S VĂN HA, TH THAO V DU LCH THƯ VIN TNH QUNG NAM Thư mục chuyên đề: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP (KỶ NI M 70 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (19/8/1945 - 19/8/2015) VÀ QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIT NAM (02/9/1945 – 02/9/2015)) Quảng Nam, tháng 8 năm 2015
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
SƠ VĂN HOA, THÊ THAO VA DU LICH
THƯ VIÊN TINH QUANG NAM
Thư mục chuyên đề:
ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP
(KỶ NIÊM 70 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (19/8/1945 - 19/8/2015)
VÀ
QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM
(02/9/1945 – 02/9/2015))
Quảng Nam, tháng 8 năm 2015
LỜI GIỚI THIỆU
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám - 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã để lại một
ý nghĩa lịch sử to lớn, đã đập tan ách thống trị gần một thế kỷ của chủ nghĩa thực
dân, phát-xít tàn bạo; chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời; thiết lập
nền dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc
lập tự do, nhân dân lao động làm chủ đất nước. Cách mạng tháng Tám và sự ra đời
của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn là ngọn cờ cổ vũ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân
đế quốc, dấu mốc quan trọng đánh dấu sự tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
thực dân cũ trên toàn thế giới.
Nhìn lại những thành tựu vẻ vang của Cách mạng Việt Nam 70 năm qua,
chúng ta vô cùng tự hào về dân tộc ta - một Dân tộc anh hùng, thông minh, nhân
ái, đoàn kết một lòng; tự hào về Đảng ta - đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc Việt Nam - luôn vững tay chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi
thác ghềnh đến bến bờ vinh quang; tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ
thiên tài của dân tộc, tư tưởng và cuộc đời vẹn toàn của Người mãi mãi là ngọn
đuốc soi đường, là kho tàng vô giá của dân tộc ta cho hôm nay và cho cả mai sau.
Sự cộng hưởng vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng
sản Việt Nam, truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân
dân Việt Nam chính là những nhân tố cơ bản, cốt lõi làm nên sức mạnh vô địch
của nhân dân Việt Nam trong thời đại mới.
Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2015) và Quốc
khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2015),Thư
viện tỉnh Quảng Nam trân trọng giới thiệu đến Quý độc giả tập thư mục: “Đất
nước - 70 năm độc lập”. Thư mục đươ c tập hợp, chọn lọc một số bài viết trên các
báo, tạp chí về sự kiện lịch sử trọng đại này.
THƯ VIỆN TỈNH QUẢNG NAM
CUỘC CÁCH MẠNG VĨ ĐẠI
Bảy mươi năm đã qua kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công
và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập năm 1945.
Thời gian ấy có là bao so với mấy nghìn năm lịch sử của dân tộc. Nhưng đó
lại là thời gian hội tụ và phát tiết những tinh hoa. Để nhân dân ta làm nên những
thắng lợi lịch sử.
Nhìn lại 70 năm, không ai có thể phủ nhận một sự thật hiển nhiên: Cách
mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng vĩ đại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã mở ra một bước
ngoặt lịch sử, làm thay đổi căn bản vận mệnh của đất nước và dân tộc ta. Nước ta
từ nửa thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập tự do. Nhân dân ta
từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của
mình. Một kỷ nguyên mới đã mở ra: Kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
Có thể khẳng định: Không có thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám thì không
có sự ra đời của Nhà nước Việt Nam độc lập. Không có Nhà nước Việt Nam độc lập
thì không có thắng lợi của hai cuộc kháng chiến cứu nước. Và không có thắng lợi
của hai cuộc kháng chiến cứu nước thì cũng sẽ không có sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Nói thắng lợi nối tiếp thắng lợi không có nghĩa là cách mạng không trải qua
những bước quanh co, chỉ có tiến mà không có lùi, dù đó là những bước lùi tạm
thời.
Cách mạng Tháng Tám oai hùng là thế nhưng trong buổi trứng nước của chế độ
dân chủ cộng hòa, vẫn lơ lửng trên đầu tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”.
Cuộc kháng chiến thứ nhất oai hùng là thế, nhưng để đi tới một “Điện Biên
chấn động địa cầu”, ta đã từng phải rời bỏ thủ đô và các thành thị lớn, rút về nông
thôn và rừng núi để xúc tích lực lượng, chiến đấu lâu dài.
Cuộc kháng chiến thứ hai lẫy lừng là vậy, nhưng để có được một Đại thắng
mùa Xuân lịch sử năm 1975, suốt 20 năm liền, nhân dân ta ở cả hai miền đã gánh
chịu biết bao hy sinh xương máu, tổn thất nặng nề, có lúc kẻ thù còn muốn đưa
miền bắc nước ta trở lại thời kỳ đồ đá!
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay có ý nghĩa như
một cuộc cách mạng mới, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ba mươi năm qua, như Đảng ta nhận định, đổi mới đã giành được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bộ mặt của đất nước có sự thay đổi căn bản và toàn
diện. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên nhiều. Tiếng nói và vị thế của nước
ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao.
Nhưng để có được những thành tựu ấy, đất nước đã trải qua biết bao thăng
trầm. Cơ hội và thách thức đan xen nhau, có khi thách thức nổi trội hơn cơ
hội. Mặc dù đã giành được những thành tựu to lớn, nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, nhưng nay vẫn còn phải đối
mặt với kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng chậm lại, và nhất là nguy
cơ sa vào cái bẫy thu nhập trung bình.
Cuộc chiến để bứt phá lên, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại đang diễn ra rất quyết liệt. Càng quyết liệt hơn
nữa là cuộc chiến đấu để xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống; củng cố lòng tin trong Đảng và nhân dân.
Tiến tới Đại hội XII của Đảng, Dự thảo Báo cáo chính trị của Trung ương đã
phác họa một bức tranh tổng thể khách quan, trung thực về đổi mới. Qua đó,
chúng ta có thể tìm thấy không chỉ thành tựu mà cả yếu kém, khuyết điểm, không
chỉ phương hướng, nhiệm vụ mà cả những giải pháp để tạo nên đột phá mới. Tiến
lên là quy luật của phát triển. Nếu không thì nhận định đổi mới đã giành được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử có thể sẽ thay đổi theo chiều ngược lại.
Đó là điều không ai mong muốn.
Về thành tựu của hội nhập quốc tế, tôi muốn nêu lên đôi điều. Không phải
chuyện nước ta đã có quan hệ rộng rãi với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới. Cũng không phải chuyện đáp lại chính sách đối ngoại của ta, hầu hết các
nước trong cộng đồng quốc tế muốn có quan hệ bạn bè và đối tác với ta. Trong đó,
các nước lớn đều lần lượt nâng quan hệ lên tầm đối tác toàn diện hay đối tác
chiến lược.
Điều tôi muốn nói ở đây là chuyện thời sự nóng hổi về Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Đoàn cấp cao Việt Nam chính thức thăm
Hoa Kỳ theo lời mời của chính quyền Tổng thống Ô-ba-ma. Tổng thống Hoa Kỳ đã
có cuộc hội đàm đặc biệt, chưa có tiền lệ với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại
Phòng Bầu dục của Nhà Trắng. Ông khẳng định: “Hoa Kỳ nhận thức được rằng Việt
Nam có hệ thống chính trị riêng biệt”, “thừa nhận quyền của người Việt Nam
quyết định cách thức tổ chức xã hội của mình và đây không phải là việc của các
thế lực bên ngoài đến để xác định hộ”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong hội
đàm cũng như trong các cuộc tiếp xúc khác, đã có dịp bày tỏ thiện chí và sự chân
tình. Tổng Bí thư dẫn câu nói đầu tiên trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam
được trích từ chính Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. “Đối với nhân dân Việt Nam, đó là cuộc kháng chiến
để giành độc lập, tự do cho dân tộc mình, giải phóng, thống nhất đất nước mình;
không phải là cuộc chiến tranh nhằm chống lại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, càng
không phải để chống nhân dân Hoa Kỳ”. Giới thiệu bài học kinh nghiệm và những
thành tựu đạt được qua 20 năm quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, Tổng Bí thư nhắc lại
câu nói của Tổng thống Thê-ô-đô Ru-dơ-ven: “Khi tin là có thể, thì bạn đã đạt
được một nửa thành công”.
Còn về phía Mỹ, Phó Tổng thống G.Bai-đơn kết thúc bài phát biểu tại buổi
chiêu đãi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã trích dẫn hai câu Kiều của đại thi hào
Nguyễn Du, bày tỏ hy vọng vào tương lai tươi sáng của quan hệ hai bên sau một
thời gian khó khăn: “Trời còn để có hôm nay/Tan sương đầu ngõ vén mây giữa
trời”.
Câu chuyện diễn ra ở Oa-sinh-tơn tưởng như chẳng dính dáng gì đến lịch
sử cách mạng Việt Nam, hóa ra tư tưởng độc lập, tự do của Cách mạng Tháng Tám,
của Tuyên ngôn Độc lập lại được những đại biểu Việt Nam truyền đạt một cách rất
tự nhiên đến các nhà lãnh đạo và chính giới Mỹ, khiến phía Mỹ cũng bày tỏ sự tán
thưởng để rồi hai bên thỏa thuận rằng quan hệ Việt- Mỹ phải được xây dựng và
phát triển trên cơ sở “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng,
hướng tới tương lai”.
Phải chăng đây cũng là một trong những điều mà ngay từ đầu, đổi mới chưa
nghĩ tới là có thể?
HÀ ĐĂNG (THÁNG 8-2015)
Hà Đăng. Cuộc Cách mạng vĩ đại// Nhân dân.- 2015.- Ngày 18 tháng 8.- Tr.3.
70 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Kỳ 1: Bối cảnh lịch sử và diễn biến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối.
Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu,
giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin.
Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu
Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật.
Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, Chiến tranh thế giới lần thứ
hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu
hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật.
Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị
thống trị của mình; đế quốc Mỹ đúng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp
vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai
Nhật đang âm mưu thay đổi chủ, chống lại cách mạng.
