khác cũng phải chú ý sao cho tiếng cười không chỉ đa dạng phong
phú mà còn có ý nghĩa nhờ được có chất trí tuệ và khuynh hướng xã hội sâu
sắc.
Cái hài vượt ra ngoài khuôn khổ của nghê thuật. Nó thuộc lĩnh vực văn
hóa tinh thần chung của con người. Nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất của
cái hài. Nhưng cũng có khi "văn hóa cười” (chữ dùng của các nhà bác học Xô
Viết M.Bakhtin) của xã hội không bộc lộ trong nghệ thuật chính thống mà thể
hiện rất phong phú trong các sinh hoạt văn hóa khác và một phần trong văn
học dân gian, như thời kỳ trong thế ky ở châu Âu. Vấn đề vị trí của văn hóa
cười dân gian trong đời sống tinh thần của xã hội, cũng như ảnh hưởng, mối
quan hệ của nó với văn học viết, với các nhà văn, nhà thơ trào phúng là một
vấn đề rất hấp dẫn. Trải qua nhiều thế kỷ phát triển, nghệ thuật đã làm cho cái
hài phong phú hơn rất nhiều. Loại hình nghệ thuật nào cũng có các thể loại
hài. Chẳng hạn thơ trào phúng, truyện tiếu lâm trong văn học, hài kịch trong
sân khấu, tranh châm biếm" đả kích trong hội họa, phim hài trong điện ảnh
v.v... Các thủ pháp tạo cái hài cũng đa dạng và mỗi ngày càng được hoàn
thiện dần (nói thêm, nói bớt, tạo kết cấu bất ngờ, chơi chủ sử dụng động tác
ngoại hình, cử chỉ, nét mặt v.v,...).
Cái hài có ý nghĩa xã hội rất quan trọng, bởi vì tiếng cười gắn với nó,
xuất phát từ nhận thức và đánh giá đối tượng; sẽ đem lại niềm vui, sự sảng
khoái và do đó cũng là sức khỏe cho con người. Tiếng cười thể hiện sự thông
minh, sức mạnh và phẩm chất của con người. Hơn nữa tiếng cười còn là một
vũ khí phê phán các thói hư tật xấu và đấu tranh chống các lực lượng kìm
hãm tự do và sự phát triển của con người. Mức độ phổ biến của cái hài là một
trong những biểu hiện nói lên nhu cầu và trình độ dân chủ hóa của xã hội.
Chương 4. NGHỆ THUẬT NHƯ MỘT LĨNH VỰC THẨM MỸ
I. NGHỆ THUẬT – ĐỈNH CAO CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ CỦA CON NGƯỜI VỚI THẾ GIỚI
Như đã nói ở trên, cái đẹp có mặt trong nhiều lĩnh vực. Nhưng có lẽ
không ở đâu cái đẹp "hiện ra" đậm nét như là ở trong nghệ thuật. Nếu khi làm
một bộ bàn ghế, người ta quan tâm trước hết đến giá trị thực dụng của nó,
nghĩa là đến chỗ làm sao nó chắc chắn, ngồi không bị gãy, thuận tiện khi đọc
sách hay tiếp khách, rồi sau đó mới tính đến vẻ đẹp của nó, thì khi tạo ra một
tác phẩm nghệ thuật, sự việc diễn ra có hơi khác. Nghệ sĩ vẽ một bức tranh,
sáng tác một khúc nhạc hoặc viết một bài thơ, cuốn truyện, không phải chỉ
nhằm bộc lộ tình cảm, ý nghĩ của mình và ghi lại những sự kiện, những cảnh
đời mà còn muốn đồng thời, tạo ra một cái gì đẹp đẽ, gây được đến mức cao
nhất hứng thú thẩm mỹ, có sức hấp dẫn và lôi cuốn người xem, người nghe,
người đọc. Nói cách khác, việc đem lại một tác phẩm có tính thẩm mỹ cao đã
nằm ngay trong mục đích của sáng tạo nghệ thuật, trong ý định ban đầu của
nghệ sĩ. Người thợ thủ công khi đóng cái bàn, cái ghế cũng muốn làm cho nó
đẹp. Nhưng ở dây, cái ý muốn làm đẹp chỉ là một nhu cầu phụ, có tính chất
kèm theo. Công việc của thợ thủ công về cơ bản, bị chi phối không phải bởi
giá trị thẩm mỹ của đồ vật mà bởi giá trị sử dụng của nó. Còn đối với nghệ sĩ,
ý nghĩa thẩm mỹ nằm ngay trong giá trị chung của nó, là một thành phần tạo
nên giá trị chung đó.
Điều đó nói lên rằng sáng tạo nghệ thuật, dù cũng là một hoạt động
thẩm mỹ như nhiều hoạt động khác, nhưng ở nó "tỉ lệ" thẩm mỹ cao hơn, vị trí
của cái đẹp quan trọng hơn, quan hệ của cái đẹp với các chức năng khác
cũng bình đẳng hơn.
Cái đẹp là một trong những điều kiện đầu tiên của nghệ thuật. Dù đó là
bài thơ hay bức tranh, pho tượng hay vở kịch, điệu múa hay bài ca, dù đó là
câu chuyện về một cô công chúa tuyệt mỹ hay là về một mụ phù thủy ghê
tởm, dù đó là âm điệu du dương hát lên nỗi đắm say của tình yêu hạnh phúc,
hay khúc tưởng niệm bi thương trong tang lễ. Dù đó là bức tranh vẽ bông hoa
hồng đang chớm nở hay miêu tả một con cóc xấu xí, dù đó là vở kịch tràn đầy
niềm vui và chiến thắng của chính nghĩa hay dựng lên cảnh chết chóc hy sinh
v.v... tất cả đều phải đẹp. Một cái ghế, cái bàn đóng xấu xí có thể dùng được.
