Mục lục. Trang Lời nói đầu 3 Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản. 4 I. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu 4 1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu: 4 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. 4 3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 8 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 10 5. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa 16 II. Vai trò của hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản. 22 1. Đặc điểm của mặt hàng nông sản. 22 2. Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới 24 3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam 26 Chương ii: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty VILEXIM 36 I. Giới thiệu sơ lược về công ty. 36 1. Tên gọi, trụ sở, nguồn vốn của công ty 36 2. Lịch sử hình thành công ty 36 3. Cơ cấu tổ chức của công ty 37 4. Nhiệm vụ, quyền hạn của công ty 39 5. Nội dung hoạt động của công ty. 40 -1-
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Mục lục.
TrangLời nói đầu 3
Chương 1:Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu
hàng nông sản. 4I. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu 4
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu: 4
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. 4
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 8
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 10
5. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa 16
II. Vai trò của hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản. 22
1. Đặc điểm của mặt hàng nông sản. 22
2. Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới 243. Tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam 26
Chương ii:
Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty VILEXIM 36
I. Giới thiệu sơ lược về công ty. 36
1. Tên gọi, trụ sở, nguồn vốn của công ty 362. Lịch sử hình thành công ty 363. Cơ cấu tổ chức của công ty 374. Nhiệm vụ, quyền hạn của công ty 39
5. Nội dung hoạt động của công ty. 40
II .Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM giai đoạn 1996 - 2000. 41
1. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty. 42
2. Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu của công ty. 45
-1-
3. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của công ty. 484. Giá cả hàng nông sản xuất khẩu của công ty 515. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty. 53
6. Công tác thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường của công ty 597. Thị trường tiêu thụ hàng nông sản của công ty 618. Công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty 64
III. Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của công ty. 65
1. Thành tựu. 65
2. Tồn tại và nguyên nhân 65
Chương III :
Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty
VILEXIM trong thời gian tới . 71I. Định hướng phát triển của công ty giai đọan 2001 - 2005. 71
II. Giải pháp và kiến nghị. 71
A. Giải pháp đối với công ty 711. Tổ chức tốt công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường và
xúc tiến thương mại72
2. Lựa chọn thị trường trọng điểm. 73
3. Xây dựng chính sách sản phẩm thích hợp. 74
4. Đẩy mạnh xâm nhập thị trường 75
5. Huy động các nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinhdoanh 75
6. Tổ chức tốt công tác thu mua hàng xuất khẩu. 77
7. Đầu tư vào công tác chế biến, bảo quản 79
8. Nâng cao chất lượng người lao động 80
B. Kiến nghị với nhà nước. 80
1. Đẩy mạnh hoạt động sản xuất chế biến hàng nông sản. 80
2. Trợ giúp cho công ty xuất khẩu hàng nông sản. 82
3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu 83
-2-
Kết luận 86
Tài liệu tham khảo 87
Lời nói đầu
Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng
trong hoạt động thương mại đối với bất kỳ một quốc gia nào
trên thế giới. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai
thác được lợi thế của mình trong phân công lao động, tạo nguồn
thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
và đặc biệt là tạo công ăn, việc làm cho người lao động.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa
chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo
tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa
nền kinh tế thì Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thành công
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời sống
nhân dân.
Từ đặc điểm có nền kinh tế của một nước nông nghiệp với
dân số chủ yếu tham gia vào các hoạt động sản xuất nông
nghiệp, Việt Nam đã xác định nông sản là một mặt hàng xuất
khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu rất cần thiết cho
phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy, nhà nước đã tạo điều
kiện thuận lợi khuyến khích sự tham gia của các công ty trong
lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản. Mặt hàng nông sản là mặt
hàng chính được Công ty XNK với Lào ( VILEXIM ) hết sức
chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của mình. Trên lĩnh
vực xuất khẩu hàng nông sản công ty đã đạt được những thành
-3-
công, song bên cạnh những thành công đó vẫn còn những hạn
chế nhất định. Vì vậy, đề tài : “Một số giải pháp chủ yếu
nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty
VILEXIM” đã được chọn để nghiên cứu trong chuyên đề thực
tập. Đề tài này đã tổng kết được những lý luận cơ bản về hoạt
động xuất khẩu, phân tích và đánh giá tình hình xuất khẩu hàng
nông sản của Công ty. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị và
giải pháp cơ bản để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông
sản của Công ty.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu
hàng nông sản.
I. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu.
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa (hoặc dịch vụ) cho nước
ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán theo
nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với ít
nhất một bên trong mối quan hệ này.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế
của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao
đổi hàng hóa mang lại lợi ích cho các quốc gia do đó các quốc
gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động
ngoại thương, đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển.
-4-
Hoạt động này diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện từ
sản xuất hàng tiêu dùng cho đến máy móc thiết bị, tư liệu sản
xuất và cả công nghệ kỹ thuật cao. Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt
động xuất khẩu cũng đều nhằm mục đích mang lại lợi nhuận
cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về
không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian
ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm. Nó có thể được tiến
hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc
gia khác nhau.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
a. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với một quốc gia.
Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu
nhập khẩu.
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phụ thuộc vào 4
nhân tố đó là: vốn, công nghệ, nhân lực và tài nguyên. Song
không phải quốc gia nào cũng có đầy đủ cả 4 yếu tố này đặc
biệt là đối với các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển.
Mô hình:
Thiếu vốn
Khả năng sản xuất kém Công nghệ lạc hậu
Hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển và chậm
phát triển đều thiếu vốn thế nên họ không có cơ hội để nhập
khẩu công nghệ hiện đại và không thể đầu tư nâng cao trình độ
-5-
nguồn nhân lực do đó trình độ sản xuất của họ rất thấp. Ngược
lại trình độ sản xuất thấp lại chính là nguyên nhân làm cho quốc
gia này thiếu vốn. Vì vậy, đây chính là một vòng luẩn quẩn của
các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Để thoát khỏi
vòng luẩn quẩn này buộc các quốc gia này phải có vốn để nhập
khẩu công nghệ tiên tiến mà trong nước chưa sản xuất được và
nâng cao trình độ nguồn nhân lực qua đó nâng cao khả năng
sản xuất. Nhưng một câu hỏi được đặt ra với các quốc gia là:
Làm thế nào để có một lượng ngoại tệ cần thiết đáp ứng cho
nhu cầu này?
Thực tiễn cho thấy, để có đủ một lượng ngoại tệ đáp ứng
cho nhu cầu này các quốc gia có thể sử dụng các nguồn huy
động vốn chính sau:
Nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Nguồn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vay nợ, viện trợ.
Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ ngân hàng ,
du lịch.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển chậm lại
như hiện nay thì các quốc gia đang phát triển và chậm phát
triển sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động được
nguồn vốn từ các hoạt động đầu tư, vay nợ, viện trợ và các dịch
vụ thu ngoại tệ. Thêm vào đấy, với các nguồn vốn này các quốc
gia phải chịu những thiệt thòi và những ràng buộc về chính trị
nhất định. Vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất mà các quốc gia
này có thể trông chờ là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
-6-
Để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc gia
thường phải lựa chọn các mặt hàng sản xuất ở quốc gia đó có
lợi thế hơn so với sản xuất tại các quốc gia khác. Đây chính là
những mặt hàng có sử dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, lao
động rẻ, ứng dụng nền sản xuất trong nước. Chính vì vậy mà
hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
Ta có thể chứng minh điều này ở ví dụ sau: Giả sử trong nền
kinh tế thế giới chỉ có hai quốc gia Việt Nam và Đài Loan sản
xuất hai loại mặt hàng là thép và vải.
Bảng 1: Lợi thế kinh tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Quốc
gia
Hàng hóa
Việt Nam Đài Loan
Thép ( kg/1 công ) 1 6
Vải ( m/1h công ) 4 3
Qua bảng số liệu trong ta thấy: trong ngành sản xuất thép
năng suất lao động của Đài Loan lớn hơn năng suất lao động
của Việt Nam. Tuy nhiên trong ngành sản xuất vải thì Việt Nam
lại có năng suất lao động lớn hơn. Do vậy Việt Nam có lợi thế
trong sản xuất thép còn Đài Loan có lợi thế trong sản xuất vải.
Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ cùng có lợi
nếu Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải còn Đài Loan
chuyên môn hoá sản xuất thép. Sau đấy hai nước sẽ mang trao
đổi một phần sản phẩm cho nhau. Nếu tỷ lệ trao đổi bằng tỷ lệ
trao đổi nội địa của mỗi quốc gia thì một trong hai quốc gia sẽ
-7-
từ chối trao đổi. Do vậy tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm ở
khoảng giữa. Tức là: 6/3 > Tỷ lệ trao đổi quốc tế (thép/vải) >
1/4. Giả sử tỷ lệ trao đổi của Việt Nam và Đài Loan là 6 thép lấy
6 vải. Khi đó, Đài Loan sẽ được lợi 3 mét vải tương đương với
tiết kiệm được một giờ công lao động. Việt Nam sẽ được lợi 18
mét vải tương đương với tiết kiệm được 4,5 giờ công lao động.
Qua phân tích ở trên cho thấy hoạt động xuất khẩu sẽ phát tạo
cơ hội cho một quốc gia phát huy được lợi của mình.
Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu sản
xuất.
Thông thường các nhà xuất khẩu sẽ tập trung vào xuất
khẩu những mặt hàng có lợi thế của đất nước. Khi lợi nhuận thu
được từ xuất khẩu mặt hàng ấy càng lớn thì số người tập trung
vào sản xuất mặt hàng ấy ngày càng nhiều. Do vậy cơ cấu sản
xuất trong nước sẽ thay đổi. Sự thay đổi này không chỉ diễn ra
trong ngành mà còn diễn ra ở cả những ngành phụ trợ cho
ngành hàng xuất khẩu. VD: khi hoạt động xuất khẩu hàng
nông sản phát triển thì nó kéo theo sự phát triển của ngành sản
xuất phân bón, ngành vận tải; ngành công nghiệp thực phẩm
phát triển kéo theo ngành trồng trọt chăn nuôi phát triển;
ngành dệt may phát triển kéo theo ngành trồng bông đay cũng
phát triển.
Hoạt động xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm, tạo
nguồn thu nhập, nâng cao mức sống và trình độ của người lao
động.
Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động mang
lại nguồn lợi nhuận lớn trong các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Chính vì vậy số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực
-8-
sản xuất và xuất khẩu hàng hóa không ngừng tăng. Hàng năm
ngành xuất khẩu giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao
động. Thêm vào đó do có điều kiện tiếp xúc với thị trường mới,
phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại nên
trình độ của người lao động cũng được cải thiện để đáp ứng với
yêu cầu chung của thị trường quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia trên
trường quốc tế
Để đánh giá uy tín của một quốc gia người ta thường dựa
vào 4 điều kiện đó là: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân
thanh toán. Hoạt động xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ,
góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán do vậy là một trong
bốn điều kiện đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia :
Cao hơn nữa hoạt động xuất khẩu làm tăng tích lũy ngoại tệ của
một quốc gia và có thể biến quốc gia trở thành quốc gia xuất
siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh toán cho đối tác, tăng được
uy tín trong kinh doanh. Qua hoạt động xuất khẩu, hàng hóa
của quốc gia được bày bán trên thị trường thế giới, khuyếch
trương tiếng vang và sự hiểu biết từ nước ngoài. Ngoài ra hoạt
động xuất khẩu làm tiền đề cho các hoạt động kinh tế đối ngoại
khác như: Dịch vụ, ngân hàng, đầu tư, hợp tác liên doanh...và
làm cho quan hệ giữa các nước trở nên chặt chẽ hơn.
b. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp
tham gia vào cuộc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã
hàng hóa trên thị trường thế giới. Chính yếu tố này buộc doanh
nghiệp phải năng động, sáng tạo hơn, phải không ngừng nâng
-9-
cao trình độ quản trị kinh doanh, tăng cường đầu tư đổi mới
trang thiết bị... để tự hoàn thiện mình.
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở
rộng quan hệ buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài từ đó người
lao động trong doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực chuyên
môn của mình, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm quản lý của đối
tác.
Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh
nghiệp để mở rộng và nâng cao trình độ sản xuất đồng thời tạo
việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động trong doanh
nghiệp.
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
a. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu các hàng hóa
hoặc dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các
đơn vị sản xuất trong nước tới các khách hàng nước ngoài thông
qua các tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu
này là : Các doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn
với khách hàng, với thị trường nước ngoài, biết được yêu cầu
của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên có thể chủ động
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra hình thức xuất
khẩu này làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp do giảm chi phí
trung gian.
b. Xuất khẩu ủy thác.
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác)
nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình
-10-
và nhận được một khoản thù lao theo thỏa thuận với đơn vị có
hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Ưu điểm của hình thức này là:
Đơn vị có hàng xuất khẩu không phải bỏ ra một khoản vốn lớn
để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do đó rủi ro trong kinh doanh
là không cao. Tuy nhiên họ lại không trực tiếp liên hệ với khách
hàng và thị trường nước ngoài nên không chủ động trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra họ thường phải đáp ứng
những yêu sách của bên nhận ủy thác.
c. Buôn bán đối lưu.
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt
chẽ với nhập khẩu, bên bán hàng đồng thời là bên mua hàng
và lượng hàng hóa mang trao đổi thường có giá trị tương đương.
Mục đích ở đây không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là
nhằm mục đích có được một lô hàng có giá trị tương đương với
lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp
tránh được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại
hối đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh
toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
d. Xuất khẩu theo nghị định thư.
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu
mà nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số
loại hàng hóa nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở
nghị định thư đã được ký giữa hai chính phủ. Hình thức này cho
phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phi trong việc
nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện
hình thức này thường không có rủi ro trong thanh thư.
e. Xuất khẩu tại chỗ.
-11-
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt
qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được.
ở hình thức này doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước
ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại
tìm đến với doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp tránh được
những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương
tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hóa. Hình
thức này thường được áp dụng đối với quốc gia có thế mạnh về
du lịch và có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó.
f. Gia công quốc tế.
Là hình thức xuất khẩu trong đó có một bên nhập nguyên
liệu hoặc bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên khác
(bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên
đặt gia công và qua đó thu được một khoản lệ phí như thỏa
thuận của cả hai bên. Trong hình thức này bên nhận gia công
thường là các quốc gia đang phát triển, có lực lượng lao động
dồi dào, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Họ sẽ có lợi vì tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động, có điều kiện đổi mới
và cải tiến máy móc để nâng cao năng suất sản xuất. Còn đối
với nước đặt gia công họ khai thác được giá nhân công rẻ và
nguyên phụ liệu khác từ nước nhận gia công.
g. Tái xuất khẩu.
Với hình thức này một nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa
đã nhập từ một nước khác sang nước thứ ba. Ưu điểm của hình
thức này là doanh nghiệp có thể thu được một khoản lợi nhuận
cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào trang thiết bị,
nhà xưởng, khả năng thu hồi vốn cao. Hình thức này được áp
-12-
dụng khi có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất
khẩu và nước nhập khẩu.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh hưởng
sâu sắc của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có
thể tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp song cũng có thể tạo ra những khó khăn, kìm
hãm sự phát triển của hoạt động này.
Đối với hoạt động xuất khẩu - một trong những hoạt động
quan trọng của thương mại thì ảnh hưởng của môi trường kinh
doanh đến hoạt động này càng trở nên mạnh mẽ bởi trong
thương mại quốc tế các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh rất
phong phú và phức tạp. Ta có thể phân chia các nhân tố thuộc
môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp thành các nhóm sau:
Các nhân tố vĩ mô:
a. Các công cụ của nhà nước trong quản lý kinh tế.
Các quốc gia khác nhau thường có những chính sách thương
mại khác nhau thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước trong
việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế
có liên quan đến nền kinh tế quốc gia mình. Để nền kinh tế
quốc dân vận hành có hiệu quả thì những chính sách thương
mại thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, các
công cụ chính sách chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết
hoạt động này gồm:
Thuế quan
-13-
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào
từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được
chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt động xuất khẩu theo
chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình. Công cụ này thường
chỉ được áp dụng với một số ít mặt hàng xuất khẩu nhằm bổ
sung cho ngân sách nhà nước, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng
đầy đủ nhu cầu tiêu dùng mặt hàng ấy trong nước.
Ngoài thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu cũng có
tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thuế
quan nhập khẩu là thuế quan mà nước nhập khẩu đánh vào một
đơn vị hàng nhập khẩu. Do vậy nó sẽ làm tăng gía bán hàng
xuất khẩu của doanh nghiệp tại thị trường nhập khẩu. Vì vậy
hàng xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ giảm sức cạnh tranh.