Bức tranh tái hiện Đại hội Quốc dân tại Đình Tân Trào ngày 16-8-1945
để chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Ảnh: Tư liệu
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách
mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp.
Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định
phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các
hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-
1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ,
quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt
Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các
Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân
tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra mạnh mẽ,
phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về
Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị
Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt
dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.
Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên
Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát
động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước
khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi
nghĩa thắng lợi, đó là: Tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy
ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-
1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt
Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy
ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng
khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến
ngày 18-8, cuộc tổng khời nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc
Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành
chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc
Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc
Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng,
Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù
Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính
quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành
thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, trước cuộc mít
tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm
thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới:
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kỳ tích đầu tiên của dân
tộc Việt Nam trong thế kỷ 20, là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong
đó, sức mạnh của nhân dân Việt Nam đoàn kết thành một khối vững chắc,
kiên quyết đấu tranh giành độc lập, tự do là một nhân tố cực kỳ quan trọng.
Quán triệt sâu sắc nguyên lý cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng
ta chủ trương thống nhất và huy động tối đa sức mạnh toàn dân tộc vào cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
tháng 11-1939 khẳng định: Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để
đánh đổ đế quốc Pháp. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(tháng 5-1941) đề ra quyết sách tập hợp lực lượng toàn dân dưới một hiệu cờ
thống nhất tất cả các tầng lớp, các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo,
có tinh thần chống Pháp - Nhật, giành lại độc lập cho nước nhà vào một mặt trận
“có tính chất dân tộc” là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt
Minh).
Với tên gọi và mười chính sách có sức thức tỉnh tinh thần yêu nước nồng
nàn của nhân dân, hàm chứa tính chất dân tộc sâu sắc, tính chất dân chủ rộng rãi,
mở ra khả năng giải quyết hài hòa lợi ích tối cao của dân tộc với quyền lợi thiết
thực của các tầng lớp nhân dân, hướng tới thiết lập một chế độ thực sự tự do, dân
chủ, phát triển toàn diện, công bằng và hạnh phúc cho nhân dân, Mặt trận Việt
Minh có sức thu hút, quy tụ mạnh mẽ đối với toàn thể dân tộc và đồng bào sinh
sống ở nước ngoài.
Dưới ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, sức mạnh quật cường, tinh
thần sáng tạo của nhân dân được nhân lên gấp bội. Quần chúng nhân dân được tổ
chức thành các đoàn thể cứu quốc: Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc,
Công nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu vong…, tổ chức những đạo
quân chính trị và vũ trang tại khắp mọi miền đất nước; được huy động vào trận
tuyến đấu tranh trên quy mô cả nước và từng địa phương, theo yêu cầu của từng
giai đoạn trong tiến trình cách mạng và đạt tới hiệu quả cao nhất. Càng tiến gần
tới cuộc Tổng khởi nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất càng mở rộng, thu nạp
thêm nhiều tổ chức yêu nước, thu hẹp lực lượng chống đối và tầng lớp trung gian,
tạo nên một lực lượng hùng mạnh.
Chính nhờ sự hy sinh, sáng tạo của nhân dân trong Mặt trận Việt Minh mà
các cơ quan lãnh đạo của Đảng được bảo vệ trước sự đánh phá điên cuồng của kẻ
thù và các hoạt động của Đảng được triển khai nhanh chóng, rộng khắp.
Sự thống nhất ý chí và hành động của toàn dân trong Mặt trận đã làm thất
bại mọi mưu đồ của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, lôi kéo một bộ phận cư dân
chống đối cách mạng. Cho dù trong tiến trình chuẩn bị khởi nghĩa, hàng ngàn cán
bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị địch bắt, sát hại, khi tiến hành Tổng
khởi nghĩa, toàn Đảng chỉ còn hơn 1.300 đảng viên, nhân dân ta vẫn gửi trọn niềm
tin ở sự lãnh đạo của Đảng, ra sức chuẩn bị lực lượng hướng tới mục tiêu giành
chính quyền.
Khối đoàn kết, thống nhất lực lượng toàn dân tộc cũng là một cơ sở để cách
mạng Việt Nam tăng cường đoàn kết quốc tế, gắn kết cuộc đấu tranh của nhân dân
Việt Nam với lực lượng chống chủ nghĩa phát-xít trên thế giới.
Đúng như nhận định của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào ngày
6 tháng 6-1941, muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần toàn dân đoàn kết, với sức
mạnh của toàn dân tộc được tổ chức, mang đậm tinh thần chủ động, tự cường, sẵn
sàng đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, ngay khi thời cơ thuận lợi xuất hiện,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân nhất tề đứng lên
làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta.
Trải qua 70 năm kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân ta đã làm nên
những kỳ tích trong đấu tranh cách mạng, hoàn thành mục tiêu độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố là nhân tố bảo đảm ổn định tình hình
chính trị - xã hội, tăng trưởng kinh tế cao, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, cải thiện
đời sống nhân dân, thực hiện an sinh xã hội,…
Thực tiễn và yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh nhiều thời
cơ, thuận lợi, đan xen không ít khó khăn, thách thức càng đòi hỏi Đảng và nhân
dân ta phải không ngừng củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Để tạo động lực và nhân lên sức mạnh tổng hợp đó, chúng ta phải
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, thực hành dân chủ rộng
rãi, tạo dựng và bảo đảm đồng thuận xã hội; động viên toàn dân, khơi dậy ý thức,
tình cảm dân tộc, lòng yêu nước chân chính của nhân dân và tạo điều kiện cho
nhân dân trong nước và đồng bào định cư ở nước ngoài phát huy lòng yêu nước,
đồng tâm hiệp lực cống hiến sức lực, tài năng phụng sự Tổ quốc. Đồng thời, phải
bảo đảm những lợi ích thiết thực, những quyền lợi chính đáng của nhân dân;
người dân phải được hưởng thụ bình đẳng những thành quả của sự nghiệp đổi
mới; gắn những lợi ích, quyền lợi của các tầng lớp nhân dân với vận mệnh và lợi
ích dân tộc; gắn thực hành, mở rộng dân chủ với tăng cường kỷ cương.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là quy luật giành thắng lợi của dân tộc Việt Nam
trong dựng nước và giữ nước, cũng chính là động lực phát triển, hướng tới hệ
mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
PGS, TS TRẦN TRỌNG THƠ
Trần Trọng Thơ. Thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc// Nhân
dân.- 2015.- Ngày 17 tháng 8.- Tr.1,3.
ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN QUYẾT: KÝ ỨC XANH NGUYÊN
Trong số những nhân chứng lịch sử của những ngày diễn ra Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám 1945 mà tôi đã được gặp là Đại tướng Nguyễn Quyết - người
được bầu vào BCH Trung ương 3 khóa liên tục từ khóa IV-khóa VI.
Đại tướng Nguyễn Quyết.
Ông đã kể lại rành rọt, phân tích thấu đáo vì sao lại có một cuộc chiến đấu
trong một thành phố lớn, một bên là nhân dân với bên kia là lực lượng vũ trang
hiện đại. Thế nhưng, lực lượng yếu hơn lại giành được chiến thắng vĩ đại.
Trọng trách
Vào thẳng câu chuyện của những ngày này cách đây tròn 70 năm, Đại tướng
Nguyễn Quyết cho biết, Cách mạng Tháng Tám đặt ra mục tiêu là: giành chính
quyền, đánh đổ kẻ thù, phát xít, phong kiến để giành độc lập tự do cho đất nước.
Mục tiêu là vậy, nhưng trong nước ta, đến thời điểm trước ngày 19-8-1945, chưa
có một tấc đất tự do.
Có quá nhiều việc phải làm – vị Bí thư Thành ủy Hà Nội, Uỷ viên Ủy ban
Quân sự cách mạng Hà Nội, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà
Nội lúc bấy giờ nói.
Hai yêu cầu được đặt ra lúc đó là phải xây dựng lực lượng mạnh và có
phương thức tiến công đúng, đồng thời phải nhanh chóng chớp thời cơ, nếu
không chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Muốn giành độc lập trên toàn quốc, Thủ đô phải đi
đầu. Phải giành chính quyền ở Hà Nội- nhiệm vụ nặng nề đặt lên vai vị Bí thư
Thành ủy và các đồng chí của ông.
Đại tướng Nguyễn Quyết cho biết: Hà Nội có vị trí chiến lược đặc biệt, lúc
đó là cơ quan đầu não của phát xít Nhật. Nếu không “thanh toán” được cơ quan
đầu não này, cách mạng rất khó thành công. Thế nhưng, để đánh bại cơ quan đầu
não của địch không hề dễ. Từ giai đoạn 1930-1944 đã có tới 17 lần Thành ủy Hà
Nội được thành lập, nhưng hoặc cơ sở bị bại lộ, hoặc Bí thư Thành ủy bị địch bắt.
Khi nhận nhiệm vụ làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, trực tiếp chỉ đạo quân và
dân kháng chiến, nhiều anh em đã nói rằng, “cửa đó là cửa tử”, tôi sẽ trở thành
con thiêu thân mà thôi. Còn tôi thì nói rằng, đã dấn thân vào con đường cách
mạng, thì “ra đi chẳng tiếc đời xanh” - ông nhớ lại chuyện xưa.
Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, tôi đã tìm hiểu rất kỹ lý do vì sao các vị Bí thư
Thành ủy tiền nhiệm lại bị bắt hoặc cơ sở bị lộ thì rút ra một điều: Phải có căn cứ
an toàn bảo vệ tổ chức của ta. Trong khi đó, trước đây cơ sở của ta toàn đóng
trong nội thành. Tôi quyết định cho xây dựng căn cứ tại khu vực ngoại thành ở Đại
lý Hoàn Long (vùng Nghĩa Đô bây giờ). Từ ngoại thành, căn cứ cách mạng này có
nhiệm vụ chỉ đạo các hoạt động trong nội thành.