Một ngôi nhà xây không đẹp nhưng chắc chắn, rộng rãi thì vẫn là nơi ở tốt.
Còn những câu chữ xếp đặt vụng về thì không thể gọi là thơ. Bức vẽ không
đẹp thì sẽ không xứng là bức tranh. Những dòng nhạc viết ra không theo quy
luật của tiết tấu và hòa thanh sẽ chẳng thành nhạc. Chính trong ý nghĩa này,
V.G.Bielinski đã viết: "Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ
thuật. Nếu thiếu cái đẹp thì không có và khống thể có nghệ thuật, đó là một
định lý".
Nghệ sĩ chính là những người cảm thấy điều đó sâu sắc hơn ai hết. Vì
vậy, đối với nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, việc trau dồi kỹ thuật để có thể đem lại
cho tư tưởng tình cảm của mình một hình thức hoàn chỉnh, có ý nghĩa thẩm
mỹ cao, bao giờ cũng là vấn đề đặt ra rất gay gắt. Nhà điêu khắc danh tiếng
Pháp Rodin đã nói: "Nghệ thuật không phải cái gì khác hơn là tình cảm.
Nhưng nếu không có các hiểu biết về khối hình, về sự cân xứng, màu sắc và
thiếu đi một cây bút điêu luyện, thì bất kỳ tình cảm sinh động nào cũng bị tê
liệt".
Danh họa Ý thời Phục hưng là Leonard de Vinci bao giờ cũng bộc lộ sự
khao khát không cùng đối với sự hoàn thiện, vẻ đẹp của tác phẩm. Riêng bức
Monna Lida (La Joconde) ông vẽ gần bốn năm trời. Có lẽ vì vậy mà hàng bao
thế kỷ về sau tranh của ông vẫn là những kiệt tác đạt đến sự hài hòà cao
không bị vượt qua.
Nghệ thuật là nơi hội tụ của cái đẹp. Điều đó biểu hiện không phải chỉ ở
chỗ, trong hoạt động này sự sáng tạo theo những quy luật của cái đẹp diễn ra
tập trung hơn cả, hoàn thiện hơn cả, mang tính chất có ý và chuyên nghiệp
hơn cả, mà còn thể hiện ở ngay bản thân nội dung của nghệ thuật.
Tác phẩm nghệ thuật, ngoài việc thể hiện vô vàn hiện tượng khác nhau
trong đời sống, bao giờ cũng quan tâm ghi lại những gì hài hòa, đẹp đẽ trong
cuộc đời. Và thường thì những cái trong hiện thực: vốn đã đẹp khi bước vào
tác phẩm lại trở nên đẹp đẽ hơn: Thậm chí từ những sự vật, hiện tượng mà
trong đời chỉ là bình thường, hay đẹp vừa vừa nhưng qua bàn tay của nghệ sĩ
lại hiện ra hết sức đáng yêu, kiều diễm. Tại sao vậy? Đây là một vấn đề thú vị
nhưng lý giải không dễ dàng.
Đúng là trong đời sống có biết bao nhiêu là cái đẹp và cái đẹp thực sự
nằm chính trong thiên nhiên, trong cuộc đời đang diễn ra hàng ngày trước
mắt chúng ta. Song không phải lúc nào chúng ta cũng có thể thưởng thức
được hiện thực đẹp đẽ đó. Ngoài những phút hiếm hoi khi vui sướng đến bất
chợt, như ánh sáng đột ngột bừng sang lên khiến ta thấy "thế giới xung quanh
bỗng hiện ra trong ánh hào quang rực rỡ, cái gì cũng trở nên đáng yêu, xinh
đẹp hay khiến chúng ta phát hiện ra vẻ lộng lẫy trong cái bình thường, cái
duyên dáng trong sự giản dị, cái sôi nổi, thiết tha trong sự âm thầm, ngoài
những giờ phút ấy ra, chúng ta ít có điều kiện để nhìn cho ra cái đẹp. Chúng
ta bị hạn chế ở góc độ nhìn hoặc chìm ngập trong các chi tiết, trong cái vụn
vặt, trong những ấn tượng bề bộn hàng ngày. Muốn phát hiện ra vẻ đẹp của
sự vật phải có một khoảng cách, một góc độ nhất định. Phải biết lùi ra xa một
chút giống như khi ngắm một bức tranh. Lúc đó, tất cả những gì gồ ghề,
những vết dơ, những cái tủn mủn, vặt vãnh mà khi ta ở trong cuộc, khi đứng
gần đập vào mắt sẽ bắt đầu nhòa đi, bị quên lãng, thậm chí hiện ra trong một
màu sắc khác. Lúc đó cái vốn dẹp đẽ thì trở nên đẹp đẽ hơn. Điều đó giải
thích vì sao kỷ niệm bao giờ cũng đẹp. Trong ánh hào quang của hồi ức đôi
khi cả nỗi khổ cũng trở nên đáng yêu, cả nỗi bất hạnh cũng có một phần thú
vị. Chúng ta nhớ về quá khứ như người lính nhớ lại những cuộc chinh chiến
của mình. Thời gian dường như đã xóa đi tất cả, chỉ để lại những kỷ niệm
ngọt ngào. Nơi đắng cay dẫu còn lại thì cũng đã có thể trở thành đối tượng
của thi ca. Kinh nghiệm sáng tác của nhiều nhà văn đã khẳng định điều này:
khó mà nói về nỗi đau hay diễn tả nó khi nó vừa mới xảy ra, khi nghệ sĩ còn
phải chịu đựng gánh nặng trực tiếp của nó. Muốn viết về nó phải có một
khoảng cách.