Hạn ngạch
Hạn ngạch được hiểu như là quy định của nhà nước về số
lượng cao nhất một mặt hàng hay một nhóm hàng doanh
nghiệp được phép xuất khẩu hay nhập khẩu. Quốc gia xuất
khẩu sẽ quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm điều chỉnh lượng
hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Quốc gia nhập
khẩu sẽ quy định hạn ngạch nhập khẩu nhằm hạn chế lượng
hàng nhập khẩu vào trong nước, bảo hộ nền sản xuất trong
nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh toán. Tương
tự thuế quan, cả hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều có thể
gây tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp.
Tiêu chuẩn kỹ thuật
-14-
Ngoài hai công cụ thuế quan và hạn ngạch, một công cụ
khác tinh vi hơn ngày càng được nhiều quốc gia sử dụng đó là
việc đề ra các tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật cho sản phẩm
nhập khẩu. Đây là biện pháp phi thuế quan cũng nhằm mục
đích hạn chế lượng hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên
quan nhằm khuyến khích xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so với đồng
tiền khác. Sức mua của đồng tiền là khả năng thanh toán của
một đơn vị tiền tệ với một khối lượng hàng xuất khẩu nhất định
gắn liền với thanh thanh toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế
người ta thường sử dụng những đồng tiền mạnh như USD để
thanh toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng, tương đương với giá trị
ngoại tệ tăng so với nội tệ khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ được
khuyến khích. Ngược lại nếu tỷ giá hối đoái giảm sẽ kìm hãm sự
phát triển của hoạt động xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có
tác dụng thúc đẩy, mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được
khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này thường được nhiều quốc
gia sử dụng vì: Khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài doanh
nghiệp sẽ gặp phải rủi ro cao hơn so với thị trường trong nước.
Việc trợ cấp xuất khẩu có thể được nhà nước sử dụng dưới nhiều
hình thức như: trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất
vốn vay, hoặc cho bạn hàng nước ngoài vay ưu đãi đẻ họ có
điều kiện mua sản phẩm của nước mình...
Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương
mại
-15-
Việc đảm bảo cán cân thanh toán và cán cân thương mại sẽ
góp phần củng cố lòng tin của đối tác nước ngoài với quốc gia,
nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Biện pháp để
quốc gia có thể giữ cán cân thanh toán, cán cân thương mại có
thể là: Khuyến khích xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hạn chế nhập
khẩu hoặc vay vốn. Tuy nhiên sự cân bằng theo các hình thức
cấm nhập khẩu là cân bằng tiêu cực, gây tác động xấu đến sự
phát triển kinh tế của quốc gia. Chính vì vậy, để cải thiện cán
cân thanh toán và cán cân thương mại các quốc gia không còn
con đường nào khác ngoài khuyến khích xuất khẩu, trong đó
chú trọng tới mặt hàng chủ lực.
Như vậy nhìn chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán
và cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó yếu tố thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu của quốc gia.
b. Các quan hệ kinh tế quốc tế.
Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh mẽ
tới hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia nói chung
và tác động tới hoạt động thương mại của doanh nghiệp nói
riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là một trong
những nội dung quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế
chính vì vậy nó cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của các mối
quan hệ này.
Khi hàng hóa của doanh nghiệp xâm nhập được vào thị
trường của một quốc gia thì nó sẽ được hưởng chính sách ưu đãi
hoặc phải đối mặt với các rào cản thương mại từ quốc gia này
như: thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, các tiêu chuẩn kỹ thuật
sản phẩm.... Mức độ ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng hay
-16-
các rào cản thương mại mà doanh nghiệp phải đối đầu chặt chẽ
hay nới lỏng hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế song
phương giữa quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện
nay, nhiều hiệp định kinh tế song phương và đa phương đã được
ký kết, nhiều liên minh kinh tế đã được hình thành với mục tiêu
là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả,
thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và trên thế giới.
Nếu là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp định
thương mại ấy thì quốc gia sẽ có cơ hội thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu. Nếu không phải, chính các hiệp định thương mại, liên
minh kinh tế này sẽ trở thành một rào chắn lớn cho việc xâm
nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Tóm lại, có được những mối quan hệ mở rộng, bền vững và
tốt đẹp sẽ tạo tiền đề cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
của doanh nghiệp.
c. ảnh hưởng của nền sản xuất, thương mại trong nước
và quốc tế.
Sản xuất trong nước là nhân tố chủ yếu quyết định đến
lượng cung hàng xuất khẩu. Nếu nền sản xuất trong nước phát
triển, khả năng cung ứng hàng xuất khẩu sẽ tăng lên, giá cả thu
mua hàng xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh nghiệp sẽ gặp
thuận lợi trong khâu đầu vào. Ngược lại, khi nền sản xuất trong
nước bị giảm sút dẫn tới giá cả hàng xuất khẩu sẽ tăng lên,
doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn để chọn được hàng hóa có chất
lượng cao, đồng loại phục vụ cho xuất khẩu.
-17-
Đối với nền sản xuất nước ngoài thì ngược lại. Khi nền sản
xuất nước ngoài phát triển, nhu cầu nhập khẩu sẽ ít đi, khả
năng xuất khẩu của các doanh nghiệp vào thị trường của họ sẽ
bị hạn chế. Ngược lại, khi nền sản xuất của họ bị giảm sút, nhu
cầu nhập khẩu của họ cao. Đây sẽ là thới cơ để doanh nghiệp
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình.
Vấn đề không đơn thuần chỉ có các yếu tố cung, cầu, giá cả
mới tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Rất
nhiều các yếu tố khác cũng tác động đến hoạt động xuất khẩu
của doanh nghiệp như: chất lượng, mẫu mã, chủng loại của sản
phẩm. Khi các yếu tố này đều tốt thì khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường quốc tế sẽ cao. Đây là một sự thuận
lợi cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động thương mại trong
nước và quốc tế cũng góp phần hạn chế hay khuyến khích xuất
khẩu vì nó quyết định đến sự chu chuyển hàng hóa trong nội bộ
nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế thế giới.
d. Trình độ phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng,
thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng quốc gia.
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đang phát triển khá
mạnh và có can thiệp rất lớn tới hoạt động của các doanh
nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực dù doanh nghiệp đó thuộc
thành phần kinh tế nào và hoạt động trong lĩnh vực nào. Một hệ
trong thống ngân hàng phát triển không đơn thuần chỉ là nơi
cấp vốn cho doanh nghiệp mà nó còn giúp các doanh nghiệp
trong việc thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng và
-18-
chính xác. Đây là một trong những yếu tố thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin liên lạc của một quốc gia cũng góp phần
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua việc
cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và nhanh chóng cho
doanh nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia cũng có tác động rất lớn
tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Một quốc gia có hệ
thống đường xá, cầu cống phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sản
xuất, nâng cao khả năng tham gia của doanh nghiệp vào thị
trường thương mại quốc tế. Đặc biệt các bến bãi, các nhà ga,
các cảng biển có tác động trực tiép tới hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp. Nếu hệ thống này được đầu tư xây dựng phù hợp
với yêu cầu chung của thị trường quốc tế sẽ là nhân tố tác động
tích cực tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại,
hệ thống cảng biển, nhà ga, bến dỡ không đạt yêu cầu tối thiểu
về kỹ thuật sẽ gây tâm lý nghi ngại từ phía đối tác nước ngoài
và rất có thể doanh nghiệp sẽ mất cơ hội kinh doanh.
Các nhân tố vi mô
a. Nguồn nhân lực
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con
người và vì con người. Bởi vậy con người luôn được đặt ở vị trí
trung tâm khi xem xét đến các vấn đề liên quan đến doanh
nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng trong chuyên môn, có
kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh
hoạt trước biến động của thị trường và đặc biệt có lòng say mê
-19-
trong công việc luôn là đội ngũ lý tưởng trong hoạt động xuất
nhập khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn nhân lực
của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số
lượng thì doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động và kinh
doanh kém hiệu quả. Như vậy, nhân lực quyết định hoạt động
của doanh nghiệp nên doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu
quả nhất thiết phải quan tâm tuyển chọn đội ngũ lao động thực
sự có năng lực, đồng thời chú trọng đến công tác quản lý nhằm
tạo động lực cho người lao động trong doanh nghiệp làm việc có
hiệu quả.
b. Khả năng tài chính
Khả năng tài chính là một trong những nhân tố quyết định
sức mạnh của doanh nghiệp trong thời đại ngày nay. Nếu có
tiềm lực tài chính mạnh, doanh nghiệp sẽ có thể đầu tư đổi mới
công nghệ, thu hút lao động có chất lượng cao, mở rộng quy mô
hoạt động. Ngoài ra khi có tiềm lực về tài chính doanh nghiệp
có trong thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình thông qua
việc cấp tín dụng cho khách hàng qua hình thức mua trả chậm.
Như vậy có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
chịu ảnh hưởng lớn bởi khả năng tài chính của doanh nghiệp.
c. Vị trí địa lý
Nếu được bố trí ở gần nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho
hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vùng gần nhà ga cảng
biển, doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí vận chuyển - đây là cơ
sở để doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, với ưu thế về khoảng cách
địa lý nhà cung ứng yếu tố đầu vào, doanh nghiệp có thể
-20-
thường xuyên xuống cơ sở sản xuất tạo lập mối quan hệ nhằm
xây dựng chân hàng vững chắc phục vụ hoạt động xuất khẩu.
Như vậy để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả doanh nghiệp cần
lựa chọn vị thế tối ưu phù hợp với khả năng và điều kiện của
mình.
d. Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp chính là tình cảm, là sự tin tưởng
mà khách hàng dành cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã có
uy tín cao, đối với khách hàng nhiều khi họ mua hàng dựa trên
uy tín của doanh nghiệp chứ không hoàn toàn dựa trên chất
lượng hàng của doanh nghiệp. Vì vây, uy tín cũng quyết định
đến vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
5. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ ngoại thương có
những nét đặc trưng, phức tạp hơn nhiều so với hoạt động
thương mại trong nước. Vì vậy doanh nghiệp xuất khẩu muốn
tiến hành hoạt động của mình có hiệu quả thì phải tuân theo
các bước sau:
a. Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Công việc này bao gồm nghiên cứu hàng hóa thế giới, lựa
chọn mặt hàng, nắm bắt dung lượng thị trường và giá cả hàng
hóa.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất
với lưu thông hàng hóa. ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng
hóa thì ở đó có thị trường.
-21-
Như vậy, thị trường có thể nhìn thấy cũng có thể không nhưng
nó bao gồm các quan hệ mua bán hàng hóa , dịch vụ và dung
lượng thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa để các nhà kinh doanh biết
được các quy luật vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hóa
cụ thể có những quy luật riêng, quy luật này thể hiện qua sự
biến đổi nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng hóa trên thị trường.
Nắm vững các quy luật thị trường hàng hóa để vận dụng và giải
quyết các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị
trường đối với hàng hóa, hình thức và biện pháp thâm nhập thị
trường.
Trong nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới, đặc biệt là
khi muốn kinh doanh xuất khẩu thành công công việc nhận biết
sản phẩm phù hợp với thị trường và năng lực xuất khẩu là
không thể thiếu được đối với doanh nghiệp. Muốn vậy doanh
nghiệp phải xác định được các vấn đề sau:
Mặt hàng thị trường đang cần là mặt hàng gì?
Điều này đòi hỏi phải bán cái mà thị trường cần chứ không phải
bán cái mà ta có. doanh nghiệp xuất khẩu cần phải tìm hiểu
nhu cầu thị trường nước ngoài về mạt hàng, quy cách, phẩm
chất, mẫu mã, chủng loại, số lượng.
Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Mặt hàng được người tiêu dùng mua theo thói quen và được thể
hiện ở: thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến
động của quan hệ cung cầu mặt hàng đó...Có nắm vững được
điều này thì doanh nghiệp mới có thể đáp ứng được nhu cầu của
thị trường.
Mặt hàng đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
-22-
Mỗi mặt hàng đều có một khoảng thời gian tồn tại mhất định,
mỗi khoảng thời gian này được thể hiện qua bốn pha của chu kỳ
sống của sản phẩm bao gồm:
+ Pha triển khai: Về cơ bản chưa có sản phẩm và đơn vị cạnh
tranh. Do vậy doanh nghiệp cần phải nỗ lực làm cho khách hàng
biết tới sản phẩm của mình.
+ Pha tăng trưởng: sản phẩm được thị trường chấp nhận, doanh
nghiệp cần phải đẩy nhanh quá trình kinh doanh để đưa sản
phẩm có tính độc đáo của mình vào thị trường, qua đó tạo được
môi trường tốt, tăng mở rộng thị trường cho sản phẩm.
+ Pha bão hoà: Lúc này có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các
đơn vị tham gia vào thị trường. Khi đó nếu doanh nghiệp cần
dựa vào nguồn vốn tích luỹ để triển khai chiến lược, mặt hàng
khác biệt tiến tới kinh doanh mặt hàng đặc biệt.
+ Pha suy thoái: Mặt hàng trong giai đoạn này hầu như không
còn bán được trên thị trường. Vấn đề đặt ra đối với doanh
nghiệp là phải dự đoán được khoảng thời gian lão hoá của sản
phẩm để thay thế bằng sản phẩm mới khác chặn đứng tình
trạng suy thoái.
Doanh nghiệp phải biết được mặt hàng kinh doanh đang ở giai
đoạn nào thì mới xác định được các biện pháp thích hợp để
nâng cao doanh thu.
Tình hình sản xuất mặt hàng đó ra sao?
Doanh nghiệp phải nắm vững tình hình cung cầu mặt hàng
doanh nghiệp đang quan tâm. Đặc biệt doanh nghiệp phải tập
trung vào yếu tố cung hàng hóa các yếu tố đó bao gồm: khả
năng sản xuất, tập quán sản xuất, việc áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất mặt hàng đó.
-23-
Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao
dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất
định. Dung lượng thị trường thường biến động do chịu ảnh
hưởng của ba nhóm nhân tố sau:
Nhóm các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính
chu kỳ: Gồm: sự vận động của tình hình kinh tế các nước xuất
khẩu, tính thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng
hóa. Do đặc điểm của sản xuất lưu thông và tiêu dùng là khác
nhau nên ảnh hưởng của nhân tố thời vụ đến thị trường hàng
hóa cũng rất đa dạng về phạm vi và mức độ.
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị
trường như: các nhân tố thuộc nhóm này rất nhiều , chúng ảnh
hưởng đến dung lượng thị trường rất dài. VD: tiến bộ khoa học
cong nghệ, chế độ chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập
quán của người tiêu dùng
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng có tính tạm thời đến dung
lượng thị trường. Bao gồm sự đầu cơ trên thị trường làm đột
biến tình hình cung, cầu trên thị trường , sự biến động của các
chính sách chính trị - xã hội, sự biến động của thiên nhiên.
Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới.
Đây là một vấn đề rất quan trọng. Giá cả hàng hóa trên thị
trường sẽ phản ánh quan hệ cung cầu hàng hóa đó trên thị
trường thế giới. Xác định đúng đắn giá cả hàng hóa có ý nghĩa
to lớn đối với kết quả kinh doanh xuất khẩu. Trong kinh doanh
quốc tế việc xác định giá cả hàng hóa rất phức tạp do việc
buôn bán diễn ra trong một thời gian dài, hàng hóa vận chuyển
-24-
qua nhiều nước khác nhau với chính sách thuế khác nhau. Để
đạt được hiệu quả cao trên thương trường quốc tế đòi hỏi các
nhà kinh doanh phải theo dõi, nghiên cứu sự biến động của giá
cả đồng thời phải có biện pháp tính toán, xác định giá một cách
chính xác, khoa học để giá thực sự trở thành một công cụ trong
kinh doanh quốc tế. Thông thường các nhà kinh doanh xuất
khẩu xác định giá bán hàng hóa dựa trên ba căn cứ:
Căn cứ vào giá thành và các chi phí khác (chi phí vận
chuyển, mua bảo hiểm, chi phí bao bì, đóng gói...).
Căn cứ vào sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
Căn cứ và gía cả của hàng hóa cạnh tranh.
b. Lựa chọn đối tác giao dịch.
Lựa chọn đối tác giao dịch bao gồm các vấn đề lựa chọn
nước để giao dịch và lựa chọn thương nhân để giao dịch.