Tranh thủ, vận động đối phương
Đại tướng Nguyễn Quyết cho biết, để tiến vào nội thành chỉ có một cách duy
nhất: Tranh thủ vận động lực lượng đối lập, biến họ thành lực lượng của ta, phải
cách mạng hóa họ. Đảng đặt vấn đề, phải tổ chức những người đã từng làm việc
cho Pháp, Nhật, cảm hóa họ vào Quân nhân cứu quốc, Việt Nam cứu quốc.
Các kế hoạch vận động, cảm hóa đã được làm từng bước,bước đầu là phải
cài người vào làm việc tại đơn vị của địch. Nhờ thế, kế hoạch vận động đã có
những kết quả đáng mừng. Thậm chí chúng ta còn vận động được cả Trưởng ty
cảnh sát đi theo cách mạng - Đại tướng Nguyễn Quyết nói.
Với câu hỏi vì sao chúng ta cảm hóa được những người đã từng làm việc ở
chiến tuyến bên kia? Đại tướng Nguyễn Quyết cho rằng, phải có phương thức
nhưng quan trọng là phải có thời cơ. Thời cơ của cách mạng đã đến sau ngày Nhật
đảo chính Pháp 9/3/1945 - ông Nguyễn Quyết nói. Sau khi bị Nhật khủng bố
những người đã từng có thời làm cho Pháp hết sức dao động, vì thế, chúng ta đã
có điều kiện tranh thủ kéo họ đứng về phía chúng ta.
Thời cơ đã đến phải chủ động tiến công
Đêm 14 và ngày 15/8/1945, Xứ ủy Bắc kỳ đã họp ở làng lụa Vạn Phúc (Hà
Đông), quyết định lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi 10 tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ. Riêng Hà Nội, Xứ ủy thấy cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, nhưng
phải thành lập ngay Ủy ban Quân sự để chuẩn bị khởi nghĩa.
Nói rõ vì sao Trung ương chưa quyết định đánh ở Hà Nội, Đại tướng
Nguyễn Quyết cho biết, vì đây là cơ quan đầu não của địch ở Đông Dương. Tại đây,
quân Nhật còn nguyên lực lượng, nếu phát động khởi nghĩa, Hà Nội có thể gặp khó
khăn. Hà Nội khó khăn sẽ ảnh hưởng tới các địa phương khác.
Dù vậy, tối 17/8/1945, sau khi phá thành công cuộc mít tinh của Tổng hội
viên chức (thân Nhật) nhằm ủng hộ chính quyền tay sai do Nhật mới dựng lên và
biến nó thành cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng của ta; nhận thấy
thái độ của Nhật án binh bất động, cố thủ trong doanh trại, Thành ủy Hà Nội ngay
trong đêm đã có cuộc họp khẩn cấp dưới sự chủ trì của Bí thư Nguyễn Quyết.
Tại cuộc họp, ông đã đưa ra một quyết định lịch sử: Hà Nội sẽ tiến hành
khởi nghĩa vào ngày 19/8/1945, đánh đổ chính quyền tay sai, thành lập chính
quyền cách mạng. Đối với quân Nhật, chủ trương của ta là giữ thái độ trung lập,
cốt sao chúng không can thiệp vào công việc khởi nghĩa. Lực lượng khởi nghĩa chủ
yếu là quần chúng cách mạng, có lực lượng cách mạng làm nòng cốt.
Đại tướng Nguyễn Quyết cho biết, để ra quyết định như vậy, thật sự là cân
não. Cuộc họp kéo dài suốt đêm, từ 8h tối hôm trước đến tận sáng hôm sau với 2
luồng ý kiến trái chiều. Luồng ý kiến thứ nhất là phải tiêu diệt địch, vì địch yếu rồi.
Thứ hai là, phải chờ Trung ương. Cái khó nhất là chưa có chỉ thị của Trung ương.
Dù vậy, không thể không quyết định, vì nếu chờ thì sẽ mất thời cơ.
Đại tướng Nguyễn Quyết tâm sự: “Đó là một quyết định táo bạo nhưng đã
được cân nhắc kỹ lưỡng. Bởi khi đó, nếu không giành thắng lợi thì người đứng
đầu phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nhưng ông tin đây là quyết định sáng suốt
của cá nhân ông cũng như tập thể những người đã gắn bó, sống chết với phong
trào cách mạng. Nếu tuột mất cơ hội ngàn năm có 1 này rồi mới tiến hành khởi
nghĩa, hay cứ kiên quyết đánh Nhật thì chưa biết hậu quả sẽ thế nào khi quân
Đồng minh đến Hà Nội.
Về ý kiến cho rằng, chiến thắng của Hà Nội là do may mắn mà có, Đại tướng
Nguyễn Quyết cho biết, đây là suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Nếu chỉ nhìn vào tương
quan lực lượng giữa hai bên thì Hà Nội không thể phát động khởi nghĩa và giành
thắng lợi. Nói tới khởi nghĩa tức là vấn đề chính quyền. Kẻ thù không dễ gì từ bỏ
chính quyền-công cụ thống trị của chúng. Chúng sẽ dùng bạo lực quân sự để
chống lại. Hà Nội là nơi Bộ Tư lệnh Quân đoàn 38 của Nhật đóng, chúng còn
nguyên vẹn về tổ chức với hơn 1 vạn sĩ quan và binh lính, trang bị hiện đại. Lực
lượng bảo an binh cũng hơn 1 ngàn tên và bộ máy cảnh sát khá lớn. Trong khi lực
lượng của ta chỉ có 700 người với vũ khí thô sơ - Tướng Quyết nhận định.
Tuy tổ chức và trang bị của lực lượng vũ trang địch chưa tổn thất nhưng
tinh thần của chúng rệu rã. Binh lính Nhật chỉ chờ lệnh hạ vũ khí đầu hàng của
Nhật Hoàng để trở về nước với gia đình, không còn ý chí chiến đấu. Còn binh lính
người Việt làm cho Nhật cũng mất hết tinh thần chiến đấu. Trong khi lực lượng
cách mạng quần chúng, tinh thần khí thế lên rất cao. Nếu những người lãnh đạo
khởi nghĩa có phương sách mềm dẻo ôn hòa, thuyết phục các đơn vị Nhật “đứng
ngoài cuộc” thì khởi nghĩa sẽ thuận lợi, không đổ máu.
Tướng Nguyễn Quyết kể rằng, ông chính là người chỉ huy đoàn biểu tình đi
chiếm trại bảo an binh ở số nhà 40 Hàng Bài. Đây là căn cứ quân sự lớn của ngụy
quyền ở Bắc Kỳ. Chỉ huy trại bảo an binh cố trì hoãn, định cố thủ. Chúng đóng chặt
cổng nhưng đã bị đội quân của ta phá cổng, buộc chỉ huy trại ra gặp.
Trước khí thế cách mạng sục sôi của ta, chỉ huy trại bảo an binh đã chấp
nhận đầu hàng. Tưởng rằng chiếm bảo an binh dễ dàng nhưng sợ ta chiếm trại sẽ
lấy vũ khí tiêu diệt chúng, quân Nhật đã đem xe tăng và binh lính đến bao vây, uy
hiếp đòi chiếm lại trại. Bằng sự linh hoạt, khôn khéo trong ứng xử, nhưng kiên
định trong nguyên tắc và kiên quyết trong hành động, Bí thư Thành ủy Nguyễn
Quyết đã chỉ đạo đoàn biểu tình đấu tranh khôn ngoan với địch bằng phương thức
tuyên truyền, thuyết phục làm cho quân Nhật không hành động liều lĩnh mà quay
về doanh trại. Cứ như vậy, bằng phương thức vận động thuyết phục chứ không
dùng vũ trang, quân và dân Hà Nội vùng dậy khởi nghĩa khắp nơi giành chính
quyền về tay nhân dân.
Nói về bài học kinh nghiệm đặt ra trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
ở Hà Nội, Tướng Quyết cho rằng, lực lượng quyết định làm nên thắng lợi chính là
nhân dân. Tinh thần quyết chiến, sự quả cảm quyết hy sinh vì Tổ quốc của quân
dân Thủ đô dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh cũng như sự sáng tạo, linh
hoạt của Thành ủy Hà Nội đã làm nên chiến thắng.
Nhận xét về chiến công này, chính Tổng Bí thư Trường Chinh lúc đương
nhiệm đã từng viết: “Nhiệt tình cách mạng của quần chúng, tinh thần sáng tạo của
Đảng bộ địa phương đã biến chủ trương đúng đắn của Đảng thành thắng lợi.
Chúng tôi nghĩ Hà Nội thắng lợi, cả nước nhất định sẽ noi gương Hà Nội, cách
mạng cả nước nhất định thành công”.
Lục Bình (ghi)
Lục Bình. Ký ức xanh nguyên// Đại đoàn kết.- 2015.- Ngày 13 tháng 8.- Tr.3.
MỘT ĐỜI ĐỒNG HÀNH CÙNG CÁCH MẠNG
Dù đã bước vào tuổi 100, nhưng cụ Nguyễn Văn Trân vẫn còn minh mẫn
lắm. Bằng giọng trầm trầm, câu chuyện cuộc đời của người chiến sĩ cách
mạng đồng hành cùng đất nước như thước phim quay chậm đã được cụ kể
lại với Đại Đoàn Kết.
Cụ Nguyễn Văn Trân
Thành lập Hội Ái hữu, làm báo Cờ Giải phóng
“Tôi là Nguyễn Văn Trân, sinh năm 1916 tại thôn Phù Xá, Văn Môn, Yên
Phong, Bắc Ninh trong một gia đình nghèo đông con. Năm 15 tuổi, tôi lên Hà Nội
học nghề in. Tại đây, tôi đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp những người lãnh
đạo của Đảng dìu dắt, tôi đã may mắn được đứng trong hàng ngũ của Đảng vào
tháng 3 năm 1936. Từ đó, tôi đã nguyện trọn đời đi theo cách mạng, đi theo con
đường của Chủ tịch Hồ Chí minh” - giọng ông chắc nịch.