Có một khoảng cách về không gian và thời gian nhất định, đó chính là
một trong những điều kiện làm cho con người có khả năng nhìn ra vẻ đẹp của
sự vật hoặc khiến cho sự vật có được ý nghĩa thẩm mỹ trở nên đẹp đẽ và dễ
thương hơn trong cảm thụ của chúng ta. Từ đời sống bước vào nghệ thuật,
tất cả những gì được phản ánh trong tác phẩm đều đi qua khoảng cách ấy.
Trong ý nghĩa này có thể nói nghệ thuật đẹp hơn hiện thực.
Ai đã từng xem bức "Mùa thu vàng" của họa sĩ Nga Levitan đều kinh
ngạc về vẻ quyến rũ của nó và đều có cảm giác rằng hình như nó đẹp hơn cả
mùa thu thực. Vì tài nghệ của họa sĩ, vì cái khoảng cách thần diệu của nghệ
thuật, vì vẻ đẹp của mùa thu được trinh bày trong cái dạng tiêu biểu nhất, tập
trung nhất. Ở đây đã diễn ra một quá trình chung vốn là đặc tính của mọi hoạt
động sáng tạo nghệ thuật: nghệ sĩ lựa chọn trong muôn ngàn hiện tượng
giống nhau một cái tiêu biểu nhất để giới thiệu với công chúng, đồng thời
cũng cố gắng miêu tả cái tiêu biểu nhất đó sao cho thu hút mạnh mẽ. Đó
chính là quá trình kết tinh trong nghệ thuật. Nhờ đó, cái đẹp trong cuộc đời đi
vào nghệ thuật trở nên rực rỡ hơn và hấp dẫn hơn. Bức vẽ bông hoa hồng lôi
cuốn được là vì nó mang trong"mình vẻ đẹp của một trăm hay một ngàn bông
hồng khác mà họa sĩ đã quan sát, nghiên cứu tìm tòi và chọn lựa.
Hiện thực cuộc sống bao giờ cũng là nguồn nội dung vô tận của nghệ
thuật. Và xét trong toàn bộ, vẻ đẹp hiện thực bao giờ cũng là vẻ đẹp cao nhất,
bởi vì nó vô cùng phong phú, sinh động và trần thế. Nhưng trong nghệ thuật,
cái đẹp của đời sống được thể hiện tập trung hơn. Tác phẩm nghệ thuật
chính là nơi hội tụ cái đẹp của cuộc đời. Nếu cái đẹp của cuộc đời là quặng
vàng chì trong nghệ thuật nó đã biến thành vàng được luyện, thành vàng trên
huân chương, vàng trên đôi nhẫn cưới...
II. TÍNH CHẤT CỦA CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT
Con người bao giờ cũng sáng tạo theo "quy luật của cái đẹp". Nghĩa là
khi làm ra bất kỳ sản phẩm nào, trong đó có tác phẩm nghệ thuật, ngoài
những mục đích thiết thực khác, người ta luôn luôn nghĩ cách làm sao cho nó
vừa mắt, dễ coi. Cái đẹp mắt, dễ coi đó cũng là một phần của một cái đẹp. Ở
đây có thể nảy ra câu hỏi: nếu cái đẹp phổ biến như vậy, không chỉ có trong
nghệ thuật mà còn có cả trong rất nhiều hoạt động khác nữa của con người,
thì đặc điểm của cái đẹp trong nghệ thuật nằm ở đâu? Phải chăng cái đẹp
của bức tranh cũng giống như vẻ đẹp của phong cảnh được vẽ? Phải chăng
cái đẹp của bài thơ cũng giống như vẻ đẹp của ngôi nhà hay của bộ ghế mây
xuất khẩu?
Không hẳn như vậy. Cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật có nhiều điểm
khác với cái đẹp của thiên nhiên cũng như cái đẹp của các sản phẩm khác do
bàn tay con người tạo ra.
Trước hết, nếu chỉ xét về phương diện thẩm mỹ thì các phẩm nghệ
thuật là những công trình phức tạp, tinh vi nhất. Hãy thử so sánh màu sắc
chiếc lọ hoa bằng gốm Đồng Nai với màu sắc trên bức tranh "Thiếu nữ bèn
hoa huệ" của Tô Ngọc Vân mà xem. Trong trường hợp này, chúng ta gặp sự
phối trí hài hòa giữa các màu tự nhiên, để cạo ra cảm giác ưa nhìn và dễ
chịu. Trong trường hợp kia, chúng ta đứng trước sự tìm tòi thực sự về màu
sắc, về những khả năng kết hợp của nó, về hiệu quả sáng hoặc tối, dày hoặc
mỏng, ấm hay lạnh, cứng hay mềm của màu. Ở đây, toàn bộ bức tranh toát ra
một sắc độ nhẹ nhàng, mềm mại. Cả một mảng màu đơn giản của chiếc áo
dài buông xuống duyên dáng như tương phản, làm tôn lên những chi tiết
phong phú và màu sắc tươi tắn của lọ hoa huệ gây nèn ấn tượng sâu sắc về
một phong cách nghệ thuật đậm đà truyền thống dân tộc nhưng đồng thời
cũng rất mới mẻ, hiện đại.
Trong âm nhạc cũng vậy. So với vẻ đẹp của âm thanh tự nhiên, vẻ đẹp
của tác phẩm nhạc phức tạp hơn nhiều. Từ nhịp đi của bước chân con người,
từ nhịp đập của trái tim, nhịp thời gian thay đổi bốn mùa, những tiết tấu tự
nhiên đã đi vào âm nhạc, trở thành đủ loại nhịp khác nhau (nhịp 2/4, 3/4, 4/4,
6/8, 12/8 v.v...) thành các kiểu tiết tấu biến hóa vô cùng đa dạng (hành khúc,
van-xơ, tang-gô bô-lê-rô v.v...). Tác phẩm âm nhạc đặc biệt là tác phẩm giao
hưởng, nhạc có chương trình, là một bằng chứng thuyết phục nói lên tính
chất phức tạp, tinh vi của cái đẹp trong nghệ thuật, nói lên khả năng sáng tạo
vô biên của con người.
