BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐH MỞ TP. HCM KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG BÀI TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: “LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP” Khoa: Tài Chính- Ngân Hàng Lớp: TN9D SVTH: Nhóm TN9A GVHD: TS Nguyễn Trung Trực Năm Học: 2010- 2011 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐH MỞ TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: “LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”
Khoa: Tài Chính- Ngân HàngLớp: TN9DSVTH: Nhóm TN9AGVHD: TS Nguyễn Trung TrựcNăm Học: 2010- 2011
Tp. HCM, ngày 25/11/2010
1
DANH SÁCH NHÓM
TÊN MSSV
2
3
Nhận xét của GVHD
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
..........................................................................................................
LỜI NÓI ĐẦU
Lạm phát ở Việt Nam đang nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò
của nó đối với sự tăng trưởng kinh tế. Sau hơn một thập kỷ lạm phát ở mức vừa
phải, hiện nay lạm phát ở nước ta đang ở mức cao, đặc biệt là năm 2007 và 2008
và nó đã và đang là “kẻ phá hoại” có tác động xấu đến các hoạt đông kinh tế. Nó
như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp
đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt kết quả khả
quan. Cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên
nhân của lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển thị trường
ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, việc
nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có
vai trò to lớn góp phần vào sự phát triển đất nước.
Vì vây, chúng em chọn đề tài “ Lạm Phát ở Việt Nam: Thực Trạng Và Giải
Pháp” để có thể nghiên cứu kỹ hơn về lạm phát ở Việt Nam và qua đó chúng em
có thể rút ra các biện pháp khắc phục nhằm giảm lạm phát trong thời kỳ kinh tế
mở và phát triển một cách đồng bộ ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót, chúng em
kính mong sự góp ý chân thành của thầy cô và bạn đọc để đề tài nghiên cứu được
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
4
MỤC LỤC
Phần 1. Cơ sở lý luận
1.1 Khái niệm về lạm phát ....................................................................................6
1.2 Phân loại lạm phát ...........................................................................................6
1.2.1 Phân loại theo mức độ của tỷ lệ lạm phát hay dựa theo định lượng ............6
1.2.2 Căn cứ vào định tính ....................................................................................7
1.2.3 Thiểu phát ....................................................................................................7
1.3 Đo lường lạm phát.......................................................................................... 8
1.3.1 Chỉ số giá tiêu dùng..................................................................................... 8
1.3.2 Chỉ số giảm phát theo GDP (Id)................................................................... 9
1.3.3 Chỉ số giá sản xuất .....................................................................................10
1.3.4 Chỉ số giá sinh hoạt.................................................................................... 10
1.3.5 Chỉ số giá bán buôn.................................................................................... 10
1.4 Các nguyên nhân gây ra lạm phát................................................................. 10
1.4.1 Lạm phát do cầu kéo.................................................................................. 10
1.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy............................................................................. 11
1.4.3 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ........................................................ 13
1.5 Tác động của lạm phát.................................................................................. 13
Phần 2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
2.1 Lạm phát việt nam qua các giai đoạn............................................................ 15
2.1.1 Giai đoạn đất nước việt nam đang bị thực dân và đế quốc đô hộ.............. 15
2.1.2 Giai đoạn từ năm 1976- 1980..................................................................... 15
2.1.3 Giai đoạn từ 1981- 1988........................................................................... 16
2.1.4 Giai đoạn 1988-1995.................................................................................. 17
5
2.1.5 Giai đoạn 1995-2005.................................................................................. 17
2.1.6 Giai đoạn 2006 đến nay............................................................................. 21
2.1.6.1 Giai đoạn lạm phát tăng nhanh............................................................... 21
2.1.6.2 Giai đoạn giảm lạm phát (3 tháng cuối năm 2008).................................. 24
2.1.6.3 Lạm phát năm 2009................................................................................. 24
2.1.6.4 Năm 2010................................................................................................. 25
2.2 Tác động của lạm phát đến các biến số vĩ mô............................................... 26
2.2.1 Tăng trưởng kinh tế.................................................................................... 26
2.2.2 Tỉ lệ thất nghiệp.......................................................................................... 29
2.3 Các chính sách của nhà nước trong giai đoạn hiện nay................................. 31
2.3.1 Năm 2007................................................................................................... 31
2.3.2 Năm 2008................................................................................................... 33
2.3.3 Năm 2009................................................................................................... 40
Phần 3. Giải pháp kiềm chế lạm phát
3.1 Những biện pháp cấp bách............................................................................ 43
3.1.1 Biện pháp về chính sách tài khóa............................................................... 43
3.1.2 Biện pháp thắt chặt tiền tệ.......................................................................... 43
3.1.3 Biện pháp kiềm chế giá cả......................................................................... 44
3.1.4 Biện pháp đóng băng lương và giá để kiềm chế giá.................................. 44
3.1.5 Biện pháp cải cách tiền tệ.......................................................................... 44
3.2 Những biện pháp chiến lược......................................................................... 44
3.2.1 Xây dựng và thực hiên chiến lược phát triển kinh tế phù hợp................... 44
3.2.2 Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn toàn.............................. 45
3.2.3 Dùng lạm phát để chống lạm phát............................................................. 45
Tài liệu tham khảo.......................................................................................... 46
6
Phần 1. Cơ sở lý luận
1.1 Khái niệm về lạm phát
Ban đầu chưa có một định nghĩa thống nhất về lạm phát, vì vậy đã có nhiều
quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế học như:
Theo Karl-Marx : “Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết.”
V.LLenine: “Lạm phát là sự thừa ứ tiền giấy trong lưu thông.”
Miltan Friedman: “Lạm phát bao giờ ở đâu bao giờ cũng là một hiện tượng
cưa tiền tệ.”
R.Dornbusch và Fisher: “Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền
kinh tế tăng lên.”
Các khái niệm trên đều dựa trên đặc trưng :
Lượng tiền lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá.
Mức giá cả chung tăng lên.
Vậy lạm phát: “Là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu
thông tiền giấy. Là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm
cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt”.
1.2 Phân loại lạm phát
1.2.1 Phân loại theo mức độ của tỷ lệ lạm phát hay dựa theo định lượng
Lạm phát vừa phải: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm
ở dưới mức một con số hằng năm (dưới 10% một năm). Hiện ở phần lớn các nước
TBCN phát triển đang có lạm phát vừa phải.
Lạm phát phi mã: Lạm phát phi mã xảy ra khi giả cả bắt đầu tăng với tỷ lệ
hai hoặc ba con số như 20%, 100% hoặc 200%... một năm.
Siêu lạm phát: Xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng gấp nhiều lần ở mức 3 con
số hằng năm trở lên.
Ví dụ: Lạm phát ở Zimbabwe
7
Zimbabwe Inflation rate
Year Inflation rate2003 400%2004 450%2005 700%2006 900%2007 7892%2008 200000%
1.2.2 Căn cứ vào định tính
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao
động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do
đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền
kinh tế nói chung.
Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người
lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời
kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự
đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã
quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh
hưởng đến đời sống, đến kinh tế.
Lạm phát bất thường: Xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện.
Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích
nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm
tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút .
1.2.3 Thiểu phát
Thiểu phát: Trong kinh tế học là lạm phát ở tỉ lệ rất thấp, đây là một vấn nạn
trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở việt nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát
8
với giảm phát (sự suy giảm liên tục của mức giá chung của các hàng hóa và dịch
vụ hay sự gia tăng sức mua trong nước của đồng nội tệ). Không có tiêu chí chính
xác tỉ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số
tài liệu kinh tế học cho rằng tỉ lệ lạm phát ở mức 3- 4 phần trăm một năm trở
xuống được coi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ
(ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản thì tỉ lệ lạm
phát 3- 4 phần trăm một năm được coi là trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức
được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002- 2003, tỉ lệ lạm phát ở mức 3- 4
phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu
phát.
1.3 Đo lường lạm phát
Tỷ lệ lạm phát: được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung.
Trong đó: pt : tỷ lệ lạm phát thời kỳ t Pt: mức giá của thời kỳ t Pt-1: mức giá của thời kì trước đó
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất tỉ lệ lạm phát, vì giá trị của nó
biểu hiện qua các chỉ số phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa
trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực
hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
1.3.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI-Consumer Price Index ): là chỉ số đo lường
thông dụng nhất, cơ bản nhất, đo giá cả của một sự lựa chọn các hàng hóa hay
được mua bởi "người tiêu dùng thông thường".
Chú ý: Trong khi tính toán thì phải chọn 1 số nhóm hàng tiêu dùng mang tính
chất đại diện từ đó khảo sát biến động giá.
9
Trong đó:
CPIt: Chỉ số giá tiêu dùng của năm t Pit và Pi0 là mức giá của sản phẩm i trong năm t và năm 0 Qi0 là sản lượng sản phẩm i trong năm 0 Năm 0 là năm gốc
Ví dụ:Ngân sách cho: 60% thực phẩm; 20% cho y tế; 20% cho giáo dục
Giá thực phẩm tăng 8%, Y tế tăng 7%, Giáo dục tăng 5%
CPI năm: (108×0,6) + (107×0,2) + (105×0,2) = 107(tỉ lệ lạm phát là 7%)
1.3.2 Chỉ số giảm phát theo GDP (Id): phản ánh sự thay đổi của mức giá trung
bình của tất cả hàng hóa và dịch vụ sản xuất ở năm hiện hành (năm t) so với năm
gốc.
Id của năm t được tính theo công thức:
Trong đó: GDPdn: GDP danh nghĩa năm t GDPt: GDP thực năm t Qit: khối lượng sản phẩm i được sản xuất ở năm t Pit: đơn giá sản phẩm loại i ở năm t Pio: đơn giá sản phẩm i ở năm gốc
So sánh CPI và Id ta thấy có 3 điểm khác nhau:
10
100*GDPt
GDPdnId 100*
to
tt
qipi
qipi
Thứ nhất, Id phản ánh mức giá trung bình của tất cả hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất ra trong nền kinh tế; còn CPI phản ánh giá của những hàng
hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng mua.
Thứ hai, Id phản ánh giá của những hàng hóa sản xuất trong nước, do đó
khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng lên, chỉ phản ánh trong CPI, không được
tính trong Id.
Thứ ba, CPI được tính bằng cách sư dụng giỏ hàng hóa cố định, trong khi
Id được tính bằng cách sư dụng giỏ hàng hóa thay đổi theo thời gian.
Cả hai đều có nhược điểm là CPI có xu hướng đánh giá quá cao sự tăng giá sinh
hoạt trong khi Id lại có xu hướng đánh giá quá thấp sự tăng giá sinh hoạt.
