5 Kho tàng di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn - Bảo tồn và phát huy giá trị TS Phan Thanh Hải (Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế) Tóm tắt: Triều Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt Nam, với gần 400 năm tồn tại (1558-1945), các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã để lại cho dân tộc những di sản văn hóa vô cùng phong phú và mang giá trị đặc biệt. Huế là thủ phủ của các chúa Nguyễn và là kinh đô của vương triều Nguyễn nên đã thừa hưởng được nhiều di sản văn hóa quan trọng. Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới và phát triển của đất nước, sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn đã đạt được nhiều thành quả to lớn, góp phần xây dựng Huế trở thành một trung tâm văn hóa du lịch của đất nước, thành phố festival đặc trưng của Việt Nam. Bài tham luận dưới đây đề cập đến 3 nội dung chính: 1-Triều Nguyễn với các di sản văn hóa cung đình; 2- Công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa cung đình tại cố đô Huế; 3-Một số định hướng chiến lược cho công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di sản của cố đô Huế. Abstract: The Nguyen was the last monarchy of Vietnam with nearly 400 years of existence (1558-1945). Nguyen lords and Nguyen dynasty left the country diversified cultural heritages with special values. As the head-quarter of Nguyen lords and the capital city of Nguyen dynasty, Hue inherits many important cultural heritages. In the past years, with the country renovation and development, the Nguyen dynasty's cultural heritage preservation and enhancement gained remarkable achievements helping Hue become a cultural-tourist center, and a typical festival city of Vietnam. This speech would like to mention 3 main contents: 1. Nguyen monarchy and the Court cultural heritages; 2. The Court cultural heritage preservation and enhancement at Hue ancient capital city; 3. Some strategic orientations for Hue heritage preservation and enhancement. * * * Tổng quan về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cố đô Huế GS.TSKH Lưu Trần Tiêu (Hội đồng Di sản Văn hóa Việt Nam) Tóm tắt: 1. Không nơi nào trên đất nước ta như ở Huế còn giữ lại được một quần thể di tích đền đài, cung điện, thành quách, lăng tẩm… khá hoàn chỉnh về mặt quy hoạch, và cùng với nó là một khối lượng đồ sộ, phong phú, đa dạng về những tư liệu phản ánh đời sống, nghi lễ cung đình, sinh hoạt nơi cung cấm. Cái đẹp của kiến trúc Huế là sự mực thước trong kết
68
Embed
Kho tàng di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn - Bảo tồn và ...hueworldheritage.org.vn/FileUpload/files/tom tat bai tham luan Viet... · lịch của đất nước,
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
5
Kho tàng di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn - Bảo tồn và phát huy giá trị
TS Phan Thanh Hải
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Triều Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt Nam, với gần 400
năm tồn tại (1558-1945), các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã để lại cho dân tộc
những di sản văn hóa vô cùng phong phú và mang giá trị đặc biệt. Huế là thủ phủ của các
chúa Nguyễn và là kinh đô của vương triều Nguyễn nên đã thừa hưởng được nhiều di sản
văn hóa quan trọng. Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới và phát triển của đất nước,
sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn đã đạt
được nhiều thành quả to lớn, góp phần xây dựng Huế trở thành một trung tâm văn hóa du
lịch của đất nước, thành phố festival đặc trưng của Việt Nam.
Bài tham luận dưới đây đề cập đến 3 nội dung chính: 1-Triều Nguyễn với các di
sản văn hóa cung đình; 2- Công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa cung
đình tại cố đô Huế; 3-Một số định hướng chiến lược cho công cuộc bảo tồn và phát huy giá
trị di sản của cố đô Huế.
Abstract: The Nguyen was the last monarchy of Vietnam with nearly 400 years of
existence (1558-1945). Nguyen lords and Nguyen dynasty left the country diversified
cultural heritages with special values. As the head-quarter of Nguyen lords and the capital
city of Nguyen dynasty, Hue inherits many important cultural heritages. In the past years,
with the country renovation and development, the Nguyen dynasty's cultural heritage
preservation and enhancement gained remarkable achievements helping Hue become a
cultural-tourist center, and a typical festival city of Vietnam.
This speech would like to mention 3 main contents: 1. Nguyen monarchy and the
Court cultural heritages; 2. The Court cultural heritage preservation and enhancement at
Hue ancient capital city; 3. Some strategic orientations for Hue heritage preservation and
enhancement.
* * *
Tổng quan về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cố đô Huế
GS.TSKH Lưu Trần Tiêu
(Hội đồng Di sản Văn hóa Việt Nam)
Tóm tắt:
1. Không nơi nào trên đất nước ta như ở Huế còn giữ lại được một quần thể di tích
đền đài, cung điện, thành quách, lăng tẩm… khá hoàn chỉnh về mặt quy hoạch, và cùng với
nó là một khối lượng đồ sộ, phong phú, đa dạng về những tư liệu phản ánh đời sống, nghi
lễ cung đình, sinh hoạt nơi cung cấm. Cái đẹp của kiến trúc Huế là sự mực thước trong kết
6
cấu, sự tinh tế trong từng chi tiết trang trí mỹ thuật ở đỉnh cao, sự hài hòa giữa công trình
kiến trúc và môi trường cảnh quan thiên nhiên. Tính độc đáo và duy nhất chỉ có ở Cố đô
Huế là hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế như là một hình thức "xuất bản"
những áng thơ văn, được chạm khắc, khảm cẩn, tráng men, đắp nổi tạo thành một tác phẩm
mỹ thuật, một lối trang trí mỹ thuật "nhất thi nhất họa", "nhất tự nhất họa" rất độc đáo,
được "lưu trữ" trên liên ba, đố bản, vách ván trên kiến trúc cung đình Huế.
Trên đất nước ta chỉ có ở Huế còn giữ được Âm nhạc cung đình. Nhiều thư tịch cổ,
các bộ hương ước, phổ hệ, phả hệ, sắc phong, di vật và cổ vật các loại,… còn đang được
lưu giữ trong các đình, đền, chùa, nhà thờ họ tộc và trong nhiều gia đình người dân Huế,
nhưng đang vơi dần theo năm tháng.
Không có ở các di sản văn hóa khác của Việt Nam và cũng hiếm thấy ở các nước
trên thế giới, trong một khu di sản - Quần thể di tích Cố đô Huế - được UNESCO ghi danh
5 danh hiệu cao quý: Di sản văn hóa Thế giới (1993), Nhã nhạc cung đình Huế (2003) và 3
Di sản tư liệu Thế giới: Mộc bản triều Nguyễn (2009), Châu bản triều Nguyễn (2014) và
Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016).
2. Quần thế di tích Cố đô Huế tọa lạc trên một phạm vi rất rộng lớn nằm trong thành
phố Huế và 3 huyện thị phụ cận của tỉnh Thừa Thiên Huế với hơn 500 hạng mục công
trình di tích trong khu vực Kinh thành, Hoàng thành, Tử Cấm thành và các di tích ngoài
Kinh thành, bao gồm 7 cụm lăng tẩm của 10 vị vua triều Nguyễn và các di tích tín ngưỡng,
tôn giáo, công trình phòng thủ… Đây là di tích có phạm vị khu vực di sản (khu vực bảo vệ
I) và vùng đệm (khu vực bảo vệ II) vào loại lớn nhất so với những Di sản văn hóa Thế giới
đã được UNESCO ghi danh ở nước ta. Chính đây là một thách thức lớn, đồng thời cũng là
cơ hội hiếm có cho những người làm công tác bảo tồn di sản Cố đô Huế.
Sau khi triều Nguyễn cáo chung, tiếp đến là 2 cuộc chiến tranh kéo dài đã tàn phá
nghiêm trọng Quần thể di tích này. Sau ngày đất nước thống nhất, các nhà quản lý và
chuyên môn đã tiến hành công tác bảo quản cấp thiết, tu sửa các công trình bị xuống cấp.
