UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN ---------- Chủ biên: CN. Võ Thị Nguyên GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT (Dùng cho hệ Đại học) Vinh - 2014
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN
----------
Chủ biên: CN. Võ Thị Nguyên
GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC THỂ CHẤT (Dùng cho hệ Đại học)
Vinh - 2014
MỤC LỤC
PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT ................................... 1
CHƢƠNG 1: THỂ DỤC THỂ THAO VỚI ĐỜI SỐNG CON NGƢỜI .................. 1
I. Vị trí sức khỏe trong cuộc sống .......................................................................... 1
II. Lịch sử phát triển TDTT và phong trào Olympic ............................................... 4
III. Lợi ích của hoạt động TDTT .............................................................................. 8
CHƢƠNG 2: VỆ SINH TRONG HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO ........... 13
I. Khái niệm .......................................................................................................... 13
II. Mục đích, ý nghĩa .............................................................................................. 13
III. Một số yêu cầu vệ sinh trong hoạt động TDTT ................................................ 14
IV. Phƣơng pháp tự theo dõi sức khỏe .................................................................... 25
CHƢƠNG 3: CHẤN THƢƠNG VÀ BỆNH THƢỜNG GẶP TRONG HOẠT
ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO .............................................................................. 29
I. Chấn thƣơng trong tập luyện TDTT ................................................................. 29
II. Một số chấn thƣơng thƣờng gặp trong TDTT .................................................. 36
III. Các bệnh thƣờng gặp trong tập luyện và thi đấu thể dục thể thao .................... 50
PHẦN II . LÝ LUẬN CÁC MÔN THỰC HÀNH TDTT ..................................... 54
CHƢƠNG 1. THỂ DỤC DỤNG CỤ ( XÀ KÉP, XÀ LỆCH ) ............................... 54
I. Khái niệm – Lịch sử phát triển. ......................................................................... 54
II. Đặc điểm ........................................................................................................... 56
III. Kỹ thuật bài liên hoàn xà kép ............................................................................ 57
IV . Kỹ thuật bài liên hoàn xà lệch......................................................................... 58
V. THỂ DỤC NHỊP ĐIỆU ...................................................................................... 59
CHƢƠNG 2. MÔN ĐIỀN KINH ............................................................................ 65
I. KHÁI NIỆM ...................................................................................................... 65
II. PHÂN LOẠI MÔN ĐIỀN KINH ..................................................................... 65
III. SƠ LƢỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÔN ĐIỀN KINH ................................ 67
NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT MỘT SỐ MÔN ĐIỀN KINH .................................... 71
I. NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT CHẠY .................................................................. 71
II. NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT CÁC MÔN NHẢY .............................................. 73
III. KỸ THUẬT CHẠY CỰ LY NGẮN ................................................................ 76
IV. ĐẶC ĐIỂM KỸ THUẬT CHẠY NGẮN TRÊN CÁC CỰ LY KHÁC NHAU
84
V. PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KỸ THUẬT CHẠY CỰ LY NGẮN ........... 85
VI. KỸ THUẬT NHẢY XA ................................................................................... 87
1. CHẠY ĐÀ ......................................................................................................... 87
2. GIẬM NHẢY .................................................................................................... 88
3. BAY TRÊN KHÔNG ....................................................................................... 89
4. RƠI XUỐNG CÁT ........................................................................................... 91
5. PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KỸ THUẬT NHẢY XA .............................. 92
VII. KỸ THUẬT NHẢY CAO .................................................................... 94
1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÔN NHẢY CAO .................................................. 94
2. Ý NGHĨA - TÁC DỤNG .................................................................................. 95
3. ĐẶC ĐIỂM MÔN NHẢY CAO ....................................................................... 95
4. PHÂN TÍCH KỸ THUẬT NHẢY CAO .......................................................... 95
5. CÁC KIỂU KỸ THUẬT NHẢY CAO ............................................................ 97
6. KỸ THUẬT NHẢY CAO KIỂU NẰM NGHIÊNG ........................................ 99
7. KỸ THUẬT NHẢY CAO KIỂU ÚP BỤNG ................................................... 99
8. KỸ THUẬT NHẢY CAO LƢNG QUA XÀ ................................................. 100
CHƢƠNG 3. BÓNG CHUYỀN ........................................................................... 102
I. NGUỒN GỐC ................................................................................................. 102
II. BẢN CHẤT MÔN BÓNG CHUYỀN ............................................................ 103
III. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA MÔN BÓNG CHUYỀN ........................ 103
IV. TÁC DỤNG CỦA MÔN BÓNG CHUYỀN .................................................. 104
V. CÁC KỸ THUẬT TRONG BÓNG CHUYỀN. ............................................. 105
1. TƢ THẾ ĐỨNG VÀ DI CHUYỂN TRONG BÓNG CHUYỀN ................... 105
2. CHUYỀN BÓNG ............................................................................................ 107
3. PHÁT BÓNG .................................................................................................. 113
4. ĐẬP BÓNG ................................................................................................... 115
5. CHẮN BÓNG ................................................................................................. 118
6. CHIẾN THUẬT THI ĐẤU BÓNG CHUYỀN .............................................. 119
LUẬT THI ĐẤU BÓNG CHUYỀN ..................................................................... 135
I. Sân thi đấu ....................................................................................................... 135
II. Lƣới và cột ...................................................................................................... 137
III. Bóng 139
IV. THỂ THỨC THI ĐẤU .................................................................................. 140
CHƢƠNG 4. CẦU LÔNG .................................................................................... 148
I. VỊ TRÍ – TÁC DỤNG MÔN CẦU LÔNG .................................................... 148
II. NGUỒN GỐC RA ĐỜI MÔN CẦU LÔNG .................................................. 148
III. MỘT SỐ YẾU TỐ KỸ THUẬT ĐÁNH CẦU ............................................... 151
IV. KỸ THUẬT CƠ BẢN CỦA CẦU LÔNG ..................................................... 153
V. CHIẾN THUẬT MÔN CẦU LÔNG .............................................................. 162
VI. LUẬT CẦU LÔNG ........................................................................................ 169
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 181
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục thể chất là môn học bắt buộc trong các trƣờng Đại học, cao đẳng,
Trung cấp chuyên nghiệp, để thực hiện mục tiêu đào tạo một cách toàn diện, góp
phần nâng cao chất lƣợng đào tạo của nhà trƣờng nói chung và Giáo dục thể chất
nói riêng. Qua nhiều năm giảng dạy môn học GDTC, trên cơ sở nghiên cứu, tham
khảo các tài liệu chuyên môn có liên quan cùng với tổng kết kinh nghiệm của bản
thân và các đồng nghiệp. Chúng tôi tiến hành biên soạn cuốn giáo trình Giáo dục
thể chất phục vụ dạy- học cho theo chƣơng trình GDTC dành cho sinh viên trƣờng
Đại học kinh tế Nghệ An.
Nội dung của cuốn giáo trình Giáo dục thể chất gồm 2 phần đƣợc bố trí sắp
xếp cân đối giữa lý luận và thực hành các môn thể thao. Với nội dung đã đƣợc
chọn lựa đảm bảo tính cơ bản, khoa học và thực tiễn. Hy vọng rằng cuốn giáo trình
này sẽ giúp ích cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của giáo viên,
sinh viên trong trƣờng nói chung về lĩnh vực giáo dục thể chất.
Trong quá trình biên soạn, mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhƣng chắc chắn
không thể tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và hình thức. Rất mong đƣợc sự
đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp, cùng bạn đọc để những lần xuất bản sau
cuốn giáo trình đƣợc hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Bộ môn giáo dục thể chất
Trƣờng Đại học kinh tế Nghệ An
1
PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT
CHƢƠNG 1: THỂ DỤC THỂ THAO VỚI ĐỜI SỐNG CON NGƢỜI
I. Vị trí sức khỏe trong cuộc sống
Sức khỏe là một trong những yếu tố cơ bản để học tập, lao động, bảo vệ tổ
quốc, nâng cao năng lực sản xuất, phát triển kinh tế phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nƣớc Việt Nam XHCN.
Với ý nghĩa và vai trò quan trọng của sức khỏe trong cuộc sống nên từ xa
xƣa loài ngƣời đã biết quý trọng, gìn giữ sức khỏe cũng nhƣ gìn giữ nguyên khí
của Quốc gia .
Phƣơng ngôn Pháp có câu: “Mất tiền bạc là mất ít, mất thời gian là mất
nhiều, mất sức khỏe là mất tất cả”.
Ngƣời Trung Quốc coi “ Sức khỏe là trung tâm” của cuộc đời, biết gìn giữ
sức khỏe, kết hợp với vệ sinh dinh dƣỡng, coi trọng rèn luyện thân thể, có nếp sống
khoa học, điều độ là bí quyết để thành đạt của mỗi con ngƣời, mỗi gia đình và của
cả cộng đồng.
Dân tộc Việt Nam ta với truyền thống với truyền thống hơn bốn ngàn năm
dựng nƣớc và giữ nƣớc bằng kinh nghiệm từ xa xƣa đã đúc rút đƣợc rằng: “ Sức
khỏe và trí tuệ là tài sản lớn nhất của con người”.
Những phƣơng ngôn, quan niệm về sức khỏe nhƣ: “ Không ốm, không đau
thì giàu mấy chốc”, hoặc “ Khi người ta khỏe mạnh thì có trăm ngàn điều ước.
Nhưng khi ốm đau người ta chỉ ước một điều – đó là có sức khỏe”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại bằng tầm nhìn của một lãnh tụ thiên tài ngay từ
khi mới giành đƣợc độc lập. Trong muôn vàn gian khó, đất nƣớc còn nghèo đói,
thù trong giặc ngoài. Ngày 27/03/1946, ngƣời đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể
dục, bằng lời lẽ giản dị, xúc tích và dễ hiểu Bác kêu gọi:
“ Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chống giặc ngoại xâm kiến thiết đất nước, gìn giữ dân chủ gây đời sống mới
việc gì cũng cần đến sức khỏe mới thành công. Mỗi sớm thức dậy, mọi người nên
giành ít phút để tập thể dục làm cho khí huyết lưu thông, tinh thần sảng khoái, như
vậy là sức khỏe. Việc này dễ thực hiện, già, trẻ, gái, trai, ai ai cũng làm được. Mỗi
2
người dân mạnh khỏe làm cho đất nước mạnh khỏe, mỗi người dân yếu ớt làm cho
cả nước yếu đi một phần. Dân cường thì nước thịnh, Tôi mong đồng bào ai cũng
cố gắng, siêng năng tập thể dục.
Tự tôi ngày nào cũng tập”.
Đến nay lời kêu gọi của Bác Hồ vẫn nguyên giá trị. Dƣới ánh sáng các nghị
quyết của Đảng, các văn bản của Nhà nƣớc về công tác TDTT qua từng thời kỳ của
đất nƣớc. Đặc biệt là luật TDTT đã đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xá hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI đã từng bƣớc đƣa
sự nghiệp TDTT ngang tầm thời đại.
Vậy câu hỏi đặt ra là: Sức khỏe là gì? Tại sao phải gìn giữ sức khỏe?
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): Sức khỏe “ Đó là một trạng thái hài hòa
về thể chất, tinh thần và xã hội. Mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hoặc
thương tật, cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi
trường”. Ngƣời có sức khỏe là ngƣời có khả năng giữ đƣợc lâu dài khả năng học
tập, lao động, công tác và có hiệu quả cao trong công việc.
Sức khỏe bao gồm sức khỏe từng ngƣời, sức khỏe gia đình, sức khỏe cộng
đồng và sức khỏe xã hội.
Tuy nhiên, không phải đến bây giờ con ngƣời mới quan tâm đến sức khỏe.
Từ nhiều năm trƣớc đây các nhà khoa học đã tìm ra câu trả lời. Bằng các nghiên
cứu về cơ thể con ngƣời, các quy luật cơ bản về sự sống họ đã thông nhất về một
số quan điểm:
- Cơ thể sống con ngƣời là một bộ máy tinh vi và phức tạp. Nó hoạt động
thống nhất với nhau và thống nhất với môi trƣờng bên ngoài để tồn tại và phát
triển.
- Bản chất của sự sống là quá trình trao đổi chất, quá trình đồng hóa và dị
hóa này có quy luật: Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Muốn tăng cƣờng sức khỏe, kéo dài
tuổi thọ ngƣời ta thƣờng dùng một số phƣơng pháp nhƣ: Dùng thuốc, Dùng các thủ
pháp y học, Chủ động rèn luyện cơ thể để phòng chống bệnh tật, thích nghi với sự
biến đổi của môi trƣờng…
1. Dùng thuốc
Khi cơ thể bị bệnh tật, ốm đau. Nếu dùng đúng thuốc, đúng theo sự chỉ dẫn
của y bác sỹ, bệnh tật có thể bị đẩy lùi. Hiện nay trên thị trƣờng có hàng ngàn loại
3
thuốc khác nhau với đủ các kiểu quảng cáo hấp dẫn. Nhƣng phải khẳng định rằng
đến nay không có loại thuốc nào là “Thần dƣợc” có thể giúp con ngƣời đƣợc “
Trƣờng sinh bất lão”. Dùng thuốc dù là đông y hay tây y cũng giống nhƣ con dao
hai lƣỡi. Đang khỏe mạnh mà dùng thuốc thì không có tác dụng, cơ thể sẽ đào thải
gây lãng phí. Dùng sai mục đích hoặc sự chỉ dẫn còn gây nên các tác dụng phụ
ngoài ý muốn. Do vậy không thể coi đây là phƣơng án chủ động để gìn giữ và
nâng cao sức khỏe đƣợc.
2. Dùng các thủ pháp y học
Các thủ pháp bao gồm nhƣ: Truyền dịch, cấy ghép hoặc thay thế một số bộ
phận trên cơ thể. Với sự tiến bộ nhƣ vũ bão của khoa học kỹ thuật, không ai có thể
phủ nhận rằng y học hiện đại ngày nay có những bƣớc tiến rất dài và đạt đƣợc
những thành tựu to lớn giúp con ngƣời chống lại bệnh tật nhờ những phát minh về
hóa dƣợc và máy móc thiết bị hiện đại, tinh xảo. Ngành y sinh học còn làm chúng
ta kinh ngạc khi các nhà khoa học đã lập đƣợc bản đồ gen về ngƣời, nghiên cứu
gen di truyền để khắc chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ. Sáng tạo ra những bộ phận có
thể nối ghép hoặc thay thế các bộ phận trên cơ thể bị hƣ hỏng. Hơn nữa một số nhà
khoa học còn công bố sẽ “ Nhân bản vô tính ở con ngƣời…”. Tuy nhiên về vấn đề
này ở các nƣớc phát triển, nơi có nền y học cao thì có đến 2/3 số trƣờng hợp bệnh
tật không giải quyết đƣợc bằng thuốc men và những máy móc hiện đại nhất. Ngành
y sinh tuy chữa đƣợc số bệnh hiểm nghèo nhƣng chỉ chữa đƣợc “phần ngọn” của
bệnh tật. Rõ ràng mặt trái của y học hiện đại và y sinh học đã tách rời con ngƣời ra
khỏi tự nhiên làm mất đi tính cân bằng thiên nhiên với con ngƣời, kem theo nó là
những hậu quả nguy hại lâu dài nhƣ sự rối loạn về tâm,sinh lý. Làm suy nhƣợc
hoặc làm mất đi chức năng miễn nhiễm của cơ thể.
3. Chủ động rèn luyện cơ thể để phòng chống bệnh tật, thích nghi với sự
biến đổi của môi trường.
Bằng những nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới. Các nhà khoa
học thống nhất cao với nhau về nhận định: Muốn nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi
thojthif phải luôn “đánh thức”, khơi dậy ở mỗi con ngƣời bản năng hoạt động
sống, bản năng này là các hoạt động vận động bao gồm nhƣ: Đi bộ, chạy, nhảy, hít
thở… Đố chính là các tác nhân làm tăng trƣởng một số Hocmon có lợi cho các
phản ứng bảo vệ cơ thể. Tăng cƣờng sức đề kháng và khả năng thích nghi với hoàn
4
cảnh môi trƣờng khi bị thay đổi. Tạo thành thói quen tích cực trong việc duy tu,
bảo dƣỡng các cơ quan vận động, cơ quan nội tạng trong quá trình phát triển và
hoàn thiện ở cơ thể con ngƣời.
Ngày nay, với nhịp sống công nghiệp luôn bận rộn, hối hả. Nạn ô nhiễm môi
trƣờng, rác thải công nghiệp đang là những vấn nạn của các nƣớc đang phát triển
nhƣ Việt Nam. Các phƣơng tiện hiện đại nhƣ: Ô tô, xe máy, máy bay rất tiện lợi
trong sinh hoạt, đi lại. Nhƣng mặt trái lại là kẻ thù vô hình tạo ra lực cản và sức ỳ
làm cho cơ thể con ngƣời trì trệ, phát triển không hài hòa, cân đối và làm nảy sinh
một số bệnh tật không kiểm soát nổi nhƣ: Ung thƣ, tim mạch, huyết áp, Street,.v.v.
Việc khởi dậy các “ hoạt đông sống” là một trong những biện pháp tiện lợi, rẻ tiền,
dễ thực hiện và mang nhiều ý nghĩa thiết thực. Đó chính là những phƣơng tiện hữu
hiệu giúp cho con ngƣời giữ gìn, nâng cao sức khỏe hƣớng tới các mục tiêu trong
cuộc sống. Do vậy các loại hình vận động thể chất, các phƣơng tiện rèn luyện thân
thể lần lƣợt ra đời và liên tục phát triển với nhiều hình thức và quy mô thích hợp
cho mọi lứa tuổi, giới tính. Việc tập luyện TDTT không bao giờ là muộn cả. Ai
cũng có thể tập luyện đƣợc và tập bất cứ nơi nào, lúc nào. Từ thói quen lành mạnh
trở thành ý thức của mỗi ngƣời và nó sẽ là hành trang cuộc sống đi theo suốt cuộc
đời chúng ta.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh những nhà hoạt động chính trị, khoa khoa,
xã hội xuất sắc và những ngƣời có chí lớn thƣờng là những ngƣời rèn luyện về mọi
mặt: Học vấn, đạo đức và đặc biệt là chăm lo, giữ gìn sức khỏe để làm việc và
cống hiến cho xã hội.
II. Lịch sử phát triển TDTT và phong trào Olympic
Nghiên cứu lịch sử phát triển TDTT không thể không gắn với sự phát sinh
phát triển của xã hội loài ngƣời, bởi xã hội loài ngƣời luôn tồn tại ba loại hoạt
động sản xuất cơ bản:
1. Sản xuất tự thân của loài ngƣời tức tự sinh sôi nảy nở của bản thân loài
ngƣời.
2. Sản xuất vật chất – tức là các hoạt động kinh tế.
3. Sản xuất tinh thần – tức là các hoạt động vân hóa, tinh thần.
Ba loại hình hoạt động này là tiền đề cơ bản cấu thành nên xã hội loài ngƣời
và găn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
5
TDTT là hiện tƣợng của xã hội nằm ở loại hình sản xuất giá trị hóa, tinh
thần. Nó vừa là sản phẩm do con ngƣời sáng tạo ra lại vừa là thành phẩm có giá trị
phi vật thể rất to lớn hỗ trợ cho xã hội phát triển. Khi cơ sở hạ tầng xã hội (kinh tế,
các công trình giao thông, kiến trúc, đền đài…) phát triển thì các cơ sở của kiến
trúc thƣợng tầng xã hội (Đạo đức, tín ngƣỡng, pháp luật, văn hóa…) phát triển. Đó
là quy luật. Sự xuất hiện, phát sinh, phát triển của TDTT cũng không nằm ngoài
quy luật đó.
- Ngay từ khi xuất hiện thời kỳ xã hội nguyên thủy. Cuộc sống loài ngƣời
lúc này chủ yếu là săn bắn và hái lƣợm để sinh tồn. Cuộc sống trở nên ngày một
khó khăn hơn cùng với thiên tai, địch họa, nguồn thức ăn khan hiếm…Con ngƣời
nguyên thủy đã sớm biết luyện tập phóng lao, ném đá, tập chạy, nhảy…chính là
chuẩn bị tốt về thể lực nhằm săn bắt đƣợc nhiều muông thú hơn cho cuộc sống,
chống lại thú dữ để sinh tồn.
- Khi xã hội loài ngƣời có phân chia giai cấp, giai cấp thống trị sử dụng
TDTT nhƣ công cụ để rèn luyện binh lính, đàn áp những cuộc nổi dậy của nô lệ,
của những ngƣời nghèo nổi lên chống đối xã hội thống trị.
- Trong xã hội tiền tƣ bản thì TDTT ngoài chức năng duy trì đẳng cấp xã
hội, hƣớng vào việc vui chơi, giải trí cho giai cấp quý tộc nó còn là phƣơng tiện
tập luyện quân sự để có sức mạnh chiếm cứ thuộc địa, xâm lƣợc bóc lột các dân
tộc khác.
- Xã hội tƣ bản và tƣ bản tập đoàn ngày nay đã coi TDTT không chỉ là mục
đích, là quyền lợi giai cấp mà còn là vì lợi ích cá nhân nhà tƣ bản, đó là lợi nhuận
tƣ bản. Các câu lạc bộ nhà nghề thực sự là những doanh nghiệp cổ phần và là
ngành công nghiệp giải trí với những khoản lợi nhuận khổng lồ.
- Chế độ XHCN lấy con ngƣời làm trung tâm. Coi yếu tố con ngƣời là quyết
định sự đi lên của xã hội. Con ngƣời toàn diện là con ngƣời có đầy đủ phẩm chất
đạo đức, có năng lực chuyên môn cao và có thể chất cƣờng tráng để xây dựng xã
hội mới. Nên TDTT trong xã hội chúng ta là “ Thể dục cho mọi ngƣời, phục vụ
mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ văn minh, đáp ứng với nền kinh tế
thị trƣờng có định hƣớng XHCN”. (Trích nghị quyết TW4 khóa VII và Nghị quyêt
TW2 khóa VIII đảng CSVN).
6
Xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển, phát triển TDTT khong thể
không nói đến phong trào olympic. Đó là di sản lớn lao về thể thao của nhân loại.
Nó xuất hiện vào năm 776 trƣớc Công Nguyên. Lúc này trong xã hội cổ Ly Lạp
do tình trạng chiến tranh liên miên đòi hỏi con ngƣời phải có thân thể khỏe mạnh,
nhanh nhẹn, cƣờng tráng. Những ngƣời xuất thân từ tầng lớp quý tộc, thị dân
thƣờng mƣu tìm thắng lợi trong các cuộc thi đấu thể thao để khẳng định ƣu thế của
mình. Khắp nơi đều có các cuộc thi đấu thể thao nó đƣợc coi nhƣ một bộ phận
trong đời sống và phong tục lúc bấy giờ. Nhƣng đáng kể nhất là đại hội thể thao tổ
chức tại một thành phố nhở trong vùng núi olimpia, nơi ngƣời Hy Lạp cổ thờ các
vị thần linh. Đại hội có ảnh hƣởng đến phong trào thể thao ở các nơi khác. Theo
cổ Hy Lạp cứ đến năm Nhuận – (4 năm một lần) là năm tổ chức Đại hội, hàng
ngàn ngƣời từ khắp mọi nơi kéo về tham dự.
Có nhiều truyền thuyết và luận cứ khác nhau về ngƣời đề xƣng Đại hội
Olympic cổ đại. Nổi bật là có những điều quy ƣớc rất nghiêm ngặt là ai đến dự
Đại hội đều không đƣợc mang theo vũ khí. Trong những ngày diễn ra Đại hội các
nơi tạm ngừng chiến tranh với nhau. Đó cũng là nguồn gốc của ngày hội hòa bình
- hữu nghị giữa con ngƣời, giữa các bộ tộc, giữa các quốc gia thông qua đại hội
Olympic. Có thể nói rằng sự phát triển của phong trào Olympic cổ đại phản ánh
lịch sử xã hội Hy Lạp từ khi hình thành, hƣng thịnh và đến khi suy vong.
Phong trào Olympic cổ đại cực thịnh vào thời kỳ có cuộc chiến tranh xâm
lƣợc Ba Tu (khoảng năm 600 – 449 trƣớc Công nguyên). Giai cấp thống trị coi
Đại hội Olympic ở giai đoạn này là một thủ đoạn chủ yếu để tăng cƣờng thế lực
của mình. Những thắng lợi của đội quân Hy Lạp chống quân lƣợc Ba Tƣ ở một
mức độ chính xác là kết quả của việc thực hiện TDTT cho các chiến binh và dân
chúng Hy Lạp. Trong các cuộc chiến tay đôi, đấu kiếm giáp lá cà. Ngƣời Hy Lạp
thƣờng giành thắng lợi vị khỏe hơn, mạnh hơn, nhanh hơn.
Sau chiến thắng quân xâm lƣợc Ba Tƣ. Hoạt động TDTT đạt đến mức phổ
cập chƣa từng có. Nhƣng đến thế kỷ III trƣớc Công nguyên phong trào bƣớc vào
thời kỳ suy tàn phản ảnh mẫu thuẫn gay gắt xã hội Hy Lạp. Các cuộc khởi nghĩa
của nô lệ nổi lên liên tục. Đế quốc La Mã thừa cơ can thiệp đánh thắng Hy Lạp và
tƣớc đi quyền độc lập của nƣớc này. Thực sự thì ngƣời La mã cũng làm quen với
phong tục của Hy Lạp, tỏ ra khá hứng thú với phong trào Olympic, tiếp tục cho tổ
7
chức và còn bảo hộ cho nhiều các Đại hội Olympic về sau. Đầu năm 394 thời
Hoàng đế La mã Thêôđozơ thì ra lệnh cấm tổ chức Đại hội Olympic. Chấm dứt
lịch sử phong trào Olympic cổ đại sau 239 lần tổ chức xuyên suốt thời gian hai
Thiên niên kỷ.
Nam tƣớc Pleđơ Cubectanh – Nhà sƣ phạm – Nhà xã hội học nổi tiếng
ngƣời pháp đƣợc coi là ngƣời đề xƣớng phục hồi phong trào Olympic hiện đại sau
1.500 năm bị gián đoạn.
Đầu năm 1889, nhà sƣ phạm Pháp - Pieđờ Cubéctanh (ông sinh năm 1863
mất năm 1937) đã lên tiếng phục hồi các cuộc thi đấu Olympic. Ông đã nhiều năm
giữ chức tổng thƣ ký Liên đoàn thể thao Pháp, đã có vai trò lớn trong việc soạn
thảo những nguyên tắc về lý luận, tổ chức và tƣ tƣởng của phong trào Olympic
hiện đại. Sáng kiến của ông đã đƣợc các nhà hoạt động trong phong trào thể thao
của nhiều nƣớc trên thế giới ủng hộ .
Tháng 6- 1894, hội nghị Olympic lần thứ nhất đã đƣợc tiến hành tại Pari với
sự có mặt của đại biểu 12 nƣớc (21 nƣớc đã gửi thƣ tán thành). Tại hội nghị, đã
thảo luận vấn đề khôi phục đại hội Olympic quốc tế trong đó gồm các đại biểu của
Hi Lạp, Pháp, Nga, Anh, Mỹ, Thụy điển, Hungari, Tiệp khắc, Italia, Bỉ,
Achentina, Niu Dilân. Chủ tịch uỷ ban Olympic quốc tế đầu tiên (1894-1896) là
Dêmêtriux- Vikêlax ngƣời Hi Lạp sau đó Pie-Cubéctanh đã giữ chức này và ông
là ngƣời đứng đầu uỷ bản Olympic cho đến năm 1925. Tại hội nghị đã thông qua
Hiến chƣơng Olympic trong đó qui định những qui tắc cơ bản tiến hành đại hội
Olympic, mục đích và nhiệm vụ của uỷ ban Olympic quốc tế. Thông qua hiến
chƣơng Olympic, các Nghị quyết của phong trào đã giải quyết hàng loạt các
phƣơng hƣớng và mục tiêu cho con ngƣời, vì con ngƣời nhƣ:
- Sƣ phạm học, Thể dục – Thể thao và vấn đề sức khỏe cộng đồng.
- Phát triển nền giáo dục Thể thao ở các trƣờng học, các vùng nông thôn,
thành thị.
- Thể thao đối với phụ nữ, thể thao cho mọi ngƣời.
- Văn học, nghệ thuật phục vụ phong trào Olympic.
- Tâm lý học, sinh lý học trong hoạt động TDTT.
- Đấu chống Đôpinh trong thể thao.
- Cống hiến cho thể thao trong xã hội hiện đại.
8
- Lý tƣởng và đạo đức thể thao Olympic.
Với phƣơng châm chuyên môn là “Nhanh hơn nữa, cao hơn nữa, mạnh hơn
nữa” nhƣng vẫn có thể thấy rằng những năm gần đây phong trào thể thao trên thế
giới nói chung và phong trào Olympic nói riêng đã góp phần làm cho các dân tộc
xích lại gần nhau, hiểu biết nhau hơn, làm cho thể thao thực sự trở thành phƣơng
tiện củng cố tình hữu nghị giữa các VĐV và hân dân các nƣớc có chế độ xã hội
khác nhau. Các lực lƣợng tiến bộ của tất cả các nƣớc có nhiệm vụ góp phần làm
phát triển nền thể thao. Bỏi lẽ thể thao chứa đựng trong bản thân nó những lý
tƣởng nhân đạo của tiến bộ loài ngƣời.
Việt Nam bƣớc vào vũ đài thể thao Olympic vào năm 1980 nhân thế vận hội
lần thứ 22 đƣợc tổ chức tại Matxcơva (Nga). Là thành viên thứ 161 của Ủy ban
Olympic quốc tế. Trải qua hai cuộc chiến tranh suốt 30 năm chống Pháp và Mỹ.
Đất nƣớc ta đang trên con đƣờng đổi mới. Nền thể thao non trẻ của Việt Nam lúc
này chủ yếu là tham gia hội nhập với ban bè quốc tế. Sau những kỳ thế vận hội
Olympic năm 1988 tại Seoul (Hàn Quốc), 1992 tại Barcelona (Tây Ban Nha),
1996 tại Astlanta (Hoa Kỳ), 2000 tại Sidney (Ôxyraylia), 2004 tại Athens (Hy
Lạp). VĐV Trần Hiếu Ngân đã giành đƣợc một huy chƣơng Bạc của môn võ
Teakowdo tại thế vận hội năm 2000.
Qua các kỳ đại hội thể thao các nƣớc khu vực Đông Nam Á (Seagame), Việt
Nam đã khẳng định đƣợc sự vƣơn lên mạnh mẽ với vị trí số 1 trong kỳ Seagame
lần thứ 22 đƣợc tổ chức tại Việt Nam, thƣờng xuyên canh tranh ngôi đầu khu vực
với Thái Lan. Đây là một bƣớc bứt phá ngoạn mục của thể thao Việt Nam dƣới sự
lãnh đạo của Đảng CSVN trên con đƣờng đổi mới và hội nhập quốc tế. Chúng ta
có quyền hy vọng trong tƣơng lai không xa, Việt Nam sẽ tiến xa hơn nữa trên các
đấu trƣờng khu vực và thế giới trong xu hƣớng hội nhập toàn cầu vì bình đẳng,
bác ái của các dân tộc.
III. Lợi ích của hoạt động TDTT
Có thể khẳng định rằng hoạt động TDTT mang lại nhiều lợi ích. Những
ngƣời thƣờng xuyên luyện tập TDTT một cách hệ thống, khoa học sẽ có đƣợc:
1. Thân thể cƣờng tráng, cân đối với hệ thống cơ săn chắc, sự đàn hồi, tăng
trƣơng lực cơ là rất rõ ràng bởi có sự tăng trƣởng về thiết diện ngang của các sợi
9
Miôzin và Actin. VĐV thể hình nhƣ: Lý Đức, Phạm Văn Mách là những ví dụ
điển hình thông qua việc tập luyện một cách có hệ thống và khoa học.
2. Hệ thống các xƣơng, khớp, dây chằng đƣợc củng cố vững chắc. Mật độ
canxi trong xƣơng tăng, xƣơng dày và to ra, một chức năng rất quan trọng của tủy
xƣơng chính là “ nhà máy” sản xuất và tái tạo ra hồng huyết cầu cho cơ thể, chức
năng này đƣợc duy trì, cải thiện, số hồng cầu tăng trƣởng và ổn định giúp cơ thể
có “sức trẻ” lâu dài. Điều này đƣợc giải thích và chứng minh ở những ngƣời
thƣờng xuyên tập luyện TDTT là những ngƣời có thể hình, vóc dáng trẻ trung hơn
những ngƣời ít tập luyện.
3. Hệ thống tim mạch, hô hấp đƣợc cải thiện. Cơ thể ngƣời bình thƣờng có
nhịp đập tim trung bình 70 lần/ phút. Tần số hô hấp 13-14 lần/phút. Khi vận động
với cƣờng độ cao, hệ thống này đƣợc rèn luyện, cải thiện có thể chịu đựng đƣợc
tần số 180 lần/phút (VĐV cao cấp có thể tới 200 lần/phút). Khi nghỉ ngơi, hồi
tỉnh, nhịp tim có xu hƣớng chậm đều (60-65 lần/phút). Mạch trầm, tiếng tim rõ,
lƣợng máu tống đi nuôi cơ thể rất “ kinh tế”. Do đó tập luyện TDTT làm cho cơ
thể có sự dẻo dai, làm việc đƣợc dài thời gian, lâu bị mỏi mệt.
Ngƣợc lại với ngƣời ít rèn luyện hoặc không tập luyện, các thực nghiệm đã
chứng tỏ họ không thể chịu đƣợc cƣờng độ tập luyện với tần số khi nhịp tim lên
đến 120 lần/ phút. Khi vận động cao tiếng thở hổn hển, nông và yếu rõ rệt.
4. Hệ thống thần kinh đƣợc củng cố, các phản xạ có điều kiện đƣợc hình
thành vững chắc tăng cƣờng cho các kỹ thuật nghề nghiệp. hệ thần kinh phó giao
cảm và hệ thần kinh ngoại biên hoạt động tăng làm giảm tải cho hệ thống thần
kinh trung ƣơng, giúp đầu óc con ngƣời thƣờng xuyên đƣợc thoải mái, nhẹ nhõm,
làm việc hiệu quả, tránh đƣợc một số bệnh thƣờng gặp trong thời đại công nghiệp
hóa nhƣ: Street, huyết áp tăng, giảm không rõ nguyên nhân, thiểu năng tuần hoàn
não, trầm cảm.v.v.
5. TDTT còn là phƣơng tiện hữu ích giúp con ngƣời hiểu biết, gần gũi đoàn
kết nhau hơn. Các cuộc thi đấu TDTT góp phần tăng cƣờng sự giao lƣu, học hỏi
giữa các đơn vị, trƣờng học. TDTT còn là sứ giả của hòa bình, hữu nghị chống
nạn phân biệt chủng tộc giữa các quốc gia có màu da, tôn giáo, thể chế xã hội
chính trị khác nhau…
10
Với lợi ích thiết thực nhƣ vậy không phải tập luyện một cách “ tùy hứng” là
có kết quả và phải tuân theo 5 nguyên tắc GDTC. Đó là:
- Nguyên tắc tập luyện tăng tiến.
- Nguyên tắc tập luyện thƣờng xuyên liên tục và có hệ thống.
- Nguyên tắc trực quan.
- Nguyên tắc tập luyện toàn diện.
- Nguyên tắc đối đãi cá biệt.
4. Mục đích, nhiệm vụ của môn học Giáo dục thể chất và hệ thống
quản lý công tác thể thao trƣờng học.
1. Mục đích
Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thƣờng
xuyên.
Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân gồm:
- Giáo dục mầm non có: nhà trẻ, mẫu giáo.
- Giáo dục phổ thông có: tiểu học, THCS, THPT.
- Giáo dục nghề nghiệp có: TCCN và dạy nghề
- Giáo dục đại học có đào tạo trình độ: CĐ, ĐH, cao học (thạc sỹ), NCS
(tiến sỹ).
Giáo dục Đại học là khâu quan trọng trong hệ thống giáo dục Việt Nam, trực
tiếp đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, cung cấp cho đất nƣớc nguồn lao động chủ
yếu trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội – an ninh, quốc phòng.
- Mục tiêu của giáo dục Đại học là đào tạo ra những cán bộ có trình độ khoa
học kỹ thuật cao, tay nghề vững vàng, có đạo đức nhân cách tốt, có thể lực và sức
mạnh trí tuệ, có năng khiếu thẩm mỹ và lòng yêu nƣớc, trung thành với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Đại hội VI của Đảng CSVN năm 1986 mở đầu cho sự đổi mới ở Việt
Nam xác định “ Nhân tố con ngƣời” đƣợc coi là nguồn lực to lớn, quý báu nhất, có
tính quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc trên con đƣờng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Trong chiến lƣợc về con ngƣời đối tƣợng
học sinh, sinh viên luôn là trung tâm.
11
- Luật TDTT đƣợc Quốc hội khóa XI (Kỳ họp thứ 9 và 10 năm 2006) thảo
luận thông qua đã thể chế hóa đối với mọi công dân trong công tác TDTT.
- Trƣớc yêu cầu về đổi mới đất nƣớc và hội nhập quốc tế đặt ra nhiều vấn
đề mới trong quản lý đào tạo và giáo dục sinh viên nhƣ: Việc làm, học vấn, sức
khỏe, tình yêu, hôn nhân và gia đình, phòng chống các loại dịch bệnh, môi trƣờng,
tệ nạn xã hội.v.v. xuất hiện và đồng thời phải giải quyết trong đó có vấn đề về giáo
dục thể chất (GDTC) và thể thao.
- Để đáp ứng với yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đáp ứng đƣợc nhu cầu của
sinh viên. Mục đích của GDTC cho sinh viên là góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ
khoa học kỹ thuật có thể chất cƣờng tráng, có tri thức và tay nghề đáp ứng đƣợc
với nhu cầu của nền kinh tế thi trƣờng. Nó có vai trò to lớn góp phần giáo dục
toàn diện cho sinh viên thông qua các bài tập trong chƣơng trình giáo dục thể chất
của nhà trƣờng nhằm chủ động nâng cao sức khỏe, thể chất, năng lực vận động,
năng lực tự tập luyện để gìn giữ sức khỏe nâng cao hiệu quả trong học tập, công
tác.
- GDTC góp phần xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh. Thắt
chặt tình đoàn kết, hữu nghị giữa các cơ quan, đơn vị, ngăn chặn tệ nạn xã hội.
Tăng cƣờng sự hiểu biết, mối quan hệ giữa các trƣờng, các ngành nghề, các vùng
miền. Mở rộng khả năng hòa nhập giao lƣu với sinh viên các nƣớc trong khu vực
và trên thế giới.
- GDTC còn là môi trƣờng giáo dục rèn luyện ý chí, đạo đức cho thế hệ
sinh viên, phát hiện bồi dƣỡng các tài năng thể thao cho đất nƣớc.
2. Nhiệm vụ GDTC trong các trƣờng Đại học
- Giáo dục cho sinh viên đạo đức và nhân cách con ngƣời Việt nam. Rèn
luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật. Tính năng động sáng tạo trong học
tập, có nếp sống lành mạnh.
- Hình thành và hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản của một số
môn thể thao và trang bi cho sinh viên những tri thức chuyên môn cần thiết nhƣ:
- Những cơ sở lý luận về tập luyện và thi đấu TDTT.
- Một số phƣơng pháp sử dụng các phƣơng tiện tập luyện TDTT, phƣơng
pháp tự tập luyện và phòng ngừa chấn thƣơng. Có khả năng tự tổ chức hoặc vận
động mọi ngƣời cùng tập luyện TDTT.
12
- Củng cố và tăng cƣờng sức khỏe, phát triển cơ thể cân đối, hài hòa, phát
triển các tố chất thể lực nhƣ: Sức mạnh, sức nhanh, sức bền, khéo léo theo tiêu
chuẩn “ Rèn luyện thân thể” của Quốc gia và luật TDTT qui định.
3. Hệ thống quản lý thể thao trƣờng học.
Ở nƣớc ta hiện nay có hai hệ thống quản lý, điều hành công tác GDTC và
thể thao trong trƣờng học: Đó là hệ thống tổ chức quả lý nhà nƣớc và hệ thống xã
hội hóa TDTT.
- Hệ thống quản lý nhà nƣớc cao nhất là Bộ Giáo dục và Đào tạo, tham mƣu
công tác GDTC cho Bộ là Vụ công tác Học sinh – Sinh viên.
- Hệ thống quản lý tại các trƣờng Đại học. Hiệu trƣởng là ngƣời chịu trách
nhiệm chung chỉ đạo, kiểm tra công tác GDTC của sinh viên. Bộ môn GDTC có
trách nhiệm tổ chức quá trình giảng dạy theo chƣơng trình GDTC của Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định. Kiểm tra, theo dõi kết quả học tập môn học của sinh viên
theo định kỳ.Đồng thời phối hợp với các đoàn thể quần chúng nhƣ Đoàn thanh
niên, Hội sinh viên .v.v..nhằm phát triển phong trào TDTT ngoại khóa của học
sinh, sinh viên trong trƣờng.
Trong trƣờng Đại học có ban Văn – Thể hoặc Hội đồng TDTT có nhiệm vụ
tƣ vấn, giúp hiệu trƣởng quản lý, chỉ đạo công tác hoạt động TDTT của trƣờng, tổ
chức các giải thể thao truyền thống hàng năm nhƣ: Bóng đá, bóng chuyền, cầu
lông, bóng bàn, chạy việt dã.v.v..Tập huấn các đội tuyển thể thao sẵn sàng thi đấu
các giải của ngành và địa phƣơng tổ chức. Bộ môn GDTC và các giáo viên thể dục
là nòng cốt cho các phong trào.
Đơn vi cơ sở của TDTT sinh viên trong trƣờng Đại học là câu lạc bộ các
môn thể thao. Nó có nhiệm vụ thu hút sinh viên thƣờng xuyên tham gia tập luyện
và là nơi phát hiện, tuyển chọn các vận động viên năng khiếu, tổ chức huấn luyện
các vận động viên này swanx sàng tham gia các giải thể thao do trƣờng, địa
phƣơng và ngành tổ chức.
Chƣơng trình học môn GDTC của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định bắt
buộc đối với sinh viên các trƣờng Đại học là 150 tiết đƣợc chia thành 5 đơn vị học
trình, mỗi sinh viên phải tham gia học tập đầy đủ nội dung các môn học. Khi kết
thúc 5 học phần với điểm số đạt yêu cầu trở lên sẽ đƣợc Hiệu trƣởng nhà trƣờng ra
quyết định cấp chứng chỉ học môn GDTC theo kết quả xếp loại trong quá trình
13
học tập . Chứng chỉ này là điều kiện phải có trƣớc khi đi thực tập tốt nghiệp và là
cơ sở để xét thi hoặc làm luận văn tốt nghiệp.
Việc tập luyện ngoại khóa và tham gia đều đặn các sinh hoạt câu lạc bộ
TDTT là biện pháp rất tốt giúp sinh viên hoàn thành tốt nội dung chính khóa.
Ngoài ra nhà trƣờng còn có các chế độ, chính sách đối với những sinh viên là vận
động viên các đội tuyển thể thao của trƣơng nhƣ đƣợc phép hoàn thi, đƣợc cộng
điểm rèn luyện, đƣợc miễn tiền lao động hàng năm nhằm động viên khuyến khích
mọi ngƣời tham gia tập luyện, duy trì truyền thống thể thao nhà trƣờng trong
nhiều năm qua.
CHƢƠNG 2: VỆ SINH TRONG HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO
I. Khái niệm
Vệ sinh TDTT là một môn khoa học nghiên cứu về tác động của tập luyện
TDTT đối với cơ thể và phƣơng pháp tập luyện để tăng cƣờng đƣợc sức khỏe , trên
cơ sở đó đặt ra các yêu cầu với mục đích phát huy cao nhất tác dụng của TDTT đối
với việc rèn luyện, tăng cƣờng sức khỏe. Đồng thời còn nghiên cứu các yêu cầu vệ
sinh tƣơng ứng khác nhƣ vệ sinh dinh dƣỡng, vệ sinh môi trƣờng, vệ sinh cá nhân,
sân bãi...
II. Mục đích, ý nghĩa
1. Mục đích
Chúng ta đều biết TDTT là một nội dung giáo dục trong hệ thống giáo dục
XHCN nói làm mục đích giúp cho cơ thể con ngƣời phát triển nhanh và hoàn
chỉnh, tăng cƣờng sức khỏe , nâng cao khả năng lao động sản xuất, đảm bảo cho
mọi ngƣời sống hạnh phúc.
2. Ý nghĩa
Trong bất kỳ phƣơng pháp bồi dƣỡng sức khỏe nào cũng cần phải có yêu
cầu điều kiện vệ sinh tƣơng ứng. Nếu không có sẽ không thực hiện đƣợc mục đich
bồi dƣỡng mà chỉ tốn công vô ích, thậm chí còn dẫn đến phản tạc dụng, riêng đối
với phƣơng pháp dùng TDTT để rèn luyện sức khỏe thì yêu cầu điều kiện vệ sinh
lại chiếm vai trò cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa quyết định hiệu quả. VD: Nếu
không nắm đƣợc yêu cầu vệ sinh tập luyện, không có nguyên tắc, không có
14
phƣơng pháp đúng sẽ dẫn đến mệt mỏi quá độ có hại cho sức khỏe…Và nếu
không nắm đƣợc yêu cầu điều kiện vệ sinh tƣơng ứng nhƣ vệ sinh cá nhân, dinh
dƣỡng, môi trƣờng…sẽ không phát huy đƣợc tác dụng cao nhất của TDTT.
III. Một số yêu cầu vệ sinh trong hoạt động TDTT
1. các nguyên tắc cơ bản trong tập luyện TDTT
Luyện tập TDTT có tác dụng tăng cƣờng sức khỏe, nhƣng TDTT chiếm vai
trò chủ yếu mang tính chất giáo dục thân thể con ngƣời. Trong TDTT có rất nhiều
môn khác nhau, nên chúng cũng có tác dụng khác nhau nhƣ môn tập cá nhân, tập
thể, có đối kháng, có dụng cụ, trên dụng cụ dƣới nƣớc, trên không …
Do đặc điểm và tác dụng của từng môn khác nhau cho nên chỉ có thể áp
dụng cho các lứa tuổi, giới tính, sức khỏe và trình độ tập luyện khác nhau. Trong
các môn đều có yêu cầu vệ sinh tập luyện khác nhau, phƣơng pháp khác nhau
nhƣng đều phải chấp hành một số nguyên tắc cơ bản trong tập luyện TDTT sau:
1.1 Nguyên tắc tập luyện tăng tiến
Nguyên tắc này đƣợc căn cứ vào quá trình hình thành kỹ năng động tác và
quá trình thích nghi của cơ thể để xây dựng bài tập, do đó khi tập luyện yêu cầu
phải tập luyện từ động tác dễ đến động tác khó, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ khối lƣợng nhỏ đến khối lƣợng lớn, từ hoạt động nhẹ nhàng đến hoạt
động căng thẳng…
1.2 Nguyên tắc tập luyện thƣờng xuyên liên tục và có hệ thống
Muốn nắm đƣợc kỹ thuật tốt, thành tích cao yêu cầu phải thƣờng xuyên liên
tục, việc tập luyện thƣờng xuyên liên tục không chỉ đơn thuần về củng cố động
tác mà còn tăng cƣờng sức khỏe rèn luyện khả năng thích nghi của cơ thể. Cơ thể
con ngƣời có một cơ cấu vô cùng tinh vi và phức tạp muốn cho các hệ thống, cơ
quan riêng biệt hoạt động đồng thời với nhau, và phát huy khả năng cao nhất đáp
ứng yêu cầu thì phải thƣờng xuyên rèn luyện để đủ khả năng thích nghi đạt thành
tích cao nhất của tác động TDTT.
1.3 Nguyên tắc Tập luyện toàn diện
Tập luyện phát triển toàn diện, không có nghĩa là tập luyện tất cả các môn
TDTT mà tập luyện nhƣ thế nào đó để có thể phát triển cả về hình thái lẫn chức
năng của cơ thể, hay nói sâu hơn là phát triển tố chất sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, mềm, dẻo, và sự khéo léo. Sự phát triển toàn diện này làm cơ sở để nâng cao
15
thành tích trong tập luyện. Vì tất cả các môn TDTT khác nhau đều yêu cầu một
loại tố chất vận động khác nhau, nhƣng các loại tố chất vận động trong cơ thể đều
có mối quan hệ khăng khít với nhau, làm ảnh hƣởng và thúc đẩy nhau phát triển.
nếu trong quá trình tập luyện chỉ chú ý phát triển một loại tố chất nào đó, bƣớc
đầu thành tích tập luyện phát triển tốt nhƣng đến một giai đoạn nhất định thành
tích sẽ dừng lại và sau này tập luyện công phu cũng khó có thể nâng cao thành
tích lên đƣợc, hoặc chỉ thích tập một môn nào đó không có tính chất hoạt động
toàn thân sẽ dẫn đến cơ thể phát triển không cân đối (theo thuyết học La mác bộ
phận nào cơ thể hoạt động nhiều thì bộ phận đó đƣợc phát triển, bộ phận nào
không đƣợc hoạt động sẽ teo dần hoặc không phát triển…)
1.4 Nguyên tắc đối đãi cá biệt
Do tình hình sức khỏe và trình độ tập luyện của các lứa tuổi, giới tính của
VĐV cũng nhƣ ngƣời thƣờng khác nhau. Do đó khi tập luyện hoặc tự tập không
thể áp dụng nhƣ nhau đƣợc mà phải căn cứ vào tình hình cụ thể để lựa chọn các
phƣơng pháp, hình thức tập luyện, khối lƣợng tập luyện cơ thể phải chịu đựng
cƣờng độ, mật độ cho phù hợp từng đối tƣợng. Muốn thực hiện nguyên tắc này
yêu cầu ngƣời tập ngoài việc nắm vững đƣợc các kỹ thuật và chiến thuật thể thao,
trên cơ sở đó mới có những hình thái và phƣơng pháp tập luyện thích hợp, đảm
bảo tính chất khoa học, tăng cƣờng đƣợc sức khỏe, nâng cao thành tích tập luyện.
2. Một số nguyên tắc vệ sinh chung trong tập luyện thể dục thể thao.
2.1 Vệ sinh trong phần khởi động
Khởi động là quá trình chuẩn bị cho cơ thể bƣớc vào tập luyện và thi đấu,
làm cho cơ thể nhanh chóng thích nghi với vận động, nội dung phần khởi động
phải phù hợp với nội dung trong phần trọng động.
Khởi động bao gồm: Khởi động chung và khởi động chuyên môn.
+ Khởi động chung: Nhằm tăng cƣờng các chức năng cơ thể và khả năng
hƣng phấn của hệ thần kinh trung ƣơng, hệ vận động, tăng cƣờng trao đổi chất,
điều hòa thân nhiệt tạo điều kiện thuận lợi để chuyển cơ thể từ trạng thái tĩnh sang
trạng thái hoạt động.
16
+ Khởi động chuyên môn: Tạo nên tình trang hƣng phấn thích hợp với các
thành phần của hệ vận động tham gia vào các hoạt động sắp tới.
- Nguyên tắc vệ sinh trong phần khởi động.
- Tất cả mọi ngƣời tham gia tập luyện đều phải khởi động, khởi động đầy đủ.
- Trình độ tập luyện càng cao cần phải chú ý càng phải khởi động cho kỹ,
tránh khởi động qua loa, khởi động hợp lý sẽ góp phần cho thi đấu tốt, đạt thành
tích cao, hạn chế chấn thƣơng, các động tác khởi động phải khởi động từ động tác
dễ, nhẹ nhàng đến động tác khó và mạnh.
- Thời gian khởi động tùy thuộc vào từng môn thể thao, vào điều kiện môi
trƣờng, vào trình độ thể lực và trang thái tác động của ngƣời tập (thƣờng khởi
động từ 10 – 30 phút).
- Thời gian nghỉ từ khi kết thúc khởi động đến khi vào tập luyện từ 3-8 phút.
2.2 Vệ sinh trong phần trọng động
Trọng động là phần cơ bản của buổi tập, là phần tập trung nhiều sức lực
nhất, yêu cầu chất lƣợng tập luyện cao, cơ thể phải nỗ lực lớn đẻ hoàn thành
nhiệm vụ vận động trong giai đoạn này thƣờng xảy ra chấn thƣơng cần chú ý.
- Cần kiểm tra y học trƣớc cho ngƣời tập (căn cứ vào sức khỏe của ngƣời
học mà đƣa ra những yêu cầu và bài tập phù hợp).
- Tuân thủ các nguyên tắc tập luyện.
- Coi trọng các nguyên tắc về vệ sinh ăn uống trong tập luyện, không nên
uống quá nhiều nƣớc và nhất là không nên uống các loại nƣớc ngọt có ga. Không
nên nghỉ giữa quãng quá lâu.
- Trong buổi tập cần tập trung toàn tâm, toàn ý vào từng động tác, từng chi
tiết nhỏ của bài tập.Tránh tƣ tƣởng cay cú nóng vội, coi trọng việc bảo hiểm trong
tập luyện.
- Tùy theo đặc thù của từng môn thể thao mà đề ra các biện pháp đề phòng
chấn thƣơng.
- Đối với giáo viên, huấn luyện viên TDTT và vận động viên:
+ Cần nắm vững đặc điểm, tình trang sức khỏe của ngƣời tập, chú trọng
kiểm tra y học sƣ phạm trong huấn luyện (phỏng vấn trực tiếp).
17
+ Nắm vững các kiến thức về sinh lý học TDTT, y học TDTT và tâm lý thể
thao.
2.3 Vệ sinh trong phần hồi phục
Hồi phục là phần không thể thiếu trong buổi tập luyện và thi đấu. sau khi
ngừng hoạt động để cơ thể trở về trạng thái bình thƣờng trƣớc vận động thì các cơ
quan, các hệ cơ quan phải trải qua một quá trình biến đổi để đƣa cơ thể trở về
trạng thái trƣớc vận động. Các biến đổi nhƣ vậy đƣợc gọi là quá trình phục hồi.
Tất cả những ngƣời tham gia tập luyện và VĐV, sau khi kết thúc buổi tập
đều phải thực hiện tốt phần hồi phục sau vận động. Nội dung hồi phục rất đa dạng,
tuy nhiên cần chú ý đến các yêu cầu sau:
- Các động tác, thực hiện trong phần hồi phục cần phải nhẹ nhàng, có sự
phối hợp toàn thân, đặc biệt chú ý đến thả lỏng cơ bắp và thở sâu.
- Các biện pháp, phƣơng pháp hồi phục đƣợc sử dụng sao cho phù hợp, ƣu
tiên hồi phục cơ bắp, trả nợ Oxi tạo cảm giác thoải mái sau tập luyện và bƣớc vào
giai đoạn nghỉ ngơi. Có thể chia thành các biện pháp hồi phục chia làm 3 nhóm
chính.
- Các biện pháp sƣ phạm.
- Các biện pháp tâm lý.
- Các biện pháp y sinh học.
Ba nhóm này có liên quan mật thiết với nhau, mỗi nhóm lại có biện pháp cụ
thể, phụ thuộc vào các đặc tính của các yếu tố tác động đến cơ thể.
3. Một số nguyên tắc vệ sinh trong tập luyện các môn thể thao trong
trƣờng Đại học
3.1 Môn thể dục dụng cụ
- Ý nghĩa và tác dụng khi tập môn thể dục dụng cụ
Tập luyện môn thể dục dụng cụ đúng phƣơng pháp, khoa học sẽ có ảnh
hƣởng tốt đến toàn bộ cơ thể, tăng cƣờng và hoàn thiện hoạt động của các cơ quan
chức năng.
Tăng tính linh hoạt cơ năng của hệ vận động tăng sức mạnh cơ, có tác dụng
tốt với trung khu vận động, làm phát triển và hoàn thiện chức năng các cơ quan
phân tích.
* Các nguyên tắc vệ sinh:
18
- Tuân thủ các nguyên tắc chung trong tập luyện thể dục thể thao.
- Khởi động đủ, tốt trƣớc khi bƣớc vào tập luyện và phải thực hiện đầy đủ
hồi phục sau vận động.
