1 Kinh tế quý I/2016: Những điểm nổi bật Kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng thấp hơn kỳ vọng trong quý I ngoại trừ nền kinh tế Mỹ, thị trường tiền tệ, ngoại hối, chứng khoán có những biến động phức tạp: + Trong quý I, mối lo ngại về tình trạng giảm tốc của kinh tế Mỹ đã phần nào dịu bớt, kinh tế Châu Âu vẫn đang trong quá trình hồi phục chậm chạp, trong khi tại Nhật Bản kinh tế vẫn trì trệ do hai động lực tăng trưởng chính trong nhiều năm qua là tiêu dùng và xuất khẩu đều đồng loạt suy yếu. Đà giảm tốc của kinh tế Trung Quốc vẫn chưa dừng lại trong bối cảnh quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chú trọng sản xuất và đầu tư sang phát triển dịch vụ và tiêu dùng vẫn chưa phát huy hiệu quả như mong muốn; + Giá cả các hàng hóa cơ bản vẫn tiếp tục giảm nhẹ so với cuối năm 2015 với xu hướng biến động phức tạp hơn, giá cả hàng hóa giảm trong tháng 1 và bắt đầu tăng nhẹ trong tháng 2 với tâm điểm đáng chú ý là đà tăng của giá dầu. + Lạm phát toàn cầu nhìn chung vẫn ở mức thấp, trừ các quốc gia xuất khẩu hàng hóa tại Mỹ La Tinh và Trung Đông; + Thị trường ngoại hối đã chứng kiến những diễn biến ngoài dự đoán của các đồng tiền mạnh, chỉ số USD index đã suy giảm, một số đồng tiền chủ chốt khác đã tăng giá, vàng là tài sản tăng giá mạnh nhất, song các yếu tố chi phối diễn biến thị trường chỉ mang tính ngắn hạn. + Thị trường chứng khoán biến động giảm mạnh trong nửa đầu quý và tăng trở lại từ nửa sau quý. Tuy nhiên, kết thúc quý I, hầu hết các thị trường chứng khoán chủ chốt đều giảm điểm so với cuối năm 2015, ngoại trừ hai chỉ số Dow Jones và S&P 500 của Mỹ; + Định hướng điều hành CSTT của các NHTW không có nhiều thay đổi so với cuối năm 2015 với xu hướng điều hành mang tính phân kỳ ngày càng rõ nét giữa các khu vực và các nền kinh tế. Kinh tế trong nước diễn biến khá ổn định nhưng bắt đầu hình thành rõ nét những thách thức từ phía tăng trưởng kinh tế và cán cân ngân sách + Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2016 ước tính tăng 5,46% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 6,12% của cùng kỳ năm 2015, trong đó khu vực công nghiệp và dịch vụ vẫn là hai nhóm ngành có đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt trong các hoạt động sản xuất và thương mại; + Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm 2016 tăng 1,25% so với cùng kỳ, tăng cao hơn so với mức tăng bình quân 0,74% của cùng kỳ năm 2015; + Diễn biễn lãi suất trong quý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và nhu cầu của thị trường. Lãi suất cho vay nền kinh tế ổn định, lãi suất huy động được điều chỉnh tăng ở hầu hết các kỳ hạn; + Tỷ giá USD/VND giảm nhẹ so với cuối năm 2015, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do đã thấp hơn tỷ giá niêm yết của các NHTM từ nửa cuối tháng 2; + Giá vàng trong nước tăng nhẹ so với cuối năm 2015, chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế đã thu hẹp rất mạnh; + Thị trường chứng khoán biến động mạnh trong quý I với mức giảm 3,08% so với cuối năm 2015. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực, diễn biến kinh tế vĩ mô cũng đã bắt đầu bộc lộ những khó khăn, thách thức đáng chú ý như sau: + Tăng trưởng doanh số bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng có xu hướng chậm lại qua các tháng, tốc độ tăng trưởng đã thấp hơn so với tốc độ tăng của cùng kỳ 2015; + Cân đối ngân sách tiếp tục gặp áp lực từ việc suy giảm nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu và cơ cấu nguồn chi thiếu bền vững; + Cán cân thương mại đạt được thặng dư nhờ nhập khẩu giảm mạnh trong quý I, đặc biệt đối với một số mặt hàng phục vụ cho sản xuất trong nước.
22
Embed
Kinh tế quý I/2016: Những điểm nổi bậtkhoahocnganhang.org.vn/news/wp-content/uploads/2016/04/Ban-tin-Kinh-te... · + Cân đối ngân sách tiếp tục gặp áp lực
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
Kinh tế quý I/2016: Những điểm nổi bật
Kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng thấp hơn kỳ vọng trong quý I ngoại trừ nền kinh tế Mỹ, thị trường
tiền tệ, ngoại hối, chứng khoán có những biến động phức tạp:
+ Trong quý I, mối lo ngại về tình trạng giảm tốc của kinh tế Mỹ đã phần nào dịu bớt, kinh tế Châu Âu vẫn
đang trong quá trình hồi phục chậm chạp, trong khi tại Nhật Bản kinh tế vẫn trì trệ do hai động lực tăng trưởng
chính trong nhiều năm qua là tiêu dùng và xuất khẩu đều đồng loạt suy yếu. Đà giảm tốc của kinh tế Trung Quốc
vẫn chưa dừng lại trong bối cảnh quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chú trọng sản xuất và đầu tư sang
phát triển dịch vụ và tiêu dùng vẫn chưa phát huy hiệu quả như mong muốn;
+ Giá cả các hàng hóa cơ bản vẫn tiếp tục giảm nhẹ so với cuối năm 2015 với xu hướng biến động phức tạp hơn,
giá cả hàng hóa giảm trong tháng 1 và bắt đầu tăng nhẹ trong tháng 2 với tâm điểm đáng chú ý là đà tăng của giá
dầu.
+ Lạm phát toàn cầu nhìn chung vẫn ở mức thấp, trừ các quốc gia xuất khẩu hàng hóa tại Mỹ La Tinh và Trung
Đông;
+ Thị trường ngoại hối đã chứng kiến những diễn biến ngoài dự đoán của các đồng tiền mạnh, chỉ số USD index
đã suy giảm, một số đồng tiền chủ chốt khác đã tăng giá, vàng là tài sản tăng giá mạnh nhất, song các yếu tố chi
phối diễn biến thị trường chỉ mang tính ngắn hạn.