Tuy nhiên, đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, nên công tác bảo tồn gặp nhiều khó khăn, di
sản vẫn ở trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Chính vì vậy, năm 1981, Tổng Giám
đốc UNECO đã ra lời kêu gọi cứu nguy khẩn cấp di sản văn hóa Huế. Sau đó là một loạt
các sự kiện khác đã diễn ra: Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO ghi danh là Di sản
văn hóa Thế giới (1993); Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (1996) Dự án Quy hoạch bảo tồn
và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế, giai đoạn 1996-2010; Dự án điều chỉnh Quy hoạch
này (2010); giai đoạn 2010-2020 và Cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư bảo tồn và phát huy
giá trị di tích Cố đô Huế (2012); Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế phê duyệt (2015)
Kế hoạch quản lý Quần thể di tích Cố đô Huế, giai doạn 2015-2020, định hướng đến 2030
nhằm xác lập cơ sở pháp lý cho việc quản lý, bảo vệ di sản; xác định các mục tiêu, chính
sách dài hạn; xây dựng chương trình, kế hoạch, thứ tự ưu tiên đầu tư cho công tác bảo tồn
và phát huy giá trị di tích Cố đô và các nhóm giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích,
di sản văn hóa phi vật thể, môi trường cảnh quan thiên nhiên gắn liền với di tích.
Được sự quan tâm của Chính phủ, sự phối hợp của các Bộ, ngành, những nỗ lực to
lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thừa Thiên Huế, diện mạo của di sản văn hóa
7
Cố đô dần hiện lên rõ nét. Hàng trăm di tích quan trọng trong khu vực Kinh thành, Hoàng
thành, Tử Cấm thành, các cụm di tích ngoài Kinh thành (lăng tẩm của các vua triều
Nguyễn, các di tích tín ngưỡng, tôn giáo,…) được đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi. Ngoài
vốn đầu tư của Chính phủ và của tỉnh Thừa Thiên Huế, nguồn tài trợ của các tổ chức quốc
tế và nhiều nước; đồng thời, trên cơ sở cân đối thu chi hàng năm, Trung tâm Bảo tồn Di
tích Cố đô Huế cũng dành hơn 70% nguồn thu từ vé tham quan cho công tác bảo quản, tu
bổ, phục hồi di tích, số còn lại dùng chi cho các hoạt động nghiệp vụ và chi lương cho cán
bộ, công nhân viên và người lao động của Trung tâm.
Kết quả là, về mặt tổng thể, di tích Cố đô Huế đã thoát khỏi tình trạng cứu nguy khẩn
cấp, công cuộc bảo tồn di tích dần đi vào nề nếp và có bước phát triển mới; phát huy hiệu
quả giá trị di sản văn hóa trong phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, góp phần thực
hiện Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 trong lĩnh vực bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Trên cơ sở kết quả to lớn đó, Ủy ban Di sản Thế giới đã đánh giá cao hoạt động bảo
tồn di tích Cố đô Huế tại các kỳ họp lần thứ 28 năm 2004 và lần thứ 38 năm 2014.
3. Kết quả to lớn và toàn diện trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa Quần thể di tích Cố đô Huế có phần đóng góp quan trọng, trực tiếp của các thế hệ lãnh
đạo, cán bộ công nhân viên và người lao động Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế; từ
tâm huyết, trí tuệ của các nhà nghiên cứu, những "bàn tay vàng" của những người thợ thủ
công truyền thống Huế và nhiều vùng khác nhau của đất nước.
Điều có thể khẳng định là việc hình thành một tổ chức trực tiếp quản lý và triển khai
các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị Quần thể di tích Cố đô Huế - Trung tâm Bảo tồn
Di tích Cố đô Huế - trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế về quản lý nhà
nước, sự chỉ đạo về chuyên môn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là hoàn toàn đúng
đắn, đáp ứng được yêu cầu quản lý đối với Di sản Thế giới quy mô lớn, trên địa bàn nhiều
huyện thị, đúng với tầm vóc đặc biệt của di sản văn hóa Cố đô, đồng thời phù hợp với mô
hình quản lý mới với cơ chế hoạt động tự chủ, thông thoáng, đa chức năng, hiệu quả.
Trong cơ cấu tổ chức của Trung tâm có Công ty cổ phần trùng tu di tích, mà Trung tâm là
cổ đông chính, chiếm 51% cổ phần. Đây cũng là hình thức hợp tác công - tư vào loại sớm
ở nước ta trên lĩnh vực di sản văn hóa.
Với những kết quả to lớn và toàn diện trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xứng đáng với những phần thưởng cao
quý của Nhà nước ta trao tặng: Huân chương Lao động Hạng Ba, Hạng Nhì, Hạng Nhất.
Abstract:
1. Hue still conserves quite completely a complex of monuments, palaces, temples,
pavilions and tombs… in planning scheme together with a large quantity of abundant and
various documents on life, royal rituals and daily activities in forbidden palaces. The
beauty of Hue architecture is expressed in the structure, the subtlety in aesthetic decoration
of high level, the harmony in constructions and natural environmental landscapes. Hue has
the most unique and original system of royal literature on Hue royal architecture. Verses,
8
paralleled sentences and letter were carved, enameled and covered by bas-relief on 3-
horizontal decorative panels and high longitudinal framed boards. This created many
decorative styles of “one verse, one picture” or “one letter, one picture”.
All over the country, only Hue still maintains court music. Lots of ancient
documents, sets of village regulation, genealogy, family tree, royal records, ancient
objects, etc, are maintained in temples, pagodas, temples of forefather and Hue people‟s
families, however, they are disappearing through the time.
Five times of recognition by UNESCO: World Cultural Heritage (1993), Hue court
music Nha Nhac (2003) and 3 World Documentary Heritages: Wood-blocks of Nguyen
dynasty (2009), Nguyen dynasty‟s Imperial Archives (2014) and Royal Literature on Hue
Royal Architecture (2016).
2. Hue Monuments Complex was located on a very large scale of Hue city and 3
surrounding areas of Thua Thien Hue province with over 500 constructions inside the
Citadel, the Imperial City, the Forbidden Purple City; and outside the Citadel consisting of
7 complexes of 10 Nguyen emperors‟ tombs, religious relics and defensive constructions…
These simultaneously create the challenge and the opportunity for the conservators of Hue
heritage.
After the end of Nguyen dynasty, this monuments complex was seriously destroyed
by 2 wars. When the country was unified, managers and specialists began to maintain and
restore many constructions although they had lots of difficulties in conservation business.
However, Hue Monuments Complex was recognized World Cultural Heritage by
UNESCO in 1993; Value Conservation and Promotion of Hue heritage project was
approved by the Government in the period 1996-2010; Adjustment Project in the period
2010-2020 and Mechanism; Investment Policy on Conservation and Promotion of Hue
heritage values in 2012. Management Plan of Hue Monuments Complex in the period
2015-2020, orientation of 2030 was also approved by Thua Thien Hue‟s People Committee
to create the foundation for managing and protecting the heritage: target, long-term policy,
program, scheme, priority order for heritage conservation and promotion business and
method, intangible heritage, natural landscapes attaching to the heritage.
Under the Government‟s interest, the Offices and Departments‟ cooperation, Thua Thien
Hue people and authority‟s efforts, the appearance of Hue cultural heritage is changing.
Hundreds of important relics in the Citadel, the Imperial City, the Forbidden Purple City,
outside the Citadel‟s complexes of tombs and religious constructions are invested to
maintain, restore and conserve thanks to the Government and Thua Thien Hue‟s
investment capital, international support and Hue Monuments Conservation Center‟s a part
of source of ticket revenue.
Therefore, Hue heritage conservation activities were highly appreciated by World
Heritage Committee in the 28th
and 34th
sessions in 2004 and 2014 successively.
3. Great consequences on conservation and promotion activities of Hue Monuments
Complex‟s cultural heritage values are achieved by the direct and important contributions
9
of Hue Monuments Conservation Center‟s leaders, staffs, researchers and traditional
craftsmen all over the country.
This is confirmed that the establishment of an organization in charge of management
in value conservation and enhancement of Hue monuments complex – Hue Monuments
Conservation Center – belonging to Thua Thien Hue People‟s Committee on state
management, Department of Culture, Sports and Tourism‟s guidance of professional
knowledge is completely perfect.
Hue Monuments Conservation Center deserves the state government‟s noble
rewards: 1st Labor Medal, 2
nd Labor Medal and 3
rd Labor Medal because of great and
comprehensive achievements.