- Chuẩn bị cho tập luyện chu đáo: Quần, áo, giày dép, nƣớc uống, không ăn
no, uống nhiều nƣớc trƣớc lúc tập.
- Thực hiện các nguyên tắc vệ sinh sân bãi dụng cụ nhƣ:
+ Sân bãi, dụng cụ phải đảm bảo yêu cầu, kỹ thuật.
+ Phƣơng tiện bảo hiểm phải chắc chắn, tốt, đầy đủ.
+ Phân công trách nhiệm bảo hiểm tốt, rõ ràng, kỹ thuật bảo hiểm phải hoàn
thiện.
+ Ngƣời tập luôn phải bình tĩnh, tự tin, can đảm, tập trung toàn tâm toàn ý
vào từng động tác từng chi tiết nhỏ của bài tập.
- Phải tuân thủ theo nguyên tắc “ 5 không”
+ Không tập khi dụng cụ tập luyện không đảm bảo.
+ Không nên tập những động tác khi chƣa nắm vững kỹ thuật.
+ Không tập khi không có ngƣời bảo hiểm.
+ Không tập khi chƣa khởi động.
+ Không tập khi cơ thể không khỏe, hoặc chấn thƣơng chƣa lành.
3.2 Môn điền kinh
Điền kinh là bộ môn thể thao phong phú, đa dạng gồm nhiều môn cụ thể, phù
hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe. Điền kinh đƣợc coi là môn thể
thao cơ sở cho các môn thể thao khác. Do dụng cụ, sân bãi đơn giản, nên có thể
tập luyện môn điền kinh ở mọi nơi.
Tập luyện điền kinh giúp cho thân hình phát triển cân đối, phát triển sự dẻo
dai, hệ cơ thích nghi cao trong hoạt động nơ Oxi, thời trị các cơ giảm nhất là khi
tập các môn chạy cự ly ngắn.
Chức năng của hệ hô hấp, hệ tim mạch đƣợc tăng cƣờng, hạn chế đƣợc một
số bệnh về đƣờng hô hấp, về tim mạch. Tập luyện tốt môn điền kinh thƣờng xuyên
giúp cho thần kinh sảng khoái góp phần chữa một số bệnh nhƣ: Suy nhƣợc thần
kinh, mất ngủ, biếng ăn, và rối loạn các chức năng khác nhƣ lo âu, hồi hộp và
cuộc sống tinh thần căng thẳng.
Các nguyên tắc vệ sinh khi tập luyện môn điền kinh.
19
- Tuân thủ các nguyên tắc chung trong tập luyện thể dục thể thao.
- Khởi động đủ, tốt trƣớc khi bƣớc vào tập luyện và phải thực hiện đầy đủ
hồi phục sau vận động.
- Chuẩn bị cho tập luyện chu đáo: Quần, áo, giày dép, nƣớc uống, không ăn
no, uống nhiều nƣớc trƣớc lúc tập. Thực hiện các nguyên tắc vệ sinh sân bãi dụng
cụ.
- Thƣờng xuyên kiểm tra y học sau mỗi giai đoạn tập luyện.
3.3 Các môn bóng
3.3.1 Ý nghĩa, tác dụng
Hoạt động các môn bóng là hoạt động mang tính chất tập thể trong đó cƣờng
độ vận động luôn thay đổi tùy theo hoạt động của đồng đội, đối phƣơng và tùy
theo đặc điểm dụng cụ, sân bãi.
Các tố chất thể lực thƣờng xuyên đƣợc sử dụng trong tập luyện và thi đấu
các môn bóng. Trình độ tập luyện càng cao thì kỹ, chiến thuật, tƣ duy và các tố
chất thể lực ngày càng hoàn thiện.
Do các tác động của kỹ thuật, chiến thuật các môn bóng thƣờng đa dạng,
luôn thay đổi về cƣờng độ, nhịp điệu vì vậy luyện tập các môn bóng có tác dụng
làm tăng độ linh hoạt của trung khu vận động, tăng tốc độ phản ứng trƣớc những
biến đổi bên ngoài, tăng sức mạnh, tốc độ, độ linh hoạt, mền dẻo trong hoạt động
cơ bắp.
Tập luyện tốt các môn bóng làm cho chức năng cơ quan phân tích đặc biệt là
thị giác ngày càng hoàn thiện và chức năng tiền đình cũng tăng lên nhiều.
Do đặc thù là các môn bóng nên chấn thƣơng xảy ra trong tập luyện và thi
đấu các môn bóng chiếm tỉ lệ khá cao đặc biệt là trong môn đối kháng trực tiếp
nhƣ môn bóng đá.
3.3.2 Nguyên tắc vệ sinh
Để hạn chế đề phòng chấn thƣơng cần tuân thủ các nguyên tắc vệ sinh sau:
+ Tập theo đúng các nguyên tắc khoa học.
+ Chú ý các nguyên tắc vệ sinh chung trong buổi tập luyện.
+ Tôn trọng các nguyên tắc vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống. Chú ý đến giai
đoạn hồi phục nghỉ ngơi.
+ Phải tiến hành kiểm tra y học thƣờng xuyên, định kỳ.
20
+ Chú trọng các nguyên tắc vệ sinh sân bãi, dụng cụ tập luyện.
+ Cần quan tâm đặc biệt đến mặt tu dƣỡng, rèn luyện đạo đức, tác phong thi
đấu của vận đông viên.
4. Vệ sinh dinh dƣỡng
Ăn uống là một trong những nhu cầu sinh học cơ bản của con ngƣời để lựa
chọn một chế độ ăn uống đầy đủ hợp lý về chất, lƣợng, phù hợp với lứa tuổi giới
tính, với thể trang, hoạt động nghề nghiệp nhằm đảm bảo sức khỏe thì chúng ta cần
có sự hiểu biết đầy đủ về dinh dƣỡng.
Có 6 loại dƣỡng chất cần thiết cho cơ thể sống đƣợc cung cấp từ thức ăn và
đƣợc chia làm hai nhóm:
4.1. Các chất dinh dƣỡng sinh năng lƣợng.
- Gluxit (Hydrat cacbon) còn gọi là chất đƣờng.
Vai trò dinh dƣỡng: Gluxit là nguồn dinh dƣỡng cung cấp năng lƣợng chủ
yếu cho cơ thể (chiếm 50 – 60% tổng số năng lƣợng cho cơ thể).
Năng lƣơng Gluxit cung cấp rất cần thiết cho hoạt động của cơ, của hệ thần
kinh trung ƣơng, của tim và gan. Khi 1g Gluxit đƣợc ô xi hóa trong cơ thể sẽ cho
ra 4 kcal.
Trong cơ thể luôn luôn xảy ra quá trình phân giải gluxit để tạo thành năng
lƣợng nhƣng hàm lƣợng glucoza trong máu luôn duy trì ở mức độ 80 – 120 mg %.
Trong hoạt động TDTT, Gluxit đóng vai trò rất quan trọng, nó cung cấp
năng lƣợng tức thời cũng nhƣ cho những hoạt động gắng sức của ngƣời tập. Ăn
uống quá nhiều, gluxits thừa sẽ chuyển hóa thành mỡ và đến mức độ nhất định sẽ
gây ra hiện tƣợng béo phì.
4.1.1. Nguồn Gluxit trong thực phẩm.
Thực phẩm gluxit đƣợc tinh chế nhƣ: Đƣờng, bánh, kẹo…các sản phẩm từ bột
xay sát kỹ các loại thức ăn dễ tiêu, hấp thụ nhanh. Gluxit có thể gây béo phì, rối
loạn chuyển hóa mỡ, ngƣời già và ngƣời ít lao động chân tay,ít vận động thể lực
sẽ gây rối loạn chuyển hóa mỡ và cholestrol. Do vậy những đối tƣợng này nên hạn
chế lƣợng gluxit tinh chế dƣới 1/3 tổng số gluxit khẩu phần.
4.1.2. Nhu cầu gluxit đối với cơ thể.
Gluxit đảm bảo cung cấp 50 – 60 % năng lƣợng trong khẩu phần (trong đó
lƣợng gluxit tinh chế không quá 1/3 lƣợng gluxit khẩu phần).
21
VD: Nhu cầu năng lƣợng của một ngƣời trong một ngày cần 3000 kcal thì
năng lƣợng gluxit cung cấp là 1500 – 1800 kcal.
Lipit (dầu, mỡ) hay còn gọi là chất béo.
Vai trò dinh dƣỡng: Là thành phần nhiều dinh dƣỡng cung cấp nhiều năng
lƣợng nhất. Khi oxi hóa 1g
Lipit trong cơ thể có 9kcal (gấp đôi gluxit và protein).
Trong cơ thể ngƣời thì 10% trọng lƣợng cơ thể là mỡ, phần lớn khối lƣợng
mỡ trong cơ thể dƣới dạng dự trữ ở lớp mỡ dƣới da, xung quanh các phủ
tạng để thực hiện chức năng bảo vệ.
Lipit là thành phần cấu trúc tế bào thần kinh, tế bào não…
Lipit (cholesterol) đƣợc cơ thể sử dụng tổng hợp nên mật trong túi
mật.
4.1.3 Nguồn lipit trong thực phẩm:
Là từ mỡ động vật và họ dầu thực vật có nhiều loại nhƣ: Đậu, lạc, vừng…
Cholesterol chỉ có trong mỡ động vật, không có trong dầu thực vật. Khi ăn
nhiều mỡ động vật, trong máu thừa cholesterol, chúng sẽ liên kết tạo thành các cục
vón gây sơ vữa động mạch. Do vậy khẩu phần ăn không nên quá nhiều mỡ động
vật.
4.1.4 Nhu cầu lipit
Đối với trẻ em, thanh thiếu niên, ngƣời lao động, tỉ lệ năng lƣợng do lipit cung
cấp không nên quá 35% tổng số năng lƣợng tiêu thụ.
- Protein – còn gọi là chất đạm
Vai trò dinh dƣỡng: Đây là thành phần dinh dƣỡng quan trọng nhất, rất cơ
bản của vật chất sống protein tham gia vào cấu tạo tế bào, (là thành phần chính của
nhân và nguyên sinh chất tế bào), protein tham gia vào thành phần cơ, bạch huyết,
máu. Do đó protein có liên quan đến mọi chức năng sống của cơ thể.
Protein còn là nguồn cung cấp năng lƣợng cho cơ thể. Khi 1g protein oxi
hóa trong cơ thể sẽ cho 4kcal.
Protein còn có tác dụng kích thích thèm ăn.
Khi thiếu protein, cơ thể sẽ bị rối loạn nghiêm trọng, trẻ em chậm lớn, chậm
phát triển làm giảm khả năng làm việc của hệ thần kinh trung uơng, rối loạn các
22
hoạt động của các tuyến nội tiết, làm giảm sức đề kháng đối với các bệnh nhiễm
khuẩn, giảm năng lực hoạt động trí óc và cơ bắp.
4.2. Các chất không sinh năng lƣợng.
Vitamin là những chất hữu cơ không cho cơ thể năng lƣợng, không có chức
năng tạo hình nhƣng lại có chức năng cực kỳ quan trọng. Mỗi một loại vitamin có
một chức năng sinh học riêng không thể thay thế cho nhau đƣợc.
4.2.1 Vai trò sinh lý của một số vitamin đối với cơ thể.
Vitamin A: thuộc nhóm vitamin tan trong chất béo, trong cơ thể vitamin A
duy trì trạng thái bình thƣờng của các biểu mô, có vai trò quan trọng đối với chức
phận thị giác, khi thiếu vitamin A có thể bị chứng quáng gà (kém mắt về buổi
chiều).
Vitamin B1: Có vai trò quan trọng trao đổi chất, chuyển hóa gluxit nó rất
cần cho hoạt động của hệ thần kinh và nhân tố giúp cho sự lớn lên. Thiếu vitamin
B1sex làm cho ngƣời mệt mỏi, biếng ăn, hồi hộp trong các hoạt động phản xạ bị
rối loạn, nặng hơn có thể bị tê phù.
+ Nguồn thực phẩm giàu vitamin B1 là các hạt ngũ cốc, rau đậu, thịt nạc.
Nhu cầu đối với cơ thể là: 1mg/ngày.
Đối với vận động viên nhu cầu cao hơn phụ thuộc vào nhu cầu tập luyện hay
thi đấu từ (2-8 mg/ngày).
Vitamin C: Tham gia nhiều vào quá trình chuyển hóa quan trọng là loại
vitamin mà cơ thể không tự tổng hợp đƣợc và không dự trữ đƣợc và không có dự
trƣc thƣơng xuyên phải cung cấp bổ xung.
Vitamin C giúp cơ thể chống lại mọi tác động của ngoại cảnh, phục hồi sức
khỏe, vết thƣơng mau lành, phát triển khả năng lao động và sự dẻo dai, tăng sức
bền cho mao mạch…
Vitamin C có rất nhiều trong rau quả: bƣởi, chanh, quýt, táo….
+ Trong hoạt động TDTT vitamin rất cần thiết đối với cơ thể vận động viên.
Vitamin C cực kỳ quan trọng trong hấp thụ ôxi, các môn thể thao đòi hỏi
cƣờng độ lớn, thời gian kéo dài (Nhƣ chèo thuyền, đua xe đạp đƣờng dài…chạy
1500m, bóng đá…)sẽ tiêu hao nhiều vitamin vì vậy phải bổ sung đầy đủ.
Ngƣời bình thƣờng: 50mg/ngày.
Vận động viên: 150 – 400 mg/ngày.
23
Vitamin E: trong những năm gần đây, vitamin E đƣợc các nhà dinh dƣỡng
thể thao rất chú ý, có vai trò gắn bó chặt chẽ với quá trình đồng hóa kém.
+ Vitamin E làm chậm sự mệt mỏi cơ, nâng cao khả năng sử dụng ôxi và
hiệu quả sinh công của cơ bắp, cơ tim, tế bào thần kinh và tế bào gan.
+ Vitamin E có rất nhiều trong mần lúa mạch, mạch nha…
4.3. Các khoáng chất
Là nhóm các chất rất cần thiết, không sinh năng lƣợng nhƣng giữ vai
tròquan trọng trong nhiều chức phận quan trọng của cơ thể.
- Vai trò dinh dƣỡng của chất khoáng.
Một số chất khoáng tham gia vào thành phần các hợp chất hữu cơ có vai trò
đặc biệt, sắt với Hêmoglybin và nhiều men ôxi hóa trong hô hấp tế bào, thiếu sắt
do thiếu máu, thiết Iốt là nguyên nhân gây bệnh bƣớu cổ địa phƣơng.
VD: Các muối photphat và cacbonnat của Ca và Mg là thành phần cấu tạo
xƣơng răng, can xi tham gia vào quá trình đông máu và giảm kích thích thần kinh
cơ.
5. Nguồn chất khoáng có trong thực phẩm.
6. Thức ăn cung cấp nhiều yếu tố kiềm, các loại rau, lá cũ, sữa…
4.4. Nƣớc
Là thành phần cơ bản của tất cả các tổ chức và thể dịch của cơ thể bƣớc
chiếm 2/3 trọng lƣợng cơ thể, nó tham gia vào quá trình trao đổi chất điều hòa
thân nhiệt.
Lƣợng nƣớc trong cơ thể quá nhiều hoặc quá ít đều làm ảnh hƣởng xấu sức
khỏe và thành tích tập luyện, thi đấu. Không nên uống nhiều nƣớc, nếu uống nhiều
nƣớc sẽ làm dạ dày phát triển làm ảnh hƣởng đến sự hoạt động của cơ hoành (cơ
hô hấp) do dung dịch dạ dày tăng dẫn đến đau bụng.
Khi tập luyện trong cơ thể thƣờng xuyên xuất hiện mệt mỏi, khát nƣớc đặc
biệt là về mùa hè do cơ thể ra nhiều mồ hôi nên mất nhiều nƣớc (trung bình 0,7-1
lít mồ hôi/ngày).
Do đó khi tập luyện xong không nên uống nhiều nƣớc mà phải bổ sung dần
dần và tốt nhất là uống nƣớc ấm, không đƣợc uống nƣớc lạnh, vì nƣớc lạnh kích
thích vào niêm mạc của ruột dạ dày, dẫn đến rối loạn tiêu hóa. Vì vậy nhu cầu
24
nƣớc mỗi ngày của ngƣời bình thƣờng là 2,5 lít. Đối với vận động viên khi tập
luyện và thi đấu có thể 4-5 lít/ngày hoặc hơn.
5. Yêu cầu vệ sinh trang phục, sân bãi, dụng cụ tập luyện
Trang phục của con ngƣời bao gồm: Quần áo, giày tất, mũ…làm những thứ
tạo cho xung quanh cơ thể những điều kiện và khí hậu nhân tạo có điều chỉnh, để
giảm bớt những tác dụng không thuận lợi của môi trƣờng bên ngoài nhƣ: gió,
nóng, lạnh. Quần áo còn bảo vệ cho da tránh đƣợc tác động của vi trùng gây bệnh
của nấm, cũng nhƣ các côn trùng và động vật.
5.1. Yêu cầu vệ sinh quần áo
- Quần áo mặc phải vừa với kích thƣớc của cơ thể, quần áo chật hẹp sẽ làm
cho gò bó các phần cơ thể cản trở hoạt động và làm rối loạn tuần hoàn, khó thở.
- Vào mùa hè nhiệt độ cao, nắng gắt. Quấn áo mùa hè nên may bằng loại vải
dễ thấm nƣớc, nên chọn loại vải sáng màu, phản chiếu lại bức xạ mặt trời, đƣợc
thay giặt hàng ngày.
- Mùa đông nhiệt độ thấp, gió lạnh, dễ làm mất nhiệt độ cơ thể, nên mặc
quần áo bằng loại vải có tính chất cách nhiệt cao nhƣ: len, bông dạ nhƣng phải nhẹ
và mền mại.
- Quần áo mặc mùa đông phải luôn giữ khô và sạch nếu không sẽ làm tăng
độ dẫn nhiệt và bốc hơi nên cơ thể bị mất nhiệt sẽ rất lạnh.
- Trang phục phải phù hợp với từng môn thể thao.
VD: Đối với các môn thể dục dụng cụ quần ao dài tay phải bó sát thân và
bằng chất vải co giãn.
Đối với môn điền kinh phải mặc áo ba lỗ…
5.2. Giày
Giày là một trang phục không thể thiếu khi tập luyện TDTT có tác dụng bảo
vệ, phòng chống chấn thƣơng cho chân và giúp cho hệ thống dây chằng giữ vòm
bàn chân ở tƣ thế bình thƣờng, làm giảm chấn động cho cơ thể khi đi, chạy, nhảy.
Vì vậy giày có một ý nghĩa vệ sinh lớn trong việc bảo vệ cơ thể.
Không đi dày quá rộng hoặc quá chật sẽ làm ảnh hƣởng đến quá trình tập
luyện và thi đấu.
Trang phục thể thao cần đƣợc sử dụng theo đúng nguyên tắc vệ sinh chung
và có cách thức bảo quản nhất định mới phát huy đƣợc hiệu quả.
25
5.3. Vệ sinh sân bãi, dụng cụ tập luyện
Sân bãi, dụng cụ là phƣơng tiện tập luyện của ngƣời thạm gia hoạt động TDTT,
là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả tập luyện, nâng cao thành tích,
mặt khác còn góp phần hạn chế và đề phòng chấn thƣơng.
Hầu hết các chấn thƣơng xảy ra trong tập luyện và thi đấu mà nguyên nhân là
do dụng cụ sân bãi không tốt chiếm tỉ lệ lớn khoảng 70% các ca chấn thƣơng
trong thể thao. Vì vậy cần kiểm tra sân bãi và dụng cụ tập luyện cho tốt trƣớc khi
vào tập luyện và thi đấu thể thao trong điều kiện có thể.
Sân bãi tập luyện phải có kích thƣớc đủ rộng (tùy tho điều kiện môn thể thao
có thể sao cho phù hợp) sân bằng phẳng, không có vật cứng và nhọn, không lầy lội
mỗi khi tròi mƣa. Mặt khác xung quang sân nên trồng nhiều cây bóng mát sao cho
mát về mùa hè và không gây tối về mùa đông, sân bãi tập luyện nên trồng cỏ để
tránh bụi và chống lầy lội.
Dụng cụ và phƣơng tiện tập luyện phải đảm bảo các yêu cầu về chất lƣợng và
tiêu chuẩn kỹ thuật, phù hợp với tầm vóc và cơ thể ngƣời tập.
IV. Phƣơng pháp tự theo dõi sức khỏe
1. Khái niệm
Ngƣời tập tự ghi lại những biến đổi về tâm sinh lý của bản thân một cách liên
tục và có hệ thống thông qua sinh hoạt cũng nhƣ hoạt đông TDTT.
2. Ý Nghĩa
Trong sinh hoạt cung nhƣ trong tập luyện việc xây dựng chế độ tự theo dõi
và kiểm tra sức khỏe có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Là cơ sở vững chắc giúp cho thầy thuốc có kết luận chẩn đoán và điều trị
chính xác, giúp cho vận động viên nắm đƣợc tình hình sức khỏe của VĐV kịp thời,
từ đó mới có thể xếp đặt khối lƣợng tập luyện và chƣơng trình tập luyện đảm bảo
tính khoa học, phát huy tác động cao nhất của tập luyện.
3. Nội dung tự theo dõi sức khỏe
3.1 Cảm giác chủ quan (ăn, ngủ, hoạt động tâm lý đối với tập luyện)
3.1.1 Cảm giác về ăn
Ăn là quy luật hoạt động sinh lý bình thƣờng của cơ thể, cảm giác và lƣợng
ăn đều không thống nhất (ngon ăn nhiều, không ngon ăn ít) và từ 4-5 giờ sau khi
26
ăn là xuất hiện cảm giác đói. Trong sinh hoạt có khi ăn không ngon hoặc không
muốn ăn, đại đa số là do phá vỡ chế độ sinh hoạt (ăn, ngủ không đều độ…) hoạt
động tâm lý căng thẳng (vui, lo sợ, buồn sầu,bi quan, chán nản, bực tức…) ăn phải
chất độc…làm rối loạn tiêu hóa gây nên ăn không ngon hoặc không muốn ăn kéo
dài đều là những biểu hiện của cơ quan tiêu hóa có bệnh hoặc phản ứng của một số
bệnh mãn tính nhƣ: viêm dạ dầy, tá tràng, viêm gan, truyền nhiễm… VĐV do mệt
mỏi quá cũng xuất hiện ăn không ngon hoặc không muốn ăn, trong học tập, lao
động sinh hoạt nếu xuất hiện kém ăn hoặc không muốn ăn càn kịp thời tìm nguyên
nhân để điều chỉnh hoặc đi khám bệnh.
3.1.2 Ngủ
Ngủ là nhu cầu sinh lý bình thƣờng của cơ thể, thời gian ngủ chiếm 1/3 đời
ngƣời, ngủ ngon giúp cơ thể hồi phúc sức khỏe nhanh, làm cho tế bào võ não làm
việc trong ngày đƣợc nghỉ ngơi, ngăn ngừa tế bào não mệt mỏi. Muốn có giấc ngủ
ngon trƣớc khi ngủ nên đảm bảo yên tĩnh, tránh mọi kích thích về tâm lý, cũng nhƣ
sinh lý. Đặc biệt không nên tập luyện TDTT trƣớc khi ngủ vì hoạt động sẽ làm cho
tế bào võ não hƣng phấn và làm các hệ thống khác trong cơ thể cung phát sinh
những biến đổi tƣơng ứng làm ảnh hƣởng đến giấc ngủ, không nên ăn no quá, đói
quá, năm đọc sách… nên dánh răng, rửa chân tay trƣớc khi đi ngủ, nếu có nƣớc ấm
rửa hoặc ngâm chân càng tốt.
Ngƣời bình thƣờng mỗi ngày cần ngủ 8-9 giờ trong lao đọng, học tập sinh
hoạt bình thƣờng có đôi ngày ngủ không ngon hoặc thuộc vào loại binh thƣờng.
Nếu ngủ không ngon hoặc mất ngủ kéo dài đó là những báo hiệu của sức
khỏe không bình thƣờng, hoặc thời kỳ đầu của các bệnh nhƣ thần kinh, suy nhƣợc,
bệnh cao huyết áp, lao…
Đối với VĐV trong quá trình tập luyện nếu xuất hiện mất ngủ , ngủ không
ngon nói chung đều thuộc vào loại phản ứng của khối lƣợng tập luyện quá lớn,
vƣợt quá sức chịu đựng của cơ thể đã xuất hiện mệt mỏi hoặc trƣớc khi thi đấu
xuất hiện mất ngủ, ngủ không ngon là biểu hiện của trang thái thi đấu không tốt.
Ngƣợc lại VĐV do khối lƣợng tập luyện quá lớn, trƣớc khi thi đấu xuất hiện buồn
ngủ hay có cảm giác thiếu ngủ do đó khi ghi vào sổ theo dõi nên nghi rõ (thiếu
ngủ, ngủ không ngon, năm mê hay không, thời gian ngủ…).
3.1.3 Hoạt động tâm lý đối với tập luyện.
27
Ngƣời bình thƣờng cũng nhƣ VĐV luôn say mê, hứng thú với nhiệm vụ của
mình đang làm, đó là những biểu hiện của sức khỏe tốt, tƣ tƣởng lành mạnh, ngƣợc
lại nếu không say mê với tập luyện, học tập, công tác…đó là những biểu hiện của
hoạt động tâm lý không bình thƣờng. Nếu về tâm lý không bình thƣờng nó cũng
biểu hiện trên mặt tâm lý nhƣ: VĐV buồn, chán nản không muoond tập luyện, tính
tình trầm lặng, nhƣng hay vội vàng hấp tấp, cáu gắt… lãnh đạm với những ngƣời
hoạt động xung quanh.
Khi VĐV xuất hiện hoạt động tâm lý không bình thƣờng cần phải tìm
nguyên nhân gải quyết, cấm không đƣợc vội vàng kết luận một cách vô trách
nhiệm sẽ làm ảnh hƣởng đến tinh thần tập luyện hoặc sức khỏe của VĐV.
VĐV có sức khỏe bình thƣờng trƣớc khi tập luyện có cảm giác cơ thể nhẹ
nhàng xung sức, hứng thú tập luyện, tin tƣởng vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ,
nhƣng sau khi tập cảm thấy cơ thể mệt mỏi, chân tay có cảm giác nặng nề hoặc đau
tức (Đau tức là phản ứng thích nghi) qua một đêm nghỉ ngơi cơ thể hồi phục bình
thƣờng nhƣng cảm giác đau tức có khả năng vẫn chƣa dập tắt VĐV vẫn tập đƣợc
nhƣ bình thƣờng.
Đối với VĐV sức khỏe và trình độ tập luyện kém, nếu phải tập với khối
lƣợng lớn không thích hợp VĐV sẽ có cảm giác sợ và chán ngán không muốn tập,
cơ thể mệt mỏi, có cảm giác thấy tim đập nhanh, nhức đầu chóng mặt, buồn nôn,
đau bụng…
3.2 Chỉ tiêu khách quan (sinh lý)
Chỉ tiêu khách quan phản ứng sức khỏe của con ngƣời. Trong thực tế ngƣời
ta thƣờng dùng một số chỉ tiêu sau:
3.2.1 Mạch (tần số mạch)
Mạch là phản ứng trực tiếp tần số co bóp của tim và thông qua mạch không
những phản ánh trực tiếp tần số co bóp của tim và thông qua mạch không chỉ phản
ánh trực tiếp chức năng của hệ thống tim huyết quản mà còn phản ánh gián tiếp của
hệ thần kinh, nội tiết và các hệ thống nội tiết khác và ngƣợc lại nếu chức năng của
hệ thống và cơ quan riêng biệt khác nhau kém hoặc có bệnh cũng phản ánh lên
mạch.
28
Mạch của VĐV khi yên tĩnh chậm hơn ngƣời thƣờng (VĐV từ 42-60
lần/phút, ngƣời bình thƣờng 70-80 lần/phút), mạch của VĐV đập có lực, có quy
luật, mạch đập ổn định, khi hoạt động căng thẳng mạch đập có thể tăng lên đến
180-240 lần/phút, khi tập xong mạch hồi phục nhanh, nếu khối lƣợng tập phù hợp
qua một đêm mạch hồi phục bình thƣờng (theo tài liệu của trƣờng TDTT Bắc Kinh,
mạch buổi sang tăng hơn so với buổi sáng hôm trƣớc không quá 12 lần/phút vẫn
thuộc loại phản ứng của cơ thể bình thƣờng), nếu VĐV trình độ kém hoặc sức khỏe
không bình thƣờng hoặc VĐV sức khỏe tốt có thể xuất hiện mệt mỏi khi tập luyện
chƣa đạt đến mức độ căng thẳng mạch đã tăng rất cao, thậm chiskhoong sờ đƣợc
mạch, tăng tần số hô hấp, mặt tái, tứ chi vô cựa, động tác không nhịp điệu, thành
tích giảm, mạch hồi phục chậm, qua một hai ngày nghỉ mạch mới hồi phục.
Theo dõi chỉ tiêu mạch thƣờng lấy mạch buổi tối trƣớc khi ngủ và mạch
sáng sớm còn nằm trên giƣờng, mạch sáng sớm phản ánh tình hình sức khỏe chính
xác nhất, ta nên theo dõi mạch buổi sáng, đơn vị thời gian là 10 giây, do mạch 3
lần, lấy mạch bình quân xong quy thanh phút (sờ mạch ở cổ tay động mạch xƣơng
quay, hoặc động mạch cổ, thái dƣơng đều đƣợc…).
3.2.2 Cân nặng
Chỉ tiêu cân nặng có giá trị đánh giá tình hình sức khỏe và phát triển của cơ
thể, cân nặng của cơ thể quyết định bởi tuổi tác, giới tính, điều kiện lao động, tập
luyện, dinh dƣỡng, tình hình sức khòe…cân nặng của cơ thể từ lúc nhỏ đến lúc già
biến đổi theo quy luật nhất định, ngƣời bình thƣờng ở lứa tuổi từ 24-40 tuổi nếu
điều kiện lao động dinh dƣỡng biến đổi không nhiều thì cân nặng đều ổn định.
Ngƣời mới tham gia tập luyện TDTT có hệ thống từ 3-4 tuần đầu cân nặng giảm
xuống rõ rệt (do mỡ tiêu hao) về sau cân nặng tăng dần và ổn định (sự tăng cân của
VĐV có quan hệ đến đặc điểm của các môn chuyên sâu) VĐV trình độ tập luyện
tốt với điều kiện luyện tập, khối lƣợng bình thƣờng, cân nặng ổn định, tăng giảm từ
1-1.5 kg có khi tới 2kg, sau một buổi tập hoặc thi đấu cân nặng có thể giảm từ 1-1.5
kg (do mất nhiều nƣớc) nhƣng sau 1-2 ngày cân nặng sẽ hồi phục bình thƣờng.
Trong quá trình tập luyện hoặc sinh hoạt nếu cân nặng giảm dần đây là
những báo hiệu của sức khỏe không bình thƣờng nhƣ mệt mỏi quá độ, và thời ký
đầu của bệnh tật, theo dõi chỉ tiêu mạch nên tiến hành một tuần đến 2 tuần một lần
29
lâu nhất là 1 tháng 1 lần, cân vào buổi sáng trƣớc khi ăn và sau khi đại tiểu tiện, nên
dùng 1 loại cân ổn định.
CHƢƠNG 3: CHẤN THƢƠNG VÀ BỆNH THƢỜNG GẶP TRONG HOẠT
ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO
I. Chấn thƣơng trong tập luyện TDTT
Mục đích của việc tập luyện TDTT là tăng cƣờng sức khỏe và nâng cao
thành tích thể thao, nhƣng nếu xảy ra chấn thƣơng thì VĐV phải nghỉ tập và nếu bị
thƣơng nặng sẽ ảnh hƣởng đến kế hoạch huấn luyện thậm chí con dẫn đến tử vong
30
và điều này hoàn toàn đi ngƣợc lại với tôn chỉ và mục đích của việc tập luyện
TDTT.
Bên cạnh đó việc đào tạo một VĐV có đẳng cấp cao còn khó hơn nhiều so
với một số cán bộ khoa học bởi vì đối với VĐV cần phải có sức khỏe, có năng
khiếu thể thao, thời gian đào tạo phải mất hàng chục năm việc đào tạo đòi hỏi phải
rất tốn kém, công phu. Trong quá trình huấn luyện nếu VĐV bị chấn thƣơng sẽ
ảnh hƣởng đến kế hoạch đào tạo, gây tốn kém vè kinh tế, ảnh hƣởng đến tâm lý
ngƣời tập và tác động xấu đến phong trào.
Vì lý do trên việc ngăn ngừa chấn thƣơng đã chiếm một vị trí quan trọng và
là một nội dung thiết yếu, không thể thiếu trong công tác huấn luyện và phát triển
phong trào thể thao.
1. Khái niệm và phân loại chấn thƣơng
1.1 Khái niệm
Chấn thƣơng trong thể dục thể thao là những tổn thƣơng về thực thể hoặc
chức năng do tập luyện và thi đấu gây nên.
Đó là sự tổn thƣơng về cấu trúc giải phẫu bình thƣờng của một tổ chức nào
đó do tác động từ bên ngoài kéo theo sự suy giảm, rối loạn hoặc làm mất đi chức
năng sinh lý bình thƣờng của tổ chức đó. Các tác nhân gây ra chấn thƣơng thƣờng
rất đa dạng, có thể là tác nhân co học, lý học hay hóa học … Tùy thuộc vào vị trí,
điều kiện và nguyên nhân gây ra chấn thƣơng mà có thể chia chấn thƣơng thành
các dạng nhƣ: Chấn thƣơng do tai nạn lao động, chấn thƣơng trong sinh hoạt, do
tai nạn giao thông, trong chiến tranh và chấn thƣơng hoạt động TDTT. Trong các
dạng chấn thƣơng trên, chấn thƣơng thể thao chỉ chiếm khoảng 2-3% trong tổng
các ca chấn thƣơng thƣờng gặp nhƣng cũng phải chú trọng tới vấn đề này bởi vì
trong tập luyện TDTT tỉ lệ mắc chấn thƣơng cần phải đƣợc giảm tới mức tối thiểu.
Thực tế cho thấy ở nơi nào mà các huấn luyện viên và giáo viên quan tâm tới vấn
đề này thì nơi đó chấn thƣơng thƣờng ít xảy ra. Vì vậy trong công tác phòng ngừa
chấn thƣơng cần phải có sự tham gia tích cực của các bác sỹ, giáo viên và huấn
luyện viên. Để đạt đƣợc hiệu quả cao trong công tác này những ngƣời có trách
nhiệm cũng cần phải hiểu biết một cách cặn kẽ và thấu đáo về đặc điểm, nguyên
nhân và điều kiện gây ra chấn thƣơng.
1.2 Phân loại chấn thƣơng
31
Chấn thƣơng trong thể dục thể thao cũng đƣợc phân loại nhƣ sau:
- Căn cứ vào thực thể tổn thƣơng (tổ chức giải phẫu) đƣợc chia thành hai
loại:
Tổn thương phần cứng nhƣ gãy xƣơng, sai khớp…
Tổn thương phần mền nhƣ đụng dập, rách, thủng, đứt cơ, gân, tổn thƣơng
thần kinh, nội tạng…Trong các chấn thƣơng đụng dập thì gần 50% là các chấn
thƣơng khớp và trong đó chấn thƣơng khớp gối chiếm khoảng 30%.
Căn cứ theo thời gian bị tổn thƣơng (phản ứng cục bộ hoặc toàn thân). Đƣợc
chia làm hai giai đoạn là giai đoạn cấp tính và giai đoạn hồi phục.
Giai đoạn cấp tính: Là phản ứng cục bộ hoặc toàn thân của cơ thể diễn ra
trong phạm vi 24-48 giờ sau khi bị chấn thƣơng.
Giai đoạn phục hồi: Sau 48 giờ kể từ lúc bị chấn thƣơng và phản ứng của cơ
thể đã kết thúc chuyển sang giai đoạn phục hồi. Thời gian của giai đoạn này sẽ phụ
thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ: Sơ cứu ban đầu, phƣơng pháp điều trị, sức khỏe của
nạn nhân…và nếu thời gian phục hồi kéo dài mà thực thể hoặc chức năng bị tổn
thƣơng vẫn không hồi phục đƣợc bình thƣờng thì chấn thƣơng sẽ chuyển sang giai
đoạn mãn tính.
Căn cứ vào mức độ tổn thƣơng và ảnh hƣởng của chúng đến kế hoạch huấn
luyện thi đấu đƣợc chia thành những mức độ sau:
Loại nhẹ: Không làm ảnh hƣởng đến kế hoạch huấn luyện không gây nên
những rối loạn lớn trong cơ thể, không làm mất đi năng lực vận động và năng lực
hoạt động thể thao. Loại này thƣờng chiếm 75-85% trong tổng số các ca chấn
thƣơng.
Loại trung bình: Là những chấn thƣơng gây nên những biến đổi nhỏ trong
cơ thể đồng thời làm mất tạm thời năng lực vận động và năng lực hoạt động thể
thao (trong thời gian từ 24 giờ trở lên đến 1,2 tuần) và chiếm khoảng 10-15% các
ca chấn thƣơng.
Loại nặng: Gây nên những biến đổi lớn trong cơ thể, ảnh hƣởng nghiệm
trọng đến trạng thái sức khỏe của vận động viên và vì vậy nhất thiết phải đƣa vào
điều trị trong bệnh viện. Loại này chỉ chiếm khoảng 2-3% tổng số các ca chấn
thƣơng.
32
Căn cứ vào vị trí chấn thƣơng (phụ thuộc vào sự phá vỡ tiểu mô) đƣợc chia
làm hai loại:
Chấn thương kín: Nhƣ đụng, dập, đứt cơ, dãn hoặc đứt dây chằng.
Chấn thương hở: Các vết xƣớc, xây sát…
Qua nghiên cứu ngƣời ta thấy rằng khả năng xảy ra chấn thƣơng ở các môn
thể thao khác cũng có sự khác biệt nhất định. Trong thi đấu khả năng bị chấn
thƣơng cao hơn gần bốn lần so với trong tập luyện. Trong các giờ học không có
huấn luyện viên và giáo viên hƣớng dẫn tỷ lệ chấn thƣơng cũng cao hơn gấp bốn
lần. Ngoài ra chấn thƣơng còn phụ thuộc vào trình độ tập luyện của vận động viên.
2. Nguyên nhân gây chấn thƣơng trong tập luyện và thi đấu thể dục thể
thao.
Nhìn chung các chấn thƣơng đều do hai nguyên nhân chính là nguyên nhân
bên trong và nguyên nhân bên ngoài, trong đó nguyên nhân bên ngoài là tác nhân
chính còn nguyên nhân bên trong là điều kiện phụ trợ làm xuất hiện chấn thƣơng
hay nói cách khác nguyên nhân bên ngoài gây ra những biến đổi bên trong cơ thể
và chính những biến đổi này sẽ dẫn đến chấn thƣơng.
2.1 Các tác nhân bên ngoài gây ra chấn thương
Do các thiếu sót trong việc tổ chức tập luyện và thi đấu
Nguyên nhân chính dẫn đến chấn thƣơng ở dạng này thƣờng do sự phân ố
bất hợp lý về vị trí thi đấu, tập trung một lƣợng quá nhiều VĐV hay khán giả tại
cùng một địa điểm thi đấu (Ví dụ: sắp xếp cùng một thời điểm trên một sân các
môn thi đấu khác nhau nhƣ mén lao, mén đĩa, mén lựu đạn… hoặc đồng thời tổ
chức cuộc thi bơi và cuộc thi nhảy cầu trên cùng một bể bơi…), di chuyển VĐV
một cách bất hợp lý (ví dụ: dẫn V ĐV qua khu vực đang thi đấu ném đẩy); phối
hợp tập luyện các nhóm VĐV không cùng trình độ, đẳng cấp, hạng cân, tổ chức
tập luyện và thi đấu không có sự giám sát của huấn luyện viên và giáo viên, huấn
luyện viên một lớp quá đông ngƣời.
Do không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về vật chất, kỹ thuật trong tập luyện
Nguyên nhân này do chất lƣợng của trang thiết bị, dụng cụ thi đấu, trang
phục cá nhân kém, việc chuẩn bị sân bãi, dụng cụ, phòng tập không đầy đủ, bố trí
không hợp lý; không tuân thủ những yêu cầu và nguyên tắc sử dụng đối với các
trang thiết bị và dụng cụ phục vụ thi đấu. Trên thực tế không ít các trƣờng hợp
33
nguyên nhân gây ra chấn thƣơng là do mặt sân lồi lõm, không bằng phẳng, nền
đƣờng chạy quá cứng, sân trơn, thảm thể dục chất lƣợng thấp, các dụng cụ thể dục
không đƣợc giữ chằng cẩn thận, vòng treo bị nứt…
Việc không tuân thủ các nguyên tắc sử dụng trang thiết bị thể thao, sử dụng
các dụng cụ không đúng kích thƣớc hay tiến hành việc tập luyện trong điều kiện
không có trang thiết bị, dụng cụ bảo hộ…
Trang phục tập luyện và thi đấu không đảm bảo theo đúng yêu cầu của môn
thể thao chuyên sâu, không phù hợp với điều kiện thời tiết hoặc giày không đúng
tiêu chuẩn và kích cỡ…thì cũng có thể dẫn tới chấn thƣơng.
Do không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về điều kiện khí hậu và điều kiện vệ
sinh.
Do dụng cụ thi đấu không đƣợc vệ sinh sạch sẽ, ánh sáng không đảm bảo,
độ thông gió kém, nhiệt độ của phòng tập hay nƣớc ở bể bơi không đáp ứng đúng
yêu cầu, độ ẩm quá cao, gió mạnh và góc chiếu của tia nắng mặt trời quá lớn…
Do hành vi không đúng đắn của vận động viên
Do thiếu tập trung chú ý, thiếu ý thức tổ chức kỹ luật hoặc cố tình phạm luật
bằng các động tác bị nghiêm cấm, đặc biệt trong các môn thi đấu đối kháng (bóng
đá, bóng rổ, võ vật…). Đây là biểu hiện của trình độ kỹ thuật yếu kém và là hậu
quả của việc lơ là trong giáo dục đạo đức thể thao cho vận động viên.
Tuy nhiên để xẩy ra chấn thƣơng trong những trƣờng hợp này ngoài lỗi của
vận động viên còn có một phần trách nhiệm không nhỏ của các trọng tài khi họ
không xử lý kịp thời và đúng đắn những hành vi thiếu đạo đức của VĐV để ngăn
ngừa chấn thƣơng.
Do không tuân thủ những yêu cầu về y tế
Do VĐV tập luyện và thi đấu mà không qua kiểm tra y tế: Không tuân thủ
thời gian nghỉ ngơi hồi phục sau chấn thƣơng, bệnh tật hoặc không thực hiện đúng
các chỉ dẫn của bác sỹ về các vấn đề có liên quan đến trag thái sức khỏe của VĐV
hay việc áp dụng các phƣơng pháp hồi phục.
2.2 Các tác nhân bên trong gây ra chân thương
Các tác nhân bên trong có thể là nguyên nhân và cũng có thể là điều kiện
làm xuất hiện các chấn thƣơng. Các tác nhân này bao gồm: Những đặc điểm bẩm
34
sinh của cá thể hay những biến đổi về trang thái chức năng và cấu trúc cơ thể dƣới
ảnh hƣởng của các tác nhân không phù hợp bên ngoài.
Trong các tác nhân này cần phải đặc biệt lƣu ý đến một số các tác nhân chủ
yếu nhƣ:
Những rối loạn về khả năng định hình trong không gian và sự giảm sút các
phản ứng bảo vệ, sức tập trung chú ý của vận động viên
Đây là những nguyên nhân rất nguy hiểm thƣờng xuất hiện do mệt mỏi quá
độ gây ra ( Mệt mỏi quá độ là do quá trình tích lũy mệt mỏi gây nên). Những rối
loạn này sẽ làm mất đi cảm giác trong không gian, làm rối loạn khả năng phối hợp
hoạt động của các nhóm cơ đối kháng, làm giảm biên độ tác động, làm mất đi độ
nhanh nhạy và sự khéo léo cần thiết trong quá trình thực hiện động tác nên rất dễ
dẫn đến chấn thƣơng. Ngoài ra đôi khi cũng xảy ra trƣờng hợp đứt cơ hoặc dây
chằng do cơ chƣa kịp phục hồi.
Những biến đổi về trang thái chức năng của một số hệ cơ quan ngừng tập
luyện vì một số lý do nào đó (ốm, mệt…)
Sau giai đoạn nghỉ tập dài các chức năng trong cơ thể giảm sút lực cơ giảm,
tốc độ phản xạ chậm…cho nên cần phải có khoảng thời gian hồi phục lại dần năng
lực vận động trƣớc đây. Vì vậy trong thời kỳ này huấn luyện viên phải tuân thủ
nghiêm ngặt chỉ định của bác sĩ về thời gian tập luyện và tiến hành theo dõi y học
sát sao.
Do cấu trúc giải phẫu của cơ thể không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật.
Trong quá trình nghiên cứu ngƣời ta thấy rằng ở tất cả các môn thể thao đều
có những chấn thƣơng riêng biệt mang tính đắc thù. Loại chấn thƣơng này thƣờng
phát sinh không có giai đoạn cấp tính và khi ở V ĐV xuất hiện cảm giác đau làm
ảnh hƣởng đến chất lƣợng động tác và thành tích tập luyện thi đấu thì chấn thƣơng
đã trở thành mãn tính. Đặc điểm lâm sàng của loại chấn thƣơng này giống nhƣ
bệnh thấp khớp (thấp hàn theo quan niệm của đông y) và đƣợc y học thể thao gọi
là viêm khớp dạng vi thƣơng.
3. Cơ chế chân thƣơng thể thao
35
Theo cơ chế chấn thƣơng thì phần lớn các trƣờng hợp xảy ra do sự va đập và
chủ yếu là do VĐV tự ngã xuống đất, xuống sân, xuống nƣớc…hoặc do đối
phƣơng gây ra, hay do va đập với dụng cụ tập luyện.
Một cơ chế nữa cũng gây ra chấn thƣơng cho VĐV là do hoạt động vƣợt
biên độ cho phép, trong trƣờng hợp này các chấn thƣơng thƣờng gặp là giãn cơ và
dây chằng do gấp duỗi đột ngột và mạnh ở khớp. Trên thực tế cũng có không ít các
trƣờng hợp chấn thƣơng xảy ra theo cơ chế kéo căng hay đè nén do VĐV phải di
chuyển vật nặng (nâng tạ, nâng đồng đội hoặc đối thủ khi tập luyện và thi đấu).
Nhƣ vậy có thể thấy rằng các chấn thƣơng thể thao là hậu quả của việc
không tuân thủ những nguyên tắc cơ bản trong tập luyện, thi đấu và vì vậy để giảm
thiểu các chấn thƣơng, vai trò hƣớng dẫn phòng ngừa do các bác sỹ, huấn luyện
viên và giáo viên hƣớng dẫn đảm nhiệm có ý nghĩa rất quan trọng.
4. Phƣơng pháp phòng ngừa chấn thƣơng
Chấn thƣơng xảy ra trong hoạt động TDTT đƣợc gây ra bởi rất nhiều các
nguyên nhân khác nhau, cho nên muốn nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa
chấn thƣơng thì trƣớc hết chúng ta phải làm tốt công tác điều tra nhằm tìm ra các
quy luật và nguyên nhân chủ yếu để từ đó đề ra các phƣơng pháp phòng ngừa thích
hợp chủ yếu nhƣ:
Tăng cƣờng công tác huấn luyện phát triển toàn diện các tố chất thể lực và
trong quá trình huấn luyện cần phải đặc biệt chú ý đến việc phát triển các bộ phận
cơ thể có cấu trúc giải phẫu không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật đồng thời thực
hiện nghiêm túc các nguyên tắc tăng dần và phân tán khối lƣợng, để từng bƣớc làm
cho các bộ phận này thích nghi dần với yêu cầu kỹ thuật của động tác.
Tăng cƣờng công tác giáo dục cho VĐV hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng
của công tác phòng ngừa chấn thƣơng, chỉ rõ cho vận động viên biết về các nguyên
nhân gây ra chấn thƣơng trong môn thể thao chuyên sâu của mình và các phƣơng
pháp phòng ngừa, bảo hiểm và tự bảo hiểm.
Nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc huấn luyện và hiểu rõ về mối quan hệ
giữa các nội dung huấn luyện chủ yếu (kỹ thuật, chiến thuật, tố chất, đạo đức). Để
làm tốt đƣợc điều này huấn luyện viên phải không ngừng trao đổi, học hỏi để nắm
vững về cơ sở khoa học của hoạt động TDTT và nâng cao kiến thức cơ bản, dặc
biệt là về y học TDTT.
36
Tổ chức hình thức huấn luyện tập thể (lãnh đạo, huấn luyện viên, thầy thuốc,
VĐV) trong đó ngƣời lãnh đạo đề xuất yêu cầu, huấn luyện viên lập kế hoạch,
chƣơng trình huấn luyện, thầy thuốc giúp huấn luyện viên theo dõi sức khỏe và
VĐV thực hiện kế hoạch huấn luyện. Tuy nhiên muốn thực hiện đƣợc nhiệm vụ
này các đối tƣợng trên phải giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau để hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình và điều này sẽ có tác dụng rất lớn trong việc phòng
ngừa chấn thƣơng.
II. Một số chấn thƣơng thƣờng gặp trong TDTT
1. Chấn thƣơng phần mềm
Chấn thƣơng phần mền là các thƣơng tổn ở phần mền nhƣ da, gân cơ dây
chằng và tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ cũng nhƣ tính chất của các tổn thƣơng
này mà ngƣời ta có thể phân chia thành các loại nhƣ sau:
Vết xây sát da.
Vết thương: Gồm các chấn thƣơng gây rách da và các tổ chức dƣới da hoặc
có thể đi sâu vào trong cơ và mạch máu.
Vết đụng dập (chạm thƣơng): là các chấn thƣơng do va chạm gây nên và tuy
không rách da nhƣng lại làm dập nát hoặc chảy máu ở các tổ chức dƣới da (chảy
máu trong).
Giãn dây chằng (bong gân).
1.1 Vết xây sát da.
Là sự tổn thƣơng trên bề mặt da do VĐV bị ngã làm da cọ sát mạnh vào vật
cứng trên nền sân, đƣờng chạy bê tông hoặc dụng cụ thi đấu. Chỗ da xây sát sẽ tấy
đỏ, đau nhƣng chảy máu không nhiều, mà chỉ rớm máu (chảy máu mao mạch) và
chủ yếu là rỉ huyết tƣơng. Tuy nhiên nếu xử lý không tốt có thể sẽ bị nhiễm trùng.
Cách xử lý: Xử lý theo nguyên tắc chung là làm sạch vết xây sát rửa bằng
dung dịch NaCl 9% rồi dùng bông gạc tẩm ôxy già lau vết thƣơng, sau đó lau khô,
bôi xanhmetylen hay thuốc đỏ, hoặc ngâm trong dung dịch novocain 2%. Đối với
các vết xƣớc lớn, trƣớc khi băng bằng băng vô trùng nên bôi mỡ kháng sinh và
tiêm huyết thanh chống uốn ván.
1.2 Vết thƣơng
37
Thƣờng do các tác động cơ học gây nên phá hủy tính toàn vẹn của da, niêm
mạc cũng có thể kéo theo sự tổn thƣơng của cơ, mạch máu, dây thần kinh, khớp và
các khoang trong cơ thể. Trong hoạt động TDTT vết thƣơng phần mền gồm chủ
yếu xảy ra do va chạm vào dụng cụ có cạnh sắc, nhọn, ngã trên đƣờng chạy hoặc
trên đƣờng đua xe đạp…Đối với các vết thƣơng này thì bất luận dù to hay nhỏ
cũng đều phải chú ý đến vấn đề chảy máu, mất máu và nhiễm trùng.
Chảy máu: là sự tràn máu từ trong mạch qua thành mạch bị tổn thƣơng ra
ngoài.
Phân loại:
+ Căn cứ vào vị trí của mạch máu bị tổn thƣơng, chảy máu đƣợc chia ra
thành chảy máu động mạch, chảy máu mao mạch và chảy máu tĩnh mạch.
Chảy máu động mạch: Máu chảy dữ dội và phun thành tia hoặc thành dòng.
Nếu bịt miệng vết thƣơng thì chỗ đó sẽ to lên rất nhanh, đồng thời đoạn tay chân
đó sẽ lạnh, tím tái và không bắt đƣợc mạch. Nạn nhân mệt mỏi toàn thân, lờ đờ
hoặc mê lim đi, da tái nhợt, mạch nhanh nhỏ có khi khó bắt do mất máu quá nhiều.
Chảy máu tĩnh mạch: máu chảy có màu đỏ thẩm với khối lƣợng tƣơng đối
nhiều (ộc ra hoặc trào ra). Trong trƣờng hợp này thƣờng không nặng nhƣ chảy máu
động mạch nhƣng nếu tổn thƣơng ở những tĩnh mạch lớn thì cũng rất nguy hiểm.
Thông thƣờng khi chảy máu ở động mạch thì cũng chảy máu luôn ở tĩnh mạch vì
chúng đƣợc bố trí đi từng bó với nhau.
Chảy máu mao mạch: Máu chảy rỉ ra thấm ƣớt và có màu hồng tƣơi (không
ồ ạt nhƣng thấm dần). Vết thƣơng càng rộng thì sẽ mất máu càng nhiều, đặc biệt là
ở da, tổ chức dƣới da và cơ.
+ Căn cứ vào cị trí chảy máu và tích tụ máu chảy đƣợc chia thành chảy máu
trong và chảy máu ngoài.
Chảy máu trong: máu chảy ra đƣợc tích tụ lại trong các khoang gian bào
hoặc các khoang tự nhiên nhƣ khoang ngực, khoang bụng, hộp sọ… Đây là loại
chảy máu rất nguy hiểm vì rất khó xác định lƣợng máu mất, đồng thời phƣơng
pháp cầm máu cũng rất khó thực hiện. Bên cạnh đó sự tích tụ của máu sẽ chèn ép
các tổ chức xung quanh và nếu chấn thƣơng xảy ra ở não thì sẽ gây ra các bệnh lý
phụ nhƣ xuất huyết não…
38
Chảy máu ngoài: Máu chảy qua thành mạch và qua lớp niêm mạc da bị tổn
thƣơng ra ngoài. Loại này thƣơng ít nguy hiểm vì có thể xác định đƣợc lƣợng máu
mất và mức độ nguy hiểm của chấn thƣơng để có thể kịp thời xử lý. Tuy nhiên ở
trƣờng hợp này nếu xử lý không tốt rất dễ gây nhiễm trùng.
+ Căn cứ vào thời gian và số lần chảy máu, ngƣời ta phân ra thành chảy máu
cấp tính và chảy máu mãn tính.
Chảy máu mãn tính: Loại này thƣờng ít nguy hiểm vì lƣợng máu chảy ít và
cơ thể sẽ thích nghi. Chảy máu mãn tính thƣờng gặp ở các bệnh lý nhƣ: đau dạ
dày, tá tràng…
Chảy máu cấp tính: Loại này thƣờng nguy hiểm hơn vì mất máu nhiều trong
một thời gian ngắn và chỉ thƣờng hay gặp trong các chấn thƣơng.
1.3 Chuẩn đoán
Phải lập tức nghĩ tới tổn thƣơng mạch máu khi:
+ Vết thƣơng ở trên vùng có mạch máu đi qua hoặc hƣớng về phía đó.
+ Máu chảy nhiều và có khi rất dữ dội (chảy máu ở cơ xƣơng cũng nhiều
nhƣng sẽ không nhanh bằn). Cần nhớ rằng nếu chảy máu từ động mạch ở đùi hoặc
bẹn mà không đƣợc cầm máu thì có thể gây chết ngƣời chỉ sau dăm ba phút.