+ Thị trường chứng khoán biến động giảm mạnh trong nửa đầu quý và tăng trở lại từ nửa sau quý. Tuy nhiên, kết
thúc quý I, hầu hết các thị trường chứng khoán chủ chốt đều giảm điểm so với cuối năm 2015, ngoại trừ hai chỉ
số Dow Jones và S&P 500 của Mỹ;
+ Định hướng điều hành CSTT của các NHTW không có nhiều thay đổi so với cuối năm 2015 với xu hướng
điều hành mang tính phân kỳ ngày càng rõ nét giữa các khu vực và các nền kinh tế.
Kinh tế trong nước diễn biến khá ổn định nhưng bắt đầu hình thành rõ nét những thách thức từ phía tăng
trưởng kinh tế và cán cân ngân sách
+ Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2016 ước tính tăng 5,46% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng
6,12% của cùng kỳ năm 2015, trong đó khu vực công nghiệp và dịch vụ vẫn là hai nhóm ngành có đóng góp chủ
yếu vào tăng trưởng, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt trong các hoạt động sản xuất và
thương mại;
+ Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm 2016 tăng 1,25% so với cùng kỳ, tăng cao hơn so với mức tăng bình
quân 0,74% của cùng kỳ năm 2015;
+ Diễn biễn lãi suất trong quý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và nhu cầu của thị trường. Lãi suất cho vay
nền kinh tế ổn định, lãi suất huy động được điều chỉnh tăng ở hầu hết các kỳ hạn;
+ Tỷ giá USD/VND giảm nhẹ so với cuối năm 2015, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do đã thấp hơn tỷ giá niêm
yết của các NHTM từ nửa cuối tháng 2;
+ Giá vàng trong nước tăng nhẹ so với cuối năm 2015, chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế đã thu hẹp rất
mạnh;
+ Thị trường chứng khoán biến động mạnh trong quý I với mức giảm 3,08% so với cuối năm 2015.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực, diễn biến kinh tế vĩ mô cũng đã bắt đầu bộc lộ những khó khăn, thách
thức đáng chú ý như sau:
+ Tăng trưởng doanh số bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng có xu hướng chậm lại qua các tháng, tốc độ tăng
trưởng đã thấp hơn so với tốc độ tăng của cùng kỳ 2015;
+ Cân đối ngân sách tiếp tục gặp áp lực từ việc suy giảm nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu và cơ cấu nguồn
chi thiếu bền vững;
+ Cán cân thương mại đạt được thặng dư nhờ nhập khẩu giảm mạnh trong quý I, đặc biệt đối với một số mặt hàng
phục vụ cho sản xuất trong nước.
2
KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Diễn biến kinh tế thế giới
Kinh tế thế giới
tiếp tục tăng
trưởng thấp hơn
kỳ vọng trong
quý I/2016 hiện
tượng này đang
diễn ra rộng
khắp trên phạm
vi toàn cầu,
ngoại trừ Mỹ.
Mối lo ngại về việc kinh tế Mỹ giảm tốc đã phần nào dịu bớt trong quý I/2016.
Cùng với những tín hiệu tích cực từ dữ liệu vĩ mô hiệu chỉnh lần 2 của quý
IV/20151, diễn biến kinh tế của Mỹ trong quý I/2016 cũng tương đối khả quan.
Cụ thể, doanh số bán lẻ tại Mỹ tăng liên tục trong tháng 1 và tháng 2, lần lượt ở
mức 3% và 3,1% so với cùng kỳ. Thị trường lao động tiếp tục được cải thiện so
với cuối năm trước khi tỷ lệ thất nghiệp trong 2 tháng đầu năm được duy trì ở
mức 4,9% (thấp hơn mức 5% của cuối năm 2015 và cũng là mức thấp nhất
trong 8 năm qua). Việc tiêu dùng ở mức cao đã giúp bù đắp phần nào cho sự sụt
giảm của hoạt động xuất khẩu2, đồng thời điều này cũng cho thấy kinh tế Mỹ
vẫn khá vững vàng, bất chấp tình hình ảm đạm của kinh tế toàn cầu.
PMI sản xuất tại Mỹ
Chỉ số PMI ngành dịch vụ tại Mỹ
Nguồn: Markiteconomics
Khu vực sản xuất-dịch vụ tại Mỹ cũng đã có những cải thiện khá rõ rệt, đặc biệt
là trong tháng cuối cùng của quý I. Cụ thể, chỉ số quản trị mua hàng (PMI)
ngành dịch vụ đã tăng lên mức 51 điểm sau khi đã giảm xuống mức 49,7 điểm
trong tháng 2; trong khi đó PMI ngành sản xuất vẫn được duy trì ở mức trên 50
điểm trong suốt quý I (lần lượt đạt mức 52,4; 51,3 và 51,4 điểm).
Kinh tế Châu Âu vẫn đang trong quá trình phục hồi chậm chạp, dù đã có phần
rõ nét hơn trong khu vực sản xuất-dịch vụ. Cụ thể, chỉ số PMI ngành dịch vụ
luôn duy trì ở mức khá trong quý I (lần lượt đạt 53,6; 53,3 và 54 điểm) trong
khi PMI sản xuất cũng ở mức trên 50 điểm trong một thời gian dài, với chỉ số
từng tháng trong quý là 52,3; 51,2 và 51,4 điểm. Tuy vậy, nếu xét về phía tổng
cầu thì hai động lực chính cho tăng trưởng của khu vực là tiêu dùng và xuất
khẩu chưa có chuyển biến rõ nét3. Cùng với đó, thị trường việc làm trong khu
vực vẫn không có cải thiện đáng kể khi tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực Châu Âu
trong tháng 1/2016 vẫn ở mức 2 con số (10,3%).
1 Dữ liệu hiệu chỉnh lần 2 của kinh tế Mỹ, được công bố trong tháng 3/2016 cho thấy tăng trưởng GDP của Mỹ quý IV/2015 đạt tới 1,4% (cao hơn nhiều so với ước tính 0,7% và 1% trước đó), trong đó tiêu dùng – động lực chính của tăng trưởng kinh tế Mỹ cũng tăng 2,4% (cao
hơn mức ước tính là 2%). Nhờ đó, tính chung cả năm 2015, kinh tế Mỹ đã tăng 2,4%, tương đương với năm 2014 2 Trong tháng 1/2016, xuất khẩu của Mỹ cũng đã giảm 2,1% so với cùng kỳ, chỉ đạt mức 176,46 tỷ USD, mức thấp nhất trong vòng 5 năm rưỡi qua 3 Doanh số bán lẻ hàng hóa toàn khu vực trong tháng 1 chỉ tăng 2% so với cùng kỳ trong khi xuất khẩu giảm 2%.
