TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀ RỊA-VŨNG TÀU ^ VIỆN NGÔN NGỮ - VĂN HÓA - QUAN HỆ QUỐC TẾ BARIA VUNGTAU UNIVERSITY C ap Saint Jacques KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM - NHẬT BẢN ’ SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ Khác biệt Trình độ đào tạo: Đại học Chính quy Ngành: Đông Phương học Chuyên Ngành: Ngôn ngữ Nhật Bản Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: MSSV: 13030563 TS Lương Minh Chung Lê Ngọc Ánh Lớp: DH13NB Vũng Tàu, ngày 4 tháng 7 năm 2017
93
Embed
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP - thuvienso.bvu.edu.vnthuvienso.bvu.edu.vn/bitstream/TVDHBRVT/16145/1/Le-Ngoc-Anh1.pdf · trong cơ chế thị trường hiện nay là cực kỳ khó
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀ RỊA-VŨNG TÀU ^VIỆN NGÔN NGỮ - VĂN HÓA - QUAN HỆ QUỐC TẾ
B A R I A V U N G T A UUNIVERSITY
C a p Sa in t Ja c q u e s
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM - NHẬT BẢN ’ SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ Kh á c b iệ t
Trình độ đào tạo: Đại học Chính quy
Ngành: Đông Phương học
Chuyên Ngành: Ngôn ngữ Nhật Bản
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
MSSV: 13030563
TS Lương Minh Chung
Lê Ngọc Ánh
Lớp: DH13NB
Vũng Tàu, ngày 4 tháng 7 năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đề tài khóa luận “Âm nhạc truyền thống Việt Nam - Nhật Bản -
Sự tương đồng và khác biệt” là do chính tôi thực hiện. Các thông tin, dữ liệu thu
thập được và kết quả phân tích trong đề tài đều trung thực, không trùng với bất
kì đề tài nghiên cứu nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm với lời cam đoan trên.
Sinh viên
Lê Ngọc Ánh
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô trường
Đại học Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhờ những kiến thức và sự động viên trong suốt
quá trình học tập trên giảng đường đại học, em đã sẵn sàng hành trang để
bước vào con đường riêng của mình.
Để có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời tri ân sâu
sắc tới các thầy cô trong khoa Đông phương học, đặc biệt là thầy Lương
Minh Chung đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ em giải quyết những
khó khăn trong quá trình làm khóa luận này.
Trong quá trình hoàn thành khóa luận, do kiến thức còn nhiều hạn chế
và có nhiều điểm thiếu sót nên quý thầy cô có kiến đóng góp để em có thể
khắc phục.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Lê Ngọc Ánh
DANH MỤC HÌNH Ả N H .................................................................................iii
Hình 2.4. Ca trù Việt Nam.............................................................................. 1
Hình 2.5. Đội Nữ Nhạc cung đình đầu thế kỷ XIX........................................ 1
Hình 2.6. Dàn nhạc công biểu diễn Gagaku trên sân khấu cùng với khí nhạc
tại Hội trường Trung tâm Hội nghị quận Meguro, Tokyo, 2017....................1
Hình 2.7. Bugaku - một trong các thể loại diễn xướng của Gagaku................1
Hình 2.8. Bản nhạc Saibara kết hợp với điệu múa Batto................................. 1
Hình 2.9. Dàn đại nhạc của Nhã nhạc cung đình vào những năm 6 0 ............. 1
Hình 2.10. Đội tiểu nhạc của Nhã nhạc cung đình Huế biểu diễn tại cung
Diên Thọ của Hoàng Hậu Nam Phương năm 1937........................................ 1
Hình 2.11. Long vĩ và dây đàn Koto...............................................................1
Hình 2.12. Cấu tạo của đàn tranh Việt Nam .................................................. 1
Hình 2.13. Tay khảy đàn phái Ikuta (trái) và phái Yamada (phải)................ 1
Hình 3.1. Nhà sư Fuke và đàn Biwa................................................................ 1
Hình 3.2. Hò chèo ghe Bạc Liêu...................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài
A. Tầm quan trọng của đề tài
Kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 19731, Nhật
Bản luôn dành cho Việt Nam sự hỗ trợ ưu ái trong hợp tác kinh tế, chính trị,
đào tạo nguồn nhân lực. Quan hệ Việt - Nhật ngày càng được mở rộng, phát
triển trên mọi lĩnh vực. Vì thế, việc tìm hiểu về đất nước, con người Nhật
Bản giúp chúng ta có kinh nghiệm quý báu trong quá trình phát triển. Đặc
biệt là ngôn ngữ và nghệ thuật. Việc giao thoa giữa hai nước về văn hóa -
nghệ thuật như chiếc cầu kết nối mối ngoại giao giữa hai nước. Sự hiểu biết
về âm nhạc truyền thống hai nước sẽ góp phần bồi dưỡng vốn văn hóa làm
thỏa mãn nhu cầu của con người trong bối cảnh giao lưu kinh tế - văn hóa
toàn cầu.
Âm nhạc là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của mỗi
con người. Âm nhạc gắn liền mọi khoảnh khắc, mọi giai đoạn của đời người,
từ lúc chào đời đến khi giã từ cuộc sống. Đó là những khúc hát ru thuở ban
đầu, những bài đồng dao khi khôn lớn, những bài hát giao duyên, tỏ tình khi
trưởng thành, những bài ca sinh hoạt, xuất trận, những bài hát trong lao động
học tập và khúc hát tiễn đưa con người trở về với cát bụi.
Âm nhạc luôn là nguồn sống hạnh phúc cho tất cả mọi người. Không có
âm nhạc, thế giới thực sự rất buồn tẻ. Âm nhạc luôn gắn với con người ở mọi
nơi. Cho dù học tập hay làm việc mệt mỏi chỉ cần nghe hay hát theo một
đoạn nhạc vui tươi sẽ xua tan đi mọi mệt mỏi. Nó còn là phương tiện truyền
tải cảm xúc một cách trọn vẹn, giúp chúng ta cảm nhận được từng ngõ ngách
1 Ngày 21 tháng 9 năm 1973, ông Võ Văn Sung - Đại sứ Việt Nam tại Pháp, người đã thay mặt Chính phủ Việt Nam cùng với Đại sứ Nhật Bản tại Pháp là ông Yoshihiro Nakayama ký và trao đổi thư chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Nhật Bản Sự kiện này đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử quan hệ hai nước.
sâu thẳm nhất của tâm hồn.
Nếu nói đến âm nhạc truyền thống, chắc hẳn giới trẻ hiện nay ít có hứng
thú với nó. Truyền thống âm nhạc cũng có nét đặc sắc riêng và không phải ai
cũng hiểu hết được mọi giá trị của nó. Đặc biệt là nền âm nhạc rất phong phú
của Việt Nam và Nhật Bản.
Khóa luận này giúp các bạn trẻ hiểu sâu hơn về âm nhạc truyền thống
của dân tộc Việt Nam cũng như học hỏi cái hay, cái hấp dẫn của nền âm nhạc
truyền thống của đất nước Nhật Bản. Từ đó chúng ta có thể tìm hiểu nền âm
nhạc giữa hai nước có những điểm tương đồng và khác biệt như thế nào,
nhằm góp phần bổ trợ cho khối lượng kiến thức về ngôn ngữ của sinh viên
chuyên ngành ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản.
B. Ý nghĩa của khóa luận
Đối với mỗi quốc gia, khi mà nhiều lĩnh vực của đời sống và khoa
học kỹ thuật đang mang trong nó những giá trị mang tính toàn cầu, thì văn
hóa chính là “tấm căn cước” khẳng định những nét đặc trưng riêng vốn có
của quốc gia đó và để giao lưu với các quốc gia khác. Là một thành tố quan
trọng cấu thành văn hóa, âm nhạc dân tộc cổ truyền với những giá trị nhân
văn mang tính bản sắc của một dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa. Âm nhạc
dân tộc truyền thống ra đời và tồn tại như một yếu tố quan trọng và không thể
thiếu trong đời sống sinh hoạt văn hóa dân gian của thế giới nói chung và các
nước châu Á nói riêng. Âm nhạc dân tộc gắn bó với mỗi con người từ thuở
lọt lòng, trong những câu hát được truyền từ đời này sang đời khác. Âm nhạc
dân tộc cổ truyền là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của nền âm nhạc mới.
C. Lý do chọn khóa luận
Trên thực tế, ngôn từ của những ca khúc nhạc trẻ hiện nay khá dễ hiểu,
thị trường âm nhạc hiện tại chỉ dựa vào các cung bậc cảm xúc của một bộ
phận giới trẻ nên được nhiều người đón nhận. Phần lớn sinh viên hiện nay
cũng không còn hứng thú với các loại hình âm nhạc truyền thống kể cả ở Việt
Nam và Nhật Bản.
Âm nhạc truyền thống là cái hồn của dân tộc, là món ăn tinh thần không
thể thiếu trong đời sống của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập
hiện nay, thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa, những nét đặc trưng truyền
thống mang bản sắc dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Kể từ thời
kì Đổi mới2, nền âm nhạc đã bị chi phối bởi nền kinh tế thị trường. Thói quen
nghe nhạc của giới trẻ ngày nay đang có xu hướng chạy theo trào lưu, không
quan tâm nhiều đến giá trị bản sắc dân tộc. Việc “nhập cư” của các thể loại
nhac hiện đại vào thị trường âm nhạc ngày càng mạnh, phát triển không
ngừng. Đó là nguyên nhân làm cho nền âm nhạc truyền thống ngày càng bị
rơi vào lãng quên. Âm nhạc dân tộc vẫn được lưu giữ và phát triển trong dân
gian bằng các phương pháp truyền miệng, truyền nghề bởi các nghệ nhân.
Âm nhạc dân tộc được bảo tồn bởi các nghệ sĩ, diễn viên chuyên nghiệp ở
các đoàn ca múa nhạc dân tộc, các viện nghiên cứu, các khoa âm nhạc tại các
trường sư phạm... “Tuy nhiên, công việc gìn giữ, bảo tồn âm nhạc dân tộc
trong cơ chế thị trường hiện nay là cực kỳ khó khăn”[91]. Đặc biệt trên nhiều
phương diện như trình độ chuyên môn, sự tâm huyết, gắn bó với âm nhạc
truyền thống và cuối cùng là vấn đề kinh phí. Mặt khác, âm nhạc dân tộc
chúng ta luôn luôn có tính dị bản, do lưu truyền bằng phương thức truyền
miệng, làn điệu không có tác giả, tác phẩm cụ thể. Lối kí âm trong nhạc dân
2 Đổi Mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thậpniên 1980. Chính sách Đổi Mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sảng Việt Nam lần VI năm 1986
tộc đến nay vẫn làm sản sinh ra các ca khúc, ca từ mới. Hơn nữa, chúng ta
chưa khai thác hết ý nghĩa của các bài nhạc dân tộc. Đây cũng chính là lý do
mà tôi muốn tìm hiểu để góp phần giữ gìn bản sắc, văn hóa của dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận này giúp cho không chỉ riêng sinh viên mà còn toàn bộ thế
hệ trẻ nắm bắt được cái hay, cái đẹp của hai nền văn hóa âm nhạc truyền
thống Việt Nam và Nhật Bản, từ đó có ý thức gìn giữ, quảng bá nhằm thắt
chặt mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
Khóa luận giúp cho người đọc hiểu được khái niệm đơn giản về âm
nhạc truyền thống, những nét đặc trưng tiêu biểu của âm nhạc truyền thống,
hiểu được sự tác động của âm nhạc truyền thống vào đời sống con người từ
xưa đến nay.