1.4 Phƣơng pháp cầm máu
Tuy cơ thể bị tổn thƣơng gây chảy máu thì lập tức sẽ xảy ra phản ứng đông
máu để hàn gắn thành mạch bị tổn thƣơng, nhƣng phƣơng pháp cầm máu trong cấp
cứu vẫn là hình thức nhanh chóng làm giảm bớt hoặc ngƣng hẳn sự chảy máu của
cơ thể.
Dựa trên cơ chế phƣơng pháp cầm máu đƣợc chia thành:
Phƣơng pháp lý học:
Tác động bằng nhiệt độ nhƣ chƣờm lạnh để làm co mạch, giảm chảy máu và
giảm đau hoặc đót mạch đối với những tổn thƣơng mao mạch nhỏ.
Phƣơng pháp hóa học
Dùng dung dịch Adrênlin 1% bôi lên bề mặt vết thƣơng để làm co thắt các
mạch máu và dung dịch oxy già 3% để tăng sự đông máu của cơ thể. Ngoài ra có
thể dùng thuốc để tăng cƣờng sự đông máu (vitamin K) và phƣơng pháp này
thƣờng đƣợc sử dụng với phƣơng pháp cơ học.
Phƣơng pháp cơ học
39
Phương pháp trực tiếp: là phƣơng pháp tác động trực tiếp lên bề mặt vết
thƣơng để cầm máu nhƣ băng, chèn vết thƣơng.
Phương pháp gián tiếp: Là phƣơng pháp cầm máu nhƣ garô, đè động mạch.
Phƣơng pháp sinh học
Thƣờng chỉ đƣợc thực hiện tại các bệnh viện
1.5 Cầm máu gián tiếp
Phƣơng pháp garô: là phƣơng pháp cầm máu nhanh nhất nhƣng thƣờng chỉ
đƣợc sử dụng khi bị thƣơng chảy máu nhiều và các phƣơng pháp cầm máu khác
không có hiệu quả.
Khi đặt garô nhất thiết phải đƣợc thực hiện theo các nguyên tắc sau:
+ không đặt garô trực tiếp lên da để tránh làm tổn thƣơng da.
+ Khi đặt garô không đƣợc xoắn chặt làm nạn nhân đau đớn nhƣng cũng
không đƣợc băng quá lỏng vì nhƣ vậy thi máu vẫn sẽ tiếp tục chảy.
+ Không đặt garô quá xa vết thƣơng, đối với vết thƣơng nhỏ đặt trên vết
thƣơng khoảng 2cm, với vết thƣơng lớn 5cm.
+ Sau 1 giờ phải nới garô một lần. Khi nới phải làm tù từ, mỗi lần khoảng 30
giây (để tránh làm hủy hoại các tổ chức do thiếu máu lƣu thông).
+ Thời gian đặt garô không quá 6 giờ (với điều kiện sau 1 giờ phải nới 1
lần).
1.6 Cầm máu trực tiếp
Phƣơng pháp băng:
Băng nhằm thực hiện các mục đích nhƣ sau:
Cầm máu: Do tất cả các vết thƣơng đều gây ra chảy máu (ít hoặc nhiều) cho
nên băng bó sẽ làm ngừng hoặc giảm thiểu mức độ của chảy máu.
Giảm đau: Băng bó sẽ làm cho vết thƣơng ổn định hơn (cố định một phần)
và giảm đau cho nên vết thƣơng sẽ chóng lành.
Chống nhiễm khuẩn: Băng bó sẽ cách li vết thƣơng với môi trƣờng xung
quanh (nơi ít nhiều đều có vi khuẩn gây bệnh) và việc sát trùng lúc đầu hoặc trong
khi thay băng sẽ loại trừ đƣợc dịch mủ… cộng với tác dụng của các loại thuốc sẽ
làm giảm thiểu mức độ nhiễm khuẩn và tạo điều kiện thuận lợi giúp cho vết
thƣơng chóng lành.
Phương tiện: Gồm băng (để cuốn) và bông gạc (để đắp vết thƣơng).
40
Băng: Đƣợc làm từ nhiều vật liệu với các hình thức khác nhau tùy theo yêu
cầu sử dụng (trong sinh hoạt, tập luyện thi đấu…) và đƣợc cuộn săn theo phƣơng
pháp công nghiệp hoặc thủ công. Trong các loại này thì phổ biến nhất vần là băng
bằng vải thƣa (đƣợc làm từ vải màn hoặc đƣợc dệt theo phƣơng pháp riêng) vừa có
tác dụng băng bó chặt, vừa thông thoát đƣợc dịch máu, mủ…Ngoài ra còn có các
loại băng bằng vải mỏng (phin) hoặc đƣợc dệt kèm sợi thun (băng chun giãn).
Băng thƣờng đƣợc khử trùng và bao bọc kỹ để chống ẩm, chống nhiễm khuẩn với
chiều dài khoảng 4-5 m và rộng có thể 8,10,15 hoặc 20 cm.
1.7 Bông gạc : đƣợc làm từ các loại vải thƣa ( vải màn ) có khả năng thấm
hút nƣớc tốt, phải có thể không hoặc đƣợc độn bông để thấm hút dịch. Bông gạc
vừa có tác dụng che chắn chống nhiễm khuẩn vừa hút dịch mủ ở vết thƣơng.
Tuy vậy do yêu cầu của việc cấp cứu đôi lúc cũng phải sử dụng cả quần áo,
khăn , vải… chƣa đƣợc vô trùng để băng bó vết thƣơng cho dù sao cũng phải giữ
sạch tối đa phƣơng tiện băng bó để tạo điềi kiện thuận lợi cho việc điều trị sau này.
Yêu cầu :
Phải sạch sẽ vô trùng. Khi hoàn cảnh cho phép phải dùng bông gạc sạch để
lau máu và vệ sinh quanh vết thƣơng rồi bôi thuốc sát trùng (thuốc đỏ, i ốt, cồn )
và băng bó lại bằng băng gạc đã đƣợc sát trùng. Khi hoàn cảnh không cho phép
thực hiện nhƣ trên thì phải cố gắng vận dụng và giữ sạch tối đa phƣơng tiện băng
bó.
Băng phải đủ chặt để khỏi bị tuột và có thể ép cầm máu nhƣng cũng không
đƣợc chặt quá gây ứ trệ máu ở phần vết thƣơng và làm tím tái sƣng nề phía ngọn
chi.
- Băng càng sớm càng tốt để giảm máu chảy, bớt nhiễm trùng và phải thực
hiện đúng vị trí, đúng kỹ thuật.
1.8 Các kiểu băng
Băng vòng khóa : Đƣợc sử dụng khi bắt đầu băng
Băng hình xoắn ốc : Mỗi vòng băng lại cuốn chếch lên trên để tạm thời giữ
gạc trong lúc bắt đầu cuốn vòng sau và vòng sau lại cuốn đè lên hoặc 1/3 vòng
trƣớc, kiểu băng này thƣờng đƣợc sử dụng để băng những đoạn chi tròn đều nhƣ
ngón tay, cánh tay hoặc dƣới ngực và bụng. Khi băng các ngón tay của bàn tay trái
41
ngƣời giữ băng gạc và dầu băng, tay phải cuộn trong 1 vòng, tay phải giữ băng và
thực hiện từ phải qua trái.
Băng chữ nhân : Thực hiện tƣơng tự nhƣ kiểu băng xoắn ốc nhƣng sau mỗi
vòng lại gập lật lại. Kiểu băng này thƣờng đƣợc sử dụng để băng những đoạn
không đều ( dƣới thon, trên phình to ) nhƣ nửa trên cẳng tay , cẳng chân.
Băng hình số 8 :
Băng nhƣ kiểu xoắn ốc nhƣng lƣợt trên bắt chéo lên lƣợt dƣới, vòng sau
bắt chéo lên vòng trƣớc. Kiểu băng này đƣợc dùng để băng các vùng khớp nhƣ
khuỷu tay, vai, cổ, bẹn, mông… Với 2 cách băng chính là băng dàn về 2 phía hoặc
ngƣợc lại và nơi bắt chéo có thể là phía trƣợc hoặc sau.
* Những điều chú ý khi băng
- Tay phải hoặc tay trái cầm cuộn băng trải dài ra khoảng 10cm hoặc hơn,
đặt chếch băng từ vết thƣơng băng vòng 1 vòng rồi gấp đầu băng lại vòng khóa.
Vòng 2 khóa đầu băng lại và băng từ phía xa đến phía gần tim.
- Khi băng xong dùng băng dính băng lại nếu buộc thì đầu nút buộc không
đƣợc chặt vào vết thƣơng.
- Ở những bộ phận lồi hoặc lõm của cơ thể phải đệm thêm cho chặt băng
và đảm bảo cho máu lƣu thông.
1.9 Chạm thƣơng trong vận động
Là loại tổn thƣơng hay gặp nhất trong tập luyện và thi đấu thể thao thƣờng
xảy ra di VĐV bị ngã, bị va đập vào dụng cụ hoặc va chạm vào nhau trong thi đấu.
1.9.1 Các dấu hiệu
Đau ở vùng chạm thương : Do tổn thƣơng và bị chèn ép ở các đầu mút
của dây thần kinh
Sưng tấy : Do đứt các mao mạch gây chảy máu trong.
Bầm tím : Do dập nát các tổ chức bên trong gây chảy máu và tụ ở dƣới da.
Nếu chạm thƣơng nông thì vết bầm thƣờng xuất hiện ngay hoặc sau 1 vài giờ sau
khi va đập, còn trong trƣờng hợp chạm thƣơng sâu (cơ và màng xƣơng) thì vết
bầm tím sẽ xuất hiện muộn hơn (sau 2 – 3 ngày) và có thể lan rộng xuống cả phía
dƣới chỗ chạm thƣơng. Nhìn chung vết bầm tím thƣờng biến mất dần từ màu tím
sẫm sang màu xanh, vàng rồi mất đi.
42
Tuy cảm giác đau ít nhiều cũng ảnh hƣởng đến vận động nhƣng vẫn cử
động đƣợc cơ, khớp và trƣơng lực cơ giảm không nhiều.
1.9.2 Cách xử lý
- Khi bị chạm thƣơng nên giữ yên vùng bị thƣơng để giảm đau, giảm máu
tụ và trong trƣờng hợp cần thiết có thể hơi nâng cao chi bị thƣơng lên.
- Chƣờm lạnh ngay sau khi bị va chạm bằng túi nƣớc đá, khăn lạnh, hoặc
xịt Cloretilamin. Trong ngày đầu tiên chƣờm 20 – 30 phút rồi nghỉ 2-3 giờ và lại
tiếp tục chƣờm thêm 1 lần nữa. Sau đó băng ép nhẹ và giữ cố định chi bị thƣơng.
Những ngày tiếp theo nếu thấy vết bầm tím không lan rộng ra nữa thì có thể
chƣờm nóng và xoa bóp nhẹ nhàng để tăng tự tái hấp thụ của máu tụ.
Chú ý: Khi chạm thƣơng mạnh vào vùng bụng cần phải đặc biệt chú ý đến
tình trạng của các cơ quan trong ổ bụng và các biến chƣng nguy hiểm nhƣ:
- Vỡ tạng rỗng gây viêm phúc mạc.
- Vỡ tạng đặc (gan, lá lách…) gây chảy máu trong. Lúc này có thể thấy sắc
mặt nạn nhân rất nhợt nhạt, đau nhiều ở vùng bụng, sờ thấy thành bụng cứng,
mạch nhanh, nhỉ, khó bắt, huyết áp hạ thấp và nạn nhân ợ buồn nôn. Trƣờng hợp
này cần phải đƣa gấp nạn nhân đến bệnh viện để kịp thời cấp cứu.
1.10 Giãn dây chằng
Trong hoạt động thể dục thể thao giãn dây chằng là tổn thƣơng thƣờng gặp
nhất , đặc biệt là ở khớp cổ chân, khớp gối (trong điền kinh, bóng đá) khớp cổ tay
(thể dục dụng cụ) và khớp ngón tay (bóng chuyền)
Đây là những tổn thƣơng ở các mức độ khác nhau của dây chằng quanh
khớp và bao khớp.
Khớp đƣợc tạo nên do các đầu xƣơng áp sát vào nhau và đƣợc giữ bởi hệ
thống bao khớp dây chằng gân cơ vừa mềm dẻo, vừa vững chắc để khớp hoạt động
đƣợc chính xác và linh hoạt. Vì vậy khi có tác động mạnh trực tiếp hoặc gián tiếp
khớp sẽ bị vặn mạnh, khe khớp sẽ bị mở rộng ra làm các dây chằng bị kéo căng
,giãn mạnh hoặc đứt hẳn, đồng thời cũng làm tổn thƣơng luôn cả bao khớp, giãn
mạnh hoặc đứt hẳn, đồng thời cũng làm tổn thƣơng luôn cả bao khớp, gây chảy
máu nhiều, rất đau và vì vậy sẽ ảnh hƣởng rất lớn tới hoạt động của bún.
43
1.10.1 Triệu chứng của giãn dây chằng
Đau : Đau ở khớp bị thƣơng ngay cả trong lúc để tự nhiên và đôi lúc xuất
hiện những cơn đau dữ dội. Cảm giác đau thƣơng diễn biến theo các giai đoạn sau:
+ Ngay sau khi bị thƣơng đau dữ dội
+ Sau đó cơn đau giảm daafnsau 1 vài giờ
+ Đau dữ dội trở lại.
+ Sau đó lại giảm đau dần cho đến khi khỏi hẳn.
Sưng : Xuất hiện ngay sau khi bị thƣơng và sƣng to rất nhanh do các hõm
quanh khớp đầy lên vì trong khớp có tràn dịch và chảy máu.
Giảm cơ năng của khớp :Tuy hoạt động của khớp bị hạn chế nhiều nhƣng
vẫn có thể vận động đƣợc khớp (khác với gãy xƣơng và sai khớp do mất cơ năng).
1.10.2 Xử lý
- Chƣờm lạnh ngay sau khi bị thƣơng và tiến hành lên tục trong 2-3 ngày
để làm co mạch và làm co vùng giãn dây chằng bớt chảy máu, bớt sƣng. Không
đƣợc chƣờm nóng và xoa bóp trong những ngày đầu bởi vì nếu vậy sẽ làm giãn
mạch vùng bị thƣớng sẽ tiếp tục chảy máu và sƣng thêm. Trong những ngày tiếp
theo nếu thấy khớp không sƣng to thêm nữa thì có thể chƣờm nóng và xoa bóp nhẹ
nhàng, nhƣng cũng không đƣợc dùng dầu và các loại thuốc xoa bóp bởi vì chúng
có thể gây nên tình trạng vôi hóa dây chằng, bao khớp và làm cứng khớp.
- Băng ép, bất động khớp trong thời gian sớm nhất và giữ đủ thời gian cần
thiết tùy theo mức độ tổn thƣơng. Không nên cho rằng khi đã hết đau là coi nhƣ
dây chằng đã hồi phục để tiếp tục vận động lại, vì điều này sẽ gây nên giãn dây
chằng mãn tính, dễ tái phát chấn thƣơng và ảnh hƣởng xấu đến cơ năng của khớp.
Theo J.S Mironova thì khi có tổn thƣơng dây chằng, bao khớp thời gian
nghỉ tối thiểu của VĐV là 30 – 35 ngày.
2. Chấn thƣơng phần cứng.
2.1 Gãy xƣơng
2.1.1 Phân loại
Gãy xƣơng là một tổn thƣơng nặng trong chấn thƣơng thể dục thể thao
nhƣng thƣờng chỉ hay gặp gãy xƣơng kín, còn gãy xƣơng hở rất ít khi xảy ra.
Gãy xương kín : Là xƣơng bị gãy nhƣng không làm tổn thƣơng bề mặt da.
Gãy xương hở : Da, cơ bị rách và đầu xƣơng lộ ra ngoài miệng vết thƣơng .
44
Gãy xương hoàn toàn : Xƣơng gãy thành 2 hay nhiều đoạn rời nhau.
Gãy xương không hoàn toàn : Xƣơng gãy nhƣng không rời nhau ( mẻ, lún,
rạn xƣơng). Trƣờng hợp này đặc biệt thƣờng hay xảy ra ở trẻ em do tổ chức xƣơng
còn mềm và thƣờng đƣợc gọi là gãy kiểu cành tƣơi.
Gãy xƣơng có thể làm đứt , rách mạch máu và dây thần kinh hoặc đầu
xƣơng gãy có thể chèn ép gây tắc bó mạng thần kinh ( biến chứng cần phải cấp cứu
kịp thời )
2.1.2 Triệu chứng
Triệu chứng toàn thân : Khi bị chấn thƣơng mạnh , làm gãy xƣơng lớn
hoặc gãy nhiều xƣơng , mất nhiều máu làm cho VĐV rất đau đớn và có thể gây sốc
với các biểu hiện nhƣ: Hốt hoảng, da xanh, tái nhợt, chân tay lạnh , mũi lạnh, đổ
mồ hôi và rơi vào tình trạng lơ mơ hoặc thờ ơ với xung quanh ,đồng thời mạch
nhanh, nhỏ, khó bắt, huyết áp hạ thấp không đo đƣợc.
Khi gặp trƣờng hợp này phải tiến hành chống sốc 1 cách tích cực và khẩn
trƣơng theo các phƣơng pháp tổng hợp sau:
+ An ủi, động viên,ủ ấm cho bệnh nhân và cho họ uống chè đƣờng nóng.
+ Tiêm thuốc giảm đau.
+ Tiến hành truyền dịch, truyền máu.
2.1.3 Triệu chứng tại chỗ
Đau: Cảm giác đau tự nhiên sẽ giảm dần, đặc biệt là sau khi đã cố định
chỗ gãy . Tuy nhiên khi ngón tay của ngƣời cấp cứu ấn đúng điểm gãy thì cảm giác
đau nhói sẽ tăng lên rõ rệt và khi gõ dồn từ cuối chi lên cơn đau sẽ xuất hiện ở nơi
bị gãy.
Mất cử động: Nạn nhân không thể tự nhấc chi lên đƣợc.
Biến dạng chi : Chi bị gãy đổi hình dạng và ngắn đi ( do 2 đầu xƣơng gãy
chồng lên nhau), vẹo lệch đi hoặc thay đổi hƣớng trục.
Cử động bất thường : Khi nạn nhân cố gắng nhấc chi bị thƣơng lên xuất
hiên những cử động bất thƣờng ở những chỗ không có khớp do 2 đầu xƣơng gãy
rời ra gây nên.
Tiếng lạo xạo: Thƣờng cảm nhận đƣợc khi sờ nắn vào chỗ gãy và tiếng lạo
xạo gãy xƣơng bao giờ cũng đi đôi với những cử động bất thƣờng.
2.1.4 Sơ cứu
45
Nhìn chung gãy xƣơng không nguy hiểm đến tính mạng của VĐV nhƣ 1 số
các chấn thƣơng khác nhƣng nếu coi thƣờng, không sơ cứu kịp thời đúng đắn thì
có thể sẽ dẫn đến những biến chứng nặng nhƣ sốc ảnh hƣởng đến quá trình điều trị.
Vì vậy khi gặp phải trƣờng hợp này cần phải xử lý 1 cách nghiêm túc và nếu vẫn
còn nghi ngờ thì cũng không nên xử lý nhƣ bị gãy xƣơng.
Phải ủ ấm cho nạn nhân nếu trời rét và cho uống nƣớc chè đƣờng nóng.
Cố định chi bị gãy và tuyệt đối không đƣợc để các đầu xƣơng gãy bị xê
dịch gây đau đớn và tổn thƣơng thêm các phần mềm nhƣ mạch máu, thần kinh…
xung quanh đồng thời chú ý đề phòng sốc. Nếu xƣơng gãy mà đầu xƣơng chƣa bị
di lệch thì việc giữ bất động chi bị thƣơng trở nên đặc biệt có hiệp quả.
Việc cố định chi bị thương nhất thiết phải tuân theo các nguyên tắc sau:
+ Khi sơ cứu không đƣợc nắn sửa chỗ gãy mà phải để nguyên hiện trạng để
cố định.
+ Không đƣợc cởi quần áo, dày dép … của nạn nhân vì làm nhƣ vậy sẽ gây
đau đớn hoặc di lệch đầu xƣơng ( nếu cần thiết thì chỉ đƣợc rạch đƣờng chỉ may ).
+ Nẹp phải đủ dài ( tốt nhất là dùng nẹp chuyên dụng) để cố định chắc chắn
khớp trên và khớp dƣới của chỗ bị gãy, tránh gây chèn ép làm tăng cơn đau ở
những đoạn đầu nẹp chỗ xƣơng lồi ra ( mắt cá, lồi xƣơng đùi…) phải cuốn băng
vải mềm hay đệm lót bằng bông.
+ Nẹp phải đƣợc cố định chắc chắn vào chi bị thƣơng để tạo thành 1 khối
thống nhất.
Đối với chi trên, sau khi băng xong phải băng chéo buộc chi vào thân mình
còn đối với chi dƣới sau khi nẹp cố định có thể buộc 2 chi vào nhau và dùng chi
lành đỡ cho chi gãy.
Nếu trƣờng hợp gãy xƣơng hở phải xử lý nhƣ với 1 vết thƣơng ( cầm máu ,
chống nhiễm trùng … ) rồi sau đó mới tiến hành cố định.
2.2 Sai khớp
Sai khớp ( hay trật khớp ) là sự sai lệch các diện khớp xảy ra do tai nạn,
chấn thƣơng làm thay đổi vị trí giải phẫu thông thƣờng, làm cản trở hoạt động tự
nhiên của khớp.
Sai khớp thƣờng do những tác động mạnh gián tiếp vào thân xƣơng (nhƣ
kiểu dòn bẩy) làm cho đầu xƣơng bật ra khỏi bao khớp, hoặc do những tác động
46
trực tiếp vào khớp làm cho đầu xƣơng bật ra ( trƣờng hợp này ít xảy ra hơn và
thƣờng có kèm theo gãy xƣơng ).
Trong hoạt động thể dục thể thao, do luôn phải thực hiện những động tác
nhanh mạnh, cho nên sai khớp thƣờng xảy ra đặc biệt là ở khớp khuỷu, khớp vai và
khớp ngón cái.
Khớp bị sai có thể bị lệch hoàn toàn, nhƣng cũng có thể chi sai lệch 1 phần
và trƣờng hợp này gọi là bán sai khớp.
2.2.1 Triệu chứng
Đau : Khi có tác động mạnh , bất ngờ trực tiếp hoặc gián tiếp vào khớp sẽ
gây nên những cơn đau dữ dội.
Mất cử động : Chi bị thƣơng chỉ để đƣợc ở 1 tƣ thế nhất định, không thay
đổi đƣợc và nếu cố tình thay đổi đƣợc thì sẽ rất đau. Nếu kéo khớp ngƣợc lại với tƣ
thế biến dạng rồi đột ngột bỏ tay ra để khớp tự do thì khớp sẽ trở lại vị trí biến
dạng ban đầu và trong y học điều này đƣợc gọi mà “Dấu hiệu lò xo”.
Biến dạng khớp: So với bên khớp lành, có thể thấy rõ chỗ trƣớc kia đầu
xƣơng lồi ra thì lại lõm vào và đầu xƣơng sẽ lồi ra chỗ khác , đồng thời khi sờ vào
ổ khớp sẽ thấy trống rỗng.
Dấu hiệu sai khớp vai : Vai có vẻ vuông hơn , hẹp hơn và gồ lên ở phía
trƣớc , cánh tay luôn bị dạng ra không áp vào đƣợc nhƣ bình thƣờng và tay luôn
ngửa ( bị xoay ra ngoài )
Dấu hiệu sai khớp khuỷu : Khuỷu hơi gập, mỏm khuỷu nhô cao về phía sau
làm cho cánh tay phía trƣớc nhƣ bị lõm vào và bệnh nhân thƣờng có động tác tay
lành đỡ ta đau
2.2.2 Xử lý
Tuy sai khớp phải đƣợc các thầy thuốc chuyên khoa chữa trị nhƣng việc sơ
cứu ban đầu là rất quan trọng và cần thiết. Khi sơ cứu cần đảm bảo các nguyên tắc
sau:
+ Tốt nhất là phục khớp ngay tại hiện trƣờng.
+ Khi phục khớp không đƣợc làm cho các tổ chức xung quanh bị tổn thƣơng
hoặc kẹp vào khớp.
+ Khi phục khớp phải đảm bảo hồi phục lại đƣợc công năng bình thƣờng.
47
+ Sau khi phục khớp phải đảm bảo hồi phục lại đƣợc công năng bình
thƣờng.
+ Phục khớp xong nên chiếu chụp X quang để kiểm tra xem khớp đã vào
hoàn toàn chƣa? Có mảnh xƣơng vỡ hoặc tổ chức phần mềm nào bị kẹp vào trong
khớp không?
2.2.3 Sai khớp vai
Do đặc điểm giải phẫu của khớp vai là lồi cầu xƣơng cánh tay to nhƣng hõm
khớp lại nhỏ, nông và sụn viền ít nên hoạt động của khớp rất linh hoạt ( khớp hoạt
động đa trục). Tuy nhiên do bao khớp to và lại ít dây chằng cho nên cũng là khớp
dễ bị sai nhất và cũng chiếm tỉ lệ cao nhất trong hoạt động thể dục thể thao.
Phân loại
Sai khớp vai đƣợc chia làm 2 loại là sai khớp phía trƣớc và sai khớp phía
sau, do sai khớp về phía sau thƣờng ít gặp trong hoạt động thể dục thể thao cho nên
trong phần này chỉ đề cập tới các trƣờng hợp sai khớp vè phía trƣớc, chấn thƣơng
thƣờng gặp trong thể thao cũng nhƣ trong sinh hoạt hàng ngày.
* Nguyên nhân
Vì bất kì lý do nào trong sinh hoạt cũng nhƣ trong tập luyện khi tay dạng từ
20 – 30o chếch về sau mà bàn tay hoặc khuỷu tay chạm đất thì đều có thể làm cho
lồi cầu xƣơng cánh tay trong hõm khớp vƣợt qua sụn viền ở phía trƣớc, bên dƣới
mỏm quạ xƣơng bả vai. Khi lồi cầu xƣơng cánh tay chệch khỏi hõm khớp mà vẫn
nằm trong bao khớp thì đƣợc gọi là sai khớp trong bao khớp, tùy thuộc vào mức độ
tác động của ngoại lực mà các tổ chức của khớp sẽ bị tổn thƣơng ở các mức độ
khác nhau nhƣ tổn thƣơng bao khớp, sụn, viền, ống vai …
2.2.4 Triệu chứng và chẩn đoán
Tuy chẩn đoán sai khớp về phía trƣớc tƣơng đối dễ nhƣng trong khi chẩn
đoán cũng cần phải hỏi kĩ về tƣ thế bị ngã và phải chú ý tới 1 số dấu hiệu lâm sàng
nhƣ:
+ Đau vai, gây trở ngại cho hoạt động (Chức năng của khớp mất hoàn toàn).
48
+ Cánh tay dạng cố định ở 1 góc từ 25 – 30o, độ phòng của cơ delta mất đi
(vai vuống góc), hõm nách đầy lên, lúc đứng và đi bao giờ cũng phải lệch ngƣời và
dùng bàn tay lành đỡ lấy khuỷu ( mỏm khuỷu ) của tay bên sai.
+ Kết quả thƣ nghiệm Dulas (+) tính (bàn tay bên sai không với tới bên vai
lành, khớp khuỷu không dựa đƣợc vào thành ngực).
+ Sờ thấy mỏm dƣới cùng vai lõm xuống, lồi cầu xƣơng cánh tay nằm dƣới
mỏm quạ hoặc dƣới xƣơng đòn.
+Dùng X quang chụp, chiếu thấy rõ sai khớp.
2.2.5 Phương pháp phục khớp vai
Phục khớp vai có rất nhiều phƣơng pháp,nhƣng thƣờng đƣợc sử dụng nhất
vẫn là phƣơng pháp phục khớp Kecher ( Phƣơng pháp đòn bẩy ). Đây là phƣơng
pháp đơn giản , an toàn và dễ thực hiện với các bƣớc cụ thể sau: Để nạn nhân nằm
ngửa, ngƣời phục khớp ngồi cạnh mặt hƣớng vào nạn nhân và dùng bàn chân phải
hoặc trái ( cùng chiều với bên vai sai ) tỳ vuông góc với nách nạn nhân. Ngƣời
phục khớp phải căn cứ vào độ daficura chân mình để điều chỉnh vị trí ngồi cho
thích hợp và sau khi đã điều chỉnh đƣợc vị trí ngồi thì bắt đầu tiến hành phục khớp
theo 2 bƣớc :
Bƣớc 1 : Ngƣời phục khớp xoay và nhẹ lách bàn chân vào nách nạn nhân rồi
dùng 2 tay nắm lấy bàn tay bên vai sai và từ từ, nhẹ nhàng kéo thẳng, hơi dạng ra
ngoài đồng thời xoay bàn chân để lòng bàn chân tỳ vuông góc vào nách của nạn
nhân.
Bƣớc 2 : Động tác tiếp theo, 2 tay nắm bàn tay bên sai và từ từ dùng sức kéo
căng hết mức ở tƣ thế dạng (để lồi cầu xƣơng cánh tay tụt xuống phía trƣớc, dƣới
hõm khớp ) đồng thời dùng lực của bàn chân bẩy cánh tay sang bên hết mức và từ
từ đƣa về phía bụng ( lúc này lồi cầu xƣơng cánh tay nằm dƣới hõm khớp, cao hơn
sụn viền) để nhờ sức kéo của cơ delta và nhóm cơ ống vai kéo lồi cầu vào hõm
khớp. Lúc này có thể cảm nhận sự di chuyển của lồi cầu vào hõm khớp và sau đó
mọi dấu hiệu lam sàng sẽ biến mất. Sau khi phục khớp phải dùng băng cố định
cánh tay bên sai vào thân và thời gian cố định sẽ tùy vào mức độ chấn thƣơng và
tuổi tác, sức khỏe của nạn nhân… Nhìn chung việc cố định thƣờng kéo dài từ 2 – 3
49
tuần và trong thời gian cố định cần thực hiện 1 số bài tập thể dục để đề phòng hiện
tƣợng cứng khớp, teo cơ và tăng tốc độ hồi phục. Đối với VĐV khi bị sai khớp thì
sau 2 tháng mới có thể tham gia tập luyện bình thƣờng và phải chú ý điều trị triệt
để bởi vì khớp vai rất có thể dẫn đến sai mãn tính.
2.2.6 Sai khớp khuỷu
Sai khớp Khuỷu là sai khớp thƣờng gặp trong các hoạt động thể dục thể thao
( sau sai khớp vai ) và cũng đƣợc chia làm 2 loại là sai khớp về phía trƣớc (mỏm
khuỷu chạy ra phía trƣớc, lồi cầu xƣơng cánh tay phía sau) và sai khớp về phía sau
( mỏm khuỷu ở phía sau, lồi cầu xƣơng cánh tay vƣợt qua mỏm vẹt nằm ở phía
trƣớc )
Nguyên nhân
Trong mọi trƣờng hợp khi khớp khuỷu đang gập mà bị lực mạnh tác động
trực tiếp vào phía sau làm gãy mỏm khuỷu thì đều sẽ dẫn đến sai khớp về phía
trƣớc, còn khi khớp khuỷu duỗi, hoặc dạng quá mức (ngã, bàn tay chống đất) làm
lồi cầu xƣơng cánh tay vƣợt qua mỏm vẹt sẽ dẫn đến sai khớp về phía sau. Đây là
loại sai khớp thƣờng gặp trong hoạt động thể dục thể thao, đặc biệt là các môn : thể
dục dụng cụ, bóng đá, bóng rổ, bóng ném, nhảy cao….
Triệu chứng và chẩn đoán
Chẩn đoán sai khớp thƣờng rất đơn giản: Nếu sai khớp về phía sau khớp
khuỷu thì khuỷu sẽ ở tƣ thế bán gấp, không gấp duỗi đƣợc, chi sai ngắn lại, khu
tam giác trƣớc phình to, đƣờng kính trƣớc sau khớp rộng ra, cục bộ sƣng to, sờ sau
khớp sẽ thấy mối quan hệ tam giác sau khớp thay đổi. ( Bình thƣờng mỏm khuỷu,
lồi cầu trong, ngoài khi gấp khớp khuỷu sẽ tạo thành hình tam giác cân, còn khi
duỗi khớp đỉnh của 2 lồi cầu và mỏm khuỷu sẽ nằm trên 1 đƣờng thẳng ).
Đối với sai khớp về phía trƣớc khi khớp khuỷu ở tƣ thế duỗi thẳng vị trí của
mỏm khủy sẽ thay đổi, mối quan hệ tam giác ở phía trƣớc và phía sau bị phá vỡ…
Phương pháp phục khớp
Đối với sai khớp về phía sau phƣơng pháp phục khớp tƣơng đối dề, nhƣng
nếu không thận trọng thì rất dễ làm gãy mỏm vẹt và làm cho chấn thƣơng trở thành
phức tạp hơn. Khi phục khớp tốt nhất nên thực hiện ngay tại hiện trƣờng và cũng
không cần phải gây tê cục bộ hoặc gây mê toàn thân. Phƣơng pháp cụ thể thƣờng
50
đƣợc tiến hành nhƣ sau: Để nạn nhân ngồi cao, cần hai ngƣời khỏe mạnh ( 1 chính,
1 phụ ), ngƣời phụ dùng hai tay nắm chặt vào chính giữ của nạn nhân, ngƣời chính
để hổ khẩu của tay phải hoặc trái ( cùng chiều với bên sai ) vào hõm khớp khuỷu,
ngón cái và bốn ngón còn lại vòng sang 2 bên và tay kia nắm chặt cổ tay của nạn
nhân ( động tác chuẩn bị). Sau khi đã chuẩn bị xong , ngƣời phục khớp chính duỗi
thẳng tay rồi từ từ dồn lực vào tay đè vào hõm khớp để đƣa dòng dọc của cánh tay
lên cao hơn mỏm vẹt. Khi đã đè hết sức thì từ từ làm động tác gấp khớp khuỷu để
nhờ lực kéo của cơ nhị đầu xƣơng cánh tay đƣa dòng dọc của xƣơng cánh ay vào
hõm sigma lớn của xƣơng trụ. Sau khi phục khớp phải dùng thuốc bó, băng dính
hoặc thạch cao để cố định khớp trong 2 – 3 tuần. Sau đó cho tập bằng các động tác
gấp duỗi các cơ ở khớp cổ tay và khớp khuỷu để tăng độ ổn định và khả năng hoạt
động của khớp. Đối với các động tác nhƣ xà đơn, vòng treo, san tô … thì thƣờng
phải sau từ 2 – 3 tháng mới có thể tham gia tập luyện.
III. Các bệnh thƣờng gặp trong tập luyện và thi đấu thể dục thể thao
Các bệnh thƣờng gặp trong tập luyện thi và đấu thể dục thể thao là do các
phản ứng rất mạnh của cơ thể dối với việc tập luyện thể dục thể thao gây ra , dẫn
đến sựu rối loạn chức năng sinh lý bình thƣờng của cơ thể. Vì vậy những nguyên
nhân chính dẫn đến các bệnh trong thể dục thể thao là việc tổ chức tập luyện không
khoa học, phƣơng pháp huấn luyện sai dẫn đến lƣợng vận động quá lớn gây vƣợt
giới hạn sinh lý cho phép của cơ thể VĐV.
1. Choáng trọng lực (shock )
Choáng trọng lực là 1 loại bệnh cấp tính xảy ra sau khi chạy về đích bị ngã
xuống mất tri giác tạm thời trong thời gian ngắn.
1.1 Nguyên nhân
Sau khi VĐV về tới đích, đột nhiên giảm tốc độ hoặc đứng dừng lại ngay mà
không tiếp tục vận động nhẹ nhàng thì rất dễ bị choáng ngất. Hiện tƣợng này xảy
ra khi vận động máu tập trung nhiều về các cơ quan vận động, lƣợng máu lƣu
thông trong tuần hoàn đƣợc tăng lên rõ rệt (gấp 30 lần so với yên tĩnh ). Nhờ vào
các động tác vận động làm các nhóm cơ phải luôn luôn co rút và thả lỏng nên máu
đƣợc lƣu thông trong vòng tuần hoàn dễ dàng. Khi cơ bắp dừng hoạt động đột
ngột, tốc độ máu lƣu thông trong mao mạch và tĩnh mạch bị cản trở, lại thêm trọng
lực bản thân của dịch máu, làm cho 1 lƣợng máu lớn tích tụ ở mạch máu chi dƣới ,
51
lƣợng máu về tim giảm, lƣu lƣợng máu qua tim thấp. Các yếu tố trên làm cho máu
lƣu thông lên não ít, kết quả là não thiếu máu, thiếu oxi đột ngột. Tóm lại choáng
trọng lực là do thiếu máu não gây nên.
1.2 Triệu chứng
Đột nhiên mất tri giác, choáng ngã xuống. Trƣớc khi ngã cảm thấy toàn
thân vô lực,hoa mắt, chóng mặt, ù tai, buốn nôn. Mặt tái xanh, vã mồ hôi, chân tay
lạnh. Tim đập chậm yếu , nhịp thở chậm, đồng tử của mắt co lại. Những triệu
chứng trên sẽ xuất hiện trong thời gian ngắn, cơ thể sẽ hồi phục dần. Nhƣng sau đó
còn có những hiện tƣợng nhƣ : nhức đầu, tinh thần không đƣợc thoải mái, ngƣời
cảm thấy nặng nề.
1.3 Xử lý ban đầu
Đƣa VĐV vào nơi thoáng mát (mùa hè) , ấm áp (mùa đông). Đặt VĐV nằm
ngửa, gối đầu thấp, nới lỏng quần áo để máu dễ lƣu thông. Lấy nƣớc ấm xoa
ngƣời, dùng động tác xoa đẩy từ cẳng chân lên đùi để đẩy máu về tim. Châm cứu
hoặc ấn huyệt Nhân trung, Bách hội, Hợp cốc, Dũng tuyền là có thể làm cho VĐV
tỉnh lại.
1.4 Phòng ngừa
Trong khi tập luyện và thi đấu phải luôn nhắc nhở VĐV khi về tới đích
không dừng lại ngay mà phải chạy với tốc độ giảm dần, hít thở sâu nhịp nhàng
trong khoảng thời gian trong khoảng thời gian thích hợp để cho hệ thống tuần hoàn
và hô hấp đƣợc hồi phục.
2. Đau bụng trong tập luyện
Đau bụng là chứng bệnh thƣờng gặp nhất trong quá trình tập luyện. Ở 1 số
môn thể thao nhƣ : Chạy cự ly trung bình, chạy dài, maratong , bóng rổ… số ngƣời
bị nhiều hơn. Trong đó 1/3 nguyên nhân không phải xuất phát từ bệnh, mà là do 1
vài yếu tố tập luyện thể dục thể thao gây ra. Đại đa số khi yên tĩnh không đau,
trong tập luyện mới xuất hiện. Quá trình đau phụ thuộc vào lƣợng vận động, cƣờng
độ vận động và tốc độ vận động…
2.1 Nguyên nhân
Một vài nhân tố có liên quan đến sự phát sinh ra đau bụng trong tập luyện
thể dục thể thao là tập luyện không đầy đủ,trình độ tập luyện thấp, chuẩn bị khởi
52
động không tốt, không kỹ, sức khỏe không đảm bảo , mệt mỏi, tinh thần căng
thẳng; các động tác hoạt động kết hợp với thở không nhịp nhàng; chế độ ăn uống
không hợp lý, thức ăn trong dạ dày không kịp tiêu hóa ; tốc độ và cƣờng độ vận
động tăng quá nhanh hoặc quá đột ngột.
Nguyên nhân chủ yếu của đau bụng trong tập luyện bao gồm:
+ Trình độ tập luyện kém nên phải thực hiện hoạt động với cƣờng độ cao,
máu ở tĩnh mạch trở về tim bị cản trở,máu tập trung nhiều ở gan, làm cho màng
gan và lách căng lên dẫn đến đau bụng.
+ Phƣơng pháp thở không đúng nhất là sự phối hợp giữa các động tác với
nhịp thở không tốt làm quan hệ của tuần hoàn – hô hấp và máu bị rối loạn. Máu
đọng lại nhiều ở tĩnh mạch và nội tạng dẫn đến đau bụng. Một yếu tố nữa là thở
quá gấp làm cho hoạt động của cơ hoành bị rối loạn, cơ hoành thiếu oxi hoặc bị
chuột rút dẫn đến đau bụng.
+ Chuẩn bị hoạt động không tốt hoặc bắt đầu chạy quá nhanh làm cho chức
năng của hệ tiêu hóa không thích nghi( ống tiêu hóa bị thiếu máu , thiếu oxy gây ra
rối loạn co thắt nhu động ruột) sinh ra đau bụng. Sau khi ăn xong tập luyện ngay,
thức ăn chƣa khịp tiêu hóa, tích tụ lại ở dạ dày làm chƣớng bụng, căng màng ruột
và màng dạ dày cũng dẫn đến đau bụng.
Ngoài các nguyên nhân do tập luyện gây ra, còn có các nguyên nhân thƣờng
gặp khác do bệnh tật nhƣ : Viêm gan, các bệnh về đƣờng ruột (nhƣ vêm túi mật,
sỏi mật ....), viêm ruột thừa…
2.2 Triệu chứng
Trƣớc tập luyện không thấy đau bụng. Khi khởi động và bƣớc vào phần
trọng động ( phần cơ bản của buổi tập ) thì thấy đau ở vùng hạ sƣờn phải, hạ sƣờn
trái. Lúc đầu vào cảm thấy đỡ, sau đó cơn đau lại tăng lên và không thể tiếp tục tập
luyện đƣợc. Dừng tập luyện thì cơn đau giảm dần và cảm thấy dễ chịu hơn. Nếu
tiếp tục tập lại xuất hiện đau bụng.
2.3 Xử lý
Nếu xuất hiện đau bụng nhẹ, dùng tay ấn vào chỗ đau, giảm tốc độ vận
động, thở sâu và nhịp nhàng trong thời gian từ 5 – 10 phút có thể khỏi. Nếu đau
nặng quá thì phải dừng tập luyện, mời bác sĩ đến khám xác định nguyên nhân để
điều trị cho đúng.
53
2.4 Phương pháp phòng ngừa
+ Tăng cƣờng huấn luyện toàn diện cho VĐV
+ Trƣớc khi tập luyện không đƣợc ăn quá no, uống quá nhiều. Sau khi ăn no
cần đƣợc nghỉ ngơi từ 90 – 120 phút mới đƣợc tập luyện.
+ Trƣớc khi tập cần phải khởi động kỹ càng, chú ý các động tác hoạt động
phải kết hợp với thở nhịp nhàng và thở sâu.
+ Phải tuân thủ các nguyên tắc trong thể dục thể thao nhất là nguyên tắc tăng
tiến.
3. Chuột rút
Chuột rút là hiện tƣợng cơ bắp bị co cứng không chủ động duỗi ra đƣợc.
Trong tập luyện thể dục thể thao thƣờng gặp hiện tƣợng chuột rút ở cơ tam đầu
cẳng chân, nhóm cơ gấp ngón bàn chân thứ nhất và nhóm cơ bụng.
3.1 Nguyên nhân
+ Do bị lạnh: Tập luyện trong những ngày thời tiết lạnh rét, nếu khởi động
không kỹ thì cơ bắp dễ bị chuột rút. Hay bị nhiều nhất ở các môn thể thao: Bơi lội,
điền kinh và những môn bóng.
+ Trong cơ thể mất nhiều chất điện giải: Tập luyện trong điều kiện trời nóng
nực, oi bức, cơ thể ra nhiều mồ hôi làm mất nhiều nƣớc mà muối. Khi đó cơ thể sẽ
bị rối loạn các chất điện giải và bị thiếu muối. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến
chuột rút.
+Trong tập luyện và thi đấu, việc cơ bắp luôn phải co rút nhanh và thả lỏng
không đầy đủ hoặc quá ngắn, trong một thời gian dài sẽ bị chuột rút. Nguyên nhân
này thƣờng gặp ở những VĐV mới tập hoặc trình độ tập luyện còn thấp.
+Tập luyện mệt mỏi: Khi cơ thể mệt mỏi, việc đào thải các sản phẩm trao
đổi chất giảm, trong cơ bắp bị tích tụ lƣợng axit lactic lớn. Đây chính là nguyên
nhân lam cho cơ bắp bị co cứng và gây ra hiện tƣợng chuột rút.
3.2 Triệu chứng
Cơ bị co cứng không tự thả lỏng đƣợc, sờ vào nhóm cơ bị chuột rút thấy
cứng chắc và rất đau. Ngƣời bị chuột rút không thể tiếp tục hoạt động đƣợc nữa.
3.3 Xử lý
Khi cơ bị chuột rút không nghiêm trọng thì chỉ cần kéo căng cơ bị chuột rút
theo hƣớng ngƣợc lại đến lúc cơ đó không tự co lại nữa.
54
Ví dụ: Khi cơ tam đầu chân bị chuột rút làm cho bàn chân duỗi thẳng ra.
Cách xử lý là dùng lực đẩy mũi bàn chân để gấp mu bàn chân lên cẳng châ. Sau đó
dùng các kỹ thuật xoa bóp để xoa bóp cục bộ cơ bị chuột rú. Chú ý sử dụng lực
xoa bóp tƣơng đối mạnh, có thể bấm huyệt và châm cứu.
Nếu bị chuột rút ở dƣới nƣớc thì cần phải nhanh chóng đƣa nạn nhân lên bờ
sau đó mới xử lý.
3.4 Phương pháp phòng ngừa
+ Tập luyện đúng và đủ khối lƣợng tùy theo trình độ VĐV
+ Ăn uống đầy đủ, bổ sung muối và nƣớc, chuẩn bị khởi động kỹ trƣớc khi
vào tập luyện và thi đấu, mùa đông xuống nƣớc cần lấy nƣớc lau qua ngƣời để cơ
thể thích nghi dần với lạnh
+ Tăng cƣờng huấn luyện toàn diện cho VĐV
PHẦN II . LÝ LUẬN CÁC MÔN THỰC HÀNH TDTT
CHƢƠNG 1. THỂ DỤC DỤNG CỤ ( XÀ KÉP, XÀ LỆCH )
I. Khái niệm – Lịch sử phát triển.
1. Khái niệm
Thể dục dụng cụ là môn thể thao mang tính nghệ thuật cao đƣợc mọi ngƣời
ƣa thích. Là môn thể thao hỗn hợp, gồm nhiều dụng cụ, só lƣợng động tác phong
phú và độ phức tạp cao, nên phƣơng pháp giảng dạy và huấn luyện thể dục mang
những nét đặc biệt mà nhiều môn thể dục khác không thể có đƣợc.
2. Lịch sử phát triển
Các bài thể dục phát triển xuất hiện từ thời xa xƣa. Những di sản văn hóa ,
nghệ thuật để lại đã xác định rằng : các bài tập thể dục và nhào lộn đã đƣợc sử
dụng nhằm mục đích chứng minh sức mạnh và sự khéo léo của con ngƣời trong
những ngày hội lớn ở Ấn Độ, Trung Quốc cổ đại, và các nƣớc Châu Á khác. Song,
thể dục nhƣ một biện pháp và phƣơng pháp giáo dục đã đƣợc phát triển ở thời cổ
Hi Lạp, còn ở thời cổ La Mã ,để huấn luyện binh lính, ngƣời ta đã sử dụng các
dụng cụ thể dục. Các tƣ liệu khảo cổ học để lại thừa nhận rằng : Ở 1 số bộ lạc Nam
55
Mỹ, vào trƣớc thời kì câm lƣợc của chủ nghĩa Tƣ Bản Bắc Mỹ, đã áp dụng những
bài tập đơn giản ở xà đơn và xà nhào lộn.
Vào thời Phục Hƣng, song song với các bài tập thể dục dụng cổ cổ điển,
trong giáo dục thể lực ngƣời ta đã sử dụng các bài tập trên dụng cụ. Cuối thế kỉ
XVIII , đầu thế kỉ XIX các bài tập thể sục dụng cụ đƣợc sử dụng rộng rãi trong hệ
thống thể dục của Đức. Trong cuốn sách của Gút-Mút “ Thể dục thanh niên”
(1793) ông đã mô tả các động tác xà đơn, xà kép, các động tác thăng bằng trên cầu
thăng bằng. Để kích thích học tập, các cuộc thi đấu đã đóng góp lớn vào công cuộc
sửa soạn về kĩ thuật các bài tập trên các dụng cụ thể dục là Ian, Friden, Âyđêlen.
Các ông đã xuất bản sách giáo khoa “Thể dục Đức” ,trong đó các tác giả miêu tả
tất cả các bài tập thẻ dục dụng cụ của thời kì này. Khi thực hiện bài tập đòi hỏi tƣ
thế đầu phải giữ thẳng thắn,mũi chân duỗi, tƣ thế đứng ngay ngắn khi đứng
nghiêm, khi di chuyển phải theo đƣờng thẳng để thực hiện các yêu cầu trên, phải
biết tự chủ bản thân . Trong các buổi học, thƣờng áp dụng phƣơng pháp thi đấu,
nhằm nâng cao sự chú ý, tính hứng thú của học sinh.
Sau này, hệ thống thể dục Sôcôn của Tiệp Khắc đã có nhiều công lao trong
việc soạn thảo kỹ thuật của bài tập thê dục. Ngƣời sáng lập hệ thống thể dục Sôcôn
là giáo sƣ lịch sử và nghệ thuật trƣờng Đại học Tổng hợp Praha M.turoso. Ông đã
dùng các bài tập gồm các động tác có sức hấp dẫn, hình thức đẹp trên các dụng cụ.
Các động tác này còn đƣợc áp dụng trên các bài tập thê dục dụng cụ cho đến tận
ngày nay. Ngoài ra Hệ thống thể dục Sôcôn còn sử dụng các bài tập với dụng cụ và
tay không…
Từ năm 1862, thi đấu thể dục đƣợc tiến hành theo luật lệ chuyên môn đƣợc
soạn thảo ở thời kì này
Chƣơng trình thi đấu đầu tiên đƣợc tiến hành năm 1862, gồm các môn : Thể
dục tự do, nhảy xa, nhảy cừu, ngựa vòng, xà đơn, xà kép, vòng treo, thang trếch…
Vào những giai đoạn khác nhau ,trong từng cộc thi còn đƣa vào chƣơng trình các
môn phụ khác , song các môn hỗn hợp chính vẫn đƣợc giữ lại. Chƣơng trình thi
đấu của nƣớc Nga cũng đƣợc tuân theo nguyên tắc này.
Đại chiến thế giới lần thứ I ( Năm 1914 – 1918 ) , chƣơng trình thi đấu thể
dục vẫn còn các môn điền kinh, các bài tập mang vác,bắn cung góp phần phát triển
thể lực toàn diện và huấn luyện quân sự. Sau này với sự xuất hiên tiêu chuẩn rèn
56
luyện thân thể để bảo vệ tôt quốc, thi đấu thể dục đƣợc ổn định dàn theo các môn
hỗn hợp chính. Điều đó cho phép chú ý nhiều hơn đến nắm vững các động tác
phức tạp,có độ khó cao hơn.
Sau Thế chiến II, thể dục dụng cụ phát triển với nhịp độ nhanh dần. Nguyên
nhân thì có nhiều, nhƣng sự tham gia của các VĐV thể dục Xô Viết và các nƣớc
XHCN khác trong các cuộc thi vô địch thế giới và thi đấu Olympic, đã kích thích
sự phát triển của môn thể thao này vào những năm 1950, đã diễn ra sự thay đổi to
lớn về luạt thi và chƣơng trình thi đấu , quy định 6 môn cho nam và 4 môn cho nữ.
Luật thi đấu và trọng tài thƣờng xuyên đƣợc hoàn thiện, nên các yêu cầu về
độ khó và kết cấu bài tập, cũng nhƣ trình độ thực hiện cũng đã khác biệt rõ rệt
hơn.Nhƣng gần đây, ngƣời ta đặc biệt khuyến khích những bài liên hợp đẩm bảo 3
tiêu chuẩn: Động tác nguy hiểm, Sự độc đáo và Tính chính xác. Điều đó có nghĩa
là VĐV có thể đƣợc thêm điểm nếu nhƣ trình độ diễn bài có những động tác khó
và mạo hiểm, kết cấu độc đáo, thực hiện thành thạo và điêu luyện.
II. Đặc điểm
Các bài tập trên xà bao gồm các động tác lăng, dùng sức và các tƣ thế tĩnh.
Các bài trên xà là những phƣơng tiện rất tốt để phát triển sức mạnh các nhóm cơ,
tay, thân – mình và vùng bả vai ,đồng thời phát triển khả năng phối hợp vận động,
xác định cảm giác không gian chính xác, bồi dƣỡng tinh thần dũng cảm và lòng
kiên trì.
Khi thực hiện các bài tập lăng trên xà ở tƣ thế chống thì trục vai (trục phải-
trái) trở nên di động trên điểm chống, cố định ở khớp cổ tay. Do đó vai và chân của
ngƣời tập luyện chuyển động ngƣợc nhau, nhờ vậy mà cơ thể giữ thăng bằng.
Ngƣời tập cần phải phối hợp cử động của mình 1 cách chính xác, điều chỉnh
các hoạt động khi tính chất chuyển động thay đổi và đặc biệt khi tăng biên độ của
các động tác.
Bắt đầu luyện tập môn xà, nên học từ các động tác đơn giản và thích hợp
nhƣ : các tƣ thế treo, chống, chống lăng di chuyển… để xay dựng tƣ thế đúng đầu
tiên nên làm các bài tập này trên xà thấp và xà trung bình. Khi tập các động tác khó
57
phải sử dụng các phƣơng tiện hỗ trợ, bảo hiểm. Trình tự tập luyện các bài tập trên
xà phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và thể lực của ngƣời học.
Đặc điểm của các động tác trên xà là sự thay đổi tính chất nhanh chóng , sự
luân phiên của các động tác có đà lăng, động tác tĩnh, và dùng sức , do đó trong 1
bài tập liên hợp dài vẫn có điều kiện nghỉ ngơi tích cực.
Lƣợng vận động viên tập trung vào các nhóm cơ vai, cơ tay. Ngoài ra còn có
sự đóng góp sức của cơ thành bụng, lƣng, hông nên cần chú ý đúng mức đến việc
tập luyện để phát triển những nhóm cơ trên và độ linh hoạt của các khớp đó.
III. Kỹ thuật bài liên hoàn xà kép
1. Tƣ thế khi vào xà: Đi vào giữa xà từ 2 phía đầu xà (không chui qua
xà) . Khi vào giữa xà thân ngƣời đứng nghiêm, đƣa 2 tay sang ngang song song
mặt đất, lòng bàn tay úp – hạ thấp trọng tâm sử dụng lực nhóm cơ chân bật
nhảy lên cao tách tay sang 2 bên bắt vào xà, lòng bàn tay hƣớng vào trong
(ngón cái phía trên, 4 ngón còn lại ở phía dƣới). Cơ thể lúc này đƣợc treo trên
xà bởi trục của 2 vai.
2. Tạo đà lăng lên sau rồi chống : Từ tƣ thế treo động tác đƣợc thực
hiện theo 2 nhịp :
Nhịp 1: Từ tƣ thế treo, thân ngƣời thẳng,dùng sức gập hông đƣa chân ra
trƣớc – lên cao. Duỗi các ngón cơ hông, đùi, cẳng chân tạo thành đà lăng chân.
Khi hết đà lăng từ vị trí đó để thân ngƣời chuyển động tự nhiên xuống dƣới qua
phƣơng thẳng đứng dùng sức của đùi lăng chân ra sau lên cao.
Nhịp 2: Khi đà trở lại, qua vị trí thẳng đứng dƣới( thân thẳng, mũi chân
duỗi thẳng) , lăng chân theo hƣớng ra trƣớc – lên cao. Quá trình lăng tạo biên
độ lớn nhất rồi lại để cơ thể đi xuống qua phƣơng thẳng đứng, tích cực lăng
chân ra sau – lên cao. Chân lên cao mặt xà, đồng thời thực hiện đẩy tay nâng
thân lên, vai đƣa về trƣớc chuyển động thành chống, tay duỗi thẳng trƣớc khi
kết thúc đà lăng. Theo quán tính đà lăng đƣa cơ thể di chuyển về trƣớc.