3
PMI ngành sản xuất của Châu Âu
Nguồn: Markiteconomics
Chỉ số niềm tin tổng thể (Economic Sentiment
Indicator) tại khu vực Châu Âu
Nguồn: Eurostats
Tại Nhật Bản, hai động lực tăng trưởng chính trong nhiều năm qua là tiêu dùng
và xuất khẩu đều đồng loạt suy yếu. Cụ thể, doanh số bán lẻ hàng hóa trồi sụt
qua các tháng (tháng 1 giảm 0,1% so với cùng kỳ; tháng 2 tăng 0,5%), đồng
thời chỉ số niềm tin người tiêu dùng liên tục giảm và trong tháng 2/2016 cũng
đã xuống mức rất thấp (40,1 điểm, bằng với giai đoạn kinh tế Nhật lâm vào suy
thoái giữa năm 2012). Xuất khẩu trong tháng 1 và tháng 2 đều giảm (tháng 1
giảm 12,9% so với cùng kỳ trong khi tháng 2 giảm 4%). PMI ngành sản xuất
giảm liên tục trong 3 tháng đầu năm (lần lượt ở mức 50,2 điểm; 50,1 điểm và
49,1 điểm), qua đó đánh dầu lần đầu tiên PMI sản xuất xuống dưới mức 50
điểm kể từ tháng 4/2015. Điều này đã tạo áp lực lên Chính phủ Nhật thực hiện
mạnh mẽ hơn “mũi tên thứ ba” liên quan tới cải tổ toàn diện nền kinh tế, trong
đó tập trung vào cải cách thị trường lao động (đón nhận lao động nước ngoài,
khuyến khích phụ nữ tham gia vào thị trường lao động) và nâng cao quản trị
doanh nghiệp.
Chỉ số PMI sản xuất của Nhật Bản
Doanh số bán lẻ hàng hóa tại Nhật Bản
Nguồn: The Cabinet office
Đà giảm tốc của kinh tế Trung Quốc vẫn chưa dừng lại trong bối cảnh quá trình
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ chú trọng sản xuất và đầu tư sang phát triển
dịch vụ và tiêu dùng vẫn chưa phát huy hiệu quả như mong muốn. Ngành dịch
vụ của quốc gia này dù đã chiếm tỷ trọng gần một nửa (khoảng 48%) trong
GDP nhưng vẫn chưa đủ sức bù đắp những suy yếu kéo dài từ hoạt động sản
xuất. Tính đến tháng 3/2016, PMI ngành sản xuất tại Trung Quốc đã có tháng
thứ 12 liên tiếp ở mức dưới 50 điểm4. Cùng với đó, tốc độ tăng trưởng của khu
vực dịch vụ cũng chậm lại trong thời gian gần đây khi chỉ số PMI ngành dịch
vụ của Trung Quốc trong tháng 2 ở mức 51,2 điểm, thấp hơn so với mức 52,4
điểm của tháng 1. Xét theo phía cầu, tiêu dùng cuối cùng vẫn tăng trưởng thấp
hơn kỳ vọng khi doanh số bán lẻ hàng hóa tại Trung Quốc trong 2 tháng đầu
4 PMI ngành sản xuất của Trung Quốc trong tháng 3 chỉ đạt mức 49,7 điểm
4
năm chỉ tăng 10,2% so với cùng kỳ (thấp hơn mức 10,7% của 2 tháng năm đầu
năm 2015). Xuất khẩu trong tháng 2 giảm tới 25,4% so với cùng kỳ (tháng 1
giảm 11,2%).
PMI ngành sản xuất của Trung Quốc
Nguồn: Markiteconomics
Tỷ trọng đóng góp vào GDP Trung Quốc
theo phía cầu
Nguồn: BBVA Research
Giá hàng hóa thế
giới tiếp tục giảm
nhẹ so với cuối
năm trước.
Tính tới hết tháng 2/2016, chỉ số giá hàng hóa tổng hợp (All commodity price
index) ở mức 84,83 điểm (giảm 6,5% so với tháng 12/2015 và giảm 29,8% so
với cùng kỳ). Trong đó, giá hàng hóa năng lượng ở mức 62,5 điểm; giảm 13,9%
so với cuối năm và giảm 42,3% so với cùng kỳ. Giá hàng hóa phi năng lượng ở
mức 123,1 điểm, tăng 1,1% so với thời điểm tháng 12/2015 và giảm 13,61% so
với cùng kỳ. Giá các mặt hàng nông nghiệp thô giảm 0,52% so với cuối năm
2015; giảm 16,68% so với cùng kỳ. Giá các mặt hàng kim loại tăng 3,65% so
với cuối năm và giảm 20,7% so với cùng kỳ.
Diễn biến giá hàng hóa thế giới
Nguồn: IMF Commodity Price Index
Tuy vậy, diễn biến giá hàng hóa thế giới trong quý lại có biến động khá phức
tạp. Nếu như trong tháng 1, xu hướng giảm giá vẫn là chủ đạo thì tới tháng 2,
giá hàng hóa thế giới đã tăng nhẹ trở lại (với mức tăng 2% so với tháng 1), đánh
dấu đợt tăng lần đầu tiên sau 9 tháng. Trong đó chỉ số giá dầu thô tăng 3,8% (so
với tháng 1/2016), giá than đá tăng 2,2%, giá các mặt hàng nông nghiệp thô
tăng 0,2% do tác động từ hiện tượng El Nino tại các quốc gia Châu Á, giá các
mặt hàng kim loại tăng 5%.
5
Giá dầu đã phục
hồi so với thời
điểm cuối năm
2015.
Môi trường lạm
phát toàn cầu
không có nhiều
chuyển biến.
Tính đến ngày 31/3/2015, giá dầu WTI ở mức 37,83USD/thùng (tăng 1,8% so
với cuối năm 2015); giá dầu Brent ở mức 38,84USD/thùng, tăng 6,09% so với
cuối năm 2015. Tuy đã tăng trở lại nhưng trong diễn biến của giá dầu vẫn còn
khá phức tạp và khó lường do sự chi phối của những yếu tố nền tảng như cung
cầu thị trường cùng yếu tố tâm lý, kỳ vọng5.