Khóa luận này cũng giúp người đọc hiểu tầm quan trọng của những giá
trị nhân văn của âm nhạc cổ truyền, đồng thời góp phần bổ trợ thêm một vài
nội dung nghiên cứu học tập cho sinh viên chuyên ngành ngôn ngữ và văn
hóa Nhật Bản, cũng như sự cần thiết của âm nhạc truyền thống trong đời
sống hiện đại.
3. Lịch sử nghiên cứu
Trong thời đại hiện nay, rất dễ có thể tìm ra các bài nghiên cứu về âm
nhạc truyền thống không chỉ riêng về Việt Nam mà còn có cả Nhật Bản.
Nhưng vẫn chưa tìm được chủ đề so sánh về âm nhạc truyền thống của Việt
Nam và Nhật Bản. Tại Việt Nam, Cố Giáo sư Trần Văn Khê - nhà nghiên
cứu âm nhạc truyền thống nổi tiếng ở Việt Nam. Ông đã có công quảng bá
nền âm nhạc Việt Nam nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung ra thế giới.
Ông đã đưa hình ảnh của chiếc đàn tranh Việt Nam và đàn Koto Nhật Bản tái
hiện lại nhiều làn điệu dân ca độc đáo. Để từ đó, người thưởng thức có thể
hiểu rõ nét riêng mà hai loại đàn này mang lại. Trần Văn Khê là người đã đưa
âm nhạc Việt Nam và Nhật Bản lại gần nhau.
Sau Duy tân Minh Trị (1866-1869), âm nhạc phương Tây đã du nhập
vào Nhật Bản và sớm trở nên nổi tiếng ở Nhật. Hai thể loại âm nhạc được
phát triển trong thời kỳ này là shoka được sáng tác để mang âm nhạc phương
Tây vào trường học, gunka là hành khúc kết hợp với vài yếu tố của nước
Nhật Bản.
Tuy nhiên, ở Việt Nam dường như chưa có nghiên cứu nào nói về việc
so sánh nền âm nhạc truyền thống giữa Việt Nam và Nhật Bản có điểm gì
giống và khác nhau. Do đó, dựa trên cơ sở các nghiên cứu của nước ngoài lẫn
trong nước, chúng tôi mong rằng khóa luận “Âm nhạc truyền thống Việt Nam
- Nhật Bản - Sự tương đồng và khác biệt" sẽ góp một phần nhỏ cho nền âm
nhạc của nước nhà, cũng như tác dụng giáo dục đối với giới trẻ về những văn
hóa truyền thống của đất nước mình và các nước khác.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên đối tượng là âm nhạc truyền thống của Việt
Nam và Nhật Bản. Trên cơ sở đó, chúng tôi phân tích về nội dung và hình
thức nghệ thuật, chỉ ra những tương đồng và khác biệt, những giá trị đặc sắc
của âm nhạc truyền thống.
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi giới hạn vấn đề nghiêm cứu trong
phạm vi sau:
- Phạm vi thời gian: chúng tôi tìm hiểu khóa luận này trong 16 tuần.
- Phạm vi không gian: âm nhạc truyền thống Việt Nam, âm nhạc truyền
thống Nhật Bản, các nhạc cụ điển hình.
- Phạm vi nội dung: khóa luận tập trung vào những điểm đặc sắc trong
âm nhạc truyền thống Việt Nam và Nhật Bản, các bản nhạc hay hình ảnh có
trong khóa luận làm dẫn chứng để người đọc hiểu hơn về âm nhạc truyền
thống và các nhạc cụ đặc trưng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của hai nền âm nhạc truyền
thống Việt Nam - Nhật Bản, chúng tôi chỉ ra những giá trị cơ bản về mặt nội
dung, cũng như những tương đồng và khác biệt về mặt nghệ thuật. Đề tài
không bao quát toàn bộ nền âm nhạc truyền thống, mà chỉ đi vào một số bài
dân ca tiêu biểu, các nhạc cụ tiêu biểu, cắt nghĩa những nét văn hóa nổi trội
kết tinh được nhân dân chọn lọc và gìn giữ qua thời gian. Điển hình lấy các
bài dân ca của hai dân tộc làm dẫn chứng nhằm phân tích, chứng minh và
khái quát những nét tương đồng và khác biệt.
6. Phương pháp nghiên cứu
> Thống kê phân loại: lựa chọn những phạm trù thẩm mỹ lặp lại phổ biến
trong âm nhạc Việt Nam - Nhật Bản.
> Phân tích: chỉ ra tính hai mặt của các hình ảnh, biểu tượng, những nét
tương đồng, khác biệt dựa trên giá trị nghệ thuật.
> So sánh: các thể loại nhạc hay các nhạc cụ truyền thống
7. Các kết quả đạt được
Nghệ thuật âm nhạc mang tính trừu tượng cao khi phản ánh hình tượng
nghệ thuật. Ngôn ngữ âm nhạc hay cấu trúc các âm thanh trong âm nhạc có
sự hòa hợp với nhau biểu đạt thế giới cảm xúc của con người. Khóa luận này
nhằm giúp mọi người hiểu được những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc
mà âm nhạc truyền thống mang lại cho đời sống tinh thần của con người. Nền
âm nhạc truyền thống mỗi đất nước mang một sắc thái riêng, một phong cách
riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó
là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.
Những kết quả nghiên cứu sẽ là những thông tin quan trọng góp phần
vào việc giáo dục, quảng bá văn hóa truyền thống của Việt Nam và Nhật Bản.
Xác định nhóm đối tượng hướng tới không chỉ ở quá khứ, hiện tại mà còn ở
tương lai để duy trì những nét đặc sắc của dân tộc.
Nghiên cứu không dựa vào khảo sát thị trường mà dựa vào lịch sử để
hiểu hơn về cái truyền thống đặc trưng của dân tộc đó, nêu lên được quan
điểm cá nhân, tuy không sắc sảo nhưng cũng góp phần hiểu thêm về nền âm
nhạc của nước Việt Nam cũng như đất nước Nhật Bản.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, thư mục hình ảnh, tài liệu tham khảo, khóa luận với
đề tài “Âm nhạc truyền thống Việt Nam - Nhật Bản - Sự tương đồng và khác
biệt” gồm có 3 chương:
Chương 1: Những giá trị văn hóa trong âm nhạc truyền thống Việt Nam -
Nhật Bản
Chương 2: Những nét tương đồng trong âm nhạc truyền thống Việt Nam -
Nhật Bản
Chương 3: Những khác biệt trong âm nhạc truyền thống Việt Nam - Nhật
Bản
CHƯƠNG 1: NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG ÂM NHẠC
TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM - NHẬT BẢN
1.1. Khái quát về âm nhạc truyền thống
Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật đặc biệt có sứ mệnh duy trì văn hóa
truyền thống của dân tộc. Âm nhạc truyền thống là những tác phẩm âm nhạc,
phản ánh sinh động, sâu sắc hiện thực đời sống văn hóa của con người, của
mỗi dân tộc, mang đậm bản sắc của dân tộc. Âm nhạc truyền thống là
phương tiện trau dồi những tư tưởng, tình cảm, những ứng xử của con người
trước xã hội. Âm nhạc là tiếng nói của dân tộc, là cầu nối giữa các nền văn
minh nhân loại.
Âm nhạc truyền thống Việt Nam hay âm nhạc truyền thống Nhật Bản có
truyền thống khá lâu đời. Ngay từ thời cổ xưa con người đã rất say mê âm
nhạc. Đối với họ, âm nhạc là nhu cầu không thể thiếu. Riêng về âm nhạc Việt
Nam, trong quá trình phát triển, người dân đã sáng tạo ra rất nhiều loại nhạc
cụ và các thể loại nhạc để bộc lộ tâm tư tình cảm, có thêm sự phấn chấn và
sức mạnh trong lao động và chiến đấu, cao hơn là giáo dục cho con cháu
truyền thống của ông cha về đạo lý làm người.
Trải qua bao thăng trầm của xã hội, ngày nay tại Việt Nam còn lưu giữ
lại rất nhiều những nhạc cụ truyền thống từ những dạng đơn sơ nhất cho tới
những dạng có sự phát triển khá cao với những kỹ thuật diễn tấu tinh tế và
đặc sắc. Con người có thể nghe những điệu hát ru, những bài đồng dao của
trẻ nhỏ, những thể loại ca nhạc kịch truyền thống... Âm nhạc cổ truyền Việt
Nam phong phú bởi những thể loại thuộc nhiều thời đại khác nhau và bởi cá
tính đa sắc tộc. Cùng một thể loại dân ca nhưng ở mỗi vùng miền có một
phương thức biểu diễn, truyền đạt và âm điệu riêng biệt. Chẳng hạn điệu hát
ru của dân tộc Kinh khác với bản nhạc ru của dân tộc Mường, Tày hay ở Chơ
Ro... Ở Tây Nguyên có nơi dùng lời ca tiếng hát để ru trẻ nhỏ, có nơi dùng
tiếng đàn, tiếng sáo.
Ngày nay, âm nhạc truyền thống vẫn còn tồn tại nhưng chỉ được quan
tâm ở một vài thể loại tiêu biểu. Năm 1943, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất
chú trọng đến vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đặc biệt là
từ khi đất nước mở cửa với chính sách Đổi mới, các giá trị văn hoá dân tộc
đặc biệt được chú trọng dưới góc độ xã hội hoá trong đó có âm nhạc. Âm
nhạc truyền thống vẫn được lưu trữ và phát triển trong dân gian bằng các
phương thức truyền khẩu, truyền nghề của các nghệ nhân. Tuy nhiên, công
việc bảo tồn giá trị truyền thống của âm nhạc trong cơ chế trị trường hiện nay
là cực kì khó khăn, đặc biệt trên nhiều phương diện như trình độ chuyên môn,
sự tâm huyết, gắn bó với âm nhạc truyền thống.
Không chỉ riêng về âm nhạc Việt Nam, âm nhạc Nhật Bản cũng vậy.
Những nét truyền thống trong âm nhạc Nhật Bản vẫn còn hiện diện cho đến
thời nay là một sự cố gắng bảo tồn, phát triển và duy trì mạnh mẽ. Những thể
loại nhạc kịch truyền thống như Nou, Kabuki hay Bunraku...kịch truyền
thống mà Nhật Bản tự hào với thế giới là hồn dân tộc của Nhật Bản, nét văn
hóa truyền thống lâu đời của đất nước mặt trời mọc.
Mọi sự tồn tại đều có quy luật vận động riêng và đặc thù của nó. Đối với
âm nhạc, một loại hình nghệ thuật luôn gợi mở trí tưởng tượng phong phú
của con người, vì bản chất âm nhạc là khi âm thanh vang lên đúng với cả m
xúc và tâm thức của dân tộc, phù hợp với nhận thức tình cảm của con người,
thì cái hay của âm nhạc đi thẳng vào trái tim của con người mà không cần
phải qua bất kì khâu trung gian xúc tác, đối tượng thưởng thức như đắm mình
trong không gian nghệ thuật của âm nhạc.
1.2. Giá trị nội dung
1.2.1. Tình yêu thiên nhiên
Âm nhạc vốn là sự hợp nhất giữa thiên nhiên hoà cùng những cảm
xúc tinh tế và trí tuệ của con người. Bằng những hình thức thể hiện khác
nhau, những ngôn ngữ âm nhạc khác nhau, thiên nhiên đã trở thành nhân
tố quan trọng trong những tác phẩm âm nhạc.