3. Chuối vai: Khi thành chống, đà lăng tiếp tục ra sau, qua phƣơng thẳng
đứng, dùng sức của đùi lăng mạnh chân ra sau lên cao. Khi thân ngƣời gần đến
vị trí chuối, ngƣời tập co tay , từ từ hạ vai xuống xà, khuỷu tay mở sang bên.
Thân ngƣời khống chế thẳng. Dừng lại 3 giây ở tƣ thế chuối vai.
4. Đổ nghiêng – Tiếp đất
58
Từ tƣ thế chuối vai, chống tay nghiêng ngƣời về 1 bên cơ thể sẽ từ từ đổ
ra ngoài ( Cơ thể đổ về bên nào thì buông tay đang nắm bên xà đối diện) . Khi
tiếp đất chùng gối hoãn xung, 1 tay nắm xà, 1 tay đƣa lên cao.
IV . Kỹ thuật bài liên hoàn xà lệch
1. Treo lăng tách chân vƣợt xà thấp thành treo nằm trên xà thấp
Có 2 cách thực hiện động tác :
Cách thứ nhất : Từ tƣ thế đứng, 2 tay đƣa ra sau khuỷu gối, bật rút hông
hai chân tách sang ngang đƣa về trƣớc lên cao, 2 tay bắt xà cao ( 4 ngón nhỏ
phía trên, ngón cái phía dƣới tạo thành hình vòng khuyên). Sau đó nhanh chóng
gập khớp hông, hai tay đá sang ngang, nhanh chóng khép chân trƣớc mặt nâng
hông hai chan đƣa về trƣớc thành tƣ thế treo nằm trên xà thấp.
Cách thứ hai : Từ tƣ thế treo xà cao, lăng chân ra sau thân ngƣời ƣớn
căng, vai hơi đƣa về trƣớc , mắt nhìn thẳng. Sau đó nhanh chóng gập khớp hông
hai tay đá sang ngang , chân chống nhanh chóng khép chân trƣớc mặt, nâng
hông. Hai chân đƣa về trƣớc thành tƣ thế treo nằm trên xà thấp.
2. Ke thân
Từ tƣ thế treo nằm trên xà thấp, thân ngƣời ƣỡn căng, ổn định tƣ thế từ 2-
3s tách chân phải lên cao vuông góc với thân ngƣời, thực hiện kĩ thuật đổi tay
xoay lật thân 360o đồng thời tay trái chuyển về sau , tay nắm xà thấp thực hiện
theo các ke thân lần 1, 2 thân duỗi thẳng tạo thành 1 góc khoảng 30 – 45o so với
xà thấp từ từ hạ chân: chân trái duỗi thẳng đùi chân phải áp sát mặt nhìn thẳng,
tay phải nắm xà cao, tiếp tục thực hiện ke thân lần 2. Sau đó thu chân trái về
chống trên mặt xà thấp, dùng lực của 2 tay kết hợp với chân trái đứng lên.
3. Thăng bằng sấp
Từ tƣ thế đứng trên xà thấp tay phải nắm xà cao, quay tay trái vòng từ
dƣới lên trên ra sau 360o, đồng thời thân ngƣời và tay trái đổ về trƣớc, chân
phải duỗi hết ra sau tạo thành tƣ thế thăng bằng sấp trên xà.
- Từ tƣ thế thăng bằng sấp đƣa chân phải qua xà cao. Đổi tay thực hiện
chống mũi chân phải ra trƣớc, tay trái đƣa lên cao, mắt nhìn theo tay,đƣa chân
phải về trƣớc miết xuống dƣới ra sau tay trái nắm xà thấp thực hiện động tác tạo
59
đà lăng chuỗi tay, tay phải chuyển từ xà cao xuống nắm tay xà thấp gập hông
kết khúc động tác khuỵu chân, tay trái đƣa lên cao.
V. THỂ DỤC NHỊP ĐIỆU
1. Bài tập của nam ( 16 động tác)
- Động tác 1.
- Động tác 2.
- Động tác 3.
60
- Động tác 4.
- Động tác 5.
- Động tác 6.
- Động tác 7.
- Động tác 8.
- Động tác 9.
61
- Động tác 10.
- Động tác 11.
- Động tác 12.
- Động tác 13.
- Động tác 14
-
-
-
- Động tác 15.
62
- Động tác 16.
2. Bài tập của nam
- Động tác 1.
- Động tác 2.
- Động tác 3.
- Động tác 4.
-
-
-
- Động tác 5.
63
-
- Động tác 6.
Động tác 7.
- Động tác 8.
- Động tác 9.
- Động tác 10.
64
- Động tác 11.
- Động tác 12.
- Động tác 13.
- Động tác 14.
- Động tác 15.
65
Động tác 16.
CHƢƠNG 2. MÔN ĐIỀN KINH
Điền kinh là một môn thể thao có lịch sử lâu đời nhất, đƣợc ƣa chuộng và phổ biến
rộng rãi trên thế giới. Với nội dung rất phong phú và đa dạng, điền kinh chiếm một
vị trí quan trọng trong chƣơng trình thi đấu của các đại hội thể thao Olympic quốc
tế và trong đời sống văn hóa thể thao của nhân loại.
I. KHÁI NIỆM
Điền kinh là một môn thể thao đa dạng, nó bao gồm các nội dung: đi bộ,
chạy, nhảy, ném đẩy và nhiều môn phối hợp. Điền kinh, từ chính thức đƣợc dùng ở
nƣớc ta, thực chất là một từ Hán – Việt dùng để biểu thị những hoạt động tập luyện
và thi đấu ở trên sân (điền) và trên đƣờng chạy (kinh). Nó có nghĩa tƣơng ứng với
từ Aletic trong tiến Hy Lạp cổ, Athletics trong tiếng Anh. Một số ít nƣớc trên thế
giới (Nga, Bungari…) còn dùng từ “Điền kinh nhẹ” để phân biệt với môn cử tạ
“Điền kinh nặng”.
II. PHÂN LOẠI MÔN ĐIỀN KINH
Điền kinh đƣợc phân loại theo hai cách chủ yếu sau:
- Cách thứ nhất: phân loại theo nội dung.
66
Điền kinh đƣợc chia thành 5 nội dung chính gồm: đi bộ - chạy – nhảy – ném
đẩy và nhiều môn phối hợp.
- Cách thứ hai: phân loại theo tính chất hoạt động
Dựa theo tính chất hoạt động của môn điền kinh, ngƣời ta phân thành: Hoạt
động có chu kỳ (gồm đi bộ và chạy) và hoạt động không có chu kỳ (gồm các môn
nhảy – ném đẩy và nhiều môn phối hợp).
Trong mỗi nội dung có rất nhiều các môn cụ thể đƣợc phân biệt theo cự ly
hoặc theo đặc điểm vận động.
1. Đi bộ thể thao:
Cự ly tập luyện và thi đấu từ 3-50km là những môn thi trong các đại hội thể
thao.
2. Chạy:
2.1 Chạy trong sân vận động:
- Chạy cự ly ngắn: bao gồm các cự ly từ 20m đến 400m. Trong đó: chạy
100m,
200m, 400m là các môn thi trong các đại hội thể thao Olympic.
- Chạy cự ly trung bình: bao gồm các cự ly từ 500m đến 2.000m. Trong đó,
các môn chạy 800m đến 1.500m là các môn thi của đại hội thể thao Olympic.
- Chạy cự ly dài: bao gồm các cự ly từ 3.000m đến 30.000m. Trong đó, các
môn chạy 3.000m (nữ), 5.000m và 10.000m (nam) là các môn thi của đại hội thể
thao Olympic.
2.2 Chạy trên địa hình tự nhiên:
Chạy trên địa hình tự nhiên có thể từ 500m đến 50.000m. Trong đó, môn
chạy Marathon (42.195m) là môn thi trong đại hội thể thao Olympic. Ngoài ra, các
cuộc thi chạy việt dã, chạy Marathon còn đƣợc tổ chức riêng cho các khu vực hoặc
các quốc gia trong hệ thống thi đấu của Liên đoàn Điền kinh nghiệp dƣ quốc tế.
2.3 Chạy vượt chướng ngại vật: chạy vƣợt chƣớng ngại vật bao gồm chạy
vƣợt rào từ 80m đến 400m và chạy 3.000m vƣợt chƣớng ngại. Trong đó, các môn
chạy vƣợt rào 100m (nữ), 110m (nam), 200m và 400m rào, 3.000m vƣợt chƣớng
ngại vật là những môn thi đấu trong đại hội thể thao Olympic.
2.4 Chạy tiếp sức: chạy tiếp sức bao gồm: chạy tiếp sức cự ly ngắn (từ 50m
đến 400m), tiếp sức cự ly trung bình (từ 800m đến 1.500m) và chạy tiếp sức hỗn
67
hợp (800m + 400m + 200m + 100m; 400m + 300m + 200m + 100m…). Trong đó,
các môn chạy tiếp sức 4 x 100m và 4 x 400m là các môn thi của đại hội thể thao
Olympic.
3. Nhảy:
Bao gồm các môn: nhảy xa, nhảy 3 bƣớc, nhảy cao, nhảy sào. Các môn này
đều có trong chƣơng trình thi đấu của đại hội thể thao Olympic. Ngoài ra, còn có
các môn nhảy xa, nhảy cao không đà (tại chỗ nhảy xa, nhảy cao) đƣợc dùng để tập
luyện và kiểm tra thể lực.
4. Ném đẩy:
Ném đẩy bao gồm các môn: ném bóng, ném lựu đạn, ném đĩa, ném lao, ném
tạ xích và đẩy tạ. Trong đó, ném lao, ném đĩa, ném tạ xích và đẩy tạ là những môn
thi của đại hội thể thao Olympic.
5. Nhiều môn phối hợp:
Là nhóm môn có nhiều môn phối hợp trong thi đấu và đánh giá thành tích
bằng cách cộng điểm các nội dung thi đấu với nhau. Có thể có 3, 4, 5, 7 và 10 môn
phối hợp, trong đó 7 môn phối hợp của nữ (chạy 100m rào, đẩy tạ, nhảy cao, chạy
200m, nhảy xa, ném lao, chạy 800m) và 10 môn phối hợp của nam (chạy 100m,
nhảy xa, đẩy tạ, nhảy cao, chạy 400m, chạy 110m rào, ném đĩa, nhảy sào, ném lao
và chạy 1.500m) là những môn thi chính thức trong đại hội thể thao Olympic.
III. SƠ LƢỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÔN ĐIỀN KINH
1. Nguồn gốc hình thành và phát triển môn điền kinh:
- Đi bộ, chạy, nhảy, ném là hoạt động tự nhiên của con ngƣời. Từ thời đại
nguyên thủy ngƣời ta đã biết sử dụng các hoạt động tự nhiên nhƣ: chạy, nhảy, ném
để làm phƣơng tiện sinh sống và tự vệ, dần dần hình thành các trò chơi vận động,
các cuộc thi đấu và nó thu hút mọi ngƣời tập luyện.
- Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến các bài tập điền kinh chiếm vị
trí quan trọng trong việc rèn luyện thể lực và kỹ thuật chiến đấu. Bài tập điền kinh
đƣợc loài ngƣời sử dụng từ thời cổ Hy Lạp. Lịch sử phát triển của nó đƣợc ghi
nhận trong cuộc thi đấu chính thức vào năm 776 trƣớc Công nguyên (còn gọi là
Olympic cổ đại,trong thi đấu gồm 5 môn: chạy rào, ném đĩa, ném lao, chạy dài và
68
môn vật, đều là những môn có trong đời sống và chiến tranh. Olympic kéo dài
1.000 năm thì bị hủy bỏ).
- Trong chế độ tƣ bản, điền kinh đƣợc phát triển và hiện đại dần. Năm 1837,
tại thành phố Legpi (Anh) cuộc thi đấu 2 km đầu tiên đƣợc tổ chức.
- Từ năm 1851, các môn chạy tốc độ, vƣợt chƣớng ngại vật, nhảy xa, nhảy
cao, ném vật nặng đƣợc đƣa vào thi đấu ở các trƣờng đại học Oxfo, Kemboria của
Anh.
- Từ năm 1886 – 1888, môn điền kinh đƣợc đƣa vào chƣơng trình thi đấu ở
nhiều nƣớc: Pháp, Mỹ, Đức, Nga, Na Uy…
- Năm 1896, việc khôi phục truyền thống của đại hội thể thao Olympic tại
Aten (Hy Lạp). Môn điền kinh trở thành nội dung chủ yếu trong chƣơng trình Thế
vận hội.
- Năm 1912, Liên đoàn điền kinh nghiệp dƣ quốc tế IAAF (International
Amateur Athletic Federation) ra đời. Đây là tổ chức tối cao lãnh đạo phong trào
điền kinh toàn thế giới. Hiện nay có 209 thành viên là các Liên đoàn điền kinh
quốc gia ở các Châu lục, trong đó có Liên đoàn điền kinh Việt Nam. HIện nay, trụ
sở của Liên đoàn điền kinh nghiệp dƣ quốc tế đặt tại Monaco.
- Thành tích môn điền kinh ngày một phát triển và vƣơn tới đỉnh cao, bên
cạnh là sự hoàn thiện của các bài tập điền kinh, nhờ các nhà khoa học đã luôn tìm
ra phƣơng pháp huấn luyện và cải tiến kỹ thuật nhƣ: trƣớc kia kỹ thuật nhảy cao là
kiểu “cắt kéo”, nay đã có đổi mới là kiểu nhảy “lƣng qua xà” thành tích cao hơn
kiểu “cắt kéo”…Đồng thời cũng nhờ vào phƣơng tiện tập luyện thay đổi nhƣ:
đƣờng chạy trƣớc kia là đƣờng đất nay đã có đƣờng chạy là đƣờng nhựa tổng hợp,
trƣớc kia khu vực rơi của nhảy cao làm bằng cát nay đã có nệm mút xốp…Luật lệ
thi đấu cũng thay đổi theo tiến độ kỹ thuật nhƣ: kích thƣớc, góc độ sân bãi, trọng
lƣợng của dụng cụ…cũng thay đổi.
2. Sơ lược phát triển điền kinh Việt Nam:
Trong lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh sinh tồn, dựng nƣớc và giữ nƣớc của
dân tộc Việt Nam, tổ tiên chúng ta đã rất quen thuộc với các hoạt động đi bộ, chạy,
nhảy, ném d9ey63. Lịch sử đã ghi nhận một chiến công, dƣới sự lãnh đạo của vị
anh hùng dân tộc Quang Trung, hàng chục vạn quân Tây Sơn đã hành quân thần
69
tốc ba ngày đêm từ Phú Xuân (Bình Định) đến Thăng Long đánh tan quân Thanh
xâm lƣợc, giành độc lập cho Tổ quốc.
Động lực phát triển môn điền kinh đã tiềm ẩn trong lịch sử sinh tồn, dựng
nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam.
Trong thời gian dài thực dân Pháp đô hộ nƣớc ta, đƣơng nhiên môn điền
kinh phát triển rất chậm và yếu ở cả Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Theo tờ báo
“Tƣơng lai Bắc kỳ” (bằng tiếng Pháp), cuộc thi đấu điền kinh đầu tiên tại Hà Nội
vào tháng 4/1925 bao gồm 9 môn (chạy 100m, 110m rào, 400m, 1.500m, nhảy cao,
nhảy sào, đẩy tạ, ném đĩa, phóng lao). Thành tích thi đấu còn rất thấp nhƣ: chay
100m nam 11,3 giây, chạy 1.500m nam 4 phút 56 giây 4, đẩy tạ nam 10,45m…
Qua nhiều năm chiến đấu gian khổ dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, dân tộc ta đã giành đƣợc độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên
ngôn Độc lập, khai sinh nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945, mở
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc ta. Nhƣng ngay sau đó, thu757c dân
Pháp đã quay trở lại xâm lƣợc. Dƣới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), toàn quân, toàn dân
ta đã tiến hành 9 năm kháng chiến. Từ năm 1945 – 1954, kế tục truyền thống hào
hùng của tổ tiên, một lần nữa các hoạt động đi bộ, chạy, nhảy, ném đẩy nhƣ một
động lực phát triển môn điền kinh trong tƣơng lai, lại đƣợc vận dụng nhiều trong
chiến tranh giữ nƣớc.
Từ tháng 10/1954 đến tháng 5/1975, do âm mƣu chia cắt của đế quốc Mỹ,
miền Bắc nƣớc ta trở thành hậu phƣơng lớn và miền Nam nƣớc ta trở thành tiền
tuyến lớn cùng chiến đấu chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để giành độc lập, hòa
bình, thống nhất đất nƣớc. Trong thời kỳ này, ở miền Nam nƣớc ta, môn điền kinh
vẫn đƣợc phát triển, tuy tốc độ chậm và ít đƣợc chú trọng nhƣ môn bóng đá,
Tennis…Tuy vậy, so với thời kỳ Pháp đô hộ nƣớc ta, nội dung thi đấu điền kinh đã
phong phú hơn, bao gồm hầu hết các môn thi đấu quy định trong đại hội thể thao
Olympic quốc tế. Sự phát triển hạn chế của môn điền kinh, cũng nhƣ nhiều môn
thể thao khác ở miền Nam là do hầu nhƣ không có cán bộ, huấn luyện viên đƣợc
đào tạo có trình độ cao đẳng, đại học thể dục thể thao trở lên. Trong thời kỳ lịch sử
này, ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Đảng và Chính phủ ta rất quan tâm phát triển
thể dục thể thao, mặc dù kinh tế - xã hội còn rất nhiều khó khăn và chiến tranh phá
70
hoại của đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt (từ năm 1964 – 1972). Phong trào tập luyện
môn điền kinh trong nhân dân đƣợc phát triển tƣơng đối rộng rãi. Các phong trào
“chảy, nhảy, bơi, bắn, võ”, “Rèn luyện chạy vì miền Nam ruột thịt…đƣợc nhân
dân hƣởng ứng không phải chỉ để tăng cƣờng sức khỏe mà còn để tăng cƣờng ý chí
chiến dấu chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Ở miền Bắc nƣớc ta đã thành lập đội
tuyển điền kinh quốc gia “chuyên nghiệp” (có bậc lƣơng Nhà nƣớc và các tiêu
chuẩn khác) tại “Trƣờng huấn luyện kỹ thuật quốc gia” (nay là “Trung tâm huấn
luyện thể thao quốc gia I”). Ở Hà Nội, Hải Phòng, Năm Định, Lạng Sơn, Thanh
Hóa, Quảng Bình, Quảng Ninh và nhiều tỉnh khác đều có đội tuyển điền kinh
“chuyên nghiệp”. Một số ngành nhƣ Quân đội, Đƣờng sắt…cũng có những vận
động viên “chuyên nghiệp” điền kinh. Hầu hết các đội điền kinh đều quan tâm đào
tạo vận động viên trẻ kế cận. Chính vì vậy, từ khoảng 1959 – 1969, hàng năm đều
có từ 3 – 5 cuộc thi đấu điền kinh của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thành
tích các môn điền kinh có trong chƣơng trình thi đấu tại Đại hội thể thao Olympic
quốc tế đều đƣợc nâng lên rõ rệt trong giai đoạn này, hơn hẳn những giai đoạn
trƣớc đây và hơn thành tích ở miền Nam dƣới chính quyền cũ. Điền kinh đƣợc đƣa
vào chƣơng trình giảng dạy thể dục thể thao ở các trƣờng học, nhƣ một nội dung
giáo dục quan trọng. Điền kinh là một trong những nội dung chủ yếu trong chƣơng
trình đào tạo ở các trƣờng đại học, cao đẳng và trung cấp thể dục thể thao của nƣớc
Việt Nam Dân chủ Công hòa.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc, từ tháng 5/1975 đến
nay, trong điều kiện tổ quốc hòa bình, độc lập, môn điền kinh tiếp tục đƣợc phát
triển mạnh hơn so với các giai đoạn trƣớc đây. Nhiều ngƣời tự rèn luyện thân thể
bằng tập đi bộ, tập chạy chậm. Chƣơng trình giáo dục thể dục thể thao nói chung
và môn điền kinh nói riêng đã đƣợc cải tiến trong các trƣờng học. Sau Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, Đảng và Chính phủ ta đƣa đất nƣớc vào
công cuộc đổi mới, thực hiện chính sách “mở cửa” muốn làm bạn với tất cả các
nƣớc vì hòa bình và sự tiến bộ của nhân loại. Trong công cuộc đổi mới, chúng ta
đã đạt đƣợc những thắng lợi to lớn về khinh tế - xã hội, ngoại giao…từ đó, môn
điền kinh có thêm điều kiện, vận hội phát triển mới. Chúng ta đã có nhiều dịp tiếp
xúc thi đấu quốc tế, Châu Á, Đông Nam Á nhằm thực hiện chính sách đối ngoại
71
của Đảng và Nhà nƣớc ta, đồng thời nâng cao thành tích, đem lại vinh dự cho dân
tộc ta. Môn điền kinh lả một trong số ít môn thể thao giành đƣợc một số huy
chƣơng trong các Đại hội thể thao Đông Nam Á gần đây và trong một số cuộc thi
đấu điền kinh Châu Á, Quốc tế.
NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT MỘT SỐ MÔN ĐIỀN KINH
Điền kinh là một môn thể thao bao gồm các động tác rất phong phú, đa dạng
và gần gũi với những hoạt động tự nhiên của con ngƣời (đi bộ, chạy, nhảy, ném
đẩy…), vì vậy, khi thực hiện chúng dƣới dạng các bài tập không mấy khó khăn,
ngay cả đối với các vận động viên mới tham gia tập luyện. Song để đạt thành tích
cao, các vận động viên (VĐV) cần phải có sự hoàn thiện kỹ thuật.
Hoàn thiện kỹ thuật, thông thƣờng đƣợc hiểu là phƣơng pháp thực hiện động
tác thể thao một cách hợp lý và có hiệu quả nhất để đạt thành tích cao.
Kỹ thuật các môn điền kinh cần phải hợp lý về phƣơng diện sinh cơ học
(phƣơng hƣớng, biên độ, nhịp điệu, tốc độ động tác…), phải thuận lợi nhất cho các
vận động viên thể hiện sức mạnh, sức nhanh, sức bền, độ linh hoạt trong các khớp,
phải tối ƣu về mặt chức năng tâm lý.
Một động tác toàn vẹn nhƣ chạy, nhảy, ném có thể chia thành các giai đoạn
(thí dụ nhƣ chạy đà, giậm nhảy,…). Mỗi giai đoạn lại gồm nhiều bộ phận cấu
thành (thí dụ nhƣ bƣớc đà…) và các thời điểm xác định những tƣ thế riêng của cơ
thể VĐV (thí dụ nhƣ thời điểm kết thúc đạp sau trong chạy…).
I. NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT CHẠY
Chạy là phƣơng pháp di chuyển tự nhiên của con ngƣời, là dạng phổ biến
nhất trong các bài tập thể lực và đƣợc sử dụng rộng rãi trong hầu hết các môn thể
thao.
72
1. Sự giống nhau và khác nhau trong một chu kỳ đi và chạy
Cũng nhƣ đi bộ, Chạy là một hoạt động có chu kỳ, mỗi chu kỳ gồm hai
bƣớc. Nhƣng chạy khác với đi bộ ở chỗ, trong một chu kỳ chạy có hai thời kỳ bay
và trong chạy: tốc độ, biên độ hoạt động lớn hơn đi bộ
2. Ảnh hưởng của nội và ngoại lực đối với trọng tâm cơ thể trong quá trình
chạy:
Trong chạy, khi ở thời kỳ chống tựa, trọng tâm cơ thể di chuyển về trƣớc.
Lúc chống trƣớc tốc độ hơi giảm và lúc đạp sau tốc độ lại tăng lên. Tốc độ chạy
càng lớn thì phản lực chống trƣớc càng mạnh, sự kìm hãm tốc độ nằm ngang càng
nhiều. Vì thế, khi đặt chân chống trƣớc, vận động viên cần chủ động đặt gần với
điểm dọi của trọng tâm cơ thể và thực hiện động tác miết bàn chân từ trƣớc ra sau.
Động tác đạp sau đƣợc bắt đầu khi hình chiếu của trọng tâm cơ thể đi qua
điểm chống và kết thúc lúc chân rời đất. Để tăng cƣờng hiệu quả đạp sau, vận động
viên cần đạp nhanh, mạnh, đúng hƣớng, duỗi hết các khớp và đạp với góc độ thích
hợp. Trong chạy cự ly trung bình và dài, góc đạp sau thƣờng từ 50 – 55 độ (Hình
1). Trong lúc bay, ngƣời chạy không tăng đƣợc tốc độ vì hoạt động của cơ thể lúc
này không tạo nên đƣợc phản lực chống, vì thế rút ngắn thời gian bay càng nhiều
Hình 1.
73
thì tốc độ chạy càng tăng. Biên độ động tác đánh tay phụ thuộc vào tốc độ chạy,
tốc độ càng cao, biên độ đánh tay càng lớn. Hoạt động chéo nhau giữa tay và chân
khi chạy làm cho trọng tâm cơ thể đỡ bị dao động sang hai bên, giữ đƣợc thăng
bằng và kéo dài bƣớc chạy.
Khi chạy trên đƣờng vòng, do xuất hiện lực ly tâm nên kỹ thuật có thay đổi.
Tốc độ chạy trên đƣờng vòng càng lớn thì lực ly tâm càng mạnh và độ nghiêng
thân ngƣời vào phía trong càng nhiều.
Sự dao động lên xuống của trọng tâm cơ thể trong chạy có thể lên tới 40 cm.
Vị trí cao nhất của trọng tâm là trong giai đoạn bay và thấp nhất là trong thời gian
chống tựa khi thẳng đứng. Việc dao động của trọng tâm cơ thể trong khi chạy có
ảnh hƣởng xấu đến tốc độ chạy, vì thế ngƣời tập cần cố gắng hạn chế sự dao động
này tới mức thích hợp.
II. NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT CÁC MÔN NHẢY
1. Định nghĩa và đặc điểm kỹ thuật các môn nhảy
Nhảy là phƣơng pháp vƣợt qua chƣớng ngại vật. Trong các môn nhảy có
môn vƣợt qua chƣớng ngại vật nằm ngang nhƣ nhảy xa, nhảy 3 bƣớc, nhƣng có
môn vƣợt qua chƣớng ngại vật thẳng đứng nhƣ nhảy cao, nhảy sào. Các môn nhảy
là hoạt động không có chu kỳ, bao gồm nhiều động tác liên kết với nhau một cách
chặt chẽ và phức tạp từ chạy lấy đà, giậm nhảy, bay trên không và kết thúc là rơi
xuống đất. Đặc điểm chung của các môn nhảy là cần phải kéo dài khoảng cách bay
trên không do nỗ lực của ngƣời nhảy trong lấy đà và giậm nhảy tạo nên. Quỹ đạo
của trọng tâm cơ thể trong lúc bay phụ thuộc vào từng môn nhảy (phụ thuộc vào
tốc độ chạy đà, lực giậm nhảy và góc độ giậm nhảy). Ngƣời ta chia kỹ thuật các
môn nhảy ra thành bốn giai đoạn chính:
- Chạy đà và chuẩn bị giậm nhảy.
- Giậm nhảy.
- Bay trên không.
- Rơi xuống đất.
2. Chạy lấy đà và chuẩn bị giậm nhảy:
Giai đoạn này tính từ khi bắt đầu chạy đà đến khi đặt chân vào chỗ giậm
nhảy. Nhiệm vụ của giai đoạn này là tạo tốc độ nằm ngang cần thiết và chuẩn bị tốt
cho động tác giậm nhảy. Tƣ thế chuẩn bị của ngƣời nhảy trƣớc khi chạy đà có thể
74
khác nhau nhƣng phải ổn định và trở thành thói quen. Tốc độ chạy phải tăng tới
mức thích hợp và đạt cao nhất ở bƣớc cuối cùng trƣớc khi giậm nhảy. Trừ môn
nhảy cao, còn nói chung cơ cấu của chạy đà là gần giống nhƣ trong chạy ngắn.
Nhƣng trong từng môn nhảy tính chất tăng tốc độ, nhịp điệu và chiều dài các bƣớc
cũng có những đặc điểm riêng. Trong giai đoạn cuối cùng của chạy đà, vì phải
chuẩn bị giậm nhảy, nên nhịp điệu và tần số bƣớc, nhất là ba, bốn bƣớc cuối cùng
có sự thay đổi thích hợp với từng môn nhảy.
3. Giậm nhảy:
Giai đoạn này tính từ khi đặt chân vào chỗ giậm nhảy đến khi chân giậm rời
khỏi mặt đất. Đặt chân vào chỗ giậm nhảy phải nhanh, mạnh, đồng thời chân chạm
đất gần nhƣ thẳng, sau đó co lại hoãn xung để chuẩn bị khi duỗi ra có hiệu quả
hơn. Chân đặt vào chỗ giậm nhảy phải luôn luôn ở phía trƣớc điểm dọi của trọng
tâm cơ thể. Khoảng cách này lớn nhất trong nhảy cao, còn các môn khác ngắn hơn.
Chân giậm nhảy đƣa về trƣớc càng nhiều, khoảng cách từ điểm đặt chân đến điểm
dọi của trọng tâm cơ thể càng xa thì khả năng chuyển từ tốc độ nằm ngang sang tốc
độ thẳng đứng càng cao Nhiệm vụ của giậm nhảy là thay đổi phƣơng chuyển động
của trọng tâm cơ thể phù hợp với mục đích của từng môn nhảy. Sau khi đặt chân
vào chỗ giậm nhảy, do ảnh hƣởng của quán tính và trọng lực, chân giậm gập lại ở
khớp gối, khớp hông và cả thân trên cũng hơi ngả về trƣớc. Do sự gập lại, trọng
tâm thân thể xích lại gần điểm chống tựa, và khi giậm nhảy trọng tâm thân thể lại
tách xa khỏi điểm chống. Trong lúc này chân giậm hoạt động nhƣ một đòn bẩy tạo
điều kiện cho lực ly tâm xuất hiện làm thay đổi phƣơng chuyển động của trọng
tâm cơ thể. Trong các môn nhảy, góc độ gấp giữa cẳng chân và đùi khoảng 135 –
140 độ, để giảm chấn động, nhƣng nếu gấp quá nhiều thì những cơ duỗi chân
giậm sẽ bị kéo căng ra quá làm ảnh hƣởng đến hiệu quả bật lên khi giậm nhảy.
Động tác giậm nhảy đƣợc thực hiện thông qua việc nhanh chóng duỗi các
khớp. Lúc đầu là duỗi khớp hông, khớp gối rồi khớp cổ chân. Lúc ngƣời nhảy
vƣơn thẳng ngƣời lên, có hai lực xuất hiện. Hai lực này bằng nhau về độ lớn, cùng
phƣơng nhƣng ngƣợc chiều. Khi ngƣời nhảy vƣơn ngƣời lên, áp lực ở điểm tựa
tăng lên, khi thân ngƣời vƣơn thẳng hoàn toàn thì áp lực ở điểm tựa giảm xuống
bằng không và tốc độ bay lên đạt mức tối đa. Nhƣ vậy chứng tỏ rằng động tác
75
vƣơn thẳng ngƣời tạo ra tốc độ bay ban đầu và là cơ sở để nâng thân ngƣời lên theo
quán tính.
Tốc độ bay ban đầu của ngƣời nhảy phụ thuộc chủ yếu vào độ lớn của phản
lực khi giậm nhảy, hay nói cách khác, phụ thuộc vào sức mạnh do cơ sản sinh ra và
khoảng cách trọng tâm cơ thể di chuyển từ tƣ thế thấp nhất ban đầu đến tƣ thế cao
nhất khi kết thúc giậm nhảy. Sức mạnh tƣơng đối (sức mạnh trên 1kg trọng lƣợng
cơ thể) có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giậm nhảy. Sức mạnh tƣơng đối
càng lớn, năng lực giậm nhảy càng cao. Động tác đá lăng chân và đánh lăng tay
cũng có tác dụng hổ trợ cho động tác giậm nhảy, làm cho tốc độ giậm nhảy tăng
lên. Tùy thuộc vào đặc điểm từng môn mà góc độ giậm nhảy có sự khác nhau. Góc
độ này đƣợc xác định bởi độ nghiêng của chân giậm so với mặt đất lúc kết thúc
động tác giậm nhảy.
4. Bay trên không:
Giai đoạn này tính từ khi chân giậm rời khỏi mặt đất đến khi một bộ phận cơ
thể bắt đầu tiếp xúc với mặt đất. Nhiệm vụ của giai đoạn này là hợp lý mọi hoạt
động trong khi bay để nâng cao hiệu quả qua xà (đối với nhảy cao, nhảy sào) và
giữ thăng bằng tạo điều kiện cho ngƣời nhảy với xa chân về trƣớc để đạt thành tích
cao nhất (đối với nhảy xa, nhảy ba bƣớc). Sau khi chân giậm rời khỏi mặt đất,
trọng tâm thân thể di chuyển theo một đƣờng bay (quỹ đạo) nhất định. Đƣờng bay
này phụ thuộc vào tốc độ bay ban đầu, góc độ bay và lực cản không khí. Góc độ
bay đƣợc tạo nên bởi tốc độ nằm ngang và tốc độ thẳng đứng của cơ thể lúc kết
thúc giậm nhảy. Trong nhảy cao, tốc độ nằm ngang phần lớn đƣợc chuyển thành
tốc độ thẳng đứng, vì vậy góc độ bay lớn (khoảng 60 - 65 độ). Trong nhảy xa, tốc
độ nằm ngang lớn hơn tốc độ thẳng đứng do đó góc độ bay nhỏ hơn (khoảng 23 –
26 độ ). Sau khi giậm nhảy, cơ thể bay lên theo một góc nào đó song do ảnh hƣởng
của trọng lực nên cơ thể đồng thời di chuyển xuống 10dƣới với gia tốc 9,8m/giây.
Vì vậy, nửa đầu đƣờng bay tốc độ bay lên chậm dần đều còn nửa sau đƣờng bay
tốc độ rơi nhanh dần đều. Trong khi bay do không có điểm tựa, nên mọi hoạt động
của ngƣời nhảy không thể làm thay đổi quỹ đạo bay mà chỉ có tác dụng giữ thăng
bằng hoặc làm thay đổi tƣ thế thân ngƣời và các bộ phận khác nhau của cơ thể so
với tổng trọng tâm cơ thể .
76
Lúc này sự di chuyển của trọng tâm một bộ phận cơ thể nào đó sẽ gây ra
hoạt động di chuyển bù trừ ở các bộ phận khác theo hƣớng ngƣợc lại. Sự hoạt động
này đƣợc xác định theo công thức:
P.L
X =
B-P
Trong đó:
X: Là khoảng cách di chuyển bù trừ ở các bộ phận khác của cơ thể theo
hƣớng ngƣợc lại.
B: Là trọng lƣợng ngƣời nhảy.
P: Là trọng lƣợng của bộ phận cơ thể di chuyển.
L: Là khoảng cách di chuyển của trọng tâm bộ phận cơ thể.
Ví dụ: Một ngƣời nhảy xa có trọng lƣợng 50kg, trong khi bay tay đánh từ
trên cao xuống dƣới và trọng tâm tay di chuyển với khoảng cách 50cm và trọng
lƣợng tay là 5kg, thì khoảng cách bù trừ của chân khi đƣa lên cao sẽ là:
5.50
= 5.5 cm
50 – 5
5. Rơi xuống đất:
Giai đoạn này tính từ khi một bộ phận đầu tiên của cơ thể chạm đất đến lúc
chuyển động của thân ngƣời hoàn toàn dừng lại. Trong nhảy cao và nhảy sào, giai
đoạn rơi xuống đất chỉ có nhiệm vụ là đảm bảo an toàn cho ngƣời nhảy, nhƣng
trong nhảy xa và nhảy ba bƣớc nó còn có tác dụng giữ và nâng cao thành tích. Vì
vậy, trong giai đoạn này, ngƣời nhảy phải làm sao tận dụng hết đƣớng bay của
trọng tâm cơ thể và cố gắng với chân xa về phía trƣớc
III. KỸ THUẬT CHẠY CỰ LY NGẮN
Chạy cự ly ngắn đƣợc chia một cách quy ƣớc thành 4 giai đoạn: xuất phát,
chạy lao sau xuất phát, chạy giữa quãng và về đích.
1. XUẤT PHÁT:
Trong chạy ngắn ngƣời ta áp dụng cách xuất phát thấp vì kỹ thuật này giúp
vận động viên bắt đầu chạy nhanh hơn và sớm đạt đƣợc tốc độ cực đại trong
77
khoảng thời gian ngắn. Để xuất phát nhanh, ngƣời ta sử dụng bàn đạp xuất phát,
bàn đạp xuất phát bảo đảm cho vận động viên có điểm tỳ vững chắc để đạp sau, sự
ổn định khi đặt chân. Có 3 cách bố trí bàn đạp xuất phát cơ bản.
- Cách “thông thƣờng”: bàn đạp trƣớc đặt cách vạch xuất phát 1 – 1.5 bàn
chân, còn bàn đạp sau cách bàn đạp trƣớc một khoảng bằng độ dài cẳng chân (gần
2 bàn chân).
- Cách “kéo dãn”: vận động viên rút ngắn khoảng cách giữa hai bàn đạp
xuống còn một bàn chân hoặc ít hơn. Khoảng cách từ bàn đạp trƣớc đến vạch xuất
phát gần 2 bàn chân (khoảng cách này đƣợc kéo dãn).
(Hình 2.)
0- Cách “làm gần”: khoảng cách giữa 2 bàn đạp đƣợc rút ngắn lại còn một
bàn chân hoặc nhỏ hơn, song khoảng cách từ vạch xuất phát đến bàn đạp trƣớc chỉ
còn khoảng 1 – 1.5 bàn chân (nhƣ vậy khoảng cách từ bàn đạp sau đến vạch xuất
phát đƣợc làm gần lại). Việc đặt bàn đạp xuất phát gần nhau bảo đảm sự nổ lực
đồng thời của cả hai chân khi bắt đầu chạy và tạo cho ngƣời chạy gia tốc lớn hơn ở
những bƣớc đầu. Song vị trí gần nhau của hai bàn chân và việc hầu nhƣ đạp sau
đồng thời của chúng gây trở ngại cho việc chuyển đến đạp sau luân phiên của từng
chân ở những bƣớc tiếp theo. Mặt tựa của bàn chân trƣớc nghiêng dƣới góc 45 –
78
50 độ ; mặt tựa của bàn đạp sau từ 60 - 80 . Góc nghiêng của mặt tựa bàn đạp thay
đổi tùy thuộc vào khoảng cách đến vạch xuất phát. Khi bàn đạp đƣợc đặt gần vạch
xuất phát thì góc nghiêng mặt tựa bàn đạp giảm đi, còn khi kéo xa khỏi vạch xuất
phát thì góc nghiêng tăng lên. Khoảng cách giữa hai bàn đạp và việc đặt bàn đạp
xa hay gần vạch xuất phát tùy thuộc vào đặc điểm cơ thể vận động viên, trình độ
phát triển các tố chất nhanh, mạnh và những tố chất khác của họ.
Theo hiệu lệnh “vào chỗ”, vận động viên chạy tiến ra trƣớc hai bàn đạp,
ngồi xuống và chống tay về phía trƣớc vạch xuất phát. Từ thƣ thế này, vận động
viên chuyển chân từ phía trƣớc ra phía sau, lần lƣợt tỳ bàn chân lên mặt tựa bàn
đạp trƣớc rồi đến bàn đạp sau. Hai mũi giầy chạy chạm mặt đƣờng hoặc hai đinh
đầu tiên tỳ xuống mặt đƣờng. Sau khi hạ gối sau xuống, vận động viên thu hai tay
về và đặt xuống sát sau vạch xuất phát. Lúc này giữa ngón cái và các ngón còn lại
để sát nhau tạo thành vòm. Hai tay duỗi thẳng tự nhiên, chống tỳ trên đất ở độ rộng
bằng vai. Thân trên thẳng, đầu duỗi thẳng so với thân trên và trọng lƣợng cơ thể
đƣợc phân đều giữa hai tay, chân chống trƣớc và đầu gối chân sau.
Theo lệnh “sẵn sàng”, vận động viên hơi duỗi chân, gối chân đặt sau tách
khỏi mặt đƣờng làm trọng tâm hơi chuyển lên trên và ra trƣớc. Lúc này, trọng
lƣợng cơ thể dồn trên hai tay và chân chống trƣớc, hình chiếu của trọng tâm cơ thể
trên đất phải cách vạch xuất phát từ 15 – 20 cm. Hai đế giầy tỳ sát vào mặt tựa bàn
đạp, vùng hông nâng cao hơn vai 10 – 20 cm và lúc này hai cẳng chân gần nhƣ
song song với nhau. Trong tƣ thế “sẵn sàng”, điều cần lƣu ý là không nên dồn
trọng lƣợng cơ thể quá nhiều xuống hai tay vì điều này làm ảnh hƣởng xấu đến
thời gian hoàn thành xuất phát thấp
Trong tƣ thế “sẵn sàng”, góc gấp chân ở khớp gối có vai trò quan trọng.
Việc tăng góc này (trong giới hạn nào đó) tạo điều kiện cho đạp sau nhanh hơn.
Trong tƣ thế sẵn sàng xuất phát, góc tối ƣu giữa đùi và cẳng chân của chân tỳ trên
bàn đạp sau khoảng 115 – 138 độ . Góc giữa thân trên và đùi chân trƣớc khoảng
19 – 23 độ (V.Borzop – 1980).
Trong tƣ thế “sẵn sàng”, vận động viên không nên quá căng thẳng, gò bó.
Điều quan trọng lúc này là tập trung chú ý đợi tín hiệu xuất phát.
Khi nghe súng nổ (hay những tín hiệu xuất phát khác), vận động viên phải
đột ngột lao nhanh về trƣớc. Động tác này đƣợc bắt đầu bằng đạp mạnh hai chân
79
và đánh tay nhanh. Đạp sau vào mặt tựa bàn đạp xuất phát đƣợc thực hiện đồng
thời bằng cả hai chân nhằm tạo áp lực lớn trên mặt tựa để đẩy cơ thể lao nhanh về
trƣớc, song thời gian đạp bằng cả hai chân rất ngắn. Chân sau chỉ hơi duỗi và sau
đó nhanh chóng đƣa đùi về phía trƣớc, trong khi đó, chân trƣớc đột ngột duỗi thẳng
trong tất cả các khớp
Trong bƣớc đầu tiên, góc đạp sau từ bàn đạp của những vận động viên chạy
ngắn cấp cao khoảng 42 – 50 độ , đùi chân lăng tạo với thân trên một góc gần 30
độ . Tƣ thế nêu trên giúp cho lực đạp đẩy cơ thể về trƣớc nhiều hơn, tạo điều kiện
thuận lợi cho đạp sau mạnh và giữ đƣợc độ nghiêng nói chung của cơ thể trong
những bƣớc chạy đầu tiên.
2. CHẠY LAO SAU XUẤT PHÁT
Để đạt đƣợc thành tích trong chạy ngắn, điều rất quan trọng trong xuất phát
là nhanh chóng đạt tốc độ gần cực đại trong giai đoạn chạy lao. Thực hiện đúng và
nhanh các bƣớc chạy từ lúc xuất phát phụ thuộc vào độ lao của cơ thể dƣới một
góc nhọn so với mặt đƣờng, cũng nhƣ vào sức mạnh, sức nhanh của vận động viên.
Bƣớc đầu tiên đƣợc kết thúc bằng việc duỗi thẳng hoàn toàn của chân đạp sau khỏi
bàn đạp trƣớc và việc nâng đùi đồng thời của chân kia lên, ta thấy rất rõ độ
nghiêng lớn khi xuất phát và việc nâng đùi chân lăng tới mức tối ƣu tạo thuận lợi
cho việc chuyển sang bƣớc tiếp theo.
(Hình 3)
80
Bƣớc đầu tiên đƣợc kết thúc bằng việc tích cực hạ chân xuống dƣới – ra sau
và chuyển thành đạp sau mạnh. Động tác này thực hiện càng nhanh thì việc đạp
sau tiếp theo xảy ra càng nhanh và mạnh.
Trong một vài bƣớc chạy đầu tiên, vận động viên đặt chân trên đƣờng ở phía
sau hình chiếu của tổng trọng tâm thân thể. Ở những bƣớc tiếp theo, chân đặt trên
hình chiếu của tổng trọng tâm và sau đó thì đặt chân ở phía trƣớc hình chiếu của
tổng trọng tâm.
(Hình 4)
Cùng với việc tăng tốc độ, độ nghiêng thân trên về trƣớc của vận động viên
giảm đi và kỹ thuật chạy lao dần chuyển sang kỹ thuật chạy giữa quãng. Chạy giữa
quãng thƣờng bắt đầu từ mét thứ 25 – 30 (sau khoảng 13 – 15 bƣớc chạy), khi đạt
90 – 95% tốc độ chạy tối đa, song không có giới hạn chính xác giữa chạy lao sau
xuất phát và chạy giữa quãng. Các vận động viên cấp cao cần tính toán để đạt đƣợc
tốc độ cực đại ở mét thứ 50 – 60, còn ở trẻ em lứa tuổi 10 – 12 thì ở mét thứ 25 –
30. Các vận động viên chạy ngắn ở bất kỳ đẳng cấp và lứa tuổi nào, trong giây đầu
tiên sau xuất phát cần đạt đƣợc 55% tốc độ tối đa; trong giây thứ hai 76%; trong
giây thứ ba 91%; trong giây thứ tƣ 95% và giây thứ năm là 99%.
81
Tốc độ chạy lao sau xuất phát đƣợc tăng lên chủ yếu do tăng độ dài bƣớc
chạy và một phần không nhiều do tăng tần số bƣớc. Việc tăng độ dài bƣớc chủ yếu
đến bƣớc thứ tám – thứ mƣời (bƣớc sau dài hơn bƣớc trƣớc từ 10 – 15cm), sau đó
thì độ dài bƣớc đƣợc tăng ít hơn (4 – 8cm). Việc thay đổi độ dài bƣớc đột ngột
dƣới hình thức nhảy là không tốt vì làm mất đi nhịp điệu chạy.
Cùng với việc tăng tốc độ di chuyển của cơ thể, thời gian bay trên không
tăng lên và thời gian tiếp đất giảm đi.
Tay đánh mạnh về trƣớc cũng có ý nghĩa đáng kể. Trong chạy lao sau xuất
phát, về cơ bản việc đánh tay cũng tƣơng tự nhƣ trong chạy giữa quãng song với
biên độ lớn hơn.
Ở những bƣớc đầu tiên sau xuất phát, hai bàn chân đặt xuống đƣờng hơi
tách rộng so với chạy giữa quãng. Sau đó cùng với việc tăng tốc độ, hai chân đƣợc
đặt gần hơn đến đƣờng giữa.
Nếu so sánh thành tích chạy 30m xuất phát với chạy 30m tốc độ cao của
cùng một vận động viên thì dễ dàng xác định đƣợc thời gian tiêu phí lúc xuất phát
và tăng tốc độ sau xuất phát. Ở những vận động viên chạy giỏi, mức tiêu phí trong
giới hạn từ 0.8 – 1.0 giây.
3. CHẠY GIỮA QUÃNG
Khi đạt đƣợc tốc độ cao nhất, thân trên của vận động viên chạy hơi đổ về
phía trƣớc (72 – 78 độ ). Trong một bƣớc chạy, độ nghiêng của thân trên có thể
thay đổi. Lúc đạp sau, độ nghiêng thân trên tăng lên còn trong pha bay thì lại giảm
đi. Chân đặt trên đƣờng có đàn tính và tiếp xúc với đƣờng từ phần trƣớc bàn chân
Hình 5.
82
và cách hình chiếu khớp chậu – đùi trên đƣờng khoảng 33 – 43 cm. Tiếp đó chân
đƣợc gập lại ở khớp gối và cổ chân. Góc gấp ở khớp gối lớn nhất khoảng 140 –
148 độ . Khi chân chống chuyển vào tƣ thế đạp sau, chân lăng đƣợc đƣa mạnh về
trƣớc – lên trên. Việc duỗi thẳng chân đạp sau diễn ra khi đùi chân lăng nâng đủ
cao và tốc độ nâng cao của nó đƣợc giảm đi. Đạp sau đƣợc thực hiện do việc duỗi
chân chống ở khớp gối và khớp cổ chân. (Hình 5)
Trong lúc bay, đùi hoạt động càng nhanh càng tốt. Chân chống tựa khi kết
thúc đạp sau, theo quán tính hơi đƣa ra sau – lên trên, sau đó chân đƣợc gấp lại ở
khớp gối và bắt đầu chuyển nhanh đùi về trƣớc. Để giảm tác động kìm hãm tốc độ
khi đặt chân trên đƣờng, chân tiếp xúc đất ở phần trƣớc bàn chân, khi chân chống
chuyển vào tƣ thế đạp sau, chân lăng đƣợc đƣa mạnh về trƣớc – lên trên. Việc duỗi
thẳng chân đạp sau diễn ra khi đùi chân lăng nâng đủ cao và tốc độ nâng cao của
nó đƣợc giảm đi. Đạp sau đƣợc thực hiện do việc duỗi chân chống ở khớp gối và
khớp cổ chân.
Khi chạy giữa quãng, các bƣớc chạy đƣợc thực hiện thƣờng không bằng
nhau, do bƣớc của chân khỏe thƣờng dài hơn. Để chạy có nhịp điệu và tốc độ đều
hơn, nên tập để có đƣợc độ dài bƣớc nhƣ nhau của mỗi chân bằng cách lƣu ý phát
triển sức mạnh cơ chân yếu. Khi chạy trên đƣờng thẳng cần đặt mũi bàn chân
thẳng về trƣớc. Việc xoay mũi chân ra ngoài gây ảnh hƣởng xấu tới hiệu quả đạp
sau.
Cả trong chạy lao sau xuất phát cũng nhƣ chạy giữa quãng, tay gấp ở khớp
khuỷu đƣợc đánh mạnh về trƣớc – ra sau phù hợp với nhịp điệu hoạt động của
Hình 6.
83
chân. Tay đánh về trƣớc hơi đƣa vào trong còn khi ra sau thì hơi ra ngoài. Góc gấp
của tay ở khớp khuỷu không cố định, khi đánh ra trƣớc tay gấp lại nhiều nhất, khi
đƣa xuống dƣới – ra sau thì hơi duỗi ra.
Các ngón tay trong khi chạy nên nắm hờ hay duỗi. Không nên duỗi thật
thẳng các ngón tay hay nắm chúng lại thật chặt. Động tác đánh tay tích cực không
đƣợc làm nâng vai lên hoặc gò vai vì đó là những dấu hiệu đầu tiên của căng thẳng
quá mức. Kỹ thuật chạy ngắn sẽ bị ảnh hƣởng xấu nếu nhƣ vận động viên không
biết thả lỏng những nhóm cơ khi nó không cần tham gia tích cực vào hoạt động.
Kết quả phát triển tốc độ chạy đáng kể phụ thuộc vào việc biết chạy nhẹ nhàng, thả
lỏng và không có những căng thẳng thừa của vận động viên.
4. VỀ ĐÍCH:
Tốc độ chạy cực đại trong cự ly 100 – 200 m cần cố duy trì cho tới cuối cự
ly, song ở khoảng 15 – 20 m cuối cùng, tốc độ thƣờng bị giảm đi từ 3 – 8%.
Chạy đƣợc kết thúc khi vận động viên dùng thân trên chạm vào mặt phẳng
thẳng đứng đi qua đƣờng đích. Để nhanh chóng chạm vào dây đích đƣợc kéo căng
ở độ cao ngang ngực, ở bƣớc chạy cuối cùng, vận động viện cần thực hiện động
tác gập thân trên đột ngột về trƣớc để chạm ngực vào dây đích. Cách này đƣợc gọi
là “đánh ngực”. (Hình 7)
Ngƣời ta còn áp dụng cả phƣơng pháp vừa gập thân trên vừa xoay để một
bên vai chạm vào dây đích. Sau khi chạm dây đích, để khỏi ngã, vận động viên cần
đặt nhanh chân lăng xa về phía trƣớc để giữ thăng bằng.
(Hình 7)
84
Kỹ thuật chạm đích tốt giúp vận động viên chạm dây đích sớm hơn khi có
hai hoặc nhiều đối thủ ngang nhau muốn tranh thứ hạng nhất. Song, nếu không
quen hoặc kỹ thuật chƣa thuần thục thì nên chạy qua đích với toàn bộ tốc độ mà
không cần nghĩ tới việc thực hiện động tác về đích.
IV. ĐẶC ĐIỂM KỸ THUẬT CHẠY NGẮN TRÊN CÁC CỰ LY KHÁC
NHAU
- Chạy 100m: cự ly này đòi hỏi phải chạy với tốc độ cực đại nên vận động
viên phải xuất phát nhanh, tăng tốc độ thật nhanh trong chạy lao sau xuất phát để
có đƣợc tốc độ cực đại và cố gắng duy trì tới đích.
- Chạy 200m: khác với chạy 100m, vận động viên xuất phát và chạy ngay
vào đƣờng vòng ở nửa đầu cự ly. Để thuận lợi khi xuất phát, bàn đạp xuất phát
đƣợc bố trí ở mép ngoài ô chạy theo hƣớng tiếp tuyến với đƣờng vòng.
Khi chạy trên đƣờng vòng, vận động viên cần nghiêng toàn bộ cơ thể vào
phía trong để khắc phục lực ly tâm. Việc tăng độ nghiêng thân về trái – vào trong
cần thực hiện dần dần. Lúc này chân phải ở thời điểm thẳng đứng gấp ở đầu gối ít
hơn so với chân trái.
Khi chạy trên đƣờng vòng, tốt nhất nên đặt chân gần với mép đƣờng vòng và
hơi xoay bàn chân về trái.
Động tác đánh tay cũng hơi khác so với khi chạy trên đƣờng thẳng. Tay
phải hƣớng vào trong nhiều hơn còn tay trái hơi hƣớng ra ngoài. Lúc này trục vai
hơi đƣợc xoay sang trái.
Ở những mét cuối cùng của đƣờng vòng cần dần dần giảm độ nghiêng vào
trong của cơ thể để chuẩn bị chạy ra đƣờng thẳng. Khi chạy 200m, nửa đầu cự ly
nên chạy chậm hơn thành tích 100m tốt nhất trên đƣờng thẳng của mình khoảng
0.1 – 0.3 giây.
- Chạy 400m: Chạy 400m đƣợc thực hiện với cƣờng độ tƣơng đối nhỏ hơn
so với chạy 100m và 200m. Độ nghiêng của cơ thể trên đƣờng vòng cũng ít hơn;
độ dài bƣớc ngắn hơn (khoảng 7 – 8 bàn chân).
Xuất phát trong chạy 400m cũng tƣơng tự nhƣ trong chạy 200m. Sau khi
đạt đƣợc tốc độ cần thiết, vận động viên chuyển sang bƣớc chạy thoải mái và cố
gắng duy trì tốc độ đã đạt đƣợc càng lâu càng tốt.
85
Cần cố gắng vƣợt qua cự ly với nhịp điệu tƣơng đối đều. Vận động viên
chạy 400m cần chạy 100m đầu tiên với thời gian chậm hơn 0.3 – 0.5 giây so với
thành tích 100m của mình; chạy 200m đầu tiên chậm hơn 1.3 – 1.8 giây so với
thành tích 200m của mình.
Kỹ thuật chạy trong khoảng 300m đầu ít thay đổi. Ở 100m cuối cùng do mệt
mỏi, kỹ thuật bị thay đổi rõ rệt. Tần số bƣớc chậm lại, độ dài bƣớc cũng giảm đi.
V. PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KỸ THUẬT CHẠY CỰ LY NGẮN
Chạy cự ly ngắn bao gồm: 60m, 100m, 200m, 400m. Kỹ thuật chạy cự ly
ngắn thƣờng đƣợc tiến hành giảng dạy sau khi đã dạy kỹ thuật chạy cự ly trung
bình và dài.
Trình tự các nhiệm vụ và biện pháp giảng dạy đƣợc tiến hành nhƣ sau:
1. Nhiệm vụ 1: Xây dựng khái niệm kỹ thuật và tìm hiểu đặc điểm chạy của
ngƣời học thông qua các biện pháp chủ yếu sau:
- Giáo viên phân tích và làm mẫu kỹ thuật.