* * *
Quy hoạch kiến trúc Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX và giá trị nhân văn
bền vững của nó trong lòng đô thị Huế hiện nay
Nhà nghiên cứu Phan Thuận An
Tóm tắt: Từ xưa đến nay, đô thị Huế đã trải qua nhiều lần quy hoạch kiến trúc,
nhưng chưa lần nào quy mô và quan trọng bằng lần quy hoạch vào đầu thế kỷ XIX. Bấy
giờ, để vinh thăng cho triều đại mới và để bảo vệ bộ máy hành chính trung ương tại Kinh
đô của cả nước vừa mới được thống nhất, triều đình nhà Nguyễn đã huy động hàng vạn
nhân công từ nhiều địa phương trong nước về Huế để xây dựng Kinh thành. Người ta đã
ngăn chặn và đắp lấp một số đoạn của hai chi lưu bên tả ngạn sông Hương là sông Kim
Long và sông Bạch Yến, đồng thời lợi dụng một số đoạn còn lại của hai chi lưu để làm
thành hai con sông nhân tạo: một ở trong thành là Ngự Hà và một ở ngoài thành là Hộ
Thành Hà. Với sự chỉnh đốn địa thế bằng bàn tay con người, diện mạo địa lý và hệ thống
thủy đạo của một khu vực rộng lớn ở bờ bắc sông Hương đã thay đổi hẳn.
Tư tưởng chủ đạo của quy hoạch kiến trúc Kinh thành là Dịch lý và thuật Phong
thủy. Nó được kết hợp với phương pháp xây dựng thành lũy của Vauban và ứng dụng vào
hình sông thế núi tại chỗ để tạo ra được một công trình kiến trúc vừa đồ sộ, vừa hài hòa với
bối cảnh thiên nhiên thơ mộng của vùng đất này. Trong ngót 200 năm qua, Kinh thành bao
giờ cũng được xem là cái lõi trên mặt bằng tổng thể kiến trúc đô thị Huế. Cho đến ngày
nay, nó vẫn đóng vai trò như vậy. Chính quyền địa phương đã và đang đưa các giá trị lịch
sử và nghệ thuật của Kinh thành vào trong đời sống văn hóa và xã hội của thành phố Huế.
Abstract: Since the old time, Hue city has undergone several times of architectual
planning, but none of them was in a large scale and as important as the one in the
beginning of the XIXth century. At that time, in order to promote the new dynasty and to
protect the central administrative apparatus of the whole nation which had just been
unified, the Nguyen dynasty mobilized thousands of workers from different areas to Hue to
10
build the Citadel. Some sections of the two tributaries on the left bank of the Perfume
River: Kim Long tributrary and Bach Yen tributary were stopped and filled up; some of
their remainning parts were used to create two man-made rivers: Ngu Ha River inside the
Citadel and Ho Thanh Ha River outside the Citadel. With the human terrain reset, the
geographical appearance and the hydrography of a large area on the left bank of Perfume
River were completely changed.
The main ideologies of Hue Citadel‟s architectural planning were the Theories of
Changes and Feng shui. They were combined with Vauban fortification construction
method and applied at on-site terrain to create a huge construction but well harmonized
with the romantic natural surrounding environment of this land. Since nearly 200 years,
Hue Citadel has always been considered as the core of Hue architectural planning. The
local government has been bringing the historical and artistic values of Hue Citadel into
the social and cutural life of Hue city.
* * *
Nghệ thuật khảm sành sứ trong trang trí kiến trúc cung đình thời Nguyễn
TS Phan Thanh Bình
(Trường Đại học Nghệ thuật Huế)
Tóm tắt: Với những điều kiện thuận lợi về vật chất và các yêu cầu thẩm mỹ cao
của triều đình, nghệ thuật khảm sành sứ trong mỹ thuật thời Nguyễn đã có những bước
phát triển nhảy vọt trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và trở thành một
trong những khuynh hướng chủ đạo, có tính dẫn dắt quan trọng về sự biểu cảm giá trị và
nội dung của các công trình kiến trúc.
Khi nghệ thuật khảm sành sứ được sử dụng trang trí trên những công trình kiến trúc
quy mô to lớn của triều đình, thì nhà nước phong kiến càng tăng cường trưng tập các thợ
giỏi, các phường thợ để phục vụ cho nhu cầu xây dựng, trang trí. Nhiều nghệ nhân hiền tài
đã được đảm nhận công việc thiết kế trang trí khảm sành sứ ở những công trình lớn. Các
nghệ nhân thời Nguyễn có thể tạo ra sự phối hợp hài hòa, hiệu quả trong các dải trang trí
giữa các bộ đề tài, giữa các đề tài và quan hệ tự thân của chúng như khảm sành sứ với nề
họa, khảm sành sứ với đắp nổi trang trí nề vữa. Chính ở các phù điêu được trang trí, sử
dụng trong trang trí đã tạo nên những bức tranh khảm sành sứ màu, tạo nên sự phong phú
về mặt bố cục, bài trí, tạo hình khối đa diện, góc nhìn, nhưng lại rất gần nhau ở cảm quan
thị giác tạo hình thẩm mỹ.
Khảm sành sứ trang trí cũng như các chất liệu khác luôn nảy sinh những yêu cầu
mới về kỹ thuật chất liệu trong sự gắn kết với kinh nghiệm truyền thống, thủ pháp trang trí
để gây ấn tượng và hiệu quả thị giác. Khi gắn mảnh sành sứ tạo nên những hình trang trí
rồng, phụng, mây, lửa, hoa lá hóa rồng... lên kiến trúc, nghệ nhân phải hình dung ra các
hiệu quả và yêu cầu thẩm mỹ, biểu hiện không gian của công trình kiến trúc.
11
Sự gắn bó hữu cơ, hài hòa của quan hệ tự nhiên - con người và kiến trúc trong kiến
trúc cung đình thời Nguyễn được xác định bằng nhiều yếu tố nghệ thuật, trong đó có nghệ
thuật khảm sành sứ. Những quy luật tạo hình và nguyên tắc bố cục hình khối trong khảm
sành sứ đã tác động đến mỹ cảm con người và phản ánh được giá trị của các tác phẩm mỹ
thuật. Trong trang trí khảm sành sứ cung đình thời Nguyễn đã đồng thời thể hiện nhiều
nguyên tắc bố cục, vận dụng tỷ lệ hình khối khảm sành sứ đa dạng, mỗi hình khối, bố cục
không gian đều xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của chức năng kiến trúc.
Nghệ thuật khảm sành sứ đã góp phần tạo nên diện mạo độc đáo, là bộ mặt của
nghệ thuật thời Nguyễn, là dấu ấn của nghệ thuật tạo hình truyền thống Việt Nam. Chúng
đã không bị giới hạn, gò bó trong một khuôn phép truyền thống khép kín, hướng nội mà đã
có sức mở lan tỏa để không chỉ phản ánh đựơc bản sắc trang trí kiến trúc truyền thống mà
còn làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật khảm sành sứ trong dòng chảy của nghệ thuật dân
tộc.
Abstract: Due to favorable material conditions and high aesthetic demands of the
court, inlaid terra-cotta art in Nguyen‟s times made great strides at the end of 19th
century
and early of 20th
century.
This art was used on constructions of large scale and lots of talented craftsmen
gathered for the need of building and decorating. Colorful glazed terra-cotta pictures create
the abundance in structure, disposition, and form.
Decoration of inlaid terra-cotta and other different materials meet new demands of
materials and technology in the combination with traditional experiences or decorative
methods in order to make the visual effects.
The harmony in nature – human – architecture relationships on Nguyen royal
architecture is defined by many aesthetic elements, including inlaid terra-cotta art.
Inlaid terra-cotta art has contribution to the original appearance of Vietnamese
traditional art. It not only reflects the decorative identity of traditional architecture but also
emphasizes its values in art current of the people.
* * *
Giá trị nghệ thuật chạm khắc gỗ trang trí điện Long An,
nhìn từ góc độ của nghệ thuật tạo hình
NCS.Họa sĩ Nguyễn Thiện Đức
(Trường Đại học Nghệ thuật Huế)
Tóm tắt: Mỹ thuật thời Nguyễn đã để lại những giá trị nghệ thuật phản ánh truyền
thống mỹ cảm tạo hình của dân tộc bên cạnh những quan điểm thẩm mỹ cung đình riêng
của mình. Trong đó, nghệ thuật chạm khắc gỗ trang trí kiến trúc đã có những đóng góp tích
cực làm nên nét tạo hình đặc trưng và biểu cảm phần hồn cho những công trình cung điện
12
triều Nguyễn tại Huế. Điện Long An là công trình kiến trúc tiêu biểu cho lối chạm khắc
này.
Với bàn tay tài hoa và tư duy thẩm mỹ của mình, nghệ nhân thời Nguyễn đã biến
những mặt gỗ, khối gỗ của điện Long An thành những bố cục tạo hình có chủ đề thể hiện
sống động đầy biểu cảm.