Thơ ca cũng là một lĩnh vực của lời nói. Nhà thơ không sử dụng những
từ ngữ nào khác hơn là những từ ngữ trong vốn từ vựng chung, trong ngôn
ngữ dân tộc, trong tiếng nói hàng ngày. Nhưng từ lời nói hàng ngày đến lời
thơ thì đó là cả một khoảng cách lớn. Câu thơ cũng là lời nói, nhưng là một
kiểu lời nói đặc biệt được tổ chức theo những quy luật của nghệ thuật và của
thẩm mỹ. Bởi vậy, vẻ đẹp của lời thơ là vẻ đẹp của vàng đã tinh luyện, của
ngọc đã mài, của nước nho đã chưng cất thành rượu. Điều đó giải thích vì
sao tuy cũng là những lời nhắn gửi bộc bạch tâm tình, mà những câu ca dao
như:
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mũi trời không thấy người thương.
Hay:
Chàng ơi cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
bất chấp thời gian vẫn sống trong ký ức nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Song dù cả khi trau chuốt óng ả, cân đối, nhịp nhàng hay khi trần trụi,
đa dạng như chính bản thân cuộc sống, câu thơ lúc nào cũng giữ một khoảng
cách nhất định với lời nói bình thường. Lời nói hàng ngày cũng có vẻ đẹp
riêng của nó. Nhưng câu thơ hay hơn, đẹp hơn cái đẹp của nó và của ngôn
ngữ trong nghệ thuật nói chung tinh vi, phức tạp hơn vẻ đẹp của mọi lời nói
khác, dù đó là lời nói thường hay lời nói khoa học, báo chí, chính luận v.v...
Một đặc điểm quan trọng khác của cái đẹp trong nghệ thuật là tính biểu
cảm, sức truvền cảm của nó. Nói một cách đơn giản, cái đẹp của tác phẩm
nghệ thuật bao giờ cũng có hồn, chứa đựng một tư tưởng, tình cảm nào đó.
Ngắm một bông hoa rực rỡ sắc hương hay đứng trước dòng sông xanh
in bóng những hàng dừa, chúng ta đều thấy có một cảm giác dễ chịu, vui
tươi. Cái đẹp của sự hài hòa, của sự sống tiềm ẩn trong cảnh vật đã mang lại
cho con người khoái cảm thẩm mỹ. Nhưng bản thân cái đẹp của màu sắc và
âm thanh tự nhiên, của phong cảnh vẫn là cái đẹp của thế giới vô cơ, tự
chúng không chứa đựng một nội dung nào cả, cái đẹp loại này mang tính chất
trung tính. Bởi vậy nó phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của con người
thưởng thức.
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(NGUYỄN DU - TRUYỆN KIỀU)
Những nội dung tình cảm khác nhau, cái hồn của các hiện tượng thẩm
mỹ trong tự nhiên là do người ta gán vào, thổi vào sự vật.
Trong nghệ thuật không phải như vậy. Chúng ta hãy quan sát bức tranh
lụa "Chơi ô ăn quan" của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh. Sắc độ màu nâu trong
tác phẩm thật mềm mại, có sức hấp dẫn thẩm mỹ độc đáo. Nhưng rõ ràng ở
đây màu sắc không nhằm mục đích tự thân.
Nó truyền đạt một cảm giác dịu dàng, đằm thắm về làng quê. Vẻ đẹp
mượt mà của màu nâu và hòa sắc chung của bức tranh làm cho toàn bộ
khung canh được miêu tả bỗng như chìm trong kỷ niệm, như lùi ra xa, hiện
lên như một mảng của hồi ức, của tuổi thơ, của tình yêu quê hương, dân tộc
sâu kín, đậm đà.
Cái đẹp trong nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với tình cảm hay một tư
tưởng nào đó, bởi vì đây là cái đẹp nhân đạo, cái đẹp do nghệ sĩ tạo nên để
ghi lại cái đẹp trong đời, để diễn đạc cảm xúc thẩm mỹ đang dâng lên trong
lòng mình hoặc để mượn nó, thông qua nó mà gửi đến người khác những
điều mình đang nung nấu, yêu thương, căm thù hay đau khổ. Cũng chính ở
đây cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật phân biệt với cái đẹp của những sản
phẩm khác do con người làm ra. Như ta biết, các sản phẩm này cũng được
sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Nhưng vẻ đẹp của một bộ ấm chén chẳng
hạn, không thẻ gợi ra những rung động sâu xa, những tình cảm mãnh liệt như
bức họa "Guernica" của Picasso được.
Khi làm bộ ấm chén, bộ bàn ghế đẹp, khi cắt những bộ quần áo hợp
thời trang, dĩ nhiên người thợ cũng để lại trên các "tác phấm" ấy dấu ấn của
tài năng, thị hiếu thẩm mỹ của mình. Song khó mà có thể nói rằng họ đã gửi
gắm vào đấy niềm vui hay nỗi buồn gì, khó có thể biết họ làm các “tác phẩm”
ấy để nói lên cái gì, bênh vực ai, chống lại ai. Cả nghệ sĩ và người thợ thủ
công đều mang lại cái đẹp cho cuộc đời. Nhưng ngoài cái chung đó ra, mỗi
người phải theo đuổi mục đích riêng của mình. Và sự khác nhau đó đã tác
động trở lại sự giống nhau, làm cho cái đẹp giữa bức tranh và chiếc lọ gốm,
vốn cùng tuân theo quy luật chung của sự hài hòa, lại có thêm những nét
riêng biệt.