- Cho xem phim, ảnh kỹ thuật (đúng và sai, toàn bộ và chi tiết động tác).
- Cho ngƣời học chạy lặp lại 30m – 50m, giáo viên nhận xét ƣu nhƣợc điểm
của từng ngƣời.
2. Nhiệm vụ 2: Dạy kỹ thuật chạy trên đƣờng thẳng thông qua các biện pháp
sau:
- Chạy bƣớc nhỏ, chạy nâng cao đùi, chạy đạp sau, chạy tăng tốc độ (tăng
dần cự ly, tần số và độ dài bƣớc chạy).
- Chạy tăng tốc độ sau đó chạy theo quán tính từ 60 – 70m.
- Tập đánh tay (đứng tại chỗ, tăng dần biên độ và tần số động tác).
- Chạy biến tốc các đoạn ngắn (40 – 60m)..
3. Nhiệm vụ 3: Dạy kỹ thuật chạy trên đƣờng vòng với những biện pháp
sau:
- Giáo viên phân tích và làm mẫu kỹ thuật.
- Chạy trên đƣờng vòng có bán kính lớn (ô chạy thứ 5,6) sau đó thu hẹp dần
(ô chạy thứ 3, 2, 1) với tốc độ khoảng 70 – 80% tốc độ tối đa.
- Chạy tăng tốc độ từ đƣờng thẳng vào đƣờng vòng (60 – 80m).
- Chạy tăng tốc độ từ đƣờng vòng ra đƣờng thẳng (60 – 80m).
- Chạy lặp lại 200m với tốc độ 70 – 80% tốc độ tối đa.
86
4. Nhiệm vụ 4: Dạy kỹ thuật xuất phát thấp và chạy lao thông qua các biện
pháp sau:
- Giới thiệu cách đóng bàn đạp và tập đóng bàn đạp.
- Thực hiện động tác theo khẩu lệnh “vào chỗ”, “sẵn sàng”.
- Tự xuất phát không có khẩu lệnh.
- Xuất phát thấp với tín hiệu chạy khác nhau (tiếng hô, súng phát lệnh, tiếng
còi).
- Xuất phát thấp và chạy lao 30 – 40m.
5. Nhiệm vụ 5: Dạy chuyển tiếp từ chạy lao sang chạy giữa quãng thông qua
những biện pháp sau:
- Chạy tăng tốc độ sau đó chạy theo quán tính.
- Xuất phát thấp, chạy lao rồi chạy theo quán tính.
- Chạy biến tốc các đoạn ngắn (50 – 60m).
- Chạy 60m xuất phát thấp.
6. Nhiệm vụ 6: Dạy kỹ thuật xuất phát thấp đầu đƣờng vòng thông qua
những biện pháp sau:
- Hƣớng dẫn cách đóng bàn đạp đầu đƣờng vòng.
- Xuất phát và chạy lao 20 - 25m đầu đƣờng vòng (vị trí xuất phát cự ly
200m, 400m).
- Chạy 200m xuất phát thấp.
7. Nhiệm vụ 7: Dạy kỹ thuật chạy về đích thông qua những biện pháp sau:
- Giới thiệu và làm mẫu kỹ thuật.
- Chạy chậm 6 – 10m làm động tác đánh đích.
- Chạy 50m làm động tác đánh đích.
8. Nhiệm vụ 8: Hoàn thiện kỹ thuật chạy cự ly ngắn thông qua những biện
pháp sau:
- Chạy 30m xuất phát thấp (lặp lại).
- Chạy 50m, 100m xuất phát thấp với toàn bộ kỹ thuật (từ 80 – 100% tốc độ
tối đa).
- Chạy 100m, 200m, 400m với toàn bộ kỹ thuật.
- Thi đấu và kiểm tra ở cự ly chính.
87
VI. KỸ THUẬT NHẢY XA
Để đạt thành tích cao trong nhảy xa, vận động viên cần có tầm vóc tốt, có
trình độ cao về sức mạnh – tốc độ và nắm vững kỹ thuật nhảy (Bảng 1).
Bảng 1: MỘT VÀI CHỈ SỐ TIÊU BIỂU
Ở CÁC VẬN ĐỘNG VIÊN NHẢY XA XUẤT SẮC NHẤT
Thành tích (m) Tuổi
(năm)
cao
(cm)
Nặng
(kg)
Chạy
100m/s
Nhảy cao
(cm) k
Nam 8.32 -8.90 21 - 19 178 - 191 68 - 85 10”4 – 9”81 200 - 209 0.79- 0.83
Nữ 7.20 – 7.85 21 – 24 169-180 56-65 11”5-10”7 170-186 0.74-0.76
Ghi chú: k là hệ số kỹ thuật, thể lực đƣợc biểu thị qua tƣơng quan giữa thành
tích nhảy xa và tốc độ tối đa có đƣợc trƣớc khi giậm nhảy.
Thành tích nhảy xa (S) về cơ bản phụ thuộc vào góc bay của tổng trọng tâm
(a) khi rời đất và tốc độ bay ban đầu (V0 ). Tốc độ bay phụ thuộc nhiều vào tốc độ
đà tối đa có đƣợc trƣớc lúc giậm nhảy và lực giậm nhảy.
Về lý thuyết, độ xa của lần nhảy đƣợc tính theo công thức:
V0² sin2a
S =
g
Trong đó, S là độ xa, V0 là tốc độ bay ban đầu, a là góc bay và g là gia tốc
rơi tự do.
Để phân tích, kỹ thuật nhảy xa có thể thia thành 4 giai đoạn: chạy đà, giậm
nhảy, bay trên không và rơi xuống đất.
1. CHẠY ĐÀ
Mục đích của chạy đà là tạo ra tốc độ tối đa theo phƣơng nằm ngang trƣớc
khi giậm nhảy và chuẩn bị tốt cho việc đặt chân giậm nhảy chính xác vào ván
giậm. Số bƣớc chạy đà ở các Vận động viên (VĐV) nam xuất sắc là 18 – 24
bƣớc (khoảng 38 – 48m), còn ở các VĐV nữ: 16 – 24 bƣớc (khoảng 32 – 42m). Số
88
lƣợng bƣớc chạy đà tối ƣu phụ thuộc nhiều vảo trình độhuấn luyện chuyên môn về
chạy của VĐV.
Tính chuẩn xác của chạy đà phụ thuộc vào độ dài chuẩn và nhịp d0iệu thực
hiện các bƣớc chạy trong đà.
Bắt đầu chạy đà tốt cũng đóng vai trò quan trọng, vì vậy VĐV cần có tƣ thế
ban đầu và động tác ổn định. Có một vài cách bắt đầu chạy đà: đứng tại chổ, đi bộ
vài bƣớc, chạy bƣớc đệm vài bƣớc.Thông thƣờng là VĐV đứng tại chỗ, một chân
đứng vào vạch giới hạn của cự ly đà, chân kia để ở phía sau, hoặc bắt đầu chạy đà
bằng vài bƣớc đi bộ hay chạy nhẹ nhàng rồi tăng dần tốc độ. Đến khoảng giữa cự
ly đà, độ ngả của thân trên giảm dần (chỉ còn 78 - 80 độ), tăng biên độ động tác
của tay và chân. Kết thúc đà, ở những bƣớc cuối cùng, thân trên gần nhƣ thẳng
đứng. Điều rất quan trọng là phải duy trì kỹ thuật chạy đúng cho đến bƣớc đà cuối
cùng, có cảm giác về “độ nẩy” khi tiếp xúc đất và kiểm tra đƣợc các động tác của
mình.Hai phƣơng án chạy đà thƣờng đƣợc dùng là: tăng tốc độ đều trên toàn đà và
đạt tới tốc độ tối đa ở các bƣớc cuối cùng (cách này phù hợp với những ngƣời mới
tập nhảy); cố gắng chạy nhanh ngay từ đầu, duy trì tốc độ cao trên cự ly và lại cố
gắng tăng tốc độ ở cuối cự ly. Dù theo phƣơng án nào, VĐV cũng cần đạt tới tốc
độ chạy đà 9 – 10 m/giây với nữ và 10 – 11 m/giây với nam. Để giậm nhảy chính
xác ở mỗi VĐV cần xác định vạch báo hiệu 2 (nơi bắt đầu vào 4 – 6 bƣớc cuối
cùng). Nếu chạy đà không cần điều chỉnh nhịp điệu, dộ dài bƣớc chạy mà vẫn có
độ dài 4 – 6 bƣớc cuối theo dự kiến thì mới đảm bảo giậm nhảy đúng ván giậm với
tốc độ tối ƣu.
Thông thƣờng độ dài bƣớc cuối nên ngắn hơn bƣớc trƣớc đó 15 – 20 cm (nữ
là 5 – 10 cm). Tuy vậy cũng có VĐV có độ dài 2 bƣớc cuối nhƣ nhau và thậm chí
có trƣờng hợp bƣớc cuối dài hơn bƣớc trƣớc đó.
2. GIẬM NHẢY
Phần lớn các VĐV dặt bàn chân xuống ván giậm bằng gót hoặc cả bàn chân.
Tại thời điểm đặt bàn chân trên ván giậm, VĐV phối hợp toàn thân làm động tác
rời ván giậm nhảy: duỗi thẳng các khớp của chân giậm, đồng thời gập gối đƣa
nhanh đùi của chân lăng vể trƣớc – lên trên. Tay bên chân giậm vung về trƣớc –
lên trên và dừng khi cánh tay song song với mặt đất. Tay bên chân lăng gập ở
89
khuỷu và đánh sang bên để nâng cao vai. Kết thúc giậm nhảy, cơ thể rời đất ở tƣ
thế bƣớc bộ trên không.
Khi giậm nhảy, lực tác động lên trọng tâm cơ thể hƣớng về trƣớc theo
phƣơng nằm ngang và chiếm 87% trong khi lực hƣớng lên trên, theo phƣơng thẳng
đứng chỉ chiếm 13%.
Khi chân giậm nhảy rời đất, tốc độ bay V của các vận động viên xuất sắc có
thể tới 9.2 - 9.6 m/giây.
3. BAY TRÊN KHÔNG
Sau khi rời đất, trọng tâm cơ thể bay theo đƣờng vòng cung. Toàn bộ các
động tác của VĐV trong lúc bay là nhằm giữ thăng bằng và tạo điều kiện thuận lợi
để rơi xuống hố cát có hiệu quả nhất.
Sự khác biệt giữa các kiểu nhảy xa chính là ở giai đoạn này. Có 3 kiểu
chính: “Ngồi”, “ƣỡn thân” và “cắt kéo”.
3.1 Kiểu “ngồi”:
Đây là kiểu đơn giản, tự nhiên nhất, phù hợp với ngƣời mới tập. Sau khi bay
ở tƣ thế “bƣớc bộ” đƣợc 1/3 – 1/2 cự ly, VĐV kéo chân giậm lên song song với
chân ở phía trƣớc (chân lăng) và nâng 2 đùi lên sát ngực. Ở tƣ thế này, thân trên
không nên gập nhiều về trƣớc. Tiếp đó, trƣớc khi rơi xuống hố cát 2 chân hầu nhƣ
đƣợc duỗi thẳng hoàn toàn đồng thời 2 cánh tay đánh thẳng xuống dƣới – về trƣớc
và ra sau. Động tác có tính chất bù trừ này tạo điều kiện tốt cho việc duỗi thẳng
chân trƣớc khi rơi xuống và giữ thăng bằng. ( Hình 8)
90
(Hình 8)
3.2 Kiểu “ưỡn thân”:
Sau khi cơ thể rời đất và bay lên ở tƣ thế “bƣớc bộ”, chân lăng phía trƣớc
đƣợc hạ xuống dƣới, về sau sát cùng với chân giậm. Lúc này hai chân dƣờng nhƣ ở
phía sau, chân lăng duỗi thẳng hơn, còn chân giậm gấp ở khớp gối. Đồng thời với
việc chủ động đƣa vùng hông về trƣớc (so với tổng trọng tâm cơ thể) ngƣời nhảy
ƣỡn căng vùng thắt lƣng và ngực. Hai tay lúc này hơi gập ở khuỷu và đƣa sang
ngang hoặc đƣa sang ngang – ra sau – lên trên cũng tạo điều kiện cho việc “ƣỡn
thân” tích cực. Do “ƣỡn thân” mà các cơ ở mặt trƣớc thân đƣợc kéo dãn tạo điều
kiện cho vận động viên gập thân trên mạnh và dễ dàng đƣa chân về trƣớc xa hơn
khi rơi xuống cát. Khi rơi xuống, hai chân gấp ở khớp gối và đƣa nhanh lên trên về
trƣớc, còn hai tay đánh về trƣớc, xuống dƣới và ngƣời nhảy ở tƣ thế chuẩn bị chạm
cát. (Hình 9)
(Hình 9)
3.3 Kiểu “cắt kéo”
Ngay sau khi rời đất, hai chân làm tiếp các động tác nhƣ chạy trên không.
Hai tay duỗi thẳng (hoặc hơi co ở khuỷu) thực hiện động tác đánh vòng tròn, đuổi
nhau (lấy vai làm trục) và so le với chân, vừa hổ trợ cho động tác chân vừa để giữ
thăng bằng. Thông thƣờng có thể thực hiện 2.5 bƣớc chạy trên không, nhƣng cũng
có thể thực hiện tới 3.5 bƣớc. (Hình 10)
Kiểu nhảy này có hiệu quả hơn do duy trì đƣợc cấu trúc phối hợp của bƣớc
chạy khi chuyển từ đà sang giậm nhảy và các động tác trong giai đoạn bay. Song
91
để phát huy đƣợc những ƣu thế của kỹ thuật, ngƣời nhảy cần có trình độ huấn
luyện tốt, có độ linh hoạt cao ở khớp hông để thực hiện động tác “cắt kéo” với biên
độ lớn và có cảm giác không gian chính xác khi thực hiện kỹ thuật trên không
(Hình 10)
4. RƠI XUỐNG CÁT
Để đạt đƣợc độ xa của lần nhảy, việc thực hiện đúng kỹ thuật rơi xuống
cát có ý nghĩa rất lớn. Không ít VĐV do có kỹ thuật này kém nên đã không đạt
đƣợc thành tích tốt nhất của mình. Trong tất cả các kiểu nhảy, việc thu chân chuẩn
bị rơi xuống cát đƣợc bắt đầu khi tổng trọng tâm cơ thể ở cách mặt cát ngang với
mức khi họ kết thúc giậm nhảy. Để chuẩn bị cho việc rơi xuống cát, đầu tiên cần
nâng đùi, đƣa 2 đầu gối lên sát ngực và gập thân trên nhiều về trƣớc Cẳng chân
lúc này đƣợc hạ xuống dƣới, hai tay chuyển từ trên cao ra phía trƣớc. Tiếp đó là
duỗi chân, nâng cẳng chân để gót chân chỉ thấp hơn mông một chút. Thân trên lúc
này không nên gập về trƣớc quá nhiều vì sẽ gây khó khăn cho việc nâng chân lên
cao. Tay lúc này hơi gấp ở khuỷu và đƣợc hạ xuống theo hƣớng xuống dƣới và ra
sau. Sau khi 2 gót chân chạm cát cần gập chân ở khớp gối để giảm chấn động và
tạo điều kiện chuyển trọng tâm cơ thể xuống dƣới – ra trƣớc vƣợt qua điểm chạm
cát của gót. Thân trên lúc này cũng cố gập về trƣớc để giúp không đổ ngƣời về sau
làm ảnh hƣởng đến thành tích. (Hình 11)
92
5. PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KỸ THUẬT NHẢY XA
Giảng dạy kỹ thuật nhảy xa nên tiến hành sau khi ngƣời học đã đƣợc tập
luyện chạy ngắn và bao gồm những nhiệm vụ, biện pháp chủ yếu sau:
5.1. Nhiệm vụ 1: Xây dụng khái niệm kỹ thuật thông qua các biện pháp sau:
- Giới thiệu, phân tích, làm mẫu, cho xem phim, ảnh kỹ thuật các kiểu nhảy
và làm quen.
- Tập chạy tăng tốc độ 30 – 50m.
5.2 Nhiệm vụ 2: Dạy kỹ thuật giậm nhảy và bƣớc bộ thông qua các biện
pháp sau:
- Tại chỗ tập đặt chân giậm nhảy và giậm nhảy.
- Chạy 1 bƣớc, 3 bƣớc đà làm động tác giậm nhảy.
- Tập bƣớc bộ liên tục (3 đến 6 lần một tổ).
- Chạy đà 3 – 5 bƣớc giậm nhảy bƣớc bộ đầu chạm vật chuẩn treo trên cao
(bóng hoặc cành lá).
- Chạy đà ngắn giậm nhảy bƣớc bộ bƣớc bộ qua xà thấp 40-50cm đặt cách
ván giậm nhảy một nửa đƣờng bay.
5.3 Nhiệm vụ 3: Dạy kỹ thuật chạy đà và giậm nhảy bƣớc bộ thông qua các
biện pháp sau:
- Chạy đà 5 bƣớc giậm nhảy bƣớc bộ liên tục (30 – 50m).
- Chạy đà 7 đến 11 bƣớc làm động tác giậm nhảy bƣớc bộ rơi xuống hố cát
bằng chân lăng rồi chạy thẳng ra khỏi hố.
- Chạy với đà trung bình (13 – 15 bƣớc) làm động tác giậm nhảy bƣớc bộ rơi
xuống hố cát bằng chân lăng (yêu cầu đặt chân giậm đúng ván giậm nhảy).
5.4 Nhiệm vụ 4: Dạy kỹ thuật bay trên không “kiểu ngồi” và rơi xuống đất
thông qua những biện pháp sau:
- Nhảy xa tại chỗ, rơi xuống hố cát bằng hai chân.
- Nhảy xa với đà ngắn đến quá nửa đƣờng bay thu chân giậm về trƣớc, cùng
với chân lăng duỗi cẳng chân rơi vào hố cát có đánh dấu trƣớc.
- Nhảy xa “kiểu ngồi” với đà ngắn và trung bình.
(Hình 11)
93
5.5 Nhiệm vụ 5: Dạy kỹ thuật nhảy hiểu “ƣỡn thân” thông qua các biện pháp
sau:
- Tại chỗ, từ tƣ thế bƣớc bộ làm động tác ƣỡn thân (ép miết chân lăng và
căng chân) sau đó bật về trƣớc, rơi xuống bằng hai chân.
- Đứng trên bục cao làm động tác ƣỡn thân rơi xuống hố cát.
- Chạy đà ngắn giậm nhảy lên bục cao (30 – 40cm) làm động tác ƣỡn thân
sau khi đã bay bƣớc bộ rồi rơi xuống hố cát.
- Chạy đà ngắn, giậm nhảy bƣớc bộ, miết gót chân lăng chạm vào vật chuẩn
đặt cách ván giậm 1.5 – 1.8m.
- Nhảy xa kiểu “ƣỡn thân” với chiều dài đà tăng dần.
5.6 Nhiệm vụ 6: Dạy kỹ thuật nhảy kiểu “cắt kéo” thông qua các biện pháp
sau:
- Treo ngƣời trên xà đơn (hoặc cành cây) làm động tác mô phỏng “cắt keo”
hai chân.
- Chạy đà ngắn giậm nhảy bƣớc bộ, thực hiện đổi chân ở trên không, rơi
xuống bằng chân giậm rồi chạy tiếp.
- Chạy đà ngắn giậm nhảy lên bục, làm động tác “cắt kéo” trên không rồi
rơi xuống bằng hai chân.
- Nhảy xa kiểu “cắt kéo” với chiều dài đà tăng dần.
94
(Hình 12)
5.7 Nhiệm vụ 7: Hoàn thiện kỹ thuật kiểu nhảy quy định (hoặc lựa chọn)
thông qua những biện pháp sau:
- Hoàn thiện từng phần kỹ thuật động tác của kiểu nhảy quy định, xác định
cự ly đà chính thức.
- Nhảy xa với chiều dài đà tăng dần và nhịp điệu động tác ổn định.
- Thi đấu, kiểm tra đánh giá kết quả.
VII. KỸ THUẬT NHẢY CAO
1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÔN NHẢY CAO
Năm 1886 lần đầu tiên môn nhảy cao đƣợc tổ chức thi đấu tại Anh.
Năm 1893 Môn Nhảy Cao phát triển mạnh và lan rộng ra khắp các nƣớc trên
thế giới. Năm 1896 Đại Hội Olympic hiện đại đầu tiên tổ chức tại Hy Lạp , Nhảy
Cao là một trong những môn thi đấu chính tại Đại hội. Kỷ lục Olympic đầu tiên
của môn nhảy cao là Vận động viên E clac với thành tích 1m81 bằng Kỹ thuật
bƣớc qua …
Ikyr lục nhảy cao đầu tiên của thế giới đƣợc công nhận vào tháng 5/1912 với
thành tích 2m00 của vận độnh viên O Rin (Mỹ) bằng kiểu nhảy nằm
nghiêng.7/1957 vận động viên Stê- Pa- Nop (Liên Xô cũ) qua xà 2m16 , và cho ra
đời Kỹ thuật mới “Nhảy úp bụng” . Thời đó ngƣời ta gọi là kiểu nhảy Stê- Pa-
Nop.1968 Đại hội Olympic lần thứ 19 tại Mêhicô vận động viên Plot (Mỹ) cho ra
đời kỹ thuật mới “Kỹ thuật nhảy lƣng qua xà” cũng từ đó đến nay Kỹ thuật nhảy
cao lƣng qua xà đƣợc phát triển mạnh và chiếm ƣu thế hơn so với các Kỹ thuật
trƣớc đó và đƣợc hầu hết các Vận động viên áp dụng để thi đấu.
Kỷ lục nhảy cao
- Kỷ lục Nhảy cao thế giới hiện nay là 2m45 của Vận động viên Stomayo
(Cuba)
- Kỷ lục của nữ thế giới hiện nay là : 2m08
- Kỷ lục Nhảy cao của Nam Việt Nam hiện nay là : 2m25 của vận động viên
Nguyễn Duy Bằng ( Bến Tre ).
95
- Kỷ lục Nhảy cao nữ Việt Nam hiện nay là : 1m94 của Vận động viên Bùi
Thị Nhung ( Hải Phòng ).
2. Ý NGHĨA - TÁC DỤNG
- Giúp cho con ngƣời phát triển sức nhanh, sức mạnh, sự khéo léo và đặc biệt
là sức bật, một yếu tố rất cần thiết cho các môn thể thao khác.
- Tập luyện Nhảy cao giúp cho con ngƣời rèn luyện ý chí bền bỉ, sắt đá và
lòng dũng cảm không sợ khó khăn nguy hiểm, luôn tự tin vào chính bản thân
mình.
3. ĐẶC ĐIỂM MÔN NHẢY CAO
3.1. Nhảy cao là một môn thể thao bắt đầu bằng động tác chạy đà phối hợp
với động tác dậm nhảy để làm thay đổi quỹ đạo của trọng tâm cơ thể vƣợt qua xà
ngang.
3.2. Trong hoạt động nhảy cao đòi hỏi vận động viên phải gắng sƣc tối đa ,
đồng thời còn phải có tính linh hoạt và phối hợp rất cao trong một thời gian ngắn .
Vì vậy hoạt động của Nhảy cao còn đƣợc gọi là hoạt động sức mạnh bộc phát.
3.3 Thành tích Nhảy cao phụ thuộc vào tốc độ chạy đà , độ chính xác , lực
dậm nhảy , tốc độ bay và góc độ bay ban đầu; mặt khác vận động viên còn biết sử
dụng Kỹ thuật qua xà có tính ƣu việt thì mới có thể đạt thành tích cao trong thi đấu.
3.4 Mỗi lần nhảy là một hoạt động trọn vẹn không ngừng , nhƣng để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy , học và tập luyện môn Nhảy cao; ngƣời ta
thƣờng chia Kỹ thuật nhảy cao thành các giai đoạn nhƣ sau :
- Chạy đà và chuẩn bị dậm nhảy.
- Giậm nhảy.
- Qua xà ( bay trên không ).
- Rơi xuống đất.
4. PHÂN TÍCH KỸ THUẬT NHẢY CAO
4.1. CHẠY ĐÀ VÀ CHUẨN BỊ DẬM NHẢY.
96
4.1.1 Mục đích : Tạo ra tốc độ nằm ngang lớn để chuẩn bị tốt cho dậm nhảy.
4.1.2 Tƣ thế chuẩn bị chạy đà : mỗi vận động viên đều có một tƣ thế và một
thói quen riêng. Nhƣng đa số thƣờng sử dụng Kỹ thuật xuất phát cao trong chạy
đà.
4.1.3 Chạy lấy đà : Tốc độ tăng nhanh dần và các bƣớc chạy cuối cùng đạt
tốc độ tối ƣu hợp với tình trạng thể lực , Kỹ thuật , giới tính , lứa tuổi của Vận
động viên.
4.1.4 Chuẩn bị dậm nhảy : Chân dậm nhảy đặt vào điểm dậm nhảy nhanh ,
mạnh , tích cực , khi bắt đầu tiếp xúc với điểm dậm nhảy chân hầu nhƣ thẳng. Sau
đó gập gối ( khoảng 1350 – 1400 ) để giảm chấn động và chuẩn bị cho động tác
đạp duỗi. Điểm đặt chân dậm bao giờ cũng ở phía trƣớc trọng tâm cơ thể ; điểm đặt
càng xa bao nhiêu thì khả năng chuyển tốc độ nằm ngang sang thẳng đứng càng
lớn.
4.2 GIẬM NHẢY
4.2.1 Mục đích : Làm thay đổi hƣớng chuyển động của trọng tâm cơ thể để
tạo ra tốc dộ bay ban đầu lớn và góc độ bay ban đầu hợp lí; tạo điều kiện thuận lợi
cho động tác trên không.
4.2.2 Động tác dậm nhảy : Phụ thuộc vào sự phối hợp khi chạy đà và chuẩn
bị dậm nhảy động tác dậm nhảy đƣợc đánh giá bằng sự tăng áp lực đối với mặt đất
để nâng cơ thể lên cao.
4.2.3 Với tốc độ dậm nhảy thích hợp , thời gian dậm nhảy càng rút ngắn
càng tốt. Do tính chất đàn hồi để tăng áp lực lên mặt đất nên lúc hoãn xung chan
dậm nhảy cần gấp gối tích cực, trọng tâm cơ thể hạ thấp. Động tác khuỵu gối càng
97
ngắn và nhanh thì phản xạ co duỗi cơ bắp càng nhạy dẫn đến kết quả dậm nhảy
càng tốt.
4.2.4 Động tác lăng chân nhằm để tăng cƣờng sƣc mạnh cho chân dậm nhảy.
4.2.5 Động tác đánh tay phối hợp nhịp nhàng đồng bộ với hai chân cũng có
tác dụng tốt trong việc nâng trọng tâm cơ thể lên cao.
4.3 GIAI ĐOẠN BAY TRÊN KHÔNG
4.3.1 Sau khi cơ thể rời khỏi mặt đất : Bắt đầu bay trong không gian theo
một quỹ đạo nhất định và phụ thuộc vào tốc độ bay và góc độ bay ban đầu cùng
với lực cản của không khí, gió và lực hút trái đất.
4.3.2 Khi bay trên không : mọi động tác đều không có tác dụng làm thay đổi
quỹ đạo bay của trọng tâm cơ thể đã đạt đƣợc lúc dậm nhảy. Mọi sự thay đổi vị trí
của cơ thể trong không gian theo luật bù trừ cho nhau.
4.4.3 Nhiệm vụ : Hợp lí hóa mọi chuyển động khi bay để nâng cao cơ thể
qua xà.
4.4 GIAI ĐOẠN RƠI XUỐNG ĐẤT
Xảy ra rất ngắn và gây chấn động lớn cho cơ thể . Do vậy để đảm bảo an
toàn và tránh xảy ra chân thƣơng cho cơ thể cần chú ý kéo dài giai đoạn hoãn xung
bằng cách gập sâu gối , hông và vật liệu đàn hồi ở điểm rơi.
5. CÁC KIỂU KỸ THUẬT NHẢY CAO
5.1. KỸ THUẬT NHẢY CAO KIỂU BƢỚC QUA
5.1.1 Cự li chạy đà : Thƣờng khoảng từ 7 - 11 bƣớc chạy ( 12 – 15m)
5.1.2 Cách đo đà : Thƣờng ngƣời ta nối 5 bàn chân liền nhau bằng 1 bƣớc
chạy.
5.1.3 Tốc độ chạy đà : Từ chậm đến nhanh dần và đạt tốc độ tối ƣu khi dậm
nhảy.
5.1.4 Kỹ thuật chạy đà : Các bƣớc chạy đà của Nhảy cao kiểu bƣớc qua có
đàn tính cao; trọng tâm cơ thể nhấp nhô lớn, độ ngã thân trên về phía trƣớc không
nhiều, bàn chân khi tiếp xúc đất từ gót lăng nhanh qua mỗi bàn chân. Để chuẩn bị
tốt cho động tác dậm nhảy các bƣớc chạy đà cuối cùng phải đạt tốc độ tối ƣu và
trọng tâm cơ thể hạ thấp nhất ở bƣớc cuối.
Có 3 cách tăng tốc độ chạy đà nhảy cao:
98
- Cách 1: Độ dài 3 bƣớc cuối cùng giảm dần, tốc độ chạy vẫn tăng và
đƣợc tăng đột ngột ở bƣớc cuối.
- Cách 2: Tốc độ chạy đà vẫn tăng dần, độ dài bƣớc chạy nhƣ nhau.
Riêng bƣớc chạy đà cuối ( bƣớc trƣớc bƣớc dậm nhảy ) dài hơn tất cả các bƣớc
khác một bàn chân ( 30 – 40 cm) . Ở cách chạy đà này tốc độ đƣợc tăng tối ƣu ở
bƣớc cuối cùng. Đây là cách chạy đà chiếm ƣu thế nhất.
- Cách 3: Lập lại 2 lần nhịp điệu chạy đà của cách thứ 2 ( dài,
ngắn,dài,ngắn)
5.1.5 Kỹ thuật dậm nhảy :
- Giai đoạn chống trƣớc : Chân dậm nhảy nhanh chóng đặt vào điểm dậm
nhảy bằng gót bàn chân, đùi và gót chân hầu nhƣ thẳng tạo thành góc 48 – 63 độ so
với mặt sân. Do chân dậm nhảy đƣa nhanh về trƣớc hơn tốc độ chạy đà nên thân
trên giữ lại ở phía sau; hông đẩy về trƣớc tạo cho chân dậm và thân trên hầu nhƣ
thành một đƣờng thẳng. Hai tay co lại 90 độ ở khuỷu tay và đƣa về sau. Trọng tâm
cơ thể dồn lên chân lăng.
- Giai đoạn thẳng đứng : Do quán tính của tốc độ chạy trên đà nên ngƣời
nhảy tiếp tục di chuyển về trƣớc, đồng thời để giảm chấn động cơ thể và chuẩn bị
cho động tác đạp duỗi, chân dậm gập gối khoảng 135 – 140 độ ; chân chuyển điểm
tiếp xúc từ gót sang cả bàn chân. Trọng tâm cơ thể chuyển từ chân lăng sang chân
dậm.
- Giai đoạn đạp duỗi : Kết thúc động tác dậm nhảy chân dậm nhảy đạp duỗi
thẳng hết các khớp ; chân lăng thẳng ở ngang thắt lƣng và tạo với thân trên thành 1
góc khoảng 90 độ, hai khuỷu tay cao ngang vai hoặc hơn vai một ít. Lực dậm nhảy
khoảng 650kg, thời gian dậm nhảy khoảng 0,18 – 0.22 giây. Tốc độ bay ban đầu
khoảng 4,1m/s - 4,2m/s , góc độ bay ban đầu khoảng 60 – 75 độ.
*Kỹ thuật qua xà kiểu bƣớc qua
Khi chân lăng đang ở trên xà nhanh chóng hạ xuống phía bên kia xà, thân
trên ngã về trƣớc tạo điều kiện thuận lợi cho chân dậm nhảy nâng lên, bàn chân
gập tự nhiên , mũi bàn chân hơi xoay ra ngoài, hai tay giữ tự nhiên ở trên cao. Nhờ
động tác hạ nhanh chân lăng giúp cho chân dậm vƣợt qua xà. Ngƣời nhảy rơi
xuống bằng chân lăng rồi tiếp đến là chân dậm, khi vừa chạm hố cát hai chân
99
nhanh chóng gập gối để giảm chấn động cơ thể lúc này ngƣời nhảy xoay mặt lại
đối diện với xà.
6. KỸ THUẬT NHẢY CAO KIỂU NẰM NGHIÊNG
o Cự li chạy đà từ 7 – 11 bƣớc.
o Hƣớng chạy đà : Theo hƣớng phía chân dậm nhảy gần xà. Góc độ chạy
đà tạo với mặt phẳng thẳng đứng của xà khoảng 30 – 40 độ.
o Tốc độ chạy đà và Kĩ thuật chạy đà giống nhƣ kiểu bƣớc qua.
o Kỹ thuật dậm nhảy cũng đƣợc phân tích giống nhƣ Kỹ thuật nhảy bƣớc
qua.
*Kỹ thuật qua xà kiểu nằm nghiêng.
Kết thúc động tác dậm nhảy khi chân đá lăng lên cao, mũi bàn chân xoay
vào trong và ép xuống dƣới ; đồng thời chân dậm nhảy co gối bàn chân thu lại ở
khuỷu chân lăng hình thành tƣ thế nằm nghiêng trên xà. Chân lăng duỗi dọc theo
xà và hất cổ lên phía trên, vai cùng bên của chân lăng ép nhanh xuống dƣới tạo
điều kiện để xoay thân tiếp tục qua xà. Sau đó chân dậm và thân trên hạ xuống hố
cát cùng lúc bằng 2 tay và chân dậm.
7. KỸ THUẬT NHẢY CAO KIỂU ÖP BỤNG
o Cự li chạy đà từ 7-11 bƣớc
o Hƣớng chạy đà : Theo phía chân dậm nhảy gần xà , góc độ chạy đà tạo
với mặt phẳng thẳng đứng của xà ngang từ 25 – 40 độ.
o Tốc độ chạy đà và kỹ thuật chạy đà giống nhƣ kỹ thuật nhảy cao bƣớc
qua.
Kiểu úp bụng
100
o Kỹ thuật dậm nhảy: Cũng đƣợc phân tích giống nhƣ kỹ thuật nhảy cao
bƣớc qua.
7.1 Kỹ thuật qua xà kiểu bằng
Tay cùng bên với chân lăng duỗi dọc theo chân lăng ; tay cùng bên với chân
dậm co tự nhiên, chân dậm co ở gối bàn chân thu lên gần gối chân lăng. Khi qua xà
tay bên chân lăng thả xuống dƣới, vai bên chân lăng chủ động ép xuống dƣới
quanh xà ngang. Chân lăng duỗi thẳng và ép mũi bàn chân vào trong. Chân dậm
khi qua xà vừa thực hiện động tác duỗi thẳng chân vừa „mở hông‟ cùng lúc thân
trên và hông xoay dọc theo xà tạo diều kiện thuận lợi cho chân dậm qua xà.
7.2 Kỹ thuật qua xà kiểu lặn
Khi thân trên đã cao hơn xà thì tay cùng bên với chân lăng chúi xuống dƣới
phía bên kia xà cùng lúc chân lăng đang ở cao hơn xà nhanh chóng xoay mũi chân
xuống dƣới một cách tích cực ( thân trên và chân lăng không nằm song song trên
xà nhƣ kiểu bằng ) , tay cùng bên với chân dậm co tự nhiên và ép vào sát ngực.
Đầu và thân trên cũng tích cực hạ xuống bên kia xà. Do các chuyển động trên đƣa
cơ theer nằm úp sấp trên xà ngang.
7.3 Kỹ thuật qua xà kiểu lặn
Xà ngang cắt trục dọc cơ thể theo hình chữ thaajo (+) . Cùng với động tác
xoay ép của chân lăng , tay , vai cùng bên với chân lăng xuống dƣới, chân dậm
nhảy chủ động duỗi chân và mở hông tƣ thế úp sấp bật nghiêng qua xà và rơi
xuống hố cát đầu tiên là chân lăng và tay cùng bên với chân lăng, sau đó tay gập lại
để giảm chấn động, tiếp theo là chạm vai, lƣng, lúc này thân ngƣời cuộn tròn lại.
8. KỸ THUẬT NHẢY CAO LƢNG QUA XÀ
o Cự li chạy đà : từ 7-13 bƣớc
o Hƣớng chạy đà : Theo hƣớng chân lăng gần xà
o Góc độ chạy đà : Bắt đầu khoảng 70 – 90 độ so với xà ngang,đến 4
bƣớc cuối góc độ chỉ còn khoảng 30 so với mặt phẳng thẳng đứng của xà ngang,
đƣờng chạy đà là một hình vòng cung.
o Kỹ thuật chạy đà : Giống nhƣ kiểu nhảy úp bụng ở các bƣớc cuối tốc
độ chạy đà có thể lên đến 7,6m/s – 7,8m/s .
o Kỹ thuật dậm nhảy : Ở các bƣớc cuối cùng chân dậm nhảy đặt vào
điểm dậm nhảy cách cà ngang từ 90 – 100 cm bằng cả bàn chân, sau đó khuỵu gối
101
khoảng 140 – 160 độ. Chân lăng sau khi rời đất, gập gối và dùng sức đá đùi chân
lăng lên cao , và hƣớng đầu gối hơi ra phía ngoài xà. Hai tay đồng thời đánh tích
cực từ sau ra trƣớc lên trên giống nhƣ kiểu úp bụng , tay cùng bên với chân lăng
đánh tích cực hơn , và hƣớng khuỷu tay ra ngoài xà tạo điều kiện thuận lợi cho lƣng
hƣớng vào xà . Khác với kiểu nhảy úp bụng trọng tâm không hạ thấp nhiều nên thời
gian hoàn thành dậm nhảy rất nhanh khoảng 0,14 – 0,17/s. Tốc độ bay ban đầu
khoảng 4,1 m/s – 4,3 m/s và góc độ bay ban đầu khoảng 75 độ.
Kỹ thuật qua xà kiểu lƣng
Kết thúc động tác dậm nhảy cơ thể bốc lên cao lƣng hƣớng vào xà ngang.
(nhờ động tác dậm nhảy và tốc độ chạy đà theo đƣờng vòng tạo ra ). Lúc này
ngƣời nhảy ngã ngửa đầu vào vai, sang phía bên kia xà, hai tay co tự nhiên trƣớc
ngực, hông ƣỡn ngửa hƣớng lên trời; chân dậm co gối đuổi kịp chân lăng, lúc này
ngƣời nhảy nằm ngửa trên xà. Ngƣời nhảy tiếp đất.
102
CHƢƠNG 3. BÓNG CHUYỀN
• Mục tiêu:
- Sinh viên nắm đƣợc nguồn gốc, lịch sử phát triển của môn Bóng chuyền.
- Sinh viên nắm đƣợc những mốc thời gian quan trọng về sự phát triển môn
Bóng chuyền Thế giới và sự gia nhập môn Bóng chuyền vào Việt nam.
- Tác dụng của môn Bóng chuyền đối với đời sống thể chất và tinh thần của
ngƣời tập và ảnh hƣởng đến đời sống xã hội.
I. NGUỒN GỐC
Vào năm 1895 William Morgan, một giáo viên Thể dục ở Hội các thành
viên tôn giáo ( YMCA) trình diễn một trò chơi mới mang tên Mintonette. Đó là trò
chơi dùng ruột của quả Bóng rỗ, đƣợc chuyền qua chuyền lại qua một tấm lƣới
căng ở độ cao 6,6 foot tại YMCA thành phố Holyoke bang Massachusete Mỹ. Với
William Morgan trò chơi chuyền bóng qua lƣới tƣơng tự nhƣ Quần vợt, cái khác là
ở chổ “ không dùng vợt mà phải dùng tay để chuyền bóng. Bóng không quá nhỏ
mà phải có kích thƣớc lớn”. Vào năm 1947 tại Paris ( Pháp) Ông Paul Libaud là
ngƣời đã hợp nhất các liên đoàn Bóng chuyền quốc gia thành liên đoàn Bóng
chuyền quốc tế ( FIVB). FIVB nhận trọng trách phát triển môn Bóng chuyền trên
toàn thế giới. Vào năm 1984 Tiến sỉ Ruben Acosta ngƣời Mehico đƣợc bầu làm
chủ tịch FIVB. Ông mơ ƣớc bƣớc vào thế kỷ 21 môn Bóng chuyền sẽ trở thành
môn thể thao phổ cập nhất trên hành tinh.
103
II. BẢN CHẤT MÔN BÓNG CHUYỀN
Bóng chuyền là một môn thể thao tập thể đƣợc ngăn cách giữa sân, cột và
lƣới. Chính vì có cột và lƣới ngăn cách giữa hai đội cho nên nó là môn thể thao
đối kháng không trực tiếp.
Bóng chuyền khác với các môn thể thao khác là bóng không dừng lâu trên
cơ thể. Sự tiếp xúc với bóng khác với các môn bóng đá, bóng rỗ, bóng ném là khi
bóng chạm vào tay phải nhanh chóng bật bóng đi (ngoại trừ khi phát bóng).
Phần lớn sự tiếp xúc với Bóng trong Bóng chuyền là sự tiếp xúc trong không gian.
Việc tiếp xúc bóng là điều cơ bản, sự phối hợp với đồng đội là điều sống
còn, phối hợp tốt sẽ dẫn đến thắng lợi.
Bóng chuyền cần sự tập trung cao độ của ngƣời chơi, sự sắp xếp cầu thủ,
khả năng di chuyển hợp lý trên sân là nền tảng cho sự thắng lợi. Thực hiện tốt các
chức năng nhiệm vụ của từng cầu thủ là mấu chốt chiến thuật .
III. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA MÔN BÓNG CHUYỀN
Ra đời vào năm 1895 và ngay sau đó vào năm 1896 trò chơi này đƣợc đƣa ra
thảo luận tại Hội nghị YMCA thành phố Springfield bang Massachusete và trình
diển trƣớc các Giám đốc Giáo dục thể chất, sau đó đƣợc đổi tên là Volleyball (trái
bóng bay) mà ở Việt nam chúng ta gọi là Bóng chuyền. Trong vòng 20 năm từ khi
thành lập, Bóng chuyền phát triển rất nhanh. Số ngƣời chơi không quy định, không
có chiến thuật, các kỹ thuật còn hạn chế chủ yếu là chuyền bóng, các điều luật còn
đơn giản. Năm 1913 Bóng chuyền đƣợc đƣa vào chƣơng trình thi đấu của Đại hội
thể thao vùng Viễn Đông lần thứ nhất tổ chức tại thành phố Manila Philipine.
Năm 1916 Hội thể thao Đại học toàn Mỹ thừa nhận Bóng chuyền là môn thể
thao vì đã có trên 2000 ngƣời Mỹ mê say tập luyện môn thể thao này. Đồng thời
lúc này Luật Bóng chuyền ra đời và ban hành tại Mỹ.
Năm 1922 Giải Bóng chuyền toàn Mỹ lần đầu tiên đƣợc tổ chức
Năm 1928 Liên đoàn Bóng chuyền Mỹ đƣợc thành lập
Năm 1929 Liên đoàn Bóng chuyền Nhật bản đƣợc thành lập và môn Bóng
chuyền đƣợc đƣa vào thi đấu trong Đại hội thể thao Trung Mỹ và vùng biển
Caribe.
Vào ngày 20/04/1947 tại Paris (Pháp) Đại biểu của 14 nƣớc gồm: Bỉ, Brazin,
104
Tiệp khắc, Ai cập, Hunggari, Italia, Ba lan, Rumani, Mỹ…. thành lập liên đoàn
Bóng chuyền Quốc tế FIVB (Federation International Volleyball).
Chủ tịch liên đoàn Bóng chuyền Thế giới đầu tiên là Ông Paul Libaud ngƣời
Pháp. Năm 1949 Giải vô địchBóng chuyền đầu tiên đƣợc tổ chức tại Praha (Tiệp
Khắc). Năm 1957 Bóng chuyền đƣợc thừa nhận là môn thi đấu trong Thế vận Hội.
Năm 1964 tại Thế vận hội lần thứ 18 ở Tokyo (Nhật Bản) lần đầu tiên chƣơng
trình thi đấu có môn Bóng chuyền . Ngày 26/07/1984 tại cuộc hội thảo ở bờ biển
đƣợc tổ chức trong kỳ Thế vận hội ở Los Angeles. Tiến sỉ Ruben Acosta ngƣời
Mêhico đƣợc bầu làm chủ tịch. Năm 1987 FIVB tổ chức Giải Bóng chuyền bãi
biển lần đầu tiên.
• Bóng chuyền gia nhập và phát triển ở Việt Nam:
Ở Việt Nam: Bóng chuyền xuất hiện vào năm 1922, du nhập bằng con
đƣờng quân đội. Mới đầu môn Bóng chuyền không phát triển rộng khắp do chiến
tranh liên tục, sự đầu tƣ cơ sở vật chất cũng nhƣ đội ngũ VĐV hạn chế. Khi nƣớc
nhà thống nhất, môn Bóng chuyền đƣợc phát triển rộng khắp từ nông thôn đến
thành thị, trong các nghành, các lĩnh vực, ở mọi lứa tuổi đều tham gia thi đấu.
Hơn 30 năm qua, môn Bóng chuyền nƣớc ta đã đạt đƣợc một số kết qủa cả
hai phƣơng diện: Bóng chuyền quần chúng và Bóng chuyền thành tích cao.
Những năm gần đây, môn Bóng chuyền không ngừng phát triển và đƣợc coi
là môn thể thao mũi nhọn. Đƣợc đầu tƣ và phát triển nâng cao thành tích thi đấu.
Trong mấy năm qua, đội Bóng chuyền nƣớc ta đã tham gia giải bóng chuyền Đông
Nam Á cùng giải Bóng chuyền Châu Á và đã đạt đƣợc thành tích đáng khích lệ.
Đặc biệt là chiếc huy chƣơng đồng đầu tiên của đội bóng chuyền nữ nƣớc ta tại
Đại hội TDTT Đông Nam Á (Segames) 19 tổ chức tại Inđônêxia. Đã góp phần vào
tiếng nói chung Bóng chuyền Việt Nam trên đấu trƣờng Đông Nam Á.
IV. TÁC DỤNG CỦA MÔN BÓNG CHUYỀN
- Bồi dƣỡng con ngƣời về mặt ý chí, phẩm chất và đạo đức.
- Tăng cƣờng sức khỏe và nâng cao thể lực.
- Nâng cao tính kỷ luật, tập thể và tăng cƣờng tình đoàn kết giữa các đơn
vị, Dân tộc và các Quốc gia. Bóng chuyền còn là sự ngoại giao hợp tác giữa các
Dân tộc và Quốc gia.
105
V. CÁC KỸ THUẬT TRONG BÓNG CHUYỀN.
1. TƢ THẾ ĐỨNG VÀ DI CHUYỂN TRONG BÓNG CHUYỀN
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trong quá trình thi đấu VĐV Bóng chuyền
phải thực hiện các tƣ thế đứng và các dạng di chuyển khác nhau. Do đó các tƣ thế
đứng và di chuyển là biện pháp cơ bản và là nền tảng cho việc thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ vận động, các tƣ thế đứng đƣợc phân thành 02 loại:
1.1. Tƣ thế chuẩn bị:
Là tƣ thế đứng của VĐV trong quá trình tập luyện và thi đấu, là tƣ thế khởi
đầu của các hoạt động kỹ thuật và các hoạt động di chuyển, tƣ thế này còn gọi là tƣ
thế cơ bản.
Tƣ thế chuẩn bị đƣợc thực hiện nhƣ sau:
Hai chân mở rộng bằng vai hoặc hơn vai, chân trƣớc chân sau, trọng tâm
dồn về phía trƣớc. Đầu gối hơi gập lại khoảng từ 90° - 125° thân trên hơi gập hai
tay co tự nhiên ở khớp khuỷu sát thân mình. Cẳng tay, cổ tay và các ngón tay giữ ở
tƣ thế tự nhiên mắt quan sát bóng (chú ý toàn thân phải thoải mái tự nhiên, tránh
lên gân). Tƣ thế chuẩn bị thông thƣờng chia ra làm 3 loại:
1.1.1 Tư thế trung bình
· Động tác:
Tƣ thế trung bình thƣờng dùng chuyền bóng, vì ở tƣ thế này dễ phối hợp, di
chuyển nhanh. Hai chân mở rộng bằng vai, chân trƣớc cách chân sau nửa bàn chân.
1.1.2 Tư thế cao
Tƣ thế cao thƣờng dùng trong trƣờng hợp đứng sát lƣới để chuẩn bị nâng
bóng, chắn bóng
· Động tác:
Toàn bộ động tác nhƣ tƣ thế trung bình chỉ khác hai đầu gối khuỵu rất ít,
thân ngƣời gần nhƣ thẳng.
1.1.3 Tư thế thấp
Tƣ thế thấp thƣờng dùng khi phòng thủ ở hàng sau, khi yểm hộ đập và đỡ
những đƣờng bóng thấp.
· Động tác:
Hai chân mở rộng hơn vai (rộng hơn so với hai tƣ thế trên), chân trƣớc cách
chân sau xa hơn để lúc khuỵu xuống thì đầu gối chân sau gần ngang với gót chân
106
trƣớc. Hai đầu gối khuỵu thật thấp (gần nhƣ ngồi xổm). Trọng lƣợng thân thể dồn
nhiều trên chân trụ (chân sau hoặc chân phía đón bóng). Bụng hóp lại nhiều hơn và
không đƣợc ngồi hẳn xuống gót chân. Thông thƣờng sau khi chuyền bóng đi có kết
hợp ngã ngửa và ngả nghiêng.
1.2. Các bƣớc di chuyển:
* Bao gồm nhiều loại xong cơ bản nhất là có 4 bƣớc nhƣ sau:
- Bƣớc bên
- Bƣớc chéo
- Bƣớc phối hợp
- Bƣớc xoạc
* Di chuyển trong Bóng chuyền chủ yếu theo các hƣớng:
- Về phía trƣớc
- Về phía sau
- Sang hai bên
1.2.1 Bước bên:
Khi thực hiện di chuyển sang phía 02 bên không khó, nhƣng về phía sau thì
khó hơn. Do đó trong khi tập luyện cần chú ý thực hiện động tác di chuyển về phía
sau nhiều hơn.
Khi sử dụng bƣớc di chuyển sang 02 bên thông thƣờng đƣợc sử dụng ở cự ly
ngắn. Đƣợc sử dụng nhiều nhất trong thi đấu Bóng chuyền đƣợc gọi là bƣớc lƣớt
có thể tính về trƣớc, lùi về sau và sang 02 bên.
Kỹ thuật di động bằng bƣớc lƣớt là di chuyển một chân về hƣớng cần di
động sau đó chân sau theo đà lƣớt theo chân trƣớc ngay sau khi chân trƣớc chạm
đất.
1.2.2 Bước chéo:
Bƣớc chéo thƣờng đƣợc sử dụng khi di chuyển ở đoạn ngắn (tuy nhiên có
dài hơn bƣớc lƣớt).
Kỹ thuật đƣợc thực hiện là : muốn di chuyển sang phải VĐV từ tƣ thế chuẩn
bị bƣớc chân trái chéo qua chân phải, khi chân trái vừa chạm đất, chân phải bƣớc
tiếp sang phải đồng thời tiếp tục thực hiện chu kỳ tiếp theo.
1.2.3 Bước phối hợp:
107
Đƣợc sử dụng ở khoản cách cự ly xa nhất có thể các đoạn từ 5 – 7 - 10m
đƣợc thực hiện ở các tƣ thế xuất phát khác nhau. Tùy theo tình huống để sử dụng
tốc độ nhanh chậm khác nhau. Những bƣớc cuối bƣớc dài hơn, bƣớc cuối cùng
thực hiện kỹ thuật dừng trong quá trình di chuyển có thể thực hiện động tác đánh
bóng hay chuẩn bị đánh bóng.
1.2.4 Bước xoạc:
Đƣợc thực hiện để đở các đƣờng bóng ở cự ly gần nhất, những đƣờng
bóng nhanh, bất ngờ, đƣờng bóng bay ở tầm thấp. Chủ yếu thực hiện đỡ các
đƣờng bóng phía trƣớc và hai bên.
Kỹ thuật thực hiện chân bƣớc theo hƣớng bóng khi chân chạm đất, đầu gối
gập, chuyển trọng tâm lên chân trƣớc chân sau duỗi thẳng.
Ngoài ra trong khi di chuyển còn thực hiện các động tác nhảy, có thể nhảy bàng 01
chân, 02 chân để đƣợc thực hiện trong tấn công và phòng thủ. Các động tác lăn ngã
không chỉ là phƣơng pháp di động để đỡ bóng mà còn là biện pháp để bảo vệ thân
thể tránh những chấn thƣơng trong tập luyện và thi đấu.
2. CHUYỀN BÓNG
Trong thi đấu, chuyền bóng không đơn thuần là kỹ thuật phòng thủ mà còn
có tính chất tấn công. Yêu cầu của tổ chức tấn công không những chỉ là đỡ đƣợc
bóng do đối phƣơng đánh sang mà cần phải chuyền tới chỗ đã định. Hai nhiệm vụ
đó gọi chung là chuyền bóng. Cho nên muốn chuyền bóng đƣợc tốt phải hết sức
chú ý tới tƣ thế chuẩn bị.
Tƣ thế chuẩn bị chúng tôi đã trình bày trong phần I. Tƣ thế đứng và di
chuyển trong Bóng chuyền
2.1. Chuyền bóng cao tay (hình 13)
Hình 13. Chuyền bóng cao tay
108
Chuyền bóng cao tay là phƣơng pháp chủ yếu của kỹ thuật chuyền bóng
trong thi đấu bóng chuyền.
2.1.1. Chuyền bóng cao tay bằng hai tay
• Khi chuyền bóng, điều quan trọng là phải xác định hƣớng bóng bay tới để
nhanh chóng di chuyển đến đón bóng.
• Sau khi ổn định vị trí, tƣ thế, hai tay đƣa từ phía trƣớc lên chuyền bóng,
thân ngƣời hơi ngã về phía sau, các ngón tay tiếp xúc với bóng ở tầm trƣớc, hai
ngón tay cái cách mặt chừng 15cm, khi tay chạm bóng cần có sự phối hợp nhịp
nhàng giữa tay và toàn thân dƣớn để chuyền bóng đi…
• Khi đỡ bóng (ghìm bóng lại), phải dùng sức cả mƣời đầu ngón tay, chủ
yếu và ngón tay cái là ngón tay đeo nhẫn, các ngón khác chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ.
Khi chuyền bóng chủ là ngón tay trỏ, ngón giữa và một phần của ngón đeo nhẫn.
Ngón tay cái lúc này chỉ có tác dụng điều khiển đƣờng bóng. Cổ tay thả lỏng tự
nhiên.
Chú ý: Khi bắt đầu chạm bóng thì các ngón tay hơi lên gân, nhƣng khi
chuyền bóng đi rồi tay phải thả lỏng tự nhiên. Khi chuyền bóng không đƣợc duỗi
thẳng cánh tay hết sức mà phải giữ khuỷu tay hơi cong để có thể điều khiển bóng
đƣợc dễ dàng, chỉ khi cần chuyền bóng đi thật xa mới duỗi thẳng hoàn toàn.Các
ngón tay bao quanh 2 phần 3 quả bóng về phía sau.
• Hai ngón tay cái thành hình chữ “Bát” ngƣời có ngón tay khoẻ thì hai
ngón tay cái gần nhƣ thành đƣờng thẳng ngang.
• Khoảng cách giữa hai đầu ngón tay cái tuỳ theo cỡ tay từng ngƣời, nhƣng
không đƣợc rộng quá một nửa quả bóng để khỏi bị trƣợt ra phía sau.
• Đỡ bóng từ phía trƣớc mặt tới và chuyền về phía trƣớc.
• Đỡ bóng từ trên cao xuống nhƣ đỡ phát bóng thấp tay, phát bóng cao tay
hoặc chuyền bóng ra phía sau đầu. Hai tay gần nhƣ song song với mặt đất, mặt
ngửa lên theo hƣớng bóng.