Khi lựa chọn nước để làm đối tượng xuất khẩu hàng hóa
chúng ta phải tìm hiểu tình hình sản xuất tiêu thụ hàng hóa của
nước đó, nhu cầu nhập khẩu thuộc đối tượng mặt hàng nghiên
cứu, tình hình dự trữ ngoại tệ để biết được khả năng nhập khẩu,
phương hướng nhập khẩu của nước này và có thể dự đoán đối
thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp phải đưa ra chính sách thương
mại đối với nước lựa chọn làm đối tác giao dịch để lường trước
mọi việc có thể xảy ra.
Chọn thương nhân để giao dịch. Trong điều kiện cho phép thì
lựa chọn những người nhập khẩu trực tiếp sẽ mang lại cho
doanh nghiệp hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên trong trường hợp
muốn thâm nhập vào thị trường mới thì việc giao dịch qua trung
gian với tư cách là đại lý hay môi giới lại rất có ý nghĩa. Việc lựa
-25-
chọn thương nhân để giao dịch phải dựa trên cơ sở các nghiên
cứu sau:
+ Tình hình sản xuất kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh của
thương nhân.
+ Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
+ Thái độ và quan điểm kinh doanh.
+ Uy tín và các mối quan hệ của thương nhân.
Việc lựa chọn đối tác sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc
để dẫn tới thành công trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ.
c. Lập kế hoạch kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả thu gom được trong quá trình
nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án
kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của
đơn vị nhằm đạt tới mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc
xây dựng phương án bao gồm:
Đánh giá tình hình thị trường, dựa trên sự đánh giá đó doanh
nghiệp sẽ phác hoạ nên bức tranh tổng quát về hoạt động kinh
doanh, những thuận lợi và khó khăn.
Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh
doanh, sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân
tích tình hình có liên quan.
Đề ra mục tiêu cụ thể như: Sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá
bán bao nhiêu, thâm nhập vào thị trường nào.
Đề ra những biện pháp, cách thực hiện để đạt được những
mục tiêu. Đó có thể là các biện pháp trong nước (Đầu tư vào
sản xuất, cải tiến bao bì, chất lượng sản phẩm...) và những biện
-26-
pháp ngoài nước (quảng cáo, tăng cường lập chi nhánh ở nước
ngoài tăng cường quan hệ bạn hàng...).
Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên sự phân tích
chuẩn xác và đúng đắn về thị trường, bạn hàng cũng như nội
lực của doanh nghiệp sẽ quyết định nhiều đến thành công trong
kinh doanh của doanh nghiệp.
d. Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm
hiểu đối tác và đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên
quan thì doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác sẽ thực
hiện bước tiếp theo là ký kết hợp đồng. Khi đã ký kết hợp đồng
có nghĩa giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác
cùng ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản quy định
trong hợp đồng. Một trong hai bên nếu vi phạm sẽ bị sử lý,
chính vì vậy khi ký kết hợp đồng với đối tác cần phải căn cứ
vào:
Các định hướng kế hoạch của nhà nước, các chính sách, chế
độ và các chuẩn mực kinh tế hiện hành.
Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh, chức năng hợp
đồng kinh tế của mỗi bên.
Nhu cầu của thị trường, đơn đặt hàng, chào hàng của bạn
hàng.
Tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế và khả năng đảm bảo về
tài sản của mỗi bên khi ký kết.
Một hợp đồng xuất khẩu hàng hóa phải bao gồm các nội dung
sau:
-27-
Số hợp đồng.
Ngày, tháng, năm và nơi ký hợp đồng.
Các điều khoản của hợp đồng trong đó có những điều kiện
bắt buộc.
Điều1: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, bao bì,
ký mã hiệu.
Điều2: Giá cả, tên giá, tổng giá trị.
Điều3: Thời gian, địa điểm và phương tiện giao hàng.
Điều4: Điều kiện xếp hàng, cơ chế thưởng phạt.
Điều5: Giám định hàng hóa.
Điều6: Những chứng từ cần thiết cho lô hàng xuất khẩu.
Điều7: Điều kiện thanh toán.
Điều8: Trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng.
Điều9: Thủ tục giải quyết tranh chấp.
Điều10: Thời gian hiệu lực của hợp đồng.
Khi ký kết các hợp đồng cần phải lưu ý các vấn đề sau:
Hợp đồng phải được trình bày rõ ràng, sáng sủa, nội dung
phản ánh đúng, đầy đủ các vấn đề đã thỏa thuận.
Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng nên là thứ ngôn ngữ phổ biến
mà cả hai bên cùng thông thạo.
Các điều khoản của hợp đồng phải tuân thủ đúng pháp luật
quốc tế cũng như pháp luật của các bên tham gia ký hợp đồng.
Người ký kết hợp đồng phải có đủ thẩm quyền chịu trách
nhiệm về nội dung đã ký.
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi lý hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp xuất khẩu sẽ
tổ chức thực hiện hợp đồng mình đã ký. Căn cứ vào nội dung
-28-
hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành sắp xếp các công việc phải
làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng.
Sơ đồ các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
II.
Vai trò của hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu hàng
nông sản.
1. Đặc điểm của mặt hàng nông sản.
Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông sản
mang tính thời vụ. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi
dào, phong phú về chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá
bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc trái vụ hàng nông sản khan
hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao. Chính
vì vậy, đối với mối doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng nông
sản, việc nghiên cứu thị trường (cả thị trường trong nước và thị
trường nước ngoài) từ đó đưa ra những dự báo phục vụ cho quá
trình thu mua dự trữ để đáp ứng những đơn đặt hàng vào lúc
trái vụ là thực sự cần thiết. Nếu doanh nghiệp đáp ứng được
đơn đặt hàng vào lúc trái vụ thì lợi nhuận mà doanh nghiệp thu
được so với lúc chính vụ sẽ lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra do đặc
tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động thu hoach hàng nông
sản thường chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Với đặc tính
này buộc doanh nghiệp phải có mạng lưới thu mua rộng khắp
-29-
Chuẩn bị hàng
Xin giấy phép xuất Thuê tàu
Kiểm ngiệm
Làm thủ tục hải
Giải quyết
Hoàn thành bộ
Mua bảo
Giao hàng lên
và phải chuẩn bị đủ vốn để thực hiện công tác thu mua có hiệu
quả.
Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu,
thời tiết. Nếu năm nào, khu vực nào có mưa thuận gió hoà, thì
cây cối phát triển, cho năng suất cao, hàng nông sản sẽ tràn
ngập trên thị trường và giá rẻ. Ngược lại, nếu năm nào, khu vực
nào có khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra
thường xuyên thì hàng nông sản sẽ khan hiếm và có chất lượng
không cao, gía cao. Căn cứ vào đặc tính này các doanh nghiệp
có thể tìm ra cơ hội kinh doanh cho mình. Chẳng hạn: Khu vực
thị trường nào có các doanh nghiệp xuất khẩu cùng một mặt
hàng với doanh nghiệp, là đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp
có thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường
xuyên thì khu vực ấy sẽ bị mất mùa hàng nông sản. Doanh
nghiệp phải tận dụng ngay cơ hội này để đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu.
Chất lượng hàng nông sản sẽ tác động trực tiếp đến sức
khỏe và tính mạng của người tiêu dùng. Chính vì vậy nó luôn là
yếu tố đầu tiên được người tiêu dùng quan tâm. Tại các quốc
gia phát triển nhập khẩu hàng nông sản, ngày càng có nhiều
yêu cầu được đặt ra đối với hàng nhập khẩu về tiêu chuẩn chất
lượng, vệ sinh, an toàn toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ.... Vì
vậy để xâm nhập vào các thị trường khó tính này buộc doanh
nghiệp phải đáp ứng được những yêu cầu mà họ đặt ra.
Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến rất quan
trọng vì: Giá cả hàng nông sản xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào
chất lượng. Chất lượng hàng nông sản không những phụ thuộc
vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo
-30-
quản và chế biến. Chính vì vậy, để nâng cao giá hàng nông sản
xuất khẩu thì khâu bảo quản và chế biến phải được các doanh
nghiệp đặc biệt quan tâm. Ngoài ra, với tính chất dễ ẩm, mốc,
biến chất của hàng nông sản buộc các doanh nghiệp tham gia
xuất khẩu phải quan tâm tới điều khoản thời hạn giao hàng bởi
điều khoản này sẽ quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối
với chất lượng hàng nông sản khi có vấn đề phát sinh.
Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên
chất lượng của cùng một mặt hàng cũng rất phong phú và đa
dạng. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá về cùng một mặt
hàng trên thị trường thế giới rất khác nhau. Chẳng hạn: Đối với
mặt hàng gạo. Trên thị trường thế giới hiện nay có 6 loại gạo
chính, mỗi loại gạo trên lại có thể phân chia thành hai hay nhiều
nhóm. Mỗi nhóm thích ứng với từng thị trường riêng. Cụ thể: Thị
trường Châu âu và quen tiêu dùng gạo ngon, hạt dài song thị
trường Châu á lại quen tiêu dùng gạo chất lượng trung bình, hạt
dài. Thị trường Châu Phi quen tiêu dùng gạo hấp (luộc sơ) có
chất lượng không cao song loại gạo này lại không được chấp
nhận ở các thị trường còn lại. Thị trường Trung Đông quen tiêu
dùng gạo thơm, thị trường Lào quen tiêu dùng gạo nếp...
Như vậy, có thể thấy với một loại nông sản nó có thể được
ưa thích ở thị trường này song lại không được chấp nhận ở thị
trường khác, giá có thể cao ở thị trường này song lại rất thấp ở
thị trường khác. Vì vậy, trong kinh doanh hàng nông sản đối với
một doanh nghiệp vấn đề xác định thị trường mục tiêu, thị
trường tiềm năng đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với
doanh nghiệp.
2. Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới.
-31-
Hầu hết các mặt hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu ăn,
uống của con người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ, nhu cầu hàng nông sản có phẩm cấp cao ngày
càng tăng, nhu cầu hàng có phẩm cấp thấp ngày càng giảm
xuống. Tuy nhiên hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu thiết yếu
của con người vẫn giữ vai trò quan trọng và không thể thiếu
được đối với sự tồn tại của con người.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia xuất khẩu hàng
nông sản. nhưng các nước đang phát triển là những nước xuất
khẩu hàng nông sản chủ yếu. Tuy nhiên hàng nông sản được
xuất khẩu từ các nước này chủ yếu là các mặt hàng thô hoặc
mới chỉ qua sơ chế nên có gía trị xuất khẩu chưa cao.
Những nước không có điều kiện thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp là những nước chính nhập khẩu hàng nông sản.
Đây có thể là các nước chậm phát triển, đang phát triển hoặc
phát triển. Tuy nhiên nhu cầu của mỗi nước đối với hàng nông
sản rất khác nhau. Thông thường các nước chậm phát triển và
đang phát triển có nhu cầu nhập khẩu một số lượng lớn sản
phẩm lương thực. Những sản phẩm này có yêu cầu về chất
lượng không cao, giá rẻ và chỉ cần một sự thay đối nhỏ về giá
cả sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong hành vi tiêu dùng của người
dân tại các nước này. Ngược lại, tại các nước phát triển, người
tiêu dùng chỉ chấp nhận sản phẩm có chất lượng cao mặc dù
giá đắt.
Thị trường nhập khẩu hàng nông sản đã và đang bị thu hẹp
lại. Hiện tại các nước phát triển có nhu cầu nhập khẩu hàng
nông sản lớn nhất thế giới. Tuy nhiên các nước này đã và đang
thực hiện một cách phổ biến và sâu rộng chế độ trợ cấp cho sản
-32-
xuất nông nghiệp ở mức độ cao, bảo hộ thị trường nông sản nội
địa dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: Năm 1995,1996 số tiền trợ
giá cho nông sản xuất khẩu chỉ riêng của EU đã bằng 80% tổng
số tiền trợ giá của tất cả các thành viên thuộc WTO. Cơ chế trợ
cấp và trợ giá quá cao cho hàng nông sản ở các nước đang phát
triển đã gây sự bóp méo giá cả hàng nông sản xuất khẩu, hạn
chế tác động của quy luật thị trường và giảm đi ưu thế cạnh
tranh hàng nông sản của các nước đang phát triển vốn nhờ vào
lao động rẻ. Cơ chế này không những làm tăng khả năng xuất
khẩu hàng nông sản của các nước này mà còn hạn chế nhập
khẩu nông sản của các nước này. Đây thực tế là một bất lợi lớn
đối với sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu khẩu nông sản của
các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam).
Trước sức ép của xu hướng tự do hoá thương mại buộc các
nước phát triển phải nhất trí sự cần thiết giảm trợ giá cho các
mặt hàng nông sản xuất khẩu, mở rộng tự do hoá thị trường
nông sản thế giới ở một cuộc họp tại Mỹ vào tháng 11 năm
1999. Điều này dường như dẫn tới một tương lai sáng sủa hơn
cho sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước
đang phát triển. Tuy nhiên, giờ đây sản xuất nông nghiệp và
xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển lại phải đối
mặt với những rào chắn khác, đó là những quy định chặt chẽ về
vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường sinh thái mà trong
nhiều trường hợp người ta xem đó là hình thức bảo hộ trá hình
nhằm ngăn cản hàng nông sản của các nước đang phát triển
tràn vào thị trường các nước phát triển.
Các nước Châu Phi cũng có nhu cầu nông sản lớn nhưng
khả năng thanh toán hạn hẹp. Trong khi đó Liên Hợp Quốc chỉ
-33-
còn hỗ trợ nhập khẩu lương thực cho những nước có khủng
hoảng chính trị.
Tình hình trên làm cho thị trường nông sản bị thu hẹp trong
khi nguồn cung cấp nông sản khá dồi dào ở các nước Châu á,
Mỹ La Tinh, Tây Âu, Bắc Mỹ đã đẩy kinh doanh nông sản trên
thị trường thế giới vào tình trạnh cạnh tranh quyết liệt khiến
cho giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm, gây
bất lợi cho những người sản xuất nông nghiệp và cho những
nước xuất khẩu nông sản.
Theo như đã phân tích ở trên, thị trường nông sản thế giới
đang bị thu hẹp, nguồn cung cấp hàng nông sản trên thị trường
thế giới ngày càng dồi dào, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu
nông sản nguyên liệu diễn ra ngày càng gay gắt buộc các nước
đang phát triển phải xuất khẩu nông sản nguyên liệu cho các
nước phát triển với giá thấp (các nước đang phát triển sẽ chế
biến lại để xuất khẩu). Mặt khác hàng nông sản chế biến sâu
của các nước đang phát triển lại phải cạnh tranh với hàng nông
sản xuất khẩu cùng loại của các nước phát triển ở thế yếu hơn
do hạn chế về công nghệ chế biến và khả năng đầu tư cho công
nghệ chế biến nông sản xuất khẩu. Trong những điều kiện này,
ưu thế cạnh tranh trên thị trường thế giới thuộc về các nước
phát triển. Các nước này đã trở thành người chi phối và chiếm
ưu thế trong quan hệ buôn bán nông sản trên thị trường.
Hiện tại thiệt thòi đang thuộc về các nước đang phát triển.
Tuy nhiên theo đánh giá của tổ chức lương thực và nông nghiệp
của Liên Hợp Quốc (FAO) với tốc độ phát triển như hiện nay
(dân số thế giới tăng trưởng với tốc độ cao nhưng đất đai sử
dụng cho nông nghiệp lại giảm cùng với quá trình công nghiệp
-34-
hoá làm cho tốc độ tăng bình quân nhu cầu tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp lớn hơn tốc độ tăng bình quân sản lượng nông sản
trên thị trường thế giới) thì đến năm 2010 cầu về hàng nông sản
trên thị trường thế giới sẽ vượt xa cung. Điều này mở ra một cơ
hội mới cho các nước đang phát triển xuất khẩu nông sản nói
chung và Việt Nam nói riêng có thể đẩy mạnh xuất khẩu nông
sản trong tương lai.
3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam.
a. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam.
Việt Nam có tiềm năng khá lớn trong việc sản xuất hàng
nông sản, nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, lâu dài, khắc
phục những yếu kém trong khâu thu mua, chế biến thì Việt Nam
có thể trở thành một trung tâm sản xuất hàng nông sản lớn.
Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam thể hiện ở các
điểm sau:
Về đất đai:
Việt Nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông
nghiệp của nước ta là 10 - 11,157 triệu ha với 8 triệu ha cây
trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha, 2,3 triệu ha
trồng cây lâu năm) hiện nay nước ta mới chỉ sử dụng 65% quỹ
đất nông nghiệp. Trong đó 5,6 triệu ha cho cây trồng hàng năm,
cây lâu năm là 0,86 triệu ha, 0,33 triệu ha đồng cỏ tự nhiên và
17 triệu ha mặt nước. Chúng ta có một diện tích lớn đất bị xói
mòn, thoái hoá. Cụ thể: Vùng Bắc Bộ 5% tổng diện tích, Khu 4
cũ 35% tổng diện tích, Đồng Bằng Nam Bộ 34% tổng diện tích.
Nếu chúng ta đầu tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho
-35-
việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như Cao su, hạt tiêu,
cà phê.
Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long
có diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao lần lượt là 93% và
82% tổng diện tích của cả vùng nhưng hệ số sử dụng đất mới
chỉ đạt 1,5 lần do tình trạng thâm canh trong nông nghiệp còn
lạc hậu với sự yếu kém về hệ thống thuỷ lợi. Do vậy chúng ta
vẫn có thể khai thác được vùng Đồng Bằng màu mỡ này nếu
biết đầu tư phát triển sản xuất theo chiều sâu. Đặc biệt những
vùng đất còn hoang hoá ở các vùng khác cũng cần tích cực đầu
tư tạo tiềm lực cho sản xuất nông nghiệp.
Đất Việt Nam có tầng dầy tơi xốp với chất dinh dưỡng cao
kết hợp với sự đa dạng và phong phú về chủng loại (có 64 loại
thuộc 14 nhóm) đây là một điều kiện rất tốt cho nhiều loại cây
trồng phát triển.
Về khí hậu.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu
sắc của chế độ gió mùa Châu á. Khí hậu Việt Nam rất đa dạng,
phân biệt rõ rệt từ miền Bắc vào miền Nam. Miền Bắc có mùa
đông lạnh. Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu
Long có khí hậu kiểu Nam á. Đây là điều kiện khí hậu thuận lợi
để đa dạng hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ,
độ ẩm và gió dồi dào phân bổ khá đồng đều trên phạm vi cả
nước. Tiềm năng nhiệt của nước ta được xếp vào dạng giàu có
với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm tương đối trong
năm lớn hơn 80%, lượng mưa khoảng 1800 - 2000 Mỹ/nămlà
điều kiện lý tưởng cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát
triển.
-36-
Vị trí địa lý và các cảng khẩu.
Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển. So với
các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đường ống và
đường hàng không thì phương thức vận tải này có nhiều thuận
lợi hơn, thông dụng hơn và có mức cước phí rẻ hơn.
Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các doanh
nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi nổi bật. Đường biển nước ta
có hình chữ “S”, hệ thống cảng biển nói chung đều nằm sát
đường hàng hải quốc tế trải dọc từ Bắc, Trung, Nam, có thể
hành trình theo tất cả các chuyến đi Đông Bắc á, Đông Nam á,
Thái Bình Dương, Trung cận Đông, Châu Phi, Châu Mỹ. Một số
cảng có khả năng bốc xếp hàng xuống tàu lớn, có hệ thống kho
bảo quản tốt. Và gần đường hàng hải quốc tế.
Về nguồn nhân lực.
Dân số nước ta là gần 80 triệu người, cơ cấu dân số trẻ với
trên 80% sống bằng nghề nông. Đây là một lực lượng lao động
hùng hậu cung cấp cho khu vực nông nghiệp. Mặc dù chất
lượng lao động của Việt Nam còn thấp hơn so với nhiều quốc gia
khác trên thế giới nhưng con người Việt Nam với bản chất cần
cù sáng tạo, ham học hỏi là tiềm năng lớn góp phần vào chất
lượng lao động ngành nông nghiệp Việt Nam.
Tình hình kinh tế của Việt Nam với các chính sách nông
nghiệp.
Với mục đích hoà nhập vào đời sống kinh tế thế giới và tiến
tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa xuất khẩu,
Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu
vực.
-37-
Tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của ASEAN và đã ký kết các văn kiện của hiệp hội như hiệp
định khung về tăng cường hợp tác ASEAN, tham gia vào khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), gia nhập WTO. Ngoài ra Việt
Nam còn tiến hành các cơ quan xúc tiến thương mại nhằm cung
cấp cho các nhà sản xuất những thông tin đầy đủ về thị trường
xuất khẩu như trung tâm xúc tiến thương mại OSAKA và ROMA.
Ngoài những điều kiện thuận lợi trên, với quan điểm của
Đảng và nhà nước Việt Nam, xem nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu nên việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản cũng
được chú trọng và quan tâm. Việc ưu đãi đầu tư trong và ngoài
nước nước vào lực lượng sản xuất nông sản đã và đang tạo
được động lực mới cho sự phát triển của ngành này. Việc đẩy
mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng tạo
được những bước đột phá.
Tóm lại, với những lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động
kết hợp với đường lối, chủ trương đúng đắn của nhà nước hoạt
động sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong
những năm tới chắc chắn sẽ đạt được những bước lớn góp phần
quan trọng của sự phát triển đất nước.
b. Tình hình sản xuất hàng nông sản Việt Nam.
Sau hơn 15 năm thực hiện theo đường lối đổi mới, ngành
nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Sản
xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, nhiều mặt hàng có tốc
độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Trong sự phát triển chung ấy
nổi bật nhất là sự phát triển trong sản xuất lương thực. Những
năm qua sản xuất lương thực có tốc độ tăng trưởng nhanh với
tốc độ tăng trưởng bình quân là 5%/năm do vậy không những
-38-
đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo
giữ vững an ninh lương thực quốc gia mà còn biến nước ta từ
một nước nhập khẩu gạo thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ
2 trên thế giới.
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, việc đa dạng
hoá cây trồng, mở rộng diện tích trồng trọt, thực hiện theo
phương châm đất nào trồng cây ấy trong những năm qua đã
mang lại hiệu quả kinh tế cao trong nông nghiệp. Chẳng hạn:
Đối với cây cà phê năm 1986 diện tích trồng mới là 65,6 nghìn
ha trong đó chỉ có 19 nghìn ha cho sản phẩm có sản lượng là
18,5 nghìn tấn thì các năm sau đó sản lượng tăng rất nhanh.
Năm 1990 sản lượng mới chỉ đạt 92 nghìn tấn, năm 1995 sản
lượng đạt 218 nghìn tấn thì đến năm 1997 sản lượng đã đạt
400 nghìn tấn; Đối với cây cây cao su. Năm 1986 sản lượng mới
chỉ đạt 50 ngìn tấn thì năm 1998 sản lượng đã là 190 nghìn tấn,
tăng gấp 3,8 lần so với năm 1986; Đối với cây chè năm 1997
diện tích đạt 78,6 nghìn ha cho sản lượng 47000 tấn chè búp
khô thì năm 1998 sau khi thanh lý 7982 ha, trồng mới 26000 ha
thì diện tích chè còn khoảng 73000 ha, cho sản lượng trên
50.000 tấn chè búp khô.
Trình độ thâm canh, ứng dụng khoa học vào trong sản xuất
nông nghiệp đã được cải thiện do vậy năng suất cây trồng đã
tăng đáng kể. Rõ ràng nhất là đối với cây lúa. Năm 1986 năng
suất lúa mới chỉ đạt 28,1 tạ/ha thì năm 1998 năng suất đã là
39,6 tạ/ha, cao hơn năng suất trung bình 38,05 tạ/ha của thế
giới và 23tạ/ha của Thái Lan. Năng suất cao su của Việt Nam
năm 1998 đạt 1tấn/ha cao hơn mức 916 tạ/ha của thế giới, gấp
1,3 lần năng suất của Indonexia. Năng suất cà phê của Việt
-39-
Nam cao gấp 1,5 lần của Brasin, gấp 1,7 lần Colombia và gấp
2,17 lần Indonexia.
Tuy đã có những tiến bộ như đã nêu ở trên song ngành sản
xuất nông nghiệp ở nước ta vẫn còn không ít hạn chế. Điển hình
là: Chất lượng hàng nông sản của ta chưa cao, hiện nay còn
nhiều vùng, nhiều địa phương nông dân còn chạy theo năng
suất, số lượng, chưa chú ý đến chất lượng sản phẩm. Việc mở
rộng quá mức diên tích trồng lúa vụ 3 ở Đông Bằng Sông Cửu
Long, cũng như sử dụng lúa lai ở Trung Quốc cho năng suất cao
nhưng chất lượng thấp ở các tỉnh phía Bắc, sử dụng quá nhiều
phân bón hoá học và thuốc kích thích tăng trưởng trong sản
xuất cũng là một trong những lý do làm cho chất lượng hàng
nông sản của Việt Nam chưa cao.
c. Tình hình chế biến một số mặt hàng nông sản xuất
khẩu.
Chế biến đang là một lĩnh vực còn nhiều yếu kém, chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt động chế biến hàng nông
sản phục vụ cho xuất khẩu chủ yếu được thực hiện bởi những
người sản xuất với phương tiện chế biến thô sơ lạc hậu, nên có
năng suất thấp. Hoạt động này chưa được thực hiện một cách
hợp lý, đồng bộ, chưa được quan tâm một cách đúng mức nên
sản phẩm tạo ra thường có phẩm cấp thấp do tạp chất nhiều,
ngoại hình không hấp dẫn, chất lượng không cao. Những yếu
kém trong khâu chế biến được xem là nổi cộm nhất hiện nay và
là một trong những nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của
nông sản Việt Nam.
-40-
d. Tình hình xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam.
Có thể nói rằng từ năm 1990 trở lại đây, hơn 10 thực hiện
chủ trương phát triển xuất khẩu, ngoại thương Việt Nam nói
chung và hoạt động xuất khẩu hàng nông sản nói riêng đã có
những chuyển biến lớn. Điều đó được thể hiện ở một số nét sau:
Hoạt động xuất khẩu nông sản có tốc độ tăng trưởng khá
nhanh và ổn định. Đặc biệt là ở các mặt hàng Gạo, cà phê, cao
su. Sản lượng xuất khẩu của các mặt hàng này được thể hiện ở
bảng sau:
Bảng 2: Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản
chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 1995 - 2000 ĐV: 1000 tấn
Năm
Mặt hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Gạo 2058 3047 3682 3800 4500 3500
Cà phê 248,1 281,4 391,6 382 487,5 640
Cao su 138,1 194,5 195 197 265 325
Nguồn: Vụ Thương Mại - Dịch vụ, Bộ
KH&ĐT, 2000.
Hiện nay các mặt hàng này đã vươn lên trở thành các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. So với tốc độ phát triển
bình quân trên thế giới thì ba mặt hàng trên của Việt Nam có
tốc độ phát triển cao và có nhiều mặt hàng đã vươn lên đứng vị
trí cao trong số các nước tham gia xuất khẩu trên thị trường thế
giới. Chẳng hạn: từ năm 1997, Việt Nam đã vươn lên vượt Mỹ về
xuất khẩu gạo, chỉ đứng sau Thái Lan. Cà Phê Việt Nam hiện
-41-
nay đang vượt Indonexia về số lượng xuất khẩu, vươn lên đứng
vị trí số 3 trong số các nước xuất khẩu, chỉ đứng sau Brasin và
Colombia. Cao su cũng đứng vào danh sách 10 nước xuất khẩu
hàng đầu của thế giới.
Cùng với sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng nông sản
xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua cũng tăng lên rõ
rệt. Tỷ trọng gạo 25% tấm giảm từ 60% như trước đây xuống
còn 30% như hiện nay, gạo chất lượng cao 5% tấm tăng từ 20%
lên 50-60% trong thời gian tương ứng, cà phê loại một tăng từ
15% năm 1994 lên 72% năm 1998. Chất lượng hàng xuất khẩu
tăng lên làm cho gía hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời
gian qua cũng tăng. Chênh lệch giữa giá gạo Việt Nam với Thái
Lan giảm từ 50 đến 60 USD/tấn năm 1995 xuống còn xuống còn
10 đến 15 USD/tấn năm 1998, chênh lệch giá với cà phê Braxin
từ 600 USD/tấn năm 1995 xuống còn 150 USD/tấn năm 1998.
Trong những năm qua số lượng hàng nông sản xuất khẩu
của Việt Nam ngày càng tăng, chất lượng hàng xuất khẩu ngày
càng được cải thiện tuy nhiên do chịu sự tác động lớn của tình
hình cung, cầu hàng nôngsản trên thị trường thế giới nên kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam tăng, giảm
không ổn định.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản
chủ yếu giai đoạn 1995 - 2000. ĐV: triệu USD
Năm
Mặt hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Gạo 530 868 891 1100 1080 668
-42-
Cà phê 595,5 420 497,5 593,8 592 480
Cao su 193,51 163,3 194,6 127,5 145 178
Nguồn: Vụ Thương Mại - Dịch vụ, Bộ
KH&ĐT.
Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam ngày
càng mở rộng. Nếu những năm trước đây hàng nông sản của
Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô và các nước
Đông Âu thì nay hàng nông sản của Việt Nam đã có mặt ở khắp
các châu lục. Hàng nông sản của Việt Nam đã gây được sự chú
ý và đã bắt đầu thâm nhập vào những thị trường khó tính như
Anh, Thuỵ Sĩ, Nhật Bản, Pháp, Hồng Kông...và những thị trường
xa lạ như Mỹ la tinh và Châu Phi. Ngoài ra một số mặt hàng
nông sản của Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác,
liên doanh, liên kết được với một số cơ sở chế biến nông sản nổi
tiếng trên thế giới. VD: Cà phê đã xây dựng được mối quan hệ
với 60 khách hàng thuộc 40 quốc gia, trong đó có sự hiện diện
của các hãng cà phê nổi tiếng như Nestle (Mỹ), Newman (Đức),
ED và Fman (Anh), Vocate (Thuỵ Sĩ), Adirat (Pháp), Itochu (Nhật
Bản); cao su đã xây dựng thành công mối quan hệ truyền thống
với 20 khách hàng từ các quốc gia Pháp, Đức, Italia, Hà Lan,
Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Trên đây là những thành tựu mà ngành nông sản xuất khẩu
Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua. Tuy nhiên ngành vần
còn không ít những tồn tại trong quá trình hoạt động của mình.
Những tồn tại gồm:
-43-
Tuy tốc độ tăng trưởng ở một số mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam tương đối cao nhưng so với tiềm năng phát
triển của ngành và so với kết qủa xuất khẩu hàng nông sản của
một số quốc gia khác trên thế giới thì kết quả đạt được như trên
còn quá khiêm tốn. Chẳng hạn: Năm 1998. Đối với mặt hàng Cà
phê lượng xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ bằng 38,35% lượng
xuất khẩu của Braxin và bằng 60% lượng xuất khẩu của
Colombia; Đối với Cao su lượng xuất khẩu mới chỉ bằng 12%
của Indonexia và bằng 10,75% lượng xuất khẩu của Thái Lan.
Nam nhưng số lượng thị trường nhập khẩu truyền thống chỉ
khoảng 10 quốc gia trong đó hầu hết là các quốc gia Châu á. Đa
số thị trường nhập khẩu hàng nông sản Việt Nam là những thị
trường nhập khẩu với khối lượng nhỏ, không ổn định.
Trên thị trường thế giới hàng nông sản Việt Nam chủ yếu
tồn tại ở dạng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế, bao bì, mẫu mã lạc
hậu, thiếu sức hấp dẫn nên gía hàng nông sản Việt Nam không
cao, hàng nông sản Việt Nam còn phải chấp nhận lấy mức giá
trung bình trên thị trường thế giới làm tiêu chuẩn và mức phấn
đấu của mình. Thêm và đó, hoạt động xúc tiến thương mại của
Việt Nam rất yếu nên khả năng thâm nhập vào những thị trường
chính ngạch (thị trường đòi hỏi chất lượng cao, tiêu chuẩn vệ
sinh nghiêm ngặt) của hàng nông sản của Việt Nam rất thấp,
hàng Việt Nam chưa có chỗ đứng trong siêu thị của các thị
trường này. Chình vì vậy, trong thời gian qua hàng nông sản
Việt Nam chủ yếu phải xuất khẩu qua môi giới trung gian, tỷ lệ
xuất khẩu trực tiếp rất thấp.
-44-
Hoạt động thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường còn bộc lộ
nhiều yếu kém. Thông tin thu thập được chưa cập nhật, biến
động giá cả, tình hình cung, cầu trên thị trường chưa nắm được
nên lúc giá trên thị trường cao thì lại không có hàng xuất khẩu
còn khi giá thị trường xuống thấp thì hàng lại dư thừa dẫn đến
việc bị hách hàng ép giá, phải xuất khẩu với giá thấp, hiệu quả
xuất khẩu không cao.