Vấn đề tính truyền cảm của cái đẹp liên quan trực tiếp tới đặc điểm của
các phương tiện hình thức trong tác phẩm nghệ thuật. Khi nghệ sĩ diễn tả trên
trang giấy, trên khung vải, trên tường, trên sân khấu hay trên màn ảnh những
điều mình muốn nói ra, thì khi đó các yếu tố hình thức phải đóng vai trò là
những phương tiện truyền đạt nội dung tình cảm ấy. Các phương tiện này
không chứa đựng nội dung theo kiểu vỏ chai dùng để đựng nước, mà chính là
những hình thức, những con đường mà qua đó nghệ sĩ vật chất hóa được
những điều mình rung động, suy nghĩ và cũng nhờ đó mà người đọc, người
xem, người nghe biết được, hiểu được những gì nghệ sĩ nung nấu, muốn thổ
lộ. Bởi vậy, phẩm chất cơ bản của các yếu tố hình thức là ở chỗ chúng diễn
đạt thành công đến mức nào điều mà nghệ sĩ cần nói với công chúng, với
người đọc, người xem.
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức hiểu theo nghĩa đó làm cho cái
đẹp của các phương tiện có thêm đặc điểm mới. Ở đây, cái đẹp không phải
chỉ là sự hài hòa bình thường mà là hài hòa mang đầy sắc thái biểu cảm. Cái
đẹp gắn bó chặt chẽ với sức truyền cảm của nghệ thuật. Từ đây, chúng ta
hiểu vì sao tiếng đàn bầu chẳng hạn lại có thể gây ra những ấn tượng thẩm
mỹ mạnh mẽ đối với cả thính giả phương Đông và phương Tây. Cái hay của
đàn bầu không phái chỉ ở sự hài hòa âm thanh độc đáo mà là còn ở chỗ vẽ
đẹp của âm thanh quyện chặt với chất tình cảm thiết tha của tiếng đàn. Có lẽ
đàn bầu cũng là một tronc những nhac cụ mà khi chơi, người ta có khả năng
chuyển trực tiếp những rung động của mình lên tiếng đàn nhiều nhất. Cấu tạo
và cách chơi đàn bầu cho phép sử dụng và phát huy đến mức tối đa hiệu quả
của lối nhấn, láy, vuốt và sự tiếp xúc trực tiếp của ngón tay, bàn tay lên các
bộ phận rung của dây đàn, làm cho sắc thái tình cảm của tiếng đàn trở nên
hết sức tinh tế.
Tóm lại, cái đẹp trong nghệ thuật cũng như mọi cái đẹp khác trong đời,
nhưng lại không hoàn toàn giống với chúng. Bông hoa trong tranh không phải
là bông hoa ngoài vườn. Vẻ đẹp của bông hoa trong vườn cũng không giống
bức tranh đẹp vẽ bông hoa. Cái đẹp của tác phẩm ngnệ thuật lại cũng khác
với cái đẹp của các sản phẩm, các công trình do bàn tay con người tạo nên.
Có giống chăng thì nhiều nhất có lẽ vẫn là cái đẹp của nghệ thuật với cái đẹp
của chính con người, bởi vì tác phẩm nghệ thuật cũng là một cơ thể sống;
mang hơi thở linh hồn của con người và bản thân nó cũng sinh động, toàn
vẹn như con người vậy...
III. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI ĐẸP TRONG TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT
Tìm cái đẹp trong nghệ thuật có nghĩa là xét xem trong nghệ thuật, cái
đẹp bộc lộ như thế nào, hiện ra ở đâu. Trước hết, chúng ta bắt đầu từ nội
dung của tác phẩm.
Nội dung nghệ thuật rất phong phú, bởi vì hiện thực mà nghệ thuật
nghiền ngẫm, tư tưởng mà nó thể hiện hết sức rộng lớn, đa dạng. Song có
thể nói rằng một trong những đối tượng bao trùm, đối tượng cơ bản được yêu
thích nhất của nghệ thuật chính là cái đẹp. Đó là cái đẹp tinh khiết của bông
hoa mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Nguyễn Du -Truyện Kiều)
Hay một buổi hoàng hôn bảng lảng, yên tĩnh:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Co em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
(Hồ Chí Minh – Chiều tối)
Có thể nói tất cả những gì đẹp trong thế giới chúng ta, từ một chiếc lá,
một giọt sương đến một quảng trường, một phong cảnh, một ngày hội quần
chúng đều đi vào âm nhạc, thơ ca và hội họa, điêu khắc, sân khấu và điện
ảnh. Không có cái đẹp nào xa lạ với nghệ thuật.
Điều đó không có nghĩa là tác phẩm nghệ thuật không miêu tả cái xấu.
Trái lại, đưa cái xấu vào tác phẩm để phê phán, để phủ định nó - cũng là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật, đặc biệt là đối với những
giai đoạn lịch sử nhất định, khi trong xã hội cái xấu đang hoành hành, điều ác
đang tạm thời thắng thế. Song phải thừa nhận một thực tế là trong lịch sử mỹ
thuật, cái xấu bước vào khá muộn. Suốt mười mấy thế kỷ liên tục, nghệ thuật
thế giới chủ yếu hướng vào mô tả cái đẹp, cái cao thượng. Truyền thống đó
bắt nguồn từ nghệ thuật Hy Lạp, được tái sinh trong thời kỳ Phục hưng,
xuyên suốt chủ nghĩa cổ điển và tiếp tục phát huy với chủ nghĩa lãng mạn.