Những năm đó, Mặt trận Bình dân giành được thắng lợi ở Pháp, tình hình
chính trị ở Đông Dương nói chung, ở Việt Nam nói riêng có thuận lợi cho phong
trào cách mạng. Một số tờ báo Bạn dân, Tin tức, Thời thế… được ra công khai
tuyên truyền về chính trị, về Đảng Cộng sản. Ông Nguyễn Văn Trân đã viết bài
tuyên truyền về Đảng và là một trong số các đảng viên đứng ra thành lập Hội Ái
hữu.
Khi chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, do nhiều nguyên nhân, phong trào
cách mạng đi vào thoái trào. Các tờ báo của Đảng bị cấm hoạt động, một số đảng
viên phải rút vào bí mật. Ông Nguyễn Văn Trân có tên trong sổ đen của Sở Mật
thám Pháp. Ông được Trung ương bí mật đưa về làng Vạn Phúc-Hà Đông, tiếp tục
cùng một số đảng viên khác in tờ Cờ Giải phóng. In được vài số thì cơ sở báo bị bại
lộ.
“Tôi và một thợ in tên là Viên bị bắt đúng vào ngày Tết ông Táo năm 1940”
- ông nói. Hai ông bị địch đưa về phủ Hoài Đức rồi chuyển ra Sở Mật thám Hà Nội.
Kể đến đây người chiến sĩ cộng sản một thời dừng lại, ông lặp đi lặp lại tới ba lần
chuỗi ngày ông bị bắt và bị đi đầy ở Nhà tù Sơn La. “Ngay trong tối hôm đó, lần
đầu tiên tôi biết thế nào là đòn tra tấn của địch” - ông kể.
Tuy nhiên, kẻ địch có tra khảo, tra tấn dã man đến mấy cũng không khai
thác được gì từ người chiến sỹ cách mạng kiên trung này. “Tôi là người thất
nghiệp, được người ta thuê in ấn thì làm chứ chẳng biết gì đảng phái, Cộng sản là
gì hết”. Lần nào ông cũng trả lời như vậy. Tra tấn chán chê mà không khai thác
được bất kỳ tin tức gì, mật thám Pháp đành đưa ông ra tòa kết án 10 năm tù khổ
sai và đày ông lên Nhà tù Sơn La.
“Thủ lĩnh” của Nhà tù Sơn La
Thời Pháp thuộc, khắp dải đất hình chữ S, đâu đâu cũng nghe tiếng kêu oán
thán “nhà tù nhiều hơn trường học”; roi vọt nhiều hơn tình thương; nước mắt
nhiều hơn nụ cười”…Trong số những nhà tù kiểu Pháp, những bằng chứng sống tố
cáo tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam thì Nhà tù Sơn La là một trong những ví
dụ điển hình.
Tuy những chiến sĩ cách mạng bị tra tấn, hành hạ dã man, nhưng phong
trào cách mạng không hề vơi bớt bởi có những người như ông Nguyễn Văn Trân.
Tại đây, ông Trân thường xuyên lui tới các trại giam tập hợp và bồi dưỡng các tù
nhân và kết nạp họ vào hàng ngũ của Đảng. Một chi ủy bí mật đã được thành lập
ngay trong tù, do ông Nguyễn Văn Trân lãnh đạo.
Ông Trân còn được phân công viết và cất giữ tài liệu tuyên truyền về Đảng.
Mọi thông tin đặc biệt đó được viết vào tờ giấy cuốn thuốc lá, tờ giấy chỉ to bằng
bao diêm, được cất giấu bí mật, đến người ở cùng phòng cũng không hay biết. Từ
ngày có tổ chức đảng ở đây, các cuộc đấu tranh trong Nhà tù Sơn La đã dấy lên
mạnh mẽ.
Tháng 8 năm 1943, chi bộ nhà tù quyết định tổ chức vượt ngục cho 4 người
gồm: Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh, Lưu Đức Hiểu và Nguyễn Văn Trân.
Tuy nhiên làm thế nào để vượt ngục khi mà có tới 5 lần cửa có lính canh gác suốt
ngày đêm? Nếu thoát khỏi nơi này cũng dễ bị lạc giữa rừng sâu, dễ bị làm mồi cho
thú dữ. Trước đó, đã từng có nhiều người không chịu được cảnh lao tù đã vượt
ngục. Khi địch bị bắt lại chúng đã chặt đầu bêu trước cổng nhà ngục để thị uy.
Ngày 3/8/1943 ông Trân và 3 đồng chí đã tiến hành lần lượt các bước đánh
lừa lính canh và vượt ngục. Các ông đã cải trang thành người Thái nhanh chóng
nấp vào trong rừng sâu. Khi phát hiện có người vượt ngục, lính Pháp lùng sục
khắp nơi. Chúng đã suýt bắt lại các chiến sĩ Cộng sản vượt ngục này ở bến phà
Suối Rút.
Nhanh trí, ông Trân kéo các bạn vào một quán gần đó giả vờ mua hàng rồi
lẩn vào trong đám đông nhốn nháo dưới bến phà. Bằng sự mưu trí, dũng cảm
cùng sự may mắn, các chiến sỹ cách mạng đã thoát khỏi địa ngục trần gian về với
tổ chức để nhận những nhiệm vụ mới.
Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ
Sau cuộc vượt ngục, ông Nguyễn Văn Trân được Trung ương quyết định
cho tham gia Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách công tác dân vận. Ông sống
trong lòng Hà Nội ở với công nhân, sinh viên. Với chiếc xe đạp, ngày ngày, ông đi
khắp nơi để tuyên truyền cách mạng. Tháng 7/1944 ông nhận nhiệm vụ là Bí thư
Xứ ủy Bắc Kỳ.
Trong thời kỳ này ông đã làm được nhiều việc lớn đó là tổ chức để đồng chí
Văn Tiến Dũng vượt ngục thành công và tổ chức các phong trào hoạt động ở một
số địa phương. Hai việc quan trọng mà Xứ ủy phải thực hiện ngay lúc bấy giờ là
gây dựng tài chính và tổ chức sản xuất vũ khí.
Câu chuyện gián đoạn vì ông muốn kể lại những kỷ niệm đặc biệt một thời.
Ông nói rằng, cách mạng cần có tiền để chuẩn bị khởi nghĩa, muốn vậy phải vận
động sự ủng hộ của các nhà tư sản.
Ông kể: “Trong cuộc đời hoạt động cách mạng có rất nhiều chuyện đáng
nhớ, nhưng lần bán tín phiếu của Chính phủ cho ông Bát Tiên tôi không quên
được. Ông Bát Tiên là nhà tư sản lớn. Cuối năm 1943, được sự giới thiệu của anh
em, tôi đến thẳng nhà ông ở Đình Bảng. Tôi giải thích cho ông về tình thế đất
nước, xu thế cách mạng đang lên và kêu gọi mỗi người tùy khả năng công sức
đóng góp cho cách mạng. Ông Bát Tiên không lưỡng lự, vào tủ lấy 5.000 đồng
Đông Dương (lúc đó là lượng tài sản rất lớn) trao cho tôi. Tôi trao lại cho ông tờ
tín phiếu kháng chiến, nhỏ bằng cái phong bì hiện nay, in đen trắng có dấu đỏ của
Tổng bộ Việt Minh”.
Hà Nội những ngày toàn quốc kháng chiến
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Nguyễn Văn Trân được Đảng và
Chính phủ cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Bắc Bộ. Khi nhận nhiệm vụ
này, ông đã khéo léo đưa được những đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng
thành công tác của Ủy ban Hành chính Bắc Bộ như: Xây dựng chính quyền mới các
cấp, đắp đê chống lụt, vận động sản xuất chống nạn đói, tổ chức bình dân học vụ,
tổ chức Tuần lễ Vàng, Quỹ Độc lập…
Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Ông Nguyễn Văn
Trân được Trung ương và Bác Hồ điều về làm Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến Hà Nội. Nhớ lại những ngày Hà Nội chuẩn bị kháng chiến, ông
Trân kể: “Có lần Bác Hồ đã gọi tôi, đồng chí Hoàng Văn Thái cùng một số đồng chí
ra báo cáo công việc. Bác hỏi: Các chú thấy tình hình quân Pháp thế nào? Nếu nổ
ra chiến tranh liệu chúng ta có thể giữ được bao lâu? Phải cố giữ một thời gian để
các tỉnh có thì giờ tổ chức và động viên quần chúng có kế hoạch đi vào cuộc kháng
chiến”. Mọi người chưa ai kịp nói gì, Bác đặt luôn câu hỏi: “Liệu có giữ Hà Nội
được 1 tháng không?”.
Đồng chí Hoàng Văn Thái đã nêu vấn đề: Để chiến đấu ở từng khu phố, từng
căn nhà cần phải tổ chức giao thông liên lạc chặt chẽ giữa các lực lượng chiến đấu.
Phải đục tường liên thông giữa các nhà trong các phố để khi tác chiến có thể di
chuyển lực lượng nhanh chóng và kín đáo. Ý kiến này đã được người dân Hà Nội
hoan nghênh ủng hộ và với tinh thần hăng hái, quyết chiến của quân dân Thủ đô
có thể giữ Thủ đô được 1 tháng. Bác động viên chúng tôi rằng: “Dựa vào lực lượng
nhân dân thì các chú có thể làm tốt công việc”.
Quả thật, dù tương quan lực lượng giữa ta và địch rất chênh nhau, lính
Pháp gấp 3 lần quân đội cách mạng, nhưng với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”, quân và dân Thủ đô đã có những trận đánh vang dội khiến quân địch
khiếp sợ.
Đầu năm 1953, Đảng, Chính phủ quyết định mở chiến dịch tiêu diệt cứ
điểm Điện Biên Phủ, ông Nguyễn Văn Trân được Trung ương cử làm Phó Chủ tịch
Hội đồng cung cấp. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao
phó khi tổ chức tiếp tế đầy đủ, lương thực cho bộ đội để làm nên một Điện Biên
Phủ chấn động địa cầu.