Qua phân tích tình hình sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam thời gian qua ta thấy những thành tựu
mà ngành đạt được trong thời gian qua thật đáng khích lệ ...
Tuy nhiên vẫn còn không ít các vấn đề tồn tại cần được giải
quyết. Chính vì vậy, trong thời gian tới để tiếp tục phát triển
Việt Nam phải phát huy những thành tựu đã đạt được và tìm ra
giải pháp cho những tồn tại của mình.
e. Vai trò của hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông sản.
Trong hơn 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế xã hội, nông nghiệp nước ta đã đóng vai trò quan
trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới, là nền tảng
vững chắc cho sự ổn định và phát triển trong những năm tiếp
theo. Vai trò của hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của
nước ta trong những năm qua được thể hiện ở một số điểm sau:
Hoạt động sản xuất nông sản góp phần quan trọng vào việc
đảm bảo nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản trong nước, đảm bảo
an ninh lương thực quốc gia và giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đóng góp phần đáng
kể vào việc tích luỹ vốn cho quá trình công nghiệp hoá đất
-45-
nước, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt
nhập siêu, giảm bớt căng thẳng trong cán cân thanh toán cũng
như nhu cầu ngoại tệ.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đã tác động trực tiếp
đến đời sống của người nông dân trên nhiều phương diện. Khi
thực hiện xuất khẩu, một lượng hàng nông sản dư thừa trên thị
trường nội địa sẽ được giải quyết, lập lại quan hệ cung cầu ở
mức giá cao hơn, nông dân không những bán được nông sản mà
còn bán được giá. Hoạt động này làm cho nông dân có thu nhập
cao hơn từ đó làm tăng sức mua của dân cư trong thị trường
nông thôn rộng lớn với 80% dân số. Đây chính là một động lực
thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản sẽ khai thác tối đa lợi
thế của Việt Nam về điều kiện khí hậu, tài nguyên đất nước,
nguồn nhân lực... Hơn nữa hiện nay Đảng và nhà nước ta đang
thực hiện xây dựng các mô hình kinh tế mới như kinh tế trang
trại, cao su tiểu điền, tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu
mới ... thì hoạt động xuất khẩu nông sản càng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết, hoạt động này sẽ góp phần quan trọng
thúc đẩy các mô hình kinh tế mới phát triển.
-46-
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty
VILEXIM .
I. Giới thiệu sơ lược về công ty.
1. Tên gọi, trụ sở, nguồn vốn của công ty.
a. Tên gọi.
Tên Việt Nam: Công ty xuất nhập khẩu với Lào.
-47-
Tên tiếng Anh: Việt Nam National Import-Export with Laos.
b. Trụ sở.
Trụ sở chính của công ty tại 4A - Đường Giải Phóng - Hà Nội.
Ngoài trụ sở chính tại Hà Nội công ty còn có các chi nhánh và
văn phòng đại diện đặt tại các tỉnh, thành phố sau:
Chi nhánh tại thành phố HCM: 6/59 Bis đường Cao Thắng
quận 3.
Đại diện ở Đông Hà Quảng Trị.
Đại diện tại Vientinate - Cộng hòa nhân dân Lào.
c. Nguồn vốn hoạt động của công ty.
Vốn điều lệ: 9.717.179.746 đồng.
Vốn lưu động: 5.757.471.539 đồng.
Vốn cố định: 3.959.708.207 đồng.
Trong những năm tiếp theo tùy theo yêu cầu của công ty, công
ty sẽ tiếp tục tăng thêm nguồn vốn bằng cánh bổ sung thêm từ
lợi nhuận của công ty.
2. Lịch sử hình thành công ty.
Công ty VILEXIM Hà Nội trực thuộc Bộ Thương Mại được
thành lập ngày 24-12-1987 theo quyết định số 82/VNG-TCCB
của Bộ Ngoại Thương (nay là Bộ Thương Mại). Tiền thân của
công ty là công ty xuất nhập khẩu biên giới được thành lập năm
1967 thực hiện nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa của các nước
XHCN chi viện cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Lào. Từ
năm 1976 đến năm 1987 ngoài nhiệm vụ vận chuyển hàng viện
trợ cho Lào, công ty còn được Bộ Thương Mại giao cho tiến hành
các hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp với Lào và trong thời
gian này công ty đổi tên thành công ty xuất nhập khẩu với Lào.
Trước chính sách mở cửa nền kinh tế của đất nước, để tồn tại và
-48-
tiếp tục phát triển công ty đã không ngừng mở rộng mối quan
hệ hợp tác kinh doanh với nhiều tổ chức, công ty kinh doanh
của nước ngoài. Đến nay công ty đã có quan hệ ngoại giao với
khoảng 40 nước và quan hệ kinh doanh với khoảng trên 23 nước
trên thế giới.
3. Cơ cấu tổ chức của công ty .
Công ty xuất nhập khẩu với Lào là một doanh nghiệp nhà
nước trực thuộc Bộ Thương Mại. Cơ cấu của công ty là một thể
thống nhất từ trên xuống. Được thể hiện ở sơ đồ sau:
Phòng tổ chứchành chính
Phòng kế toántài vụ
Phòng kế hoạchtổng hợp
Phó giám đốc
Phòng dịch vụđầu tư
Giám đốc Các phòng XKNtừ 1-4
Đại diện Đông Hà -Quảng Trị
Chi nhánhtại TP.HCM
Phó giám
-49-
đốc
Đại diệntại Viênchăn-Lào
Ban lãnh đạo công ty: Là bộ phận đứng đầu công ty.
Giám đốc công ty là đồng chí Nguyễn Khánh Kiền, được Bộ
trưởng Bộ Thương Mại bổ nhiệm. Giám đốc là đại diện hợp pháp
cho mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công ty trước pháp luật, các
cơ quan quản lý nhà nước. Giám đốc sẽ trực tiếp điều hành
công ty theo chế độ một thủ trưởng, có quyền quyết định mọi
hoạt động kinh doanh của công ty sao cho có hiệu quả đồng
thời là người chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ thương Mại và
tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty.
Tham mưu cho giám đốc là hai phó giám đốc.
Phó giám đốc: Tăng Văn Cường - phụ trách công tác xuất nhập khẩu, hành
chính ở các kho Cổ Loa, kho Pháp Vân, kho 139 Lò Đúc, kho và cơ quan đại
diện tại Đông Hà, liên doanh đầu tư và công tác đời sống cho cán bộ công nhân
viên.
Phó giám đốc: Nguyễn Trường Sơn - Phụ trách chi nhánh tại Thành Phố
HCM và văn phòng đại diện tại Viên Chăn Lào.
Các phó giám đốc có quyền triển khai các quyết định của
giám đốc, giúp giám đốc điều hành công ty, tạo sự nhịp nhàng,
thống nhất và chịu trách nhiệm trước giám đốc về nghiệp vụ
chuyên môn và lập báo cáo định kỳ lên giám đốc.
Dưới ban lãnh đạo là các phòng ban chức năng, các chi nhánh và văn phòng
đại diện. Cụ thể:
Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho giám đốc quản lý nhân sự trong
công ty. Gồm: Sắp xếp, tuyển chọn, thuyên chuyển, lập kế hoạch đào tạo cán bộ,
đánh giá chất lượng cán bộ, xét duyệt định mức tiền lương lao động trong công
-50-
ty. Ngoài ra còn quản lý công văn, giấy tờ trong các quan hệ đối nội và đối
ngoại của công ty.
Phòng kế toán tài vụ: có chức năng huy động vốn và các nguồn lực khác
phục vụ cho công tác kinh doanh của công ty, tiến hành nhận vốn và tài sản của
nhà nước giao cho công ty, tổ chức hạch toán kinh doanh, kiểm tra, kiểm soát
việc chấp hành các chế độ quản lý tài chính của các đơn vị thành viên trong
công ty, lập các báo cáo tài chính định kỳ, tổng hợp và công khai tình hình tài
chính của công ty, cung cấp số liệu, tài liệu liên quan đến tình hình tài chính của
công ty cho giám đốc cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng.
Phòng kế hoạch tổng hợp: Thực hiện chức năng tổng hợp, báo cáo tình hình
hoạt động của công ty. Qua đó, ban giám đốc sẽ đề ra phương án sản xuất kinh
doanh phù hợp.
Phòng kinh doanh: Gồm 6 phòng, trong đó có 4 phòng thực hiện chức năng
xuất nhập khẩu, 1 phòng đầu tư có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi tình hình
triển khai của các dự án đầu tư, đồng thời lập kế hoạch đầu tư trình ban giám
đốc, 1 phòng dịch vụ nhận các dịch vụ thuộc phạm vi kinh doanh của công ty
theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước .
Chi nhánh và văn phòng đại diện: Trưởng chi nhánh và văn phòng đại diện
có quyền ra quyết định và quản lý mọi hoạt động kinh doanh của chi nhánh và
văn phòng đại diện, có quan hệ với các cơ quan chủ quản cấp trên, với các đơn
vị kinh tế trong và ngoài nước. Trưởng chi nhánh và văn phòng đại diện có
nhiệm vụ báo cáo hoạt động kinh doanh của mình lên phó giám đốc điều hành
chi nhánh, văn phòng đại diện đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước
ban giám đốc và tập thể cán bộ công nhân viên về quá trình điều hành sản xuất
và kinh doanh của mình.
4. Nhiệm vụ, quyền hạn của công ty .
a. Nhiệm vụ.
-51-
Nghiên cứu khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường để thông qua hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu đẩy mạnh quan hệ thương mại, hợp tác đầu tư và các
quan hệ khác có liên quan đến kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước khác,
đặc biệt là với Lào để thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng và nhà nước đề ra -
là cầu nối liền tình đoàn kết giữa hai nước Việt - Lào.
Hoạt động theo pháp luật hiện hành của nước CHXHCN Việt Nam và những
quy định riêng của toàn công ty. Cụ thể: xây dựng và tổ chức thực hiện các kế
hoạch sản xuất kinh doanh theo cơ chế hiện hành để thực hiện mục tiêu và nội
dung hoạt động như đã quy định trong điều lệ công ty; tuân thủ các chính sách,
chế độ luật pháp của nhà nước về quản lý kinh tế tài chính; thực hiện nghiêm
chỉnh các hợp đồng kinh tế mà công ty đã ký; quản lý và sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn nhằm thực hiện tốt các hoạt động kinh doanh; nhập khẩu và thực
hiện có hiệu quả các biện pháp nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của
hàng hóa.
b. Quyền hạn.
Được chủ động giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện các hợp đồng mua
bán ngoại thương, hợp đồng kinh tế và các văn bản về hợp tác liên doanh với
các bạn hàng trong và ngoài nước theo nội dung hoạt động của công ty.
Được vay vốn ở trong và ngoài nước, được hợp tác liên doanh với các tổ
chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước theo quy chế của
pháp luật hiện hành của nhà nước.
Được tham gia vào các hội chợ triển lãm, quảng cáo hàng hóa, tham gia các
hội nghị, hội thảo chuyên đề có liên quan đến hoạt động của công ty trong và
ngoài nước.
Được cử cán bộ của công ty đi công tác nước ngoài hoặc mời bên nước
ngoài vào Việt Nam để giao dịch, đàm phán, ký kết các vấn đề thuộc nội dung
hoạt động của công ty .
5. Nội dung hoạt động của công ty.
-52-
a. Các lĩnh vực hoạt động của công ty.
Công ty trực tiếp xuất nhập khẩu hàng hóa với Lào và một số nước khác hoặc
nhận ủy thác xuất nhập khẩu và dịch vụ thuộc phạm vi kinh doanh của công ty
theo yêu cầu của khách hàng. Công ty có thể sản xuất gia công các mặt hàng để
xuất khẩu hoặc liên doanh liên kết với các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước. Ngoài ra, công ty có thể làm đại lý tiêu thụ hoặc lắp ráp,
bảo hành, sửa chữa xe máy, các lĩnh vực dịch vụ hàng hóa quá cảnh qua Việt
Nam.
b. Các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty.
Hàng nông sản, lâm sản có: lạc, chè, cà phê, hạt tiêu, gỗ, sắn lát, đậu.
Hàng bông vải sợi may mặc có: hàng dệt kim,các loại sợi, các loại vải thêu
ren, khăn mặt...
Hàng thủ công mỹ nghệ: Đồ gốm, sứ, sơn mài.
Dược liệu: Sa nhân, quế, các cây thuốc dân tộc.
Công ty đã nhập khẩu các mặt hàng: Kim loại đen và kim loại màu, dây cáp
nhôm, đồng, kẽm.
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM giai đoạn
1996 - 2000.
Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những
bước phát triển vượt bậc. Trong sự phát triển chung ấy không
thể không nhắc đến những kết quả mà ngành nông nghiệp đã
đạt được. Đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh xuất
khẩu hàng nông sản. Từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu,
phải nhập khẩu lương thực, cảnh đói ăn trong nhân dân xảy ra
thường xuyên thì đến nay Việt Nam không những không còn
cảnh đói ăn mà còn là một trong những nước xuất khẩu nông
sản hàng đầu thế giới. Có được những thành tựu to lớn ấy là nhờ
-53-
vào sự nỗ lực không ngừng của mọi cá nhân, mọi đơn vị trong
toàn ngành. Trong sự phát triển chung của ngành nông nghiệp
Việt Nam cũng có sự đóng góp của công ty VILEXIM.
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong những ngày đầu mới
thành lập như: Bị hạn chế trong chức năng kinh doanh, cơ sở
vật chất kỹ thuật vừa yếu lại vừa thiếu, cán bộ công nhân viên
trong công ty mới chỉ được tiếp xúc với khái niệm cơ chế thị
trường trong một thời gian ngắn nên có rất ít kinh nghịêm về thị
trường, trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên còn non
kém, cơ chế chính sách của nhà nước lại thường xuyên thay đổi.
Nhưng vượt lên những khó khăn, cùng với ban lãnh đạo đội ngũ
cán bộ công nhân viên trong công ty đã nổ lực không ngừng để
tìm ra các thức kinh doanh có hiệu quả nhất. Trên thực tế
những kết quả mà công ty đã đạt được trong thời gian qua thật
đáng khích lệ. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty, đặc
biệt là đối với hàng nông sản ngày càng tăng, các mặt hàng
ngày càng đa dạng, khả năng thu mua hàng nông sản xuất
khẩu, duy trì thị trường cũ và tiếp cận thị trường mới đang dần
được cải thiện. Ngoài ra hàng năm từ hoạt động xuất khẩu hàng
nông sản công ty giải quyết công ăn việc làm, mang lại thu
nhập ổn định cho nhiều lao động trong và ngoài công ty đồng
thời đóng góp hàng chục tỷ đồng vào ngân sách nhà nước. Để
hiểu rõ hơn về kết quả kinh doanh hàng nông sản của công ty
trong thời gian qua ta sẽ đi sâu nghiên cứu một số chỉ tiêu sau:
1. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị
trường thế giới, tuy gặp rất nhiều khó khăn để tăng kim ngạch
xuất khẩu nhưng những năm qua mặt hàng nông sản xuất khẩu
-54-
của công ty đã có những bước tiến vượt bậc, kim ngạch xuất
khẩu không ngừng tăng và đến nay mặt hàng nông sản đã trở
thành mặt hàng xuất khẩu chủ kực của công ty.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty
VILEXIM giaiđoạn 1996 - 2000. ĐV: USD
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Giá trị 5.244.000 3.286.816,2 4.387.264,6 5.695.007 8.740.900
Tốc độ TT -37,3% 33,48% 29, 8% 53,48%
Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
Qua bảng số liệu trên: Nếu năm 1996 giá trị xuất khẩu hàng
nông sản của công ty đạt 5.244.000 USD thì năm 2000 giá trị
xuất khẩu đạt 8.740.900 USD. Tăng về giá trị tuyệt đối là
3.496.900 USD tương đương với 66,69%. Tuy nhiên nếu xét
riêng từng năm ta thấy:
Năm 1997: là một năm đầy rẫy khó khăn đối với công ty.
Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty giảm sút đáng
kể. Nếu năm 1996 giá trị xuất khẩu hàng nông sản của công ty
đạt 5.244.000 USD thì năm 1997 giá trị xuất khẩu hàng nông
sản của công ty chỉ đạt 3.286,18 USD, giảm 37,3% so với năm
1996 (đây là một con số khá lớn đối với công ty).