Mặc dù giá dầu trong quý đầu tiên
của năm 2016 đã tăng so với cuối
năm 2015, tuy nhiên, nếu so với cùng
kỳ tháng 3/2015 thì giá dầu WTI vẫn
thấp hơn 20,72% và giá dầu Brent
thấp hơn 27,66%. Những diễn biến
này, kết hợp với tình trạng kinh tế ảm
đạm tại hầu khắp các quốc gia trên
thế giới khiến lạm phát toàn cầu nhìn
chung vẫn ở mức thấp, trừ các quốc
gia xuất khẩu hàng hóa tại Mỹ Latinh
và Trung Đông vẫn đang tiếp tục phải
đối mặt với tình trạng lạm phát cao. Cụ thể, lạm phát toàn phần và lạm phát cơ
bản tại Mỹ trong tháng 2/2016 đã tăng lần lượt là 1% và 2,3% so với cùng kỳ
(mức tăng cao nhất kể từ tháng 6/2012). Lạm phát toàn phần tại Nhật trong
tháng 2/2016 chỉ tăng 0,3% so với cùng kỳ, cùng với đó lạm phát cơ bản cũng
chỉ tăng 1,1%. Lạm phát cơ bản tại khu vực Châu Âu và Trung Quốc lần lượt là
1%6 và 1,3%7. Và lạm phát tại một số quốc gia xuất khẩu hàng hóa vẫn ở mức 2
con số trong bối cảnh kinh tế trì trệ, tổng cầu yếu và đồng nội tệ mất giá8.
Diễn biến giá dầu thế giới
Nguồn: EIA
2. Điều hành chính sách của NHTW các quốc gia
Chính sách tiền
tệ vẫn mang xu
hướng phân kỳ
giữa các nền
kinh tế
NHTW Mỹ: Sau lần tăng lãi suất đầu
tiên vào giữa tháng 12 năm ngoái, Mỹ
hiện tại vẫn chưa thực hiện những
bước đi tiếp theo và tiếp tục giữ
nguyên lãi suất ở mức thấp 0,5%. Một
trong những nguyên nhân chính khiến
FED trì hoãn tăng lãi suất USD là do
sự thận trọng về sức khỏe nền kinh tế
toàn cầu đang suy yếu, và những biến
động mạnh trên thị trường tài chính
tiền tệ toàn cầu trong những tháng đầu
năm. Sự trì hoãn của Mỹ đang khiến
dự báo của giới đầu tư về khả năng
tăng lãi suất của Mỹ trong năm 2016 đã giảm đi rõ rệt. Cho đến thời điểm hiện
tại, hầu hết các nhà đầu tư đều cho rằng lãi suất của Mỹ sẽ không thể tăng vượt
5 Khả năng Quyết định cắt giảm nguồn cung từ các quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn của thế giới như Nga, Venezuela, Qatar, Ả rập Saudi trong
thời gian tới; Trong tháng 2, sản lượng dầu thô của toàn khối OPEC giảm 90.000 thùng/ngày. Các nước ngoài OPEC như Brazil, Colombia,
Trung Quốc và Kazakhstan cũng đã hạ sản lượng dầu trong tháng 2. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ dự báo sản lượng dầu đá phiến của Mỹ trong tháng 4/2016 sẽ giảm xuống 4,8 triệu thùng/ngày, tháng giảm thứ 6 liên tiếp. Số giàn khoan dầu của Mỹ cũng giảm xuống còn 392
giàn và hiện đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2009; các quyết sách điều hành của Fed, sức mạnh của đồng USD. 6 Dữ liệu tháng 3/2016 7 Dữ liệu tháng 2/2016 8 Lạm phát tổng thể và cơ bản tại Brazil trong tháng 2/2016 lần lượt ở mức 10,36% và 9,2% so với cùng kỳ.
Kỳ vọng thay đổi đối với lãi suất cơ bản
của Mỹ tại một số thời điểm
Nguồn: BIS report (3/2016)
6
qua 0,6% cho đến hết năm 2017, thấp hơn nhiều so với mức dự đoán lên đến
trên 1,2% được đưa ra vào thời điểm cuối năm ngoái.
NHTW Nhật: BoJ là NHTW đầu tiên
trong năm 2016 đã gây ngạc nhiên đối
với thị trường khi quyết định thực hiện
chính sách lãi suất tiền gửi âm đối với
các khoản dự trữ vượt mức của các
TCTD gửi tại NHTW kể từ ngày
29/1/2016. Như vậy, cùng với ECB,
NHTW Thụy Điển, Thụy Sỹ và Đan
Mạch, BoJ là NHTW thứ 5 quyết định
áp dụng chính sách lãi suất âm trong bối
cảnh việc thực hiện một loạt các chương
trình nới lỏng định lượng vẫn chưa thể
đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng giảm
phát và tăng trưởng sụt giảm.
NHTW Châu Âu: trong cuộc họp vào ngày 10/3, ECB cũng đã tiếp tục quyết
định cắt giảm một loạt các mức lãi suất chủ chốt nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của Khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Cụ thể, lãi suất tiền gửi đối với
dự trữ vượt mức của các định chế tài chính tại ECB được cắt giảm từ mức -
0,3% xuống còn -0,4%; lãi suất tái cấp vốn từ 0,05% xuống còn 0%, và lãi suất
cho vay thanh khoản cũng giảm từ 0,3% xuống còn 0,25%. Ngoài ra, ECB cũng
thông báo sẽ chi thêm hàng chục tỷ euro để phục hồi nền kinh tế yếu kém kéo
dài của Eurozone. Theo đó, ECB sẽ tăng lượng mua vào trái phiếu chính phủ và
doanh nghiệp theo chương trình nới lỏng định lượng, từ mức 60 tỷ euro lên 80
tỷ euro/ tháng, trên cả sự kỳ vọng của các chuyên gia kinh tế.
NHTW các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi: Trong khi xu hướng nới
lỏng CSTT tại các nền kinh tế phát triển là khá rõ ràng, tại các nền kinh tế đang
phát triển và mới nổi định hướng điều hành CSTT mang tính phân kỳ hơn, với
sự dẫn dắt của diễn biến trên các thị trường hàng hóa, những biến động tỷ giá
cũng như trước những áp lực lạm phát khác nhau tại mỗi nền kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế tiếp tục đi xuống, hiện PboC vẫn là NHTW đi đầu tại
khu vực Châu Á trong việc nới lỏng CSTT thông qua tiếp tục thực hiện tổng
hợp một loạt các biện pháp như hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc và bơm thêm tiền vào
nền kinh tế thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Tình hình tương tự cũng đang
diễn ra đối với Indonesia với 2 lần cắt giảm lãi suất liên tiếp từ đầu năm và New
Zealand với lần cắt giảm lãi suất thứ 5 chỉ trong vòng 1 năm qua.