Tổng thể kiến trúc điện Long An mang cấu thức và phong cách đặc biệt tiêu biểu
của kiến trúc cung đình thời Nguyễn. Chính giữa đỉnh nóc chính điện có đắp hình đầu rồng
đội hạt trân châu, hai đầu bờ nóc gắn hồi long, bốn góc bờ quyết có hình tượng long, lân,
quy, phụng đắp bằng vữa và sành sứ. Diềm mái được phân chia thành hệ thống ô hộc được
trang trí bằng các hình tượng, rồng, phụng, cá, trăng sao… Với dáng vẽ bề ngoài, điện
Long An chưa mang lại dấu ấn gì khác biệt so với các công trình kiến trúc của triều
Nguyễn, nhưng càng vào sâu bên trong nội thất, ta sẽ thấy sự tráng lệ ẩn hiện dưới vẻ thâm
nghiêm của một ngôi điện qua nghệ thuật trang trí chạm khắc gỗ tinh tế.
Trang trí chạm khắc gỗ điện Long An được thể hiện theo lối đăng đối qua trục thần
đạo. Ngôn ngữ chạm khắc tạo hình đã biến những thớ gỗ khô khan thành hình tượng thẩm
mỹ mang tính biểu cảm. Hiệu quả bao quát nhất mà chạm khắc gỗ mang lại là làm tôn lên
giá trị thẩm mỹ cho công trình. Làm cho các khối kiến trúc gỗ nặng nề trở nên nhẹ nhàng,
có sức sống và toát lên sự rạng rỡ hoa mỹ như một tác phẩm nghệ thuật, đồng thời góp
phần chuyển tải các đề tài thể hiện triết lý, tư tưởng và tinh thần của kiến trúc.
Lối chạm khắc gỗ trang trí ở điện Long An thể hiện rõ ở 8 vì nóc của điện với
những đề tài khác nhau. Với 8 mảng chạm khắc này, người nghệ nhân đã giải quyết được
sự hài hòa giữa bố cục tạo hình thẩm mỹ và giữa giá trị công năng với giá trị nghệ thuật.
Cấu kiện thừa lưu cũng được đầu tư chạm khắc công phu tạo nên tính biểu cảm. Nếu các
mảng chạm khắc ở vì kèo là mạnh mẽ, phóng túng thì ở xuyên trến, kèo có nhịp điệu vừa
phải, ở liên ba, đố bản, ô hộc là sự chỉnh chu t mỉ theo lối thư pháp.
Nghệ thuật chạm khắc gỗ trong nội thất điện đã đóng góp một vai trò quan trọng
việc khoác lên mình khối kiến trúc gỗ to lớn một lớp áo rất mỹ miều nhưng trang nhã.
Abstract: Nguyen dynasty‟s art has aesthetic values reflecting the traditional art
and royal aesthetic viewpoints, especially wood - carved decoration on royal architecture
in Hue. And Long An Temple is the typical example for this type of decoration.
Nguyen dynasty‟s craftsmen created pieces of wood into lively and expressive
products.
Architecture of Long An Temple has special and typical style of Nguyen royal
construction. At the top of the temple, there is a dragon covered with pearl while symbols
of dragon, unicorn, turtle and phoenix covered by plaster and porcelain appear at 4 corners
of the roof ridge. Roof ridges are divided into panel system decorated by dragon, phoenix,
fish, moon, star…If looking from the outside, we see nothing special compared to other
different Nguyen dynasty‟s constructions. However, we will be surprised with its interior
in subtle decoration of wood – carved art.
13
Wood – carved decoration at Long An Temple is expressed by a well-matched style
through the holy axis. It brings the aesthetic values and philosophical themes of the
construction‟s particular function.
The style of wood – carved decoration at Long An Temple is used at 8 roof rafters
in different topics. Artisans successfully solved the harmony in the lay-out of functional
and aesthetic values.
The art of wood – carved decoration in the interior of the temple plays an important
role in covering the construction with wood in good-looking and elegant appearance.
* * *
Đặc trưng kiến trúc vùng miền
và nét đặc thù trong kiến trúc cung đình Huế
NCS Bảo Đàn
(Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế)
CN Hoàng My
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Có thể thấy rằng, kiến trúc ở hai miền Bắc - Nam Việt Nam có sự khác biệt
đáng kể, và sự khác biệt này đã định hình thành trường phái. Bắc và Nam Việt Nam trong
trường hợp này được hiểu là Bắc và Nam Hoành Sơn/Đèo Ngang dưới góc nhìn Địa - Văn
hóa. Dù muốn hay không, dưới nhiều giác độ, Hoành Sơn đã và đang là ranh giới của
nhiều khía cạnh, nhiều vấn đề mang tầm vóc quốc gia và khu vực.
Cùng với quá trình Nam tiến, trong một giai đoạn lịch sử, khi người Việt miền Bắc
biết đến dải đất phương Nam/Nam Hoành Sơn với những biểu hiện rất khác về mặt văn
hóa, kinh tế lẫn chính trị, vùng đất này đã trở thành đất hứa cho những ý đồ cát cứ. Khởi
đầu là việc thiết lập các thủ phủ ở vùng Quảng Trị và Thừa Thiên dưới thời các chúa
Nguyễn, cho đến khi kinh đô của một quốc gia thống nhất được định đặt ở Huế dưới thời
các vua Nguyễn, vùng đất này đã có cơ hội hội tụ cho mình những tinh hoa đến từ mọi
miền đất nước, định hình thành bản sắc, rồi đến lượt nó, sự phát tỏa với tư cách/thuộc tính
của vùng trung tâm đã khiến nhiều biểu hiện văn hóa ở nơi này trở thành chuẩn mực hay
mẫu hình cho nhiều vùng miền khác.
Qua việc khảo sát và đối sánh trong phong cách kiến trúc, bài viết này đề cập đến
những vấn đề sau: [1]. Đặc trưng kiến trúc vùng miền của hai miền Nam - Bắc Việt Nam;
[2]. Nét đặc thù trong kiến trúc đình Huế - những điểm dị biệt được định hình qua quá trình
tiếp thu tinh hoa và gạn lọc và đúc kết; và [3]. Sau nhiều biến động lịch sử - xã hội, cái tinh
thần còn lại của lối kiến trúc Huế là gì?
Những nhận định trong tham luận này chỉ là bước đầu và mang tính gợi mở, những
giả thiết đặt ra vẫn cần rất nhiều thảo luận từ những nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề.
14
Abstract: Overall, architectural styles with decorative motif systems between the
North and the South of Vietnam (in this case is understood as the North- South of Hoang
Son mountain/ Deo Ngang – the mountain pass road under the perspective of geography
and culture) have significant differences and nearly shaping into design opinion. Along
with the Southward movement of people in the North, Southern land strip with different
expressions of culture, economy and politic became the promised land for any settlement
plan. Beginning with the establishment of metropolis in Quang Tri, Thua Thien during the
Lord Nguyen‟s period, then, a capital city of unified nation was built in Hue during the
Nguyen Emperors‟ period, this land has gradually gathered the quintessence of the whole
country and coming to form its identity. Through survey and comparison, the paper
mentions following issues: (1) differences in architectural styles between the North and the
South of Vietnam; (2) Vietnamese identities in architecture of Hue is configured through
the process of absorbing quintessence; (3) The spirit of architecture in Hue is preserved
through historical and social changes. All reviews in the paper are initial suggestions.
* * *
Thiết kế và xây dựng Diên Phước Trưởng công chúa từ, một ngôi nhà vườn ở Huế
Masatoshi Imai
(Hiệp hội KTS và KS Toàn Nhật Bản)
Tóm tắt: Bài thuyết trình này, tôi muốn xem xét nét đặc trưng của thiết kế và xây
dựng công trình Diên Phước Trưởng công chúa từ, một ngôi nhà vườn ở Huế và so sánh
với kiến trúc truyền thống của Nhật Bản.
Phủ Diên Phước Trưởng công chúa là ngôi nhà vườn Huế được xây dựng khoảng
năm 1850, vừa là nơi không gian sống và là nhà thờ của công chúa trưởng của Hoàng đế
thứ 3 của triều Nguyễn.