Khi hòa bình lập lại ông lần lượt giữ các chức vụ Bộ trưởng Bộ Giao thông-
Bưu điện, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp
nặng… rồi lại trở về làm Bí thư Thành ủy Hà Nội sau đó là lãnh đạo Viện Nghiên
cứu Quản ký Kinh tế Trung ương…Dù ở bất kỳ cương vị nào ông cũng hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Lục Bình (ghi)
Lục Bình. Một đời đồng hành cùng cách mạng// Đại đoàn kết.- 2015.- Ngày
14 tháng 8.- Tr. 3.
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM QUA CON MẮT NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
70 năm qua, các sử gia, nhà nghiên cứu, nhà chính trị, quân sự và nhà báo
nước ngoài đã viết hàng trăm cuốn sách về cuộc Cách mạng Tháng Tám của
Việt Nam. Cho đến hôm nay, các tác phẩm này vẫn thu hút được sự quan tâm
lớn của dư luận.
Nhà sử học Na Uy X.Tôn-nét-xơn (S.Tonnesson) trong cuốn “The
Vietnamese Revolution of 1945-Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World
at War” (Cách mạng Việt Nam 1945-Roosevelt, Hồ Chí Minh và De Gaulle trong
một thế giới chiến tranh) in năm 1991, cho rằng Hồ Chủ tịch đã thực hiện tổng
tuyển cử, thành lập chính phủ hợp pháp dựa trên quyền tự do dân chủ: “Cuộc cách
mạng ở Việt Nam năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, không chỉ
có vậy, đó còn là một cuộc cách mạng chính trị chống lại nền quân chủ thối nát và
là một cuộc cách mạng xã hội chống lại chủ đất và những người thu thuế”. Tôn-
nét-xơn cũng cho rằng: “Cách mạng Việt Nam quan trọng và không phải chỉ thuần
túy trong bối cảnh Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam nằm
trong những nguồn cảm hứng chủ yếu của một đường lối đấu tranh lớn khác sau
chiến tranh, đó là quá trình phi thực dân hóa. Trong các cuộc cách mạng cộng sản,
cách mạng của người Việt Nam nổi lên như là một trong những cuộc cách mạng có
sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất”.
Cuốn sách “The Vietnamese Revolution of 1945 - Roosevelt, Ho Chi Minh and
de Gaulle in a World at War” (Cách mạng Việt Nam 1945 - Roosevelt, Hồ Chí Minh
và De Gaulle trong một thế giới chiến tranh) in năm 1991 của nhà sử học Na Uy
X.Tôn-nét-xơn. Ảnh: Amazon.com
Với nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu và sử gia người Pháp, thành công của
cuộc Cách mạng Tháng Tám của dân tộc Việt Nam là sự kiện đặc biệt ấn tượng. Họ
thực sự quan tâm và dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu. Một trong
những chuyên gia người Pháp được nhiều người biết tới là nhà sử học A.Rút-xi-ô
(Alain Ruscio). Ông đã có hơn 15 tác phẩm viết về lịch sử Việt Nam, các cuộc
kháng chiến, về Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam. Đã hơn 30 năm
nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, càng đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, nhà sử học Rút-
xi-ô càng thấy những điều hấp dẫn và cảm phục trước những thắng lợi của nhân
dân Việt Nam trong các cuộc kháng chiến, đặc biệt là thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám. “Chiến thắng năm 1945 của Việt Nam không chỉ là sự kiện gây bất
ngờ, mà đó cũng là sự tất yếu mang tính lô-gíc trong lịch sử phong trào đấu tranh
của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam là dân tộc đầu tiên trong số các dân tộc
trên thế giới bị thực dân Pháp đô hộ đã thành công trong cuộc kháng chiến của
mình. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã có ảnh hưởng rất lớn tới
phong trào đấu tranh đòi độc lập của các nước thuộc địa trên thế giới lúc bấy giờ,
nhất là các nước ở châu Phi. Khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có vai trò quan
trọng, là người đầu tiên tuyên bố độc lập của một nước thuộc địa”.
A.Rút-xi-ô còn phân tích, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa thực
dân vẫn còn tồn tại, khi đó, 1/3 các dân tộc trên thế giới phải sống dưới sự chiếm
đóng của thực dân Pháp, Anh và Bồ Đào Nha. Ông khẳng định: “Trong bối cảnh
như vậy, Việt Nam là một tấm gương, là biểu tượng của quá trình đấu tranh giành
độc lập; các dân tộc bị đô hộ cần phải lên tiếng”.
Nhà sử học nổi tiếng người Pháp S.Phuốc-ni-ô (Charles Fournieau) thì cho
rằng, cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là cuộc cách mạng hết sức quan
trọng không chỉ đối với Việt Nam. Đây là cuộc cách mạng thực sự, với sự đồng
lòng, chung sức của cả dân tộc; là cuộc cách mạng lớn, của toàn dân tộc Việt Nam,
đứng lên giành độc lập dân tộc. Theo Phuốc-ni-ô, thực tế, cuộc cách mạng của Việt
Nam đã có tác động lớn trên thế giới, nhất là đối với các nước thuộc địa khi đó.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu thời điểm quan trọng trong lịch
sử Việt Nam, phản ánh cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam chống
lại sự chiếm đóng của giặc ngoại xâm, đồng thời đánh dấu sự chuyển giao sang
thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Không những vậy, thành công của cuộc Cách
mạng Tháng Tám ở Việt Nam còn có ý nghĩa quốc tế, bởi lẽ đây là một trong
những phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới. Đối với
phong trào cách mạng Đông Dương cũng như thế giới, Cách mạng Tháng Tám ở
Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng.
NGỌC HÀ
Ngọc Hà. Cách mạng Tháng Tám qua con mắt người nước ngoài//Quân đội
nhân dân.- 2015.- Ngày 19 tháng 8.- Tr.7.
TIẾN BƯỚC CÙNG THỜI ĐẠI
Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh: Tư liệu.
9 giờ sáng ngày 2/9/1945.
Hơn hai vạn con Hồng cháu Lạc tề tựu tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Họ
chờ nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Từ khán đài một giọng nói ấm áp vang lên: “Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy
rộng ra, câu ấy có nghĩa là; tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẵng;
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người
ta sinh ra tự do và bình đẵng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình
đẵng về quyền lợi”. Bản Tuyên ngôn kết thúc với câu: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy”.
Lắng nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, nhân dân cả nước
Việt Nam trào dâng niềm phấn chấn khôn tả, một sự rung động tột bậc của con
tim. Mới hôm qua đây họ mang thân phận của kẻ nô lệ. Hôm nay họ là dân một nước
Độc lập.
Nhân dân nhiều nước cũng không kém phần ngạc nhiên. Qua những câu mở
đầu trong Tuyên ngôn Độc lập, họ thấy Việt Nam vốn là nước thuộc địa nay đã
vùng lên, tự cởi bỏ xiềng xích để hòa mình vào giòng thời đại, vào cuộc đấu tranh
cho quyền con ngươi, quyền công dân, quyền độc lập tự do cho các dân tộc.
Bảy mươi năm đã trôi qua. Bảy mươi năm cùng tiến bước theo thời đại,
Việt nam đã giành được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng tăng. Việt Nam hiện đã có quan hệ nhiều mặt và khá tốt đẹp với 180
nước trên thế giới: Châu Á: 26 nước, Châu Âu: 46 nước, Châu Đại dương: 11 nước,
Châu Phi: 50 nước, Châu Mỹ: 29 nước.Việt Nam được đánh giá là nước đang phát
triển, có mức thu nhập trung bình.
Những thành tựu nêu trên không phải bỗng nhiên mà có.
Việt Nam mất nước vào tay giặc Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX. Cho đến giữa
thế kỷ đầu XX (1945) Việt Nam vẫn bị kẹp chặt trong xiềng xích của chế độ thực
dân. Các nhà cách mạng Việt Nam dấn thân đi tìm con đường cứu nước cứu dân
nhưng vẫn bị bế tắc. Một số người theo hướng Đông du, đi cầu viện Nhật để đuổi
Pháp. Một số người theo hướng Tây du, thỏa hiệp với Pháp lập chế độ Quân chủ
lập hiến. Trong hoàn cảnh đó xuất hiện nhà cách mạng trẻ Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng cầu viện Nhật để đánh đuổi giặc Pháp chẳng khác gì
đuổi beo cửa trước, rước hổ cửa sau; mong muốn thỏa hiệp để được thực dân
Pháp ban ơn là vô vọng. Dựa vào sức của kẻ khác để giải phóng cho mình thì trước
sau đều trở thành kẻ lệ thuộc.
Trong hành động, Nguyễn Ái Quốc không đi theo con đường đấu tranh nghị
trường, lúc ấy gọi là những nhà cách mạng ghế bành. Cùng với việc làm rất nhiều
nghề, hòa mình với nhân dân lao động nhiều nước, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành đã dành thời gian tới các thư viện lớn để đọc sách, nghiên cứu
các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin, “Tinh thần pháp luật” của Montesquie,
“Khế ước xã hội” của Jean Jacques Rousseau, Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 nước
Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp, Hiến pháp năm
1787 của nước Mỹ và nhiều trước tác kinh điển khác để từ đó xác định đúng con
đường cứu nước, cứu dân phù hợp với những đặc điểm của thời đại.
Nguyễn Ái Quốc ra nước ngoài không phải để mưu sinh mà để tìm hiểu tính
thời đại và chọn con đường cứu nước cứu dân. Một số trước tác như: Tám yêu
sách gửi Hội nghị Versailles năm 1919; Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn
Độc lập năm 1945, Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
những tài liệu thể hiện một cách cô đọng và bao quát nhất về tính thời đại mà
Người đã dấn thân đi tìm tòi trong quãng thời gian dài 34 năm, từ năm 1911- năm
rời bến Nhà Rồng - đến năm 1945 - năm Cách mạng tháng Tám thành công.