Nguyên nhân chính làm kim ngạch xuất khẩu năm 1997
giảm so với năm 1996 là do: Cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra
ở các nước ASEAN (là những thị trường tiêu thụ sản phẩm chính
của công ty) vào tháng 7/1997 đã làm cho nhu cầu hàng nông
sản trên thị trường các nước ASEAN giảm nghiêm trọng. Do vậy
-55-
sản phẩm của công ty tiêu thụ ở thị trường này rất chậm, thậm
chí trong năm công ty đã phải ngừng xuất khẩu một số mặt
hàng truyền thống tại những trường tiêu thụ truyền thống của
công ty. Thêm vào đấy, cuộc khủng hoảng tài chính đã làm cho
đồng tiền của các nước trong khu vực rẻ tương đối so với đồng
tiền Việt Nam nên sức cạnh trang về giá sản phẩm của công ty
rẻ hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại của của nước trong khu
vực. Trong năm công ty đã phải hạ giá hầu hêt các sản phẩm
của mình song sản phẩm của công ty tiêu thụ vẫn rất chậm, giá
trị hàng tồn kho lớn. VD: Năm 1996: Giá lạc nhân của công ty
là: 550 USD/tấn thì năm 1997 giá giảm xuống còn 536 USD/tấn;
giá hạt điều giảm từ 1200 USD/tấn xuống còn 1150 USD/tấn;
giá vừng giảm từ 580USD/tấn xuống còn 500USD/tấn.
Sang năm 1998: cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực
tiếp tục tác động gay gắt đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty tiếp tục
bị thu hẹp, giá một số mặt hàng chủ lực tiếp tục giảm mạnh.
Tuy nhiên rút kinh nghiệm từ năm 1997, ban lãnh đạo công ty
đã đề ra phương hướng và những biện pháp cụ thể phù hợp với
tình hình hiện tại đưa công ty vượt lên những khó khăn để tồn
tại và tiếp tục phát triển. Trên thực tế, kim ngạch xuất khẩu
hàng nông sản của công ty đã có sự cải thiện rõ rệt. Năm 1998
kim ngạch xuất khẩu đã tăng so với năm 1997 là
1.100.448,45USD, tương đương với 33,49%. Một số biện pháp
mà công ty đã áp dụng cho phù hợp với tình hình mới đó là: Bổ
sung và hoàn chỉnh cơ chế khoán kinh doanh với mức phí thích
hợp, đảm bảo vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh thông qua
-56-
việc tranh thủ các mối quan hệ ngân hàng để vay vốn, đôn đốc
bàn hàng tốn kho để vay vốn...
Sang năm 1999 và năm 2000, cuộc khủng hoảng tài chính
trong khu vực đã tạm ngưng, nền kinh tế của các quốc gia trong
khu vực đã bắt đầu hồi phục nên cầu về hàng nông sản của
công ty đã bắt đầu tăng trở lại. Do vậy kim ngạch xuất khẩu của
công ty trong 2 năm 1999 và 2000 tiếp tục được cải thiện.
Năm 1999 giá trị xuất khẩu hàng nông sản tăng so với năm
1998 là 1.307.742,34USD tương đương với 29,8%. Tuy xét về
giá trị tăng tương đối của năm 1999 so với năm 1998 nhỏ hơn
giá trị tăng của năm 1998 so với năm 1997 nhưng xét về giá trị
tăng tuyệt đối thì giá trị tăng của năm 1999 so với 1998 vẫn lớn
hơn giá trị tăng của năm 1998 so với 1997.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu xuất khẩu nông sản của
công ty đã tăng so với năm 1999 là 3.045.893,03 USD tương
đương với 53,48%. Ngoài nguyên nhân chính là nền kinh tế
trong khu vực đã hồi phục còn phải kể đến một số nguyên nhân
khác làm kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng đáng kể trong
hai năm 1999 và 2000 là:
Mặt hàng xuất khẩu của công ty trong thời gian qua đã được
mở rộng.
Số lượng từng mặt hàng xuất khẩu năm sau cao hơn năm
trước.
Nghiệp vụ thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của cán bộ
công nhân viên trong công ty đã hoàn thiện hơn nên chất lượng
hàng cao hơn, tiết kiệm được chi phí hơn do vậy lợi nhuận thu
được từ mỗi thương vụ xuất khẩu cũng cao hơn.
-57-
Trong hai năm 1999 và 2000 công ty đã gặp nhiều thuận lợi
hơn so với các năm trước đó nhưng vẫn còn không ít khó khăn
mà công ty gặp phải. Đó là số lượng các doanh nghiệp trong
nước tham gia xuất khẩu hàng nông sản ngày càng tăng làm
cho tình trạng tranh mua, tranh bán xảy ra phổ biến. Giá hàng
nông sản thu mua trong nước bị đẩy lên cao song khi ra thị
trường nước ngoài thì doanh nghiệp lại bị ép bán hàng với giá rẻ
bởi hàng nông sản được xuất khẩu ồ ạt ra thị trường và các
doanh nghiệp đều mong muốn hàng của mình được tiêu thụ
nhanh chóng nên chấp nhận bán với giá cạnh tranh hơn so với
đối thủ cạnh tranh.
Trong thời gian qua, không những kim ngạch xuất khẩu
hàng nông sản của công ty tăng mà tỷ trọng hàng nông sản
xuất khẩu của công ty cũng tăng. Hàng nông sản đang có xu
hướng trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty.
Bảng 5: Tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu của công ty
VILEXIM giai đoạn 1996 - 2000. ĐV: USD.
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
KNXKN
S
5.244.00
0
3.286.818
,2
4.387.26
4,65.695.007
8.740.90
0
TKNXK7.225.0
00
6.570.52
3,4
8.437.04
7,4
10.546.3
10
12.000.0
00
Tỷ
trọng72,58% 50% 52% 54% 72,84%
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Năm 1996 kim ngạch xuất
khẩu hàng nông sản của công ty chiếm 72,58% trong tổng kim
-58-
ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên trong 3 năm 1997, 1998, 1999 giá
trị này lại giảm xuống còn 50%, 52%, 54%. Nguyên nhân của
sự giả sút này chính là những khó khăn mà công ty gặp phải
như đã phân tích ở phần trên. Đến năm 2000, hàng nông sản
của công ty đã có ưu thế trở lại trong cơ cấu hàng xuất khẩu và
đã chiếm tới 72,84% tổng giá trị xuất khẩu của công ty. Hiện
tại và trong thời gian tới, hàng nông sản đang có xu hướng trở
thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiến lược của công ty.
2. Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu của công ty.
Bảng 5: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty giai đoạn 1996 - 2000.
-59-
-60-
Qua bảng số liệu trên ta thấy:
Năm 1996: Lạc nhân là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu
đứng vị trí số một của công ty. Tiếp theo sau là hạt điều, sắn
lát, vừng, đậu. Đối với mặt hàng lạc nhân, khối lượng xuất khẩu
năm 1996 là 7800 tấn, tăng so với năm 1995 là 4800 tấn, tương
đương với 160% song về kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng so với
năm 1995 là 2,4triệu USD, tương đương với 78,75%. Như vậy,
tốc độ tăng về khối lượng lớn hơn tốc độ tăng về kim ngạch.
Nguyên nhân của hiện tượng tốc độ tăng về kim ngạch không
theo kịp tốc độ tăng về khối lượng là do giá lạc nhân của công
ty trong năm giảm mạnh (giá lạc nhân năm 1996 giảm 80
USD/tấn so với năm 1995). Sau khi mất đi vị trí của mình trong
danh sách các mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty năm
1995, năm 1996 mặt hàng sắn lắt đã được xuất khẩu trở lại.
Tuy nhiên các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của công ty
như cà phê, ngô, hạt tiêu, hành, tỏi lại không có trong danh
sách các mặt hàng xuất khẩu.
Các năm 1997, 1998, 1999: mặt hàng nông sản xuất khẩu
của công ty giống nhau. Ngoài các mặt hàng xuất khẩu năm
-61-
1996, các mặt hàng cà phê, hạt tiêu, hành, tỏi đã tìm lại được
chỗ đứng của mình. Ngoài ra công ty còn xuất khẩu thêm một
số mặt hàng khác như gạo, kê, che, lá tre và nâng tổng số mặt
hàng xuất khẩu của công ty là 12. Lạc nhân vẫn là mặt hàng
được xuất khẩu với số lượng lớn nhất trong 3 năm 1997, 1998,
1999. Tiếp theo đó là hạt tiêu, hạt điều, gạo, cà phê. Tuy nhiên
các mặt hàng này có một chút sự thay đổi vị trí xếp hạng trong
từng năm.
Năm 2000, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty có sự
biến động mạnh so với các năm trước đó. Điển hình là sự tăng
đột biến trong xuất khẩu gạo. Mặt hàng gạo từ chỗ đứng vị trí
thứ 3 trong kim ngạch xuất khẩu năm 1997, thứ 2 năm 1998 và
năm 1999, chiếm tỷ trọng khẩu trên 10% trong tổng kim ngạch
xuất hàng nông sản thì đến năm 2000 gạo đã vươn lên đứng vị
trí thứ nhất với tỷ trọng trên 40%. Ngoài ra số lượng mặt hàng
nông sản đã bị thu hẹp xuống còn 8 với sự biến mất của cà phê,
hạt điều, kê, lá tre và sự trở lại của sắn lát, sự xuất hiện của
mặt hàng mới (hoa hồi).
Nguyên nhân làm cho hai mặt hàng cà phê, hạt điều (các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực các năm trước của công ty) biến khỏi
danh sách hàng nông sản xuất khẩu năm 2000 là: cung các mặt
hàng này trên thị trường thế giới tăng nhưng cầu lại giảm mạnh.
Do đó hàng của công ty không thể cạnh tranh để tiêu thụ ở thị
trường thế giới.
Qua phân tích cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu của
công ty thời gian qua thấy có một số vấn đề tồn tại sau:
Mặt hàng xuất khẩu của công ty tương đối rộng, công ty
xuất khẩu dàn trải ở nhiều mặt hàng song do tiềm lực về tài
-62-
chính và nhân lực của công ty có hạn nên số lượng xuất khẩu ở
từng mặt hàng không cao, kim ngạch xuất khẩu thu được ở từng
mặt hàng cũng không cao.
Có sự bất ổn định lớn trong xuất khẩu ở một số mặt hàng
có tiềm năng sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam (mặt hàng ấy
cũng được xem là mặt hàng chủ lực và chiến lược của công ty)
VD: Hai mặt hàng điều và cà phê, là những mặt hàng đem lại
kim ngạch xuất khẩu lớn cho công ty ở các năm 1997, 1998,
1999 nhưng lại không còn được xuất khẩu ở năm 2000.
3. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của công ty.
a. Khái quát chung chất lượng hàng nông sản của công ty.
Công ty VILEXIM là một công ty chuyên doanh xuất nhập
khẩu. Công ty không tổ chức sản xuất và chế biến hàng nông
sản xuất khẩu nên chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của
công ty phụ thuộc vào quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản
hàng nông sản chung của cả nước thông qua nghiệp vụ thu
mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Trong thời gian qua, nhà nước ta đã quan tâm song chưa
thực sự hiệu quả vấn đề giúp đỡ nhân dân có nguồn vốn ban
đầu để trang trải cho việc mở rộng diện tích gieo trồng, thay đổi
giống cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất nên nông dân nhiều khi phải trồng những loại cây thoái
hoá, lẫn tạp, chất lượng không đồng bộ hoặc chạy theo những
giống cây trồng cho năng suất cao nhưng chất lượng lại thấp.
Quá trình chế biến, hàng nông sản của cả nước cũng tác
động đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty. Trong thời
gian qua, hoạt động chế biến hàng nông sản của nước ta chưa
-63-
thực sự được chú trọng đầu tư phát triển nên hàng xuất khẩu
của công ty chủ yếu là sản phẩm thô hoặc mới chỉ qua sơ chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường thế giới.
Ngoài ra, với tính chất dễ mốc, ẩm, biến chất thì khâu bảo
quản cũng đóng vai trò quan trọng quyết định chất lượng hàng
xuất khẩu. Hiện nay hệ thống sân phơi, kho bãi, phòng sấy và
các thiết bị khác phục vụ công tác bảo quản hàng nông sản
nhìn chung vẫn còn thiếu về số lượng, kém về chất lượng. Hệ
thống kho tàng mới chỉ là nơi chứa hàng chứ chưa đủ điều kiện
là nơi bảo quản, chống mối, mọt, nấm...cho hàng. Các nhà máy
sấy còn thiếu, quy mô nhỏ, chủ yếu là sử dụng các biện pháp
thủ công với nguyên liệu chính là than củi nên năngsuất chế
biến thấp, chất lượng không đảm bảo.
Tóm lại hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam nói chung
và của công ty nói riêng còn thấp. Vì vậy hàng nông sản xuất
khẩu của công ty gặp phải nhiều khó khăn khi cạnh tranh với
các đối thủ xuất khẩu sản phẩm cùng loại.
b. Chất lượng một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty.
Chất lượng lạc nhân xuất khẩu.
Khí hậu nhiệt đới nước ta là điều kiện thuận lợi cho cây lạc
phát triển. Với đặc điểm là cây công nghiệp ngắn ngày (85-90
ngày), cây lạc đặc biệt phù hợp với những vùng hay bị thiên tai,
hạn hán. Vì vậy, miền Trung và Trung Du là hai nguồn cung cấp
lạc chủ yếu của nước ta.
Trong những năm qua, nhận thức rõ vai trò của cây lạc
trong sản xuất và xuất khẩu nông nghiệp, các địa phương trong
nước đã tích cực thực hiện công tác khuyến nông, từng bước
-64-
đưa giống lạc mới có năng suất và chất lượng cao vào gieo
trồng đồng thời áp dụng một số tiến bộ khoa học vào sản xuất.
Vì vậy chất lượng lạc nhân xuất khẩu của Việt Nam nói chung
và của công ty VILEXIM nói riêng đã được cải thiện đáng kể. Tuy
nhiên, so với một số nước khác cũng sản xuất lạc trên thế giới
thì chất lượng lạc của VILEXIM còn kém hơn nhiều. VD: So sánh
về cỡ hạt: Lạc nhân Việt Nam có cỡ hạt khoảng 60 - 70 hạt /
ounce trong khi đó lạc nhân của Mỹ chỉ khoảng 40 hạt / ounce.
Ngoài yếu tố giống, phương pháp gieo trồng, công tác chế
biến và bảo quản cũng có tác động trực tiếp đến chất lượng Lạc
xuất khẩu của công ty.
Thông thường hạt Lạc tươi chiếm khoảng 40% độ ẩm. Theo
yêu cầu chung của thị trường thế giới thì sau khi phơi khô hàm
lượng này chỉ còn 10% hoặc ít hơn, khi bảo quản Lạc phải có độ
ẩm <10%. Hiện nay chúng ta thường nhờ nắng, gió làm khô
Lạc. Tuy rằng biện pháp này rất kinh tế song lại không chủ
động, gặp lúc trời mưa hay nắng yếu phải phơi kéo dài. Đây là
dịp tốt để các sinh vật có hại phát triển trên hạt Lạc. Những quá
trình sinh lý bất lợi như (hô hấp, tự bốc nóng) cũng sẽ xảy ra và
làm giảm chất lượng Lạc. Đặc biệt là việc phơi lạc dưới nắng Hè
quá lâu (như trong điều kiện nắng và gió Lào Nghệ Tĩnh) sẽ
gây hiện tượng chảy dầu và dễ bị vỡ khi bóc vỏ, làm giảm chất
lượng Lạc.
Như vậy, có thể thấy khí hậu nhiệt đới của nước ta không
những là điều kiện khí hậu tuyệt vời cho cây nông nghiệp phát
triển mà cũng là điều kiện thuận lơi cho các loại sâu, mọt, nấm,
mốc ... phát triển. Chính vì vậy công tác bảo quản phải được
công ty đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên trong thời gian qua, hệ
-65-
thống kho tàng bảo quản của công ty vẫn chưa được đầu tư
thích đáng, phương tiện bảo quản còn thiếu và yếu kém nên đã
gây ảnh hưởng dến chất lượng lạc xuất khẩu của công ty.
Chất lượng gạo xuất khẩu.
Gạo là mặt hàng mới được công ty xuất khẩu trong những
năm gần đây song đã là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, được đánh
gía là có triển vọng và góp phần quan trọng vào sự phát triển
của công ty. Cũng như lạc nhân, chất lượng gạo xuất khẩu của
công ty phụ thuộc vào chất lượng sản xuất và chế biến lúa gạo
của cả nước.