Diên Phước Trưởng công chúa từ là một công trình kiến trúc gỗ đã bị mục nát
nhiều, toàn bộ ngôi nhà đã được hạ giải để trùng tu. Mỗi cấu kiện gỗ đều được chạm khắc,
lắp đặt rất đẹp và cân đối. Đặc trưng của kết cấu khung gỗ là tất cả các cột của kiến trúc gỗ
đều nghiêng về trung tâm của ngôi nhà. Độ nghiêng khác nhau tùy theo sở thích của chủ
nhân và được thay đổi tùy theo từng căn nhà. Phần mái nhà của Việt Nam thẳng chứ không
cong lên như kiến trúc của Trung Quốc. Mái của Diên Phước Trưởng công chúa từ được
lợp bằng ngói liệt tương tự như phần mái của kiến trúc truyền thống Nhật Bản.
Từ mặt cắt ngang của mái Diên Phước Trưởng công chúa từ cho thấy lớp vữa và
lớp lót ở dưới mái dày 6cm. Ngói liệt dày 7cm được ốp 5 lớp. Mái ngói của kiến trúc gỗ
truyền thống Nhật Bản được ốp với vỏ cây bách tùng, cây tuyết hoặc ốp với tấm ván bên
dưới ngói.
15
Trên đây là những sự khác nhau giữa các công trình bên trong và bên ngoài Hoàng
thành Huế và so sánh với kiến trúc gỗ cung đình ở Nhật Bản. Đặc trưng của kiến trúc cung
đình triều Nguyễn đều nghiêng về tâm của ngôi nhà. Độ nghiêng làm cho việc xây dựng
ngôi nhà rất khó khăn. Ở Nhật Bản, thiết bị máy móc được dùng để hỗ trợ công việc bằng
tay. Có những kĩ sư đã rất nỗ lực trao truyền các kỹ năng truyền thống các thế hệ kế cận.
Tôi hy vọng rằng, những kỹ năng bậc cao của kiến trúc hoàng gia triều Nguyễn sẽ được kế
thừa cho nhiều năm tới trong tương lai.
Abstract: I would like to express my thoughts about the characteristics of the
design and the construction of Diên Phúc Trưởng Công Chúa Mansion, a garden house in
Hue, comparing it to the Japanese traditional architecture.
Diên Phúc Trưởng Công Chúa Mansion, which is a garden house in Hue, is a shrine
and a living space built for the first imperial princess of the third emperor of the Nguyen
Dynasty as the story goes. It is estimated that it is the building of about AD 1850, the
middle of the 19th
century. Because the wooden construction of Diên Phúc Trưởng Công
Chúa Mansion decayed very much, all the building have been demolished and restored this
time.Its roof color is the same as Tài Hé Diàn in the Forbidden City of China. But there is
not a curve of the whole roof at Thai Hoa Hall in Hue.The linear roof without curve is the
characteristics of the royal architecture of the Nguyen Dynasty. Its roof is curved
delicately. From this, it indicates that the characteristic of wooden architecture of the
Nguyen Dynasty is the straight line.
The roof of this flat plate tile is the characteristics of the wooden architecture of the
Nguyen Dynasty. The design of the roof of the flat plate tile in Hue is similar to the roof of
the Japanese traditional wooden architecture. In its cross-section, the mortar without water
is underlaid 6cm under the roof and the roof is shingled with the flat plate tile. The width
of the parts which we can view from above is 35mm.The flat plate tiles 7mm thick are laid
5 sheets and shingled. It is the construction which has adjusted in the climate of Hue later.
The roof and the outside wall of Diên Phúc Trưởng Công Chúa Mansion are integrated
wholly. Woodcarving skill reached very great heights in the Nguyen Dynasty period in
Hue.
As described above, I have tried showing the difference between the buildings
inside the Hue Imperial City and the buildings outside the Hue Imperial City and
comparing the wooden royal architecture in Hue to the Japanese wooden royal
architecture. The inclination of the posts makes the building hard. Not only accuracy, but
also the skill which can work out differences totally are included in its skill. I hope that the
high skill of the royal architecture of the Nguyen Dynasty will be inherited for many years
to come into the future.
* * *
16
Dự án phục hồi điện Kiến Trung và những vấn đề trong phục hồi di tích kiến trúc
TS Trần Minh Đức
Tóm tắt: Điện Kiến Trung nằm trong khu vực Tử Cấm thành, Đại Nội Huế. Điện
mang những giá trị lịch sử - kiến trúc đặc sắc và đang trong giai đoạn thiết kế phục hồi.
Tuy nhiên, để hoàn thành dự án cần vượt qua một số trở ngại:
Phục hồi di tích có đảm bảo được tính chính xác hay không và phục dựng để làm gì?
Dựa theo tư liệu lịch sử, điện Kiến Trung xây dựng dưới thời Minh Mạng, kiến trúc
ban đầu là lầu gỗ về sau được đổi thành gạch – bê-tông dưới thời vua Khải Định, Bảo Đại.
Ban đầu, lầu chỉ có chức năng ngắm cảnh rồi trở thành nơi làm việc của vua Khải Định và
nơi sinh sống của gia đình vua Bảo Đại sau này. Ngoài giá trị lịch sử vừa nêu, điện Kiến
Trung còn mở đầu cho phong cách kiến trúc cung đình mới bằng kiểu nhà phương Tây và
nghệ thuật ghép gốm sứ, thủy tinh màu tuyệt kỹ trang trí của Huế.
Với những giá trị vừa nêu, điện Kiến Trung xứng đáng được đưa vào danh mục cần
thiết cho việc phục dựng di tích.
Tuy nhiên, điện Kiến Trung hiện đã bị triệt hạ chỉ còn nền móng vì vậy muốn phục
hồi cần phân tích quá trình, sự kiện lịch sử. Khảo sát và khảo cổ, phân tích ảnh tư liệu, các
công trình tương đồng với công trình di tích... Ngoài ra, để lấy thông tin cho thiết kế phục
hồi gần chục đề tài nghiên cứu đã được tiến hành nhằm phục vụ thiết kế phục dựng điện
Kiến Trung một cách chính xác và khoa học nhất.
Abstract: Kien Trung Residence locates in Forbidden Purple City, Hue Citadel. It
bears typical historical and architectural values and is in its stage of designing restoration.
However, it is necessary to overcome some hindrances to fulfill the project:
Does the restoration ensure the authenticity and what the restoration is for?
According to historical document, Kien Trung Residence was built under the
emperor Minh Mang‟s times, initial architecture was a wooden pavilion and later it was
transformed into brick and concrete under the emperor Khai Dinh and Bao Dai‟s times.
Initially, the pavilion had function as a sight-seeing place then became the working place
of the emperor Khai Dinh and later a living place of the emperor Bao Dai. Apart from
above historical value, Kien Trung Residence also starts the new royal architectural style
by Occidental house style and the art of joining ceramics and beautiful glasses of Hue
decorative style.
With above values, Kien Trung Residence deserves to be in the list of relics which
should be restored.
However, Kien Trung Residence is now dismantled and only the foundation is left;
therefore, it is necessary to analyze the process and historical events if we want to restore
it. Carrying out excavation and archeology, analyzing documentary photos and similar
constructions to relics…Besides, it is essential to get the information for designing
17
restoration of nearly 10 research topics with an aim to serve the designing restoration of
Kien Trung Residence the most exactly and scientifically.
* * *
Một số kinh nghiệm thực tiễn tu bổ, phục hồi di tích kiến trúc gỗ qua dự án trùng tu
di tích Phu Văn Lâu
TS Nguyễn Tiến Bình
CN Mai Xuân Hiển – CN Ngô Quỳnh Như
(Phân viện Khoa học Công nghệ Xây dựng Miền Nam)
Tóm tắt: Vài nét về Phu Văn Lâu từ lịch sử hình thành đến trước thời điểm dự án
trùng tu được triển khai.
Những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình vận hành dự án tu bổ, phục hồi di tích
kiến trúc gỗ ở Huế, được đúc rút thông qua quá trình triển khai Dự án Tu bổ, phục hồi di
tích Phu Văn Lâu (5/2014- 9/2016): phân tích thông tin lịch sử, phân tích ảnh tư liệu, thiết
lập quy luật từ các công trình tương đồng, phân tích hiện trạng và suy luận về tính logic,
gia cường bổ sung phần kết cấu yếu bằng các giải pháp hiện đại phù hợp, thực hiện tu bổ
cẩn trọng, đúng quy trình, thiết lập hồ sơ khoa học về di tích.
Một vài kết luận và kiến nghị của nhóm tác giả từ kinh nghiệm thực tiến thi công,
phục hồi công trình Phu Văn Lâu (5/2014- 9/2016).
Abstract: Some features on Phu Van Lau from the formation history to the time
before the restoration project was exploited.
