phương ngữ xã hội trong văn bản quảng cáo ở thành phố Hồ Chí Minh MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Xã hội ngày càng phát triển về mọi mặt thì những nhu cầu của người dân như ăn, chơi, mặc, ở,... ngày càng được nâng lên: ăn ngon, mặc đẹp, điều kiện ở phải sung túc, đầy đủ tiện nghi. Để đáp ứng nhu cầu đó, các sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ tiêu dùng phải được nâng cao về chất lượng, hấp dẫn về hình thức. Các nhà sản xuất đưa ra những sản phẩm mới, tiện ích, với những kiểu dáng, mẫu mã đẹp, lạ và hợp thời trang cũng như cách phục vụ tận tâm, chu đáo của các tổ chức dịch vụ người tiêu dùng nhằm khơi gợi, đánh vào tâm lí mua sám và thị hiếu tiêu dùng của họ. Công nghệ quảng cáo ra đời cùng với sự phát triển sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Công nghệ quảng cáo ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thời đại ngày nay là chiếc cầu nối hữu hiệu nhất để nhà sản xuất tiếp cận với người tiêu dùng một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Nhưng dù dưới bất kỳ hình thức nào, phương tiện gì thì vấn đề đặt ra là muốn thông tin trong văn bản quảng cáo đạt hiểu quả cao thì không thể phủ nhận vai trò quan trọng của ngôn từ. Vậy ngôn từ được thể hiện trong một văn bản quảng cáo như thế nào? Bằng nhiều cách khác nhau nhằm làm cho thông tin quảng cáo sản phẩm có thể thu hút được nhiều người tiêu dùng , những người viết
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
phương ngữ xã hội trong văn bản quảng cáo ở thành
phố Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển về mọi mặt thì những nhu cầu của người dân như ăn, chơi, mặc, ở,... ngày càng được nâng lên: ăn ngon, mặc đẹp, điều kiện ở phải sung túc, đầy đủ tiện nghi. Để đáp ứng nhu cầu đó, các sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ tiêu dùng phải được nâng cao về chấtlượng, hấp dẫn về hình thức. Các nhà sản xuất đưa ra những sản phẩm mới, tiện ích, với những kiểu dáng, mẫu mãđẹp, lạ và hợp thời trang cũng như cách phục vụ tận tâm, chu đáo của các tổ chức dịch vụ người tiêu dùng nhằm khơigợi, đánh vào tâm lí mua sám và thị hiếu tiêu dùng của họ. Công nghệ quảng cáo ra đời cùng với sự phát triển sảnxuất hàng hóa và dịch vụ.
Công nghệ quảng cáo ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thời đại ngày nay là chiếc cầu nối hữu hiệu nhất để nhà sản xuất tiếp cận với người tiêu dùng một cách nhanh nhấtvà hiệu quả nhất. Nhưng dù dưới bất kỳ hình thức nào, phương tiện gì thì vấn đề đặt ra là muốn thông tin trong văn bản quảng cáo đạt hiểu quả cao thì không thể phủ nhậnvai trò quan trọng của ngôn từ. Vậy ngôn từ được thể hiệntrong một văn bản quảng cáo như thế nào? Bằng nhiều cách khác nhau nhằm làm cho thông tin quảng cáo sản phẩm có thể thu hút được nhiều người tiêu dùng , những người viết
quảng cáo phải có những hiểu biết về phong tục, tập quán,văn hoá- xã hội của nơi sản phẩm được rao bán vào trong văn bản quảng cáo của mình. Điều cần yếu đầu tiên phải kểđến ngôn ngữ địa phương, sự tiện ích hay sự cần thiết củasản phẩm, dịch vụ đối với người tiêu dùng trong xã hội màhọ đang sống dường như được hiểu và chấp nhận một cách dễdàng hơn. Như vậy, có thể thấy văn bản ngôn ngữ quảng cáocần phải gắn liền với ngôn ngữ địa phương và đời sống xã hội của người dân bản địa.
Xuất phát từ những điểm trên, tôi muốn đề cập đến vấn đề liên quan đến phương ngữ xã hội. Đó là ngôn ngữ quảng cáo- một lĩnh vực đặc thù của phương ngữ xã hội. Đặc biệtlà phương ngữ quảng cáo ở thành phố Hồ Chí Minh
Đó là lý do chọn đề tài của tôi.
II. Mục đích nghiên cứu đề tài
Bài nghiên cứu có mục đích: đưa ra một cái nhìn tổng quan về từvựng xã hội, đặc tính và phân loại phương ngữ quảng cáo dựa trên định nghĩa, lý do hình thành, đặc điểm,...
Phần khảo sát nhằm phân tích phương ngữ quảng cáo thông qua
khảo sát các đặc tính của các phương ngữ đã chọn và vai trò
của phương ngữ trong giao tiếp cũng như trong quảng cáo,
dịch vụ.
Kết quả của bài nghiên cứu có thể sử dụng cho việc dạy
và học tiếng Việt trong giờ học thực hành tiếng, môn từ vựng
học, môn phiên dịch cũng như biên dịch. Hơn nữa nó còn giúp
các bạn sinh viên hiểu thêm về phương ngữ này và vượt qua
được những trở ngại khi sử dụng phương ngữ.
Khách thể khảo sát là các tin quảng cáo.
III. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài tham khảo các tài liêu liên quan đến các lĩnh
vực như tự nhiên, văn hóa, xã hội; liên quan đến các
lĩnh vực ngôn ngữ.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là liệt kê, mô tả,
phân loại các văn bản quảng cáo; phương pháp phân
tích xã hội của ngôn ngữ.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Phương ngữ và phương ngữ xã hội
Mặc dù mỗi quốc gia đều có một ngôn ngữ thống nhất
chung cho dân tộc mình nhưng giữa các vùng, miền
địa lí khác nhau, chúng ta lại thấy xuất hiện
những biến dạng ngôn ngữ trong cách sử dụng của
người dân địa phương. Điều này xảy ra với tất cả
thứ tiếng trên thế giới và tiếng Việt của chúng ta
không phải là ngoại lệ. Sự biến dạng này được nhận
ra một cách dễ dàng khi chúng ta trực tiếp giao
tiếp với người dân bản địa. Biểu hiện cụ thể nhất
cho sự biến dạng này được thể hiện trong cách phát
âm, cách sử dụng từ và cấu trúc câu của người dân
địa phương. Để đặt tên cho hiện tượng này, các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ học đã đưa ra khái niệm
“phương ngữ”. Theo “từ điển giải thích thuật ngữ
học (Việt-Anh-Pháp-Nga)” của tác giả Lê Đức Trọng
thì: “Phương ngữ là biến dạng của ngôn ngữ toàn
dân được sử dụng ở một số người cùng địa phương,
nghề nghiệp hoặc hoàn cảnh xã hội”. Còn tác giả
Hoàng Thị Châu khi nghiên cứu về “Tiếng Việt trên
các miền đất nước” trên phương diện ngữ học, đã
đưa ra khái niệm phương ngữ như sau: “Phương ngữ
là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện
của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với
những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn
dân hay một ngôn ngữ khác”.
Chức năng lớn nhất của ngôn ngữ là chức năng giao
tiếp. Khi giao tiếp, ngôn ngữ được sử dụng trực
tiếp dưới hình thức phương ngữ. Những tiếng Anh-
Anh hay tiếng Anh-Mỹ hay Sing-English của người
Anh, người Mỹ, người Singapore đã nói lên điều đó.
Tuy nhiên, sự vận dụng phương ngữ trong những
người có cùng địa bàn cư trú lại có sự khác nhau
tùy vào nghề nghiệp, vị trí xã hội, hoàn cảnh xuất
thân của mỗi người. Khi có sự chi phối của hoàn
cảnh xã hội vào phương ngữ thì phương ngữ ở đây
không đơn thuần giới hạn về mặt địa lý nữa mà nó
trở thành phương ngữ xã hội. Chính thuộc tính xã
hội của giao tiếp có liên quan chặt chẽ đến sự
hình thành phương ngữ xã hội. Điều đó có nghĩa là
cá đặc điểm xã hội như giai cấp, giới tính, tuổi
tác, trình độ văn hóa, thành phần xuất thân là
những yếu tố tác động trực tiếp và mạnh mẽ tạo nên
đặc điểm về ngôn ngữ trong cách sử dụng. Gắn liền
với sự phát triển của xã hội, ngôn ngữ xã hội cũng
thay đổi tùy theo các điều kiện xã hội khác nhau.
Sự đa dạng trong cách sử dụng ngôn ngữ địa phương
cũng như sự ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện xã
hội đã làm cho phương ngữ ngày càng có tính chất
xã hội hóa cao. Trong bài viết này, tôi muốn đề
cập đến những dấu ấn phương ngữ xã hội để lại
trong văn bản quảng cáo cũng như những mối gắn kết
quảng cáo với phương ngữ xã hội ở Thành phố Hồ Chí
Minh. Ở đây, tôi chỉ tập trung khảo sát chủ yếu về
cách sử dụng từ ngữ. Văn bản quảng cáo có những
đặc thù riêng nhằm quảng bá thông tin về sản phẩm,
dịch vụ cho nhiều người tiêu dung trong xã hội
biết nên trong bài này tôi sẽ không xép tiếng lóng
vào phạm vi khảo sát.
2. Khái niệm về văn bản quảng cáo
Ở Mỹ, đất nước hùng mạnh đứng đầu thế giới về kinh
tế, nơi quảng cáo đã trở thành một ngành công
nghiệp, theo Hiệp hội quảng cáo Mỹ (American
Advertising Association), một hiệp hội quảng cáo
lâu đời và uy tín nhất trên thế giới,“Quảng cáo là
hoạt động truyền bá thông tin, trong đó nói rõ ý đồ của chủ quảng
cáo, tuyên truyền hàng hoá, dịch vụ của chủ quảng cáo trên cơ sở
có thu phí quảng cáo, không trực tiếp nhằm công kích người
khác”.
Philip Kotler, một trong những cây đại thụ trong
ngành Marketing nói chung và ngành quảng cáo nói
riêng trên thế giới lại đưa ra những khái niệm
khác nhau về quảng cáo. Trong cuốn sách “Marketing
căn bản” ông định nghĩa: “Quảng cáo là những hình thức
truyền thông không trực tiếp, được thực hiện thông qua những
phương tiện truyền tin phải trả tiền và xác định rõ nguồn kinh phí”
Trong giáo trình “Quản trị Marketing” (Marketing
Management), của mình, Philip Kotler lại đưa ra
một khái niệm khác về quảng cáo: “Quảng cáo là một
hình thức trình bày gián tiếp và khuyếch trương ý tưởng, hàng hoá
hay dịch vụ được người bảo trợ nhất định trả tiền.”