1.3.3 Chỉ số giá sản xuất (PPI- Production Price Index): đo mức giá mà các nhà
sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó
khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị
nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã
thanh toán.
1.3.4 Chỉ số giá sinh hoạt (CLI- Cost of Living Index): là sự tăng trên lý thuyết
trong giá cả sinh hoạt của một cá nhân, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
được giả định một cách xấp xỉ.
1.3.5 Chỉ số giá bán buôn (WPI - Wholesale Price Index) : đo sự thay đổi trong
giá cả của một sự lựa chọn các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán
có thuế). Chỉ số này rất giống với PPI.
1.4 Các nguyên nhân gây ra lạm phát
1.4.1 Lạm phát do cầu kéo (Demand-Pull Inflation)
Diễn ra do tổng cầu AD tăng nhanh hơn tiềm năng sản xuất của một quốc gia,
sẽ gây ra sự tăng giá cả và lạm
phát xảy ra.
11
Hình 1
Sản lượng tăng tới Y1
Giá tăng từ PO tới P1 (từ PO đến P1 là lạm phát- Hình 1)
Lạm phát được coi là do sự tồn tại của mức cầu quá cao.
AD tăng có thể do:
Khu vực tư nhân lạc quan về nền kinh tế, nên tiêu dùng tự định và đầu tư tự
định tăng lên.
Chính phủ tăng chi tiêu.
Ngân hàng trung ương tăng lượng cung tiền.
Người nước tăng mua hàng hóa và dịch vụ trong nước.
Kết quả đường tổng cầu AD sẽ dịch chuyển sang phải, trong ngắn hạn sẽ
làm cho sản lượng tăng lên, đồng thời mức giá chung tăng lên.
1.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy (Cost- Pull Inflation)
Xuất phát từ sự sụt giảm trong tổng cung, mà nguyên nhân là do chi phí sản
xuất của nền kinh tế tăng lên.
Đường tổng cung dịch chuyển sang trái từ ASO sang AS1. Kết quả sản lượng sụt
giảm từ YO xuống Y1, mức giá sẽ tăng từ PO lên P1, nền kinh tế vừa suy thoái vừa
lạm phát (Hình 2).
12
Hình 2
Các nhân tố làm tăng chi phí:
Chi phí tiền lương : Tiền lương gia tăng do áp lực từ công đoàn, từ chính
sách điều chỉnh lương của chính phủ làm tiền lương tăng lên vượt mức tăng
năng suất lao động là nguyên nhân đẩy chi phí tăng.
Lợi nhuận : Nếu doanh nghiệp có quyền lưc thị trường (độc quyền, nhóm
độc quyền) có thể đẩy giá tăng lên để kiếm lợi nhuận cao hơn .
Nhập khẩu lạm phát :Trong nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp phải
nhập một lượng không nhỏ nguyên nhiên liệu (NVL) từ nước ngoài nếu chi
phí NVL tăng do nhiều nguyên nhân không thuộc sự kiểm soát trong nước
khi đó doanh nghiệp phải chấp nhân mua NVL với giá cao.
Chi phi NVL tăng cao có thể do các nguyên nhân sau:
Tỉ giá hối đoái: Nếu đồng nội tệ bị mất giá thì hàng hóa trong nước sẽ rẻ
hơn so với ở nước ngoài. Khi đó, xuất khẩu sẽ có lợi hơn nhập khẩu vì thế
làm chi phí nhập khẩu nguyên vật liệu tăng cao.
Thay đổi giá cả hàng hóa: Khi giá cả hàng hóa thế giới tăng thì các doanh
nghiệp trong nước phải đối mặt với chi phí cao hơn nếu sư dụng hàng hóa
này làm NVL để sản xuất kinh doanh .
13
Những cú sốc từ bên ngoài: Các cuộc khủng hoảng về nguyên liệu, vật liệu
chính như dầu mỏ, sắt thép ,than đá,…làm chi phí sản xuất tăng.
Sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cũng đẩy giá cả tăng khi bị khai thác cạn
kiệt.
1.4.3 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ (Monetary- Theory Inflation)
Những nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do lượng cung
tiền thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra và được giải thích bằng phương trình
sau:
M*V=P*Y
Trong đó:
M: lượng cung tiền danh nghĩa V: tốc độ lưu thông tiền tệ
P: chỉ số giá Y: sản lượng thực
Với giả thiết V và Y không đổi nên chỉ số giá phụ thuộc vào lượng cung tiền
danh nghĩa, khi cung tiền tăng thì mức giá cũng tăng theo cùng tỉ lệ, lạm phát xảy
ra.
Thuyết này chỉ đúng khi V và Y không đổi.
1.5 Tác động của lạm phát.
Lạm phát có sự ảnh hưởng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội tùy
theo mức độ của nó.
Tác động tích cực : Khi lạm phát ở mức độ vừa phải có tác dụng thúc đẩy kinh
tế. Lạm phát ở mức này thường được chính phủ duy trì như một chất xúc tác
cho nền kinh tế.
Tác động tiêu cưc :
Phân phối lại thu nhập và của cải: Khi lạm phát xảy ra những người có tài
sản ,vay nợ là có lợi vì giá của tài sản nói chung tăng lên còn giá trị đồng tiền
bị giảm xuống. Ngược lại những người làm công ăn lương, cho vay, gưi tiền
bị thiệt hại.
14
Tác động đến kinh tế và việc làm: Lạm phát ở mức cao làm nền kinh tế bị
bất ổn, hàng hóa chở nên đắt đỏ dãn đến tình trạng đầu cơ tích trữ tăng tỉ giá
hối đoái, hoạt động tín dụng rơi vào khủng hoảng nguồn tiền gưi sụt giảm
nhanh chóng.
Ngoài ra lạm phát còn tác động đến tỉ lệ thất nghiệp: khi lạm phát tăng thì thất
nghiệp giảm xuống và ngược lại.
15
Phần 2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam2.1 Lạm phát Việt Nam qua các giai đoạn.
2.1.1 Giai đoạn đất nước việt nam đang bị thực dân và đế quốc đô hộ.
Thời kì 1938- 1945: Ngân hàng đông dương cấu kết với chính quyền thực
dân pháp đã lạm phát đồng tiền đông dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam
đem về pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và sau đó để nuôi
mấy chục vạn quân nhận bán đông dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam
Á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải gánh chịu giá sinh hoạt
từ 1939- 1945 bình quân 25 lần.
Thời kì 1946- 1954: chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng đông dương
và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của toàn dân tiến hành
cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phóng hoàn
toàn nưa đất nước.
Thời kì 1955- 1965: chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền nam Việt
Nam liên tục lạm phát đồng tiền miền nam để bù dắp lại cuộc chiến tranh chống
lại phong trào giải phóng dân tộc ở miền nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào
Việt Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng
không thể bù đắp lại chi phí.
Thời kì 1965- 1975: ở miền bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến
tranh phá hoại của Mỹ tai miền bắc, giải phõng miền nam thống nhất đất nước đã
phát hành số tiền (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miên bắc) để huy động
lực lượng toàn dân, đánh thắng quân xâm lược Mỹ và tay sai ở cả hai miền, nhưng
nhờ có sự viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN) anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời kì này.
2.1.2 Giai đoạn từ năm 1976-1980
16
Là giai đoạn được coi là không có lạm phát theo quan niệm kinh tế chính trị
phổ biến trong các nước XHCN đương thời và không được phản ánh trong các
thống kê chính thức.Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt Nam khi đó vẫn có lạm phát,
thể hiện ở sự khan hiếm hàng hoá, dịch vụ và sự giảm sút của chúng, đồng thời
được ghi nhận trong sự diễn biến gia tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng
trên thị trường xã hội trên dưới 20% trên một năm và đó là lạm phát của nền kinh
tế kém phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế, nơi độc quyền nhà
nước còn mang đậm tính chất phi kinh tế và được dung dưỡng bởi các chỉ thị của
nhà nước và tồn tại thống trị phổ biến trong tất cả các lĩnh vực. Vào thời kỳ này
khu vực kinh tế Nhà Nước chiếm khoảng 85 - 87% vốn cố định, 95% lao động
lành nghề mà chỉ tạo ra 30 – 37% tổng sản phẩm xã hội. Trong khi đó khu vực
kinh tế tư nhân chỉ chiếm 13,2% sức lao động xã hội và suốt thời kỳ dài trước năm
1986 bị nhiều sức ép kiềm chế , xong lại sản xuất ra tới 32 – 43% tổng sản phẩm
xã hội và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất so với khu vực kinh tế quốc doanh và hợp
tác xã. Mặt khác lạm phát ở Việt Nam diễn ra trong suốt nền kinh tế đóng cưa phụ
thuộc nhiều vào nguồn viện trợ bên ngoài.Trên thực tế, trước năm 1988 không có
đầu tư trực tiếp của nước ngoàI vào Việt Nam. Các biên giới đều bị khép lại với
chế độ xuất nhập cảnh cũng như lưu thông hàng hoá rất nghiêm ngặt, phiền phức.
Cơ cấu chủ yếu có tính hướng nội, khép kín, thay thế hàng nhập khẩu và không
khuyết khích xuất khẩu. Cùng với chính sách định hướng phát triển và đầu tư có
nhiều bất cập, nên cơ cấu kinh tế Việt Nam bị mất cân đối và không hợp lý
nghiêm trọng giữa công nghiệp – nông nghiệp, công nghiệp nặng - công nghiệp
nhẹ, nhất là ngành sản xuất hàng tiêu dùng, giữa sản xuất – dịch vụ. Đó là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ, tăng chi phí sản xuất, thiếu
hụt ngân sách chiền miên, tăng mức cung tiền không tuân theo quy luật lưu thông
tiền tệ …và do đó gây ra lạm phát .
2.1.3 Giai đoạn 1981- 1988
Thời kỳ từ năm 1981 đến năm 1988: là thời kỳ lạm phát chuyển từ dạng “ẩn”
sang dạng “mở”. Thực tế cho thấy rằng từ năm 1981 đến năm 1988 chỉ số tăng giá
17
đều trên 100% một năm. Vào năm 1983 và 1984 đã giảm xuống, nhưng năm 1986
đã tăng vọt tới mức cao nhất là 557% sau đó có giảm. Như vậy, mức lạm phát cao
và không ổn định. Song vấn đề lạm phát chưa được thừa nhận trong các văn kiện
chính thức. Vấn đề này chỉ được quy vào sư lý các khía cạnh “giá - lương- tiền”,
mà lại chủ yếu bằng các giải pháp hành chính, như xem xét và đIều chỉnh đơn giản
giá cả trong khu vực thị trường có tổ chức những năm 1981,1983,1987, và “bù vào
giá lương” năm 1985…Đây là thời kì xuất hiện siêu lạm phát với 3 chữ số kéo dài
suốt 3 năm 1986-1988, và đạt đỉnh cao nhất trong lịch sư kinh tế hiện đại nước ta
suốt nưa thế kỉ nay.