2.1.2. Đệm bóng (Hình 14)
· Động tác:
109
Đấu thủ di chuyển thật nhanh và sâu vào tầm bóng, chân bƣớc dài, khuỵu thấp, vai
hạ thấp, hai cánh tay thẳng tự nhiên, bàn tay chấp lại và khi chạm bóng thì gần nhƣ
song song với mặt sân (nhƣ vậy khi đỡ bóng thì đƣờng bóng sẽ bổng lên). Dùng
cổ tay để đệm bóng và chủ yếu là dùng sức bả vai nâng cánh tay lên chuyền bóng
theo ý định (sức gập cổ tay và khuỷu tay phối hợp rất ít).
Bóng rơi càng mạnh thì dùng sức càng ít, có khi gần nhƣ để bóng chạm tay
nảy lên. Bóng rơi nhẹ thì dùng sức nhiều hơn, phối hợp sức cổ tay và khuỷu tay
cũng nhiều hơn.
• Đệm và chuyền bóng về hƣớng trƣớc mặt
• Điểm chạm bóng tốt nhất là khoảng giữa cổ tay và cánh tay, hai ngón tay
cái cong lên có tác dụng hỗ trợ.
• Khi đệm bóng chỉ dùng lực của cẳng tay, vì vậy khuỷu tay bị gập nên khi
đệm bóng đi không chính xác, dễ phạm lỗi hai tiếng.
• Điểm chạm bóng không thấp quá hoặc cao quá.
2.1.3. Đỡ bóng bằng một tay
Áp dụng trong trƣờng hợp bóng đi
nhanh, bất ngờ, hoặc quá xa khi không
kịp đệm bóng bằng hai tay.
· Động tác:
Đỡ bóng một tay chủ yếu là dùng
sức cổ tay và cánh tay mở hoặc nắm tự
nhiên (mở tay dễ bị dính khi bóng chạm
lòng bàn tay).
2.2. Phƣơng pháp giảng dạy kỹ
thuật chuyền bóng
Muốn nắm đƣợc kỹ thuật chuyền bóng cần phải biết rõ phƣơng pháp chuyền
bóng cao tay. Trƣớc hết phải tập hình tay chạm bóng.
• Từng ngƣời hai tay cầm bóng tập đƣa từ dƣới đất lên trƣớc mặt nhƣ khi
chuyền bóng để kiểm tra hình tay.
• Sau đó một ngƣời tung bóng, một ngƣời đỡ nhƣng không chuyền bóng,
dần dần tập trung vào bắt bóng (không chuyền) tập giữ bóng trên đỉnh đầu. Yêu
cầu:
Hình 14. Đệm bóng
110
• Không để bóng rơi xuống đất.
• Điểm tiếp xúc bóng chính xác (hình tay chính xác).
• Đội hình vòng tròn: Giáo viên đứng giữa chuyền bóng cho từng ngƣời,
ngƣời đó chuyền trả lại đúng cho giáo viên.
• Đội hình hai hàng ngang: ngƣời tập xếp thành hàng ngang quay mặt vào
nhau cách chừng 3m, đứng chếch nhau. Ngƣời đầu hàng chuyền bóng, khi bóng tới
cuối hàng thì chuyền ngƣợc lại.
Đội hình vòng tròn không có ngƣời đứng giữa: Toàn đội đứng vòng tròn,
chuyền bóng cho nhau, vòng theo tay phải và ngƣợc lại.
Chú ý: Khi tập trung theo đội hình này phải xoay ngƣời đón bóng trƣớc khi
chuyền bóng cho ngƣời khác.
Sau khi đã chuyền bóng đi tƣơng đối tốt, chuyển sang di chuyển chuyền
bóng, lúc đầu không tập di chuyển lung tung vì nhƣ vậy sẽ không chú ý tới yếu
lĩnh chuyền bóng mà tiến hành bằng cách giáo viên ném bóng hoặc chuyền bóng
sang hai bên, ra phía trƣớc, phía sau để sinh viên chuyền trả lại đúng chỗ cho giáo
viên (làm chậm).
Sau đó tập theo các đội hình nhƣ sau:
Đội hình một hàng dọc: cho Sinh viên đứng thành một hàng dọc lần lƣợt
nhận bóng của giáo viên đứng trƣớc hàng cách chừng 4 - 5m chuyền tới (khi đã
chuyền khá thì tăng khoảng cách xa hơn) rồi chuyền trả lại cho giáo viên, sau đó
chạy xuống cuối hàng.
Sau khi đã chuyền bóng chính xác thì lần lƣợt thay thế cho giáo viên và tập
nhƣ trên. Cùng với đội hình này, khi chuyền qua lƣới cần phải di chuyển nhanh
hơn. Khi trình độ chuyền bóng đã khá, chuyển sang tập di động theo những đội
hình phức tạp hơn nhƣ:
• Đứng thành vòng tròn, học sinh phải di chuyển đỡ bóng (với các tƣ thế
chạy, di động ngang, khuỵu chân vừa và thấp) chuyền lại cho giáo viên đứng giữa
vòng.
• Cũng theo phƣơng pháp trên nhƣng bố trí hai em đứng giữa vòng giáp
lƣng vào nhau, một em chuyền bóng thấp cho em khác tập di động tới để chuyền
bóng ở tƣ thế trungbình, một em chuyền bóng cao để em khác tập nhảy lên chuyền
bóng đi.
111
Cho Sinh viên tập di động theo vòng tròn nhƣng bố trí hai em đứng ngoài
vòng tròn chuyền bóng.
Cho Sinh viên tập xếp thành một hàng dọc, phía trƣớc bố trí một vài em
đứng cách xa nhau để chuyền bóng, em tập tiến lên đỡ bóng và xoay ngƣời chuyền
bóng trả lại cho từng em một (có thể bố trí ít hoặc nhiều khoảng cách khác nhau
để khi tập phải xoay ngƣời liên tục).
• Cho Sinh viên tập đứng theo đội hình vòng tròn chuyền bóng cho nhau,
nhƣng khi chuyền bóng tới em nào thì em đó phải di động ngay tới chỗ ngƣời vừa
chuyền bóng cho mình.
• Di động theo vòng tròn tập dựng bóng trên đỉnh đầu
Chú ý: Khi di động chuyền bóng phải hết sức chú ý ổn định tƣ thế trƣớc khi
chuyền bóng đi và hƣớng bóng phải chuẩn xác theo yêu cầu của giáo viên.
• Trong khi tập chuyền bóng phải bố trí xen kẽ những trò chơi chuyền bóng
hỗ trợ và tổ chức nhiều hình thức thi đua với nhau (dựa theo các trò chơi giới thiệu
trong cuốn “Trò chơi hỗ trợ bóng chuyền”).
Đi đôi với phƣơng pháp luyện tập di động, phải luôn luôn chú ý tới mức
độ chuyền bóng chuẩn xác. Có thể tập chuyền bóng vào tƣờng, chuyền bóng vào
vòng bóng rổ (nếu không có sân bóng rổ thì làm một vòng tre đƣờng kính 0,6m
buộc vào cành cây cao chừng 3m mà tập).
Khi đã đạt đƣợc trình độ kỹ thuật nhất định có thể vào thi đấu, thi tập
chuyền bóng vào lƣới với các đội hình có tính cách chiến thuật (nghiên cứu các bài
tập trong cuốn: những bài tập mẫu bóng chuyền”).
Trong khi chuyền bóng phải hết sức tranh thủ chuyền bóng cao nhƣng khi
gặp những đƣờng bóng thấp không đỡ đƣợc, cần phải tập ngã chuyền bóng và tập
đệm bóng.
Sau khi phổ biến yếu lĩnh động tác, giáo viên hƣớng dẫn tập theo đội hình
một hàng dọc. Khi đã nắm đƣợc kỹ thuật chính xác, phải tập di động đỡ bóng ở
phía trƣớc, phía sau, bên phải, bên trái.
Sau đó tập từng đôi, một ngƣời ném bóng bổng và ra xa, trƣớc hoặc sau để
ngƣời thứ hai phải lao nhanh tới đệm bóng hoặc đánh bóng qua lƣới.
Tập đỡ hai tay tốt rồi mới tập đỡ một tay, thông thƣờng tập đỡ một tay sau
giai đoạn tập ngã chuyền bóng.
112
Chú ý: Đệm bóng không nên xếp thành một mục riêng, tập thƣờng xuyên,
mà chỉ nên phân phối thời gian, rất ít, tránh gây cho ngƣời tập thói quen ngại đỡ
bóng cao tay.
· Ngã chuyền bóng:
Trƣớc hết phải tập cho có phản ứng nhanh, tập hỗ trợ nhào lộn cho quen rồi
mới tập ngã chuyền bóng.
Khi tập ngã chuyền bóng, thì tập ngã ngửa chuyền bóng trƣớc, sau đó mới
tập ngả nghiêng. Còn động tác nhảy chỉ khi nào có trình độ chuyền bóng giỏi mới
tập.
Khi đã biết ngã chuyền và đệm bóng thì tập kỹ thuật phòng thủ, nhƣ vậy sẽ
tạo cho ngƣời tập những điều kiện thực tế giống nhƣ trong khi thi đấu.
• Cho các em đứng thành vòng tròn, giáo viên đứng giữa ném bóng bất ngờ,
có thể đập mạnh, nhẹ hoặc giả đập mạnh rồi chuyền nhẹ, chuyền ra phía trƣớc,
phía sau, sang hai bên để cho các em tập phải đối phó với mọi tình huống và vận
dụng các phƣơng pháp chuyền bóng khác nhau (chuyền cao, ngã chuyền, đệm
bóng…)
• Cũng phƣơng pháp trên nhƣng một em ném bóng cho một hoặc ba, bốn
em tập.
• Cũng phƣơng pháp trên nhƣng hai em ném bóng cho một em để tập đối
phó liên tục.
• Cho các em tập đứng vào các vị trí trên sàn nhƣ khi thi đấu, giáo viên
đứng trên ghế cao bên kia lƣới, ném bóng hoặc đập bóng cho các em đỡ theo đúng
yêu cầu.
· Tập cứu những quả bóng ở lƣới bật ra:
Cứu những quả bóng ở lƣới bật ra là những trƣờng hợp thƣờng gặp trong khi
thi đấu. Trƣớc hết cần phải nhớ xem quả bóng đó đã chuyền lần thứ mấy.
- Nếu là lần thứ nhất thì bắt buộc phải cứu bóng lên cao cho đồng đội tấn
công.
- Nếu là lần thứ hai, phải đƣa bóng sang đối phƣơng ngay. Phải quan sát
nhanh chóng và xác định một cách chính xác vị trí bóng rơi vào lƣới:
• Bóng rơi vào mép trên lƣới thì thƣờng tụt xuống ngay sát vạch giữa.
• Bóng rơi vào khoảng giữa lƣới thì nảy ra một chút.
113
• Bóng rơi vào mép dƣới thì nảy ra xa hơn. Nhƣng bất cứ trong tình huống
nào, ngƣời tập cũng không đƣợc lao thẳng ngƣời, úp mặt vào lƣới, nhƣ vậy
sẽ không quan sát đƣợc tầm bóng và các bộ phận của cơ thể, dễ vƣợt qua vạch
giữa. Cho nên thông thƣờng phải di động dọc theo lƣới và nếu bóng bật ra xa phải
quay hẳn lƣng vào lƣới nhƣng tránh hấp tấp vội vàng. Tuỳ theo tốc độ bóng nảy ra
nhanh hay chậm, lƣới căng hay chùng mà phán đoán đƣờng bóng rơi, chờ cho
bóng rơi xuống thật thấp mới đỡ bóng. nếu bóng vừa nảy ra đã vội vàng đỡ thì rất
dễ phạm sai lầm, đƣờng bóng đi sẽ mất chính xác. Tầm bóng từ lƣới nảy ra hầu hết
là thấp nên tốt nhất là dùng phƣơng pháp đệm bóng hay đỡ bóng bằng một tay.
Trong trƣờng hợp bóng nảy ra thật xa và cao thì vẫn cố gắng chuyền bóng cao tay.
3. PHÁT BÓNG
* Mục tiêu: Trang bị cho ngƣời học về mục đích sử dụng kỹ thuật phát
bóng, phƣơng pháp giảng dạy và các sai lầm thƣờng mắc phải và hệ thống các bài
tập.
Phát bóng thấp tay
Phát bóng cao tay
Nhảy phát bóng
Phƣơng pháp giảng dạy kỹ thuật phát bóng
Phát bóng mở đầu cho cuộc tấn công vào trận tuyến đối phƣơng, có thể trực
tiếp dành đƣợc điểm, làm tan vỡ ý đồ chiến thuật của đối phƣơng, cho nên mỗi
ngƣời khi tập chuyền bóng cần phải biết phát bóng nhanh và chính xác. Muốn vậy
mỗi đấu thủ phải tập luyện nhiều cách phát bóng thích hợp với sở trƣờng của
mình.
3.1. Phát bóng thấp tay
3.1. 1 Phát bóng thấp tay trước mặt (chính diện)
* Tƣ thế chuẩn bị
Hình 15. Phát bóng thấp tay chính diện
114
Đứng quay mặt về phía lƣới, hai chân mở rộng bằng vai (chân trƣớc cách chân
sau nửa bƣớc), trọng tâm dồn vào chân sau, tay trái cầm bóng đƣa ra phía trƣớc
một ít (nếu đánh bóng tay phải), vai và tay phải đƣa về phía sau.
* Tung bóng
Dùng một tay (tay trái) tung bóng lên cao phía trƣớc mặt từ 0,2m đến 0,3m.
* Vung tay đánh bóng
Cùng lúc với tung bóng, tay đánh bóng duỗi thẳng tự nhiên, vung từ sau ra
trƣớc, dùng cùi tay đánh vào phía dƣới quả bóng (ở tầm dƣới thắt lƣng).
Khi đánh bóng trọng tâm chuyển về chân trƣớc; bóng rời khỏi tay, cầu thủ
phải bƣớc vào sân ngay.
3.1.2 Phát bóng thấp tay nghiêng mình
* Tƣ thế chuẩn bị:
Ngƣời tập đứng hông hƣớng về phía lƣới, hai chân mở rộng bằng hai vai, hai
bàn chân gần nhƣ song song. Trọng tâm dồn trên hai chân.
* Tung bóng:
Dùng một tay (tay trái hoặc tay phải) tung bóng lên cao phía trƣớc mặt từ
0,4m đến 0,5m.
* Vung tay đánh bóng:
Khi tung bóng thân ngƣời hơi xoay về phía tay đánh bóng, hai chân hơi
khuỵu và trọng tâm chuyển về chân sau (chân xa lƣới). Cánh tay đánh bóng thẳng
tự nhiên, vung ngang từ sau ra trƣớc, dùng cùi tay đánh vào dƣới quả bóng nhƣng
chếch về phía sau.
Khi đánh bóng, trọng lƣợng thân ngƣời chuyển về chân trƣớc, đồng thời
xoay thân ngƣời hƣớng về phía lƣới. Bóng rời khỏi tay, bƣớc vào sân ngay.
3.2. Phát bóng cao tay
Phát bóng cao tay là khi bóng phát ra ở tầm cao trên đầu. Có hai cách:
3.2.1 Phát bóng cao tay trước mặt (chính diện)
Hình 15. Phát bóng cao tay chính diện
115
* Tƣ thế chuẩn bị:
Ngƣời tập đứng nhƣ khi phát bóng thấp tay trƣớc mặt, nhƣng trọng tâm dồn
cả trên hai chân.
* Tung bóng:
Tay phải hoặc tay trái (tay kia gập khuỷu giơ trên vai) cầm bóng đƣa lên tới
ngang mặt mới tung bóng lên cao từ 0,8m đến 1m và hơi chếch về trƣớc mặt, phía
tay đánh bóng (nếu bóng rơi khỏi tay ở tầm thấp thì đƣờng bóng tung lên sẽ khó
chính xác).
* Vung tay đánh bóng:
Cùng với lúc tung bóng lên, cánh tay đánh bóng co lại và nhịp nhàng chuyển
động từ phía trƣớc lên cao, ra sau. Bàn tay mở tự nhiên đƣa sát mang tai (khuỷu
tay hƣớng ra phía trƣớc rồi kéo ra sau), đồng thời chân sau hơi khuỵu, thân ngƣời
ngã về sau và hơi xoay về phía tay đánh bóng, trọng tâm chuyển về chân sau.
Khi bóng rơi xuống tới tầm, tay giơ thẳng hoàn toàn, cánh tay vung thẳng từ
phía sau lên cao ra phía trƣớc đánh mạnh vào nửa sau của quả bóng, có sự phối
hợp toàn lực của thân, cổ tay gập kịp thời để điều khiển bóng vào hƣớng đã định
trƣớc. Lúc này chân sau dƣớn lên theo đà tay đánh bóng, trọng lƣợng thân ngƣời
dồn vào chân trƣớc. Sau khi đánh bóng đi phải bƣớc vào sân ngay.
Chú ý: Sau khi đánh bóng đi, thân ngƣời và tay cần tiếp tục chuyển động
theo hƣớng bóng đi, sau đó mới hạ tay xuống theo đƣờng vòng cung.
• Nếu gập ngƣời, hoặc hạ tay quá sớm, bóng sẽ dễ chạm lƣới; ngƣợc lại
không gập ngƣời, bóng dễ bay ra ngoài sân.
• Mức độ ngữa bàn tay về sau và gập về phía trƣớc trong lúc đánh bóng đi
phụ thuộc vào tầm vóc của đấu thủ và vị trí của bóng.
• Bóng ở cách xa ngƣời chừng nào thì gập cổ tay về phía trƣớc ít chừng ấy.
• Tầm vóc đấu thủ càng cao thì có thể gập cổ tay về phía trƣớc càng nhiều
4. ĐẬP BÓNG (Hình 16)
• Mục tiêu: Trang bị cho ngƣời
học về mục đích sử dụng kỹ thuật
đập bóng, nguyên lý các kỹ thuật đập
bóng, phƣơng pháp giảng dạy và các
Hình 16. Đập bóng
116
sai lầm thƣờng mắc phải và hệ thống các bài tập.
Đập bóng trƣớc mặt
Đập bóng nghiêng mình
Đập bóng là một phƣơng thức tấn công chủ yếu khi thi đấu bóng chuyền.
Muốn làm cho chiến thuật biến hoá muôn hình muôn vẻ, một yêu cầu rất lớn đối
với mỗi đấu thủ là phải có trình độ kỹ thuật điêu luyện, biết nhiều kiểu đập và đập
nhiều hƣớng khác nhau, trong những tình huống khác nhau. Nhƣng muốn đập
đƣợc nhiều kiểu, nhiều cách, đấu thủ phải có trình độ cơ bản vững vàng với
phƣơng pháp đập chủ yếu.
4.1. Đập bóng trƣớc mặt
Đập bóng chính diện là phƣơng pháp đập cơ bản nhất.
- Tƣ thế chuẩn bị: Đứng cách lƣới khoảng 2 - 3m (nếu đứng sát lƣới thì
không có chỗ lấy đà và nhảy lên sẽ bị chạm lƣới). Không nên đứng nguyên một
chỗ mà nên xê dịch nhẹ để có thể sẵn sàng điều chỉnh bƣớc nhảy và gốc độ chạy
lấy đà. Đầu gối hơi chùng, thân ngƣời hơi ngã về phía trƣớc trong sân, mắt theo
dõi ngƣời chuyền bóng.
- Yếu lĩnh cơ bản:
Đập bóng có thể chia làm 4 giai đoạn:
4.1.1. Lấy đà:
Để có sức bật cao hơn và điều chỉnh khoảng cách, vị trí đập bóng cho thích
hợp.
- Thời gian lấy đà: Khi đã xác định đƣợc đƣờng bóng và hƣớng bóng nâng
tới. Thông thƣờng là khi bóng vừa rời tay ngƣời nâng. Nếu đập bóng càng thấp
càng phải lấy đà sớm hơn, đập bóng cao lấy đà chậm hơn.
- Góc độ của đƣờng lấy đà (so với lƣới) phụ thuộc vào khả năng ngƣời đập,
ngƣời đập giỏi có thể lấy đà với góc độ lớn hơn, có khi thẳng góc với lƣới (90độ).
Nếu đập kém hoặc mới tập mà chạy góc độ lớn thì ngƣời sẽ chạm vào lƣới, và
đƣờng bóng đập dễ bị chắn cho nên góc độ lấy đà (so với lƣới) thông thƣờng từ 35
– 50 độ với ngƣời mới tập thì trung bình 45 độ
- Số bƣớc lấy đà: có thể 1 - 4 bƣớc nhƣng thông thƣờng là 3 bƣớc.
4.1.2. Giậm nhảy
117
Việc chuyển từ bƣớc lấy đà cuối cùng sang giậm nhảy phải thật liên tục
cũng có ngƣời giậm nhảy một chân. Nhƣng thƣờng giậm nhảy bằng hai chân.
Bƣớc cuối cùng là bƣớc ở vị trí giậm nhảy, bƣớc này rất quan trọng, vì phải làm
thế nào để khi nhảy lên có thể đập bóng ở tầm trƣớc mặt. Gót chân ở bƣớc cuối
cùng vừa đặt xuống đất và hai chân ngang nhau, thân ngƣời vẫn ngả về phía trƣớc,
thì khuỵu đầu gối thấp xuống và chuyển sức gót chân lên mũi chân để bật lên.
Muốn bật đƣợc cao phải dùng sức bật của đầu gối, tới khớp xƣơng hông (vƣơn
bụng) và cuối cùng là sức cổ chân. Đồng thời phải phối hợp đánh tay, tức là trƣớc
khi giậm nhảy, đánh mạnh hai tay ra phía sau, khi chân đã khuỵu hết mức thì hai
tay đánh xuống thẳng góc với mặt sân.
4.1.3. Nhảy và đập:
Chuẩn bị đập bóng đƣợc bắt đầu khi thân ngƣời bật lên tới tầm cao nhất,
ngƣời ngửa ra phía sau và hơi nghiêng về phía tay đập bóng, hai chân hơi gập tự
nhiên, không khép sát quá cũng không dang rộng quá.
Tay đập bóng từ trên cao đƣa sát mang tai ra phía sau, cánh tay duỗi thẳng
và cổ tay đập gập vào bóng, cổ tay còn có tác dụng điều khiển bóng. Tay kia cũng
từ phía trên hạ xuống phối hợp.
Khi đập vào bóng, thân ngƣời vƣơn thẳng, hai chân cũng duỗi ra phía trƣớc
(đầu gối thẳng) tạo thành sức mạnh đập trúng vào bóng. Đập bóng thông thƣờng ở
tầm cao hơn đầu và chếch về phía trƣớc mặt chừng 10 - 15cm.
Bóng nâng cao hay thấp tuỳ theo quả đập cao, trung bình hay thấp. Những
điểm chạm bóng vẫn phải ở tầm cao nhất cho nên bất cứ đập kiểu nào cũng phải
nhảy thật cao.
4.1.4. Rơi xuống:
Sau khi đập xong, muốn cho ngƣời rơi xuống không bị mất thăng bằng,
chạm lƣới hay vƣợt qua vạch giữa thì phải thả lỏng các bắp thịt, rơi xuống bằng
mũi bàn chân, hai bàn chân xoay theo chiều lƣới, đầu gối hơi khuỵu.
* Những điều cần chú ý khi đập bóng nâng xa hay gần lƣới:
- Khi bóng nâng xa lƣới:
Điểm giậm nhảy phải ở sâu trong tầm bóng, để ngƣời gần bóng hơn, thân
ngƣời ngả ra sau nhiều hơn bật mạnh về phía trƣớc để tăng thêm sức mạnh đập
bóng. Phải gập bụng trƣớc gập tay. Khi gập bụng không đƣợc cúi xuống, mà chỉ co
118
mạnh các bắp thịt bụng, cánh tay khi hạ xuống theo đà bóng phải ngừng lại một
chút, nhƣ vậy bóng ít va vào lƣới.
- Khi bóng nâng gần lƣới:
Góc độ đƣờng lấy đà phải thu hẹp lại. Khi đập bóng chủ yếu phải dùng
sức cánh tay trƣớc và cổ tay, gập bụng rất ít. Nhƣ vậy mới tránh đƣợc lỗi chạm
lƣới.
4.2. Đập bóng nghiêng mình
Bóng nâng xa lƣới mà nhảy quá
sớm thì sử dụng kiểu đập móc câu
(động tác
giống nhƣ phát bóng cao tay nghiêng
mình). Chạy đà giậm nhảy giống nhƣ
đập bóng trƣớc mặt theo hƣớng lấy đà.
Sau khi nhảy lên vai trái hƣớng vào
lƣới (nếu đập tay phải) tay phải đƣa xuống dƣới ra phía sau (hoặc cánh tay đƣa
vòng cung từ phía trƣớc ra sau) ngƣời hoàn toàn duỗi hết ra. Tay phải duỗi thẳng
chuẩn bị làm động tác đập bóng. Khi đập bóng thân trên quay về bên trái - dùng
động tác quay ngƣời đƣa cánh tay nhanh chóng đập bóng, tay giơ thẳng đi theo
hình vòng cung từ trƣớc xuống dƣới ra sau rồi lên cao, dùng cả bàn tay đập vào
phía trên quả bóng. Khi đập bóng xong quay ngƣời về hƣớng lƣới nhẹ nhàng thu
tay về để tự nhiên theo ngƣời rơi xuống đất.
5. CHẮN BÓNG
• Mục tiêu: Trang bị cho ngƣời học về mục đích sử dụng kỹ thuật chắn
bóng, nguyên lý các kỹ thuật chắn bóng một và chắn bóng nhóm, phƣơng pháp
giảng dạy và các sai lầm thƣờng mắc phải và hệ thống các bài tập.
Chắn bóng là phƣơng pháp phòng thủ tích cực nhất. Kỹ thuật chắn bóng
càng đƣợc cải tiến, càng đòi hỏi kỹ thuật đập bóng phải biến hoá muôn hình muôn
vẻ.
Chắn bóng nhằm hai mục đích:
• Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đồng đội tấn công, giảm sức uy hiếp của
đối phƣơng (không phải mục đích chắn bóng để ăn điểm).
• Nếu có thể trực tiếp dẫn điểm.
Hình 17.
119
Kỹ thuật động tác:
5.1. Tư thế chuẩn bị
Sau khi phát bóng xong thì phải sẵn sàng bám sát lƣới để chuẩn bị chắn
bóng, đấu thủ thƣờng phải đứng cách lƣới chừng 0,25 - 0,35m. Trƣớc hết phải
quan sát và phát hiện mục tiêu (điểm tấn công), nắm vững đặc điểm đập bóng của
đối phƣơng và hƣớng đập bóng để quyết định vị trí chắn bóng. Phải luôn luôn
đứng đối diện với hƣớng bóng tới, cho nên phải di chuyển dọc theo lƣới. Sau khi
xác định vị trí giậm nhảy rồi, hai chân đứng song song cách nhau khoảng một bàn
chân, hai tay co lên phía trƣớc cao hơn thắt lƣng để chuẩn bị nhảy.
5.2. Nhảy và chắn bóng
Thời gian nhảy phụ thuộc vào tính chất và tầm bóng cao thấp. Bóng cao thì
nhảy chậm, bóng thấp thì nhảy sớm. Nhƣng nói chung phải nhảy sau ngƣời đập
một chút, phải quan sát hoạt động tay của đối thủ đập bóng để quyết định nhảy
chắn. Thông thƣờng là đứng tại chỗ nhảy lên hoặc nhích lên một bƣớc, hai đầu gối
khuỵu xuống, hai cánh tay đƣa sát thân ngƣời theo bên sƣờn từ dƣới lên lấy đà bật
lên cao. Nhảy tới tầm cao nhất, tiếp tục quan sát lần cuối cùng, nhanh chóng đƣa
hai tay cản đƣờng bóng đập. Tay đƣa lên không duỗi hết mức để khi cần thiết có
thể chuyển hƣớng chắn bóng đƣợc dễ dàng.
Khi chắn bóng bàn tay mở nhƣ khi chuyền bóng, hơi ngửa ra phía sau, các
ngón tay hơi lên gân để khi bóng chạm tay sẽ bật bổng lên. Hai bàn tay cách nhau
chừng nửa quả bóng để bóng không thể lọt qua. Hai cùi tay phải sát mép lƣới; nếu
xa quá, bóng dễ bị lọt xuống theo ngƣời.
Sau khi chạm bóng, không đƣợc gập cổ tay theo, nhƣ vậy dễ bị chạm lƣới.
5.3. Rơi xuống đất
Khi chắn bóng xong rơi xuống đất bằng mũi bàn chân và tiếp tục quan sát để
đề phòng đối phƣơng tấn công nhƣng nếu bóng bật trở lại trong sân mình thì phải
nhanh chóng lùi xuống chuẩn bị đập bóng và bƣớc hai.
6. CHIẾN THUẬT THI ĐẤU BÓNG CHUYỀN
• Mục tiêu: Trang bị cho ngƣời học về mục đích sử dụng các miếng chiến
thuật để áp dụng hợp lý trong quá trình thi đấu. Trong dó có chiến thuật tấn công
và phòng thủ, cá nhân và nhóm.
120
Chiến thuật bóng chuyền là sự tổ chức các hoạt động thi đấu của mỗi cá
nhân, nhóm và toàn đội. Nó là sự lựa chọn một cách sáng tạo, cách thức thi đấu
của một đội để thi đấu với một đội nào đó nhằm giành thắng lợi cho đội mình.
Hoạt động chiến thuật của một đội bóng và sự thể hiện quá trình chuẩn bị
thể lực, kỹ thuật, tâm lý và trình độ lý luận chuyên môn của từng đấu thủ và toàn
đội. Mặt khác, việc thực hiện chiến thuật còn phụ thuộc và trình độ của đối
phƣơng.
1. CHIẾN THUẬT TẤN CÔNG
* Chiến thuật cá nhân trong tấn công
1.1 CHIẾN THUẬT CÁ NHÂN TRONG PHÁT BÓNG
Phát bóng là là quả tấn công đầu tiên, mở màn cho một trận đấu, một hiệp
đấu và một lần chơi. Nếu phát bóng tốt có thể ăn điểm trực tiếp hoặc gây khó khăn
trong chuyền 1 làm ảnh hƣởng xấu cho việc tổ chức phối hợp chiến thuật tấn công
của đối phƣơng. Ngƣợc lại nếu phát bóng không có uy lực thì sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho đối phƣơng tổ chức chiến thuật tấn công lại đội mình. Chiến thuật cá
nhân trong phát bóng bao gồm: khi chƣa có bóng và khi có bóng.
1.1.1 Khi chưa có bóng
• Quan sát, đánh giá đội hình và khả năng chuyền 1 của đối phƣơng.
• Lựa chọn vị trí đứng phát cho phù hợp với thói quen của mình.
• Di chuyển đến khu vực phát và chuẩn bị phát nhanh hay chậm (tuỳ theo
ình hình diễn biến
trên sân, phù hợp với chiến thuật của đội).
1.1.2 Khi có bóng
• Phát vào khu vực xung yếu, chỗ trống trên sân đối phƣơng, chỗ các đối thủ
đổi chỗ cho nhau để chuẩn bị tấn công.
• Phát vào một đấu thủ: Chuyền 1 kém, tâm lý không vững, mới thay vào,
ngƣời có biểu hiện mệt mỏi, ngƣời chuyền 2…
• Luân phiên sử dụng các kiểu phát khác nhau (nếu có khả năng).
• Phát phù hợp với tình huống trận đấu (ánh sáng mặt trời, ánh sáng của đèn,
gió, khán giả…)
1.2 CHIẾN THUẬT CÁ NHÂN TRONG CHUYỀN 1
121
Đỡ phát bóng (chuyền 1) là hoạt động phòng thủ, ví nhƣ ta đã biết phát bóng
là quả tấn công đầu tiên của đối phƣơng sang sân của đội mình. Đồng thời chuyền
1 lại mang một ý nghĩa quan trọng khác: nó là khâu đầu tiền, là cơ sở đảm bảo cho
việc tổ chức phối hợp chiến thuật tấn công của đội mình, cho nên có thể nói
chuyền 1 nằm trong hệ thống tấn công. Chiến thuật cá nhân trong chuyền 1 bao
gồm: Khi đối phƣơng chƣa phát bóng và khi đối phƣơng phát bóng.
1.2.1 Khi đối phương chưa phát bóng
- Lựa chọn vị trí chuyền 1:
• Không tạo thành chỗ trống trên sân mình, dễ quan sát đối phƣơng.
• Có thể di chuyển thuận lợi.
• Không làm khó khăn cho đồng đội trong: quan sát đối phƣơng, di chuyển
trong chuyền 1 và trong các hoạt động phối hợp chiến thuật.
- Quan sát ngƣời phát và nhận định:
• Tâm lý của ngƣời phát.
• Khả năng thực hiện kỹ thuật của ngƣời phát: phát kiểu gì ? Lực phát ?
Đƣờng bay của bóng ? Điểm rơi ?…
- Nhìn ký hiệu của đấu thủ chuyền 2 để biết đội hình mình tấn công theo
miếng chiến thuật nào ? Do đó sẽ phải chuyền 1 tới vị trí nào ? Cho ai ? Đƣờng
bóng chuyền 1?… cho phù hợp.
1.2.2. Khi đối phương phát bóng
• Đánh giá chất lƣợng của quả bóng: Lực, đƣờng bay và điểm rơi để di
chuyển đến vị trí và quyết định động tác đỡ bóng (đệm bóng bằng 2 tay trƣớc mặt
hay hai bên…)
• Chuyền 1: Chuyền bóng cho ngƣời chuyền 2 theo dự kiến ban đầu.
• Nếu bóng không phát vào khu vực chuyền 1 của mình thì phải sẵn sàng
chuyền 2 điều chỉnh hoặc cứu đỡ bóng khi đồng đội chuyền 1 không chuẩn.
1.3 CHIẾN THUẬT CÁ NHÂN TRONG CHUYỀN 2 KHI ĐỐI
PHƢƠNG PHÁT BÓNG
Ngƣời chuyền 2 là ngƣời chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức các hoạt
động tấn công. Chuyền 2 thƣờng đƣợc thực hiện bằng kỹ thuật chuyền cao tay
đứng tại chỗ hoặc nhảy chuyền. Chiến thuật cá nhân trong chuyền 2 bao gồm: khi
đối phƣơng chƣa phát bóng và khi đối phƣơng phát bóng.
122
1.3.1 Khi đối phương chưa phát bóng
• Chọn ví trí đứng trong đội hình chuyền 1 sao cho thuận lợi trong việc quan
sát và di chuyển tới vị trí chuyền 2, không làm cản trở đồng đội chuyền 1.
• Đánh giá khả năng tấn công của đồng đội trong thời điểm đó (trạng thái
tâm lý, tình trạng sức khoẻ, ai đang đập ăn điểm…)
• Sẽ tấn công bằng miếng chiến thuật nào? Và ra ký hiệu cho đồng đội.
Đồng thời suy nghĩ ngay đến phƣơng án hai nếu bóng chuyền 1 khó. Điều kiện
ngoại cảnh (nắng, gió, điện…)
• Sẵn sàng đánh 2 chuyền khi đứng ở hàng trên.
1.3.2 Khi đối phương phát bóng
• Đánh giá chất lƣợng quả phát bóng.
• Theo dõi sự di chuyển đổi chỗ trong hàng chắn bóng của đối phƣơng.
• Quan sát đƣờng bay, hƣớng đi, tốc độ, điểm rơi của quả chuyền 1 để di
chuyển đến bóng, chọn kỹ thuật chuyền, quyết định chuyền theo phƣơng án nào và
chuyền cho ai, ở đâu.
• Trong khi chuyền 2 nếu có khả năng “chuyền kín đáo”, chuyền động tác
giả thì sẽ góp phần đáng kể vào kết quả tấn công chung của toàn đội.
• Tiếp tục chơi: Ngay sau khi chuyền 2 xong, đấu thủ chuyền 2 phải yểm hộ
cho đấu thủ tấn công. Chú ý:
Khi chuyền 2 trong phản công thì đấu thủ chuyền 2 có rất ít thời gian để
quyết định chiến thuật do đó đòi hỏi đấu thủ chuyền 2 phải thật nhạy cảm, đồng
thời phải có những quy định trƣớc với các đấu thủ tấn công theo chất lƣợng của
bóng phòng thủ đƣa lên tốt hay xấu mà phối hợp tấn công theo miếng nào.
1.4 CHIẾN THUẬT CÁ NHÂN TRONG ĐẬP BÓNG KHI ĐỐI
PHƢƠNG PHÁT BÓNG
Đập bóng là giai đoạn cuối cùng mang tính chất quyết định của mọi phối
hợp chiến thuật tấn công. Trong trƣờng hợp đối phƣơng phát bóng, nếu đập tốt thì
đƣợc điểm và giành đƣợc quyền phát bóng, nhƣng nếu đập hỏng thì đối phƣơng
đƣợc điểm. Chiến thuật cá nhân trong đập bóng bao gồm: Khi đối phƣơng chƣa
phát bóng và khi đối phƣơng phát bóng.
1.4.1 Khi đối phương chưa phát bóng
123
• Mình đang ở vị trí nào và sẽ đánh theo chiến thuật nào (căn cứ theo ký hiệu
của ngƣời chuyền 2)
• Tỷ số điểm, hiệp.
• Quan sát hàng chắn của đối phƣơng, hàng phòng thủ của đối phƣơng (số 6
tiến hay lùi)
• Điều kiện ngoại cảnh.
1.4.2 Khi đối phương phát bóng
- Theo dõi quả phát bóng, đánh giá chất lƣợng quả chuyền 1.
- Phán đoán khả năng của ngƣời chuyền 2 và chất lƣợng của bóng chuyền 2
- Quan sát sự di chuyển của hàng chắn và phòng thủ của đối phƣơng.
- Quyết định đập:
• Trên tay chắn
• Bật tay chắn
• Lọt tay chắn
• Lực mạnh hay nhẹ
• Giả đập - bỏ nhỏ.
- Sau khi đập thì sẵn sàng tự yểm hộ và tiếp tục chơi.
Nếu không có bóng để đập thì nhanh chóng chuyển sang yểm hộ cho đồng
đội.
Chú ý: Trong phản công, đấu thủ đập bóng quyết định chiến thuật trong thời
gian rất ngắn và phải có những quy định chiến thuật trƣớc với đấu thủ huyền 2 tuỳ
theo chất lƣợng của bóng phòng thủ đƣa lên.
* Chiến thuật tập thể trong tấn công
Chiến thuật tập thể là sự phối hợp hoạt động của hai hay nhiều đấu thủ để
giải quyết một nhiệm vụ chiến thuật cụ thể nào đó. Nó đòi hỏi quan hệ chặt chẽ
giữa các khâu chuyền 1 với chuyền 2, giữa chuyền 2 với tấn công. Chiến thuật tập
thể bao gồm: Nhóm và toàn đội.
1.1 ĐỘI HÌNH CHUYỀN 1
Sắp xếp vị trí các đấu thủ chuyền 1 hợp lý và phân công nhiệm vụ cụ thể
trong đội hình chuyền 1 là điểm quan trọng để đƣa bóng chuyền 1 lên đúng khu
vực của ngƣời chuyền 2 và phù hợp với yêu cầu chiến thuật tấn công của đội mình.
124
Sắp xếp vị trí chuyền 1 phải căn cứ vào khả năng phát bóng của từng đấu thủ bên
đối phƣơng.
Đồng thời phải bảo đảm mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đấu thủ
chuyền 1 tốt và đấu thủ chuyền 1 kém.
Thông thƣờng các đội hình chuyền 1 cơ bản đƣợc sắp xếp vị trí đứng nhƣ sau:
1.1.1 Khi đấu thủ chuyền 2 ở hàng trên
Đấu thủ chuyền 2 có thể đập hay chuyền hoặc tổ chức tấn công:
• Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 2 (hình 1) hoặc giả đan (hình 2)
• Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 3 (hình 3) hoặc giả đan (hình 4)
• Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 4 (hình 5) hoặc giả đan (hình 6)
1.1.2 Khi đấu thủ chuyền 2 ở hàng sau đan lên
• Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 1 (hình 7)
• Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 6 (hình 8)
125
• Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 5 (hình 9)
1.2 PHỐI HỢP HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẤU THỦ TẤN CÔNG
Phối hợp một cách nhịp nhàng các hoạt động của từng đấu thủ tấn công sẽ
hình thành các miếng chiến thuật mà ngƣời chỉ huy sự phối hợp đó chính là ngƣời
chuyền 2. Các hoạt động phối hợp của các đấu thủ tấn công bao gồm: không có
bóng và có bóng.
• Không có bóng: Di chuyển, chạy đà, bật nhảy… nhằm thu hút sự chú ý và
đánh lạc hƣớng, phân tán hàng phòng thủ của đối phƣơng.
• Có bóng: Chính là chiến thuật cá nhân trong đập bóng.
1.3 CÁC MIẾNG PHỐI HỢP TRONG CHIẾN THUẬT TẤN CÔNG
(MIẾNG CƠ BẢN)
1.3.1 Khi đấu thủ chuyền 2 ở hàng trên
• Đánh 2 chuyền động tác giả: Nếu bóng chuyền 1 lên có thể đập đƣợc thì
đấu thủ chuyền 2 có thể nhảy: đập, giả đập rồi chuyền 2, giả chuyền 2 rồi đập hoặc
bỏ nhỏ.
• Tổ chức tấn công 3 chuyền: Với các đội ở trình độ thấp thì chỉ phối hợp
với 2 đấu thủ ở hàng trên, nhƣng đối với những đội trình độ cao thì ngoài 2 đấu thủ
ở hàng trên còn phối hợp với chủ công tấn công ở hàng sau.
a. Khi đấu thủ chuyền 2 ở số 2
• Phối hợp 1: Số 4 đập biên, bóng lao hoặc cao. Số 3 đập nhanh hoặc lao
ngắn ở vị trí số 3 (hình 10). Thêm số 1 đập hàng sau ở số 2.
• Phối hợp 2: Số 4 đập biên, bóng lao hoặc cao. Số 3 đập nhanh, lao ngắn
hoặc trung bình ở số 2 (hình 11). Thêm số 1 đập hàng sau ở số 2.
• Phối hợp 3: Số 3 và số 4 phối hợp nhƣ phối hợp 2. thêm số 5 đập hàng sau
ở giữa vị trí số 3 và số 4 (hình 12).
126
• Phối hợp 4: Số 4 đập nhanh hoặc lao ngắn ở vị trí số 3. Số 3 nhƣ phối hợp
2. Thêm số 5 đập ở hàng sau ở vị trí số 4 (hình 13).
• Phối hợp 5: Số 4 đập nhanh ở vị trí số 3, số 3 đập làn sóng sau lƣng số 4.
Thêm số 5 đập ở hàng sau ở vị trí số 4 (hình 14).
b. Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 4 có thể phối hợp ngược lại một số miếng
(phù hợp với khả năng của đội) khi chuyền 2 ở số 2
c. Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 3
Phối hợp 1: Số 4 và số 2 đập biên, bóng lao hoặc cao. Thêm số 5 đập hàng
sau ở giữa vị trí số 3 và số 4 (hình 15)
· Phối hợp 2: Số 4 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 2 nhƣ phối hợp 1. Thêm số 5
đập hàng sau ở vị trí số 4 (hình 16).
· Phối hợp 3: Số 4 đập nhƣ phối
hợp 1. Số 2 đập nhanh ở vị trí số 2
hoặc số 3. Thêm số 1 đập hàng sau ở
vị trí số 2 (hình 17)
1.3.2 Khi đối thủ chuyền 2 ở
hàng sau đan lên.
Có ba đối thủ tấn ở hàng trên
và có thể thêm 1 đấu thủ tấn công ở hàng sau:
127
- Khi đấu thủ chuyền 2 ở số 1 hoặc số 6:
• Phối hợp 1: Số 4 đập biên, bóng cao hoặc lao. Số 3 đập nhanh, giả nhanh
hoặc lao ngắn ở vị trí số 3. Số 2 đập nhanh, lao ngắn hoặc trung bình ở vị trí số 2
(hình 18). Thêm số 5 đập hàng sau ở giữa vị trí số 3 và số 4.
• Phối hợp 2: Số 4 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 3 đập lần sóng hoặc đập chồng
sau lƣng số 4. Số 2 đập lao hoặc biên ở vị trí số 2 (hình 19). Thêm số 5 đập hàng
sau ở vị trí số 4.
• Phối hợp 3: Số 3 đập lao ngắn ở vị trí số 3. Số 4 đập len. Số 2 đập nhƣ phối
hợp 2 (hình 20). Thêm số 5 đập hàng sau ở vị trí số 4.
• Phối hợp 4: Số 4 đập nhƣ phối hợp 1. Số 2 đập nhanh sau đầu đối thủ
chuyền
2. Số 3 đập bóng lao hoặc trung bình ở vị trí số 2 (hình 21). Thêm số 5 đập
hàng sau ở vị trí giữa số 3 và số 4.
• Phối hợp 5: Số 4 đập nhƣ phối hợp 1. Số 3 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 2
đập làn sóng sau số 3 (hình 22). Thêm số 6 đập hàng sau ở vị trí số 2.
• Phối hợp 6: Trƣờng hợp đấu thủ số 4 thuận tay phải và khả năng di chuyển
nhanh (trình độ cao). Số 3 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 2 đập làn sóng sau số 3. Số 4
đập lao ngắn hoặc trung bình ở số 2 (hình 23). Thêm số 5 đập sau vị trí số 4.
· Phối hợp 7: Trƣờng hợp đấu thủ số 2 thuận tay trái và có khả năng di
chuyển nhanh. Số 4 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 3 đập làn sóng hoặc chồng sau lƣng
128
số 4. Số 2 di chuyển đập lao hoặc biên ở số 4 (hình 24). Thêm số 6 đập hàng sau ở
vị trí số 2.
- Khi đấu thủ chuyền 2 ở số 5 thì thực hiện các miếng chiến thuật trên có
khó khăn hơn, do đó nên lựa chọn những miếng chiến thuật phù hợp với khả năng
của đội mình.
* Yểm hộ tấn công
Yểm hộ tấn công bao gồm các hoạt động tự yểm hộ của đấu thủ tấn công và
các hoạt động yểm hộ của đồng đội.
Đặc điểm của chiến thuật bóng chuyền hiện đại là tăng cƣờng số lƣợng đấu
thủ tham gia tấn công, do đó ở hàng sau thƣờng chỉ còn 2 đấu thủ. Một trong hai
đấu thủ này phải làm nhiệm vụ yểm hộ tấn công và đấu thủ còn lại sẽ phải bảo vệ
nửa sân phía sau.
Nếu chuyên môn hoá yểm hộ tấn công thì trong đội hình thi đấu sẽ phân
công 2 đấu thủ (thƣờng là phụ công) làm nhiệm vụ yểm hộ tấn công và xếp chéo
nhau để đảm bảo ở hàng sau luôn có 1 đấu thủ yểm hộ.
Nếu không chuyên môn hoá thì đấu thủ hàng sau đỡ chuyền 1 phía số 1 sẽ
lên yểm hộ cho tấn công ở khu vực số 2 và 3, đấu thủ đỡ chuyền 1 phía sau số 5 sẽ
lên yểm hộ cho tấn công ở khu vực số 4.
Các hoạt động của đấu thủ yểm hộ tấn công:
• Quan sát các hoạt động chiến thuật tấn công của đội mình.
• Quan sát các hoạt động của hàng chắn bóng bên đối phƣơng.
• Xác định bóng chuyền 2: Tầm bóng cao hay thấp; xa hay gần lƣới; tốc độ
bóng nhanh hay chậm; đến vị trí nào.
• Biết đặc điểm của đấu thủ đập bóng và phán đoán khả năng bóng bị chắn
trở lại theo hƣớng nào, rơi vào đâu để nhanh chóng di chuyển chọn vị trí yểm hộ.
• Nhiệm vụ đỡ các đƣờng bóng tấn công bị chắn trở về nửa sân trên (có thể
phối hợp với đấu thủ chuyền 2 và đấu thủ không đập bóng).
• Nếu bóng không rơi vào khu vực mình bảo vệ thì sẵn sàng tiếp ứng cho
đồng đội.
• Sau khi yểm hộ thì nhanh chóng lùi về vị trí phòng thủ
129
2. CHIẾN THUẬT PHÕNG THỦ
* Chiến thuật cá nhân trong phòng thủ
2.1 CHIẾN THUẬT CHẮN BÓNG CÁ NHÂN
Chắn là phƣơng tiện phòng thủ cơ bản và tích cực nhất nhằm mục đích ngăn
chặn hoặc hạn chế uy lực tấn công của đối phƣơng, tạo điều kiện thuận lợi cho
đồng đội phòng thủ hàng sau. Không những thế, chắn bóng còn có thể giành đƣợc
điểm trực tiếp. Chiến thuật chắn bóng cá nhân bao gồm: khi chƣa có bóng và khi
có bóng.
2.1.1 Khi chưa có bóng
• Đang ở vị trí nào? Có đổi vị trí không?
• Tỷ số điểm, hiệp?
• Đánh giá các đấu thủ hàng trên (và cả chủ công đứng ở hàng sau có thể
tham gia tấn công) và khả năng chiến thuật của đối phƣơng.
• Bóng chuyền 1 lên (hoặc phòng thủ) nhƣ thế nào ? Khả năng và đặc điểm
của ngƣời chuyền 2 ?
• Quan sát các hoạt động di chuyển của các đấu thủ tấn công bên sân đối
phƣơng.
• Phán đoán: Khu vực đập ? Ai đập ? Hƣớng đập ? Lực đập ?
• Di chuyển: Sau khi quan sát và phán đoán thì nhanh chóng di chuyển đến
vị trí cần thiết để chắn.
2.1.2 Khi có bóng
a. Vị trí nhảy chắn phụ thuộc vào
• Vị trí ở hàng trên (đứng ở số nào: 2, 3, 4)
• Đƣờng bóng chuyền 2.
• Đặc điểm ngƣời tấn công: tay trái hay tay phải, vào đà ? hay đập hƣớng
chéo hay dọc biên ?
b. Thời điểm dậm nhảy
Tuỳ theo bóng chuyền 2 và đặc điểm ngƣời tấn công mà quyết định thời
gian dậm nhảy. Thông thƣờng thì:
• Đập nhanh và lao ngắn: dậm nhảy gần nhƣ cùng lúc với ngƣời đập.
• Đập trung bình: dậm nhảy chậm hơn ngƣời đập một chút.
130
• Đập cao biên: dậm nhảy khi ngƣời đập căng thân chuẩn bị đập vào bóng.
Mặt khác còn phải căn cứ vào bóng chuyền 2 gần hay xa lƣới.
• Đập hàng sau: tuỳ theo bóng chuyền 2 mà có thể dậm nhảy nhƣ chắn bóng
biên hoặc chậm hơn một chút.
c. Vị trí của tay và lƣới:
• Bóng gần lƣới thì qua hết tay, hai bàn tay xoè rộng áp sát vào bóng.
• Bóng xa lƣới thì hai tay thẳng trên lƣới để tận dụng hết chiều cao của tay
chắn. Động tác khi chạm bóng là gập cổ tay.
d. Vị trí của tay và bóng:
Phụ thuộc vào hƣớng chạy đà, thân, bả vai và cổ tay của ngƣời đập mà quyết
định chắn tay đối diện với bóng, chéo ít hay chéo nhiều… Ở giai đoạn cuối có thể
di động tay chắn sao cho đúng hƣớng đi của bóng.
e. Khi chắn bóng phải mở mắt và ngửa mặt lên để theo dõi bóng (trong thực
tế tập luyện và thi đấu có nhiều đấu thủ khi chắn bóng thì mắt nhắm lại và đầu cúi
xuống).
f. Sau khi chắn:
Trong khi rơi xuống đất, đồng thời xoay thân theo hƣớng bóng để tự yểm hộ
hoặc tiếp ứng cho đồng đội.
2.2 CHIẾN THUẬT CÁ NHÂN TRONG PHÕNG THỦ HÀNG SAU
VÀ YỂM HỘ
Cùng với chắn bóng, phòng thủ hàng sau đã góp phần không nhỏ vào kết
quả của hệ thống phòng thủ. Phòng thủ hàng sau là hoạt động đón đỡ các đƣờng
bóng chạm tay chắn bật về phía sau, các quả đập lọt tay chắn, các đƣờng bóng xử
lý trong tấn công của đối phƣơng. Phòng thủ hàng sau là có cơ sở để tổ chức phản
công. Chiến thuật cá nhân trong phòng thủ hàng sau bao gồm: khi chƣa có bóng và
khi có bóng.
2.2.1 Khi chưa có bóng:
• Quan sát giống nhƣ đấu thủ chuẩn bị chắn bóng. Đặc biệt quan sát vị trí tay
chắn và bóng để xác định khu vực an toàn trên sân.
• Từ những quan sát trên để phán đoán hƣớng đập, điểm rơi của bóng.
• Di chuyển: sau khi phán đoán thì di chuyển ngay đến vị trí cần thiết của
mình để đón đỡ bóng.
131
2.2.2 Khi có bóng
a. Nếu là đấu thủ phòng thủ hàng sau:
- Khi có bóng đập vào khu vực phòng thủ của mình thì phải nhanh chóng
quyết định sử dụng kỹ thuật nào: đệm hai tay, đỡ một tay, lăn ngã cứu bóng…
Bóng phòng thủ tốt nhất là tới chỗ ngƣời chuyền 2 để tổ chức phản công.
- Nếu bóng không vào khu vực phòng thủ của mình thì phải sẵn sàng tiếp
ứng cho đồng đội nếu đồng đội giữ bóng không tốt: cứu đỡ bóng hoặc chuyền 2
điều chỉnh.
b. Nếu là đấu thủ yểm hộ cho đấu thủ chắn bóng:
- Bảo đảm đỡ các đƣờng bóng rơi vào phía sau đấu thủ chắn và khu vực giữa
sân (có thể phối hợp với đấu thủ hàng trên không tham gia chắn bóng hoặc đấu thủ
chắn bóng tự yểm hộ)
- Đỡ bóng chạm tay chắn ra ngoài ở gần khu vực của mình bảo vệ.
- Sẵn sàng tiếp ứng cho đồng đội (cứu đỡ bóng hoặc tham gia chuyền 2 khi
cần thiết).
* Chiến thuật tập thể trong phòng thủ
Chiến thuật tập thể trong phòng thủ bao gồm chiến thuật nhóm và toàn đội:
nhóm của các đấu thủ hàng trên, nhóm của các đấu thủ hàng sau và sự Phối hợp
của các đấu thủ giữa hàng trên và hàng sau.
2.1 CÁC HOẠT ĐỘNG CHIẾN THUẬT TRONG CHẮN BÓNG TẬP
THỂ
Chiến thuật chắn bóng tập thể dựa trên cơ sở chiến thuật cá nhân trong chắn
bóng.
2.1.1 Phối hợp chắn bóng hai người
- Di chuyển:
• Sau khi quan sát và xác định khu vực và đấu thủ đập bỏ bóng thì đấu
thủchắn bóng phối hợp di chuyển đến vị trí chắn bóng.
• Các hình thức di chuyển trong chắn bóng tập thể gồm: chạy, bƣớc chéo và
bƣớc lƣớt ngang.
- Thời điểm dậm nhảy: giống nhƣ xác định thời điểm dậm nhảy trong chắn
bóng cá nhân.
132
- Chắn bóng: Hai đấu thủ phải phối hợp đặt tay chắn để tạo thành vòng cung
bao lấy bóng, bốn bàn tay chắn phải đặt gần nhau (không để có khoảng trống để
đối phƣơng đập bóng lọt qua).
- Đối phƣơng thƣờng đập bỏ theo ba hƣớng:
• Theo phƣơng lấy đà.
• Theo hƣớng chéo.
• Theo hƣớng dọc biên (chữ I)
Khi đối phƣơng đập bỏ theo phƣơng lấy đà thì bốn bàn tay sẽ tạo thành vòng
cung bao lấy bóng.
Khi đối phƣơng đập bỏ theo hƣớng chéo thì một đấu thủ chắn hƣớng chéo
và đấu đấu thủ thứ hai phối hợp chắn theo phƣơng lấy đà.