Hình tượng thiên nhiên được tái hiện trong các tác phẩm âm nhạc
của các nghệ sĩ thường mang tính khái quát. Vì vậy, khi nghe một tác
phẩm không ai có thể đưa ra một cách cụ thể là những câu nhạc nào đang
diễn tả một hình ảnh thiên nhiên cụ thể mà chỉ có thể bao quát chung toàn
tác phẩm để thấy tinh thần của thiên nhiên trong đó. Nhìn chung, chỉ nhạc
sĩ sáng tác mới có thể nói chính xác được những hình tượng thiên nhiên
trong các tác phẩm của mình. Đôi khi cũng có những tác phẩm của các
nhạc sĩ sau này được người khác đặt tên hoặc gắn nó với một vẻ đẹp nào
đó trong thiên nhiên.
Trong hầu hết những tác phẩm âm nhạc, các nhà soạn nhạc đã đưa
những âm thanh trong thiên nhiên vào tác phẩm của mình thông qua việc
khai thác triệt để tính năng ưu việt của các nhạc cụ để mô phỏng và bắt
chước những âm thanh tự nhiên, hoặc tài năng hơn nữa là xây dựng hình
tượng thiên nhiên trong bút pháp sáng tác âm nhạc. Tuy nhiên, với sự vận
động, phát triển, biến đổi của vũ trụ và vạn vật, trong đó có con người thì
nhu cầu nghe nhạc cũng như quan điểm về thẩm mỹ nghệ thuật ngày càng
đa dạng. Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân để các tác phẩm âm
nhạc ra đời đáp ứng thị hiếu âm nhạc khác nhau của công chúng yêu
nhạc.
Khi sống gần gũi với thiên nhiên, con người luôn có những cảm xúc
mạnh mẽ, tìm được sức mạnh của chính mình cùng những ý tưởng và sự
sáng tạo tinh tế trong nghệ thuật. Các tác phẩm âm nhạc gắn liền với
thiên nhiên luôn mang lại sự mới lạ và thư giãn tinh thần, hoặc có những
tác phẩm lấy thiên nhiên làm nguồn cảm hứng để miêu tả nội tâm sâu
thẳm của con người.
Có thể nói, từ xa xưa con người đã sống gần gũi với thiên nhiên, vì
vậy những tác phẩm nghệ thuật mang bóng dáng của thiên nhiên là một
điều tất yếu. Bằng những góc nhìn khác nhau, các nhạc sĩ đã khai thác âm
thanh trong thiên nhiên và trong đời sống vào các tác phẩm âm nhạc của
mình với nhiều màu sắc phong phú. Và các nghệ sĩ biểu diễn đã truyền
đạt các tác phẩn âm nhạc đó qua giọng hát và các nhạc cụ tạo thêm nhịp
điệu cho bài hát. Thiên nhiên mãi mãi là nguồn cảm hứng vô tận cho sáng
tạo nghệ thuật, do đó những tác phẩm âm nhạc xây dựng rõ nét hình
tượng thiên nhiên hoặc sử dụng tiếng động từ thiên nhiên một cách có ý
thức và hợp lý cũng là một hình thức tạo nên sự mới lạ trong thưởng thức
âm nhạc. Đây cũng là sự tương tác hai chiều giữa đời sống tinh thần của
con người với tự nhiên. Mặt khác, sự hiện diện của thiên nhiên trong các
tác phẩm nghệ thuật nói chung còn là bức thông điệp giúp mọi người
thêm yêu mến và bảo vệ thiên nhiên.
Người Việt Nam từ xưa đến nay luôn sống phụ thuộc vào thiên
nhiên, họ vừa phải đấu tranh chống lại thiên tai, vừa phải sống hoà thuận
với thiên nhiên. Tín ngưỡng người Việt phản ánh rất rõ những đặc trưng
của nền văn minh lúa nước. Bởi vậy, khi nói đến những tín ngưỡng dân
gian, tín ngưỡng về cây lúa, người ta không thể không nói đến những hiện
tượng thiên nhiên có liên quan tới đời sống cây lúa.
Nền văn hóa nông nghiệp, sản xuất lúa nước truyền thống của dân
tộc Việt Nam đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa, sinh hoạt,
lao động. Trải qua bao thế hệ tổ tiên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
trong sản xuất và dự báo những hiện tượng tự nhiên như nắng, mưa, gió
rét, bão lụt có ảnh hưởng đến mùa màng, thời vụ. Những kinh nghiệm
máu xương của bao đời được tích lũy trong những câu tục ngữ, ca dao,
những bài hát về nghề nông. Đây chính là bài học quý giá mà người nông
dân Việt Nam xưa kia truyền lại cho các thế hệ sau.
Theo tín ngưỡng thờ Thần đạo3 của người Nhật, thế giới trong Thần
đạo là một dòng chảy liên tục của sự sáng tạo, từ những linh hồn sống
trên thiên đàng đến những linh hồn trú ngụ trong cây, đá, bụi và tất cả
những gì xung quanh. Tất cả mọi vật đều có linh hồn và có tiếng nói của
riêng mình. Con người là một phần trong dòng chảy đó. Những vật tự
nhiên như đá, cây cối, núi sông, thác nước, động vật, sấm chớp... tất cả
đều có thể là linh hồn, nhất là với những vật hoặc hiện tượng có phần kì
lạ và nổi bật.
Không phải tất cả các vật tự nhiên đều là thần, nhưng Thần đạo
khuyến khích việc tôn trọng những vật tự nhiên, vì ngay cả những vật
bình thường nhất cũng có thể có các linh hồn trú ngụ bên trong. Con
người học được cách tôn trọng và yêu quý vùng đất mình sinh sống. Nhật
Bản là một đất nước có thiên nhiên tươi đẹp và phong phú, từ những ngọn
núi lửa đỉnh phủ tuyết trắng, những rặng núi cao sừng sững cho đến
những con vịnh, những bờ biển yên bình. Mọi thứ từ cây cối, đá sỏi đến
những thác nước, cùng với những sinh vật sống cùng hòa quyện, giống
như một chốn linh thiêng, một thứ thiên nhiên có hồn. Những tập tục gắn
3 XThần đạo là tôn giáo có nguồn gốc bản địa, xuât hiện từ thời công xã nguyên thủy dưới hình thức tín
ngưỡng vật linh
liền với Thần đạo bắt đầu từ những gia đình làm nông hoặc những làng
chài, nơi tín ngưỡng đã có từ lâu và thắt chặt với vùng đất đó. Thần đạo
đóng vai trò liên kết con người với thiên nhiên, quý trọng thiên nhiên.
Theo truyền thuyết, những hòn đảo tươi đẹp của Nhật Bản, những ngọn
núi đỉnh phủ tuyết trắng xóa, những bãi cát dát vàng, những thác nước
hùng vĩ và thảm thực vật phong phú, đều được tạo ra bởi các vị thần và
rồi hóa thân vào các sự vật, hiện tượng và rồi sinh ra con người.
“Thần đạo nhấn mạnh và đề cao sự thuần khiết và ngay
thẳng. Trẻ con được dạy phải lắng nghe trái tim mình; kính
trọng tổ tiên, bậc trên dạy dỗ mình và quý trọng thế giới tự
nhiên; tôn kính các thần - những linh hồn đã nuôi nấng và
phù hộ cho ta. Đó là tinh thần của Thần đạo'" [78]
Nằm trong cái nôi văn hoá phương Đông, cả Nhật Bản và Việt Nam
đều mang trong mình những điều bí ẩn, đặc biệt là trong nền văn hoá cổ
truyền mang đậm bản sắc dân tộc. Chính vì lẽ đó mà tư duy người Nhật
Bản và người Việt Nam thời sơ khai cũng có những nét giống nhau. Điểm
xuất phát của sự giống nhau ấy chính là do nền kinh tế nông nghiệp. Thời
xa xưa, người nông dân thường phải sống phụ thuộc vào thiên nhiên để
mong có một vụ mùa bội thu nên cả người nông dân Nhật Bản lẫn người
nông dân Việt Nam đều nhận thức rõ rằng, họ không những phải đấu
tranh với thiên nhiên, mà còn phải biết chung sống hài hoà, biết tôn trọng
thiên nhiên. Thêm vào đó, tư duy đa thần của người Nhật và người Việt
đã cho ra đời Thần đạo và những tín ngưỡng dân gian Việt cổ.
Từ đó có thể nói, để sáng tác ra một bài hát dù truyền thống hay
không, những nghệ sĩ luôn lấy cảm hứng từ những thứ gần gũi nhất như
thiên nhiên, đất trời để có thể cảm nhận tình yêu thiên nhiên, quý trọng tự
nhiên, sự gắn kết của thiên nhiên qua từng câu chữ, từng lời hát. Khi
chìm trong giai điệu của một bài hát, tâm trí ta như quên hết mọi thứ xung
quanh, hòa mình vào làn điệu của bài hát để có thể cảm nhận được ý
nghĩa sâu sắc của bài hát đó.
1.2.2. Tình yêu con người và cuộc sống
Âm nhạc là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của
mỗi con người. Mọi giai điệu đều là những cung bậc cảm xúc, những nỗi
niềm từ tận sâu đáy lòng và cũng là những nét khắc họa cuộc sống muôn
màu nên nó có thể chạm tới nơi sâu thẳm của tâm hồn, đánh thức lòng
trắc ẩn trong mỗi người. Âm nhạc là loại hình nghệ thuật dùng âm thanh
làm phương tiện biểu hiện hình tượng nghệ thuật nhằm phản ánh một cách
trừu tượng các khía cạnh của cuộc sống.
Âm nhạc là suối nguồn của văn hóa xã hội cũng như quan hệ huyết
thống. Mỗi đứa trẻ đều đã từng được nghe những lời ru ngọt ngào của mẹ.
Những lời ru đó là âm nhạc tri thức, là phương tiện truyền dẫn mối giao
cảm giữa tình mẫu tử thiêng liêng, cô đọng. Âm nhạc đã gắn liền mọi
khoảnh khắc, mọi giai đoạn của đời người, từ lúc chào đời đến khi giã từ
cuộc sống. Đó là những khúc hát ru, những bài đồng dao những, bài hát
giao duyên, những bài ca sinh hoạt, những bài hát trong lao động học tập.
Âm nhạc là hơi thở của cuộc sống, cần thiết cho cuộc sống như không khí
cần cho sự sống của mỗi người. Chính vì nhu cầu lớn lao này mà âm nhạc
hiện diện ở mọi lúc, mọi nơi quanh chúng ta.
Âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân cách, đặc
biệt là việc nâng cao nhận thức về các mối quan hệ xã hội, quan hệ huyết
thống và luân lý đạo đức đời thường. Âm nhạc là nguồn cảm hứng nội
tâm, nâng cao ý chí nghị lực của con người trong cuộc sống. Điều đáng
nói là âm nhạc tạo nên những cung bậc tình cảm rất tinh tế, thuần hóa tâm
thức, đưa con người về với nhân cách vốn có của mình. Tính giáo dục của
âm nhạc có ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của con người, nhất là mặt
tâm tư tình cảm.
Nhắc tới những bài hát ru là nhắc tới lòng bao dung, nhân hậu, khát
vọng được sống hoà bình hạnh phúc, lòng mong mỏi cho trẻ thơ được yên
ấm trong sự chở che của cuộc đời. Những bài hát ru dân gian thể hiện tình
yêu giữa mẹ và con, tình yêu giữa người và người thời chiến. Mỗi dân tộc,
mỗi đất nước đều có một làn điệu hát ru của riêng mình. Nhưng dù thuộc
dân tộc nào, con người đều lớn lên trong tiếng hát ru dịu dàng của mẹ
hiền. Các bài hát ru phổ biến ở Việt Nam có thể kể đến như: Con cò mà
đi ăn đêm, Công cha như núi Thái Sơn,
Trích lời bài hát “Con cò bay lả bay laa
Con cò bay lả lả lả bay la
Bay từ cửa phủ
bay ra cánh đồng
Tình tính tang là tang tính tình
Anh chàng rằng anh chàng ơi
Rằng có biết biết hay chăng,
rằng có nhớ là nhớ hay chăng?