2.1.4 Giai đoạn 1988-1995
Liên tục từ năm 1988, mọi nỗ lực của chính phủ được tập trung vào kiềm
chế, đẩy lùi lạm phát từ mức 3 chữ số xuống còn 1 chữ số. Đây là kết quả của quá
trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong khi lạm phát được kéo
xuống thì kinh tế vẫn tăng trưởng cao và khá ổn định, bình quân hàng năm tăng 7–
8%.
Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (tỷ lệ %)
Năm 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995
Tăng trưởng
5.1 8.0 5.1 6.0 8.6 8.1 8.8 9.5
Lạm phát
410.9 34.8 67.2 67.4 17.2 5.2 14.4 12.7
2.1.5 Giai đoạn 1995-2005
Số liệu của Tổng cục Thống kê về chỉ số giá tiêu dùng các năm từ 1996 đến
năm 2005, nhìn trên đồ thị giống như như đường cong có đáy là năm 2000 và 2
đỉnh lần lượt là 1996 và 2005.
18
Hình 3: Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12
mỗi năm so với tháng 12 năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Trong giai đọan 1996 đến 2005, giá tiêu dùng chung đã tăng 51%. Như vậy,
sau 10 năm giá tiêu dùng tăng 51% thấp hơn tốc độ tăng của thu nhập bình quân
đầu người của hộ gia đình; theo số liệu Tổng cục Thống kê thu nhập bình quân
đầu người năm 2004 (484,4 nghìn đồng) tăng 64,2% so với năm 1999 (295,0
nghìn đồng). Điều đó chứng tỏ đời sống của người dân được cải thiện.
Bảng 2: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 1995 đến 2005( Nguồn: Tổng cục Thống kê)
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
96-05
Chỉ số giá tiêu dung
1,127 1,045 1,036 1,092 1,001 0,994 1,008 1,04 1,03 1,095 1,084 1,51
Lương thực
1,206 1,002 1,004 1,231 0,921 0,921 1,060 1,026 1,029 1,143 1,078 1,45
Thực phẩm
1,193 1,163 1,021 1,086 1,005 0,993 1,002 1,079 1,029 1,171 1,12 1,88
Đồ uống và thuốc lá
1,193 1,160 1,021 1,053 1,026 1,003 1,011 1,036 1,035 1,036 1,049 1,51
May mặc,giày dép, mũ
1,078 1,032 1,032 1,023 1,019 1,004 1,008 1,011 1,034 1,041 1,05 1,28
19
nónNhà ở và Vật liệu xây dựng
1,167 0,963 1,028 1,017 1,025 1,047 1,008 1,071 1,041 1,074 1,098 1,43
Thiết bị và đồ dùng gia đình
1,053 1,012 1,042 1,025 1,035 1,023 1,009 1,008 1,019 1,036 1,048 1,29
Dược phẩm, y tế
1,011 0,998 1,016 1,087 1,041 1,036 0,998 1,005 1,209 1,091 1,049 1,65
Phương tiện đi lại, bưu điện
1,05 1,032 1,08 1,03 1,016 1,019 0,953 1,017 0,98 1,059 1,091 1,30
Giáo dục
1,117 0,993 1,027 1,096 1,038 1,041 1,036 1,012 1,049 0,982 1,05 1,37
Văn hóa, thể, giải trí
1,117 0,993 1,027 1,013 1,019 1,009 1,002 0,99 0,987 1,022 1,027 1,09
Hàng hóa và dịch vụ khác
1,098 1,085 1,087 1,04 1,031 1,041 1,014 1,02 1,043 1,052 1,06 1,58
Chỉ số giá vàng
0,976 1,025 0,934 1,007 0,998 0,983 1,050 1,194 1,266 1,117 1,113 1,87
Chỉ số giá đô la Mỹ
0,994 1,012 1,142 1,096 1,011 1,034 1,038 1,021 1,202 1,004 1,009 1,71
Phân tích biến động giá cả theo 10 nhóm hàng xếp theo thứ tự nhóm có tốc độ tăng giá cao nhất đến thấp nhất như sau:
Nhóm thực phẩm tăng 88%,
Nhóm dược phẩm và dịch vụ y tế tăng 65%,
Đồ uống và thuốc lá tăng 51%,
Lương thực tăng 45%,
Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 43%,
Giáo dục tăng 37%,
Phương tiện đi lại, bưu điện tăng 30%,
Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 29%,
20
May mặc, giày dép, mũ nón tăng 28%,
Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 58%
Ta nhận thấy trong 10 nhóm hàng trên, nhóm hàng thực phẩm và nhóm hàng
dược phẩm và dịch vụ y tế có tốc độ tăng cao nhất. Điều này có nghĩa là đời sống
của nhóm người nghèo mà thu nhập của họ chủ yếu dùng mua thực phẩm không
được cải thiện bao nhiêu.
Và bắt đầu từ năm 2001, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dựa vào các ngành thâm
dụng lao động đó là công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp với kim ngạch xuất
khẩu tăng với tỷ lệ cao, cùng với nó là chỉ số gía tiêu dùng cũng có tăng cao.
Bảng 3: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 1995-2005
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005Hàng công nghiệp nặng và khóang sản (%) 25,3 28,7 28,0 27,9 31,0 37,2 34,9 31,8 32,2 36,4 33,8 Hàng công nghiệp nhẹ và TTCN (%) 28,5 28,9 36,7 36,6 36,3 33.8 35,7 40,6 42,7 41,0 40,3
Bảng 4: Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 1995-2005
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005Tư liệu sản
xuất chiếm (%) 84,8 89,9 91,5 93,6 94,7 93,8 92,1 92,1 92,2 93,3 94,3
Xét yếu tố giá hàng nhập khẩu ảnh hưởng đến tình hình lạm phát, ta thấy các
năm 1998, 1999, 2001, 2002 giá hàng nhập khẩu giảm trùng với tình hình giảm
lạm phát các năm 1999, 2000. Các năm sau giá nhập khẩu tăng lên thì chỉ số giá
tiêu dùng cũng tăng tương ứng.
Như vậy, mối tương quan giữa chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng là
khá chắc chắn.
21
Trong giai đọan 1996 đến 2005, chỉ số giá nhập khẩu tăng 18,8%; trong khi đó
chỉ số giá tiêu dùng tăng 51%. Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng tăng, ngòai yếu tố do
giá hàng nhập khẩu, còn do xuất khẩu, do cung tiền và các yếu tố khác…
Bảng 5: Chỉ số giá hàng nhập khẩu từ 1995 đến 2005
22
( Nguồn: Tổng cục Thống kê)
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 200596-05
Chỉ số Chung 1,073 1,048 1,035 0,98 0,901 1,034 0,983 0,999 1,034 1,096 1,078 1,18Hàng tiêu dùng nhập khẩu 1,065 1,025 1,031 0,973 0,953 0,965 0,976 0,978 1,011 1,008 1,022 0,94Tư liệu sản xuất nhập khẩu 1,075 1,054 1,036 0,982 0,901 1,049 0,984 1,002 1,038 1,126 1,095 1,27
2.1.6 Giai đoạn 2006 đến nay
2.1.6.1 Giai đoạn lạm phát tăng nhanh
Dấu hiệu lạm phát đã xuất hiện từ tháng 6 năm 2007 khi CPI tháng 6 tăng
vọt lên 1%, trái hẳn với thông lệ giá cả hơn một thập kỉ qua. Tín hiệu này đã được
ghi nhận và xư lý kịp thời. Tuy nhiên do không phân tích đúng nguyên nhân của
lạm phát, thêm vào đó việc triển khai thực hiện không nghiêm túc nên mặc dù tăng
trưởng kinh tế cả năm 2007 ở mức cao trên 8.5%, song lạm phát cũng ở mức kỷ
lục 12.63%. Nếu so sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên
thế giới như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%; Thái Lan: 3,21%;
Khu vực đồng Euro: 3,07%; Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần
cao hơn.
Nưa đầu năm 2008, lạm phát liên tục leo thang và vượt qua mọi qui luật đã
hình thành hàng chục năm nay, buộc Việt Nam phải điều chỉnh chính sách từ ưu
tiên tăng trưởng kinh tế sang kiềm chế lạm phát.
Một câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao các nước
khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp hơn so với
lạm phát của Việt Nam? Cụ thể:
Hình 4. Bức tranh lạm phát của một số nước châu Á (Tính đến tháng 6/2008)
23
Chỉ sau 6 tháng, Tổng cục thống kê công bố công bố chỉ số CPI đã lên tới
26.8% so với tháng 6 năm 2007 và 18.44% so với cuối năm 2007. Riêng nhóm
hàng lương thực, thực phẩm tăng tương ứng tới 74.3%. Điều này đã phá vỡ mọi dự
tính của chúng ta về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Càng nghiêm trọng
hơn khi Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 60% dân số và lực lượng lao
động là nông dân. Sự phụ thuộc của nền kinh tế nói chung và của giá cả thị trường
nói riêng vào những biến động trong khu vực sản xuất lương thực, thực phẩm của
nước ta còn rất lớn, mặc dù tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP giảm xuống chỉ
còn 20%.
Thông thường những tháng gần tết giá cả tăng nhanh. Nhưng năm 2008 đặc
biệt hơn vì qua tết Mậu tý mà giá cả vẫn ở mức cao trái ngược với qui luật vận
động của giá cả trong thời gian gần đây.
Sau hơn 1 thập kỉ từ năm 1992, “bóng ma” lạm phát dường như đang quay
trở lại và đe dọa những thành quả kinh tế xã hội mà nước ta đạt được.
Trong những tháng đầu năm vật giá leo thang từng tháng. Giá cả tăng liên
tục đã đẩy mức lạm phát tháng sau cao hơn tháng trước. So với tháng 12 (2007),
CPI tháng 1 (2008) tăng 2.4%, sang tháng 2 tăng vọt lên 6%, tháng 3 là 9.2%. Đến
tháng 4 chỉ số CPI đã lên tới 2 con số (11.6%) và tháng 5 lại tăng đột ngột tới
16%. Đỉnh điểm lạm phát đã đến mức 3.91% vào tháng 5 (2008), trùng với thời
24
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
16%
18%
4.80% 5%
7.50% 7.70%8.70% 8.96%
11.40%
12.75%
17.18%
điểm giá gạo trên thị trường quốc tế ở mức 1000 USD/ tấn, khủng hoảng lương
thực đã trở thành mối đe dọa toàn cầu. Ngay cả ở một cường quốc xuất khẩu gạo
như Việt Nam mà tin đồn thiếu gạo đã làm rất nhiều người dân hoang mang, lo
lắng sẽ quay về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Còn các cơ quan chức năng nhà
nước do dự báo sai lệch nên yêu cầu các doanh nghiệp ngừng xuất khẩu mặc dù
giá lúa gạo đang rất cao, làm thiệt hại lớn cho người dân.