Trong những năm qua, nước ta đã có sự tập trung đầu tư
lớn vào việc sản xuất gạo. Cụ thể: Giống gieo trồng đã được
tuyển chọ kỹ lưỡng hơn, đã thu thập thêm được nhiều giống mới
cho chất lượng và năng suất cao phù hợp với điều kiện sản xuất
và thời gian sinh trưởng ngắn ngày, đã đầu tư vào một số dây
truyền xay xát hiện đại, công tác tổ chức bảo quản được thực
hiện chu đáo hơn. Vì vậy chất lượng gạo Việt Nam trong những
năm qua đã có sự cải thiện rõ rệt, nhiều loại gạo đã đáp ứng
được yêu cầu cao của thị trường thế giới.
Tuy nhiên trong những năm qua, gạo xuất khẩu của công ty
đa số là loại gạo có phẩm cấp chưa cao. Điều này không hẳn là
công ty không có khả năng cung ứng gạo có phẩm cấp cao ra
thị trường thế giới mà ngược lại, đó chính là chiến lược ứng xử
hợp lý trong chiến lược kinh doanh xuất khẩu của công ty căn
cứ vào giá cả và nhu cầu thực tế của thị trường thế giới. Trong
điều kiện giá tăng mạnh, nhiều nước nghèo thường tập trung
tiêu dùng loại gạo có chất lượng thấp nên đẩy giá gạo loại này
-66-
tăng nhiều hơn so với giá loại gạo có chất lượng cao. Do vậy
việc xuất khẩu loại gạo có phẩm cấp thấp là cách ứng xử tình
huống nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Đương
nhiên trong chiến lược phát triển lâu dài, công ty phải chủ
trương tăng tỷ trọng xuất khẩu loại gạo có chất lượng cao theo
xu hướng phát triển chung của thị trường gạo thế giới.
4. Giá cả hàng nông sản xuất khẩu của công ty.
Trong thời gian qua mặc dù đã rất cố gắng nâng cao số
lượng, chủng loại hàng nông sản xuất khẩu song hiệu quả kinh
tế mà công ty thu được từ hoạt động này vẫn chưa cao, tốc độ
tăng trưởng về số lượng luôn lớn hơn về tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do
giá hàng nông sản xuất khẩu của công ty chưa cao, giá của một
số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty còn thấp hơn rất
nhiều so với giá xuất khẩu bình quân của thị trường thế giới và
so với giá của các đối thủ cạnh tranh của công ty.
Một số nguyên nhân làm cho gía hàng xuất khẩu của công ty
chưa cao đó là:
Hiện nay hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty
vẫn còn mang tính chất từng chuyến, từng đợt nên khó tìm
được bạn hàng tiêu thụ ổn định. Hàng nông sản xuất khẩu của
công ty đến với khách hàng quốc tế thường phải qua trung gian
nên bị ghìm giá, ép giá. Mặt khác, với sự bán hàng một cách ồ
ạt, bán hàng bằng mọi giá, thiếu sự liên kết của các doanh
nghiệp trong nước như hiện nay cũng là một kẽ hở để khách
hàng nước ngoài ghìm giá, ép giá.
-67-
Do thiếu hợp đồng gối đầu, thiếu thông tin về thị trường và
các kinh nghiệm kinh doanh nên tiến độ hàng xuất khẩu của
công ty ngược với sự biến động giá thị trường quốc tế. Có những
mặt hàng khi giá trên thị trường thế giới tăng mạnh thì công ty
lại chưa có hàng xuất khẩu, khi công ty có hàng xuất khẩu thì
lại là lúc giá trên thị trường thế giới giảm nhiều.
Công ty tham gia xuất khẩu hàng nông sản khi thị trường
hàng nông sản thế giới đã được phân chia cho một số lượng lớn
các doanh nghiệp trong và ngoài nước xuất khẩu nông sản. Sự
biến động tình hình cung cầu hàng nông sản trên thị trường thế
giới trong thời gian qua (cung thường lớn hơn cầu) Và một số
yếu tố khác như: Quy cách, chất lượng sản phẩm thấp, không
đồng đều, cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu còn yếu kém, các
hoạt động kiểm phẩm, xông trùng...có độ tin cậy không cao,
nguồn hàng cung cấp không ổn định, hầu như chỉ xuất khẩu
theo giá FOP cũng là những nguyên nhân làm giảm giá hàng
nông sản xuất khẩu của công ty.
Bảng 6: Giá một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty trong giai đoạn
1996 - 2000. ĐV:USD/tấn
Năm
Mặt hàng 1996 1997 1998 1999 2000
Lạc nhân 550 536 492 500 546
Gạo 197
Cà Phê
Hạt điều 1.200 1.150 1.000
Vừng 580 500 650 600
-68-
Ngô 95 100 100 100
Sắn lát 70 60 65 70 100
Hạt tiêu 4.200 4.300 4.000
Tỏi 700
Bột sắn 300
Đậu 280 280 300
Hoa hồi 250 4.070
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
5. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty.
a. Các hình thức thu mua tạo nguồn của công ty.
Là một đơn vị kinh tế thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu,
song công ty không trực tiếp sản xuất ra hàng để xuất khẩu.
Chính vì vậy việc thu gom tạo nguồn hàng xuất khẩu được công
ty chú trọng. Hiện nay có ba hình thức được công ty sử dụng để
thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Đó là: Thu mua theo hình
thức mua đứt bán đoạn, hình thức hàng đổi hàng và hình thức
ủy thác xuất khẩu. Sau đây ta sẽ đi sâu phân tích cụ thể từng
hình thức.
Thu mua hàng theo hình thức mua đứt bán đoạn.
Đây là hình thức chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong hoạt
động thu mua hàng nông sản xuất khẩu của công ty. Với hình
thức này công ty phải ký hai hợp đồng . Đó là: Hợp đồng mua
hàng và hợp đồng xuất khẩu. Công ty sẽ dựa trên yêu cầu của
hợp đồng xuất khẩu để đưa ra các điều kiện phù hợp cho hợp
đồng thu mua về chất lượng, số lượng, mẫu mã, phương thức
-69-
thanh toán... Khi công ty và người cung ứng thỏa thuận xong
các điều khoản thì sẽ hai bên sẽ tiến hành ký hợp đồng. Hợp
đồng chính là một công cụ để đảm bảo rằng công ty sẽ có hàng
để xuất khẩu. Thông thường, công ty sẽ trả tiền cho người bán
sau khi nhận được đủ hàng hóa như đã ghi trong hợp đồng.
Nhưng trong trường hợp ký hợp đồng với các nhà cung ứng
đáng tin cậy đã có quan hệ truyền thống với mình thì công ty
ứng trước một khoản tiền nhỏ để đáp ứng tâm lý của người bán
hàng là muốn thu tiền nhanh gọn. Với hình thức thu mua này,
công ty có thể so sánh được giá mua và giá bán cũng như các
giá mua với nhau, tính toán được chính xác được chi phí lưu
thông hàng hóa, từ đó công ty sẽ chọn được nhà cung ứng tối
ưu.
Tuy có nhiều ưu điểm song hình thức này cũng có nhiều
nhược điểm. Đó là khả năng rủi ro công ty gặp phải cao bởi
công ty có thể bị thua lỗ, thua thiệt vì những biến động bất
thường mà công ty không thể kiểm soát được. Chẳng hạn: công
ty ký hợp đồng với khách hàng ở một mức giá thấp nhưng khi đi
thu mua hàng xuất khẩu lại không mua được với giá thấp hơn
giá đã ký do những biến động bất thường; công ty phải giao
hàng với mức giá thấp như trong hợp đồng đã ký với nhà nhập
khẩu tại thời điểm giá thị trường lên cao; chất lượng hàng hóa
không đều và không cao do nguồn cung cấp hàng của công ty
không ổn định, công ty có thể phải mua hàng của nhiều nhà
cung ứng; công ty có thể bị nhiều nhà cung ứng đồng loạt ép
tăng gía mua hàng khi công ty đã gần đến thời hạn giao hàng.
Hơn nữa, khi kết thúc mỗi thương vụ làm ăn thì sự ràng buộc
giữa công ty và nhà cung ứng cũng mất đi. Vì vậy trước hiện
-70-
tượng tranh mua, tranh bán như hiện nay, công ty sẽ gặp nhiều
khó khăn trong các lô hàng tiếp theo.
Hình thức hàng đổi hàng.
Đây là phương thức có sự trao đi đổi lại về hàng hóa giữa
công ty và đối tác, sự trao đổi này là một quá trình lâu dài nên
đã ràng buộc được người mua và người bán với nhau. Vì vậy,
công ty có thể có được nguồn hàng tương đối ổn định. Tuy
nhiên, vì quá trình trao đổi diễn ra dài, nhiều khi lại không được
tiến hành song song làm cho hoạt động kinh doanh của công ty
bị gián đọan, vòng quay của vốn chậm, vốn của công ty bị
chiếm dụng do quá trình trao đổi hàng không đều. Hiện nay,
hình thức này ngày càng ít được sử dụng trong công tác thu
mua hàng của công ty.
Hình thức ủy thác xuất khẩu .
ở hình thức này, công ty sẽ dùng danh nghĩa của mình để
xuất khẩu hàng mà công ty được ủy thác và công ty sẽ được
hưởng hoa hồng theo tỷ lệ 1-2% theo trị giá lô hàng. Trước đây,
hình thức này được sử dụng thường xuyên và chiếm tỷ trọng lớn
trong hoạt động xuất khẩu của công ty nhưng trong 3 năm gần
đây, hình thức này đã giảm nhiều và chiếm tỷ trọng nhỏ bởi nhà
nước cho phép tất cả các tổ chức sản xuất kinh doanh đều có
thể xuất khẩu trực tiếp.
Bảng 7: Tỷ trọng các hình thức thu mua hàng NS của
công ty từ 1996 - 2000.
ĐV:%
Nă
m
1996 1997 1998 1999 2000
-71-
Hình thức
Mua đứt bán
đoạn70,5 74,04 74,36 82 85
Hàng đổi hàng 9,9 10,4 5,8 1,9 1,5
Uỷ thác xuất
khẩu19,6 15,56 19,84 16,1 13,5
Tổng các hình
thức100 100 100 100 100
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
b. Công tác tổ chức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu
của công ty.
Một thực tế của ngành hàng xuất khẩu đang tồn tại ở nước
ta hiện nay đó là nhiều ngành hàng xuất khẩu còn mang tính
chầt thu gom manh múm, làm theo thương vụ, không có chiến
lược cho lâu dài. Thực tế này càng đúng hơn đối với ngành hàng
xuất khẩu nông sản Việt Nam. Hiện nay chỉ khi một mặt hàng
nào đó xuất khẩu thuận lợi thì các đơn vị kinh doanh xuất khẩu
mới đi thu gom ở thị trường nội địa để bán ra thị trường nước
ngoài, khi mặt hàng ấy xuất khẩu không thuận lợi thì bỏ mặc
các nhà sản xuất làm cho người sản xuất bị ứ đọng hàng hóa, bị
lâm vào tình trạng khó khăn, họ không có đủ tiền để trang trải
cho cuộc sống nên phải phá bỏ loại cây trồng ấy đi và thay vào
đó là một loại cây trồng mới. Vì vậy khi cầu về mặt hàng ấy trên
thị trường thế giới tăng thì các công ty kinh doanh xuất khẩu lại
không có hàng để xuất khẩu. Chính vì không có sự phối hợp một
cách đồng bộ giữa người sản xuất và nhà xuất khẩu nên cả hoạt
động sản xuất và xuất khẩu đều thiếu ổn định, không mang tính
-72-
chiến lược lâu dài. Công ty VILEXIM cũng ở trong tình trạng
chung ấy.Việc tổ chức thu mua tạo nguồn hàng của công ty
được thể hiện ở mô hình sau:
Sơ đồ : Mô hình tổ chức thu mua tạo nguồn hàng của
công ty VILEXIM.
Với mô hình này, nhà buôn nhỏ ở địa phương là nguồn cung
cấp chính cho công ty. Mối quan hệ giữa công ty và người sản
xuất rất lỏng lẻo, công ty không hề có một mối liên hệ mật thiết
hay một sự hướng dẫn nào về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật
của hàng hóa đối với người sản xuất. Hàng hóa của công ty
thường phụ thuộc vào các nhà buôn nhỏ ở địa phương do vậy
hàng nông sản công ty thu gom được thường không đồng bộ về
chủng loại, chất lượng, mẫu mã... Thêm vào đó hoạt động của
công ty mang tính thương vụ nên công ty rất dễ bị các nhà
buôn nhỏ ở địa phương ép giá. Các nghiệp vụ mà công ty thực
hiện khi thu mua hàng được thể hiện ở sơ đồ sau:
-73-
Nhà buôn nhỏ địa phương
Các chi nhánh công
ty
Công ty
Các cơ sở sảnxuất và chế biến
Hộ gia đình sản
xuất
Sơ đồ: Quá trình thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của
công ty.
Bước 1: Xác định nhu cầu.
Đây là bước đầu tiên và có vai trò vô cùng quan trọng trong
hoạt động xuất khẩu của công ty. Nó có quan hệ mật thiết với
các bước sau và quyết định trực tiếp đến kết quả của các bước
sau. Yêu cầu của bước này là công ty phải nắm chắc được các
yếu tố mặt hàng, chất lượng, giá cả. Chỉ có nắm chắc bước này
thì công ty mới thực hiện tốt được công tác thu mua, đáp ứng
được đúng mong muốn của người tiêu dùng và mới thu được kết
quả tốt khi kết thúc thương vụ. Một trong những căn cứ giúp
cho công ty xác định được nhu cầu là dựa trên các hợp đồng
xuất khẩu, các đơn đặt hàng của nước ngoài từ đó công ty sẽ
xem xét lại loại hàng mà khách hàng cần và khả năng đáp ứng
của công ty. Trước mỗi thương vụ công ty thường cử các cán bộ
có kinh nghiệm xuống cơ sở để nắm bắt tình hình sản xuất, chế
biến, xem xét khả năng cung ứng của từng khu vực trong nước
và đưa ra giải pháp tối ưu cho công tác thu mua.
-74-
Xác định nhu cầu
Xây dựngđơn giá
Lựa chọn khu vực thị
trường
Tiếp cận đàm phán ký kết hợp đồng
Tổ chức thực hiện hợp đồng
Thanh lý hợp đồng
Tìm kiếm nhà cung ứng
Lựa chọn nhà cung
ứng
Kiểm tra hàng hoá
Tiếp nhận
hàng hóa
Vận chuyển
hàng hóa
Bảo quản
hàng hóa
Bước 2: Xây dựng đơn hàng.
Sau khi có được các thông tin về nhu cầu của bạn hàng thì
công ty sẽ tiến hành xây dựng cho mình một đơn hàng. Đơn
hàng này sẽ có các điều khoản về số lượng, chất lượng của
hàng hóa giống như khách hàng yêu cầu còn các điều khỏan
khác thì không giống. Giá cả trong hợp đồng xuất khẩu thường
lớn hơn 3-5% so với giá trong đơn hàng mà công ty sẽ sử dụng
để thu mua.
Bước 3: Lựa chọn khu vực thị trường ngưới cung ứng.
Sau khi đã xây dựng được các đơn hàng thu mua, công ty sẽ
tiến hành xem xét xem khu vực thị trường nào có khả năng đảm
bảo một cách tốt nhất đơn hàng của công ty. Đối với những mặt
hàng khác nhau công ty sẽ lựa chọn khu vực thị trường người
cung ứng khác nhau. Chẳng hạn:
Đối với khu vực miền Bắc, đặc biệt là tại các tỉnh Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Hải Phòng sẽ là nơi cung cấp các mặt
hàng lạc nhân, đậu, vừng, ngô cho công ty.
Khu vực miền Trung với các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Qủng
Nam sẽ cung cấp lạc nhân, hạt tiêu.
Khu vưc Tây Nguyên với các tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc, Buôn Mê
Thuột sẽ cung cấp cà phê, hạt tiêu.
Khu vực Nam Bộ sẽ cung cấp gạo và lạc nhân.