Mình về có nhớ ta chăng,
Ta về ta nhớ
Hàm răng cô mình cười,
Tình tính tang, tang tính tình,
Cô mình rằng, cô mình ơi,
’[31, tr. 93-95]:
Rằng có biết biết hay chăng,
rằng có nhớ là nhớ hay chăng?
Năm quan đổi lấy miệng cười
Mười quan anh chẳng tiếc,
Tiếc người có duyên,
Tình tính tang, tang tính tình,
Cô mình rằng, cô mình ơi,
Rằng có biết biết hay chăng,
rằng có nhớ là nhớ hay chăng?
Đâu vì gác tía lầu vàng,
Phải duyên phải kiếp,
Thì chàng em theo,
Tình tính tang, tang tính tình,
Anh chàng răng, anh chàng ơi,
Rằng có biết biết hay chăng,
răng có nhớ là nhớ hay chăng?
Phần lớn các câu trong bài hát ru được ấy từ ca dao, đồng dao, hay
trích từ các đoạn thơ, hò dân gian được truyền miệng từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Hay những bài hát ru truyền thống của đất nước Nhật Bản
như: Takeda no komoriuta4, Itsuki no komoriuta5, Komoriuta Edo6 ... Bản
chất của các làn điệu dân ca này đều xuất phát từ gốc nông nghiệp. Từ
thời xa xưa, con người ta không được học chữ nhiều như thời nay, chỉ gắn
bó với công việc làm nông vất vả, bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Vì
là thời nông nghiệp hóa nên các làn điệu truyền thống gắn với thiên nhiên,
đất trời. Với quan hệ gần gũi, thân thuộc, họ nương tựa vào cộng đồng và
niềm tin để tự trấn an bản thân. Một đất nước mỗi năm phải hứng chịu sự
phá hủy khủng khiếp của động đất, núi lửa, sóng thần. Gần như bất cứ lúc
nào, con người của đất nước mặt trời mọc cũng phải đối mặt với nguy cơ
thiên tai xảy ra. Người Nhật với cái cách mà người dân được giáo dục,
được tuyên truyền, và cách mà họ đối xử với nhau trong những tình
huống đầy nguy hiểm đã giúp họ có thêm nghị lực vững vàng khi đứng
trước thiên tai. Từ xưa đến nay, thế giới biết đến Nhật Bản với nền tảng
đạo lí cao. Người dân Nhật luôn được rèn luyện tinh thần thép để ứng phó
trong mọi hoàn cảnh. Không có lòng yêu thương, tình đoàn kết thì con
người sẽ không thể chinh phục thiên nhiên để tồn tại. Vì khi đối mặt
trước những khó khăn, con người mới biết thế nào là lòng kiên định,
vững vàng, ý chí chiến đấu quyết tâm, đồng sức đồng lòng cùng nhau
4 Bài hát ru nổi tiếng ở vùng Kyoto và Osaka5 Bài hát ru được người Nhật biết đến rộng rãi bắt nguồn từ làng Itsuki của tỉnh Kumamoto của Nhật Bản6 Bài hát ru truyền thống của người Nhật, có nguồn gốc từ Edo, được truyền bá đến các khu vực khác và được cho làgốc rễ của những bài hát ru của người Nhật
vượt qua mọi khó khăn. Tập thể đóng một vai trò quan trọng đối với
người Nhật. Trong mọi hoàn cảnh, người Nhật luôn gạt bỏ cái tôi để đề
cao cái chung, tìm sự hòa hợp giữa mình và những người xung quanh.
Thế nên tinh thần tập thể lúc nào cũng được đề cao trong đời sống của
người Nhật.
Nói về đất nước Việt Nam, một số tác giả cho rằng con người Việt
Nam có những nét tính cách truyền thống như lòng yêu nước, tinh thần
đoàn kết, coi trọng tình nghĩa, cần cù, hiếu học đã tạo nên lịch sử đặc
trưng của Việt Nam. Trong tính cách nói chung của con người Việt Nam
và trong từng nét tính cách nói riêng đều ẩn chứa tính hai mặt, cái tốt và
cái xấu, giá trị và phản giá trị. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Người Việt rất coi
trọng tình nghĩa, như tinh thần đùm bọc, giúp đỡ và quan tâm nhau.
“Việc coi trọng tình nghĩa tới mức thái quá đương nhiên không
phải là giá trị tốt trong mọi hoàn cảnh. Coi trọng tình nghĩa tới
mức coi thường hiến pháp và pháp luật như ”phép vua thua lệ
làng”, ”một trăm cái lý không bằng một tí cái tình” thì khó có thể
chấp nhận được. ”[79].
Người Việt Nam được các dân tộc khác thừa nhận là có tinh thần
hiếu học, cộng với bản chất thông minh, dễ tiếp thu và một nền giáo dục
có truyền thống ngàn năm. Người Việt Nam xem giáo dục cao hơn sự
giàu có và thành công và là trụ cột của văn hóa. Thái độ coi trọng cộng
đồng đã trở thành một nét tính cách truyền thống đặc trưng của con người
Việt Nam. Một đất nước cũng phải hứng chịu nhiều trận lũ lụt thiên tai
hằng năm, con người Việt Nam hay gọi một cách trìu mến hơn là đồng
bào Việt Nam đã chung tay khắc phục những hậu quả sau thiên tai. Là
con Rồng cháu Tiên, “đồng bào” là cách gọi của người Việt để nói rằng
tất cả người Việt Nam đều cùng chung một nguồn gốc. Và vì cùng chung
một giống nòi, chung một đất nước, con người Việt Nam luôn đùm bọc,
giúp đỡ lẫn nhau.
Từ rất lâu lắm, từ thời xa xưa ấy, khi mà loài người còn sống trong thời kỳ đồ đá, loài người cổ đã biết kết hợp lại với nhau để họ mạnh hơn. Họ đã nhận ra sự kết hợp là sức mạnh. Vậy là tinh thần đoàn kết đã có từ rất xưa rồi và ngày nay nó vẫn được duy trì bởi sự cần thiết của nó trong cộng đồng. Những bài hát về tình đoàn kết dân tộc có thể kể đến như: Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn (Hoàng Hà), Ta tự hào đi lên! Ôi Việt Nam (Chu Minh & Hoàng Trung Thông), Tiến quân ca (Văn Cao)...
Đoàn kết là sự kết hợp các cá thể trong một khối chung, tập hợp những người có chung một mục đích thành một khối thống nhất gắn kết với nhau. Sự kết hợp ấy chắc chắn sẽ đạt được thắng lợi và cũng sẽ gặt hái được nhiều thành công. Tại sao đoàn kết lại có sức mạnh to lớn như vậy? Nó kết hợp được nhiều người, mỗi người một ưu điểm riêng mà người khác không có, nên khi tất cả họ đồng tâm cùng hỗ trợ lẫn nhau sẽ tìm được điểm chung. Câu chuyện “bó đũa” đã nêu rõ sức mạnh của sự đoàn kết. Ngoài ra, để đoàn kết được thì mỗi người phải biết cảm thông, quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau và phấn đấu hết mình. “Một người vì mọi người, mọi người vì một người” chứ không được ỷ lại cho người khác.
Âm hưởng của các bài hát cũng bắt nguồn từ sức mạnh của con
người, tình yêu con người và cuộc sống, biết thương yêu con người và
quý trọng bản thân. Sự thể hiện mãnh liệt từ các bản nhạc thời xưa hay
các bài hát dân gian làm cho con người thêm yêu đời, biết trân trọng cuộc
đời, đồng tâm hợp lực với các cá nhân để tạo thành một tập thể hùng
mạnh sẽ luôn là nguồn cảm hứng mạnh mẽ để có thêm nhiều sáng tác hay
in sâu vào lòng người.
1.2.3. Tình yêu quê hương đất nước
Âm nhạc không chỉ là phương tiện giải trí đối với cuộc sống của con
người mà âm nhạc góp phần rất lớn trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất
nước. Âm nhạc đóng một vai trò hết sức quan trọng đó là tuyên truyền
những chính sách của giai cấp, tạo động lực sức mạnh cho nhân dân. Cụ
thể, khi Tổ quốc có chiến tranh các ca khúc: Em vẫn đợi anh về (Thái
Bảo), Tình em (Huy Du), Vòng tay cầu hôn (Trần Tiến) ...gợi lên những
tấm lòng thủy chung của người yêu ở quê nhà nhắn gửi làm ấm lòng
người ở nơi tiền tuyến. Còn nhiều ca khúc như những bản tráng ca mang
tính kêu gọi, khơi dậy ý thức tự tôn dân tộc như: Lá xanh (Hoàng Việt),
Hãy cho tôi lên đường (Hoàng Hiệp), Đường chúng ta đi (Huy Du), Bác
đang cùng chúng cháu hành quân (Huy Thục) ... luôn là động lực to lớn,
là sức mạnh lay động đến muôn triệu trái tim, là những “Tiếng hát át
tiếng bom” và là sự tất yếu của Cách mạng giải phóng dân tộc đi đến
thành công. Nội dung của các ca khúc cách mạng này luôn toát lên một ý
chí, một sức mạnh tạo động lực thêm cho ý chí của các chiến sĩ. Có thể
nói, âm nhạc như một lời thề chính trị tượng trưng cho chí khí, cho tinh
thần của một dân tộc.
Bác Hồ đã dạy: “Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận và anh, chị, em
nghệ sĩ chính là chiến sĩ trên mặt trận ấy”[26, tr.368]. Không chỉ trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước mà văn hóa nghệ thuật còn có
trong nhiều lĩnh vực khác như giáo dục, khoa học kỹ thuật, xã hội...
Giai đoạn từ 1954 đến 1975 là giai đoạn xây dựng và phát triển hết
sức phong phú của âm nhạc Việt Nam trong một điều kiện lịch sử đặc
biệt vừa chiến đấu vừa xây dựng đất nước, vừa có cuộc sống đời thường,
vừa có cuộc sống thời chiến. Công việc xây dựng một nền văn hóa mới
với nội dung Xã Hội Chủ Nghĩa và tính chất dân tộc đã trở thành nhiệm
vụ trung tâm trong các hoạt động văn hóa - nghệ thuật, trong đó có âm
nhạc. Hoạt động âm nhạc trong sáng tác cũng như trong việc truyền bá
âm nhạc đã luôn bám sát định hướng: vì Tổ quốc, vì sự nghiệp thống nhất
đất nước, từng bước đưa ngành âm nhạc đi vào con đường chính quy hiện
đại trên một quy mô lớn và một chất lượng không ngừng được nâng cao
nhằm phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền
Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Các văn nghệ sĩ Việt Nam, trong
đó có các nhạc sĩ, cũng đã đi theo phương hướng sáng tác mà Đảng đề ra
như Dân tộc - Khoa học - Đại chúng, dân tộc - hiện đại, nội dung Xã Hội
Chủ Nghĩa, tính chất dân tộc, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc..., đã có
những tác phẩm xuất sắc phục vụ cho hai cuộc kháng chiến, cho sự
nghiệp xây dựng Tổ quốc. Quan điểm sáng tác của các nghệ sĩ Việt Nam
với mục tiêu cơ bản là ca ngợi vẻ đẹp quê hương, đất nước cũng như cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc. Phương pháp sáng tác hiện thực Xã Hội
Chủ Nghĩa chính là phương pháp sáng tác với những yêu cầu cơ bản về
tính Đảng, tính nhân dân, là những phương hướng đã bao hàm ngay trong
nội dung những phương hướng của Đảng Cộng Sản Việt Nam nêu ra cho
sáng tác, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh như sau:
“...Đảng vẫn tôn trọng quyền lựa chọn phương pháp sáng
tác của các văn nghệ sĩ. Đảng chủ trương khuyến khích mọi cố
gắng sáng tạo, tìm tòi, phản đối những biện pháp hạn chế một
cách độc đoán những chủ đề, hình thức và phương pháp sáng tác
khác nhau, nhưng đòi hỏi mọi tác phẩm văn nghệ của ta phải có
tính đảng, phải phục vụ đường lối chính sách và không được đi
ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. ” [34, tr. 138-139]
Ca khúc cách mạng thời kỳ này mang dấu ấn của nền âm nhạc cổ
truyền dân tộc, dòng ca khúc hướng về lịch sử. Ca khúc cách mạng đã thể
hiện đúng bản chất văn hóa hai chiều của con người Việt Nam: một chiều
tiếp nhận từ văn hóa truyền thống, một chiều tiếp nhận từ văn hóa âm
nhạc nước ngoài.