Some practical experiences during the execution of the wooden construction
restoration project in Hue, which are summarized from the process of execution the project
of restoration Phu Van Lau (5/2014 – 9/2016): analyzing the historical information and
documentary photos, establishing the rules from similar constructions, analyzing the real
situation and reasoning on logicality, strengthening the weak structure by suitable modern
solutions, carrying out the restoration carefully and in accordance with the process,
establishing scientific file on the relics.
Some conclusions and recommendations of the author group from the experiences
of execution reality and restoration of Phu Van Lau (5/2014-9/2016).
* * *
18
Kinh nghiệm từ một số dự án trùng tu tại di tích Huế và
vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
ThS Andrea Teufel
(Tổ chức GCREP, Đức)
Tóm tắt: Từ năm 2003 đến năm 2013, "Chương trình Bảo tồn Văn hoá" của Bộ Ngoại
giao Liên bang Đức đã hỗ trợ 4 dự án trùng tu ở Huế và được thực hiện với sự hỗ trợ và
hợp tác chặt chẽ của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.
Tất cả các dự án đều có ba mục đích chính:
1. Bảo tồn và trùng tu các đối tượng theo hướng dẫn của UNESCO về bảo tồn Di tích
Di sản Thế giới.
2. Phát triển các phương pháp bảo tồn/trùng tu mà có thể chuyển giao/áp dụng tại các
điểm di sản tương tự, dựa trên việc sử dụng các vật liệu truyền thống Việt Nam và vật liệu
bảo tồn hiện đại.
3. Cung cấp đào tạo chuyên nghiệp tại chỗ cho các họa sĩ và thợ thủ công địa phương
về bảo tồn- trùng tu di tích
Bài trình bày này sẽ giới thiệu tóm tắt 4 dự án có chủ đề khác nhau, đó là: bảo tồn /
trùng tu các bức tranh tường (bên trong và bên ngoài), vữa truyền thống, khảm và sơn kiến
trúc. Kết quả và những khó khăn gặp phải trong quá trình trùng tu sẽ được trình bày kèm
theo minh họa; cũng như giới thiệu cụ thể các nhiệm vụ và nâng cao giải pháp trùng tu…
Ngoài ra, tác giả sẽ chia sẽ một số kinh nghiệm và khả năng để phát triển đào tạo
chuyên nghiệp về bảo tồn trùng tu di tích ở Việt Nam.
Abstract: From 2003 to 2013, the „Cultural Preservation Program‟ of the Ministry of
Foreign Affairs of German Federal has supported 4 restoration projects in Hue, which have
been carried out in close cooperation and with the support of the HMCC (Hue Monuments
Conservation Center).
All projects had three main objectives:
1.Conservation and restoration of the object(s) in accordance with the UNESCO
guidelines for preservation of World Heritage Monuments
2.Developing of transferable conservation/restoration methods for future similar
venues, which are based on the originally used vietnamese materials and modern
conservation materials.
3.Providing on-the-spot professional training in conservation-restoration for local
artists and artisans
It will be given a short introduction to the 4 projects regarding to their different
thematic focuses, which are: conservation/restoration of wall paintings (inside and
outside), traditional plaster, mosaic and architectural paint scheme. Challenges and results
of the restoration process will exemplified, and tasks for further improving of the methods
will be named.
19
Furthermore, experiences and possibilities for development of a professional training in
conservation-restoration in Vietnam will be discussed.
* * *
Áp dụng phương pháp anastylosis trong việc tu bổ
các tác phẩm khảm sành sứ trang trí công trình Thái Bình Lâu
CNMT. KSXD Nguyễn Thế Sơn
(Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)
Tóm tắt: Năm 1931, nhà bảo tồn Nikolaos Balanos đưa ra khái niệm Anastylosis
trong công tác bảo tồn trùng tu di tích. Nó là một thuật ngữ chuyên môn có nguồn gốc từ
tiếng Hy Lạp. Trong lĩnh vực bảo tồn, anastylosis đề cập đến việc tiến hành khôi phục lại
một di tích kiến trúc hoặc một di chỉ khảo cổ bằng cách tháo dỡ và xây dựng lại cấu trúc
bằng cách sử dụng các phương pháp ban đầu, kết hợp với việc tái sử dụng tối đa các thành
phần kiến trúc nguyên gốc đã tạo nên di tích và di chỉ đó. Phương pháp này được áp dụng
thành công tại một số công trình kiến trúc trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng,
đặc biệt là các di tích kiến trúc trong quần thể di tích Huế như Thái Bình Lâu. Gần 100
năm tồn tại, do tác động của thiên nhiên và chiến tranh, công trình Thái Bình Lâu này đã
xuống cấp trầm trọng vì vậy công tác trùng tu để bảo tồn công trình này là một yêu cầu hết
sức cấp thiết, nhiệm vụ trọng tâm là việc tu bổ các tác phẩm nghệ thuật trang trí khảm sành
xứ ở công trình này. Việc áp dụng phương pháp Anastylosis đóng một vai trò rất lớn vào
công tác trùng tu di tích này (từ tháng 8/2010 đến tháng 3/2115 của TT Bảo tồn Di tích Cố
đô Huế) nhằm giữ gìn tối đa các thành phần trang trí nguyên gốc hiện còn, tránh gây mất
mát, đổ vỡ thêm, phục hồi toàn vẹn các giá trị về văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật.
Abstract: In 1931, the conservator Nikolaos Balanos gave out the concept of
Anastylosis in heritage conservation and restoration. It is a technical term originated from
Greek. In conservation field, anastylosis mentions the restoration of archaeological
constructions or relics by dismantling and reconstructing the structure with original
methods combined with reusing original architectural components in maximum. It is
successfully applied at some constructions in the world in general and in Vietnam in
particular, especially constructions in Hue Monuments Complex ssuch as Thai Binh
Pavilion. Nearly 100 years of existence, due to the influence of nature and war, Thai Binh
Pavilion has been seriously upgraded, therefore, the conservation and restoration of this
construction is extremely necessary. The main task is the restoration of terra cotta – inlaid
decoration art. The application of Anastylosis method plays an important role in this
conservation (from Aug/2010 to Mar/ 2015 by Hue Monuments Conservation Center) in
20
order to conserve to the most the existing original decorative parts and restore the values of
culture, architecture and art perfectly.
* * *
Nghiên cứu về kỹ thuật sơn mài truyền thống ở Huế
TS.Shiomi Saito
(Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản)
Tóm tắt: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phân tích các đặc điểm hoa văn cổ,
cách bố trí và thành phần trong các chất màu được làm trên cửa Cảnh Môn tại điện Thái
Hòa thông qua việc lập hồ sơ họa tiết cổ, tác giả đã thực hiện các bản vẽ đúng kích thước
và phân tích các lớp sơn bằng phương pháp nghiên cứu kỹ thuật sơn mài kiến trúc hoàng
gia.
Tại di tích Huế, nhiều kỹ thuật sơn được tìm thấy trong trang trí kiến trúc, tôn giáo,
mỹ thuật và nghề thủ công vẫn đang còn tồn tại đến ngày nay, được xem là những tài liệu
tham khảo có giá trị cho việc sử dụng sơn mài truyền thống của triều Nguyễn. Những kỹ
thuật sơn này bao gồm tranh sơn mài trang trí sử dụng những tờ giấy vàng và bạc, có xuất
sứ tại Việt Nam.
Bởi vì phần lớn các kiến trúc cung điện triều Nguyễn là gỗ, các lớp phủ bên ngoài còn
lại tại các di tích Huế đã xuống cấp đáng kể do bị hư hỏng bởi các yếu tố sinh học và môi
trường tự nhiên với khí hậu khắc nghiệt, độ ẩm và nhiệt độ cao. Điều này thật khó khăn để
nghiên cứu phục hồi các bức tranh sơn mài đã được thực hiện trước đây. Cấu trúc của phần
lớn các cung điện được làm bằng cột gỗ và dầm, với công năng sử dụng không chỉ như một
tổ hợp kiến trúc, mà còn là yếu tố quan trọng của trang trí nội thất.
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế thực hiện bảo tồn và trùng tu với quan điểm bảo
tồn di tích lịch sử và bảo tồn các cột sơn mài cũ nguyên trạng bằng cách trưng bày cột với
các lớp sơn nguyên thủy trong các lần trùng tu gần đây. Do đó, các phương pháp trùng tu
do Trung tâm BTDTCĐ Huế thực hiện có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phục hồi
điện Cần Chánh cũng như phục hồi các di tích lịch sử cho tương lai.