Chế độ Cộng hòa Dân chủ là cái nôi của Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Sau này khi đã trở thành một nước XHCN những đích đến ấy vẫn được Đảng ta và
Nhà nước ta theo đuổi. Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là những tiêu chí nhằm đảm
bảo, cải thiện đời sống dân sinh. Có Độc lập mới có Tự do. Có Độc lập, có Tự do
mới có điều kiện để mưu cầu Hạnh phúc. Mất độc lập, mất tự do mà nói đến mưu
cầu hạnh phúc là vô nghĩa. Những mục tiêu ấy có mối liên hệ khăng khít, tùy thuộc
lẫn nhau như hình với bóng, như da thịt với máu xương. Điều mà các vị cách mạng
tiền bối không tìm ra thì Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra. Nguyễn Ái Quốc đã dẫn dắt
nhân dân Việt Nam hướng theo thời đại.
Tiếng nói và uy tín của Nhà nước cách mạng Việt Nam ngày càng có trọng
lượng trên trường quốc tế. Đảng và Nhà nước Việt Nam đang thực hiện đường lối
hội nhập sâu rộng với quốc tế, dẫn dắt đất nước bước theo giòng thời đại. Đây là
đường lời cơ bản nhằm đưa cách mạng Việt Nam chóng tới đích. Tuy vậy so với
nhiều nước quanh vùng, Việt Nam vẫn là nước phát triển chậm. Singapore, một
nước có diện tích xấp xỉ đảo Phú Quốc của Việt Nam, trong 50 năm đã đưa đất
nước phát triển gấp bội phần, thu nhập bình quân từ 428 USD lên đến 56.264
USD/ đầu người hiện nay, trở thành một trong 10 nước có GDP theo đầu người
cao nhất của thế giới.
Nhiều nhà khoa học đang cố tìm nguyên nhân. Có phải chăng vì chưa quán
triệt thấu đáo, cặn kẽ được tính thời đại nên bộ máy và nền pháp luật chậm được
đổi mới. Về mặt lý luận cũng như về thực tiễn, việc nhận rõ tính thời đại và hành
động theo xu thế thời đại là điều nhất thiết phải đặc biệt quan tâm để đưa đất
nước tiến bộ nhanh hơn và tiến kịp với các nước phát triển.
Luật sư Lê Đức Tiết
Lê Đức Tiết. Tiến bước cùng thời đại// Đại đoàn kết.- 2015.- Ngày 24 tháng
8.- Tr.3.
MẠCH NGUỒN CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN
QĐND - LTS: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện trọng đại nhất, oanh liệt nhất của dân tộc Việt Nam. Tất cả những thành tựu to lớn của Tổ quốc ta đã đạt được trong suốt 70 năm qua, nhất là trong gần 30 năm đổi mới, đều bắt nguồn từ những nền tảng đầu tiên là thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để góp phần ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc ta 70 năm qua, rút ra những bài học sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài viết với chủ đề “Mạch nguồn của đổi mới và phát triển”.
Bài 1: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đánh dấu bước ngoặt của lịch sử dân tộc Việt Nam. Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, trở thành một nước độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhân dân từ nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền. Nhà nước của giai cấp bóc lột bị đánh đổ và thay vào đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng Tháng Tám không chỉ đập tan bộ máy thống trị của Pháp, Nhật, lật đổ chế độ phong kiến, mà còn giành được chính quyền về tay nhân dân lao động, thiết lập một Nhà nước kiểu mới lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Việt Nam, đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước này ra đời là kết quả của việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau bao nhiêu năm bôn ba tìm đường cứu nước, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xác định kiểu nhà nước thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam là phải đánh đổ. Thế nhưng cũng không thể quay lại kiểu nhà nước phong kiến vì đã lỗi thời. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng không lựa chọn kiểu nhà nước tư sản bởi Người hiểu rất rõ bản chất của Nhà nước ấy. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản với kiểu nhà nước của giai cấp công nhân, nhưng không máy móc dập khuôn theo một mô hình nhà nước xã hội cụ thể nào. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra kiểu nhà nước trong đó bảo đảm có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân và tính chất nhân dân, dân tộc.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 diễn ra tháng 5 năm 1941 do Bác Hồ chủ trì, Đảng ta đã quyết định lập ra Mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, tên gọi là Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị lực lượng vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa. Nghị quyết Hội nghị đã xác định: “... sau lúc đánh đuổi được Pháp-Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung của toàn dân tộc...”.
Để chuẩn bị cho nhà nước kiểu mới, khi chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ đã tổ chức Quốc dân Đại hội Tân Trào (tại Tuyên Quang) có vai trò như là một tiền Quốc hội hay một Quốc hội lâm thời. Với cơ cấu đại biểu đại diện cho khắp các vùng, miền, đại diện cho các giới, các đoàn thể ái quốc, các tầng lớp nhân dân nên quyết sách của Đại hội là quyết sách của nhân dân.
Từ những quyết sách do Quốc dân Đại hội đưa ra, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã thành công vang dội trong cả nước. Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Ủy ban dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội Tân Trào bầu ra, được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sau Tổng tuyển cử tự do, bầu Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều đầu tiên (điều thứ 1) trong Hiến pháp do Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 9-11-1946 đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Hiến pháp năm 1946 cũng quy định vị trí và mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp trong hệ thống nhà nước. Bản Hiến pháp đầu tiên này không chỉ đặt cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước Việt Nam trong những năm đầu của nền cộng hòa dân chủ, mà còn là cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta trong suốt thời kỳ từ 1946 đến 1959. Bản Hiến pháp năm 1946 vẫn có giá trị nghiên cứu, tham khảo trong cả quá trình xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật ở nước ta từ sau năm 1959 và cả trong giai đoạn hiện nay.
70 năm qua, Nhà nước Việt Nam của dân, do dân và vì dân được khởi nguồn từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám đã ghi những mốc son chói lọi trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhà nước đó đã tổ chức nhân dân tiến hành hai cuộc kháng chiến cứu nước kéo dài suốt 30 năm, đã đưa đến hai chiến công vĩ đại của thế kỷ 20: Chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954 và Ðại thắng mùa Xuân năm 1975. Ðộc lập và thống nhất của dân tộc ta đã được thực hiện trọn vẹn.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trải qua gần 30 năm qua, đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, trong đó có thành tựu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Nhà nước của chúng ta cũng cần phải được hoàn thiện.
Cách đây gần 2 năm, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 2013. Bản Hiến pháp mới thể chế hóa sâu sắc và toàn diện các quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ngay từ Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 đã long trọng tuyên bố: Nhân dân Việt Nam là chủ thể “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”; tiếp đến, bổ sung đầy đủ các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân như quy định của các Hiến pháp trước đây, mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6), bằng biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 29 và Điều 120). Đảng Cộng sản Việt Nam không những là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn phải “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Hiến pháp năm 2013 không chỉ ghi nhận Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bao gồm các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân
tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, mà còn bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước (Điều 9). Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, đóng vai trò “tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước...” (Điều 10). Những tư duy chính trị-pháp lý mới đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; từ nguồn gốc, bản chất đến mục đích tồn tại cũng như sức mạnh của Nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân. Đây chính là nền tảng hiến định để bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy mạnh mẽ hơn nữa chủ quyền của nhân dân trong đời sống nhà nước.
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta “là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (khoản 1, Điều 2), Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đó là quyền lực nhà nước là thống nhất, không chỉ được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (khoản 3, Điều 2). Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Bởi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu, một đòi hỏi chính đáng. Đó là cơ sở để hình thành cơ chế nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã trao cho mỗi quyền. Đây cũng là cơ sở hiến định để sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước mà Quốc hội vừa thông qua như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân,… nhằm phát huy vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề khó khăn và phức tạp. Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước, một mặt, là để phòng, chống sự tha hóa và lạm dụng quyền lực nhà nước, nhưng mặt khác, làm sao để không phải vì kiểm soát quyền lực nhà nước mà làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có trong thực hiện chức năng của Nhà nước. Vì thế, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, lại vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Đây cũng chính là cơ sở hiến định để chúng ta tiếp tục đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay bằng việc hoàn thiện các thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước.
70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong mặt trận, Nhà nước ra đời từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Để Nhà nước của chúng ta sinh ra từ Cách mạng Tháng Tám làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi người dân sống trong Nhà nước phải có trách nhiệm giám sát, bảo vệ và đóng góp công sức, trí tuệ xây dựng Nhà nước ngày càng vững mạnh.
ĐỖ PHÚ THỌ Đỗ Phú Thọ. Mạch nguồn của đổi mới và phát triển. Bài 1: Xây dựng nhà
nước của dân, do dân và vì dân// Quân đội nhân dân.- 2015.- Ngày 27 tháng 8.- Tr.1,4.
MẠCH NGUỒN CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN
Bài 2: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ QĐND - Một trong những thành quả nổi bật trong công cuộc xây dựng đất nước 70 năm qua và nhất là sự nghiệp đổi mới đất nước gần 30 năm qua là hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT). Hội nhập KTQT đã tác động toàn diện đến mọi mặt phát triển của đất nước, góp phần củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Đúng như nhận định của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong bài viết đăng trên Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 29-7-2015 với nhan đề “Tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, thì Việt Nam “chủ động hội nhập quốc tế để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia”.
Trong quá trình hội nhập KTQT, các quy định pháp luật đã được Quốc hội, Chính phủ rà soát và hoàn thiện theo hướng sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới nhằm thực hiện các cam kết quốc tế. Thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp năm 2013, nhiều luật, pháp lệnh liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế được hoàn thiện, thể hiện qua nhịp độ khẩn trương của hoạt động lập pháp của Quốc hội. Chính phủ đã tích cực trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn. Về cơ bản, hệ thống pháp luật được sửa đổi, bổ sung thời gian qua đã góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho doanh nghiệp bằng việc bảo vệ quyền kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài. Việc vận dụng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có vai trò quan trọng để phát huy các lợi thế do hội nhập mang lại cũng như hạn chế các tác động tiêu cực từ quá trình hội nhập quốc tế.