Trong giai đoạn lịch sử này, mọi hoạt động nền văn nghệ kháng
chiến đều hướng tới phương châm: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng. Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến, âm nhạc đã được
coi là mũi nhọn xung kích của Đảng trên mặt trận văn hóa. Trong kháng
chiến chống Pháp, chủ đề và đề tài của các ca khúc cách mạng Việt Nam
đã được mở rộng. Có rất nhiều ca khúc về Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hình ảnh được tôn trọng nhất, nhưng rất đỗi gần
gũi, thân thương với nhân dân - đó là vị cha già dân tộc trong ca khúc “Ca
ngợi Hồ Chủ tịch” (Văn Cao). Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng - biểu tượng
của Tổ quốc, phấp phới tung bay trong ánh bình minh của ngày mới và
hình ảnh của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong nhiều ca khúc
mang ý nghĩa cách mạng.
Hình ảnh người phụ nữ ở nông thôn trong kháng chiến cũng hiện lên
đậm nét và mang tính điển hình. Người phụ nữ miền núi mặc dù lần đầu
tiên được khắc họa trong ca khúc, nhưng qua đó cũng thấy được tấm lòng
với Đảng, với cách mạng. “Pì noọng ơi” (Văn Chung) diễn tả một niềm
vui của chị em phụ nữ Tày trong những chuyến đi dân công phục vụ hỏa
tuyến.
Trích lời bài hát “Pì noọng ơi”[33, tr.171]:
Trùng trùng điệp điệp từng dòng người ra đi tiếp tế
Việt Bắc đang tưng bừng ca mừng chiến thắng
Nơi đây dân miền xuôi phai màu nâu đen sờn vai áo
Với Mán, Mường đỏ trắng bên Nùng, Thổ in nền chàm xanh
Ríu ra ríu rít, tíu ta tíu tít, kĩu ca kĩu kịt
Trèo qua đèo, lội theo suối
Băng rừng leo núi, đêm ngày cơm muối, chiếu cỏ màn sương
Thi đua đi dân công là đi giết giặc lập công.
Dù phải trải qua bao nhiêu gian khổ nhưng họ vẫn tin tưởng ở thắng
lợi ngày mai. Các bản nhạc đã làm người nghe rung động bởi tấm lòng
rộng mở và cái tính nhẫn nại, âm thầm hy sinh của họ.
Nhật Bản không chỉ đặc biệt bởi nét văn hóa truyền thống của dân
tộc mà còn đặc biệt bởi nét văn hóa âm nhạc. Âm nhạc chính là một trong
những yếu tố khiến cho nền văn hóa Nhật Bản đa dạng hơn. Đại diện cho
nền âm nhạc Nhật Bản thời chiến - Enka là cái tên quen thuộc đối với
nhiều người Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Thuật ngữ Enka
được dùng để tham khảo các văn bản chính trị để sắp đặt nhạc hát và
phân loại giữa hai phe đối lập nhau thuộc về tự do và hành động đúng đắn
của con người trong thời Meiji (từ năm 1868 đến năm 1912) với ý nghĩa
là phớt lờ sự hạn chế của chính trị trên tốc độ bất đồng quan điểm chính
trị. Enka một loại hình nghệ thuật có công không nhỏ trong việc bồi đắp
sự phát triển của nền âm nhạc Nhật Bản cho đến thời điểm bây giờ. Enka
là một trong nhiều thể loại âm nhạc nổi tiếng ở Nhật. Nhạc Enka hiện đại
có liên quan đến một loại nhạc mới, phát sinh từ khung cảnh của một
cuộc đàn áp ngay sau chiến tranh, là một loại nhạc không dùng nhạc cụ
để biểu diễn đầu tiên trong nền văn hóa âm nhạc Nhật Bản và đi theo
đường lối chủ nghĩa dân tộc. Điển hình là nhạc phẩm Jidai (B#í^) của nữ
ca sĩ Nakajima Miyuki rất được giới yêu nhạc hâm mộ với tài năng sáng
tác nổi bật và giọng ca cũng không kém phần thu hút đặc biệt. Vào những
năm đầu thập niên 60, người trình diễn nhạc Enka được yêu thích nhất và
được biết đến là “Nữ hoàng enka” là Hibari Misora (1937-1989). Từ năm
1955 đến năm 1959 là bước đệm cho nhạc Enka hiện đại. Bài hát ra đời
vào năm 1955 và được xem như một bài nhạc enka thực sự. Có điều, bài
hát bị ảnh hưởng bởi vần điệu của nhạc tango. Theo Toru Funamura7,
nhạc tango có xuất thân giống như nhạc Enka. Đến thập niên 90, nhạc
Enka bị mất định nghĩa trong việc buôn bán và các loại nhạc hiện đại dần
trở nên nổi tiếng hơn. Nhạc Enka truyền thống không còn được giới trẻ
Nhật đánh giá cao, nhưng vẫn còn được nhiều người yêu thích thể loại
nhạc này ủng hộ. Thể loại nhạc Enka vẫn còn được lưu giữ tới ngày hôm
nay nhờ có những người nghệ sĩ, trải qua bao năm tháng vẫn giữ được nét
cổ kính của nó.
7 Nhà soạn nhạc Enka nổi tiếng ở Nhật Bản
Trích lời bài hát Jidai [58, tr.361]:
Lời Nhật
^ n ^ x ừ x p ề x < x m h
Ẵ t t
h b x ^ t m M x n f ^ x x b h
ừ x x x
X X f X ^ W h b ^ X ^ - 1
h X ừ ^ í X h h ^ x u t
Ề o t ^ o t
t c f r b ^ B t e < x < x X ừ x x
x & ò x & ò x m x n ^ ò
^ n m x x < ^ M x
Tạm dịch
Dù cho thời đại hôm nay thương đau
Lệ héo, tủi cay, ngậm cười
Thế nào cũng có ngày vui
Chắc rằng sẽ có nụ cười cùng ta
Vì vậy đừng quá lo ra
Hôm nay hãy để phong ba thổi ầm
Thời đại con tạo xoay vần
Niềm vui nỗi khổ cũng tuần hoàn
theo
Trong chiến tranh, âm nhạc được biết đến như một sức mạnh tinh thần cho
đồng đội "tiếng hát át tiếng bom". Hay trong những hoàn cảnh khác, âm nhạc
như muốn nói lên nỗi thống khổ của những con người đã trải qua trong cuộc
chiến tranh tàn khốc. Như vậy có thể nói âm nhạc là đại diện cho tiếng nói
của con người, đại diện cho tiếng lòng yêu nước của người dân trong thời đại
hỗn loạn của những cuộc đàn áp đòi lại sự hòa bình cho đất nước.
1.3. Giá trị nghệ thuật
1.3.1. Giai điệu
Âm nhạc là một loại hình đặc biệt gắn liền với đời sống của con
người. Âm nhạc truyền tải những tư tưởng thẩm mỹ của dân tộc. Các
nhạc khí hay nói cách khác là giai điệu âm nhạc chính là những thang âm
phản ánh quan niệm thẩm mỹ của dân tộc. Âm nhạc gắn liền với đời sống
loài người, hiện diện suốt cả một vòng xoay quanh cuộc sống của con
người và những bài hát đồng dao khắc vào tâm can bài học đầu đời về kĩ
năng sống, từ tiếng hát giao duyên tuổi yêu đương và những bài ca hòa
theo nhịp điệu lao động, cho đến những khúc hát bản đàn gắn với sinh
hoạt tập thể, tế lễ, thờ cúng, ma chay...
Âm nhạc làm giàu đời sống tinh thần, cân bằng trạng thái tâm sinh
lý, đưa con người ta lại gần với nhau hơn trong sự đồng cảm và hướng
thiện. Âm nhạc, nhất là tác phẩm không lời, là ngôn ngữ đối thoại toàn
cầu, không cần phiên dịch. Âm nhạc khiến con người thấy yêu đời, khích
lệ con người vượt lên những cản trở tưởng như không thể vượt qua, giúp
chế ngự nỗi sợ hãi, sự cô đơn để vươn tới điều kì diệu. Sức mạnh kì diệu
của âm nhạc được tôn vinh trong rất nhiều truyền thuyết.
Ở một đất nước chiến tranh liên miên như Việt Nam hay Nhật Bản
hay các nước khác, con người có sức mạnh tinh thần, sức mạnh đồng đội
để từ đó âm nhạc được vận dụng tối đa và viết lên những bản anh hùng ca.
Chiến binh cần tiếng trống, tiếng kèn xung trận. Người tù cách mạng cần
tiếng hát lạc quan. Trong chiến tranh vệ quốc, khi miền Bắc cất cao
“tiếng hát át tiếng bom”, thì miền Nam tha thiết “Tôi hát cho đồng bào tôi
nghe”. Biết bao kỉ niệm chiến trường khắc sâu trong đời những người làm
nhạc. Những tác phẩm âm nhạc có giá trị nghệ thuật và nhân văn là yếu tố
quyết định làm nên môi trường âm nhạc tốt, và một môi trường âm nhạc
tốt chính là điều kiện tốt để nuôi dưỡng nhân cách. Âm nhạc khơi gợi và
phát triển trí tưởng tượng đầy sáng tạo vốn có ở trẻ thơ. Âm nhạc rèn dũa
tính kiên trì và tinh thần kỷ luật. Một nguyên tắc bắt buộc tuân thủ khi
hòa tấu là mọi thành viên đều phải biết nghe nhau, thấu hiểu và tôn trọng
nhau. Âm nhạc còn truyền tải những bài học lịch sử, nhất là những tác
phẩm mang tính sử thi. Tác phẩm âm nhạc là phương tiện hữu ích để giáo
dục những tâm hồn trẻ, giáo dục tinh thần công dân, tình yêu cộng đồng
và niềm tự hào dân tộc. Tác phẩm âm nhạc mang đậm tính dân tộc là cầu
nối giữa quá khứ với hiện tại, là lời khẳng định bản sắc của một quốc gia
trước thế giới. Bản sắc truyền thống của cộng đồng nhỏ làm nên sự sống
còn của nền văn hóa cộng đồng đó trước các cộng đồng lớn hơn. Mỗi dân
tộc thiểu số, mỗi địa phương góp thêm tính đặc thù riêng trong sự đa dạng
của văn hóa một quốc gia. Mỗi quốc gia nhỏ lại góp thêm nét độc đáo
trong sự đa sắc của văn hóa nhân loại.