GDP nưa đầu năm chỉ tăng 6.5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều
so với mức tăng cùng kỳ một số năm gần đây. Xuất hiện những cơn “sốt ảo” USD,
vàng, gạo, thép, vật liệu xây dựng,…Thâm hụt thương mại tăng vọt (gần 50% tổng
kim ngạch xuất khẩu). Thị trường chứng khoán thiết lập đáy mới chỉ bằng khoảng
¼ đỉnh cao nhất là 1173 điểm, đánh mất toàn bộ điểm tích lũy được 3 năm qua.
Giá vàng có thời điểm lên đến xấp xỉ 20 triệu VND/ lượng, tỷ giá hối đoái trên thị
trường đã từng vượt mốc 19000 VND/ USD….
Nền kinh tế Việt Nam cuối tháng 5 đầu tháng 6 mấp mé bờ vực khủng
hoảng với những “bong bóng” khổng lồ chực chờ nổ tung trên thị trường tài chính
tiền tệ, thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường bất động sản.
Các tháng 6,7,8 chỉ số CPI đã lên cao chóng mặt lần lượt là 18.4%, 19.8% và
21.7%.
Chỉ sau 3 quý đầu năm, CPI đã vượt mức 20%, đạt được mức kỷ lục từ 17
năm qua.
Hình 5. Chỉ số giá tiêu dùng trong 10 tháng đầu năm 2008(Nguồn: www.tuoitre.com.vn)
25
Điều đó cũng góp phần đẩy nhanh tốc độ mất giá của đồng tiền: sau 3 năm
(tính đến tháng 9/ 2008) đồng tiền đã mất giá 48.5% so với kỳ gốc 2005.
2.1.6.2 Giai đoạn giảm lạm phát (3 tháng cuối năm 2008)
Sang tháng 10,11,12 liên tiếp 3 tháng giá nhiều loại hàng hóa đã chựng lại
và giảm xuống. CPI cũng giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế tháng âm: -0.19 (tháng
10), -0.76 (tháng 11), -0.66 (tháng 12). Tỷ lệ lạm phát từ 20.05% vào thời điểm
tháng 9 chỉ còn 19.86% so với tháng 12 (2007), làm dịu cơn lạm phát của Việt
Nam. Nguyên nhân là do những tháng đầu năm giá mặt hàng lương thực, thực
phẩm tăng nhanh; hàng phi lương thực thực phẩm mặc dù chậm nhưng vẫn tăng
giá. Đến cuối năm hàng lương thực - thực phẩm dường như không tăng nữa và đồ
thị là một đường nằm ngang. Trong khi đó giá hàng hóa phi lương thực - thực
phẩm giảm nhanh nên tốc độ tăng giá chung giảm xuống. Bên cạnh đó là nhờ
những biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ đã phát huy tác dụng chẳng hạn
như Nghị quyết số 10/2008/ NQ- CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững
với 8 nhóm giải pháp…..
Cúng ta đã chủ trương đúng khi giảm tốc độ tăng trưởng và tập trung vào
chống lạm phát. Thành công nhờ hệ thống chống lạm phát bảo đảm tính trọn gói,
sát với nguyên nhân. Đặc biệt chúng ta có sức mạnh khi tập hợp, huy động cả hệ
thống chính trị, cả dân tộc và các doanh nghiệp tham gia chống lạm phát.
2.1.6.3 Lạm phát năm 2009
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12-
2009 tăng 1,38% so với tháng trước.
Như vậy, CPI của cả năm 2009 dừng ở mức 6,88%, đúng mục tiêu của
Chính phủ đề ra là kiểm soát lạm phát dưới hai con số.
Tăng giá mạnh nhất là nhóm giao thông: 2,47%, tiếp theo là nhóm hàng ăn
và dịch vụ ăn uống: 2,06%. Trong nhóm này, riêng mặt hàng thực phẩm tăng đột
biến: 6,88%. Đứng thứ 3 là nhóm nhà ở - vật liệu xây dựng, tăng 1,40%. Các
26
nhóm hàng hóa còn lại đều tăng 1% hoặc thấp hơn. Tăng giá ít nhất là nhóm thiết
bị đồ dùng gia đình: 0,25%.
Chỉ số giá USD và vàng biến động mạnh. Giá vàng chỉ tăng thêm 0,49%
trong tháng 12 nhưng cả năm 2009 đã tăng đến 9,16%. Chỉ số giá USD tháng 12
tăng 3,19% khiến mức tăng cả năm lên đến 9,17%.
2.1.6.4 Năm 2010
Tháng 11 chỉ số giá tiêu dùng CPI tại TP.HCM là 1,73% còn tại Hà Nội là
1,93%, ước tính cả nước vào khoảng 1,86%. Như vậy chỉ số CPI 11 tháng đã lên
đến 9,4% và dự tính cả năm CPI sẽ ở mức hai con số. Tổng cục Thống kê cho biết,
nguyên nhân chính đẩy chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 tăng là do chỉ số giá nhóm
hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng mạnh tới 3,45% so với tháng trước. Bên cạnh đó,
giá lương thực cũng tăng tới 6,02%; thực phẩm tăng 3,27%; ăn uống ngoài gia
đình tăng 1,19%. Một số mặt hàng khác như thép, xi măng, gas tăng giá nên đưa
chỉ số giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,74%. Nhóm hàng hóa dịch vụ
khác tăng 0,99%. CPI nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,9% là do tháng
này vẫn nằm trong giai đoạn chuyển mùa, nhu cầu các sản phẩm thời trang tăng
hơn. Trong khi nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 0,94% . Chỉ số giá vàng tháng 11 tăng
8,67%, USD tăng 3% so với tháng trước.
Trong năm 2010, giá tăng do nhiều nguyên nhân do chi phí giáo dục tăng,
giá lương thực thế giới tăng kéo giá lương thực trong nước tăng 16%. Ngoài ra giá
xăng dầu thế giới tăng cũng làm nhóm chi phí giao thông vận chuyển tăng.
Nền kinh tế Việt Nam hiện có độ mở cưa rất lớn, lên đến 140- 150%. Độ
mở cưa nền kinh tế được đánh giá thông qua hoạt động xuất nhập khẩu trên tổng
sản phẩm quốc nội. Kim ngạch xuất khẩu việt nam những năm gần đây khoảng
130- 140 tỉ USD, trong khi GDP chỉ trên 100 tỉ USD. Với độ mở cưa lớn như vậy,
yếu tố giá trong nước phụ thuộc rất nhiều vào giá hàng hóa trên thế giới. Năm
2010, kinh tế thế giới phục hồi, giá nguyên vật liệu tăng làm giá trong nước tăng
theo: giá dầu thô năm 2009 là 60USD/thùng, năm 2010 tren 80USD/thùng.
27
Nhìn chung giá tăng là do chi phí chứ không phải tiền được bơm ra quá
nhiều, thực tế ngân hàng nhà nước đã và đang thực hiện chính sách thát chặt tiền
tệ đề chống lạm phát và bảo vệ sức mua của VND.
2.2 Tác đông của lạm đến các biến số vi mô
2.2.1 Tăngtrương kinh tế
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng
phù hợp với lý thuyết và kết quả kiểm nghiệm trên thế giới. Ở mức lạm phát thấp
(thường là một chữ số) thì lạm phát không có tác động tiêu cực lên tăng trưởng. Ở
mức lạm phát thấp, gia tăng lạm phát thường gắn liền với tăng trưởng cao hơn
(giai đoạn 1992-2007). Tuy nhiên, khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định,
thì lạm phát bắt đầu tác động tiêu cực lên tăng trưởng.
Theo quan điểm của ông Lê Đức Thuý, nguyên Thống đốc ngân hàng nhà
nước (NHNN) khi phát biểu quan điểm này trước Quốc hội: “Tôi cho rằng một
nền kinh tế phát triển bền vững thì lạm phát ở mức thấp hơn tăng trưởng 1-2%.
Chẳng hạn GDP năm 2006 là 8% thì lạm phát là 6-7%”. Theo PGS., TS. Nguyễn
Ái Đoàn, quan điểm này không có cơ sở lý thuyết rõ ràng, không được khẳng định
về mặt lý thuyết, đó là cách phát biểu mang tính ứng dụng trong những điều kiện
nhất định; trên thực tế, luận điểm này đã trở thành nền tảng cho việc thực thi chính
sách tiền tệ nới lỏng kéo dài ở Việt Nam và hệ quả tất yếu là lạm phát ở mức báo
động; theo đó, quan điểm về một tỉ lệ lạm phát tốt nhất là tỉ lệ lạm phát nhỏ hơn
tốc độ tăng trưởng, thực chất chỉ là một cách phát biểu sai lệch, pha trộn giữa một
mức lạm phát mong muốn 1-3% và một mức lạm phát vừa phải còn kiểm soát
được, tức là lạm phát dưới hai chữ số đã biến thành mức lạm phát tốt nhất (2);
tương đồng với phân tích trên của PGS., TS. Đoàn, Ông Nguyễn Văn Phúc,
Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, cũng cho rằng: không có cơ sở khoa
học, không có lý thuyết nào đề cập, không có nghiên cứu kiểm nghiệm; ngưỡng
tác động tiêu cực của lạm phát không phải là bằng tốc độ tăng GDP.
Quan điểm về lạm phát theo ông Lê Đức Thuý “Ngay ở nước ta, trong điều
kiện bình thường, không ít nhà khoa học đã đề nghị tôi đẩy lạm phát lên cao hơn
28
để thúc đẩy tăng trưởng. Thậm chí họ cho rằng, nếu Việt Nam muốn tăng trưởng
cao thì lạm phát hai chữ số là bình thường. Nhưng với tôi, chừng nào còn được
giao nhiệm vụ này, sẽ tiếp tục theo đuổi quan điểm giữ cho lạm phát nằm trong
tầm kiểm soát, và tốc độ lạm phát tốt nhất là không vượt quá tốc độ tăng trưởng”.