Hội nhập KTQT đã giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ… cho thấy sự thay đổi về cơ cấu so với trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007. Tốc độ tăng trưởng cao nhất thuộc về khu vực dịch vụ, tiếp đó là công nghiệp và xây dựng; nông-lâm-ngư nghiệp. Tính trung bình năm giai đoạn 2007-2014, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ, công nghiệp và xây dựng, nông-lâm-ngư nghiệp lần lượt là 6,88%, 6,2% và 3,33%. Sự phát triển mạnh của khu vực dịch vụ có tác động tích cực từ việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết quốc tế, trong khi khu vực công nghiệp và xây dựng, dịch vụ tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Hội nhập KTQT đã tạo ra những tác động tích cực về mở rộng thị trường, đầu tư đối với nhiều ngành hàng của Việt Nam, thể hiện qua tăng trưởng kim ngạch và thị phần xuất khẩu. Đến nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 230 nước, vùng lãnh thổ. Thị trường xuất khẩu được đa dạng hóa. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào các thị trường trọng điểm, đặc biệt là các thị trường có Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đều đạt mức tăng trưởng cao. Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 150,19 tỷ USD, gấp 3,09 lần so với năm 2007; trong khi nhập khẩu là 148,05 tỷ USD, gấp 2,36 lần so với năm 2007.
Trong quá trình hội nhập, điều đáng mừng là cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cơ bản đã chủ động chuyển đổi để thích ứng với các điều kiện cạnh tranh quyết liệt trên thị trường trong nước và thế giới. Số liệu thống kê của UBND
TP Hồ Chí Minh cho thấy, tỷ trọng đóng góp vào tổng sản phẩm nội địa (GDP) của thành phố trong khu vực kinh tế ngoài Nhà nước năm 2014 chiếm 58,8% so với 23,7% của khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và 17,5% của khu vực kinh tế Nhà nước. Xu hướng tăng dần tỷ trọng của khu vực dân doanh cho thấy sức sống mãnh liệt và khả năng thích ứng tuyệt vời trong hội nhập của kinh tế tư nhân. Ở cấp độ doanh nghiệp, có thể kể ra nhiều gương sáng. Điển hình như Công ty Cổ phần Tập đoàn Intimex ở TP Hồ Chí Minh, sau 9 năm hội nhập, vốn điều lệ tăng từ 14,4 tỷ đồng lên 223 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 1 tỷ USD/năm, chủ yếu là xuất khẩu nông sản; Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) trong 12 năm sau cổ phần hóa, hằng năm doanh thu tăng bình quân 22%, lợi nhuận sau thuế tăng 26%, vốn chủ sở hữu tăng 10,6 lần, tổng tài sản tăng 10,1 lần, trở thành công ty sữa số một Việt Nam, là một trong 50 công ty sữa lớn nhất thế giới, doanh thu đạt gần 3 tỷ USD. Mới đây, khi tới thăm và làm việc với Vinamilk, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã đánh giá cao những thành công của doanh nghiệp và “thực sự ngưỡng mộ một doanh nghiệp Việt Nam đã làm vẻ vang thương hiệu Việt trong tiến trình hội nhập KTQT, trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, trở thành niềm tự hào của đất nước, con người Việt Nam”.
Đóng góp của khu vực FDI trong tổng sản phẩm nội địa cũng tăng mạnh từ năm 2007 đến nay, nhờ giá trị xuất khẩu của khu vực này tăng mạnh. Giá trị xuất khẩu của khu vực FDI trung bình giai đoạn 2007-2014 đạt 56,06 tỷ USD, chiếm 61% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Ngoài ra, khu vực FDI tạo ra khoảng 2 triệu việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp cho nền kinh tế. Số liệu điều tra năm 2013 cho thấy, khu vực này chiếm 26,6% tổng số lao động của nền kinh tế, chiếm 19,1% tổng vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các loại hình doanh nghiệp, 25% doanh thu thuần sản xuất kinh doanh, 42,4% lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Cùng với quá trình hội nhập KTQT sâu rộng, hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài dần được mở rộng, đa dạng hơn cả về thị trường và lĩnh vực đầu tư. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế đến tháng 4-2015, vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài là 20 tỷ USD, trong đó 15 tỷ USD là vốn đăng ký đầu tư của 962 dự án mới, 5 tỷ USD là vốn tăng thêm của 115 lượt dự án đã đầu tư. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài không còn chỉ giới hạn trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước mà đã có nhiều cá nhân, doanh nghiệp tư nhân đầu tư ra nước ngoài. Năm 2014, số dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp tư nhân chiếm 76% tổng số dự án.
Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xác định chỉ số cạnh tranh toàn cầu 2014/2015 của Việt Nam xếp thứ 68. So với khu vực ASEAN, có thể thấy xếp hạng của Việt Nam năm 2014 vẫn ở mức thấp hơn so với các nước trong khu vực như: Xin-ga-po xếp thứ 2, Ma-lai-xi-a xếp thứ 20, Thái Lan thứ 31, In-đô-nê-xi-a thứ 34 và Phi-líp-pin thứ 52. Dựa trên ba yếu tố quan trọng trong cách xếp hạng của WEF về thể chế, chính sách và năng suất, có thể thấy mặc dù chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế ngày càng cao, nhưng Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện cả ba yếu tố này. Ngoài ra, số liệu thống kê của Việt Nam cho thấy có sự cải thiện trong yếu tố năng suất lao động xã hội, cụ thể năng suất lao động năm 2014 gấp 2,7 lần so với năm 2007.
Chủ trì thực hiện giám sát tối cao của Quốc hội về kết quả hội nhập kinh tế từ khi nước ta trở thành thành viên WTO, chuẩn bị báo cáo với Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 tới đây, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu
nhận định, quá trình hội nhập KTQT cho thấy kết quả của quá trình thực hiện cam kết WTO nói riêng và hội nhập KTQT nói chung khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong mở rộng hợp tác KTQT và quan hệ đối ngoại, tạo tiền đề thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đoàn giám sát của Quốc hội nhận thấy, hội nhập KTQT đã góp phần to lớn cho những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế của tỉnh Bình Dương. Năm 2014, tổng sản phẩm trong tỉnh tăng bình quân 13%. Cơ cấu kinh tế công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp với tỷ trọng tương ứng là 60,8%-36,2%-3%, GDP bình quân đầu người đạt 61,2 triệu đồng. Bình Dương là một trong những điểm đến đáng tin cậy của các nhà đầu tư. Tính đến hết quý I-2015, toàn tỉnh hiện có 18.001 doanh nghiệp trong nước đăng ký kinh doanh với tổng số vốn là 136.506 tỷ đồng và 2.440 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn là 20,8 tỷ USD từ 39 quốc gia và vùng lãnh thổ, trở thành một trong 5 địa phương có số vốn đầu tư nước ngoài vượt mốc 20 tỷ USD. Khi làm việc với TP Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu đánh giá, kết quả đạt được của thành phố đã chứng minh sinh động về định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong hội nhập, triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách, pháp luật về hội nhập, phối hợp nhịp nhàng với các bộ, ngành ở Trung ương trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực thi các cam kết quốc tế…
Đoàn giám sát của Quốc hội nhìn nhận, hội nhập KTQT đã tác động toàn diện đến mọi mặt phát triển của đất nước. Quá trình hội nhập đã góp phần phát huy nội lực, lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh giữa các vùng, các lĩnh vực và thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, bền vững với những cải cách, hoàn thiện về thể chế, tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển hướng bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần phát huy những lợi thế của hội nhập KTQT và hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài… Trong quá trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế, chúng ta nhận thức rõ hơn về những yếu kém, bất cập của nền kinh tế, từ đó có giải pháp phù hợp nâng cao chất lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, cải cách hành chính gắn với tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
Tiến sĩ TRẦN VĂN
Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội
Trần Văn. Mạch nguồn của đổi mới và phát triển. Bài 2: Hội nhập kinh tế
quốc tế// Quân đội nhân dân.- 2015.- Ngày 28 tháng 8.- Tr.1,7.
MẠCH NGUỒN CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN
Bài 3: 70 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA
QĐND - Nếu hiểu văn hóa theo đúng nghĩa của nó như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, thì bất cứ cuộc cách mạng chân chính nào đều mang theo ý nghĩa văn hóa của nó. Dấu ấn văn hóa càng sâu thì quy mô và ý nghĩa của cuộc cách mạng càng lớn. Với ý nghĩa đó, Cách mạng Tháng Tám tạo ra một bước ngoặt vĩ đại trong đời sống dân tộc ta, xứng đáng đứng vào hàng ngũ các cuộc cách mạng lớn trong lịch sử nhân loại.
Ngay từ năm 1943, nghĩa là 2 năm trước khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, Đảng ta cho ra đời bản Đề cương văn hóa. Đó là bản Tuyên ngôn đầu tiên và đầy đủ nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc xây dựng một nền văn hóa mới trên đất nước ta. Với 3 phương châm: Dân tộc, khoa học, đại chúng, bản Đề cương không chỉ nhằm đấu tranh trực diện chống chính sách văn hóa ngu dân, phản dân tộc, phản đại chúng mà thực dân Pháp đang áp đặt lên nước ta, mà còn phản ánh được quy luật vận động và phát triển của văn hóa. Sức sống của bản Đề cương văn hóa là ở đó, trí tuệ và phẩm chất của Đảng Cộng sản cũng được thể hiện.
Kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, nghĩa là sau khi cách mạng chính trị đã thành công, tư tưởng của bản Đề cương đã dần dần được triển khai trong cuộc sống.
Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 có ý nghĩa và giá trị lịch sử sâu sắc. Ảnh: http://dangcongsan.vn
Từ những ngày đầu kháng chiến, khi đất nước đang trải qua muôn vàn khó khăn và thử thách, có thể nói đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Bác Hồ
vẫn bình tĩnh chỉ cho nhân dân biết, trước mắt chúng ta không chỉ có một thứ giặc, mà là ba thứ giặc: Giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc dốt. Cả ba thứ giặc đều nguy hiểm như nhau và chiến thắng ba thứ giặc đều vinh quang như nhau. Rõ ràng trong quan điểm của Bác và của Đảng, văn hóa không tách rời sự nghiệp cách mạng. Quán triệt quan điểm của "Đề cương văn hóa", Bác đề xuất khẩu hiệu "Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến". Văn hóa được coi như một mặt trận, một động lực và mục tiêu của cách mạng và kháng chiến. Sự nghiệp xây dựng văn hóa mới theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng đã góp phần đắc lực tạo ra một thế hệ người Việt Nam mới với khát vọng không có gì quý hơn độc lập, tự do, với phẩm chất trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Trên cái nền tảng chung của những giá trị mới đó, đã xuất hiện dần dần những con người mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Đó là anh Bộ đội Cụ Hồ, người chiến sĩ công an nhân dân, người trí thức cách mạng, người nghệ sĩ-chiến sĩ, người phụ nữ ba đảm đang... Bên cạnh những chiến sĩ bạch đầu quân, những người như Bác Hồ đã nói:
Càng già, càng dẻo lại càng dai, Tinh thần gương mẫu chẳng nhường ai Đôn đốc con em làm nhiệm vụ Vuốt râu mừng xã hội tương lai. (1)
Là những cháu ngoan Bác Hồ thường xuyên phấn đấu theo lời dạy của Bác: 1. Phải siêng học 2. Phải giữ sạch sẽ 3. Phải giữ kỷ luật 4. Phải làm theo đời sống mới 5. Phải thương yêu giúp đỡ cha mẹ, anh em. (2)
Như vậy là, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, với khẩu hiệu "Kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến", một nền văn hóa mới và một thế hệ con người mới đã xuất hiện ở nước ta. Nền văn hóa và con người mới đó vừa cắm rễ sâu vào các giá trị truyền thống vững chắc của dân tộc, vừa được bổ sung, bồi đắp những giá trị mới mang tính thời đại. Sức mạnh nội sinh của dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ được hình thành chủ yếu từ đó. Thắng lợi rực rỡ của hai cuộc kháng chiến, cũng là thắng lợi rực rỡ của nền văn hóa mới và con người mới của nước ta.
Bài học lớn mà sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới theo tinh thần của bản "Đề cương văn hóa năm 1943" là: Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù thuận lợi hay khó khăn, dù hòa bình hay chiến tranh, văn hóa luôn là mặt trận hàng đầu, ở đó những người cộng sản phải có mặt, phải phát huy vai trò lãnh đạo, vai trò tiên phong gương mẫu của mình, đồng thời phát huy triệt để sự tham gia tích cực của quần chúng. Đó là bài học lớn, bài học lịch sử mà chúng ta cần đi sâu nghiên cứu, tổng kết. Ở đây có hàng loạt những câu hỏi được đặt ra và cần giải đáp: Nếu không có bản "Đề cương văn hóa năm 1943" với ba phương châm: Dân tộc, khoa học, đại chúng, thì liệu ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến, chúng ta có thể huy động sức mạnh to lớn của dân tộc vào sự nghiệp kháng chiến được không? Nếu không có bản đề cương đó, liệu ngay từ đầu kháng chiến, chúng ta có thể huy động một đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đầy tài năng và tâm huyết vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới được không? Thiếu sự tham gia tích cực của quần chúng và của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ thì liệu nền văn hóa mới có hình
thành và phát triển được không? Đặt ra và trả lời các câu hỏi đó cũng chính là tạo điều kiện để xây dựng và phát triển văn hóa, con người ở thời kỳ lịch sử mới: Thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đại hội của sự nghiệp đổi mới, đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới: Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chấp nhận nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đó là những yêu cầu mới của lịch sử, đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Với ý nghĩa đó, sự nghiệp đổi mới mang ý nghĩa một cuộc vận động lớn về văn hóa. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: "Nói một cách hình tượng, đổi mới phải bắt nguồn và bắt rễ từ mảnh đất của văn hóa, truyền thống văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới bao quát mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội đến chính trị và hệ thống chính trị của nước ta... Với tầm nhìn bao quát, phải thấy văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa"(3), và thực tế đã chứng minh, càng tiến hành đổi mới, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa càng được sự quan tâm ngày càng sâu sắc của toàn xã hội. Từ Đại hội VII của Đảng, văn hóa được coi là nền tảng tinh thần, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội. Đó là kết quả của sự phát triển nhận thức của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, và cũng là cách trở về với những tư tưởng lớn về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ năm 1946, Bác Hồ đã khẳng định: Văn hóa soi đường cho quốc dân đi.
Từ một nhận thức mới về văn hóa, đối chiếu với những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Đảng không chỉ mở rộng nội hàm của từ văn hóa, mà còn đặc biệt chú ý đến những nhân tố cơ bản của đời sống văn hóa trong điều kiện lịch sử mới. Đó là các vấn đề về đạo đức, lối sống, các vấn đề về giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, là vấn đề phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kết tinh trong bản sắc văn hóa cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, Nghị quyết Trung ương 5 về "xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" là sự tiếp nối ở thời kỳ lịch sử mới với những nội dung mới của "Đề cương văn hóa năm 1943" của Đảng Cộng sản Đông Dương. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hóa còn chứa đựng trong nó các quan điểm coi văn hóa là nền tảng tinh thần, coi giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu. Những tư tưởng lớn đó của nghị quyết không chỉ nhằm chuẩn bị cho sự hình thành những phẩm chất và năng lực mới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà còn để mỗi con người có đủ sức đề kháng chống lại những tiêu cực đã nảy sinh do mặt trái của kinh tế thị trường và của quá trình hội nhập quốc tế tạo nên. 15 năm đã trôi qua, nhưng những tư tưởng lớn của Nghị quyết Trung ương 5 về văn hóa, vẫn còn nguyên giá trị.
Điều mà chúng ta rất dễ nhận ra là, sau 15 năm triển khai Nghị quyết "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", nhận thức chung của cả xã hội về văn hóa đã được nâng cao. Văn hóa được quan tâm hơn cả về chủ trương, chính sách, nguồn lực và ngày càng có sự gắn kết với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng chỉnh đốn Đảng. Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được coi trọng. Dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội được mở rộng, dân trí được nâng cao, quyền con người được tôn trọng. Con người Việt Nam cũng trở nên năng động, tích cực, sáng tạo hơn. Người dân có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa, xóa đói, giảm nghèo, từ thiện xã hội... được đẩy mạnh, có tác dụng gắn kết cộng đồng, tăng cường nội lực tinh thần, tạo nên sức đề kháng trước mặt trái của
kinh tế thị trường và toàn cầu hóa. Việc giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu vực và quốc tế được mở rộng, góp phần giới thiệu, quảng bá, tôn vinh văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Bên cạnh những thành tựu đó, lĩnh vực văn hóa và con người vẫn còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế. Đáng chú ý là sự suy thoái về đạo đức, về lối sống trong một bộ phận xã hội, nhất là trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước". Nghị quyết khẳng định: "Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp". Kế thừa và phát triển các quan điểm lớn trước đây của Đảng về văn hóa, Nghị quyết Trung ương 9 lần này khẳng định: "Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nói cách khác, sự phát triển văn hóa và con người sẽ tạo nên mọi sức mạnh vật chất và tinh thần để bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước. Với ý nghĩa đó, việc tập trung mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người đang dần dần trở thành quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Gần đây, trên các diễn đàn xã hội, chúng ta đã nhiều lần nhắc lại câu nói của đại văn hào Mắc-xim Goóc-ky, người bạn thân thiết và người đồng chí trung thành của Lê-nin. Cách chúng ta gần 100 năm, Mắc-xim Goóc-ky từng tuyên bố: "Đối với tôi, lời kêu gọi tổ quốc lâm nguy, cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi: "Hỡi các công dân, văn hóa lâm nguy!". Vai trò và ý nghĩa to lớn của văn hóa cũng là ở đó.
GS, TS, NGND TRẦN VĂN BÍNH ------------------------------------- (1) Hồ Chí Minh toàn tập, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.214. (2) Hồ Chí Minh toàn tập, Hà Nội, tập 4, tr.421. (3) Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới, Hà Nội, 1994, tr.6.
Trần Văn Bính. Mạch nguồn của đổi mới và phát triển. Bài 3: 70 năm xây
dựng và phát triển văn hóa, con người ở nước ta// Quân đội nhân dân.-
2015.- Ngày 28 tháng 8.- Tr.1,7.
MỤC LỤC
Lời giới thiệu Tr.1
70 năm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Tr.5
Kỳ 1: Bối cảnh lịch sử và diễn biến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Tr.5
Kỳ 2: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử CT8 năm 1945 Tr.7
Kỳ 3: Một số bài học kinh nghiệm của CMT8 Tr.9
Kỳ 4: Giành chiến thắng trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Tr.12
thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc
Mặt trận đoàn kết dân tộc Tr.15
Sáng tạo giải quyết vấn đề dân tộc và phương pháp cách mạng Tr.18
70 năm ngày khởi nghĩa thắng lợi Tr.30
Nghệ thuật chớp thời cơ tổng khởi nghĩa Tr.37
Thủ đô ngày tổng khởi nghĩa toàn thắng Tr.40
Chuyện ít biết về tổng khởi nghĩa ở Nam Bộ Tr.43
Nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám Tr.46
Nhân nguồn sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong CMT8 Tr.49
Thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Tr.56
Đại tướng Nguyễn Quyết: Ký ức xanh nguyên Tr.58
Một thời đồng hành cùng cách mạng Tr.62
Cách mạng Tháng Tám qua con mắt người nước ngoài Tr.66
Tiến bước cùng thời đại Tr.68
Mạch nguồn của đổi mới và phát triển Tr.71
Bài 1: Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân Tr.71
Bài 2: Hội nhập kinh tế quốc tế Tr.74
Bài 3: 70 năm xây dựng và phát triển văn hóa, con người ở nước ta Tr.77