Tại một số nền kinh tế mới nổi khác tại khu vực Châu Á và Châu Âu – những
nền kinh tế đang hưởng lợi lớn từ việc giá cả hàng hóa thế giới sụt giảm, điều
hành CSTT tại các NHTW không có nhiều thay đổi mặc dù đồng nội tệ tại các
quốc gia này đang chịu áp lực mất giá khá mạnh. Ngược lại, tại các nền kinh tế
xuất khẩu chủ chốt, NHTW các quốc gia này đã phải thắt chặt hoặc chuẩn bị có
những động thái thắt chặt chính sách trước áp lực đồng nội tệ mất giá trong bối
cảnh lạm phát gia tăng và tăng trưởng kinh tế suy giảm.
Xu hướng điều hành lãi suất tiền gửi
của một số NHTW
Nguồn: BIS report (3/2016)
7
3. Diễn biến thị trường tài sản
Vàng đã trở thành tài sản tăng giá mạnh nhất trong Quý I/2016
Thị trường ngoại hối đã chứng kiến nhiều diễn biến ngoài dự đoán của các đồng tiền
mạnh
Diễn biến chỉ số USD trong Quý I/2016
Nguồn: investing.com
Giá vàng duy trì
xu hướng tăng
liên tục trong 3
tháng.
Trong 3 tháng đầu năm 2016, giá
vàng trên thị trường quốc tế đã
diễn biến ngược dòng ngoạn mục
so với quý IV/2015 cũng như cả
năm 2015, giá vàng duy trì xu
hướng tăng liên tục trong 3 tháng
với tổng mức tăng gần 15,6%,
giao dịch ở mức 1233,5. Giá vàng
đã tăng mạnh trong tháng 1 và
tháng 2, tăng nhẹ vào tháng 3. Tuy
nhiên, kết thúc tháng 3, diễn biến
của giá vàng trên thị trường quốc
tế đã bộc lộ xu hướng bất ổn, đà
tăng mạnh của giá vàng theo như dự báo của giới đầu tư trong 2 tháng đầu năm
đã phải thay đổi, đặc biệt khi nỗi lo sợ về sự suy thoái của kinh tế toàn cầu đã
lắng xuống, môi trường lãi suất thấp có thể sẽ không kéo dài, giá trị của các tài
sản tài chính sẽ được thị trường đánh giá lại.
Mặc dù cuối năm 2015, đồng USD được dự báo là sẽ không tăng mạnh và xu
hướng tăng của đồng tiền này sẽ tiếp tục hiện hữu trong những tháng đầu năm
2016 nhưng điều đó chỉ đúng trong tháng 1/2016 khi chỉ số đồng USD vẫn có
được mức tăng nhẹ 0,93%. Bước sang tháng 2, 3, chỉ số này đã liên tục suy
giảm lần lượt là 1,41% và lớn hơn 3%. Điều đáng chú ý là sự suy giảm này diễn
ra ngay cả khi nước Mỹ liên tục đón nhận các thông tin tích cực trong diễn biến
kinh tế, việc làm, lạm phát và động thái điều hành CSTT. Và yếu tố quyết định
diễn biến của chỉ số USD index hiện nay chỉ có thể là khả năng cạnh tranh
thương mại đang suy yếu của Mỹ và sự thất vọng của thị trường đối với động
thái điều hành CSTT “thận trọng” của Fed. Trong 3 tháng đầu năm chỉ số USD
index đã giảm 4,16%, giao dịch ở mức 94,65.
Tại khu vực Châu Âu, xu hướng biến động của đồng GBP và đồng EUR đã
không diễn ra như dự báo. Kết thúc Quý I, đồng GBP đã không tăng giá như kỳ
Diễn biến của giá vàng trên thị trường quốc tế
Quý I/2016
Nguồn: kitco.com
8
Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền mạnh tại Quý I/2016
Nguồn: fxstreest.com
Thị trường chứng khoán biến động mạnh
vọng, tỷ giá GBP/USD đã giảm 2,43% trong quý I. Trong khi đó, đồng EUR đã
không bị mất giá mạnh ngay cả khi NHTW vẫn tiếp tục điều hành CSTT theo
xu hướng nới lỏng mạnh mẽ hơn. Trong Quý I/2016 đồng EUR đã tăng gần
4,77%. Bên cạnh đồng EUR, đồng CAD và AUD cũng có diễn biến tích cực,
thậm chí đây là 2 đồng tiền có mức tăng giá cao nhất so với đồng USD, lần lượt
là 6,43% và 5,17%.
Tại khu vực Châu Á, hai đồng tiền mạnh là JPY và CNY đã có những diễn biến
trái với kỳ vọng, kết thúc Quý I, đồng JPY vẫn tăng xấp xỉ 6,56% và đồng CNY
là 0,67% trong 3 tháng đầu năm
Thị trường
chứng khoán
toàn cầu chịu
những tác động
trái chiều từ diễn
biến vĩ mô và
những quyết
sách điều hành
của các nền kinh
tế chủ chốt trên
thế giới.
Trong nửa đầu quý, những nhân tố
tiêu cực như sự lao dốc của kinh tế
Trung Quốc, giá dầu trượt giảm
mạnh, sự không chắc chắn trong
định hướng điều hành chính sách
tại các nền kinh tế chủ chốt và căng
thẳng địa chính trị gia tăng đã kéo
thị trường rơi vào những đợt giảm
mạnh trong gần hai tháng đầu năm.
Tuy nhiên, bước sang nửa cuối
quý, một loạt thông tin hỗ trợ từ
các chính sách kích thích kinh tế
của các nước lớn, việc giá dầu tăng trở lại đã giúp nâng đỡ và lấy lại đà tăng
điểm cho thị trường. Nhờ đó, kết thúc quý I, hai trong ba chỉ số giao dịch chứng
khoán chính tại Mỹ là Dow Jones và S&P 500 đã khôi phục lại hầu hết giá trị,
tăng nhẹ lần lượt 1,99% và 1,28% so với cuối năm 2015, trong khi chỉ số
Nasdaq giảm nhẹ 2,41%. Tuy nhiên, tại các thị trường chứng khoán Châu Âu và
Châu Á, hầu hết các chỉ số đều giảm điểm so với cuối năm trước, trong đó đặc
biệt là hai chỉ số Nikkei 225 và chỉ số Shanghai đã giảm đến trên 10%.