Trong giai đoạn này đôi khi việc miêu tả cái xấu lại trở thành điều cấm kỵ đối
với nghệ thuật. Điều đó giải thích vì sao hài kịch đã không được công nhận
trong chủ nghĩa cổ điển, vì sao các họa sĩ của châu Âu thế kỷ XVII - XVIII chỉ
chú ý tới cái đẹp, cái thanh cao. Khi vẽ cây chẳng hạn thì không bao giờ họ
vẽ cái gốc lởm chởm, xù xì hoặc nếu có thì cũng tìm cách làm cho nó khuất đi
sau những vật trang nhã khác.
Trong lịch sử văn chương, tấn bi kịch của lý tưởng nhân văn. sự khủng
hoảng của cái đẹp và hài hòa chỉ mới bắt đầu diễn ra chủ yếu từ hậu kỳ Phục
hưng với những tác phẩm của Shakespeare. Còn âm nhạc thì biết đến quá
trình này muộn hơn, vào những giai đoạn cuối của chủ nghĩa lãng mạn với
các tác phẩm của Beethoven. Trong lịch sử hội họa, những bức tranh trình
bày cái xấu trước đây rất ít ỏi.
Điều đó chứng tỏ rằng dẫu buộc phải nói đến cái xấu, nghệ thuật vẫn
dành ưu tiên cho cái đẹp. Cái đẹp vẫn là đối tượng cơ bản, lâu dài, xuyên
suốt của nghệ thuật. Trở về với sự hài hòa của thế giới và của con người, đó
chính là ước mơ, là sự phấn đấu, là cái đích cuối cùng của nhân loại. Và đó
cũng chính là tương lai của nghệ thuật, thể hiện chủ nghĩa nhân văn cao cả
của nó.
Thể hiện những rung động đẹp đẽ về hiện thực sẽ góp phần làm phong
phú thêm nội dung thẩm mỹ của nghệ thuật. Đứng trước một tác phẩm nghệ
thuật, nhiều khi chúng ta cảm thấy phấn chấn, thỏa mãn về mặt thẩm mỹ
không phải chỉ do cái đẹp của bản thân sự vật được mô tả, mà còn do tình
cảm của nghệ sĩ. Xúc cảm thẩm mỹ của nghệ sĩ truyền sang chúng ta, làm
cho chúng ta cũng có những rung động tương tự. Điều này bộc lộ rõ rệt trong
những trường hợp mà chúng ta gọi là "sự thi vị hóa cuộc sống".
Hãy lấy bức tranh "Tát nước đồng chiêm" của họa sĩ Trần Văn Cẩn làm
ví dụ. Trước mắt chúng ta là cảnh người nông dân đang tát nước. Đây là một
cảnh hết sức bình thường, bề ngoài không có gì là nên thơ cả. Song với con
mắt nghề nghiệp, họa sĩ đã phát hiện ra một số nét thi vị của đối tượng. Các
nét này lại được tô điểm, nhân lên nhờ xúc cảm thẩm mỹ tràn ngập trong lòng
người vẽ. Điều này làm cho cảnh vật được miêu tả trở nên sinh động và đẹp
đẽ hẳn lên: những tà áo và giải thắt lưng bay lên theo chiều gió như ca hát,
như hòa nhịp với những cánh tay đang kéo gầu nước bạc. Hình ảnh các bà,
các chị nghiêng ngả, tát nước mê say, toàn bộ khủng cảnh lao động toát lên
không khí, vui tươi, nhịp nhàng giống như một điệu múa vui sản xuất, nổi lên
giữa thiên nhiên bao đời nay gắn bó với con người.
Rõ ràng là cảm xúc của tác giả cũng là một trong những đối tượng của
thưởng thức nghệ thuật. Cùng với vẻ đẹp của bản thân cái được phản ánh
(cảnh vật, con người) cảm xúc này tạo thành mặt thẩm mỹ quan trọng của nội
dung tác phẩm.
Nhưng chẳng lẽ tác phẩm chỉ đẹp khi nó mô tả cái đẹp của cuộc sống
hay diễn đạt cảm xúc thẩm mỹ của nghệ sĩ? Nếu vậy thì ý nghĩa thẩm mỹ của
tác phẩm bộc lộ như thế nào, chẳng hạn như trong bức họa "Khúc khải hoàn
ca của chiến tranh" của họa sĩ V.Veresaghin. Trền khung vải chỉ có những
chiếc sọ người chất thành một đống cao với dàn quạ đen, con thì đậu, con
đang bay đến từ xa, nổi lên giữa cánh đồng hoang vắng trơ trọi. Tìm cái đẹp
ở đâu đây?
Nhà triết học Pháp Pascal nói: "Không một con rắn hay con quái vật
nào được nghệ thuật sửa sang mà không trở nên đẹp". Nhưng xin bạn chớ
vội nghĩ rằng như vậy là cái xấu khi bước vào nghệ thuật sẽ bớt xấu hơn, cái
ác sẽ trở nên bớt ghê tởm hơn, còn sự giả dối thì đáng khoan dung hơn.
Câu nói của Pascal liên quan đến một vấn đề quan trọng của mỹ học:
nghệ thuật không từ chối cái xấu, cái thô thiển, nhưng dù mô tả cái đẹp, cái
xấu hay cái thô thiển thì tác phẩm bao giờ cũng phải đẹp.
Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Thực tế cho thấy vẽ cái xấu và vẽ xấu
không phải là một, cũng như vẽ cái đẹp và vẽ đẹp không phải bao giờ cũng
đồng nhất với nhau. Có khi người cầm bút vẽ một sự vật rất đẹp mà bức
tranh lại chẳng đẹp-chút-nào. Một nhân vật trong truvện "Kiệt tác chưa biết
đến" của Balzac có lần đã thay mặt nhà văn thốt lên rằng: "Nào bạn hãy dùng
thạch cao nặn y nguyên cánh tay người yêu của mình và đặt nó lên bàn mà
xem. Bạn sẽ chẳng thấy một chút giống nhau nào cả, đó sẽ là cánh tay của
một xác chết và lúc ấy bạn phải nhờ đến nhà điêu khắc là người không phải
mang lại một bản sao chính xác mà truyền đạt sự vận động vào cuộc sống".