Khi đối phƣơng đập theo hƣớng dọc biên đấu thủ sát biên sẽ đặt tay chắn đối
diện với bóng và bàn tay phía biên hƣớng vào phía trong; đấu thủ thứ hai
phối hợp chắn hƣớng theo phƣơng lấy đà.
Chú ý: Ở giai đoạn cuối của chắn bóng, có thể di động tay chắn sao cho
đúng hƣớng đi của bóng.
2.1.2 Phối hợp chắn bóng ba người
Trong thi đấu, ít khi chắn ba ngƣời. Chắn ba ngƣời thƣờng chỉ đƣợc sử dụng
để chắn các chủ công có lối đánh quyết liệt với bóng chuyền 2 cao đơn giản hoặc
chuyền 2 điều chỉnh.
Khi chắn bóng: đấu thủ ở giữa chắn hƣớng đập theo phƣơng lấy đà, hai đấu
thủ hai bên chắn hƣớng chéo và hƣớng chữ I (bàn tay phía ngoài của đấu thủ chắn
hƣớng chữ I hƣớng vào trong).
2.1.3 Vị trí đứng của hàng chắn bóng
Cách sắp xếp vị trí và phân công nhiệm vụ cho các đấu thủ chắn bóng là phụ
thuộc vào đặc điểm chiến thuật tấn công của đối phƣơng. Có thể đứng nhƣ sau:
133
Hình 25: Chắn đối phƣơng tấn công đơn giản nhanh, biên
Hình 26: Chắn đối phƣơng tấn công phức tạp
Hình 27: Chắn đối phƣơng tấc công phức tạp, có chắn bù.
Nói chung, các đấu thủ chắn bóng, trƣớc tiên phải bố trí theo dạng 1 kèm 1.
Sau khi xác định là đối phƣơng không tấn công nấc 1 thì đấu thủ chắn nấc 1 nhanh
chóng di chuyển phối hợp chắn 2.
2.2. HỆ THỐNG CHIẾN THUẬT PHÕNG THỦ
Hệ thống chiến thuật phòng thủ là hoạt động phối hợp của chiến thuật chắn
bóng và chiến thuật phòng thủ hàng sau. Trong chiến thuật phòng thủ hàng sau bao
gồm: chiến thuật phòng thủ số 6 tiến và chiến thuật phòng thủ số 6 lùi.
2.2.1 Chiến thuật phòng thủ số 6 tiến
Đấu thủ ở vị trí số 6 luôn luôn tiến lên phía trƣớc làm nhiệm vụ yểm hộ chắn
bóng khi đối phƣơng tấn công. Số 5 và số 1 đỡ bóng nửa sân sau. Chiến thuật
phòng thủ số 6 tiến đƣợc sử dụng khi đối phƣơng thƣờng hay bỏ nhỏ ở phía sau
đấu thủ chắn hoặc khu vực giữa sân, tấn công không quyết liệt lắm và thƣờng theo
hƣớng chéo hoặc chữ I. Đội hình phòng thủ với số 6 tiến đƣợc sắp xếp nhƣ sau:
a. Khi đối phƣơng tấn công ở số 4
b. Khi đối phƣơng tấn công ở số 3
134
c. Khi đối phƣơng tấn công ở số 2
Cách sắp xếp đội hình phòng thủ ngƣợc lại với đội hình phòng thủ khi đối
phƣơng tấn công ở số 4.
2.2.2 Chiến thuật phòng thủ số 6 lùi
Đấu thủ ở vị trí số 6, lùi về phía cuối sân để đỡ các đƣờng bóng đập mạnh
hoặc bật tay chắn rơi xuống phía sân sau. Số 5 hoặc số 1 lên yểm hộ cho chắn
bóng. Chiến thuật phòng thủ số 6 lùi đƣợc sử dụng khi đối phƣơng tấn công mạnh,
dài xuống cuối sân, ít bỏ nhỏ và khả năng tự yểm hộ của hàng chắn tốt.
Đội hình phòng thủ với số 6 lùi đƣợc sắp xếp nhƣ sau:
a. Khi đối phƣơng tấn công ở số 4
b. Khi đối phƣơng tấn công ở số 3
c. Khi đối phƣơng tấn công ở số 2:
Cách sắp xếp đội hình phòng thủ ngƣợc lại với đội hình phòng thủ khi đối
phƣơng tấn công ở số 4.
135
LUẬT THI ĐẤU BÓNG CHUYỀN
I. Sân thi đấu
Diện tích sân thi đấu bao gồm sân đấu và khu tự do. Sân thi đấu phải là hình chữ
nhật và đốí xứng. (Điều 1.1).
1. Kích thƣớc:
Sân đấu hình chữ nhật, kích thƣớc 18 x 9m, xung quanh là khu tự do rộng ít nhất
3m về tất cả mọi phía. Khoảng không tự do là khoảng không gian trên khu sân đấu
không có vật cản nào - ở chiều cao tối thiểu 7 m tính từ mặt sân.
Khu tự do của các cuộc thi đấu thế giới của FIVB rộng tối thiểu 5m từ đƣờng biên
dọc và 8m từ đƣờng biên ngang. Khoảng không tự do phải cao tối thiểu 12,5m tính
từ mặt sân.
Hình 1. Khu vực sân bãi
136
2. Mặt sân
2.1. Mặt sân phải phẳng, ngang bằng và đồng nhất.
Mặt sân phải đảm bảo không có bất kỳ nguy hiểm nào gây chấn thƣơng cho
vận động viên. Cấm thi đấu trên mặt sân gồ ghề hoặc trơn. Mặt sân trong các cuộc
thi đấu thế giới và chính thức của FIVB chỉ đƣợc làm bằng gỗ hoặc chất liệu tổng
hợp. Các loại mặt sân đều phải đƣợc FIVB công nhận trƣớc.
2.2. Mặt sân thi đấu trong nhà phải là màu sáng:
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB các đƣờng biên phải
là màu trắng. Sân đấu và khu tự do phải có màu sắc khác biệt nhau. (Điều 1.1; 1.3)
2.3. Sân ngoài trời có độ dốc thoát nƣớc mỗi mét là 5mm. Cấm làm các
đƣờng biên bằng các vật liệu rắn cứng. (Điều 1.3).
3. Các đƣờng trên sân:
3.1. Bề rộng các đƣờng trên sân là 5cm có màu sáng khác với màu sân và
bất kỳ đƣờng kẻ nào khác. (Điều 1.2.2)
3.2 Các đường biên:
Hai đƣờng biên dọc và hai đƣờng biên ngang giới hạn sân đấu. Các đƣờng
này nằm trong phạm vi sân đấu. (Điều 1.l)
3.3. Đường giữa sân
Trục đƣờng giữa sân chia sân đấu ra làm hai phần bằng nhau. mỗi phần 9 x
9m. Đƣờng này chạy dƣới lƣới đến hai đƣờng biên dọc.
3.4. Đường tấn công:
Ở mỗi bên sân. đƣờng tấn công đƣợc kẻ cách trục của đƣờng giữa sân 3m.
Trong những cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB, đƣờng tấn công đƣợc
kéo dài thêm từ các đƣờng biên dọc và vạch ngắt quãng, mỗi vạch dài 15cm, rộng
5cm, cách nhau 20cm và độ dài tổng cộng l,75m. (Điều 1.3.3; 1.4.l).
4. Các khu trên sân:
4.1. Khu trước:
Ở mỗi bên sân khu trƣớc đƣợc giới
hạn bởi đƣờng giữa sân và đƣờng tấn
công. Khu trƣớc đƣợc mở rộng từ mép
ngoài đƣờng biên dọc tới hết khu tự do.
(Điều 1. l; 1.3.2; 1.3.3; 1.3.4)
Hình 2. Các khu trên sân
137
4.2. Khu phát bóng:
Khu phát bóng là khu rộng 9m nằm sau đƣờng biên ngang (không tính
đƣờng biên ngang). Khu phát bóng đƣợc giới hạn bởi hai vạch dài 15cm thẳng góc
với đƣờng biên ngang, cách đƣờng này 20cm và đƣợc coi là phần kéo dài của
đƣờng biên dọc. Cả hai vạch này đều thuộc khu phát bóng. Khu phát bóng kéo dài
tới hết khu tự do. (Điều 1.1; 1.3.2),
4.3. Khu thay người:
Khu thay ngƣời đƣợc giới hạn bởi hai đƣờng kéo dài của đƣờng tấn công
đến bàn thƣ ký (Điều 1.3.4).
4.4. Khu khởi động:
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức Của FIVB ở mỗi góc sân của
khu tự do có l khu khởi động 3 x 3m.
4.5. Khu phạt:
Mỗi bên sân ở khu tự do, trên đƣờng kéo dài của đƣờng biên ngang, ở sau
ghế ngồi của mỗi đội cách 1,5m có l khu phạt kích thƣớc l x lm giới hạn bằng các
vạch đỏ rộng 5cm, trong đặt hai ghế.
5. Nhiệt độ:
Nhiệt độ thấp nhất không đƣợc dƣới 10 độ C (500F). Trong các cụộc thi đấu
thế giới và chính thức của FIVB nhiệt độ tối đa không đƣợc cao hơn 25 độC
(770F) và thấp dƣới l6 độC (610F).
6. Ánh sáng:
Tại các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB độ sáng của sân đấu đo
ở độ cao 1m cách mặt sân phải đạt tử 1000 đến 1500 lux.
II. Lƣới và cột
1. Chiều cao của lƣới
1.1. Lƣới đƣợc căng ngang trên đƣờng giữa sân. Chiều cao mép trên của
lƣới nam là 2,43m và của nữ là 2,24m. (Điều 1.3.3)
1.2. Chiều cao của lƣới phải đƣợc đo ở giữa sân. Hai đầu lƣới ở trên đƣờng
biên dọc phải cao bằng nhau và không cao hơn chiều cao quy định 2cm. (Điều 1.l;
1.3.2; 2.1.l) .
2. Cấu tạo
138
Lƣới màu đen, dài 9,5 - 10m, rộng lm, đan thành các mắt lƣới hình vuông
mỗi cạnh l0cm (mỗi bên đầu lƣới kể từ mép ngoài băng giới hạn lƣới có l khoảng
dài từ 0.25m đến 0.5m) .
Viền suốt mép trên lƣới là một băng vải trắng gấp lại rộng 7cm. Hai đầu
băng vải có một lỗ để luồn dây buộc vào cọc lƣới.
Luồn một sợi dây cáp mềm bền trong băng vải trắng tới hai cọc lƣới để căng
mép trên của lƣới. Mỗi đầu băng viền mép trên của lƣới có hai lỗ và dùng hai dây
để buộc kéo vào cột giữ căng vải băng mép trên lƣới.
Viền suốt mép dƣới lƣới là một băng vải trắng gấp lại rộng 5cm, trong luồn
qua l dây buộc giữ căng phần dƣới của lƣới vào hai cột.
3. Băng giới hạn
Là hai băng trăng dài lm, rông 5cm đặt ở hai bên đầu lƣới thẳng góc với giao
điểm của đƣờng biên dọc và đƣờng giữa sân. Băng giới hạn là một phần của lƣới
(Điều 1.3.2)
4. Ăng ten
Ăng ten là thanh tròn dẻo đƣờng kính 10mm dài l,8m làm bằng sợi thuỷ tinh
hoặc chất liệu tƣơng tự.
Ăng ten đƣợc buộc chặt sát với mép ngoài mỗi băng giới hạn. Ăng ten đƣợc
đặt đối nhau ở hai bên lƣới (Điều 2.3)
Phần ăng ten cao hơn lƣới 80cm, đƣợc sơn xen kẽ các đoạn màu tƣơng phản
nhau, mỗi đoạn dài 10cm, tốt nhất là màu đỏ và trắng.
Ăng ten thuộc phần của lƣới và giới hạn 2 bên của knoảng không gian bóng
qua trên lƣới (Điều 11.1.l)
5. Cột lƣới: (Hình 3)
139
5.1. Cột căng giữ lƣới đặt ở ngoài sân cách đƣờng biên dọc 0.5 - lm, cao
2,55m. có thê điều chỉnh đƣợc.
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB, cột căng giữ lƣới
phải đặt ngoài sân cách đƣờng biên dọc lm.
5.2. Cột lƣới tròn và nhẵn, đƣợc cố định chắc xuống đất không dùng dây cáp
giữ. Cấm cột lƣới có các dụng cụ phụ trợ nguy hiểm.
6. Thiết bị phụ
Tất cả các thiết bi phụ phải theo đúng quy định
III. Bóng
Bóng phải là hình cầu tròn, làm bằng da mềm hoặc da tổng hợp, trong có
ruột bằng cao su hoặc chất liệu tƣơng tự. Màu sắc của bóng phải đồng màu, hoặc
phối hợp các màu.
Chất liệu da tổng hợp và phối hợp các mầu của bóng dùng trong các cuộc thi
đấu quốc tế phải theo đúng chuẩn mức của FIVB.
Chu vi của bóng: 65 - 67cm, trọng lƣợng của bóng là 260 - 280g.
Áp lực trong của bóng: từ 0,3 đến 0 325 kg/cm2 (294,3 - 318,82mbar hoặc
hPa).
1. Bóng chuẩn
2. Tính đồng nhất của bóng
Mọi quả bóng dùng trong một trận đấu phải có cùng chu vi, trọng lƣợng, áp
lực, chủng loại, màu sắc… (Điều 3.l)
Hình 3.
Hình 4. Bóng
140
Các cuộc thi đấu thế giới. thi đấu chính thức của FIVB. Vô địch quốc gia
hay vô địch Liên đoàn phải dùng bóng đƣợc FIVB công nhận, trừ khi FIVB cho
phép khác.
3. Hệ thống sử dụng 3 bóng
Các cuộc thi đấu thế giới của FIVB và chính thức đều sử dụng 3 bóng thi
đấu với 6 ngƣời nhặt bóng, mỗi góc sân ở khu tự do một ngƣời và sau mỗi trọng tài
một ngƣời.
IV. THỂ THỨC THI ĐẤU
Điều VI: Đƣợc một điểm, thắng một hiệp và thắng một trận
1. Đƣợc 1 điểm
1.1. Đƣợc 1 điểm khi:
1.1.1. Bóng chạm sân đối phƣơng (Điều 9.3; 11.1.1)
1.1.2. Do đội đối phƣơng phạm lỗi (Điều 6.1.2;)
1.1.3. Đội đối phƣơng bị phạt (Điều 12.3; 22.3.1)
1.2. Phạm lỗi:
Khi một đội có hành động đánh bóng sai luật hoặc phạm luật bằng hành
động nào khác thì trọng tài thổi còi phạm lỗi xét mức phạm lỗi và quyết định phạt
theo luật.
1.2.1. Nếu hai hay nhiều lỗi xảy ra liên tiếp thì chỉ tính lỗi đầu tiên.
1.2.2. Nếu hai đội cùng phạm hai hoặc nhiều lỗi thì xử hai đội cùng phạm
lỗi. Đánh lại pha bóng đó.
l.3. Hậu quả của thắng một pha bóng:
Một pha bóng là chuỗi các hành động đánh bóng tính từ thời điểm ngƣời
phát bóng đánh chạm bóng đến khi khi trọng tài thổi còi “bóng chết” (Điều 9.1;
9.2)
1.3.1. Nếu đội phát bóng thắng pha bóng đó thì đội phát bóng đƣợc một
điểm và tiếp tục phát bóng..
1.3.2. Nếu đội đối phƣơng đỡ phát bóng thắng pha bóng đó thì đội đó đƣợc
một điểm và giành quyền phát bóng.
2. Thắng một hiệp
141
Đội thắng một hiệp (trừ hiệp thứ 5 - hiệp quyết thắng) là đội đƣợc 25 điểm
trƣớc và hơn đội kia ít nhất 2 điểm. Trƣờng hợp hoà 24 - 24, phải đấu tiếp cho đến
khi hơn nhau 2 điểm (26 - 24; 27 - 25…) (Điều. 6.3.2) (Hiệu tay 11.9)
3. Thắng một trận
3.1. Đội thắng một trận là đội thắng 3 hiệp (Điều 6.2) (Hiệu tay 11.9).
3.2. Trong trƣờng hợp hoà 2 - 2, hiệp quyết thắng (hiệp 5) đấu đến 15 điểm
và đội thắng phải hơn ít nhất 2 điểm Điều 1; 16.4.1).
4. Bỏ cuộc và đội hình không đủ ngƣời đấu
4.1. Nếu một đội sau khi đã đƣợc mời đến thuyết phục vẫn từ chối không
đấu, đội đó bị tuyên bố bỏ cuộc và bị thua với kết quả toàn trận 0- 3, mỗi hiệp 0 -
25 (Điều 6.2; 6.3).
4.2. Nếu một đội không có lý do chính đáng để có mặt đúng giờ thi đấu thì
bị tuyên bố bỏ cuộc và xử lý kết quả thi đấu nhƣ Điều 6.4.1.
4.3. Một đội bị tuyên bố không đủ đội hình thi đấu một hiệp hoặc một trận
(Điều 3.l) thì bị thua hiệp đó.hoặc trận đó. Đội đối phƣơng đƣợc thêm đủ số điểm
và số hiệp còn thiếu để thắng hiệp hoặc trận đấu đó. Đội có đội hình không đủ
ngƣời đấu bị giữ nguyên số điểm và kết quả các hiệp trƣớc
Điều VII: Tổ chức thi đấu
1. Bắt thăm
Trƣớc trận đấu, trọng tài thứ nhất cho bắt thăm để chọn quyền ƣu tiên đội
nào phát bóng trƣớc và đội nào chọn sân ở hiệp đấu thứ l (Đlều l3.1.l).
Nếu thi đấu hiệp thứ 5, phải tiến hành bắt thăm lại (Điều 6.3.2).
1.1. Tiến hành bắt thăm với sự có mặt của hai đội trƣởng hai đội (Điều 5.1).
1.2. Đội thắng khi bắt thăm đƣợc chọn:
1.2.1. Quyền phát bóng hoặc đỡ phát bóng (Đ iều 13.l.1.)
1.2.2. Chọn sân: Đội thua lấy phần còn lại.
1.3. Nếu hai đội khởi động riêng, đội nào phát bóng trƣớc đƣợc khởi động
trên lƣới trƣớc (Điều 2).
2. Khởi động
2.l . Trƣớc trận đấu, nếu các đội đã khởi động ở sân phụ thì mỗi đội đƣợc
khởi động 3 phút với lƣới; nếu không, mỗi đội đƣợc khởi động 5 phút,..
142
2.2. Nếu cả hai đội trƣởng đề nghị khởi động chung với lƣới thì cả hai đội
đƣợc khởi động 6 hoặc 10 phút, theo Điều 2.1.
3. Đội hình thi đấu của đội
3.1. Mỗi đội phải luôn có 6 cầu thủ khi đấu:
Đội hình thi đấu ban đầu chỉ rõ trật tự xoay vòng của các cầu thủ trên sân.
Trật tự này phải giữ đúng suốt hiệp đấu (Điều 6.4.3; 6).
3.2. Trƣớc hiệp đấu, huấn luyện viên phải ghi đội hình của đội vào phiếu
báo vị trí (xem Điều 20.1.2) và ký vào phiếu, sau đó đƣa cho trọng tài thứ hai hoặc
thƣ ký (Điều 5.2.3.1; 20.1.2; 25.3.1; 26.2.1.2)
3.3. Các cầu thủ không có trong đội hình thi đấu đầu tiên của hiệp đó là cầu
thủ dự bị (trừ Libero) (Điều 3.2.8; 20.1.2).
3.4. Khi đã nộp phiếu báo vị trí cho trọng tài thứ hai hoặc thƣ ký thì không
đƣợc phép thay đổi đội hình trừ việc thay ngƣời thông thƣờng (Điều 8; 16.2.2)
3.5. Sự khác nhau giữa vị trí cầu thủ trên sân và phiếu báo ví trí (Điều
25.3.1)
3.5.1. Trƣớc khi bắt đầu hiệp đấu nếu phát hiện có sự khác nhau giữa vị trí
đấu thủ trên sân với phiếu báo ví trí thì các cầu thủ phải trở về đúng vị trí nhƣ
phiếu báo vị trí ban đầu mà không bị phạt (Điều 3.2).
3.5.2. Nếu trƣớc khi bắt đầu hiệp đấu phát hiện một cầu thủ trên sân không
đƣợc ghi ở phiếu báo vị trí của hiệp đó thì cầu thủ này phải thay bằng đấu thủ đã
ghi ở phiếu báo vị trí mà không bị phạt (Điều 3.2).
3.5.3. Tuy nhiên, nếu huấn luyện viên muốn giữ cầu thủ không ghi trong
phiếu báo vị trí ở lại trên sân thì huấn luyện viên có thể xin thay thông thƣờng một
hay nhiều lần ngƣời theo luật và ghi vào biên bản thi đấu (Điều 16.2.2).
4. Vị trí: Ở thời điểm cầu thủ phát bóng đánh bóng đi thì trừ cầu thủ này,
các cầu thủ của mỗi đội phải đứng đúng vị trí trên sân mình theo đúng trật tự xoay
vòng (Điều 6.1; 9.1; 13.4)
4.1. Vị trí của các cầu thủ đƣợc xác định nhƣ sau:
4.1.1. Ba cầu thủ đứng dọc theo lƣới là những cầu thủ hàng trƣớc: Vị trí số 4
(trƣớc bên trái), số 3 (trƣớc giữa) và số 2 (trƣớc bên phải).
4.1.2. Ba cầu thủ còn lại là các cầu thủ hàng sau : Vị trí số 5 (sau trái), số 6
(ở sau giữa) và l (sau bên phải).
143
4.2 . Quan hệ vị trí giữa các cầu thủ:
4.2.1. Mỗi cầu thủ hàng sau phải đứng xa lƣới hơn ngƣời hàng trƣớc tƣơng
ứng của mình.
4.2.2. Các cầu thủ hàng trƣớc và hàng sau phải đứng theo trật tự nhƣ Điều
4.3. Xác định và kiểm tra vị trí các cầu thủ bằng vị trí bàn chân chạm đất
4.3.1. Mỗi cầu thủ hàng trƣớc phải có ít nhất một phần bàn chân gần đƣờng
giữa sân hơn chân của cầu thủ hàng sau tƣơng ứng (Điều 1.3.3).
4.3.2. Mỗi cầu thủ ở bên phải (bên trái) ph ải có ít nhất một phần bàn chân
gần đƣờng biên dọc bên phải (trái) hơn chân của cầu thủ đứng giữa cùng hàng của
mình (Điều 1.3.2).
4.4. Khi bóng đã phát đi, các cầu thủ có thể di chuyển và đứng ở bất kỳ vị trí
nào trên sân của mình và khu tự do (Điều 12.2.2).
5. Lỗi sai vị trí: Hiệu tay 11 (13))
5.1. Một đội phạm lỗi sai vị trí: khi ngƣời phát bóng đánh chạm bóng, lại có
bất kỳ cầu thủ nào đứng không đúng vị trí (Điều 3 và 4).
5.2. Nếu lỗi sai vị trí xảy ra lúc cầu thủ phát bóng phạm lỗi phát bóng đúng
lúc đánh phát bóng đi (Điều l3.4 và l3.l), thì phạt lỗi phát bóng trƣớc lỗi sai vị trí.
5.3. Nếu cầu thủ phát bóng phạm lỗi sau khi phát bóng (Điều l3.2) và có lỗi
sai vị trí thì bắt lỗi sai vị trí trƣớc.
5.4. Phạt lỗi sai vị trí nhƣ sau:
5.4.1. Đội phạm lỗi bị xử thua pha bóng đó (Điều 6.1.3).
5.4.2. Các cầu thủ phải đứng lại đúng vị trí của mình (Điều 3; 4).
6. Xoay vòng
6.1. Thứ tự xoay vòng theo đội hình đăng ký đầu mỗi hiệp, và theo đó kiểm
tra trật tự phát bóng và vị trí các cầu thủ trong suốt hiệp đấu (Điều 3.l; 4.1; l3.2).
6.2. Khi đội đỡ phát bóng giành đƣợc quyền phát bóng, các cầu thủ của đội
phải xoay một vị trí theo chiều kim đồng hồ: cầu thủ ở vị trí số 2 chuyển xuống vị
trí số l để phát bóng, cầu thủ ở vị trí số l chuyển sang vị trí số 6… (Điều l3.2.2).
7. Lỗi thứ tự xoay vòng: (Hiệu tay 11(13))
7.1. Khi phát bóng phạm lỗi xoay vòng không đúng trật tự xoay vòng (Điều
6.1; 13).Phạt nhƣ sau:
7.l.1. Đội bị phạt thua pha bóng đó (Điều 6.1.3).
144
7.1.2. Các cầu thủ phải trở lại đúng vị trí của mình (Điều 6.l).
7.2. Thƣ ký phải xác định đƣợc thời điểm phạm lỗi, huỷ bỏ tất cả các
điểm thắng của đội phạm lỗi từ thời điểm phạm lỗi. Điểm của đội kia vẫn giữ
nguyên (Điều 26.2 .2.2).
Nếu không xác định đƣợc thời điểm phạm lỗi sai thứ tự phát bóng thì không
xoá điểm của đội phạm lỗi mà chỉ phạt thua pha bóng (Điều 6.1.3).
Điều VIII: Thay ngƣời
Thay ngƣời là hành động mà một cầu thủ sau khi đã đƣợc thƣ ký ghi lại, vào
sân thay thế vị trí cho một cầu thủ khác phải rời sân (trừ Libero). Thay ngƣời phải
đƣợc phép của trọng tài (Điều 16.5; 20.3.2)
1. Giới hạn thay ngƣời
1.l. Một hiệp mỗi đội đƣợc thay tối đa 6 lần ngƣời. Cùng một lần có thể thay
một hay nhiều cầu thủ.
l.2. Một cầu thủ của đội hình chính thức có thể đƣợc thay ra sân và lại thay
vào sân nhƣng trong một hiệp chỉ đƣợc một lần và phải đúng vị trí của mình trong
đội hình đã đăng ký (Điều 3.l).
1.3. Một cầu thủ dự bị đƣợc vào sân thay cho một cầu thủ chính thức l lần
trong l hiệp nhƣng chỉ đƣợc thay ra bằng chính cầu thủ chính thức đã thay
2. Thay ngƣời ngoại lệ
Khi một cầu thủ bị chấn thƣơng (trừ vận động viên Libero) không thể tiếp
tục thi đấu đƣợc thì phải thay ngƣời hợp lệ. Trƣờng hợp không thể thay hợp lệ thì
đội đó đƣợc thay ngƣời ngoại lệ ngoài giới hạn thay ngƣời của Điều l (Điều
20.3.3). Thay ngƣời ngoại lệ nghĩa là bất cứ cầu thủ nào không có trên sân lúc xảy
ra chấn thƣơng trừ cầu thủ Libero hay cầu thủ thay cho anh ta có thể vào thay cầu
thủ bị thƣơng. Cầu thủ bị chấn thƣơng đã thay ra không đƣợc phép vào sân thi đấu
nữa. Trong mọi trƣờng hợp thay ngƣời ngoại lệ đều không đƣợc tính là thay ngƣời
thông thƣờng.
3. Thay ngƣời bắt buộc
Một cầu thủ bị phạt đuổi ra sân hoặc bị truất quyền thi đấu (Điều 22.3.2 và
22.3.3) thì phải thay ngƣời hợp lệ . Nếu không thực hiện đƣợc, thì đội đó bị tuyên
bố đội hình không đủ ngƣời (Điều 6.4.3; l và 3.l).
4. Thay ngƣời không hơp lệ
145
4.1.
Thay
ngƣời
không
hợp lệ
là
vƣợt
quá
giới
hạn
thay
ngƣời
theo
Điều
1 (trừ
trƣờn
g hợp
Điều 2).
4.2. Trong trƣờng hợp một đội thay ngƣời không hợp lệ mà cuộc đấu đã tiếp
tục (Điều 9.1) thì xử lý nhƣ sau:
4.2.1. Đội bị phạt thua pha bóng đó, (Điều 6.1.3).
4.2.2. Sửa lại việc thay ngƣời.
4.2.3. Huỷ bỏ những điểm đội đó giành đƣợc từ khi phạm lỗi, giữ nguyên
điểm của đội đối phƣơng.
146
147
148
CHƢƠNG 4. CẦU LÔNG
I. VỊ TRÍ – TÁC DỤNG MÔN CẦU LÔNG
Ngay từ khi ra đời, môn cầu lông đã là môn chơi giải trí bởi dễ tập, dễ chơi
cho mọi đối tƣợng (già, trẻ, gái, trai) đều có thể tập luyện đƣợc. Dụng cụ, sân bãi
đơn giản nên mặc dù ra đời khá muộn so với nhiều môn thể thao khác, song nó
nhanh chóng thu hút đông đảo quần chúng tham gia và ngày càng phát triển rộng
khắp. Việc tập luyện môn cầu lông có ý nghĩa lớn trong việc tăng cƣờng sức khỏe,
phát triển thể lực cho ngƣời tập. Đây còn là môn thể thao đƣợc giao lƣu quốc tế, là
cầu nối giữa các dân tộc thể hiện tinh thần đoàn kết – hợp tác hữu nghị.
Việc phát triển luyện tập cầu lông sâu rộng trong quần chúng là điều kiện
quan trọng để phát triển thể thao thành tích cao của môn cầu lông. Đặc biệt từ năm
1992 môn cầu lông đã trở thành một môn thể thao thi đấu chính thức của Thế Vận
Hội, điều này càng tạo đà cho việc phát triển môn thể thao “quý tộc” này cả về
chiều sâu và chiều rộng. Điều đó có ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt kinh tế -
xã hội mà còn có ý nghĩa tinh thần trong đời sống nhân dân.
II. NGUỒN GỐC RA ĐỜI MÔN CẦU LÔNG
1. Từ “trò chơi Poona” đến sự ra đời của “Badminton”
Dựa vào các tƣ liệu ghi chép lại, môn cầu lông hiện đại có nguồn gốc từ
nƣớc Anh. Đây là môn thể thao đƣợc biến đổi dần từ trò chơi “Poona” của Ấn Độ.
Tƣơng truyền rằng vào giữa thế kỷ 19 trong thành Poona của Ấn Độ có một
loại trò chơi rất phổ biến và giống với các hoạt động của môn cầu lông, đó là ngƣời
ta đã dùng vợt gỗ đánh một quả bóng đƣợc dệt bằng sợi nhung, trên có cắm lông
vũ để đánh qua lại trên một chiếc lƣới ngăn cách.
Vào những năm 60 của thế kỷ 19, một tốp sĩ quan ngƣời Anh phục viên đã
đem trò chơi Poona (Poonagame) từ Ấn Độ về nƣớc Anh và từ trò chơi này đã dần
dần đƣợc biến đổi trở thành một môn thể thao thi đấu.
Năm 1873 ở thị trấn Badminton thuộc quận Gơlasco của Anh quốc, có một
vị Công tƣớc tên là Beau Fort. Trong một lần mời khách về dự tiệc ở trang viên
của mình, không may gặp mƣa to nên các vị khách đành tập trung tại phòng khách
của lâu đài, lúc đó một sĩ quan quân đội phục viên từ Ấn Độ trở về đã đem trò chơi
“Poona” giới thiệu cho mọi ngƣời, đồng thời tiến hành chơi ngay trong đại sảnh.
149
Do trò chơi này rất thú vị nên đã đƣợc phổ biến rất nhanh ra khắp nơi và chẳng bao
lâu đã nhanh chóng lan rộng khắp nƣớc Anh. Badminton từ đó đã trở thành tên gọi
bằng tiếng Anh của môn cầu lông.
2. Sự truyền bá và phát triển môn cầu lông trên thế giới
Năm 1877, cuốn Luật thi đấu cầu lông đầu tiên đƣợc xuất bản ở nƣớc Anh.
Năm 1893, ở nƣớc Anh thành lập Liên đoàn cầu lông đầu tiên trên thế giới.
Năm 1899, Liên đoàn này đã tiến hành tổ chức “Giải vô địch cầu lông toàn
nƣớc Anh” lần thứ nhất. Sau đó mỗi năm, giải tổ chức 1 lần và duy trì cho đến nay.
Môn cầu lông từ đảo Pơliêdento lan rộng đến Naveya của Skan và các nƣớc thuộc
Liên hiệp Anh. Đầu thế kỷ 20, môn cầu lông lan rộng đến châu Á, châu Mỹ, châu
Đại Dƣơng, cuối cùng đến châu Phi. Cùng với việc ngày càng có nhiều nƣớc trên
thế giới phát triển môn thể thao này nên vào năm 1934 Liên đoàn Cầu lông Quốc
tế đã đƣợc thành lập gọi tắt là IBF (International Badminton Federation), trụ sở đặt
tại Luân Đôn. Năm 1939 Liên đoàn Cầu lông Quốc tế đã thông qua “Luật thi đấu
cầu lông” mà tất cả các nƣớc hội viên phải tuân thủ.
Từ những năm 20 đến những năm 40 của thế kỷ 20, môn cầu lông ở các
quốc gia Âu Mỹ phát triển rất nhanh, đặc biệt là Anh quốc và Đan Mạch. Các nhà
vô địch tại các cuộc thi đấu quốc tế lớn hầu nhƣ là vận động viên của hai nƣớc này.
Kế đó là vận động viên nƣớc Mỹ và Canada cũng có trình độ tƣơng đối cao.
Từ năm 1948 đến 1949, giải vô địch đồng đội nam thế giới lần đầu tiên (Cup
Thomas) đã đƣợc tổ chức. Tại giải này, Malaixia đã dánh bại Mỹ, Anh, Đan Mạch
và một số đội mạnh khác để vinh dự bƣớc lên vị trí đầu bảng. Từ đó bắt đầu thời
kỳ ngƣời châu Á chiếm lĩnh các đỉnh cao trên vũ đài cầu lông quốc tế.
Những năm 50 của thế kỷ 20, môn cầu lông của châu Á phát triển rất nhanh.
Đầu tiên là ở Malaixia, nơi đã xuất hiện không ít các tuyển thủ ƣu tú giành chức vô
địch Cúp Thomas tổ chức năm 1951 và năm 1955. Đồng thời trong giải vô địch
toàn Anh, họ lại một lần nữa giành chức vô địch đánh đôi và đánh đơn.
Cuối những năm 50 của thế kỷ này, trên vũ đài cầu lông quốc tế, đội cầu
lông của Inđônêsia bắt đầu trỗi dậy. Trên cơ sở học kỹ thuật, cách đánh của các
tuyển thủ châu Âu, các tuyển thủ Inđônêsia đã có nhiều sáng tạo, tăng nhanh tốc độ
thi đấu và khống chế điểm rơi, làm cho trình độ kỹ thuật cầu lông nâng cao lên một
150
mức mới. Trong Cup Thomas lần thứ 4, Inđônêsia đã đánh bại đội Malaixia một
cách dễ dàng và giành chức vô địch.
Trong những năm 60 và 70 của thế kỷ 20, trình độ kỹ thuật của đội
Inđônêsia trên vũ đài cầu lông quốc tế (ngoại trừ Trung Quốc) đã ở vị trí dẫn đầu
khá xa. Từ Cup Thomas lần thứ 4 đến thứ 11, trừ lần thứ 7 đội Malaixia dành chức
vô địch, còn lại đều thuộc về đội Inđônêsia. Đồng thời Inđônêsia hầu nhƣ chiếm
hết các chức vô địch đánh đơn và đánh đôi nam của các giải vô địch cầu lông toàn
Anh.
Về các vận động viên nữ mà nói thì từ giữa những năm 50 đến đầu những
năm 60, Mỹ chiếm vị trí ƣu thế trên thế giới. Liên tục ở 3 cúp Uber, vận động viên
nữ cầu lông Mỹ đều giành chức vô địch đồng đội nữ. Nhƣng từ những năm 60 đến
những năm 70, ƣu thế trên vũ đài cầu lông nữ thế giới lại thuộc về đội nữ Nhật
Bản.
Tháng 5 năm 1981, Liên đoàn Cầu lông Quốc tế khôi phục lại địa vị hợp
pháp của Trung Quốc ở Liên đoàn Cầu lông Quốc tế. Từ đó mở ra 1 trang mới cho
lịch sử cầu lông quốc tế với sự đăng quang huy hoàng của các tuyển thủ cầu lông
Trung Quốc.
Năm 1988, trong Đại hội
Olympic Sêun, môn cầu lông
đƣợc đƣa vào chƣơng trình biểu
diễn tại Đại hội.
Năm 1992, ở Đại hội
Olympic Bácxêlôna, cầu lông
chính thức đƣợc đƣa vào nội dung
thi đấu. Từ đó, môn cầu lông đã
bƣớc vào một thời kỳ phát triển
mới.
3. Sự phát triển của môn
Cầu lông ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ năm 1960,
môn cầu lông bắt đầu xuất hiện ở
vài câu lạc bộ và thành phố lớn
151
nhƣ Hà Nội, Sài Gòn; đến năm 1975 thì lan ra các tỉnh thành: Hải
Phòng, Huế, Cần Thơ, An Giang, Hà Bắc…đến năm 1980, phong trào cầu lông
cũng mới bắt đầu vào các ngành.
Năm 1980, giải cầu lông vô địch toàn quốc lần đầu tiên đƣợc tổ chức tại thủ
đô Hà Nội.
Năm 1990, Liên đoàn Cầu lông Việt Nam đƣợc thành lập.
Năm 1994, Liên đoàn Cầu lông Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của Liên đoàn Cầu lông Thế giới.
Đến nay, nhờ có sự định hƣớng và lãnh đạo, phong trào cầu lông đã và đang
đƣợc phát triển mạnh, lan ra khắp đất nƣớc cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và đã đi
vào các lứa tuổi của mọi miền.
III. MỘT SỐ YẾU TỐ KỸ THUẬT ĐÁNH CẦU
1. Quy luật bay trong không gian của cầu
Cầu lông có những kỹ thuật cơ bản mà ngƣời chơi phải thuần thục. Để nắm
đƣợc kỹ thuật đầu tiên phải nắm đƣợc quy luật bay của cầu trong không gian, để
xác định động tác tiếp xúc giữa vợt với cầu và đƣa quả cầu đi theo quỹ đạo đƣợc
chính xác, không phạm lỗi kỹ thuật, đạt đƣợc ý đồ chiến thuật và hiệu quả cao
trong thi đấu.
Cầu bay trong không gian luôn theo một quy luật – phần núm cầu đi trƣớc
và cánh cầu đi sau. Cách tiếp xúc vợt theo hƣớng cầu đến để đƣa cầu đi theo góc
độ nhƣ sau:
+ Cầu bay hƣớng chếch,không vuông góc với mặt sân, thì góc độ vợt tiếp
xúc với cầu từ 130 – 140 độ, tùy theo ý đồ đánh cầu xa hay gần mà thực hiện góc
mở của cánh tay và mặt vợt cho thích hợp.
+ Khi cầu từ độ cao rơi theo hƣớng tự do, có xu hƣớng vuông góc với mặt
sân, thì góc độ mặt vợt và tay tiếp xúc với cầu ở góc độ từ 135 – 175 độ. Tùy theo
ý đồ đánh cầu đi xa hay gần mà sử dụng góc độ thích hợp.
+ Trƣờng hợp cầu bay ngang , gần song song với mặt sân, thì góc độ tiếp
xúc mặt vợt với cầu từ 85 – 95 độ. Tùy theo ý đồ đánh trả theo đƣờng thẳng ha
chéo mà mở góc độ cánh tay và xoay thân ngƣời cho phù hợp.
152
+ Trong thực tế, có nhiều đƣờng cầu, nhiều tình huống khác nhau, đòi hỏi
ngƣời chơi phải phán đoán đúng xử lí nhanh và có giải pháp thích hợp với thực tế
trên sân.
1.1. Các yếu tố đánh cầu
Nắm vững các yếu tố cơ bản của môn cầu lông nhƣ sức mạnh, tốc độ, điểm
rơi có thể giúp cho việc thực hiện đỡ và đánh cầu tốt hơn. Muốn đánh cầu tốt, phải
nắm vững và ứng dụng tốt cũng nhƣ kết hợp hài hòa cả 3 yếu tố cơ bản trên. Ba
yếu tố cơ bản này có tính độc lập với nhau song lại có mối liên hệ hữu cơ với nhau
luôn thể hiện trong nhiều kỹ thuật cơ bản của cầu lông. Nắm vững 3 yếu tố, biết sử
dụng hợp lí trong phối hợp 3 yếu tố sẽ đảm bảo đƣợc hiệu suất đánh cầu và đạt kết
quả cao trong thi đấu. Trong quá trình tập luyện kĩ thuật phải luôn chú ý rèn luyện
cả 3 yếu tố hợp lí thì trong thi đấu mới vận dụng luôn linh hoạt và đạt kết quả cao.
Sức mạnh
Sức mạnh là yếu tố quan trọng nhất trong tập luyện và thi đấu cầu lông.Sức
mạnh cho đƣờng cầu đi nhanh, dứt điểm làm cho đối phƣơng bị động, khó khăn.
Trong cầu lông, sức mạnh thƣờng đƣợc thể hiện bằng quả đập cầu, đánh từ trên
cao, đặc biệt đƣợc sử dụng di chuyển để bật nhảy đánh cầu từ trên cao cắm xuống
sân.
Sức mạnh đƣợc tính theo công thức F = ma ( m là khối lƣợng của quả cầu; a
là gia tốc chuyển động ) muốn tăng cƣờng sức mạnh phải tăng khối lƣợng hoặc
tăng gia tốc chuyển động của quả cầu. Tăng khối lƣợng quả cầu ( luật không cho
phép ) vì vậy chỉ còn cách tăng gia tốc cho cầu để tạo tốc độ tối đa.
Tốc độ
Việc tăng khối lƣợng cầu – luật không cho phép. Vì vậy chỉ còn có thể tăng
gia tốc. Việc tăng gia tốc phụ thuộc vào 2 yếu tố, đó là sự phối hợp lực toàn thân
và gia tốc khi đánh cầu – tạo biên độ lớn dồn lực đánh cầu với thời gian ngắn nhất.
Theo công thức e + 1/2mv-2
. Để thực hiện sự dồn lực, tạo gia tốc lớn phải di
chuyển chân đến điểm đánh cầu thích hợp nhất, để phát huy đƣợc các yếu tố trên.
Vì vậy phải tăng cƣờng luyện tập phát triển cơ bắp và biên độ hoạt động của các
khớp đặc biệt là bả vai và cổ tay.
153
Yếu tố đánh cầu theo công thức : v = s/t cho nên muốn xác định tốc độ chỉ
có 2 cách:
- Trong thời gian nhất định, vật thể chuyển động về trƣớc có cự li dài thì tốc
độ nhanh.
- Trong cự li nhất định, vật chuyển động về trƣớc có thời gian ngắn nhất thì
tốc độ nhanh. Dựa vào các nguyên lí trên, kết hợp với đặc điểm môn cầu lông,
muốn gia tăng tốc độ đánh cầu cần phải:
+ Rút ngắn thời gian đánh cầu bằng cách rút ngắn cự li đánh cầu. Tranh thủ
đánh cầu ở gần lƣới hoặc sử dụng các động tác bật nhảy đánh cầu trên.
+ Trong cự li đánh cầu nhất định phải tăng nhanh tốc độ động tác: tăng
nhanh tốc độ co duỗi cơ, sử dụng lực cổ tay, hạn chế biên độ cánh tay khi thực hiện
động tác.
Điểm rơi
Điểm rơi của cầu trên sân phụ thuộc vào điểm tiếp xúc giữa cầu với mặt vợt
trong khi đánh. Sử dụng tốt yếu tố điểm rơi sẽ luôn tạo cho đối phƣơng những tình
huống bất ngờ, bị động phải di chuyển đỡ cầu ở phạm vi sân mình. Sử dụng tốt
điểm rơi sẽ đảm bảo hiệu quả trong thi đấu, tạo điều kiện để thực hiện chiến thuật
đƣợc linh hoạt, đánh những đƣờng cầu dài, ngắn, thẳng hoặc chéo với tốc độ cao
… Muốn sử dụng tốt điểm rơi cần chú ý :
- Thực hiện biến hóa và đƣờng cầu dài, ngắn, thẳng hoặc chéo nhất là đánh
vào 2 góc gần lƣới và 2 góc chéo sân.
- Đánh cầu vào vị trí xa đối phƣơng đang chuẩn bị phòng thủ. Muốn thực
điện đƣợc điểm này, trƣớc khi đánh cầu phải luôn quan sát đối phƣơng đứng rồi
đánh cầu tới vị trí buộc đối phƣơng phải di chuyển để đỡ cầu.
IV. KỸ THUẬT CƠ BẢN CỦA CẦU LÔNG
1. Tƣ thế chuẩn bị trên sân
Tƣ thế chuẩn bị khi đánh cầu gồm 3 tƣ thế: cao, trung bình, thấp. Tƣ thế
đứng có sự giống nhau cơ bản là 2 chân có thể đứng chân trƣớc, chân sau, khoảng
cách giữa 2 chân rộng bằng vai hoặc có thể đứng 2 chân ngang nhau mở rộng bằng
vai. Tƣ thế đứng chân trƣớc chân sau đƣợc sử dụng nhiều trong thực tế. Các tƣ thế
chỉ có thể khác nhau ở khuỵu gối, góc gập chân, trọng tâm cơ thể cao thấp và góc
độ tay cầm vợt
154
Trong thi đấu cầu lông tƣ thế chuẩn bị đứng đỡ cầu giữ vai trò quan trọng, vì
tất cả các chuyển động sau đó có nhanh và chính xác hay không đều phụ thuộc vào
tƣ thế chuẩn bị. Di chuyển nhanh hay chậm, động tác đánh cầu mạnh, chính xác
hay không đều liên quan đến tƣ thế chuẩn bị.
Nếu lấy tƣ thế trung bình là trung tâm để phân tích ( vì tƣ thế trung bình
chuyển thành tƣ thế cao hay thấp đều thuận tiện ). Có thể đứng hai chân song song,
trọng tâm ở giữa 2 chân, hoặc chân trƣớc, chân sau trọng tâm dồn và chân trƣớc,
khoảng cách 2 chân mở rộng bằng vai,lƣng cong, thân trên ngả về trƣớc tự nhiên,
đầu ngẩng, mắt theo dõi đƣờng cầu của đối phƣơng. Tay thuận cầm vơi ở phía
trƣớc thân ngƣời, mặt vợt ngang tầm trán, các khớp chân tay thả lỏng tự nhiên và
sẵn sàng di chuyển đón đỡ đánh cầu.
2. Cách cầm cầu và vợt
2.1 Cầm cầu
Động tác cầm cầu đúng sẽ giúp bạn thực hiện kĩ thuật phát cầu đƣợc tốt,
theo ý muốn, không mắc lỗi. Có 3 kiểu cầm cầu: Cầm cầu bằng 2 ngón tay trỏ và
cái; cầm vòng tròn đƣờng cách cầu bằng ngón trỏ và ngón cái; cầm núm cầu bằng
ngón trỏ và cái.
2.2 Cầm vợt
Cầm vợt cũng đòi hỏi phải chính xác và theo từng ngƣời . Có 2 cách cầm vợt
- Cầm để mặt vợt dọc theo cánh tay , vợt và tay trên một đƣờng thẳng. Bàn
tay nắm cán vợt, 4 ngón tay 1 bên và nón cái 1 bên. Các ngón tay để thoải mái ,
nắm vừa phải, không nắm chặt quá, khi tiếp xúc cầu mới nắm chặt để truyền lực
đƣợc tốt khi đánh cầu đi.
Hình 17. Cách cầm vợt thuận tay
Hình 1:
Cách cầm vợt thuận tay
Hình 1:
Cách cầm vợt thuận tay
155
- Cách cầm mặt vợt hƣớng thẳng theo bàn tay. Bàn tay nắm cán vợt với ngón
cái một bên, 4 ngón một bên, nắm vừa phải để xoay vợt khi tiếp xúc, điều khiển
theo ý muốn. Cách cầm vợt do đặc tính của từng ngƣời nhƣng phải thoải mái, để
vận động đƣợc linh hoạt, đánh cầu đƣợc chuẩn xác đúng theo ý muốn. Cách cầm
vợt thứ nhất đƣợc nhiều ngƣời áp dụng vì có nhiều thuận lợi, khi xoay mặt vợt để
đỡ,đánh cầu.
2.2.1 Kỹ thuật di chuyển
Di chuyển trong tập luyện và thi đấu cầu lông là một kỹ thuật quan trọng
và là kỹ thuật cơ bản cần đƣợc huấn luyện trƣớc tiên. Muốn đánh đƣợc cầu và đánh
đúng kỹ thuật hoặc phối hợp hiệu quả trong thi đấu cần phải tập luyện đến mức tự
động hóa các kỹ thuật di chuyển theo hƣớng trong cầu lông. Để đạt đƣợc thành tích
thi đấu cao cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các động tác kỹ thuật với
nhau. Chỉ riêng động tác tay nhanh, mạnh cũng chƣa đủ mà cần phải biết kết hợp
hài hòa các bƣớc chuyển của chân với mỗi kỹ thuật của tay trong từng vị trí, điểm
rơi của cầu, từng thời điểm một cách hợp lí, thông minh và sáng tạo mới dành
đƣợc thắng lợi trong trận đấu. Trong cầu lông kỹ thuật di chuyển đƣợc chia làm 3
loại:
Di chuyển đơn bƣớc : Là sự di chuyển thay đổi v trí một chân, còn chân kia
vẫn giữ nguyên. Kỹ thuật này đƣợc sử dụng nhiều trong các trƣờng hợp cầu đối
phƣơng đánh sang ở gần ngƣời. Kỹ thuật di chuyển này thƣờng đƣợc áp dụng đối
với các kỹ thuật phòng thủ trong cầu lông.
- Tƣ thế chuẩn bị của kỹ thuật di chuyển bƣớc đơn là 2 chân đứng song song
hoặc trƣớc sau rộng bằng vai, gối khuỵu, trọng tâm dồn vào giữa hai chân, ngƣời
Hình 18. Cầm vợt trái tay
156
hơi ngả về trƣớc, mắt theo dõi cầu, hai tay co để trƣớc ngực. Tƣ thế này có các
bƣớc di chuyển sau:
+ Nếu đối phƣơng đánh cấu sang bên phải, phía trƣợc dùng chân trái làm trụ,
chân phải bƣớc chếch lên trƣớc sang phải một bƣớc dài , ngắn tùy theo điểm cầu
rơi, góc bƣớc khoảng 450. Chân phải khuỵu gối, trọng tâm dồn nhiều vào chân
phải, ngƣời hơi cúi gập về trƣớc ở tƣ thế đánh cầu phải.
+ Nếu đối phƣơng đánh cầu sang bên trái phía trƣớc, vẫn dùng gót chân trái
làm trụ, mũi chân xoay sang trái tạo với hƣớng đánh càu khoảng 850
– 900. Chân
phải bƣớc lên trƣớc vòng sang trái 1 bƣớc dài, ngắn tùy theo điểm cầu rơi. Bàn
chân phải tạo với hƣớng đánh cầu 1 góc từ 1300 – 135
0. Gót chân nằm trên đƣờng
gần song song với hƣớng đánh cầu đƣợc kéo dài từ mũi bàn chân trái.
+ Đối phƣơng đánh cầu sang đi sát ngƣời hoặc phía sau bên phải thì vẫn
dùng gót chân trái làm trụ xoay bàn chân phảu tạo với hƣớng đánh một góc 130o –
135o. Chân phải bƣớc lùi về phía sau 1 bƣớc dài từ 50 – 80 cm sao cho mũi bàn
chân phải và gót bàn chân trái nằm trên đƣờng thẳng song song với hƣớng đánh
cầu. Bàn chân phải tạo với hƣớng đánh 1 góc 45o, trọng tâm dồn vào chân phải,
toàn thân tạo thành tƣ thế đánh cầu phải.
+ Đối phƣơng đánh cầu sang đi sát ngƣời hoặc phía sau bên trái thì dùng gót
chân phải làm trụ, xoay bàn chân trái tạo với hƣớng đánh 1 góc từ 130-135o. Chân
trái bƣớc lùi về sau 1 bƣớc dài từ 50-80cm sao cho mũi bàn chân trái và gót bàn
chân phải nằm trên đƣờng thẳng song song với hƣớng đánh cầu. Bàn chân trái tạo
với hƣớng đánh 1 góc 45o, trọng tâm dồn vào chân trái, toàn thân tạo thành tƣ thế
đánh cầu trái.
+ Di chuyển bƣớc đơn chỉ cho phép cầu thủ đánh cầu với những quả cầu rơi
quanh ngƣời trong phạm vi bán kính từ 1 – 1,5m. Còn những quả cầu đánh cách xa
ngƣời thì phải sử dụng di chuyển nhiều bƣớc để thực hiện đƣợc động tác đánh cầu
hợp lí.
- Di chuyển đa bƣớc : Là sự di chuyển có sự thay đổi vị trí của 2 chân,
thƣờng từ 2 bƣớc trở lên. Kỹ thuật này thƣờng đƣợc sử dụng thƣờng xuyên và có
ảnh hƣởng trực tiếp đến kỹ thuật các động tác tay, cũng nhƣ việc thực hiện chiến
thuật. Đây là một kỹ thuật rất đa dạng phong phú, là động tác để phối hợp với các
kỹ thuật tấn công và phòng thủ cơ bản trong tập luyện và thi đấu cầu lông.
157
Tƣ thế chuẩn bị trong kỹ thuật di chuyển nhiều bƣớc cũng nhƣ ở di chuyển
đơn bƣớc , dùng sức đạp của chân và trọng tâm đổ về hƣớng di chuyển, hai chân
bƣớc luân phien đến điểm rơi của cầu. Tần số nhanh chậm, bƣớc dài, ngắn phụ
thuộc vào điểm rơi và tốc độ cầu đối phƣơng đánh sang. Bƣớc cuối cùng ở vị trí
đánh cầu đúng nhƣ các bƣớc đơn đã phân tích ở trên.
Di chuyển bƣớc nhảy gồm:
- Nhảy về trƣớc : Là kỹ thuật di chuyển quan trọng trong phòng thủ, đƣợc áp
dụng nhiều để đỡ những quả cầu bỏ sát lƣới hay bỏ dọc 2 biên. Di chuyển bƣớc
nhảy rất hiệu quả vì nhanh và hợp lí với những quả cầu rơi xa ngƣời mà di chuyển
bƣớc đơn không thể tới đƣợc.
Tƣ thế chuẩn bị cơ bản , dùng sức mạnh bột phát của đôi chân bật mạnh
đƣa cơ thể lên cao về trƣớc theo hƣớng di chuyển. Chân phải (chân thuận), tay cầm
vợt nhanh chóng vƣơn dài về phía trƣớc, chân trái vẫn ở phía sau, thân ngƣời có
giai đoạn bay trên không về hƣớng di chuyển. Khi chạm đất mũi bàn chân xoay
sang trái để hoãn xung, gối khuỵu, trọng tâm dồn vào chân trƣớc. Ngƣời và tay cầm
vợt vƣơn dài về trƣớc tới điểm cầu rơi và thực hiện động tác đánh cầu. Sau khi
đánh xong, nhanh chóng đạp mạnh chân bƣớc theo hƣớng ngƣợc lại về tƣ thế c
- Nhảy có bƣớc đệm: Cũng giống nhƣ kỹ thuật nhảy về trƣớc , nhƣng khác
là có giai đoạn bật và bay. Đầu tiên là chân dùng sức bột phát bật lên cao đƣa cơ
thể bay trên không về hƣớng di chuyển, nhanh chóng dùng 1 chân tiếp xúc với mặt
đất ( thƣờng là chân ngƣợc với tay cầm vợt) rồi nhanh chóng bật tiếp lần nữa đƣa
cơ thể bay nhanh hơn về hƣớng di chuyển, chân thuận vƣơn dài về trƣớc và tiếp
đất nhƣ di chuyển nhảy về trƣớc để đánh cầu.
- Nhảy lên cao đánh cầu: Là kỹ thuật thƣờng xuyên đƣợc áp dụng phối hợp
trong các kỹ thuật tấn công. Kỹ thuật nhảy đánh cầu để chiếm lĩnh điểm cao của
đƣờng cầu bay, đánh cầu sớm , nhanh và điểm điểm đập cầu cao để đƣờng cầu cắm
hơn.