Diễn biến của các chỉ số chứng khoán thế giới
quý I/2016
Nguồn: Bloomberg
9
KINH TẾ TRONG NƯỚC
1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I các năm 2014, 2015 và 2016
Tốc độ tăng so với quý I năm trước (%) Đóng góp của các khu vực
vào tăng trưởng quý I/2016
(Điểm phần trăm) Quý I/2014 Quý I/ 2015 Quý I/2016
Tổng số 5.06 6.12 5.46 5.46
Nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản 2.68 2.25 -1.23 -0.16
Công nghiệp và xây dựng 4.42 8.74 6.72 2.33
Dịch vụ 5.90 5.68 6.13 2.48
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm 6.69 4.51 6.50 0.81
Nguồn: TCTK
Phân tích tăng trưởng về phía cung
Nguồn: TCTK
9 Chỉ số sản xuất công nghiệp quí I năm 2015 tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước
Tăng trưởng kinh
tế trong quý I có
dấu hiệu chững
lại so cùng kỳ năm
2015
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2016 ước tính tăng 5,46% so với cùng
kỳ năm trước, trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,72%, đóng góp
2,33 điểm phần trăm vào tăng trưởng chung; khu vực dịch vụ tăng 6,13%, đóng
góp 2,48 điểm phần trăm; riêng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm
1,23%, làm giảm 0,16 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung. Tăng trưởng quý I
năm nay cao hơn mức tăng của quý I các năm 2012-2014, nhưng đang có dấu
hiệu chững lại so với mức tăng 6,12% của cùng kỳ năm 2015.
Công nghiệp
chế biến, chế
tạo tiếp tục
giữ vai trò
dẫn dắt về
phía cung
Trong Quý I/2016, chỉ số IIP tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước và thấp hơn
mức tăng của cùng kỳ năm 20159, diễn biến của chỉ số này đang thể hiện xu
hướng phục hồi của tình hình sản xuất trong nước qua các tháng với đà tăng
trưởng mạnh vào tháng 3 là 23,8% như một số năm gần đây (tốc độ tăng của IIP
trong tháng 3 so với tháng 2 trong năm 2014: 16,9%; năm 2015: 25,8%) .
Đóng góp chính vào đà tăng của chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành là
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành này
qua các tháng mặc dù không được mạnh mẽ như những năm trước nhưng vẫn
10
Chỉ số tồn kho Công nghiệp chế biến chế tạo
01/2015 – 2/2016
Chỉ số tiêu thụ Công nghiệp chế biến chế tạo
01/2015 – 2/2016
Nguồn: TCTK
10 Theo số liệu từ Bộ Công thương, sản lượng khai thác dầu thô trong tháng 2/2016 là 1,4 triệu tấn, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm 2015;
Trong 2 tháng đầu năm là 3 triệu tấn, giảm 2,2 % so với cùng kỳ năm 2015. Từ nửa cuối tháng 2 đến nay giá dầu WTI tăng 25,4%; giá dầu
Brent tăng 15,4%.
giữ vai trò dẫn dắt với tốc độ tăng trong Quý I là 7,9%, đóng góp 5,6 điểm phần
trăm trong mức tăng chung. Trong đó, có những nhóm ngành tiếp tục đạt mức
tăng trưởng cao trong quý I so với cùng kỳ như sản phẩm điện tử, máy vi tính
và sản phẩm quang học tăng 10,2%; Sản phẩm đồ uống tăng 10,9%; Sản phẩm
từ cao su và plastic là 10,2%; Sản xuất kim loại tăng 23,1%; Sản xuất giấy và
sản phẩm từ giấy: 14,8%.
Diễn biến tích cực trong ngành chế biến chế tạo cũng được thể hiện rõ hơn
thông qua hoạt động tiêu thụ và tồn kho. Cụ thể, chỉ số tiêu thụ công nghiệp chế
biến chế tạo tháng 2/2016 tăng 11,2% so cùng kỳ. Chỉ số hàng tồn kho vào
1/3/2016 tăng 8,7% so với cùng thời điểm năm 2015, thấp hơn so với mức tăng
10,9% của năm trước.
Chỉ số PMI liên
tục đạt ngưỡng
mở rộng trong 3
thángđầu năm
nhưng chưa thật
sự ấn tượng so
với cùng kỳ năm
2015
Bên cạnh sự đóng góp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vào đà tăng
chung của IIP, ngành sản xuất, phân phối điện cũng đã tăng 13,1%, đóng góp
0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng
9,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Không có được diễn biến thuận lợi như những năm trước, do tác động suy giảm
của mặt bằng giá cả năng lượng thế giới, đặc biệt là giá dầu, ngành công nghiệp
khai khoáng đã không giữ được đà tăng mạnh so với cùng kỳ như trong những
tháng đầu năm 2015. Mặc dù tốc độ phát triển của nhóm ngày đã có sự cải thiện
trong tháng 3 do tác động tích cực từ xu hướng gia tăng liên tục của giá dầu thế
giới từ nửa cuối tháng 2 đến nay, tăng 10% so với tháng 2/2016 nhưng tốc độ
tăng trưởng của nhóm ngày này trong quý I vẫn giảm 1,2% so với cùng kỳ10,
làm giảm 0,3 điểm phần trăm mức tăng chung.
Thực tế khó khăn của khu vực sản xuất cũng phần nào được phản ánh thông qua
diễn biến chỉ số quản trị nhà mua hàng PMI (Nikkie) trong quý I/2016. Mặc dù,
chỉ số PMI liên tục ở ngưỡng mở rộng trong 3 tháng lần lượt là 51,3; 50,3 và
50,7 nhưng diễn biến này chưa thật sự ấn tượng so với năm trước và chưa thể
hiện xu hướng vững chắc. Điểm tích cực của khu vực sản xuất trong 3 tháng
đầu năm đó là sản lượng và số lượng đơn hàng mới liên tục gia tăng do nhu cầu
của khách hàng cả trong nước và ngoài nước đều tăng mạnh. Việc số lượng đơn
11
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng có xu hướng tăng trưởng chậm lại so với
cùng kỳ năm trước
Đà tăng trưởng
của chỉ số doanh
thu bán lẻ hàng
hóa và dịch vụ
tiêu dùng đã
giảm qua các
tháng
Trong quý I, cầu tiêu dùng chưa thể hiện được sự bứt phá mạnh mẽ như
những tháng đầu năm 2015 khi tốc độ tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa và
dịch vụ tiêu dùng so với cùng kỳ luôn ở mức thấp hơn so với các tháng của
năm 201511
. Không những thế, tốc độ tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa và
dịch vụ tiêu dùng so với tháng trước còn có xu hướng giảm liên tục qua 3
tháng đầu năm12
, một diễn biến khá trái quy luật các năm khi đây là thời
điểm tiêu dùng thường tăng cao do trùng với dịp Tết nguyên đán. Như vậy,
kết thúc quý I, tông mưc ban le hang hoa va doanh thu dich vu tiêu dung
ước đạt 859,6 nghìn tỷ đồng, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước; nếu loại
trừ yếu tố giá tăng 7,9%, thấp hơn mức tăng 9,2% của cùng kỳ năm 2015.
Tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu
dùng đã loại trừ yếu tố giá (%yoy)
Tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa so với
tháng trước và so với cùng kỳ
11 Tốc độ tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2016 so với cùng kỳ lần lượt đạt tháng 1 tăng 11,7%; tháng 2
tăng 6,8% và tháng 3 tăng 8,8%; trong khi đó năm 2015, tốc độ tăng qua các tháng lần lượt đạt 13% trong tháng 1, 11,6% trong tháng 2 và
9,3% trong tháng 3. 12 Tốc độ tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng so với tháng trước lần lượt đạt tháng 1 tăng 3,5%; tháng 2 giảm 3,28% và
tháng 3 tiếp tục giảm 3,4%.
đặt hàng mới gia tăng đã hỗ trợ cho đà tăng của sản lượng, đặc biệt là sản lượng
trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa tiêu dùng. Thực tế đó cũng ảnh hưởng tích cực
hàng tồn kho, lượng công việc tồn
đọng, việc làm.
Bên cạnh đó, giá cả đầu vào và đầu
ra liên tục giảm trong 2 tháng đầu
năm, mặc dù đã được cải thiện trong
tháng 3 vẫn là những diễn biến bất
lợi, ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà
sản xuất. Nguyên nhân chính dẫn
đến chuỗi giảm của chi phí đầu vào
trong 8 tháng liên tục và chuỗi giảm
của chi phí đầu ra trong 18 tháng
qua đó là xu hướng đi xuống của giá
cả hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá dầu và nhu cầu cả trong nước và quốc tế
còn chưa phục hồi mạnh mẽ. Việc giá cả đầu vào đã tăng trong tháng 3 chưa thể
tạo hiệu ứng để tăng giá cả đầu ra trước sức ép của cạnh tranh và tình trạng tiếp
tục giảm giá một số nguyên vật liệu, tuy nhiên đây cũng là mức giảm chậm nhất
trong hơn một năm rưỡi qua.
Chỉ số PMI Việt Nam 1/2015 – 3/2016
Nguồn: nikkei.com
12
Nguồn: TCTK
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tiếp tục là động lực dẫn dắt tăng trưởng với vai trò đầu
tàu thuộc về khu vực FDI
Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn dưới những sức ép
đến từ cả phía cung và phía cầu, diễn biến khả quan của tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, đặc biệt là dòng vốn đầu tư nước ngoài đang là một điểm sáng
giúp nâng đỡ triển vọng tăng trưởng của Việt Nam.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I năm 2016 theo giá hiện hành
ước tính đạt 273,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước và
bằng 32,2 % GDP, cao hơn so với cùng kỳ 2 năm liền trước. Trong đó, vốn
đầu tư từ khu vực nước ngoài vẫn duy trì vị trí dẫn đầu với mức tăng
trưởng đạt 13,5%. Tiếp đến là khu vực tư nhân và Nhà nước giữ đà tăng
trưởng ổn định lần lượt đạt 11,5% và 7,8% so với cùng kỳ của năm 2015.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I các năm 2014 - 2016 so với cùng kỳ năm trước
Đơn vị tính: %
Quý I
năm 2014
Quý I
năm 2015
Quý I
năm 2016
Tổng số 108,8 109,7 110,7
Khu vực Nhà nước 106,8 107,7 107,8
Khu vực ngoài Nhà nước 111,6 111,4 111,5
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 108,2 110,2 113,5
Nguồn: TCTK
Diễn biến tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào
Việt Nam trong quý I năm 2016 thể hiện qua lượng vốn FDI thu hút
cũng như FDI thực hiện. Tính đến thời điểm 20/3/2016, tổng vốn đăng
ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 4026,3 triệu USD, tăng
119,1% so với cùng kỳ năm trước (quý I năm 2015 giảm 44,9%). Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I/2016 ước tính đạt 3,5 tỷ
USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2015 (cao hơn gấp đôi so với mức
tăng 7% của quý I năm 2015).
So sánh vốn đăng ký FDI qua các tháng thuộc quý I
giai đoạn 2014 - 2016
So sánh vốn thực hiện FDI qua các tháng thuộc
quý I giai đoạn 2014 - 2016
Nguồn: TCTK
13
Cán cân thương mại xuất siêu do nhập khẩu có xu hướng sụt giảm mạnh trong quý I
Xuất khẩu chững
lại do chịu tác
động bất lợi từ
diễn biến vĩ mô
bên ngoài
Nhập khẩu sụt
giảm mạnh, đặc
biệt đối với một số
mặt hàng phục vụ
cho sản xuất
trong nước
Nhập khẩu giảm
mạnh hơn xuất
khẩu đã đưa nền
kinh tế quay lại
xuất siêu trong
quý I
Đầu năm 2016, hoạt động xuất khẩu không có nhiều điểm đột phá. Ngay
trong tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu đã giảm 0,31% so với cùng kỳ
năm trước (thấp hơn rất nhiều so với mức tăng lên đến 16,97% của tháng 1
năm 2015); tiếp nối là tháng 2 và tháng 3 không có nhiều cải thiện đáng kể
với mức tăng lần lượt chỉ đạt 8,17% và 6,41%. Như vậy, kết thúc quý I,
tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 37,9 tỷ USD, tăng 4,1% so với cùng kỳ
năm trước, thấp hơn mức tăng 6,9% của quý I năm 2015. Xuất khẩu tăng
trưởng yếu cho thấy hàng hóa Việt Nam đang gặp nhiều áp lực cạnh tranh
khi cầu thế giới chưa thực sự phục hồi và diễn biến giá cả hàng hóa toàn
cầu đang có nhiều biến động.