Sự cảm nhận giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm âm
nhạc, trước hết phải thông qua giá trị nghệ thuật. Nếu ở văn học, giá trị
nghệ thuật được xây dựng bởi trực quan sinh động và điển hình thì trong
âm nhạc, giá trị nghệ thuật được xây dựng bằng cảm quan sinh động và
trừu tượng. Với đặc điểm đó, người nhạc sĩ phải nắm bắt được đặc trưng
biểu hiện của âm nhạc. Trong đó, khả năng tưởng tượng của nhạc sĩ phải
thật sự phong phú, cùng với sự so sánh tương đối giữa hiện thực khách
quan với hình tượng mà nhạc sĩ muốn tạo dựng trong tác phẩm âm nhạc
của mình. Sử dụng đặc thù giai điệu cũng là một cơ sở đảm bảo để nhạc
sĩ xây dựng thành công hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm âm nhạc
của mình. Để giá trị nghệ thuật trong tác phẩm âm nhạc được nổi bật, có
sức truyền cảm và thuyết phục mạnh mẽ, thì nghệ thuật phối khí cũng
đóng một vai trò đáng kể. Chúng ta từng biết, những tiếng vang và âm sắc
của các lọai nhạc cụ trong dàn nhạc, có khả năng tạo được những hiệu
quả đa dạng, phong phú như: một cuộc chiến dữ dội, một khung cảnh
thiên nhiên sinh động, hoặc một nội tâm day dứt, một niềm vui sướng hân
hoan... Và điều lớn lao hơn cả của nghệ thuật phối khí đối với việc xây
dựng hình tương nghệ thuật trong tác phẩm âm nhạc, là cùng lúc nói lên
được những nội dung mang tính tổng hợp, tính quân chúng sâu sắc, vĩ đại.
Nếu đặc thù giai điệu vẽ nên một hình tượng nghệ thuật nhất định, thì
khối âm thanh khổng lồ của dàn nhạc thông qua nghệ thuật phối khí sẽ
diễn đạt được một nhóm hình tượng nghệ thuật hoặc nhiều hình tượng
nghệ thuật khác nhau. Bởi vậy, tác phẩm âm nhạc phối cho dàn nhạc có
khả năng tạo nên một bức tranh toàn cảnh của hiện thực sinh động, đồng
thời, làm nổi bật được những nội dung tư tưởng mang ý nghĩa thời đại.
Để hiểu được hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm âm nhạc, trước hết
cần phải nhận thức rằng, bản thân nghệ thuật âm nhạc với tính trừu tượng
và tính khái quát của nó không phải bao giờ cũng có thể xây dựng được
một chân dung mang tính cụ thể, sống động. Đặc trưng cơ bản của nghệ
thụât âm nhạc là đưa đến cho người nghe một cảm xúc chung nhất về
không khí và bối cảnh của hiện thực.
Những bản nhạc có lời lại có điều kiện thuận lợi hơn để người nghe
cảm nhận được nội dung mà nhạc sĩ muốn phản ánh. Ở đây có sự kết hợp
tinh tế giữa nhạc và lời. Có thể nói, trong tất cả thể loại âm nhạc, ca khúc
tỏ ra có một lợi thế mà nhạc sĩ dùng để phản ánh trực tiếp và nhanh nhạy
hiện thực sinh động của cuộc sống. Nghệ thụât âm nhạc ngày một phát
triển và sẽ đạt tới đỉnh cao. Trong tác phẩm âm nhạc của mình, ngày nay
các nhạc sĩ đã sáng tạo thêm nhiều phương pháp biểu biện mới mẻ. Việc
xây dựng hình tượng nghệ thuật không chỉ dừng lại ở những cách thức
trên, nó rất phức tạp và đa dạng. Tuy nhiên, dù âm nhạc phát triển đến
mức độ nào đi nữa thì cái cốt lõi nhất của sự biểu hiện tác phẩm vẫn là
giá trị nghệ thuật. Không xây dựng được giá trị nghệ thuật, tác phẩm âm
nhạc rơi vào tính giải trí đơn thuần, nhiều khi không mang lại chức năng
giáo dục tình cảm và thẩm mỹ.
Nhật Bản là một trong những quốc gia phát triển và tiến bộ nhất của
thế giới ngày nay. Bên cạnh những yếu tố văn hóa truyền thống của dân
tộc, âm nhạc đã luôn luôn là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến
nền văn hóa đa dạng của đất nước này. Âm nhạc của Nhật Bản có nhiều
đặc tính đa dạng của riêng đất nước đó. Âm nhạc Nhật Bản được làm
giàu với các thể loại thú vị khác nhau. Có hai loại âm nhạc truyền thống
Nhật Bản: âm nhạc dân gian và âm nhạc nghệ thuật. Các giai đoạn khác
nhau trong lịch sử Nhật Bản đã cho ra đời các phong cách âm nhạc cũng
như các giai điệu âm nhạc khác nhau.
1.3.2. Nghệ thuật biểu diễn
Về nghệ thuật biểu diễn trong âm nhạc truyền thống, âm nhạc của
sân khấu truyền thống theo nguyên tắc co giãn, linh hoạt nhằm phục vụ
cho hát và diễn xuất của diễn viên để tạo ra sức hấp dẫn khán giả. Khi
diễn viên cần diễn tả tâm trạng đau khổ của nhân vật, cần hát dài ra hoặc
ngắn lại, âm nhạc cũng phải co giãn theo diễn viên trên sân khấu. Trong
sân khấu truyền thống, có hai loại ngôn ngữ: văn học và động tác múa,
ngôn ngữ văn học tức là nói và hát, còn động tác múa là ngôn ngữ diễn tả
tâm trạng, tính cách nhân vật. Do đó, âm nhạc cũng phải diễn tả thật khớp
với hai loại ngôn ngữ trên. Âm nhạc càng hay thì diễn xuất của diễn viên
càng gây xúc động cho khán giả. Muốn có sự tinh tế ấy, nhạc công ngoài
kĩ năng điêu luyện về kĩ thuật chơi nhạc cụ, còn phải thông thạo bài bản,
và còn phải thuộc cả từng vai diễn trên sân khấu. Chỉ khi tập trung vào
bản nhạc và đôi tay điều khiển của người chỉ huy thì nhạc công của sân
khấu truyền thống phải luôn luôn hướng về sàn diễn, luôn luôn giao lưu
với người diễn viên, đồng cảm với nhân vật để cùng tạo ra hiệu quả nghệ
thuật cao nhất. Điển hình như trong nghệ thuật nhạc kịch Nou nổi tiếng
của Nhật Bản, loại hình nhạc kịch nghệ thuật cổ xưa nhất của Nhật Bản
với lịch sử hàng trăm năm. Một yếu tố quan trọng trong kịch Nou là nhịp
điệu. Nhịp điệu trong âm nhạc kịch Nou giống như tiếng mưa rơi từ mái
hiên xuống. Trống lớn diễn tấu theo nhịp 7 âm tiết, 5 âm tiết là một phần
diễn tấu của trống nhỏ, nhưng nếu diễn tấu nối tiếp nhau, thì đôi khi có
thể đảo ngược vai trò. Các động tác trong kịch Nou mang tính cách điệu
hoá và tính gợi tả cao với mục đích và ý nghĩa nhất định. Động tác trong
Nou có khi mạnh mẽ, đầy sinh lực khi lại khoan thai, sự kìm nén. Người
diễn viên, ca sĩ hay nhạc công trong khi biểu diễn đều phải theo sát cảm
xúc của nhau để thể hoàn thành phần biểu diễn một cách hoàn hảo. Hay
thể loại Chèo của Việt Nam, một loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền
sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu
tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện
tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là Nou thì đại
diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là Chèo. Sân
Tất cả các loại dàn nhạc, các nhạc khí, bài bản âm nhạc, ca
chương... đều do những nhạc công, ca công, vũ công tài ba nhất thực
hiện. Âm nhạc đã trở thành một cặp song sinh với các đại lễ, trở thành
tiếng nói có khả năng giao cảm với trời đất, thần linh, tổ tiên. Đó cũng
chính là những giá trị vô giá và trường tồn của dân tộc. Nhã nhạc Huế - di
sản văn hoá âm nhạc “cổ điển bác học Việt Nam” ẩn chứa những nguyên
lý cấu trúc, những tư tưởng văn hoá triết lý phương Đông.
2.3. Tính chất giao lưu và khu vực
2.3.1. Quá trình hình thành và phát triển của Koto và đàn tranh
Cùng với những dàn nhạc lớn của Nhã nhạc cung đình Huế và
Gagaku là sự góp mặt của các nhạc khí góp phần tạo nên những âm thanh
tinh tế mang đậm nét truyền thống của nước. Nổi bật nhất là cây đàn
tranh của Việt Nam và cây đàn Koto của Nhật Bản. Hai loại đàn này đều
mang hình dạng tương đồng nhau nhưng âm sắc của chúng mang hai vẻ
khác nhau thể hiện linh hồn của hai đất nước riêng biệt.
Hàng ngàn năm trước, cùng với việc mở rộng lãnh thổ, việc thông
thương buôn bán hàng hóa giữa các nước Châu Á ngày càng phát triển.
Theo chân các đoàn thương nhân mang hàng hóa đi trao đổi với các nước
khác, người Trung Quốc cũng đem văn hóa của mình đến với các dân tộc
trên con đường thương mại của mình. Trong số đó, những nhạc khí của
người Trung Quốc sáng tạo hay nhạc khí được vay mượn từ các nước
khác đều được các xứ sở mới ưa chuộng như: đàn nhị, đàn tỳ bà... Trong
quá trình giao lưu văn hóa, các dân tộc đã đón nhận và biến đổi chúng
thành nhạc khí mang sắc thái của dân tộc mình, tạo cho chúng những
thang âm đặc thù riêng biệt. Có thể kể đến như đàn tranh của Việt Nam
và đàn Koto của Nhật Bản đều có nguồn gốc từ đàn Zheng của Trung
Quốc. Các loại đàn này là các loại nhạc khí phổ biến góp mặt trong nghệ
thuật Nhã nhạc cung đình và vẫn còn tồn tại đến nay.
Tương tự như đàn tranh nhưng âm sắc của đàn Koto có đặc trưng
riêng biệt khác hẳn so với đàn tranh. Nguồn gốc đàn tranh Việt Nam là
đàn tranh giống như đàn Zheng từ Trung Quốc truyền sang nước Việt, có
thể từ đời Trần hay trước nữa, dùng trong dân dã dưới dạng đàn 9 dây, 15
dây, 16 dây và từ xưa đến giờ thay đổi kích thước, số dây, từ dây tơ sang
dây cước đến dây thép. Nhưng qua khoảng 7 thế kỷ, người Việt dùng đàn
và tạo cho đàn một phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay
nhấn nhá, trong thang âm điệu thức, trong bài bản. Đàn tranh đã thành
nhạc cụ hoàn toàn mang tính dân tộc Việt Nam vì đã được người Việt ưa
dùng, truyền từ đời này đến đời kia hàng trăm năm, phù hợp với quan
niệm thẩm mỹ của người Việt và thể hiện rất rõ ngôn ngữ âm nhạc Việt
Nam.
Đàn tranh (còn được gọi là đàn thập lục) có thùng đàn dài 100 đến
110cm. Mặt âm bảng làm bằng cây ngô đồng hình cầu vồng. Thành đàn
làm bằng gỗ trắc và đáy đàn làm bằng một miếng ván có khoét ba cái lỗ:
lỗ hình bán cầu ở phía dưới đầu đàn để buộc dây đàn; lỗ hình chữ nhật ở
giữa đáy đàn dùng để cầm đàn, và lỗ nhỏ cuối đàn dùng để treo đàn. Ở
phía đầu cây đàn có một sợi dây bằng đồng uốn cong gọi là cầu đàn dùng
làm điểm tựa cho 16 dây đàn bằng thép. Các con nhạn đỡ dây đàn có thể
di chuyển tùy theo cách lên dây đàn theo điệu Bắc, Nam, Xuân, Ai, Đảo,
Oán...