Trong ý nghĩa này, lối phản ánh hiện thực theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa
rõ ràng không phải chỉ làm cho giá trị tư tưởng của tác phẩm bị hạ thấp mà
còn tỏ ra kém cỏi về mặt thẩm mỹ. Bê nguyên xi tất cả những cái trong đời
vào nghệ thuật, dù là những cái hấp dẫn và xinh đẹp, đều không phù hợp với
quy luật sáng tạo nghệ thuật. Một cô gái hàng ngày trông rất đẹp nhưng nếu
bước lên sân khấu mà không trang điểm, sẽ trở nên vụng về và nhợt nhạt
giữa cảnh phông màu rực rỡ và dưới ánh sáng của hàng chục ngọn đèn.
Xét về phương diện hình thức, nghệ thuật bao giờ cũng phải đẹp.
Chính nhờ tài năng của nghệ sĩ mà ngay cả trong những trường hợp tác
phẩm trực tiếp mô tả cái xấu, cái ác. Chúng ta vẫn vui lòng thưởng thức, tác
phẩm và có được những rung cảm thẩm mỹ nhất định. Chằng hạn trong
Truvện Kiều, khi tả Tú Bà đánh đận Thúy Kiều, Nguyễn Du viết:
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
Đang tay vùi Liễu dập hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau!
Hết lời thú phục khẩn cầu,
Uốn lưng thịt đỗ, dập đầu máu sa.
Đây là cảnh hành hạ con người bằng roi vọt, chửi mắng, chẳng đẹp đẽ
gì. Nhưng những câu thơ diễn tả cảnh khảo tra ấy lại rất hay và đẹp.
Cũng tương tự như vậy, có thể nói về giao hưởng số 5 cung Đô thứ
của Beethoven. Tiếng gõ cửa của thần chết, sự khủng khiếp của Định mệnh
đã được nhà soạn nhạc hình tượng hóa trong những âm thanh bất hủ. Còn
trong tác phẩm "Guernica", Picasso thể hiện sự hủy diệt tàn khốc mà bọn
phát xít đã gây ra trong một cuộc ném bom vào làng Guernica ở Tây Ban
Nha. Cao hơn nữa, họa sĩ muốn phác họa tội ác của chủ nghĩa phát xít và
tính chất khủng khiếp của chiến tranh. Tất cả những cảnh tượng và nội dung
đó rõ ràng không có cái gì chung với cái đẹp. Nhưng Picasso đã diễn tả nỗi
kinh hoàng ấy bằng một ngòi bút tuyệt vời, khiến cho "Guernica" cùng với bức
"Chim bồ câu" mãi mãi tượng trưng cho tiếng nói nhân đạo, tiếng nói chống
chiến tranh và nguyện vọng hòa bình của các dân tộc. Với "Guernica" và
"Chim bồ câu", Picasso đã đi bằng hai con đường khác nhau để đến cùng
một đích: ông vẽ cả cái xấu và cái đẹp, nhưng cả hai cùng chung một chủ đề
hòa bình, nhân đạo và cả hai đều là những kiệt tác về mặt thẩm mỹ.
Nói tóm lại, trong những trường hợp trên đây, ngoài cái đẹp của lý
tưởng xã hội, của tình cảm của nghệ sĩ (trong chừng mực lý tưởng và tình
cảm này gợi chúng ta quan niệm về cuộc sống, về sự hài hòa), phẩm chất
thẩm mỹ của các tác phẩm còn bộc lộ ở cái đẹp của hình thức nghệ thuật.
Tiêu chuẩn của cái đẹp này chính là sự hoàn thiện của các phương tiện
hình thức và sự phù hợp của chúng với nội dung cần diễn đạt.
Trước hết, hình chức tác phẩm muốn đẹp phải thật sự hoàn thiện,
nghĩa là phải hoàn hảo về mặt kỹ thuật, kỹ xảo. Yêu cầu này bắt buộc đối với
tất cả các yếu tố hình thức, kể từ việc lựa chọn một chữ hoặc một âm đến
việc tổ chức toàn bộ tác phẩm thành một chỉnh thể thống nhất. Ở đây quy luật
của sáng tạo thẩm mỹ đề ra những tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt. Tác
phẩm không được thiếu mà cũng không được thừa. Mọi chi tiết đều phải
được cân nhắc, tính toán chặt chẽ. Các bản viết tay của La Fontaine đầy
ngập những chỗ gạch xóa. Có bài ngụ ngôn ông phải làm đi làm lại 12 lần.
J.J.Rousseau cũng thổ lộ: "Các bản viết tay của tôi có biết bao nhiêu chỗ
gạch xóa, bẩn, lộn xộn, khó đọc, nói lên công sức mà tôi phải bỏ ra. Không có
một tác phẩm nào mà tôi không phải chép lại tới bốn năm lần trước khi đưa
in". Flaubert viết lại tác phẩm "Bà Bovarv" mười lần. Pascal viết đi viết lại đến
mười lăm lần một số chỗ trong "Tập thư gửi người nhà quê" v.v... Tất cả
những cái đó nói lên nguyện vọng của nhà văn muốn đạt tới sự hoàn thiện,
tới cái đẹp.