Dựa trên những tài liệu nghiên cứu trước đây, nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra
quá trình sơn các lớp nền sơn mài trên cột nhằm thực hiên tiêu bản sơn mài để mô tả lại
quy trình sơn các lớp nền sơn mài truyền thống. Điều này cũng nhằm mục đích nghiên cứu
phương pháp thiết kế tranh sơn mài kiến trúc của thời Nguyễn với sự đúc kết của các kỹ
thuật truyền thống đã được khoa học chứng minh thông qua khảo sát thực địa về vật liệu,
quy trình, kỹ thuật, khảo sát các công trình hiện còn và phân tích hóa học các lớp phủ sơn
mài…
Abstract: This study was conducted to shed light on the characteristics of old
patterns, layout, and ingredients of pigments employed on the columns at Thai Hoa Hall
21
through the creation of records of old patterns, including full-scale drawings, and analysis
of paintings, as a means for examining imperial architectural lacquer techniques.
In the Hue Monuments, various painting techniques are seen in architectural
decorations, religious articles, and arts and crafts that exist today as valuable references to
the use of traditional lacquer by the Nguyen Dynasty. These painting techniques include
decorative lacquer paintings using gold and silver leaves. Lacquer is produced in Vietnam.
Some of the decorative paintings that are found in the Hue Monuments are thought to
have been restored during and after the Nguyen Dynasty. However, few documents
provide specific details about the restoration of paintings, aside from records of recent
restoration work by Hue Monuments Conservation Center.
Because the majority of Nguyen Dynasty palace architectures is wooden, the coatings
that exist in the Hue Monuments have deteriorated significantly due to biological damage
and the harsh natural environment characterized by high temperatures and humidity. This
has made it difficult to study the restoration of lacquer paintings that have been performed
before recent times. The structure of the majority of palaces was made of timber columns
and beams, with the columns functioning not only as a structural member, but also as an
important element of interior decoration.
Hue Monuments Conservation Center engages in preservation and restoration from the
viewpoint of preserving historic monuments, and preserves old columns that display
remnants of coatings that were applied prior to the recent restoration. The approaches made
by the Conservation Center thus have significant importance to the future restoration of
historic monuments and the reconstruction of Can Chanh Dien.
This study was conducted using the results of studies carried out by a study group led
by Professor Emeritus Nakagawa at Waseda University and Hue Monuments Conservation
Center. With the cooperation of Hue Monuments Conservation Center, a local joint survey
was carried out with Mr. Ho Thanh Binh and Ms. Dang Son Ca, who both work at the
Conservation Center, in an attempt to analyze architectural painting and design techniques.
Based on the findings of past studies, this study aims to investigate the process of
painting the lacquer foundation on columns through the creation of sample lacquer boards
representing traditional lacquer foundation processes. It also aims to specifically advance
the study on the design methods of architectural lacquer paintings during the Nguyen
Dynasty through an accumulation of traditional techniques that have been scientifically
proven through field surveys on materials, processes and skills, surveys of existing
buildings, and chemical analyses of lacquer coatings.
* * *
22
Các công trình khoa học cấp quốc gia nghiên cứu về triều Nguyễn
Ý nghĩa và tác dụng
PGS.TS Đỗ Bang
(Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)
Tóm tắt: Trong vòng hai thập kỷ qua, triều Nguyễn là chủ đề nghiên cứu của nhiều
luận án Tiến sĩ thuộc các ngành Lịch sử, Văn học, Văn hóa… Đối với Sử học ít nhất đã có
hai đề tài cấp Quốc gia được đánh giá là những thành tựu:
1. Đề tài: Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn; những
vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay. Đây là đề tài cấp Quốc gia,
quy tụ 23 nhà khoa học trên cả nước thực hiện trong 3 năm, biên soạn ra 2 ấn phẩm với 2
nội dung nghiên cứu về kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước cùng bộ Thư mục triều
Nguyễn. Trong quá trình thực hiện đã có 6 công trình xuất bản. Đến năm 1999, xuất bản
được 10 cuốn sách và bộ Thư mục 2 tập được đánh giá là thành tựu nghiên cứu lớn nhất về
triều Nguyễn của thế kỷ XX. Với kết quả này, nhiều giảng viên các trường Đại học đã xây
dựng thành các chuyên đề giảng dạy cao học và Tiến sĩ…
2. Đề tài: Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn
thời kỳ 1802 - 1885.
Đây là đề tài khoa học cấp Quốc gia do PGS.TS Đỗ Bang làm chủ nhiệm. Trong quá
trình thực hiện, các thành viên đã công bố 12 bài trên các tạp chí chuyên ngành và nhiều
hội thảo quốc gia và quốc tế, đồng thời có nhiều ấn phẩm nhất được xuất bản và tái bản,
đáp ứng nhu cầu hiểu biết của bạn đọc về chủ quyền biển đảo Việt Nam dưới triều
Nguyễn, góp phần nâng cao nhận thức việc đấu tranh về chủ quyền biển đảo và làm cơ sở
khoa học cho việc biên soạn giáo trình giảng dạy các cấp.
Abstract: During the last two decades, Nguyen dynasty is the research theme of
many PhD theses belonging to branches of History, Literature, Culture…As for History,
there are at least two national themes which are evaluated as achievements:
1. Theme: carry out scientific research on economy and state mechanism
establishment of Nguyen dynasty; problems are raised in the renovation reality of the
country presently.
This is a theme of national level, gathering 23 scientists all over the country,
carrying out during 3 years, composing 2 publications with 2 contents about the economy
and state mechanism establishment along with Nguyen dynasty‟s bibliography. During the
execution process, there were 6 published works. Until 1999, 10 books and a 2-volumn
bibliography were published, which was evaluated as the biggest research achievement on
Nguyen dynasty of XXth
century. With this result, many teachers of colleges have built
special subjects for post-graduate teaching program.
2. Theme: Organization and Vietnamese sea and islands protection activities under
Nguyen dynasty from 1802-1885.
23
This is scientific theme of national level headed by Associate Professor-PhD Đỗ
Bang. During the execution process, members have published 12 writings on specialized
magazine and at many international and national conferences; simultaneously many
publications were published and reprinted, which met the demand of readers on
Vietnamese sea and island sovereignty under Nguyen dynasty, contributing to heightening
the awareness about struggling for sea and island sovereignty and setting scientific basis
for composing teaching program of all levels.
* * *
Huế với những nỗ lực thiết lập và duy trì sự hài hòa/cân bằng động giữa bảo tồn
và phát triển bền vững theo tinh thần Công ước của UNESCO
PGS.TS Đặng Văn Bài
(Hội Di sản Văn hóa Việt Nam)
Tóm tắt: Xây dựng quan điểm về bảo tồn di sản thế giới trước hết cần được xuất
phát từ những kiến nghị, nguyên tắc và giải pháp khoa học trong khuôn khổ khung pháp lý
mang tính quốc tế có liên quan tới di sản thế giới của Liên hợp quốc.
Cần xác định rõ trách nhiệm cũng như cam kết của các quốc gia thành viên
UNESCO trong việc thực hiện Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới,
sự quan trọng của các giá trị văn hóa các địa điểm di sản, các giá trị văn hóa cần phải được
bảo vệ bao gồm tính lịch sử của di sản và tất cả các yếu tố vật chất và tinh thần… như
Công ước 1972, Hiến chương Burra (1979 sửa đổi 1981, 1988, 1999), Các nguyên tắc và
mục tiêu đặt ra trong Hiến chương Washington 1987, Tuyên bố NARA (Nhật Bản 1994)
của UNESCO.
Huế là một thành phố di sản với 5 di sản thế giới - nơi lưu giữ một khối lượng di
sản kiến trúc khá đồ sộ, mang những giá trị nổi bật toàn cầu, nơi đáp ứng mọi tiêu chuẩn
cao nhất được UNESCO đề ra cho một khu di sản thế giới.
Theo tinh thần các khuyến nghị trong các Công ước và Hiến chương của UNESCO
liên quan tới di sản thế giới, các quốc gia thành viên phải luôn tuân thủ một nguyên tắc bất
biến là tạo lập và duy trì sự hài hòa, “cân bằng động” giữa bảo tồn và phát triển.
Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và Thành phố Huế nói riêng với tư cách
là cộng đồng chủ thể ở địa phương và đại diện cho Việt Nam trong việc thực hiện cam kết
của Chính phủ về trách nhiệm bảo tồn Quần thể di tích cố đô Huế. Trung tâm Bảo tồn Di
tích Cố đô Huế là đơn vị chủ quản trực tiếp quản lý quần thể di tích này.