Đàn Koto là nhạc cụ quan trọng trong âm nhạc truyền thống Nhật
Bản, thường làm bằng cây pawlonia8, mười ba dây tơ căng dài trên mặt
âm bảng, đỡ dây đàn là các con nhạn hình chữ A có thể di chuyển được.
Người chơi đàn đeo móng gảy đàn vào ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn
tay phải để gảy đàn và dùng ba ngón tay trỏ, giữa và áp út của bàn tay trái
mang móng đeo để ấn hoặc khảy dây. Âm điệu từ tiếng đàn Koto trầm,
cứng, mạnh mẽ và cô độc hơn so với đàn tranh Việt Nam và Trung Quốc.
Loại đàn này có thể đàn độc tấu, tam tấu với đàn Shamisen9, ống tiêu
Shakuhachi10, đàn trong dàn nhạc cổ đ iển .
Koto là đàn tranh của Nhật, tương tự như đàn tranh của Việt Nam hay
Trung Quốc. Nhưng đàn Koto thường chỉ có 13 dây, thay vì 16 dây như
đàn tranh Việt (thập lục huyền cầm) hay đôi khi lên đến 36 dây ở Trung
quốc (tam thập lục huyền cầm). Koto có chiều dài khoảng 160cm và
khoảng 20 cm chiều ngang. Người chơi đàn đeo móng đàn vào ba ngón tay
cái, trỏ và giữa của bàn tay phải để gảy đàn. Để tạo hiệu ứng khác nhau, tay
8 Cây pawlonia (cây hông) là giống cây gỗ lớn lá rộng, sinh trưởng nhanh, tán lá thưa, lá dễ phân giải có tác dụng cải tạo đất tốt, rễ phân bố sâu 50 - 80cm dưới mặt đất nên ít cạnh tranh với các loài cây ngắn ngày, ít cong vênh, có phân bố tự nhiên ở Trung Quốc, Lào, Việt Nam, là loại cây sống lâu năm và cũng được sử dụng trong mục đích trồng rừng phòng hộ đầu nguồn - bảo vệ môi trường.9 Shamisen là loại đàn truyền thống của Nhật Bản, đàn chỉ có 3 dây, đi kèm với miếng khảy đàn gọi là bachi. Khi chơi đàn, người chơi dùng bachi đánh lên thân đàn giống như đàn ghi ta
10 Shakuhachi là loại sáo của Nhật được làm bằng tre, dài gần 55 cm được sử dụng bởi các nhà sư Hội Phật giáo.
Ban đầu đàn chỉ có 5 dây, sau tăng dần lên thành 12 dây, và bây giờ là
13 dây. Đàn Koto được du nhập vào Nhật Bản vào thời kỳ Nara (710-794).
Ban đầu, đàn Koto được chơi cùng các loại nhạc cụ dây và nhạc cụ gió
khác. Nhưng sau đó đàn được độc tấu hoặc chơi cùng với hai nhạc cụ là
Shamisen và Shakuhachi.
Vào thời cổ đại, Cây đàn Koto nguyên bản vốn có từ thời cổ ở Nhật
gọi là Wagon (fp # - Hòa cầm) hoặc gồm có 6 dây và được tìm thấy trong
những di tích khai quật từ thời Yayoi đến thời Nara, hiện tại được sử dụng
trong biểu diễn Nhã nhạc. Đến thời Heian thì nó được dùng như một nhạc
cụ biểu diễn phụ trợ trong một loại nhạc khúc Nhã nhạc gọi là Saibara (ffi
, ^ ^ ) (loại ca khúc biểu diễn có kèm nhạc cụ thổi và nhạc cụ dây, kết hợp
giữa điệu dân ca truyền thống ở địa phương với Nhã nhạc, thứ âm nhạc du
nhập từ Trung Hoa đại lục sang). Tuy nhiên, trong thời hiện tại thì Wagon
không được sử dụng trong Saibara. Wagon còn là nhạc khí được sử dụng
trong nghi lễ lên đồng của các cô đồng ở núi Osore11, nơi được coi là vẫn
còn truyền giữ lại nguyên hình thức âm nhạc cổ đại đến tận ngày nay.
Ngoài ra, người Ainu (dân tộc thiểu số sống ở quần đảo Nhật Bản) còn có
loại nhạc cụ gọi là Tonkori có cấu tạo giống với Wagon nhưng chỉ có 5 dây.
Cây đàn tranh được truyền từ Trung Hoa đại lục sang Nhật Bản kể từ thời
Nara có khởi nguyên từ nhân vật Mông Điềm thời nhà Tần (thế kỷ thứ III
Trước Công Nguyên), nhưng đây chỉ là truyền thuyết và không có cơ sở về
mặt lịch sử.
11 Là một ngọn núi lửa còn hoạt động tại tỉnh Aomori , nơi địa hình khá cằn cỗi và mặt đất bị cháy đen. Osore nằm bên bờ một dòng nước độc, có mùi lưu huỳnh và rất lạnh vào mùa đông. Dù vậy, nó vẫn là một điểm du lịch nổi tiếng, theo truyền thuyết Nhật Bản Osore được coi như là cửa vào địa ngục
Đàn tranh có lẽ là cây đàn được nhiều người Việt biết tới nhiều nhất
hiện nay. Đàn tranh xuất xứ từ bên Trung Quốc. Chữ “Tranh” có nghĩa là
“tranh luận”. Đàn tranh là nhạc khí phổ biến ở Việt Nam. Đàn tranh xuất
hiện vào thời kỳ nào, chưa ai có thể xác định rõ nhưng hầu hết các nhà
nghiên cứu đều khẳng định đàn tranh có xuất xứ từ đàn Zheng của Trung
Quốc. Dưới đời nhà Trần, vào thế kỉ VIII, đàn Tranh được sử dụng trong
dàn Đại nhạc trong Cung đình và dàn Tiểu nhạc dùng trong dân gian.
“Có giả thuyết cho rằng thời xưa bên xứ Tàu dưới thời nhà
Tần, có một gia đình nhạc sĩ nổi tiếng về đàn tranh trong một vùng
đất bên Tàu. Ông thầy có hai người con trai học đàn tranh. Lúc đó
đàn tranh có 25 dây. Một hôm hai cậu con trai tranh nhau cây tranh
duy nhứt trong nhà để dành đàn. Người cha bị quấy rầy bởi cuộc
tranh cãi, tức giận mới mang cây đàn ra chẻ làm đôi, làm hai cây
đàn tranh, một cây 13 dây (hiện còn thấy ở miền Bắc xứ Trung quốc,
và cây đàn tranh Koto của Nhật) và một cây 12 dây (hiện còn được
thông dụng ở Đại Hàn và Mông Cổ). Một giả thuyết khác cho rằng
ông Mông Điềm, một thượng quan nhà Tần, sáng chế ra đàn tranh
bằng cách chặt cây tranh ra làm hai làm thành hai cây tranh nhỏ 12
và 13 dây. ”.[77]
“ Vào nửa sau TK XIII, lúc bấy giờ âm nhạc và sân khấu rất
phát triển. Ban đầu âm nhạc Việt Nam chịu ảnh hưởng ít nhiều
của nhạc Chăm. Vua Lý Thánh Tông đã cho dịch các khúc nhạc
Chăm và cho các nhạc công hát. Sử liệu cũ còn ghi lại các ca khúc
Nam thiên nhạc, Ngọc lầu xuân, Mộng tiên du ... thời đó rất được
ưa chuộng. Theo Sứ giao tập của Trần Dương Trung đã mô tả lễ
yến tiệc ở điện Tập Hiền: ”Tiếng hát, tiếng đàn hòa lẫn nhau... ”.
Nhạc cụ gồm có trống cơm, tiêu, nạo bạt, sáo, đàn cầm, đàn tranh,
đàn 7 dây, đàn 2 dây, đàn bầu...” [25, tr.12-23]
"Từ năm Quang Hưng (1578) trở về sau, bộ đồng văn, bộ
nhã nhạc có dùng một thứ trống ngưỡng thiên lớn và kèn bằng
trúc nạm vàng, cùng cái long sinh, long phách, và các đàn tam,
đàn bốn dây, hoặc đàn 15 dây, ống sáo, trống mảnh một mặt sơn
vàng tang mỏng, cái phách xâu tiền".[22, tr.58].
Như vậy có thể nói tuy không xác định rõ đàn tranh của Việt Nam
xuất hiện từ khi nào, chưa ai có thể xác định rõ, nhưng với giả thuyết như
trên thì có thể hiểu đàn tranh có mặt ở thời nhà Trần từ thế kỉ XIII. Đàn
tranh của Việt Nam và đàn Koto của Nhật Bản đều bắt nguồn từ đàn
Zheng của Trung Quốc.
2.3.2. Hình thức cấu tạo và kỹ thuật chơi đàn
a. Hình thức cấu tạo
Tuy các loại đàn tranh đều xuất phát từ mẫu đàn Zheng của Trung
Quốc. Song, Koto của Nhật Bản và đàn tranh của Việt Nam vẫn mang
những nét riêng biệt và độc đáo của mỗi dân tộc. Ở đây chỉ nêu những
cấu tạo giống nhau và tiêu biểu của hai loại đàn này.
Chiều dài của loại đàn Koto cao cấp được gọi là Hongen của phái
Yamada khoảng 190 cm, còn của phái Ikuta khoảng 182 cm, rộng 24 cm.
Ngoài ra còn có nhiều loại khác có chiều dài lớn, nhỏ hơn hai loại này,
nhưng ngoại trừ loại đàn Koto dùng để dạy ở các trường học thì phần lớn
là kiểu đàn của phái Yamada. Cây đàn Koto được chế tạo bằng cách
khoét từ một loại gỗ để làm thành mặt trên của đàn và hai mặt bên, riêng
mặt dưới được làm từ loại gỗ khác, sau đó ráp vào. Cách làm này được
cho là xuất hiện từ thời Heian, sau đó được cải tiến thành loại đàn
Yamada như hiện nay. Phần thân đàn làm từ gỗ cây Kiri12. Ngày xưa thân
đàn được trang trí nhiều tranh khảm như một thứ thể hiện địa vị của tầng
lớp giàu có, nhưng đến thời Yamada Kengyou (1772-1781) thì việc trang
sức được hạn chế đến mức tối thiểu, tập trung vào âm sắc và dần dần
càng có nhiều cây đàn đơn giản ra đời. Tuy nhiên chất lượng âm sắc của
cây đàn có quan hệ mật thiết đến vẻ đẹp của vân gỗ làm ra cây đàn.
Người xưa xem cây đàn Koto như một con rồng, nên các bộ phận của đàn
được đặt tên là Ryukaku (long giác), Ryugan (long nhãn), Ryushu (long
thủ), Ryubi (long vĩ)... Đàn Koto bình thường có 13 dây. Về độ lớn thì
dây đàn có nhiều kích cỡ, trước đây thì loại dây nhuộm vàng là phổ biến
nhưng hiện nay được thay đổi thành dây màu trắng. Dây đàn Koto bằng
tơ nên khi tạo ra âm thanh có tiếng vang rất trầm hùng.