Kỹ thuật nhảy đập, từ tƣ thế chuẩn bị chân trƣớc, chân sau, trọng tâm dồn
vào chân trƣớc, gối khuỵu, lƣng hơi gập về trƣớc, đầu ngẩng, tay thuận cần vợt giơ
cao, mặt vợt ngang trán, khi thực hiện động tác bật nhảy đánh cầu thì nhanh chóng
chuyển trọng tâm từ chân trƣớc ra chân sau, chân trái dời mặt đất trƣớc, đồng thời
chân phải bật mạnh đến điểm cao nhất thì thực hiện động tác đánh cầu. Khi rơi
158
xuống chân chạm đất là chân ngƣợc với tay cầm vợt, sau đó chân kia hạ xuống tiếp
và nhanh chóng về tƣ thế ban đầu.
1. Kĩ thuật phát cầu
Phát cầu là điểm xuất phát của mọi lần đánh mở đầu. Chỉ đƣợc phát cầu
đúng ô, khu vực quy định của sân đối phƣơng, quan trọng là phát nhƣ thế nào để
thực hiện đƣợc ý đồ chiến thuật. Phát cầu là mở đầu sự tấn công vì vậy phải nắm
vững kĩ thuật phát cầu. Quá trình phát cầu cần lƣu ý hƣớng bay của cầu luôn luôn
phụ thuộc vào độ nghiêng của vợt khi tiếp xúc với cầu. Bởi vậy, khi phát cầu cần
đạt góc độ hợp lí, hƣớng đƣờng cầu khi phát bay theo ý đồ chiến thuật của mình.
3.1 Kỹ thuật phát cầu cơ bản gồm
+ Kỹ thuật phát cầu thuận tay thƣờng đƣợc sử dụng trong thi đấu đơn với
đƣờng cầu phát dài, ngắn.
Hình 19. Phát cầu thuận tay cao sâu
159
Tƣ thế chuẩn bị : chân trái trƣớc , chân phải sau, 2 chân cách nhau khoảng 1
bàn chân. Bàn chân trƣớc thẳng với hƣớng phát cầu, bàn chân sau xoay mở 1 góc
90o so với hƣớng phát. Trọng tâm dồn vào chân sau,vai trái hƣớng chếch về phía
phát cầu,tay trái cầm cầu giơ cao ngang ngực, tay phải cầm vợt ở phía sau hơi cao
hơn vai.
Động tác phát cầu : tay trái thả cầu, hoặc tung cầu, tay phải nhanh chóng đƣa
vợt từ trên xuống dƣới ra trƣớc, tiếp xúc cầu, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân sau
lên chân trƣớc. Điểm tiếp xúc cầu và vợt chếch trƣớc bên phải, cách thân ngƣời từ
60 – 70 cm, nhƣng không đƣợc cao quá thắt lƣng. Góc độ mặt vợt khi tiếp xúc
đƣợc mở tùy ý theo ý đồ chiến thuật phát cầu. Phát cầu xong nhanh chóng về tƣ thế
chuẩn bị đỡ cầu đối phƣơng đánh trả.
+ Kỹ thuật phát cầu trái tay, thƣờng đƣợc sử dụng trong thi đấu đôi với
đƣờng cầu thấp gần, khống chế sự tấn công của đối phƣơng (Hình 20).
160
Tƣ thế chuẩn bị : chân phải đứng trƣớc, chân trái đứng sau, hai chân cách nhau
khoảng 1 bàn chân, trọng tâm cao dồn vào chân trƣớc, thân ngƣời xoay thẳng
hƣớng phát cầu. Tay trái cầm cầu, tay phải cầm vợt đặt hơi trúc ở phía dƣới, mặt
vợt bên trái phía sau quả cầu. Cẳng tay và cánh tay tạo 1 góc khoảng 90o, khuỷu tay
đƣa ra trƣớc ngực.
Động tác phát cầu : Tay trái thả cầu, tay phải kéo vợt từ trái qua phải ra
trƣớc. Điểm phát cầu ở phía trƣớc thân ngƣời cách khoảng 40 cm, ngang thắt lƣng,
dùng lực cổ tay , mở gốc độ vợt, tùy theo ý đồ chiến thuật điều khiển cầu đi đúng
hƣớng. Phát cầu xong nhanh chóng trở về tƣ thế chuẩn bị đỡ cầu đối phƣơng đánh
trả.
4. Kỹ thuật phòng thủ
Trong thi đấu cầu lông phƣơng châm lấy tấn công làm chính song phòng thủ lại
là khâu quan trọng không thể thiếu đƣợc. Phòng thủ tốt tích cực sẽ tạo điều kiện để
chuyển sang tấn công hoặc phản công lại đối phƣơng, đặc biệt những trƣờng hợp
phòng thủ chủ động là cơ hội giành điểm hoặc giành cơ hội phát cầu. Kỹ thuật
phòng thủ cơ bản của cầu lông gồm 2 loại chính là :
+ Kỹ thuật đỡ - đánh cầu thấp tay bên phải : Là kỹ thuật phòng thủ chủ yếu của
cầu lông, đƣợc sử dụng khi đối thủ đánh cầu sang bên phải sân mình, đƣờng bay
của cầu thấp.
Tƣ thế chuẩn bị của kỹ thuật phòng thủ giống nhƣ tƣ thế chuẩn bị cơ bản. Khi
đối phƣơng đánh cầu sang bên phải, lấy chân trái làm trụ, chân phải bƣớc một bƣớc
về hƣớng cầu đến, dộ dài bƣớc tùy thuộc vào điểm rơi của cầu. Đồng thời với bƣớc
chân tay phải đƣa vợt từ trƣớc sang phải, ra sau lên trên. Khi chân đã cố định,
nhanh chóng đƣa vợt từ trên xuống dƣới, ra trƣớc đón đỡ, đánh cầu. Điểm tiếp xúc
vợt vào cầu ở trƣớc mũi chân phải ngang tầm với gối. Sử dụng lực của toàn thân (
trọng tâm di chuyển từ sau tra trƣớc ) để đánh cầu trong đó đặc biệt quan trọng là
sử dụng lực của cổ tay để tăng lực đồng thời điều khiển cầu theo ý muốn. Sau khi
tiếp xúc đánh cầu của đối phƣơng đánh trả.
+ Kỹ thuật đỡ - đánh cầu thấp tay bên trái: Là kỹ thuật phòng thủ khi đối
phƣơng đánh sang trái đƣờng cầu thấp dƣới thắt lƣng. Động tác này thƣờng đƣợc
sử dụng đánh trả lại sân đối phƣơng bằng những đƣờng cầu ngắn.
Hình 20. Phát cầu trái tay
161
Tƣ thế chuẩn bị cơ bản, chân trái làm trụ chân phải bƣớc lên trƣớc vòng sang
trái một bƣớc, độ dài bƣớc tùy thuộc vào điểm rơi của cầu. Đồng thời với động tác
xoay thân sang trái, tay phải đƣa vợt từ trƣớc sang trái ra sau và cẳng tay khoảng
100 – 110o, giữa cẳng tay với vợt khoảng 135o. Trọng tâm dồn vào chân sau. Khi
đánh cầu : Cầu gần đến điểm tiếp xúc thì vợt nhanh chóng đƣa từ sau xuống dƣới ra
trƣớc. Điểm tiếp xúc cầu thẳng mũi bàn chân trƣớc và ngang tầm đầu gối.
Khi tiếp xúc cầu phải sử dụng linh hoạt cổ tay bằng gập ngƣời để tăng lực và
điều chỉnh hƣớng đi của cầu. Tiếp xúc đánh cầu xong cần dừng cổ tay và nhanh
chóng về tƣ thế chuẩn bị cơ bản để tiếp tục đón đánh cầu của đối phƣơng đánh trả
5. Kỹ thuật đánh cầu
+ Kỹ thuật đập cầu: 1 trong các kỹ thuật tấn công của cầu lông đƣợc coi là quan
trọng nhất đó là kỹ thuật đập cầu. Sử dụng kỹ thuật đập cầu có thể thắng điểm trực
tiếp hoặc tạo cơ hội để thắng điểm ở quả đánh sau.
162
Tƣ thế chuẩn bị: Chân trái đứng trƣớc, chân phải đứng sau,trọng tâm dồn vào
chân trƣớc, lƣng hơi cong, mắt theo dõi cầu, tay cầm vợt ở phía trƣớc, mặt vợt cao
ngang trán, góc giữa cẳng tay và cánh tay khoảng 90o.
Khi đối phƣơng đánh cầu sang cao trên đầu, thân trên nhanh chóng quay sang
phải, trọng tâm chuyển từ chân trƣớc về chân sau. Tay phải cầm vợt đƣa từ trƣớc
lên cao, ra sau, đầu vợt chúc xuống, vai trái hơi cao hƣớng về hƣớng đánh cầu, vai
phải hạ thấp ở phía sau nhanh chóng đập mạnh mũi chân phải, kiễng gót duỗi thẳng
khớp gối, xoay hông, lật vai. Tay phải đƣa vợt từ dƣới lên trên, cơ thể vƣơn cao hết
sức, điểm tiếp xúc ở trƣớc trán khaorng cách bằng chiều dài của tay cộng với vợt.
Quá trình thực hiện động tác trọng tâm lại di chuyển từ chân sau về trƣớc đồng thời
gập nhanh thân ngƣời để phối hợp lúc đập cầu. Chú ý sử dụng động tác gập cổ tay
khi tiếp xúc cầu để cầu đi cắm hơn. Tiếp xúc đánh cầu xong cần nhanh chóng về tƣ
thế chuẩn bị cơ bản để tiếp tục đón đánh cầu của đối phƣơng đánh trả. Phối hợp kỹ
thuật đập cầu với kỹ thuật nhảy lên cao tròn động tác nhảy đập cầu ở điểm cao nhất
mà cơ thể có thể vƣơn tới.
+ Kỹ thuật đánh cầu trên đầu ( đánh cao sâu ) : Là kĩ thuật tấn công thƣờng
đƣợc sử dụng khi đối phƣơng đánh cầu cao xa xuống cuối sân, không kịp lùi đập
cầu thì dùng kỹ thuật này để đánh trả.
Toàn bộ động tác kỹ thuật giống nhƣ kỹ thuật đập cầu, điểm khác nhau là vị trí
tiếp xúc vợt và cầu của kỹ thuật đánh trên đầu ở phía sau, ngay trên đỉnh đầu thẳng
lên hoặc hơi ở phía sau đầu . Khi tiếp xúc cầu, mặt vợt ngửa. Kết thúc động tác, vợt
không theo quán tính mà dừng cánh tay và cổ tay rồi lại về trí chuẩn bị cơ bản
V. CHIẾN THUẬT MÔN CẦU LÔNG
1. Ý nghĩa chiến thuật của môn cầu lông
Chiến thuật của môn cầu lông là cơ mƣu (ý thức) và hành động của VĐV
cầu lông đƣợc sử dụng để thể hiện trình độ thi đấu cao nhất nhằm giành chiến
thắng đối phƣơng trong mỗi cuộc thi.
Trong thi đấu cầu lông, hai bên đấu thủ đều muốn khống chế lẫn nhau để
giành quyền chủ động, lấy điểm mạnh của mình để trị lại điểm yếu của đối
phƣơng; hạn chế tối đa điểm mạnh của đối phƣơng, dấu đi những điểm yếu của
mình, sự cạnh tranh giữa khống chế và phản khống chế là hết sức gay gắt. Mỗi bên
Hình 21. Kỹ thuật đập cầu
163
đều có thể dựa vào đặc điểm khác nhau của đối thủ mà sử dụng các biện pháp kỹ
thuật ứng biến để đánh là thắng. Đó là ý nghĩa của chiến thuật.
2. Yêu cầu chiến thuật của môn cầu lông.
Để đạt đƣợc mục đích đề ra nhất thiết khi vận dụng chiến thuật phải tuân thủ
các yêu cầu sau:
2.1.1 Điều chuyển vị trí của đối phƣơng:
Đối phƣơng thƣờng đứng ở vị trí trung tâm của sân để quán xuyến tất cả các
điểm của sân và sẵn sàng đánh trả lại tất cả các loại đƣờng cầu khi chúng ta
đánh đến. Nếu nhƣ chúng ta có thể điều chuyển đƣợc vị trí của họ, buộc họ phải rời
khỏi vị trí trung tâm thì sân của họ sẽ xuất hiện chỗ trống và chính chỗ trống này sẽ
trở thành mục tiêu để tấn công.
2.1.2 Buộc đối phƣơng phải đánh trả bằng đƣờng cầu cao ở sân sau và giữa
sân. Thực hiện kỹ thuật đánh cầu cao, chém đập, chém treo hoặc vê cầu sát
lƣới… tạo thành khó khăn cho việc đánh trả của đối phƣơng, buộc đối phƣơng phải
đánh trả sang bằng đƣờng cầu cao, đƣờng cầu không thể đánh đến đƣờng biên
ngang sân của mình. Nhƣ vậy, sẽ có thể tạo điều kiện tốt nhất để tăng thêm sức
mạnh uy hiếp của lần đập vụt mạnh và đập tạt cầu sát lƣới tiếp sau đó của mình,
giáng cho đối phƣơng những đòn chí mạng.
2.1.3 Làm cho đối phƣơng mất đi sự khống chế trọng tâm:
Lợi dụng các đƣờng cầu lặp lại hoặc sử dụng động tác giả làm rối loạn bƣớc
di chuyển của đối phƣơng, làm cho đối phƣơng mất đi sự ổn định của trọng tâm,
không thể di chuyển đến kịp vị trí thuận lợi để đánh trả hoặc làm chậm thời gian
đánh cầu dẫn tới chất lƣợng cầu đánh trả sẽ kém, từ đó tạo thành thế bị động cho
đối phƣơng.
2.1.4 Tiêu hao thể lực của đối phƣơng:
Điều khiển điểm rơi chuẩn xác của cầu, lợi dụng tối đa diện tích của toàn bộ
mặt sân, đƣa cầu đánh đến 4 góc của sân đối phƣơng hoặc những chỗ xa với vị trí
đứng của đối phƣơng, làm cho đối phƣơng mỗi lần di chuyển đánh trả cầu phải tiêu
hao thể lực lớn. Khi giành giật sự đƣợc mất của một quả cầu, cũng nên sử dụng
phối hợp nhiều loại hình kỹ thuật nhƣ đánh mạnh, đánh nhẹ, đánh chuẩn để điều
chuyển đối phƣơng, buộc đối phƣơng phải chạy chỗ nhiều, đến khi cảm thấy thể
lực đối phƣơng không trụ nổi mới giáng đòn quyết định.
164
2.2 Tƣ tƣởng chỉ đạo chiến thuật của môn cầu lông.
Với phƣơng châm: “lấy mình làm chính”, “lấy nhanh làm chính”, “lấy công
làm chính” là tƣ tƣởng chỉ đạo chiến thuật của môn cầu lông.
2.2.1 “Lấy mình làm chính”
Phải căn cứ vào trình độ kỹ thuật, thể hình, tố chất thể lực, phẩm chất tâm lý
và đặc điểm cách đánh của mình… để lựa chọn chiến thuật cho phù hợp.
2.2.2 “Lấy nhanh làm chính”
Tức là về mặt biến hóa và chuyển đổi chiến thuật, cần thể hiện đặc điểm
“nhanh”. Ví dụ: sau khi phát hiện thấy đối phƣơng có ƣu nhƣợc điểm gì về
mặt kỹthuật, chiến thuật, phải nhanh chóng và mạnh dạn thay đổi chiến thuật và
cần kịp thời từ công chuyển sang thủ, từ thủ chuyển sang công hoặc từ quá độ
chuyển sang tấn công, từ tấn công chuyển sang quá độ, tốc độ chuyển đổi phải
nhanh, phải nắm chắc thời cơ có lợi để nhanh chóng chuyển đổi.
2.2.3 “Lấy công làm chính”
Tức là khi xây dựng ý đồ chiến thuật cần nhấn mạnh tƣ tƣởng chủ đạo là tấn
công, khi phòng thủ cũng cần nhấn mạnh phòng thủ tích cực, tìm cơ hội tấn
công. 2.3 Chiến thuật đánh đơn.
Chiến thuật đánh đơn trong cầu lông tƣơng đối đa dạng, tuy vậy căn cứ vào
đặc điểm, tính chất có thể đƣa ra 6 loại hình chiến thuật đánh cầu cơ bản sau là:
2.3.1 Chiến thuật phát cầu cƣớp tấn công:
Phát cầu không chịu sự cản trở của đối phƣơng, do đó, ngƣời phát cầu có thể
dựa vào luật thi đấu, tùy ý theo thói quen có thể vận dụng bất cứ phƣơng thức nào
để phát cầu sang bất cứ một điểm nào trên sân đỡ cầu của đối phƣơng. Ngƣời giỏi
về lợi dụng kỹ thuật phát cầu biến hóa là ngƣời có thể trƣớc hết phát cầu để khống
chế đối phƣơng giành quyền chủ động, dùng phát cầu lao nhanh phối hợp với phát
cầu gần lƣới, tranh thủ tạo ra cơ hội chủ động tấn công ở lần đánh sau, tổ hợp
thành chiến thuật phát cầu giành quyền tấn công trƣớc (cƣớp tấn công).
2.3.2 Chiến thuật tấn công sân sau (cuối sân):
Sử dụng lặp lại kỹ thuật đánh cầu cao sâu hoặc cầu cao ngang, ép 2 góc cuối
sân của đối phƣơng, đẩy đối phƣơng rơi vào trạng thái bị động. Một khi chất lƣợng
của cầu đối phƣơng đánh sang không cao, liền chớp lấy thời cơ tấn công đập, treo
cầu vào chỗ trống của đối phƣơng.
165
2.3.3 Chiến thuật buộc đối phƣơng đánh cầu trái tay:
Trong thực tế, nhìn chung là tính tấn công của đánh cầu cuối sân trái tay
không mạnh, đƣờng cầu cũng tƣơng đối đơn giản. Nhƣng khi thi đấu với các đối
thủ có kỹthuật đánh cầu cuối sân trái tay kém, thì không thể bỏ qua việc tăng
cƣờng tấn công ởkhu vực đánh cầu trái tay cuối sân.
Trƣớc hết cần kéo rộng vị trí của đối phƣơng, làm cho khu vực trái tay của
đối phƣơng lộ ra chỗ trống. Sau đó thực hiện đánh cầu vào khu vực trái tay, buộc
đối phƣơng phải sử dụng đánh cầu trái tay.
Ví dụ: Trƣớc tiên treo cầu khu vực thuận tay sát lƣới của đối phƣơng, đối
phƣơng hất cao cầu, chúng ta dùng ngay cầu cao ngang tấn công vào khu vực trái
tay cuối sân của đối phƣơng. Khi tấn công lặp lại khu vực trái tay của đối phƣơng,
buộc họ phải rời xa vị trí trung tâm, và lúc này đột ngột treo cầu chéo góc sát lƣới.
2.3.4 Chiến thuật đánh cầu 4 điểm rồi đột kích:
Sử dụng kỹ thuật đánh cầu cao ngang tốc độ nhanh, cũng có thể đánh treo
cầu chuẩn xác đến 4 góc sân cảu đối phƣơng, buộc đối phƣơng phải chạy di
chuyển sang phải, sang trái, lên trên, xuống dƣới. Khi phát hiện đối phƣơng không
kịp trở về vị trí trung tâm hoặc mất trọng tâm để lộ ra chỗ trống và chỗ yếu thì tiến
hành đột kích ngay.
2.3.5 Chiến thuật đánh treo, đập cầu rồi lên lƣới tấn công:
Trƣớc tiên, ở cuối sân dùng kỹ thuật đập nhẹ phối hợp với đánh treo cầu để
ép cầu xuống dƣới, điểm rơi cần lựa chọn ở phía 2 bên của sân đối phƣơng, buộc
đối phƣơng bị động đánh trả. Nếu đối phƣơng đánh trả cầu sát lƣới, liền nhanh
chóng di chuyển lên lƣới vê cầu hoặc móc cầu chéo góc hoặc đẩy cầu ngang tốc độ
nhanh. Nếu đối phƣơng đánh trả bằng hất cầu co ở sát lƣới, có thể lợi dụng trong
lúc họ lùi vềphòng thủ, sẽ trực tiếp đánh thẳng cầu vào ngƣời họ.
2.3.6 Chiến thuật phòng thủ trƣớc, tấn công sau:
Chiến thuật này có thể dùng để đối phó với đối thủ tấn công kém hiệu quả và
thể lực kém. Bắt đầu thi đấu, trƣớc tiên dùng đƣờng cầu cao để dụ đối phƣơng tấn
công, khi đối phƣơng mải mê với tấn công mà lỏng lẻo trong phòng thủ thì lập tức
đột kích tấn công. Cũng có thể trong lúc thể lực đối phƣơng giảm sút, tốc độ di
chuyển chậm lại thì mới phát động tấn công. Đây là chiến thuật chờ đối phƣơng
mệt mới phát động tấn công để giành thắng lợi.
166
2.4 Chiến thuật đánh đôi
2.4.1 Chiến thuật tấn công (hai đánh một):
Đây là một loại chiến thuật thƣờng đƣợc vận dụng đạt hiệu quả tốt. Trong
quá trình thi đấu, nếu phát hiện thấy bên đối phƣơng 1 ngƣời có năng lực phòng
thủ hoặc phẩm chất tâm lý kém, tỷ lệ đánh hỏng cầu tƣơng đối cao hoặc trong khi
phòng thủ có đƣờng cầu đơn điệu, thì sẽ sử dụng loại chiến thuật này bằng cách tập
trung toàn bộcầu tấn công của hai ngƣời vào bên (ngƣời) tƣơng đối yếu này.
Loại chiến thuật này có thể tập trung ƣu thế của sức mạnh lấy nhiều đánh ít,
lấy thế mạnh đánh thế yếu tạo ra sự chủ động giành điểm; nếu thực hiện tốt có thể
làm rối loạn vị trí đứng phòng thủ của đối phƣơng, do còn một ngƣời nữa không bị
tấn công, không có cầu mà đánh, dần dần ngƣời này sẽ chuyển dịch vị trí đứng
sang phía đồng đội tạo ra khe trống trên sân có lợi cho bên mình đánh một đƣờng
cầu quyết định vào chỗ trống để giành điểm; có lợi cho việc tạo thành mâu thuẫn
về tƣ tƣởng của đối phƣơng, làm cho giữa 2 ngƣời của đối phƣơng không tin tƣởng
lẫn nhau, ảnh hƣởng đến tinh thần chung của đội.
2.4.2 Chiến thuật tấn công trung lộ:
Trong quá trình thi đấu, bất luận đối phƣơng đánh cầu đến vị trí nào, thì bên
mình cũng đều dồn cầu đánh tập trung vào điểm khe giữa hai ngƣời, đồng thời
đánh hơi lệch sang phía ngƣời có năng lực phòng thủ kém hơn hoặc đánh vào
đƣờng trung tâm. Chiến thuật tấn công trung lộ có thể tạo thành hiện tƣợng hai
ngƣời của đối
phƣơng tranh cầu lẫn nhau hoặc do nhƣờng cầu cho nhau mà bỏ cầu; có thể
hạn chếđối phƣơng hất cầu có góc độ lớn; có lợi cho việc sử dụng kỹ thuật đánh bịt
lƣới ở sát lƣới.
2.4.3 Chiến thuật tấn công đƣờng thẳng:
Tức là thực hiện tất cả các đƣờng đập cầu và điểm rơi đều là đƣờng thẳng,
không có mục tiêu và đối tƣợng cố định, chỉ dựa vào hiệu quả của sức mạnh và
điểm rơi của đập cầu để giành đƣợc điểm. Khi cầu của đối phƣơng đánh sang sát
với biên dọc, thì điểm rơi của cầu tấn công sang sân đối phƣơng ở trên đƣờng biên;
khi cầu của đối phƣơng đánh sang ở khu vực giữa, thì điểm rơi của cầu tấn công
sang sân đối phƣơng về phía trung lộ. Chiến thuật này khi sử dụng dễ ghi nhớ và
167
quán triệt. Đập cầu đƣờng biên mặc dù độ khó cao hơn một chút, nhƣng hiệu quả
khá cao, thuận tiện cho đồng đội thực hiện bịt chắn sát lƣới.
2.4.4 Chiến thuật tấn công sân sau (cuối sân):
Trong khi thi đấu gặp phải đối phƣơng có năng lực đập vụt cuối sân tƣơng
đối kém, chúng ta có thể sử dụng kỹ thuật đánh cầu cao ngang, đẩy cầu ngang, đỡ
đập hất cầu cao… buộc bên đối phƣơng 1 ngƣời phải di chuyển sang 2 góc cuối
sân đánh trả. Một khi họ đánh trả ở thế bị động thì sử dụng kỹ thuật đánh tạt, đập
cầu mạnh. Nếu 40phát hiện thấy 1 ngƣời trong cặp đôi của đối phƣơng di chuyển
lùi sau để chi viện thì có thể lập tức đánh cầu vào chỗ trống sát lƣới.
2.4.5 Chiến thuật ngƣời đứng sau tấn công, ngƣời đứng trƣớc bịt lƣới:
Trong quá trình thi đấu, khi bên mình đã giành đƣợc quyền chủ động, một
ngƣời phòng thủ ở cuối sân gặp cầu cao tất sẽ đập cầu, còn đồng đội ở sân trƣớc
phải nhanh chóng tích cực di chuyển thực hiện bịt lƣới tạt cầu (Hình 22).
2.4.6 Chiến thuật tấn công trong phòng thủ:
Khi phòng thủ, đối phƣơng tấn công cầu đƣờng thẳng, bên mình hất cầu cao
ngang chéo góc; đối phƣơng tấn công cầu chéo góc, bên mình hất cầu cao bằng
đƣờng thẳng, nhằm đạt đƣợc mục đích điều động đối phƣơng di chuyển. Sau đó, có
thể sử dụng kỹ thuật chặn hoặc câu cầu sát lƣới buộc đối phƣơng phải tiến hành
thuật đối công. Sử dụng chiến thuật này khi đối phó với đối thủ có nhƣợc điểm
xoay ngƣời sang phải, trái không linh hoạt và kỹ thuật đánh treo, đẩy cầu sát lƣới
yếu, có thể rất nhanh chuyển từ phòng thủ sang giành quyền chủ động tấn công
(Hình 23).
168
Hình 22: Chiến thuật người đứng sau tấn công, người đứng
trước bịt lƣới
Hình 23: Chiến thuật tấn công trong phòng thủ
169
2.5 Ý nghĩa chiến thuật của môn cầu lông.
Chiến thuật của môn cầu lông là cơ mƣu (ý thức) và hành động của VĐV
cầu lông đƣợc sử dụng để thể hiện trình độ thi đấu cao nhất nhằm giành chiến
thắng đối phƣơng trong mỗi cuộc thi.
Trong thi đấu cầu lông, hai bên đấu thủ đều muốn khống chế lẫn nhau để
giành quyền chủ động, lấy điểm mạnh của mình để trị lại điểm yếu của đối
phƣơng; hạn chế tối đa điểm mạnh của đối phƣơng, dấu đi những điểm yếu của
mình, sự cạnh tranh giữa khống chế và phản khống chế là hết sức gay gắt. Mỗi bên
đều có thể dựa vào đặc điểm khác nhau của đối thủ mà sử dụng các biện pháp kỹ
thuật ứng biến để đánh là thắng. Đó là ý nghĩa của chiến thuật.
VI. LUẬT CẦU LÔNG
* CÁC KHÁI NIỆM:
- Vận động viên (VĐV): bất kỳ ai chơi cầu lông.
- Trận đấu: là một cuộc thi đấu cơ bản trong cầu lông mà mỗi bên đối diện
nhau
trên Sân gồm 1 hoặc 2 VĐV.
170
- Thi đấu đơn: là trận đấu mà mỗi bên đối diện nhau trên sân có 1 VĐV.
- Thi đấu đôi: là trận đấu mà mỗi bên đối diện nhau trên sân có 2 VĐV.
- Bên giao cầu: là bên đang có quyền giao cầu.
- Bên nhận cầu: là bên đối diện với bên giao cầu.
- Pha cầu: là một cú đánh hay một loạt nhiều cú đánh đƣợc bắt đầu bằng quả
giao cầu cho đến khi cầu ngoài cuộc.
- Cú đánh: là chuyển động của vợt về phía trƣớc của VĐV.
ĐIỀU 1. SÂN VÀ THIẾT BỊ TRÊN SÂN.
1.1 Sân là một hình chữ nhật nhƣ trong sơ đồ “A” và kích thƣớc ghi trong sơ
đồ đó, các vạch kẻ rộng 40mm.
1.2 Các đƣờng biên của sân phải dễ phân biệt và tốt hơn là màu trắng hoặc
màu vàng.
1.3 Để chỉ rõ vùng rơi của quả cầu đúng quy cách khi thử, có thể kẻ thêm 4
dấu 40mm x 40mm phía trong đƣờng biên dọc của sân đánh đơn thuộc phần bên
giao cầu bên phải, cách đƣờng biên ngang cuối sân 530mm và 990mm. Khi kẻ các
dấu này, chiều rộng của các dấu phải ở trong phạm vi kích thƣớc đã nêu, nghĩa là
Hình 24. Sơ đồ A
171
dấu phải cách với cạnh ngoài của đƣờng biên ngang cuối sân từ 530mm đến
570mm và từ 950mm đến 990mm.
1.4 Mọi vạch kẻ đều là phần của diện tích đƣợc xác định.
1.5 Nếu mặt bằng không cho phép kẻ đƣợc sân đánh đơn và đôi thì kẻ sân
đánh đơn nhƣ trong sơ đồ “B”.
1.6 Hai cột lƣới cao 1m55 tính từ mặt sân. Chúng phải đủ chắc chắn và đứng
thẳng khi lƣới đƣợc căng trên đó. Hai cột lƣới và các phụ kiện của chúng không
đƣợc đặt vào trong sân.
1.7 Hai cột lƣới đƣợc đặt ngay trên đƣờng biên đôi bất kể là trận thi đấu đơn
hay đôi (nhƣ sơ đồ A).
1.8 Lƣới phải đƣợc làm từ những sợi nylông (dây gai) mềm màu đậm, và có
độ dày đều nhau với mắt lƣới không nhỏ hơn 15mm và không lớn hơn 20mm.
1.9 Lƣới có chiều rộng 760mm và chiều dài ngang sân là 6,7m.
1.10 Đỉnh lƣới đƣợc cặp bằng nẹp trắng nằm phủ đôi lên dây lƣới hoặc dây
cáp chạy xuyên qua nẹp. Nẹp lƣới phải nằm phủ lên dây lƣới hoặc dây cáp lƣới .
Hình 25. Sơ đồ B
172
1.11 Dây lƣới hoặc dây cáp đƣợc căng chắc chắn và ngang bằng với đỉnh hai
cột lớn.
1.12 Chiều cao của lƣới ở giữa sân tính từ đỉnh lƣới đến mặt sân là 1,524m,
và cao 1,55m ở hai đầu lƣới tại biên dọc sân đánh đôi.
1.13 Không đƣợc để khoảng cách giữa lƣới và cột lƣới, nếu cần có thể buộc
các cạnh bên của lƣới vào cột.
ĐIỀU 2. CẦU.
2.1. Cầu đƣợc làm từ chất liệu thiên
nhiên, hoặc tổng hợp. Cho dù quả cầu đƣợc
làm từ chất liệu gì thì đặc tính đƣờng hay
tổng quát của nó phải tƣơng tự với đƣờng
bay của quả cầu đƣợc làm từ chất liệu thiên
nhiên có đế bằng Lie phủ một lớp da mỏng.
2.2. Cầu lông vũ:
2.2.1. Quả cầu có 16 lông vũ gắn vào
đế cầu.
2.2.2. Các lông vũ phải đồng dạng và có độ dài trong khoảng 62mm đến
72mm tính từ lông vũ cho đến đế cầu.
2.2.3. Đỉnh của các lông vũ phải nằm trên vòng tròn có đƣờng kính từ
58mm đến 68mm.
2.2.4 Các lông vũ đƣợc buộc lại bằng chỉ hoặc vật liệu thích hợp khác.
2.2.5 Đế cầu có đƣờng kính từ 25mm đến 28mm và đáy tròn.
2.2.6 Quả cầu nặng từ 4,74 gram đến 5,50 gram.
2.3 Cầu không có lông vũ:
2.3.1 Tua cầu, hay hình thức giống nhƣ các lông vũ làm bằng chất liệu tổng
hợp, thay thế cho các lông vũ thiên nhiên.
2.3.2 Đế cầu đƣợc mô tả ở Điều 2.1.5.
2.3.3 Các kích thƣớc và trọng luợng nhƣ trong các Điều 2.2.2, 2.2.3, và
2.2.6. Tuy nhiên, có sự khác biệt về tỷ lệ trọng và các tính năng của chất liệu tổng
hợp so với lông vũ, nên một sai sô tối đa 10% đƣợc chấp thuận.
2.4 Do không có thay đổi về thiết kế tổng quát, tốc độ và đƣờng bay của quả
cầu, nên có thể thay đổi bổ sung một số tiêu chuẩn trên với sự chấp nhận của Liên
Hình 26. Cầu
173
đoàn thành viên liên hệ, đối với những nơi mà điều kiện khí hậu phụ thuộc vào độ
cao hay khí hậu làm cho quả cầu tiêu chuẩn không còn thích hợp nữa.
ĐIỀU 3. THỬ TỐC ĐỘ QUẢ CẦU.
3.1 Để thử quả cầu, một VĐV sử dụng cú đánh hết lực theo hƣớng lên trên
từ đƣờng biên cuối sân, và đƣờng bay của quả cầu song song với biên dọc.
3.2 Một quả cầu có tốc độ đúng sẽ rơi xuống sân ngắn hơn biên cuối sân bên
kia không dƣới 530mm và không hơn 990mm (trong khoảng giữa 2 vạch thử cầu
tuỳ ý ở sơ đồ B).
ĐIỀU 4. VỢT.
4.1 Khung vợt không vƣợt quá 680mm
tổng chiều dài 230mm tổng chiều rộng, bao gồm
các phần chính đƣợc mô tả từ Điều 4.1.1 đến
4.1.5 và đƣợc minh hoạ ở hình dƣới.
4.1.1. Cán vợt là phần của vợt mà VĐV
cầm tay vào.
4.1.2 Khu vực đan lƣới là phần của vợt mà
VĐV dùng để đánh cầu.
4.1.3 Đầu vợt giới hạn khu vực đan dây.
4.1.4 Thân vợt nối đầu vợt với cán vợt
4.1.5 Cổ vợt ( nếu có ) nối thân vợt với đầu
vợt.
4.2 Khu vực đan lƣới:
4.2.1 Phải bằng phẳng và gồm một kiểu mẫu các dây đan xen kẽ hoặc cột lại
tại những nơi chúng giao nhau. Kiểu đan dây nói chung phải đồng nhất, và đặc
biệt không đƣợc thƣa hơn bất cứ nơi nào khác.
4.2.2. Khu vực đan lƣới không vƣợt quá 280mm tổng chiều dài và 220mm
tổng chiều rộng. Tuy nhiên các dây có thể kéo dài vào một khoảng đƣợc xem là cổ
vợt, miễn là:
4.2.2.1. Chiều rộng của khoảng đan lƣới nối dài này không vƣợt quá 35mm,
4.2.2.2. Tổng chiều dài của khu vực đan lƣới không vƣợt quá 330mm.
4.3. Vợt:
ÐI U 4. V T. 4.1 Khung v t không vu t quá
680mm t ng chi u dài 230mm t ng
chi u r ng,
bao g m các ph n chính du c mô t
t Ði u 4.1.1 d n 4.1.5 và du c minh
ho hình
du i.
4.1.1. Cán v t là ph n c a v t mà
VÐV c m
tay vào.
4.1.2 Khu v c dan lu i là ph n c a v
t mà
VÐV dùng d dánh c u.
4.1.3 Ð u v t gi i h n khu v c dan
dây.
4.1.4 Thân v t n i d u v t v i cán
v t
4.1.5 C v t ( n u có ) n i thân v t v
i d u v t.
4.2 Khu v c dan lu i:
4.2.1 Ph i b ng ph ng và g m m t
ki u m u
các dây dan xen k ho c c t l i t i
nh ng noi chúng
giao nhau. Ki u dan dây nói
Hình 27. Vợt
174
4.3.1. Không đƣợc gắn thêm vào vợt vật dụng khác làm cho nhô ra, ngoại
trừ những vật chỉ dùng đặc biệt để giới hạn hoặc ngăn ngừa trầy mòn hay chấn
động, hoặc để phân tán trọng lƣợng hay để làm chắc chắn cán vợt bằng dây buộc
vào tay VĐV, mà phải hợp lý về kích thƣớc và vị trí cho những mục đích nêu trên;
4.3.2. Không đƣợc gắn vào vật gì mà có thể giúp cho VĐV thay đổi cụ thể
hình dạng của vợt.
ĐIỀU 5. TRANG THIẾT BỊ HỢP LỆ.
Liên đoàn Cầu lông Thế giới sẽ quyết định bất cứ vấn đề nào về tính hợp lệ
so với quy định của bất cứ loại vợt, cầu, trang thiết bị hoặc bất cứ loại nguyên mẫu
nào đƣợc sử dụng trong thi đấu cầu lông. Quyết định này có thể đƣợc thực hiện
theo sáng kiến của Liên đoàn, hay theo cách áp dụng của bất cứ bên nào có lợi ích
quan tâm chính đáng, bao gồm VĐV, nhân viên kỹ thuật, nhà sản xuất trang thiết
bị, hoặc Liên đoàn thành viên, hay thành viên liên quan.
ĐIỀU 6. TUNG ĐỒNG XU BẮT THĂM.
6.1. Trƣớc khi trận đấu bắt đầu, việc tung đồng xu bắt thăm cho hai bên thi
đấu đƣợc thực hiện và bên đƣợc thăm sẽ tuỳ chọn theo Điều 6.1.1 hoặc 6.1.2.
6.1.1. Giao cầu trƣớc hoặc nhận cầu trƣớc;
6.1.2. Bắt đầu trận đấu ở bên này hay bên kia của sân.
6.2. Bên không đƣợc thăm sẽ đƣợc thăm sẽ nhận lựa chọn còn lại.
ĐIỀU 7. HỆ THỐNG TÍNH ĐIỂM.
7.1. Một trận đấu sẽ thi đấu theo thể thức ba ván thắng hai, trừ khi có sắp
xếp cách khác (phụ lục 2 và 3: thi đấu 1 ván 21 điểm; hoặc thi đấu ba ván 15 điểm
cho các nội dung đôi + đơn nam và ba ván 11 điểm cho nội dung đơn nữ).
7.2. Bên nào ghi đƣợc 21 điểm trƣớc sẽ thắng ván đó, ngoại trừ trƣờng hợp
ghi ở Điều 7.4 và 7.5.
7.3. Bên thắng một pha cầu sẽ ghi môt điểm vào điểm số của mình. Một bên
sẽ thắng pha cầu nếu: bên đối phƣơng phạm một “Lỗi” hoặc cầu ngoài cuộc vì đã
chạm vào bên trong mặt sân của họ.
7.4. Nếu tỷ số là 20 đều, bên nào ghi trƣớc 2 điểm cách biệt sẽ thắng ván đó.
7.5. Nếu tỷ số là 29 đều, bên nào ghi điểm thứ 30 sẽ thắng ván đó.
7.6. Bên thắng ván sẽ giao cầu trƣớc ở ván kế tiếp.
ĐIỀU 8. ĐỔI SÂN.
175
8.1. Các VĐV sẽ đổi sân:
8.1.1. Khi kết thúc ván đầu tiên;
8.1.2. Khi kết thúc ván hai, nếu có thi đấu ván thứ ba; và
8.1.3. Trong ván thứ ba, khi một bên ghi đƣợc 11 điểm trƣớc.
8.2. Nếu việc đổi sân chƣa đƣợc thực hiện nhƣ nêu ở Điều 8.1, thì các VĐV
sẽ đổi sân ngay khi lỗi này đƣợc phát hiện và khi cầu không còn trong cuộc. Tỷ số
ván đấu hiện có vẫn giữ nguyên.
ĐIỀU 9. GIAO CẦU.
Hình hƣớng dẫn giáo cầu cho đúng luật
9.1. Trong một quả giao cầu đúng:
9.1.1. Không có bên nào gây trì hoãn bất hợp lệ cho quả giao cầu một khi: cả
bên giao cầu và bên nhận cầu đều sẵn sàng cho quả giao cầu. Khi hoàn tất việc
chuyển động của đầu vợt về phía sau của ngƣời giao cầu, bất cứ trì hoãn nào cho
việc bắt đầu quả giao cầu (Điều 9.2) sẽ bị xem là gây trì hoãn bất hợp lệ;
9.1.2. Ngƣời giao cầu và ngƣời nhận cầu đứng trong phạm vi ô giao cầu đối
diện chéo nhau mà không chạm đƣờng biên của các ô giao cầu này;
9.1.3. Một phần của cả hai bàn chân ngƣời giao cầu và ngƣời nhận cầu phải
còn tiếp xúc với mặt sân ở một vị trí cố định từ khi bắt đầu quả giao cầu (Điều 9.2)
cho đến khi quả cầu đƣợc đánh đi.
9.1.4. Vợt của ngƣời giao cầu phải đánh tiếp xúc đầu tiên vào đế cầu;
9.1.5. Toàn bộ quả cầu phải dƣới thắt lƣng của ngƣời giao cầu tại thời điểm
nó đƣợc mặt vợt của ngƣời giao cầu đánh đi. Thắt lƣng đƣợc xác định là một
đƣờng tƣởng tƣợng xung quanh cơ thể ngang với phần xƣơng sƣờn dƣới cùng của
ngƣời giao cầu;
9.1.6.Tại thời điểm đánh quả cầu, thân vợt của ngƣời giao cầu phải luôn
hƣớng xuống dƣới;
9.1.7. Vợt của ngƣời giao cầu phải chuyển động liên tục về phía trƣớc từ lúc
bắt đầu quả giao cầu cho đến khi quả cầu đƣợc đánh đi (Điều 9.3);
9.1.8. Đƣờng bay của quả cầu sẽ đi theo hƣớng lên từ vợt của ngƣời giao cầu
vƣợt qua trên lƣới, mà nếu không bị cản lại nó sẽ rơi vào ô của ngƣời nhận giao
cầu (có nghĩa là trên và trong các đƣờng giới hạn ô giao cầu đó)
176
9.1.9. Khi có ý định thực hiện quả giao cầu, ngƣời giao cầu phải đánh trúng
quả cầu.
9.2. Khi các VĐV đã vào vị trí sẵn sàng, chuyển động đầu tiên của đầu vợt
về phía trƣớc của ngƣời giao cầu là lúc bắt đầu quả giao cầu.
9.3. Khi đã bắt đầu (Điều 9.2), quả giao cầu đƣợc thực hiện khi nó đƣợc mặt
vợt ngƣời giao cầu đánh đi, hoặc khi có ý định thực hiện quả giao cầu, ngƣời giao
cầu đánh không trúng quả giao cầu.
9.4. Ngƣời giao cầu sẽ không giao cầu khi ngƣời nhận cầu chƣa sẵn sàng.
Tuy nhiên ngƣời nhận cầu đƣợc xem là đã sẵn sàng nếu có ý định đánh trả quả cầu.
9.5. Trong đánh đôi, khi thực hiện quả giao cầu, các đồng đội có thể đứng ở
bất cứ vị trí nào bên trong phần sân của bên mình, miễn là không che mắt ngƣời
giao cầu và ngƣời nhận cầu của đối phƣong.
ĐIỀU 10. THI ĐẤU ĐƠN.
10.1. Ô giao cầu và ô nhận cầu:
10.1.1. Các VĐV sẽ giao cầu và nhận cầu từ trong ô giao cầu bên phải tƣơng
ứng của mình khi ngƣời giao cầu chƣa ghi điểm hoặ ghi đƣợc điểm chẵn trong ván
đó.
10.1.2. Các VĐV sẽ giao cầu và nhận cầu từ trong ô giao cầu bên trái tƣơng
ứng của mình khi ngƣời giao cầu ghi đƣợc điểm lẻ trong ván đó.
10.2. Trình tự trận đấu và vị trí trên sân:
Trong pha cầu, quả cầu sẽ đƣợc đánh luân phiên bởi ngƣời giao cầu và
ngƣời nhận cầu, từ bất kỳ vị trí nào phía bên phần sân của VĐV đó cho đến khi cầu
không còn trong cuộc (Điều 15).
10.3. Ghi điểm và giao cầu:
10.3.1. Nếu ngƣời giao cầu thắng pha cầu (Điều 7.3), ngƣời giao cầu sẽ ghi
cho mình một điểm. Ngƣời giao cầu sẽ tiếp tục giao cầu từ ô giao cầu còn lại.
10.3.2. Nếu ngƣời nhận cầu thắng pha cầu (Điều 7.3), ngƣời nhận cầu sẽ ghi
cho mình 1 điểm. Ngƣời nhận cầu lúc này trở thành ngƣời giao nhận cầu mới.
ĐIỀU 11. THI ĐẤU ĐÔI.
11.1. Ô giao cầu và ô nhận cầu:
11.1.1. Một VĐV bên giao cầu sẽ giao cầu từ ô giao cầu bên phải khi bên họ
chƣa ghi điểm hoặc ghi đƣợc điểm chẵn trong ván đó.
177
11.1.2. Một VĐV bên giao cầu sẽ giao cầu từ ô giao cầu bên trái khi họ ghi
đƣợc điểm lẻ trong ván đó.
11.1.3. VĐV có quả giao cầu lần cuối trƣớc đó của bên giao cầu sẽ giữ
nguyên vị
trí đứng mà từ ô đó VĐV này đã thực hiện lần giao cầu cuối cho bên mình. Mô
hình ngƣợc lại sẽ đƣợc áp dụng cho đồng đội của ngƣời nhận cầu.
11.1.4. VĐV của bên nhận cầu đang đứng trong ô giao cầu chéo đối diện sẽ
là ngƣời nhận cầu.
11.1.5. VĐV sẽ không thay đổi vị trí đứng tƣơng ứng của mình cho đến khi
họ thắng một điểm mà bên của họ đang nắm quyền giao cầu.
11.1.6. Bất kỳ lƣợt giao cầu nào cũng đƣợc thực hiện từ ô giao cầu tƣơng
ứng với số điểm mà bên giao cầu đó có, ngoại trừ các trƣờng hợp nêu ở Điều 12.
11.2. Thứ tự đánh cầu và vị trí trên sân:
Sau khi quả giao cầu đƣợc đánh trả, cầu đƣợc đánh luân phiên bởi một trong
hai VĐV của bên giao cầu và một trong hai VĐV của bên nhận cầu cho đến khi
cầu không còn trong cuộc (Điều 15).
11.3. Ghi điểm và giao cầu:
11.3.1. Nếu bên giao cầu thắng pha cầu (Điều 7.3), họ sẽ ghi cho mình một
điểm. Ngƣời giao cầu tiếp tục thực hiện quả giao cầu từ ô giao cầu tƣơng ứng còn
lại.
11.3.2. Nếu bên nhận cầu thắng pha cầu (Điều 7.3), họ sẽ ghi cho mình một
điểm. Bên nhận cầu lúc này trở thành bên giao cầu mới
11.4. Trình tự giao cầu:
Trong bất kỳ ván nào, quyền giao cầu cũng đƣợc chuyển tuần tự:
11.4.1. Từ ngƣời giao cầu đầu tiên khi bắt đầu ván đấu ở ô giao cầu bên
phải,
11.4.2. Đến đồng đội của ngƣời nhận cầu đầu tiên. Lúc này quả giao cầu
đƣợc thực hiện từ ô giao cầu bên trái,
11.4.3. Sang đồng đội của ngƣời giao cầu đầu tiên,
11.4.4. Đến ngƣời nhận cầu đầu tiên,
11.4.5. Trở lại ngƣời giao cầu đầu tiên, và cứ tiếp tục nhƣ thế…
178
11.5. Không VĐV nào đƣợc giao cầu sai phiên, nhận cầu sai phiên, hoặc
nhận hai quả giao cầu liên tiếp trong cùng một ván đấu, ngoại trừ các trƣờng hợp
nêu ở Điều
11.6. Bất kỳ VĐV nào của bên thắng ván cũng có thể giao cầu đầu tiên ở
ván tiếp theo, và bất kỳ VĐV nào của bên thua ván cũng có thể nhận cầu đầu tiên ở
ván tiếp theo.
ĐIỀU 12. LỖI Ô GIAO CẦU.
12.1 Lỗi ô giao cầu xảy ra khi một VĐV:
12.1.1. Đã giao cầu hoặc nhận cầu sai phiên; hay
12.1.2. Đã giao hoặc nhận cầu sai ô giao cầu.
12.2. Nếu một lỗi ô giao cầu đƣợc phát hiện, lỗi đó phải đƣợc sửa và điểm
số hiện có vẫn giữ nguyên.
ĐIỀU 13. LỖI.
Sẽ là “Lỗi”:
13.1. Nếu giao cầu không đúng luật (Điều 9.1);
13.2. Nếu khi giao cầu, quả cầu:
13.2.1. Bị mắc trên lƣới và bị giữ lại trên lƣới;
13.2.2. Ssau khi qua lƣới bị mắc lại trong lƣới; hoặc
13.2.3. Đƣợc đánh bởi đồng đội ngƣời giao cầu.
13.3. Nếu trong cuộc, quả cầu:
13.3.1. Rơi ở ngoài các đƣờng biên giới hạn của sân (có nghĩa là không ở
trên hay không ở trong các đƣờng biên giới hạn đó);
13.3.2. Bay xuyên qua lƣới hoặc dƣới lƣới;
13.3.3. Không qua lƣới;
13.3.4. Chạm trần nhà hoặc vách;
13.3.5. Chạm vào ngƣời hoặc quần áo của VĐV;
13.3.6. Chạm vào bất kỳ ngƣời nào hay vật nào khác bên ngoài sân; ( Khi
cần thiết do cấu trúc nơi thi đấu, thẩm quyền cầu lông địa phƣơng có thể, dựa vào
quyền phủ quyết của Liên đoàn thành viên của mình, áp dụng luật địa phƣơng cho
trƣờng hợp cầu chạm chƣớng ngại vật)
13.3.7. Bị mắc và dính trên vợt khi thực hiện một cú đánh;
179
13.3.8. Đƣợc đánh hai lần liên tiếp bởi cùng một VĐV với hai cú đánh.
Tuy nhiên, bằng một cú đánh, quả cầu chạm vào đầu vợt và khu vực đan lƣới của
vợt thì không coi là một “Lỗi”;
13.3.9. Đƣợc đánh liên tục bởi một VĐV và một VĐV đồng đội; hoặc
13.3.10. Chạm vào vợt mà không bay vào phần sân của đối phƣơng;
13.4. Nếu, khi quả cầu trong cuộc, một VĐV:
13.4.1. Chạm vào lƣới, các vật chống đỡ lƣới bằng vợt, thân mình hay quần
áo;
13.4.2. Xâm phạm sân đối phƣơng bằng vợt hay thân mình, ngoại trừ trƣờng
hợp ngƣời đánh có thể theo quả cầu bằng vợt của mình trong quá trình một cú đánh
sau điểm tiếp xúc đầu tiên với quả cầu ở bên lƣới của phần sân ngƣời đánh;
13.4.3. Xâm phạm sân của đối phƣơng bên dƣới lƣới bằng vợt hay thân
mình mà làm cho đối phƣơng bị cản trở hay mất tập trung; hoặc
13.4.4. Cản trở đối phƣơng, nghĩa là ngăn không cho đối phƣơng thực hiện
một cú đánh hợp lệ tại vị trí quả cầu bay qua gần lƣới;
13.4.5. Làm đối phƣơng mất tập trung bằng bất cứ hành động nào nhƣ la hét
hay bằng cử chỉ;
13.5. Nếu một VĐV vi phạm những lỗi hiển nhiên, lặp lại, hoặc nhiều lần
theo Điều 16.
ĐIỀU 14. GIAO CẦU LẠI.
14.1 “Giao cầu lại” do Trọng tài chính hô, hoặc do một VĐV hô (nếu không
có Trọng tài chính) để ngừng thi đấu.
14.2. Sẽ là “giao cầu lại” nếu:
14.2.1. Ngƣời giao cầu giao trƣớc khi ngƣời nhận cầu sẵn sàng (Điều 9.5);
14.2.2. Trong khi giao cầu, cả ngƣời giao cầu và ngƣời nhận cầu cùng phạm
lỗi;
14.2.3. Sau khi quả giao cầu đƣợc đánh trả, quả cầu bị:
14.2.3.1. Mắc trên lƣới và bị giữ lại trên lƣới, hoặc
14.2.3.2. Sau khi qua lƣới bị mắc lại trong lƣới;
14.2.4. Khi cầu trong cuộc, quả cầu bị tung ra, đế cầu tách rời hoàn toàn
khỏi phần còn lại của quả cầu;
180
14.2.5. Theo nhận định của Trọng tài chính, trận đấu bị gián đoạn hoặc một
VĐV của bên đối phƣơng bị mất tập trung bởi Huấn luyện viên của bên kia;
14.2.6. Nếu một Trọng tài biên không nhìn thấy và Trọng tài chính không
thể đƣa ra quyết định
14.2.7. Trƣờng hợp bất ngờ không thể lƣờng trƣớc xảy ra.
14.3, Khi một quả “Giao cầu lại” xảy ra, pha đấu từ lần giao cầu vừa rồi sẽ
không tính, và VĐV nào vừa giao cầu sẽ giao cầu lại.
ĐIỀU 15. CẦU KHÔNG TRONG CUỘC.
Một quả cầu là không trong cuộc khi:
15.1. Cầu chạm vào lƣới hay cột lƣới và bắt đầu rơi xuống mặt sân phía bên
này lƣới của ngƣời đánh;
15.2. Chạm mặt sân; hoặc
15.3. Xảy ra một “Lỗi” hay một quả “Giao cầu lại”
181
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập 1 – 2 bản dịch từ tiếng Nga, 1976. Lý luận và phương pháp giáo dục
thể chất. Moscova: Nhà xuất bản Thể dục thể thao.
2. Hà Nội, 2005. Tâm lý học thể dục thể thao. Nhà xuất bản thể dục thể thao.
3. Văn An và Lý Gia Thành, 1997. 100 năm thế vận hội Olimpic. Nhà xuất
bản Thanh Niên.
4. Luật gia Hồng Anh, 2007.Cẩm nang ngành TDTT. NXB Thống kê.
5. Nguyễn Danh Tốn, Nguyễn Toán, Đồng Văn Triệu, 1993. Lý luận và
phương pháp giáo dục thể chất. Hà Nội: NXB Thể dục thể thao.
6. PGS. TS Dƣơng Nghiệp Chí, 2000. Điền kinh. Hà Nội: NXB TDTT.
7. GS Lê Văn Lẫm. Giáo dục thể chất một số nước trên thế giới. Hà Nội:
Nhà xuất bản Thể dục thể thao.
8. Trần Gia Cai, 2002. Hướng dẫn tập luyện kỹ chiến thuật cầu lông. Hà
Nội: Nhà xuất bản Thể dục thể thao.
9. Ma Tuyết Điền, 1994. Kỹ chiến thuật và phương pháp tập luyện bóng đá.
Hà Nội: Nhà xuất bản Thể dục thể thao.
10. PGS. TS Lƣu Quang Hiệp, 2000. Y học thể dục thể thao. Hà Nội: Nhà
xuất bản Thể dục thể thao.
11. Đặng Tuyết Nga, 2000. Luật điền kinh. Hà Nội: Nhà xuất bản Thể dục
thể thao.
12. TS. Đào Chí Thanh, 2002. Huấn luyện chiến thuật thi đấu cầu lông. Hà
Nội: Nhà xuất bản Thể dục thể thao.
13. N.KILESEP và A.G ARIANX, 1977. Bóng chuyền. Hà Nội: Nhà xuất
bản Thể dục thể thao.
14. Nguyễn Xuân Sinh, 1999. SGK Thể dục. Hà Nội: Nhà xuất bản Thể dục
thể thao.