Việc muốn tăng cung tiền, chấp nhận lạm phát là hệ quả trực tiếp của quan điểm
về lạm phát như: lạm phát, tăng cung tiền là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế; có sự
đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng, chấp nhận lạm phát để tăng trưởng; hai
quan điểm này tuy khác nhau nhưng có tác động bổ sung cho nhau và làm cho các
nhà hoạch định chính sách tin rằng lạm phát có lợi hơn là có hại cho nền kinh tế
(đặc biệt tỉ lệ lạm phát dưới hai chữ số), lạm phát tăng cung tiền để thêm vốn đầu
tư từ ngân sách là giải pháp tốt nhất để đạt mức tăng trưởng nhanh. Cùng quan
điểm tăng cung tiền là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, ý kiến của ông Vũ Ngọc
Nhung cho rằng “Lạm phát tạo vốn lớn và cực rẻ cho phát triển kinh tế, vốn phát
hành tiền chỉ tốn chi phí in tiền nên cực rẻ”; hoặc “Lạm phát giúp ngân sách vay
ngân hàng nhiều hơn để chi cho sản xuất, tăng thu nhập của người dân”. Các nhà
kinh tế cho rằng tỉ lệ lạm phát cao, tác động tiêu cực đến sản lượng sản xuất của
nền kinh tế thông qua các kênh như đầu tư, tín dụng, tiêu dùng; người cho vay
không có động lực để cho vay vì lãi suất cho vay thường âm trong thời kỳ này và
cho vay thời hạn càng dài càng bị lỗ, với chi phí huy động vốn cao, đẩy lãi suất
cho vay cao, các doanh nghiệp dù thiếu vốn cũng rất e ngại vay vốn vì làm chi phí
tăng cao, hệ quả là kênh tín dụng bị thu hẹp; những kết quả thực tế theo công bố
của NHNN cho thấy dư nợ tín dụng 10 tháng đầu năm 2008 chỉ tăng hơn 19,6%,
thấp hơn mức tăng 37,73% so với cùng kỳ năm 2007; tỉ lệ lạm phát cao làm cho
thu nhập hộ gia đình giảm, chỉ số lạm phát đến tháng 10/2008 là 22,14% cũng có
nghĩa với việc giảm hơn 22% thu nhập so với cuối năm 2007. Mọi người phải tiết
kiệm chi tiêu dẫn đến giảm tiêu dùng; các nhà đầu tư tiềm năng sẽ giảm đầu tư vì
độ rủi ro cao và hậu quả là làm giảm sản lượng sản xuất của nền kinh tế.
Như vậy, việc sư dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực
chất đây là liệu pháp “sốc” với mong muốn tăng trưởng nhanh để đạt được thành
29
tích mong muốn, nhưng hậu quả tiêu cực gây ra cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến
đời sống của dân cư, nhất là tầng lớp nghèo, thu nhập thấp bị tác động nhiều nhất.
Các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhanh, nhưng kém bền vững; hay còn gọi đó là giải pháp tăng trưởng
“bong bóng”. Vì vậy, trong thời gian qua, đã có nhiều ý kiến cần thay đổi quan
điểm về lạm phát như ông Lê Xuân Nghĩa và ông Vũ Quang Việt để đưa nền kinh
tế Việt Nam phát triển bền vững.
Lạm phát của Việt Nam gia tăng trong mấy năm gần đây, phải chăng cũng
có chịu ảnh hưởng bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng? Theo đánh giá
của quỹ tiền tệ Thế Giới (IMF)- (2006) về các nguyên nhân làm tăng lạm phát ở
Việt Nam, bắt đầu từ năm 2005, có dấu hiệu bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức
tiềm năng (những năm trước đó mối quan hệ này là không nhất quán và không rõ
nét).
Một trong những điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng một cách bền vững
đó là sự ổn định sức mua của đồng tiền; đây là một trong những nhiệm vụ luôn
luôn đặt lên hàng đầu ở tất cả các quốc gia trên thế giới được ghi vào Hiến pháp và
Luật Ngân hàng Trung Ương (NHTƯ) của các nước, trong đó Luật NHNN Việt
Nam đã ghi rõ: “Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh
tế- tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng
cao đời sống của nhân dân”.
Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất,
đó là dựa trên cơ sở giá cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này
là: Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tính dự báo được nâng cao.
Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả.
Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân nhắc các mặt
hàng khác để thay thế do giá tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thực chất. Hiện nay, các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2%
là mức tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên, cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn định
30
chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải
là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ
thuật...
Đối với Việt Nam mức lạm phát nào là tối ưu cho tăng trưởng kinh tế? Các
ngưỡng cùng với các phân tích nêu trên có thể cung cấp một mức chuẩn cho Việt
Nam, với một thực tế rằng, các doanh nghiệp Việt Nam và người tiêu dùng không
thích một mức lạm phát cao và không ổn định. Mức lạm phát chuẩn của Việt Nam
có thể gần với mức lạm phát của các nước Đông Nam Á. Nghiên cứu bước đầu
của IMF (2006) về mức độ lạm phát ở Việt Nam với các nước Đông Nam Á cũng
đã chỉ ra rằng, mức lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở các nước vùng Đông
Nam Á, trong đó có Việt Nam khoảng 3,6%.
Một thực tế rằng, các kết quả nghiên cứu về ngưỡng lạm phát tốt cho tăng
trưởng đều không đưa ra với mức tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu. Đây là câu hỏi
quan trọng cho Việt Nam, bởi vì lạm phát mục tiêu được đưa ra trong mối quan hệ
với tăng trưởng kinh tế.
Qua phân tích số liệu trong hơn 20 năm qua, dường như mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng tuân theo quy luật chung.2.2.2 Tỉ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ Lạm phát của:Năm 2004: 9,5 %Năm 2005: 8,4 %Năm 2006: 6,6 %
Năm 2007: 12,63%Năm 2008: 19,89% Năm 2009: 6,52%
Tỷ lệ thất nghiệp của :
Năm 2004 : 6,5%
Năm 2005: 5,6-5.8%
Năm 2006: 5%
Năm 2007: 4,2%
Năm 2008: 4,6%
Năm 2009 : 4,66%
Chúng ta đều biết rằng để kiềm chế lạm phát Nhà nước sẽ thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, tức là giảm mức cung tiền và tăng lãi suất , nhưng phải chấp
nhận tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Nhưng thực tế , thì lý thuyết đó chỉ phù hợp trong
31
1 thời gian ngắn.
Trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên phụ thuộc vào thuộc tính thị
trường lao động còn tỷ lệ lạm phát phụ thuộc trước hết vào sự gia tăng cung tiền ,
do đó lạm phát và thất nghiệp không liên quan nhiều đến nhau. Lúc này các chính
sách tác động tới Tổng cầu chỉ ảnh hưởng tới các biến danh nghĩa ( mức giá, tỷ lệ
lạm phát), mà không có ý nghĩa với các biến thực tế ( sản lượng , tỷ lệ thất
nghiệp).
Năm 2005, lực lượng lao động tại VN có việc làm là 43,46 triệu người,
chiếm 97,9% lực lượng lao động cả nước.Tỉ lệ tăng trưởng việc làm 2,67%; cơ cấu
việc làm tiếp tục chuyển dịch tích cực: Lao động trong khu vực dịch vụ chiếm
25,33%; công nghiệp và xây dựng chiếm 17,88%; nông nghiệp chiếm 56,79%…
Lao động qua đào tạo chiếm khoảng 25%, trong đó 19% qua đào tạo nghề.
Theo đánh giá chung, thực trạng và xu thế phát triển lao động-việc là giai đoạn
2001-2005 của nước ta có nhiều chuyển biến tích cực về đào tạo, giải quyết việc
làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, tăng tỷ lệ thời gian lao động được
sư dụng ở khu vực nông thôn, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động …
Thực tế các DN trong các khu công nghiệp đã phải cắt giảm lao động do suy giảm
kinh tế nhưng không phải tất cả những lao động này đều rơi vào tình trạng thất
nghiệp mà phần lớn họ về quê tìm việc làm mới, có thể không phù hợp nhưng vẫn
có thu nhập, dù thấp.
Chính phủ đã có những giải pháp chống suy giảm kinh tế, duy trì tăng
trưởng và bảo đảm an sinh xã hội; giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng , hoàn thiện
bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ lao động tìm việc, nâng cao chất lượng lao động,
cắt giảm thuế tiêu thụ, , chú trọng đầu tư cho giáo dục, đào tạo nghề cho bà con ở
vùng nông thôn, mở rộng xuất khẩu lao động, hạn chế tăng dân số.......để thúc đẩy
sản xuất phát triển trở lại ,tạo việc làm cho người lao động.
2.3 Các chính sách của nhà nước trong giai đoạn hiện nay
2.3.1 Năm 2007
32
Trong bối cảnh lạm phát đặc biệt tăng nhanh vào tháng 6 năm 2007 ( chỉ số
giá CPI vọt lên mức xấp xỉ 1%, trái với thông lệ giá cả hơn một thập kỷ qua ). Tín
hiệu về lạm phát này đã được chính phủ thu nhận kịp thời và xư lý thông qua các
chỉ thị :
Ngày 01/8/2007 Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị số 18/2007/CT-TTg
về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng thị trường.
Thủ tướng yêu cầu: rà soát các chính sách điều hành tiền tệ để có biện pháp
thích hợp kiểm soát được mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và mức
huy động tín dụng; thực hiện các biện pháp nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết
lượng tiền trong lưu thông ở mức hợp lý; giữ bình ổn tỷ giá hối đoái, các lãi suất
chủ đạo của đồng tiền Việt Nam, không để xảy ra những đột biến trên thị trường
tiền tệ…
Rà soát, tập trung vốn đầu tư cho các dự án quan trọng; kiên quyết thực
hiện việc điều chỉnh vốn của các công trình triển khai chậm (chưa mang lại hiệu
quả ngay) cho các dự án có nhu cầu cấp thiết cần sớm đưa vào sư dụng và phát
huy hiệu quả cao. Phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tháo gỡ kịp
thời những vướng mắc về cơ chế, chính sách để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và
giải ngân các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, tín
dụng nhà nước và nguồn vốn ODA, nhất là giải ngân các công trình đầu tư thuộc
lĩnh vực giao thông vận tải và nông nghiệp; thực hiện việc ứng vốn cho các dự án
đang vướng mắc về thủ tục thanh toán theo tiến độ thực hiện… Tiếp tục triển khai
thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của thị trường
chứng khoán và điều hòa cung cầu chứng khoán, tạo điều kiện để thị trường chứng
khoán phát triển ổn định, bền vững; chọn những công ty có uy tín để phát hành cổ
phiếu thu hút tiền lưu thông cho sản xuất… Tăng cường công tác quản lý thị
trường, chống gian lận thương mại; kiểm tra chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn
đã công bố gắn với kiểm tra niêm yết giá, đăng ký giá và bán hàng theo giá niêm
yết…
33
Ngày 31/10, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 23/2007/CT-TTg về
tăng cường thực hiện các giải pháp điều hành giá cả, bình ổn thị trường
trong những tháng cuối năm 2007 và phục vụ Tết Nguyên đán Mậu Tý
2008.
Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các Bộ, ngành phối hợp với Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các hiệp hội ngành hàng tiếp tục
thực hiện quyết liệt các giải pháp điều hành giữ vững các cân đối kinh tế vĩ mô,
kiên quyết thực hiện các giải pháp tại Chỉ thị số 18/2007/CT-TTg ngày 01 tháng 9
năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ
tăng giá thị trường.
Tiếp tục tổ chức thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là tiết kiệm trong tiêu dùng (điện, xăng, dầu), tiết
kiệm trong chi phí sản xuất kinh doanh và trong xây dựng cơ bản; tiết kiệm trong
tổ chức hội nghị, tổng kết cuối năm, gặp mặt đón mừng năm mới.
Thủ tướng chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đồng
bộ, hài hoà các giải pháp rút tiền từ lưu thông về, cơ cấu lại tín phiếu Ngân hàng
Nhà nước bán ra có kỳ hạn ngắn, mua ngoại tệ ở mức độ thích hợp nhằm tăng dự
trữ ngoại hối Nhà nước, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán ở mức
hợp lý, không để tăng giá hoặc mất giá quá mức đồng tiền Việt Nam.
Bộ Tài chính tiếp tục triển khai kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ
năm 2007, 2008 để tham gia hút bớt tiền về, đồng thời phối hợp với Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, các Bộ, ngành thực hiện các biện pháp đẩy mạnh giải ngân cho các dự
án đầu tư của Nhà nước để tăng cường khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế.
Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế và địa
phương tăng cường kiểm tra, kiểm soát và quản lý giá các mặt hàng có xu hướng
tăng cao như: xăng dầu, bất động sản, thuốc chữa bệnh, sắt thép, gas; chỉ đạo các
địa phương đẩy mạnh việc kiểm soát quản lý giá, không để tình trạng độc quyền
doanh nghiệp về giá, định giá bất hợp lý, đầu cơ nâng giá, không thực hiện niêm
34
yết giá; kiên quyết xư lý nghiêm, kịp thời theo quy định những vi phạm về Pháp
lệnh Giá.
Thủ tướng cũng yêu cầu các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có kế hoạch chuẩn bị đủ lượng hàng hóa cần thiết với
giá ổn định để phục vụ nhu cầu của nhân dân đón Tết Nguyên đán Mậu Tý vui vẻ,
an toàn và tiết kiệm.
Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo.các cơ quan thông tin đại chúng phối
hợp với các Bộ, cơ quan thực hiện tốt công tác tuyên truyền để các doanh nghiệp
và người tiêu dùng hiểu rõ và đồng thuận với các biện pháp điều hành thị trường
giá cả của Nhà nước, từ đó ngăn ngừa tác động tâm lý đẩy giá lên cao.
Nhưng các chính sách kinh tế này có vẻ vẫn chưa giải quyết tận gốc được
lạm phát và lạm phát vẫn chưa được kiềm chế và đang diễn biến ở mức cao.
2.3.2 Năm 2008
Trong bối cảnh nền kinh tế tiếp tục lạm phát ở mức cao, ngân hàng nhà
nước (NHNN ) đã tích cực thực hiện việc rút bớt tiền ra khỏi nền kinh tế thông qua
các công cụ như :
Tăng thêm 1% tỉ lệ dự trữ bắt buộc ( Quyết định số 187/QĐ-NHNN ) ngày
16/1/2008.
Phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc 20.300 tỷ đồng kỳ hạn 1 năm , lãi suất
7,8% /năm ( quyết định số 364/ QĐ – NHNN ) ngày 13/2/2008.
Đặc biệt NHNN đã điều hành linh hoạt các mức lãi suất chỉ đạo và đổi mới
cơ chế điều hành lãi suất, có cả kết hợp biện pháp trực tiếp là quy định trần lãi
theo công điện số 2 để ổn định nhanh thị trường tiền tệ bị xáo động bởi cuộc chạy
đua lãi suất.
Và chính phủ đã có một quyết định khá dứt khoát khi ban hành Nghị quyết
số 10/2008/ NQ-CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát , ổn định
kinh tế vĩ mô , bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững với 8 nhóm giải
pháp :
Thắt chặt tiền tệ
35
Thắt chặt tài khóa thông qua rà soát cắt giảm đầu tư Nhà Nước
Tăng cung
Giảm nhập siêu
Thúc đẩy tiết kiệm
Tăng cường quản lý thị trường giá cả
Hỗ trợ các chương trình an sinh xã hội
Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền nhằm ổn định tâm lý xã hội và hạn chế kỳ
vọng của lạm phát
Thắt chặt chính sách tiền tệ:
Chính phủ đã chọn chính sách tiền tệ làm trọng tâm cho việc kiềm chế lạm
phát, cụ thể như sau :
Trong tháng 5/2008 nhu cầu ảo về USD tăng cao do yếu tố tâm lý và hành vi
đầu cơ khiến giá USD/VND trên thị trường tự do tăng đột biến có lúc lên
đến 19000VND/USD. NHNN đã chủ động điều hành linh hoạt tỷ giá : biên
độ tỷ giá VND/USD được nới lỏng ± 0.5% ± 0.75% ± 1%± 2%
± 3% đồng thời cũng can thiệp mua bán trên thị trường ngoại hối để ổn
định tỷ giá và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các nhu cầu nhập khẩu các mặt
hàng thiết yếu ( xăng dầu , thuốc chữa bệnh , phân bón ,…..) ; công bố mức
dự trữ ngoại hối 20,7 tỷ USD, can thiệp trên thị trường ngoại hối, ban hành
quy chế thu đổi ngoại tệ, giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ,
cấm thu phí giao dịch, cấm các tổ chức tín dụng (TCTD) không được giao
dịch USD thông qua đồng tiền thứ 3, phối hợp với các cơ quan chức năng
tiến hành kiểm tra xư lý các hoạt động đầu cơ nhằm bình ổn thị trường
ngoại hối.
Từ tháng 10/2008 nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất
cho vay, duy trì tăng trưởng kinh tế, ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh giảm
1% tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gưi bằng VND và giảm 2% đối với tiền
gưi bằng ngoại tệ (Quyết định số 2560/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008 ), đồng
thời cho phép các TCTD được sư dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao
36
dịch trong các nghiệp vụ tái cấp vốn, thị trường mở và được rút trước hạn
yêu cầu.
Ngày 20/11/2008, NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm 2% tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với tiền gưi bằng VND của các TCTD (Quyết định số 2811/QĐ-NHNN)
Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu tích cực NHNN đã dỡ bỏ lãi suất trần huy
động VND và thay cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, theo đó các TCTD ấn
định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không quá 150%
của lãi suất NHNN công bố. Tại thời điểm thực hiện cơ chế lãi suất mới, lãi
suất cơ bản được ấn định ở mức 12% và sau đó được điều chỉnh lên 14%
( ngày 11/6), theo đó các mức lãi suất điều hành của NHNN như lãi suất
chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng tăng lên ( lãi suất tái cấp vốn tăng 13%-
15% /năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 11%-13% ) . Đồng thời để bảo đảm thi
hành nghiêm túc cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, ngày 10/6/2008 thống đốc
ngân hàng nhà nước ban hành văn bản số 5158/NHNN-CSTT yêu cầu các
TCTD không được thu phí liên quan đến hoạt động cho vay. Trước xu
hướng tăng chậm của chỉ số giá tiêu dùng, đặc biệt là -0.19 % vào tháng 10
và 0,76% trong tháng 11, nhằm hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô tạo điều
kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay, duy trì tăng trưởng bền vững,
NHNN đã ba lần giảm lãi suất từ 14%-13%-12% -11% /năm, lãi suất tái
cấp vốn từ 15%-14%-13%-12% /năm, lãi suất chiết khấu từ 13%-12%-11%-
10%/năm .
Đồng thời NHNN ban hành Công văn số 10259/NHNN-CSTT ngày
20/11/2008 về việc thực hiện biện pháp tín dụng và lãi suất ; trong đó NHNN yêu
cầu các TCTD :
Điều chỉnh lãi suất kinh doanh VND phù hợp với quy định của NHNN, bảo
đảm khả năng huy động vốn, hoạt động kinh doanh an toàn hiệu quả.
Tập trung vốn tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nông
thôn , xuất nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu , doanh nghiệp vừa và nhỏ ,các
37
dự án đầu tư sản xuất , kinh doanh và kể cả các dự án đầu tư bất động sản
khả thi , có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn.
Chủ động thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn hiệu quả hoạt động kinh
doanh
Bên cạnh đó NHNN đã tăng cường kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng
và tổng phương tiện thanh toán, theo đó chỉ đạo các TCTD điều chỉnh kế hoạch
kinh doanh phù hợp với chủ trương kiềm chế lạm phát của chính phủ, kiểm soát
chặt chẽ lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như cho vay đầu tư, kinh doanh chứng
khoán, cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản. Tập trung hỗ trợ các lĩnh vực
quan trọng để duy trì sự ổn định và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là xuất khẩu, nông
nghiệp, nông thôn .
Bên cạnh chính sách tiền tệ, chính phủ còn cố gắng giảm nhập siêu và tăng
cường tuyên truyền tiết kiệm, hỗ trợ an sinh xã hội,………
Tiết kiệm chi thường xuyên gần 3 nghìn tỷ đồng:
Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện nghiêm chỉ
đạo của Chính phủ về tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong năm 2008 (trừ các
khoản liên quan đến người lao động).
Đến nay, theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương sẽ tiết kiệm được
khoảng 2.700 tỷ đồng, bằng 25% tổng dự phòng ngân sách Nhà nước 2008, trong
đó các Bộ, ngành tiết kiệm được khoảng 700 tỷ đồng, các địa phương tiết kiệm
khoảng 2 nghìn tỷ đồng. Số tiền tiết kiệm này được bổ sung vào nguồn thực hiện
chính sách an sinh xã hội; phòng, chống, khắc phục thiên tai, dịch bệnh và các
nhiệm vụ cấp bách khác.
Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành 6 tháng đầu năm và chương trình
công tác 6 tháng cuối năm 2008 của Chính phủ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP
Nguyễn Xuân Phúc trình bày cho thấy, chi phí cho hội họp đã được tiết giảm, công
tác ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã
có bước phát triển mới và phát huy tác dụng. Hệ thống thư điện tư công vụ của
Chính phủ đã được các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các Bộ, địa phương sư
38
dụng hiệu quả trong quan hệ công tác, trao đổi thông tin, báo cáo phục vụ cho hoạt
động chỉ đạo, điều hành. Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ, lãnh đạo các Bộ
đã thực hiện thành công nhiều cuộc hội nghị, giao ban truyền hình trực tuyến qua
mạng, góp phần nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành và tiết kiệm ngân sách nhà
nước.
Đình hoãn, giãn tiến độ gần 2 nghìn dự án, công trình:
Việc rà soát lại các công trình, dự án, danh mục dự án đầu tư sư dụng vốn
từ nguồn ngân sách nhà nước cần phải đình hoãn hoặc giãn tiến độ cũng được các
Bộ, ngành, địa phương triển khai nghiêm túc. Theo đó, tổng số công trình, dự án
đình hoãn, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch
năm 2008 là 1.736 dự án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ đồng.
Trong đó, tổng số dự án điều chỉnh giảm của các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước là 290 dự án với tổng số vốn là 4.775 tỷ đồng.
Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu:
Bộ Công Thương và Bộ Tài chính đã tích cực rà soát các thủ tục hành chính
liên quan đến hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là thủ tục hải quan, thuế... Triển khai
nghiên cứu xây dựng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp phù hợp với cam kết
quốc tế để giảm nhập siêu.
Về điều hành xuất khẩu, các Bộ, ngành chức năng đã thực hiện các chính
sách để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó tiếp tục xuất khẩu gạo nhằm bảo
đảm an ninh lương thực và bình ổn giá gạo thế giới. Căn cứ vào khả năng cân đối
thực tế và bảo đảm an ninh lương thực trong nước, năm nay nước ta có thể xuất
khẩu gạo từ 4 đến 4,5 triệu tấn.
Do tác động trực tiếp của một số chính sách hạn chế nhập khẩu như tăng
thuế nhập khẩu ô tô, linh kiện ô tô...; kiểm soát chặt nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu
nên nhập khẩu đang có xu hướng giảm dần, đặc biệt là nhập khẩu những mặt hàng
không thiết yếu (quý I/2008 nhập siêu bằng 62,7% kim ngạch xuất khẩu, quý II
bằng 39,2%, riêng tháng 6 bằng 23,6% kim ngạch xuất khẩu).
Đẩy mạnh sản xuất và bảo đảm cân đối cung cầu:
39
Việc khắc phục hậu quả thiên tai và dịch bệnh đã được thực hiện tích cực
để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đã thực hiện tốt các chính sách khôi phục sản xuất lúa Đông Xuân năm
2007-2008 và chăn nuôi trâu, bò bị thiệt hại do ảnh hưởng của đợt rét đậm, rét hại.
Các Bộ, ngành địa phương đã tích cực tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thủ
tục hành chính đối với việc phát triển sản xuất kinh doanh.
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, các hoạt động sản xuất kinh doanh
được duy trì tốt, giá các mặt hàng trọng yếu trên thị trường về cơ bản được bình
ổn, đặc biệt là kịp thời hạ nhiệt giá gạo và xi măng; cơ bản bảo đảm cung - cầu các
mặt hàng trên thị trường; góp phần đưa GDP đạt mức tăng trưởng khá trong 6
tháng đầu năm (6,5%) trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó
khăn.
Cấp hơn 7.300 tỷ đồng thực hiện chính sách an sinh xã hội:
Trong thời gian qua, các Bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương, tích cực,
kịp thời giải quyết tình trạng thiếu đói, hỗ trợ sản xuất, sinh hoạt và đời sống cho
các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, khó khăn; giữ ổn định
mức thu học phí, viện phí; tiếp tục cho sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, học
nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập; tăng mức hỗ trợ mua bảo
hiểm y tế cho người nghèo; bảo đảm cung - cầu những mặt hàng thiết yếu phục vụ
nhân dân. Đến nay, ngân sách Trung ương đã cấp hơn 7.300 tỷ đồng để thực hiện
các chính sách an sinh xã hội.
Kết quả đạt được trong kiềm chế lạm phát năm 2008:
Lạm phát đã có xu hướng giảm dần,ngoại trừ tháng 5 tăng 3,91% do cú sốc
giá gạo vào tháng 4 năm 2008. Chỉ số giá CPI vào những tháng cuối năm ở mức
thấp, đặc biệt chỉ số GDP âm vào hai tháng 10: - 0.19 % và tháng 11: - 0.76 %
Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được kiểm soát phù hợp với mục tiêu
kiểm soát lạm phát; 10 tháng đầu năm tổng phương tiện thanh toán tăng 9,48%
bằng ¼ chu kỳ năm ngoái, tốc độ tăng tín dụng chậm dần ( 10 tháng tăng gần 18%
so ới năm 2007 ) từ đó tác động kiềm chế tăng tổng cầu và tiêu dùng.
40
Tỷ giá VND so với USD trên thị trường liên ngân hàng tăng với mức độ
hợp lý, vào ngày 28/11/ năm 2008: 16.483 VND/USD, tăng 2,76% so với đầu
năm, phù hợp với cung cầu ngoại tệ, yêu cầu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế
vĩ mô, cùng với cơ chế hỗ trợ vay vốn và mua bán ngoại tệ đối với xuất khẩu cho
phép thanh toán bằng ngoại tệ của doanh nghiệp chế xuất, kiểm soát cho vay bằng
ngoại tệ để nhập khẩu và can thiệp bán ngoại tệ tập trung cho nhập khẩu các mặt
hàng thiết yếu, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối và giảm đáng kể nhập siêu.
Lãi suất có xu hướng giảm, sau các động thái hạ các mức lãi suất chủ đạo
của NHNN, hiện nay lãi suất huy động và cho vay của các TCTD đã giảm tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn dễ dàng hơn.
Nhập siêu đã có xu hướng cải thiện trong những tháng cuối năm: Mức nhập siêu
giảm mạnh từ mức bình quân 2,4 tỷ USD/tháng trong 6 tháng đầu năm 2008
xuống trên trung bình 500 triệu USD/ tháng từ tháng 7 đến cuối năm.
Luồng vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh: vốn FDI
tiếp tục tăng, chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2008, FDI đăng ký đạt 58,3 tỷ USD
gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007, vốn thực hiện đạt gần 9,1 tỷ USD. Đây cũng
là một vấn đề có tính hai mặt, nếu năng lực sản xuất trong nước yếu kém, không
có khả năng hấp thụ hết lượng vốn thì nó cũng sẽ là một tác nhân gây ra lạm phát.
2.3.3 Năm 2009
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm nghiêm trọng vào cuối 2008 đầu
2009, và lúc này tình hình lạm phát cơ bản đã được kiềm chế, ưu tiên thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế được đặt lên. Chính phủ bắt đầu các chính sách “nới lỏng tiền
tệ”, NHNN liên tục giảm lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Từ đầu năm 2/2009
ngành thuế tập trung xư lý việc giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
năm 2009, giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn 9 tháng đối với
thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ giãn nộp lên đến 9900 tỷ đồng. Ngoài ra chính phủ còn chủ trương giảm
50% thuế giá trị gia tăng cho 19 nhóm hàng dịch vụ .
41
Chính phủ đưa ra gói kích cầu với tổng trị giá 160 nghìn tỷ đồng , ngày
23/1/2009 chính phủ đã ban hành quyết định 131/QĐ-TTg về hỗ trợ lãi suất cho
các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất, theo đó mức lãi suất hỗ trợ
cho các doanh nghiệp và người cho vay là 4%/năm, với thời hạn tối đa là 8 tháng,
bắt đầu từ 1/2/2009. Dự kiến ngân sách nhà nước chi ra khoảng 17000 tỷ đồng,
tương đương khoảng 1 tỷ USD cho giải pháp kích cầu này, và các gói khác như
gói tăng đầu tư công hơn 90 nghìn tỷ đồng , gói bổ sung an sinh xã hội gần 10
nghìn tỷ đồng. Xét về tỷ lệ gói kích cầu với GDP các gói kích cầu của Việt Nam
thuộc hàng cao so với thế giới. Như vậy một lượng tiền lớn được bơm vào nền
kinh tế.
Sau khi các giải pháp chống lạm phát được thực hiện quyết liệt, thì tình
hình lạm phát đã giảm dần, đến hết quý I/2009 lạm phát chỉ còn 11,25% so với
cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với mức 19,39% của quý I/2008. Song tăng trưởng
kinh tế quý I/2009 lại có biểu hiện suy giảm mạnh (chỉ đạt 3,9%, xuất khẩu tăng
2,4% ...,).
Tăng trưởng kinh tế quý II đã tăng cao hơn quý I, đạt mức 4,5%, 6 tháng
đạt 3,9%; giá trị sản xuất nông, lâm, nghiệp, thủy sản tương ứng tăng 0,9%, 3,9%
và 2,5%. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất kể từ tháng 2/2009,
tháng sau cao hơn tháng trước (tháng 3 tăng 2,5%, tháng 4 tăng 5,6%, tháng 5 tăng
7,2%, tháng 6 tăng 8,2%); 7 tháng nhập siêu chỉ có 3,4 tỷ USD, thấp hơn rất nhiều
so với cùng kỳ năm ngoái; dự kiến cả năm nhập siêu dưới 10 tỷ USD, chiếm
khoảng 16 - 16,5% giá trị xuất khẩu. Trong khi đó, các luồng vốn vào mặc dù có
suy giảm, song FDI đăng ký 6 tháng đầu năm vẫn đạt 10 tỷ USD và đã giải ngân
được gần 5 tỷ USD; kiều hối cũng giảm không đáng kể; đặc biệt gần 2 tháng liên
tục FII vào ròng, theo dõi một ngày 7 - 8 triệu USD; thị trường tín dụng không lâm
vào tình trạng “đóng băng” như các nước mà đã sôi động, thị trường chứng khoán
tuy chưa thực sự ổn định nhưng đã khởi sắc... Đây là tín hiệu rất tích cực cho thị
trường.