Hình 2.11. Long vĩ và dây đàn Koto [88]
12 Kiri là một giống khác của cây paulownia
Đối với Đàn tranh của Việt Nam có hình thù giống như đàn Zheng ở
vùng Quảng Châu của Trung Quốc. Đàn Tranh có kích thước nhỏ nhất
trong các cây loại đàn tranh ở Á châu. Thùng đàn dài từ 100cm. Một đầu
rộng khoảng 17 cm. Một đầu nhỏ rộng khoảng 12cm. Mặt âm bảng làm
bằng cây ngô đồng hình cầu vồng. Thành đàn làm bằng gỗ trắc. Đáy đàn
làm bằng một miếng ván có khoét ba lỗ: lỗ hình bán cầu ở phía dưới đầu
đàn để có chỗ cột dây đàn cho đừng bị tuột dây, lỗ thứ nhì hình chữ nhật ở
giữa đáy đàn dùng để cho người đàn có nơi để xách đàn , lỗ thứ ba tròn và
nhỏ dùng để treo đàn trên vách tường sau khi đàn xong. Đầu đàn có một sợi
dây bằng đồng uốn cong gọi là “cầu đàn” dùng làm điểm tựa cho 16 dây
đàn bằng thép. Mỗi sợi dây căng từ cầu đàn tới trục đều chạy trên một con
nhạn. Nhạn có thể di chuyển tùy theo cách lên dây theo điệu Bắc, Nam,
Xuân, Ai, Đảo, Oán,... Dây đàn trước đây làm bằng sợi tơ. Tuy nhiên,
chất lượng sợi trước đây không được tốt nên thay bằng dây thép hay inox
nên có tiếng thanh và cao, độ nhấn sâu.
Hình 2.12. Cấu tạo của đàn tranh Việt Nam [89]
b. Kỹ thuật chơi đàn
Nhờ có hình dáng và cấu tạo gần giống nhau nên một số kỹ thuật
biểu diễn của Koto và đàn tranh có nhiều điểm tương đồng.
Bàn tay phải của người nghệ nhân chơi đàn dùng để khảy dây phát
ra tiếng đàn. Tay khảy đàn Koto được gọi là móng đeo vào 3 ngón của bàn
tay phải là ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa ở phía mặt bụng của các ngón.
Loại móng dùng trong Gagaku thì dạng tròn, nhỏ. Móng gảy đàn của phái
Ikuta gọi là Kakuzume có phần đầu rộng, hình tứ giác còn phái Yamada
dùng loại tròn, đầu nhọn gọi là Maruzume. Hình dạng khác nhau của tay
khảy đàn cũng mang lại sự khác biệt tinh tế trong âm sắc của đàn. Có một
số cách khảy đàn như: khảy 1 ngón, khảy 2 ngón, 3 ngón và 4 ngón theo
chiều xuôi xuống. Ngoài ra, kỹ thuật Á (kỹ thuật vuốt dây từ trên cao
xuống thấp như tiếng nước chảy) cũng là một trong những kỹ thuật đặc
trưng của cây đàn này. Điểm khác biệt bề ngoài rõ nét nhất chính là hình
dạng của tay khảy đàn và tư thế đàn. Phái Ikuta dùng tay khảy đàn gọi là có
hình chữ nhật, phần đầu góc cạnh và để sử dụng hiệu quả loại tay khảy này
thì người diễn tấu phải ngồi chéo qua trái một góc 45 độ so với đàn. Phái
Yamada thì dùng tay khảy có phần đầu hình tròn và hơi nhọn, ngồi chính
diện so với đàn.
Hình 2.13. Tay khảy đàn phái Ikuta (trái) và phái Yamada (phải) [65]
Về tiết mục diễn tấu thì cả hai không khác nhau nhiều lắm vì đều có
nhiều mục diễn tấu, nhưng Yamada thì thiên về các nhạc khúc đi kèm lời
hát, còn Ikuta thì phát triển theo hướng các nhạc khúc độc tấu.
Âm vực của đàn tranh cổ truyền là ba bát độ. Hiện nay có đàn tranh
với 25 dây gồm có 4 bát độ với quãng 6 trưởng. Theo truyền thống miền
Trung và Bắc, nghệ nhân chơi đàn tranh sử dụng ngón tay cái, trỏ và giữa
của bàn tay phải hoặc với móng tay thật để khảy nhưng âm thanh phát ra
không được trong, hoặc với móng gảy đeo vào đầu ngón tay. Ở miền Nam
chỉ dùng hai ngón tay: cái và trỏ. Đánh chồng âm, hợp âm thường được
thấy trong nhạc đàn tranh, có nghĩa là hai âm thanh cùng đánh một lúc tạo
thành hai âm cách nhau một quãng 8, gọi là song thanh. Đánh nhiều dây là
đánh cùng một lúc 3 hay 4 dây tạo thành một hợp âm. Kỹ thuật này mới
được áp dụng sau này theo chiều hướng tây phương. Một số thủ pháp như
ngón láy rền, ngón vuốt,... làm tăng thêm sự phong phú của kỹ thuật đàn
tranh Việt Nam. Thủ pháp của bàn tay trái góp phần để tạo rõ hiệu quả âm
thanh qua các ngón rung, ngón nhấn.
Ở đàn Koto và đàn tranh, phần tay trái sử dụng kỹ thuật rung, nhấn
là chủ yếu. Tuy nhiên, cách rung của Koto chú trọng việc làm ngân vang
dây đàn, còn cách rung của đàn tranh chủ yếu là tạo sự khác biệt giữa các
loại hơi nhạc. Thêm vào đó, trong ngôn ngữ tiếng Việt có 7 dấu, cao thấp
khác nhau nên cấu tạo của dây đàn phải có độ uyển chuyển, co giãn cao
để bắt chước dấu giọng của người Việt. Ngôn ngữ của Nhật Bản không
có dấu cao thấp nên dây đàn tương đối cố định, ít di chuyển, độ nhấn của
bàn tay trái không cần nhiều. Độ nhấn của Koto thường là quãng 2, còn
đàn tranh có thể lên được quãng 4. Ngoài ra đàn tranh có nhiều kỹ thuật
nhấn đặc biệt liên tiếp trên dây mô phỏng giọng nói của tiếng nói người
Việt Nam.
Koto và đàn tranh là các loại nhạc khí có cùng họ với nhau, có cùng
nguồn gốc. Tuy hình dáng, cấu trúc và các thủ pháp kỹ thuật tương đối
giống nhau nhưng do sự khác biệt về mặt thẩm mỹ và ngôn ngữ của từng
dân tộc mà những nhạc khí này mang những âm sắc khác nhau với dấu ấn
riêng của dân tộc mình. Với hình dáng và âm thanh độc đáo, thủ pháp
phong phú diễn tả được tâm hồn và tình cảm của từng dân tộc. Tuy âm
sắc của hai loại đàn này khác nhau nhưng nó đều toát lên những làn điệu
dân ca thân thuộc đối với người dân Việt Nam và Nhật Bản.
Như vậy, âm nhạc là phương tiện kết nối các nền văn hóa với nhau.
Với niềm tin “âm nhạc không biên giới nhưng có cội nguồn’", ta có thể
thấy được sự đồng điệu qua tính chất dân gian, cổ điển và tính giao lưu
trong âm nhạc truyền thống của hai nước. Và ta còn thấy được sự tương
đồng, sự đa dạng, phong phú của các nhạc cụ dân gian như Koto và đàn
tranh. Chia sẻ âm nhạc của hai nước trên cùng một làn điệu sẽ khiến cho
người nghe cảm nhận rõ hơn về âm nhạc của mỗi nước. Khi cảm nhận
được những sắc thái, cung bậc mà âm nhạc truyền thống mang đến, con
người mới có thể cảm nhận hết những giá trị sâu sắc mà âm nhạc truyền
thống mang lại, không chỉ riêng giới trẻ Việt Nam mà còn cả giới trẻ
Nhật Bản.
CHƯƠNG 3: NHỮNG KHÁC BIỆT TRONG ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM - NHẬT BẢN
3.1. Những khác biệt về lịch sử hình thành của âm nhạc truyền thống
Việt Nam - Nhật Bản
“Người ta cho rằng lịch sử truyền thống của âm nhạc Nhật
Bản bắt đầu từ thời Nara (710 - 794). Âm nhạc Nhật Bản có cội
nguồn trong nhạc của Phật giáo và những truyền thống âm nhạc
của đời Đường (618 - 907) bên Trung Quốc” [81]
Lịch sử của âm nhạc truyền thống ở Nhật Bản rất phong phú và đa
dạng. Nhiều loại hình âm nhạc đã được du nhập từ Trung Quốc hơn một ngàn
năm trước đây. Nhưng trong những năm qua, họ đã được định hình thành
phong cách rất đặc trưng của Nhật Bản. Từ đó hình thành nền âm nhạc truyền
thống mang đặc trưng hoàn toàn của bản sắc văn hóa đất nước Nhật Bản.
Đối với những bài dân ca nổi tiếng của Nhật ra đời thường gắn với một
sự kiện lịch sử trong văn hóa của người Nhật như câu chuyện về cậu bé
Momotaro sinh ra từ trong quả đào và được đôi vợ chồng già nuôi nấng. Bài
hát về cậu bé Momotaro được nhiều người từ trẻ đến già đều yêu thích.
Trích đoạn lời bài hát "Momotaro no uta ”[82]
Lời Nhật Tạm dịch
Momotarou, Momotarou
Những cái bánh bao hạt kê trên eo
bạn
Bạn có thể cho tôi một cái không
Tôi sẽ cho bạn một cái
Cuộc tìm kiếm chinh phục con quỷ
Nếu bạn theo tôi thì tôi sẽ cho bạn
Sự ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là chữ Hán, Phật giáo,
Nho giáo, Đạo giáo bắt đầu vào thế kỷ thứ IV sau công nguyên đã làm thay
đổi to lớn diện mạo văn hoá Nhật Bản từ lối sống trong triều đình Thiên
hoàng đến sinh hoạt ngoài dân chúng. Cùng với thời gian các giá trị văn hoá
này đã dần dần biến đổi, kết hợp với các giá trị văn hoá bản địa, nhất là với
Thần đạo để tồn tại, phát triển và tạo nên những nét đặc trưng riêng của văn
hoá Nhật Bản. Phật giáo được coi là tôn giáo chính thức của cung đình vào
thế kỷ VI và những âm thanh cũng như lý thuyết âm nhạc của Phật giáo đã có
ảnh hưởng lớn ở Nhật Bản. Các triều đình hoặc các đền chùa của Trung Quốc
và Triều Tiên là cội nguồn và hình mẫu cho hầu hết các loại nhạc cung đình
và đền chùa của Nhật, nhưng do sự tác động quốc tế mạnh mẽ của lục địa
châu Á từ thế kỷ VII cho đến thế kỷ X, có thể thấy cả những ảnh hưởng của
khu vực Nam và Đông Nam Á. Dường như Nhật Bản ở “cuối con đường”
trong quá trình truyền bá văn hóa này, vì nhiều truyền thống vẫn tồn tại ở
Nhật Bản trong thời gian dài sau khi đã biến mất ở chính nơi chúng sinh ra.
Các vũ điệu hoặc các bản nhạc dành cho nhạc khí của cung đình, gọi chung
là Gagaku, phản ánh những nguồn gốc đó khi được phân thành hai loại:
Togaku là âm nhạc có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc Ấn Độ, còn Komagaku
là âm nhạc từ Triều Tiên và Mãn Châu. Nói chung âm nhạc truyền thống của
Nhật Bản cũng giống như âm nhạc của các nước Đông Nam Á khác là thiên
về lời ca. Trừ những bản biến tấu dành cho đàn Koto, âm nhạc truyền thống
Nhật Bản luôn có phần lời ca hoặc tựa đề gợi lên hình ảnh nào đó. Âm nhạc
truyền thống Nhật Bản được phân loại dựa theo âm thanh của giọng hát và
các loại nhạc cụ. Nói cách khác, mỗi thể loại nhạc có âm sắc của giọng hát và
nhạc cụ đi kèm với nó. Tuy nhiên sự khác biệt về âm sắc giữa các thể loại rất
ít. Tuy nhiên những sự khác biệt nhỏ cực kỳ quan trọng, họ chắc chắn một