Mặt khác, bản thân sự hoàn thiện của kỹ thuật, kỹ xảo sẽ giảm đi rất
nhiều ý nghĩa nếu nó không gắn với một nội dung cụ thể nào đó, không nhằm
diễn đạc một tư tưởng, một tâm trạng nào đó. Sức mạnh của hình thức không
phải chỉ phụ thuộc vào sự hoàn hảo của bản thân nó, mà còn toát ra từ quan
hệ của nó với nội dung. Quan hệ này có hai mặt. Thứ nhất đó là vấn đề: các
phương tiện hình thức có khả năng truyền đạt đầy đủ và chính xác đến đâu
cái mà nghệ sĩ cần diễn tả, biểu hiện. Ở đây phẩm chất thẩm mỹ của một hình
ảnh hay một tính từ chẳng hạn là ở chỗ chúng nói lên được hết những gì nhà
văn định gửi gắm. Mở đầu Truyện Kiều, khi tả mùa xuân, Nguyễn Du viết:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Câu thơ không chỉ phác ra cảnh tuyệt đẹp của trời đất ngày xuân mà
còn diễn tả cả vẻ tinh khiết của tiết thanh xuân. Lúc mà Thúy Kiều lần đầu tiên
bước ra với cuộc đời mang theo đôi mắt ngỡ ngàng, bỡ ngỡ và bao nhiêu
ước mơ cua người con gái ngây thơ, trong trắng. Đó là vẻ đẹp của thiên
nhiên, vẻ đẹp và tâm trạng của con người, mà cũng là cái yên lặng của đất
trời trước cơn dông, của một số phận tài hoa trước khi trở thành "bạc mệnh".
Câu tả cảnh vừa như là chuẩn bị như khúc dạo đầu của một bi kịch, vừa như
một vế của sự tương phản, làm nổi bật lên sự đối lập giửa hai không gian,
giữa hai nửa cuộc đời Kiều.
Ở chỗ khác, tả Sở Khanh lén lút chui vào lầu xanh để tính kế lừa dối
Kiều. Nguyễn Du viết:
Tường đông lay động bóng cành,
Rẽ song đã thấy sở Khanh lẻn vào.
Nhiều người cho rằng với từ "lẻn", nhà thơ đã giết chết nhân vật. Từ
này vừa diễn tả đúng hành động mờ ám của Sở Khanh, lại vừa nói lên đầy đủ
thái độ của tác giả đối với loại người như vậy.
Rõ ràng trong cả hai trường hợp trên đây, hình ảnh và từ ngữ đã làm
tròn chức năng của chúng.
Mặt thứ hai của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, bộc lộ ở chỗ:
vẻ đẹp của hình thức phụ thuộc rất nhiều vào tính đúng đắn hay lệch lạc của
nội dung được nó diễn tả. Nếu nội dung thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn sâu
sắc hay gắn liền với tư tưởng tiến bộ thì vẻ đẹp của hình thức tác phẩm sẽ
được nhân lên gấp nhiều lần. Ngược lại dù câu thơ có lộng lẫy đến mức nào
màu sắc và bố cục của bức tranh có đẹp đến đâu, nhưng nếu chúng nhằm
thể hiện một tư tưởng giả dối, ca ngợi tội ác, độc tài thì sức mạnh thẩm mỹ,
của chúng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng, hoặc có khi bị phá hủy hoàn toàn.
IV. PHÂN BIỆT HAI KHÁI NIỆM: CÁI ĐẸP VÀ NGHỆ THUẬT
Chủng ta nói nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất quan hệ thẩm mỹ của
con người với hiện thực, và nói đã là nghệ thuật thì phải đẹp, không đẹp
không thành nghệ thuật. Nhưng tại sao lại không thể nói: cái đẹp là nghệ
thuật?
Đó là vì cái mệnh đề khá quen tai và tưởng như hoàn toàn tự nhiên,
hoàn toàn hợp lý kia có thể gây ra những hiểu lầm liên quan trực tiếp đến
cách nhìn nhận bản chất của cái đẹp và nghệ thuật, đến các hành động cụ
thể trong sáng tác và cảm thụ nghệ thuật, có thể dẫn đến sự lẫn lộn nghệ
thuật, với cái đẹp.
Nguyên nhân sự lẫn lộn này một phần là do từ ngữ tạo nên.
Trong tiếng Việt hiện đại, từ "nghệ thuật" được dùng ít nhất với ba
nghĩa sau đây:
a) Chỉ những hoạt động gì thật khéo léo, đạt đến trình độ điêu luyện,
tay nghề cao. Chúng ta vẫn thường nghe nói: "nghệ thuật mổ xẻ", "nghệ thuật
bắt rắn", "nghệ thuật lái xe", hay "một đường chuyền bóng nghệ thuật", "một
cú sút nghệ thuật" v.v... Có thể nói đây chính là nghĩa đen, nghĩa trực tiếp của
từ "nghệ thuật", bởi vì theo từ nguyên "thuật" là hoạt động, là kỹ thuật, còn
"nghệ" là tài năng, kỹ năng. Trong tiếng Pháp và tiếng Anh "art" đầu tiên cũng
có nghĩa là khéo léo, kỹ xảo, tài nghệ, sau mới có thêm nghĩa "mỹ thuật",
"nghệ thuật". Trong tiếng Nga cũng vậy.
b) Chỉ những hoạt động và sản phẩm, hài hòa, đẹp mắt, có thể mang,
lại cho người ta khoái cảm thẩm mỹ. Trong nghĩa này, chúng ta gọi một bộ
bàn ghế mây tre xuất khẩu, một chiếc thuyền bằng sừng để bàn, một cái gạt
tàn thuốc lá bằng gỗ sơn mài khảm xà cừ, một bộ quần áo thêu nhiều màu
của phụ nữ dân tộc ít người, một buổi đồng diễn thể dục v.v... là tác phẩm
nghệ thuật, là công trình nghệ thuật. Gần đây lại xuất hiện thêm các khái