Nhập khẩu hàng hóa trong quý I có xu hướng sụt giảm khá mạnh so với
cùng kỳ năm 2015. Nhập khẩu hàng hóa qua 3 tháng đầu năm đều ở mức
tăng trưởng âm so với năm 2015 khi lần lượt đạt -8,48%; -1,81% và -
4,32%; một xu hướng hiếm khi xảy ra khi kim ngạch nhập khẩu luôn có xu
hướng tăng cao năm sau so với năm trước. Như vậy, kết thúc quý I, tổng
kim ngạch nhập khẩu ước đạt 37,1 tỷ USD, giảm 4,8% so cùng kỳ năm
trước, trái ngược hoàn toàn so với mức tăng ấn tượng hơn 16% của 3 tháng
đầu năm 2015.
Đáng chú ý là giá trị nhập khẩu một số yếu tố gắn liền với năng lực sản
xuất đã giảm đi đáng kể so cùng kỳ 2015: máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ
tùng giảm 5%; nguyên nhiên vật liệu giảm 4,4% (3 tháng đầu năm 2015,
giá trị nhập khẩu 2 nhóm hàng trên tăng lần lượt 20% và 13,2%). Với đặc
thù đầu vào của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, việc
nhập khẩu các nhóm hàng trên sụt giảm là một chỉ báo cho thấy tăng
trưởng lĩnh vực sản xuất đang chững lại. Ngoài ra, nhập khẩu nhóm hàng
tiêu dùng cũng giảm 6,3% so cùng kỳ năm trước (3 tháng đầu năm 2015
nhóm hàng này tăng 19,2%) cho thấy cầu tiêu dùng trong nước có dấu hiệu
suy yếu trở lại.
Với tình trạng xuất khẩu và
nhập khẩu đều suy giảm,
trong đó nhập khẩu giảm
mạnh hơn xuất khẩu nên cán
cân thương mại đã xuất siêu
đạt 776 triệu USD. Tuy
nhiên, việc xuất siêu quay
trở lại chưa phải là một tín
hiệu lạc quan khi nguyên
nhân chính lại đến từ việc
sụt giảm nhập khẩu và hiện
tại cơ cấu xuất khẩu chưa có
những thay đổi đột phá tích
cực. Ngoài ra, nhập siêu
trong quý I vẫn thuộc về khu vực kinh tế trong nước với mức nhập siêu là
Diễn biến cán cân thương mại giai đoạn
QI/2015 – QI/2016
Nguồn: TCTK
14
4,05 tỷ USD trong khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 4,83 tỷ
USD.
Một số VBPL chính sách quan trọng liên quan đến điều tiết tăng trưởng kinh tế được ban hành, bắt đầu có
hiệu lực trong quý I năm 2016
- Nghị quyết của Chính phủ số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2016
- Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ; có hiệu lực ngày 01/01/2016
- Nghị định 136/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư công, có hiệu lực ngày 15/2/2016
- Nghị định 135/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài; có hiệu lực ngày 15/2/2016
- Nghị định 131/2015/NĐ-CP hướng dẫn về dự án quan trọng quốc gia; có hiệu lực ngày 15/2/2016
- Nghị định 122/2015/ NĐ-CP ngày 14/11/2015 của Chính phủ quy định từ ngày 01/01/2016 sẽ áp dụng mức
lương tối thiểu vùng từ 2.400.000 đến 2.500.000 đồng/tháng với người lao động làm việc tại DN, liên hiệp HTX,
HTX, tổ HTX, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan tổ chức có sử dụng lao động; có hiệu lực ngày
01/01/2016;
- Quyết định 229/QĐ-TTg ban hành ngày 4/2/2016 Quyết định về cơ chế, chính sách thực hiện Chiến lược và
Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, ngày hiệu lực 4/2/2016
- Quyết định 228/QĐ-TTg ngày 4/2/2016 quyết định về việc phê duyệt Đề án nâng cao năng lực công tác thông
tin xúc tiến thương mại giai đoạn 2016 – 2020; có hiệu lực ngày 4/2/2016
- Quyết định 306/QĐ-TTg ngày 26/2/2016 quyết định về việc điều chỉnh mức cho vay đối với hộ gia đình sản
xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn; có hiệu lực ngày 15/3/2016
- Quyết định 307/QĐ-TTg ngày 26/2/2016 quyết định về việc điều chỉnh mức cho vay đối với thương nhân hoạt
động thương mại tại vùng khó khăn; có hiệu lực ngày 15/3/2016
- Thông tư 216/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế suất thuế nhập khẩu để thực hiện Hiệp định Thương mại song
phương giữa Việt Nam – Lào do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành; có hiệu lực ngày 14/2/2016
- Thông tư 05/2016/TT-BTC sửa đổi mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với hàng hóa môi trường trong
APEC thuộc nhóm 84.19 và 84.21 tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành; có hiệu
lực ngày 27/2/2016;
- Thông tư 48/2016/TT-BTC sửa đổi mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng xăng, dầu
thuộc nhóm 27.10 tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi; có hiệu lực ngày 18/3/2016;
…
2. Lạm phát
Chỉ số giá tiêu
dùng bình quân
quý I đã tăng
1,25% so với
cùng kỳ năm
trước
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân Quý I năm 2016 tăng 1,25% so với cùng kỳ,
tăng cao hơn so với mức tăng bình quân cùng kỳ năm trước (CPI bình quân
quý I năm 2015 chỉ tăng 0,74% so với cùng kỳ). Tuy nhiên mức tăng này vẫn
thấp hơn nhiều so với cùng kỳ một số năm gần đây (CPI quý I năm 2014 tăng
4,83%; năm 2013: 6,91% và năm 2012: 15,95%).
Trong quý I, CPI chỉ bắt đầu gia tăng với mức tăng tháng sau cao hơn tháng
trước vào tháng 2 (0,42%) và tháng 3 (0,57%) và đây là diễn biến có phần tích
cực hơn so với Quý I năm 2015 khi mặt bằng giá cả chung không rơi vào vùng
“giá giảm”. Bên cạnh đó, mặc dù trong Quý có kỳ nghỉ lễ tết song CPI chỉ tăng
thấp là do giá xăng dầu và giá cước vận tải giảm, nguồn cung hàng hóa dồi dào;
giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới không có nhiều biến động và các chính
sách bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu, ổn định giá cả thị trường trong dịp