Abstract: Building a point of view about the world heritage preservation firstly
derives from the petitions, rules and scientific resolutions in shape and sound of
international legal frame relating to world heritage of UNESCO.
24
It is necessary to clarify the responsibility as well as the commitment of UNESCO
member states in executing the convention on protecting world cultural and natural
heritages, the importance of cultural values of heritage sites, cultural values which are in
need of being protected including the historical characteristic of heritage and all physical
and spiritual factors…such as Convention 1972, Burra Charter (1979, modified in 1981,
1988, 1999), regulations and aims set in Washington Charter 1987, NARA Declaration
(Japan 1994) of UNESCO.
Hue is a heritage city with 5 world heritages – where keeps as archive a great
number of architectural heritages which bears global outstanding values, and meets all the
highest standards which UNESCO has required of a world heritage site.
In accordance with the recommendation in UNESCO‟s conventions and charters
relating to world heritage, the member states always have to obey one unchanged rule
which is creating and maintaining the harmony, “moveable balance” between preservation
and development.
People of Thua Thien Hue in general and of Hue City in particular play the role of
subject community at locality and representative of Vietnam in executing the governmental
commitment on the responsibility of preserving Hue Monuments Complex. Hue
Monuments Conservation Center is the unit in charge of direct management of this
complex.
.
* * *
Bảo tồn những giá trị đặc sắc của cố đô Huế - đỉnh cao của kho tàng
di sản văn hóa triều Nguyễn ở Việt Nam
GS.TS Trương Quốc Bình
(Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia)
Tóm tắt: Nhà Nguyễn là vương triều cuối cùng của thời đại quân chủ Việt Nam
được thành lập từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802 cho đến lúc vua Bảo Đại thoái vị
vào tháng 8 năm 1945. Trong gần 150 năm tồn tại, mặc dù có những biến động căn bản về
chính trị do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, nhưng vương triều
Nguyễn cũng có những vai trò không nhỏ trong lịch sử dân tộc. Trải qua những biến đổi to
lớn về chính trị và kinh tế xã hội, trên cơ sở những thành tựu của văn hóa dân tộc qua các
thời Lý-Trần-Lê và phát huy những tinh hoa của văn hóa Phú Xuân từ những nỗ lực của
các đời chúa Nguyễn, văn hóa Việt Nam thời nhà Nguyễn không những không bị lụi tàn
mà còn phát triển rực rỡ trong tất cả mọi lĩnh vực từ kiến trúc, xây dựng, thủ công nghiệp,
đến khoa học, giáo dục, tôn giáo tín ngưỡng, văn chương nghệ thuật… Có thể nói, trong
các lĩnh vực văn hóa tinh thần, triều Nguyễn đã để lại một di sản khổng lồ, vĩ đại mà không
triều đại nào trong lịch sử có thể sánh được.
25
Nhìn chung, triều Nguyễn đã để lại cho hậu thế một kho tàng di sản hết sức
phong phú và đa dạng. Kho tàng di sản đồ sộ này, bao gồm cả di sản vật thể và di sản phi
vật thể, trải rộng trên cả nước từ Bắc chí Nam, là kết quả lao động sáng tạo của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam. Đáng chú ý là, bên cạnh sự phát triển rộng khắp và mạnh mẽ của
văn hóa dân gian trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội thì đến thời Nguyễn, văn
hóa cung đình cũng có sự phát triển cao độ và tập trung do những điều kiện kinh tế xã
hội ở trong nước và những tác động không nhỏ của thời đại trong bước chuyển quan trọng
của lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Với tư cách là kinh đô của
nước Đại Nam thống nhất, Huế chính là nơi được triều đình nhà Nguyễn tập trung xây
dựng với những ưu tiên hàng đầu về nhân tài vật lực và cho đến nay còn để lại một kho
tàng di sản văn hóa cung đình hết sức đặc sắc, hết sức nổi trội, được đánh giá là có giá
trị toàn cầu nổi bật.
Từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước đến nay, công cuộc nghiên cứu, bảo vệ và phát huy
những giá trị của kho tàng di sản văn hóa đặc sắc này đã và đang thu được những kết quả
rất đáng khích lệ. Những nhận thức khách quan khoa học về vai trò của nhà Nguyễn trong
lịch sử dân tộc có ý nghĩa quan trọng tạo cơ sở cho sự quan tâm và những quyết tâm của
Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp bảo tồn các di sản văn hóa vô giá này.
Với những nỗ lực tự thân ở trong nước cùng sự hợp tác có hiệu quả của các tổ chức và
chuyên gia quốc tế, đặc biệt là UNESCO và các tổ chức chuyên môn quốc tế về di sản văn
hóa, cho đến nay đã có 5 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể là những bộ phận hữu cơ của
di sản văn hóa cung đình Huế được công nhận là di sản thế giới, bao gồm:1-Khu di tích cố
đô Huế - di sản văn hóa thế giới đầu tiên của Việt Nam; 2-Nhã nhạc cung đình Huế; 3-
Mộc bản triều Nguyễn; 4-Châu bản triều Nguyễn; 5-Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế.
Ngoài 5 di sản nói trên cần phải kể đến một số Di sản thế giới khác có liên quan đến văn
hóa cung đình thời Nguyễn như Khu Di sản văn hóa Thế giới Hội An, khu phố cổ là
thương cảng sầm uất từ thời các chúa Nguyễn và duy trì sự phồn thịnh trong suốt thời kỳ
các vua Nguyễn. Đồng thời, cho đến nay đã có gần 30 đơn vị hiện vật có tính độc bản và
có những giá trị cao về các mặt lịch sử, mỹ thuật của kho tàng di sản văn hóa cung đình
Huế được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam công nhận là Bảo vật quốc gia. Trong tương lai,
những giá trị đặc sắc của kho tàng di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn tại Huế sẽ tiếp tục
được nghiên cứu, tôn vinh ở các cấp quốc gia và quốc tế.
Phát huy những thành tựu rất đáng khích lệ trong thời gian qua, Chính phủ Việt
Nam, trực tiếp là chính quyền tỉnh Thừa Thiên- Huế đang tập trung nỗ lực để tiếp tục
nghiên cứu, bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa độc đáo- nguồn tài nguyên
du lịch đặc biệt của quốc gia dân tộc Việt Nam và là một bộ phận hữu cơ của di sản văn
hóa nhân loại./.
Abstract: The Nguyen is the last dynasty of Vietnamese monarchy which was
established when the emperor Gia Long went to the throne in 1802 until the emperor Bao
Dai abdicated in August 1945. For nearly 150 years of existence, although there are
fundamental changes in politics due to subjective reasons and different objectives, the
26
Nguyen dynasty played rather big roles in the nation's history. Undergone tremendous
political and socio-economic transformation, on the basis of the achievements of the
national culture through the Ly-Tran-Le and promote the cultural essence of Phu Xuan
from efforts of Nguyen Lords, culture of Vietnam in Nguyen Dynasty not only not died but
also flourished in all fields, from architecture, construction, industry, science, education,
religion, beliefs, art and literature... It can be said that in the field of spiritual culture,
Nguyen dynasty has left huge heritage, which no dynasties in Vietnam‟s history can match.
Overall, the dynasty has left to posterity rich and diverse heritage. Cultural heritage,
including both tangible and intangible heritage, spread across the country from north to
south, this is the result of creative labor of Vietnamese community. Noticeably, apart from
the widespread and strong development of folklore in almost all fields of social life, under
Nguyen dynasty, imperial culture also has a high and focused development due to the
socio-economic conditions in the country and the significant impact of the era in the
important transition of Vietnam‟s history from the nineteenth century to the first half of
twentieth century. As the capital of the united country, Hue is where the Nguyen court
focused on building a top priority to the talents and resources and so far left a museum of
dominent and unique royal heritages which were evaluated as having outstanding universal
values.
From the 80s decade of last the century to the present, the study, protection and
promotion of the values of this unique cultural heritage have already obtained very
encouraging results. The scientific objective perception of the role of the Nguyen Dynasty
in the history of the nation has created significant basis for the interest and the commitment
of the Government and people of Vietnam in the cause of heritage preservation this
priceless cultural heritage. With these efforts in the country itself and the effective
cooperation of international organizations and experts, especially UNESCO until now,
there are 5 cultural tangible and intangible heritages of Hue royal court to be recognized as