42
Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
đã triển khai, đề xuất những giải pháp để xư lý những diễn biến không thuận chiều
của thị trường: chính sách tiền tệ, tỷ giá được điều hành linh hoạt không những
vừa đảm bảo mục tiêu chống suy giảm kinh tế, kiềm chế lạm phát mà còn phải
thực hiện mục tiêu ổn định thị trường tài chính, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến sự bất ổn của thị trường tài
chính Việt Nam. Đặc biệt là dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam có chiều hướng
suy giảm qua các kênh đầu tư trực tiếp, gián tiếp, kiều hối, gây áp lực lên giá Việt
Nam và căng thẳng về cung ngoại tệ. Trước những tín hiệu như vậy, NHNN đã
thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, một mặt để chấn chỉnh kỷ luật thị trường ngoại
hối do một thời gian dài buông lỏng, nên đã hạn chế được tình trạng đầu cơ, găm
giữ ngoại tệ gây căng thẳng giả tạo về nguồn ngoại tệ; đồng thời, xư lý linh hoạt,
hài hòa mối quan hệ giữa lãi suất ngoại tệ và lãi suất VND để giảm sức ép về cầu
mua ngoại tệ, tăng nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp. Hơn nữa,
NHNN đã lường trước được những tác động tiêu cực của gói giải pháp kích cầu,
khi mà tín dụng ngân hàng có xu hướng tăng mạnh, Thống đốc NHNN đã chỉ đạo
sát sao, đưa ra những giải pháp ứng phó kịp thời để ngăn chặn nguy cơ đó, như
tăng cường thanh tra giám sát chất lượng cho vay hỗ trợ lãi suất; chỉ đạo các tổ
chức tín dụng không hạ thấp điều kiện vay vốn, có kế hoạch tăng trưởng tín dụng
ở mức hợp lý, đảm bảo hiệu quả cao, siết chặt hơn nữa kỷ luật tài chính.
Kết quả trong những quý đầu năm, lãi suất ngoại tệ trên thị trường đã được
các ngân hàng thương mại (NHTM) đưa xuống khá thấp so với thời gian trước.
Lãi suất thấp một mặt kích thích nhu cầu vay ngoại tệ. Thể hiện rõ nhất là nếu như
đến tháng 5, dư nợ cho vay ngoại tệ giảm 9,55% (so với cuối năm 2008), thì đến
cuối tháng đã 7 tăng trở lại (tháng 7 tăng 1,2% so với tháng 6) và so với cuối năm
2008 chỉ còn giảm 2,32%. Mặt khác, lãi suất ngoại tệ thấp cũng khiến nhiều người
dân, thay vì nắm giữ ngoại tệ đã bán ngoại tệ lấy nội tệ gưi tiết kiệm. Hiện tượng
nắm giữ ngoại tệ của doanh nghiệp cũng đã giảm khá nhiều. Theo dõi những ngày
43
qua, lượng ngoại tệ các doanh nghiệp đã bán khá nhiều. Điều đó cho thấy, các giải
pháp đồng thời của NHNN đã phát huy tác dụng.
Nhưng đó chỉ là những hiệu quả tạm thời và những tác dụng phụ của các
gói kích cầu bắt đầu biểu hiện và nguy cơ lạm phát có thể quay trở lại,và đặc biệt
là chỉ số lạm phát tăng cao trở lại vào tháng 6/2009 với tỷ lệ 3,94% so với tháng
3/2009 và vào ngày 1.12 tại buổi họp báo thông báo nội dung phiên họp thường kỳ
của Chính phủ, ngày 1.12, ông Nguyễn Xuân Phúc, chủ nhiệm văn phòng Chính
phủ cho biết, Thủ tướng đã kết luận, quyết định 131/QĐ-TTg (hỗ trợ lãi suất cho
vay ngắn hạn) dự định ban đầu sẽ thực hiện đến 31.3.2010 với mức hỗ trợ 2%, sẽ
phải chấm dứt hiệu lực ngay vào 31.12.2009. Nguyên nhân do Chính phủ cho
rằng, nó không còn phù hợp trước những diễn biến mới của nền kinh tế: tăng
trưởng, dư nợ tín dụng lên cao. Riêng hai chính sách là quyết định 443 QĐ-TTg
(hỗ trợ lãi suất cho vay dài hạn) và quyết định 497/QĐ-TTg (hỗ trợ lãi suất cho
nông dân vay vốn mua máy móc phục vụ nông nghiệp và vật tư xây dựng nhà ở)
sẽ tiếp tục duy trì thực hiện đến hết năm sau.Chính phủ tiếp tục cho phép thực hiện
bảo lãnh cho vay với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành
tập trung thực hiện mục tiêu: đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, không để tình trạng
lạm phát trở lại, linh hoạt trong điều hành chính sách tỷ giá. Bộ Công thương cần
tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, xây dựng hàng rào kỹ thuật, nhưng
không vi phạm quy định của WTO; ngân hàng Nhà nước quản lý việc kinh doanh
các sàn vàng và quản lý ngoại tệ tốt hơn
.
Phần 3. Giải pháp kiềm chế lạm phát3.1 Nhưng biện pháp cấp bách
3.1.1 Biện pháp về chính sách tài khoa
Trong nhiều trường hợp ngân sách nhà nước bị thâm hụt là nguyên nhân
chính của lạm phát,do đó để dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ được ổn
44
định,lạm phát sẽ được kiềm chế. Khi lạm phát tăng ở mức độ phi mã hoặc siêu tốc,
nhà nước có thể thực hiện các biện pháp như sau:
Tiết kiệm triệt để trong chi tiêu ngân sách, cắt giảm những khoản chi tiêu
công chưa cấp bách.
Tăng thuế trực thu, đặc biệt là đối với những cá nhân doanh nghiệp có thu
nhập cao, chống thất thu thuế.
Kiểm soát các chương trình tín dụng của nhà nước.
Vay nợ trong nước và nước ngoài.
3.1.2 Biện pháp thắt chặt tiền tệ
Mục tiêu là giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, siết chặt cung tiền tệ bằng
nhiều biện pháp khác nhau:
Đóng băng tiền tệ: Ngân hàng trung ương thắt chặt các nghiệp vụ tái chiết
khấu, tái cấp vốn, cho vay theo hồ sơ tín dụng đối với các tổ chức tín dụng...
…Nhằm giảm bớt tiền hay không cho tiền tăng thêm trong lưu thông. Hoặc
thậm chí dùng chính sách giới hạn tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng
thương mại.
Nâng lãi suất: Lãi suất tiền gưi tăng, đặc biệt là tiền gưi tiết kiệm có tác
dụng thu hút tiền mặt của dân cư và doanh nghiệp vào ngân hàng. Tuy
nhiên, cũng phải tránh việc để lãi suất tiền gưi cao hơn lợi tức đầu tư để
doanh nghiệp không tìm cách đưa vốn vào ngân hàng vì nó đưa đến lợi túc
cao mà không chiu sức ép rủi ro lớn. Mặt khác, lãi suất cho vay tăng cũng
làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của các ngân hàng.
Nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc để hạn chế khả năng tạo tiền của các ngân
hàng thương mại .
3.1.3 Biện pháp kiềm chế giá cả
Nhập hàng hóa của nước ngoài để bổ sung cho khối lượng hàng hóa trong
nước tạo ra sự cân bằng giũa cung và cầu hàng hóa. Đây là biệm pháp chữa cháy
tuy rất hữu dụng trong việc chặn đứng sự khan hiếm hàng hóa, nhưng có nhiều
mặt hạn chế.
45
Nhà nước bán vàng và ngoại tệ nhằm thu hút tiền mặt trong lưu thông,ổn
định giá vàng,ổn định tỷ giá hối đoái,từ đó tạo tâm lí ổn định các mặt hàng khác.
Quản lí thị trường, chống đầu cơ tích trữ.
3.1.4 Biện pháp đong băng lương và giá để kiềm chế giá
Đầu tiên phải có sự cam kết của các lãnh tụ công đoàn chấp nhận đóng băng
lương vì tăng lương không giúp ích gì cho giới đồng lương cố định, thường thì sau
tăng lương thì giá cả các mặt hàng đều tăng. Mặt khác, đại diện các hiệp hội các
chủ doanh nhgiệp cũng phải cam kết đóng băng giá.
Thỏa hiệp đó phải được nhà nước công nhận và về phần mình nhà nước cam
kết cố gắng hết sức giữ các yếu tố khác không diễn biến xấu hơn như không là
tăng thêm số thiếu hụt ngân sách nhà nước. Đạt được thỏa thuẩn như vậy là một
yếu tố rất quan trọng trong tiến trình kiềm chế lạm phát .
3.1.5 Biện pháp cải cách tiền tệ
Khi lạm phát ở mức không thể kiểm soát được thì đổi loại tiền là biên pháp
được đưa ra.
3.2 Nhưng biện pháp chiến lược
3.2.1 Xây dựng và thực hiên chiến lược phát triển kinh tế phù hợp
Do lưu thông hàng hóa là tiền đề của lưu thông tiền tệ nên nếu quỹ hàng
hàng hóa được tạo ra có số lượng lón chất lượng cao, chủng loại phong phú thì đây
là tiền đề vững chắc nhất để ổn định lưu thông tiền tệ, nhằn huy động tốt các
nguồn lực để phát triển kinh tế cần xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội đúng đắn, trong đó cần chú trọng điều chỉnh cơ cấu hợp lí, phát
triển ngành mũi nhọn xuất khẩu .
Đổi mới chính sách quản lí công: Chính phủ phải khai thác và quản lí chặt
chẽ các nguồn thu, tăng thu từ thuế chủ yếu dựa trên cơ sở mở rộng và nuôi dưỡng
nguồn thu, chống thất thoát có hiệu quả. Ngân sách nhà nước phải đảm bảo cho
tính hiệu quả và tiết kiệm. Thực hiện cân đối ngân sách tích cực làm cơ sở cho các
cân đối khác trong nền kinh tế.
46
3.2.2 Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn toàn
Nếu cạnh tranh được nâng lên ổ mức độ hoàn hảo thì giá cả sẽ có xu hướng
giảm xuống. Mặt khác cạnh tranh thúc đẩy các nhà kinh doanh cải tiến kĩ thuật cải
tiến quản lí và do đó sẽ giảm được chi phí sản xuất kinh doanh, giảm được giá bán
hàng hóa .
3.2.3 Dùng lạm phát để chống lạm phát
Đối với các quốc gia còn nhiều tiềm năng về lao động, đất đai tài nguyên ,…
nhà nước có thể tăng chỉ số phát hành để chi phí cho việc mở rộng đầu tư và hi
vọng các công trình đầu tư mang lại hiệu quả và góp phần kiềm chế lạm phát. Áp
dụng biện pháp này đòi hỏi phải có một tiềm lực mạnh về các yếu tố sản xuất, có
trình độ khoa học– kĩ thuật tiên tiến, trình độ quản lí kinh tế cao thì mới có thể
thành công.
47
Tài Liệu Tham Khảo
www.gso.gov.vn
www.tailieu.vn
www.vietnamnet.vn
www.sbv.gov.vn
www.tuoitre.vn
Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
Giáo Trình Kinh Tế Học Vĩ Mô- Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
48