Các chi nhánh của công ty sẽ phụ trách khu vực thị trường
ngưới cung ứng trực thuộc tầm quản lý của mình. Chi nhánh tại
Thành Phố Hồ Chí Minh sẽ phụ trách khu vực miền Nam còn đại
diện tại Đông Hà và văn phòng tại Hà Nội sẽ phụ trách khu vực
miền Trung và miền Bắc. Căn cứ vào khu vực thị trường đã chọn
-75-
công ty sẽ lựa chọn nhà cung ứng trên cơ sở các điều kiện của
đơn hàng, và một số chỉ tiêu sau của nhà cung ứng:
Quy mô sản xuất, kinh doanh của nhà cung ứng có đáp ứng
được với yêu cầu của công ty hay không.
Đối tác có uy tín trên thị trường không.
Chất lượng và mẫu mã hàng hóa của nhà cung ứng có đáp
ứng được yêu cầu của công ty không.
Gía cả có thấp hơn giá thu mua hay không.
Điều kiện giao hàng như thế nào.
Bước 4: Đàm phán và ký kết hợp đồng.
Sau khi đã lựa chọn được người cung ứng, công ty sẽ tiếp
cận đàm phán và ký kết hợp đồng. Hợp đồng là một căn cứ xác
định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên nên nó cũng là một
công cụ để đảm bảo rằng công ty sẽ nhận được hàng.
Bước 5: Thực hiện hợp đồng.
Sau khi đã ký hợp đồng với nhà cung ứng, hai bên sẽ đi vào
thực hiện hợp đồng. Mỗi bên đều phải tự giác thực hiện trách
nhiệm của mình. Tuy nhiên để quá trình mua hàng được diễn ra
suôn sẻ, không ảnh hưởng đến các bước sau thì công ty đã cử
cán bộ công nhân viên của mình xuống tận cơ sở để kiểm tra
chất lượng hàng. Tuy nhiên một thực tế đang tồn tại ở công ty
hiện nay là hoạt động kiểm tra chất lượng hàng thu mua của
công ty mang nặng tính hình thức, công cụ để kiểm tra rất thô
sơ. Chẳng hạn đối với mặt hàng lạc xuất khẩu. Việc kiểm tra
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của cán bộ thu mua thông qua
quan sát màu sắc, độ tróc của lụa lạc.
-76-
Sau khi đã nhận được hàng, công ty sẽ tiếp nhận hàng tại
các địa điểm giao hàng cụ thể. Hàng sẽ được tập trung về kho
của công ty, được kiểm tra lần cuối, đóng gói những hàng đủ
tiêu chuẩn xuất khẩu và chờ làm thủ tục hải quan cho lô hàng
đó.
Đối với mặt hàng nông sản yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật
đối với khâu chế biến, bảo quản là rất cao. Kho chứa hàng phải
vệ sinh, có nhiệt độ và độ ẩm thích hợp với đặc tính của từng
mặt hàng nhằm hạn chế sự biến dạng, biến chất, nấm mốc
hàng hóa. Tuy nhiên đối với công ty VILEXIM, kho chứa hàng
mới chỉ đơn thuần là nơi chứa hàng chứ chưa thực sự đảm bảo
được các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, công ty hầu như chưa
có một hoạt động chế biến nào. Do vậy chất lượng hàng xuất
khẩu của công ty trong thời gian qua chưa thực sự cao.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng.
Đây là bước cuối cùng trong công tác thu mua tạo nguồn
hàng xuất khẩu của công ty. Trong quá trình thanh lý hợp
đồng, nếu có vướng mắc gì thì hai bên phải tiến hành xem xét
để đi đến thỏa thuận thống nhất về trách nhiệm và quyền lợi
của mỗi bên. Nếu không thống nhất được cách giải quyết thì
hai bên sẽ phải nhờ đến trọng tài kinh tế cấp có thẩm quyền
xem xét giải quyết.
Để hạn chế sự ảnh hưởng của nhà buôn nhỏ ở địa phương
đến công tác thu mua hàng của công ty, thời gian qua công ty
đã thành lập thêm các trạm thu mua ở địa phương mình để trực
tiếp thu mua từ nhà sản xuất. VD: Trạm thu mua ở Nghệ An đối
với mặt hàng lạc; ở Đắc Lắc đối với mặt hàng cà phê và ở Cần
-77-
Thơ đối với gạo. Với hình thức này công ty có thể tiết kiệm được
chi phí, chọn được hàng có chất lượng đảm bảo. Tuy nhien khối
lượng hàng thu mua được bằng hình thức này của công ty vẫn
chưa cao, nguồn cung cấp vẫn chưa ổn định bởi đây là hình thức
mới đối với công ty nên cũng mới đối với người sản xuất. Người
sản xuất có mối quan hệ rất ít đối với công ty nên uy tín của
công ty đối với họ chưa cao. Thêm vào đó do lực lượng thu mua
quá mỏng, các trạm thu mua quá ít nên công ty chưa tiếp xúc
được nhiều đối với người sản xuất.
6. Công tác thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường của công ty.
Trong xu thế tự do hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới,
số lượng các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia xuất
nhập khẩu hàng hóa không ngừng tăng làm cho sự cạnh tranh
trong và ngoài nước ngày càng khốc liệt. Trong khung cảnh
chung ấy thông tin chính là yếu tố quyết định sự thành công
của bất kỳ một đơn vị kinh doanh nào. Đối với hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu thì thông tin lại càng đóng vai trò quan
trọng bởi mặt hàng nông sản là một mặt hàng nhạy cảm, bất kỳ
một yếu tố khách quan hay chủ quan nào đều có thể gây sự
biến động mạnh đến tình hình cung, cầu mặt hàng này trên thị
trường. Điều này sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh của mỗi đơn vị.
Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin, trong thời
gian qua công ty VILEXIM cũng đã quan tâm đến việc làm thế
nào để có được thông tin về tình hình cung, cầu, giá cả, sự thay
đổi trong tiêu dùng mặt hàng nông sản, thông tin về đối thủ
cạnh tranh một cách đầy đủ nhất và nhanh nhất.
-78-
Tuy nhiên do nguồn vốn của công ty có hạn nên kinh phí
của công ty đầu tư cho công tác này còn khá khiêm tốn. Thêm
vào đó là sự thiếu kinh nghiệm, ít am hiểu tình hình thị trường
của cán bộ công nhân viên trong công ty nên có thể thấy công
tác thu thập thông tin trong công ty còn rất nhiều hạn chế.
Các nguồn thông tin về thông tin rất quan trọng, đáng tin
cậy và cập nhật như thông tin của Trung tâm thương mại Quốc
tế (ITC), thông tin từ tổ chức thương mại và phát triển của Liên
Hợp Quốc (UNCTAD), thông tin của ngân hàng thế giới(WB) đều
chưa được công ty khai thác. Nguyên nhân là do các nguồn
thông tin này có chi phí khá cao. Các nguồn thông tin chính mà
công ty thu thập hiện nay là:
Các bản tin của các cơ quan thống kê phát hành thường xuyên.
Các tạp chí kinh tế .
Thông tin về thị trường giá cả của ủy ban vật giá nhà nước.
Thông tin từ các cán bộ công mà công ty cử đi khảo sát thị trường nước
ngoài. Tuy nhiên do thiếu kinh phí nên công ty không thể cử các cán bộ đi
nghiên cứu ở thị trường nước ngoài một cách thường xuyên nên thông tin thu
được từ nguồn này là không đáng kể.
Mối quan hệ với các thị trường và bạn hàng cũ, hiện nay công ty tiếp tục duy
trì quan hệ kinh doanh với họ.
Công ty có quan hệ với các viện thương mại thuộc khu vực Châu Âu, Châu
Mỹ, Châu Phi,...Hàng năm công ty tham gia các buổi họp tham tán thương mại
và nhờ họ cung cấp, giới thiệu công ty với các thị trường, bạn hàng mới.
Công ty là hội viên lâu năm của phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt
Nam. Thông qua các buổi sinh hoạt câu lạc bộ ban giám đốc, phòng thương mại
sẽ giới thiệu các đối tác nước ngoài với công ty.
Tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước.
-79-
Ngoài ra công ty còn dựa vào sự quen biết của các cán bộ
nhân viên trong công ty với khách hàng nước ngoài để thu thập
thêm thông tin. Những thông tin thu được từ các nguồn này là
tương đối rẻ song thường không cập nhật nên nhiều khi công
ty đã bỏ lỡ thời cơ kinh doanh.
Song song với việc thu thập thông tin và các công tác tìm
kiếm thị trường thì việc xử lý thông tin và ra các quyết định
cũng vô cùng quan trọng. Những con số và sự kiện sẽ chẳng có
có ý nghĩa gì nếu nó không được xử ký một cách kịp thời và
chính xác. Nhiệm vụ của xử lý thông tin và đưa ra quyết định là
phải biết được thông tin nào là đúng, thông tin nào là sai, thông
tin nào mang lại những cơ hội và thách thức cho công ty để từ
đó ra những quyết định biến những cơ hội thành những kết quả
kinh doanh tốt, ứng phó với thách thức để hạn chế rủi ro. Trong
thời gian qua, việc xử lý thông tin và đưa ra những quyết định
còn nhiều bất cập. Thông tin thu thập được của công ty sẽ giao
cho một số cán bộ ở phòng xuất nhập khẩu nghiên cứu và đánh
giá cơ hội kinh doanh sau đó sẽ trình lên ban giám đốc để ra
quyết định. Chính vì vậy những đánh giá được đưa ra mang tính
chủ quan, chủ yếu chỉ dựa vào kinh nghiệm ít ỏi về thị trường
của các cán bộ này.
Như vậy qua nghiên cứu công tác thu thập thông tin, tìm
kiếm thông tin và bạn hàng của công ty ta có thể thấy công
việc tìm kiếm thị trường và bạn hàng tiêu thụ của công ty hiện
nay cũng còn rất nhiều hạn chế. Công ty vẫn chưa có một bộ
phận riêng đảm nhiệm công tác tìm kiếm và nghiên cứu thị
trường, công tác này chưa được đầu tư một cách thích đáng,
hoạt động thực sự chưa có hiệu quả, nó mang nặng tính hình
-80-
thức, hoạt động lẻ tẻ, yếu ớt, thụ động và không có kế hoạch.
Chính vì vậy trong thời gian qua công ty chỉ xuất khẩu được
những gì mà mình có và bạn hàng yêu cầu chứ chưa tự nghiên
cứu và tìm hiểu nhu cầu của bạn hàng và tìm cách thỏa mãn
được nhu cầu đó. Do vậy lợi nhuận mà công ty thu được từ hoạt
động xuất khẩu là không cao. Trong tương lai để hoạt động kinh
doanh có hiệu quả hơn công ty cần phải nhìn nhận và tổ chức
lại công tác thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường và bạn hàng
tiêu thụ.
7. Thị trường tiêu thụ hàng nông sản của công ty.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và trong kinh doanh nông sản
nói riêng, việc tìm kiếm thị trường là vấn đề quan trọng đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh được diễn ra liên tục và đạt hiệu quả cao. Hiện nay, công ty đã có
mối quan hệ với khoảng 30 nước trong hầu hết các khu vực Châu á, Châu Phi,
Châu Mỹ, Châu âu và có quan hệ kinh doanh với khoảng 23 nước. Trong đó, thị
trường nhập khẩu chính hàng nông sản của công ty là các nước thuộc khu vực
châu á.
Bảng 8 : Thị trường nhập khẩu hàng nông sản của công
ty gđ 1996-2000.
ĐV: %
N
ăm
Thị trường
1996 1997 1998 1999 2000
Châu á 81,64 79,71 82,85 85,5 86
Châu Phi 8,45 10,32 9,07 8,00 6,4
-81-
Trung
Đông6,25 5,38 5,95 5,00 5,5
Châu âu 2,47 1,97 1,99 0,7 1,1
Châu Mỹ 1,14 2,62 0,47 0,8 1,0
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
Thị trường Châu á.
Đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất của công ty trong
những năm qua. Thị trường này gồm các nước như Lào, Trung
Quốc, Singapo, Nhật Bản, Indonêxia, Malaixia... Các nước này
thuộc khu vực khí hậu và điều kiện địa lý tương đối giống Việt
Nam nên cũng có một số mặt hàng xuất khẩu giống Việt Nam
thế nhưng họ vẫn tiến hành nhập khẩu hàng hóa của công ty vì
hầu hết hàng hóa của công ty đều ở dạng thô, chất lượng chưa
cao nên họ sẽ mua về chế biến lại để thực hiện tái xuất khẩu.
Thuận lợi của công ty khi xâm nhập vào thị trường này là :
Đây là khu vực có vị trí địa lý gần Việt Nam nên chi phí vận
chuyển hàng hóa thấp. Đây là một cơ hội để nâng cao sức cạnh
tranh về giá sản phẩm của công ty.
Khu vực này có yêu cầu về chất lượng và mẫu mã sản phẩm
không cao.
Tuy nhiên công ty cũng gặp phải nhiều khó khăn tại khu vực
thị trường này bởi đây là khu vực thường có nhiều biến động về
kinh tế, chính trị, tài chính. Đồng thời khả năng chi trả của thị
trường này thường không cao.
Trong 3 năm 1997, 1998, 1999 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính trong khu vực nên lượng hàng xuất khẩu của công ty sang thị trường
này bị giảm sút, cơ cấu mặt hàng thay đổi liên tục. Năm 2000, khi nền kinh tế
-82-
các nước trong khu vực đã hồi phục, tình hình xuất khẩu hàng của công ty sang
khu vực này đã được cải thiện hơn. Trong hiện tại và tương lai công ty vẫn rất
chú trọng đến việc khai thác tốt thị trường này bởi thị trường này có những yếu
tố thuận lợi trên.
Thị trường Châu Phi.
Đây là thị trường lớn thứ hai tiêu thụ sản phẩm của công ty. Thị trường này
có nhu cầu tương đối lớn, chất lượng hàng không quá cao nhưng công ty phải
chấp nhận hệ số rủi ro cao do khả năng thanh toán có hạn, bị động bới các nước
viện trợ. Tại châu lục này các sản phẩm là nông sản của công ty chủ yếu được
xuất khẩu sang các nước ở Tây Phi như Camơrun, Côtđiva. Mới đây, Liên Hợp
Quốc đã quyết định thực hiện chính sách chỉ hỗ trợ nhập khẩu lương thực cho
những nước có khủng hoảng về chính trị đã làm cho thị trường của công ty ở
khu vực này bị thu hẹp trong hiện tại và tương lai.
Thị trường Trung Đông.
Iran và Irăc là các bạn hàng chủ yếu của công ty ở thị trường này. Tuy
nhiên, do chưa hiểu biết nhiều về bạn hàng và thị trường nên kim ngạch xuất
nhập khẩu của công ty tới thị trường này chưa cao.
Thị trường châu Âu và châu Mỹ.
Đâylà hai thị trường chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong quan hệ kinh doanh với
công ty.
Châu Âu luôn được đánh giá là một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng
nhưng cũng rất “khó tính”. Tại thị trường này người tiêu dùng chỉ chấp nhận
hàng hóa có chất lượng cao mặc dù họ phải trả giá đắt, các tiêu chuẩn về hàng
hóa đặc biệt là đối với hàng nông sản được thị trường này đề ra rất ngiêm ngặt.
Vì vậy có một thực tế là, mặc dù đã rất cố gắng để nâng cao chất lượng sản
phẩm nhưng công ty vẫn chưa vượt qua được “hàng rào về chất lượng’’. Năm
1994, công ty chưa có quan hệ làm ăn với thị trường này. Đến năm 1995, một tỷ
-83-
lệ nhỏ hàng nông sản đã được xuất khẩu sang Hà lan và Đức đánh dấu một bước
phát triển mới của công ty ở thị trường Châu Âu. Từ năm 1996 đến nay, luôn có
một tỷ lệ nhỏ hàng hóa của công ty được xuất khẩu sang khu vực tuy nhiên tỷ lệ
này lại không ổn định mà nó luôn biến động do những biến động về cung trên
thị trường. Nghĩa là chỉ khi các quốc gia cung ứng mặt hàng như của công ty
gặp phải biến cố về khí hậu, thời tiết, an ninh... thì công ty mới có cơ hội tìm
được một số đơn đặt hàng từ thị trường này.
Châu Mỹ là một thị trường xa xôi, hiệu quả kinh doanh thấp
so với các thị trường khác song vẫn có một số lượng nhỏ hàng
nông sản của công ty được xuất khẩu sang thị trường này. Điều
đó chứng tỏ công ty luôn tận dụng mọi cơ hội để tăng kim
ngạch xuất khẩu.
8. Công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty.
Một số lượng lớn hàng xuất khẩu của công ty khi đến tay
người tiêu dùng cuối cùng phải qua các trung gian nước ngoài.
Với cách thức tiêu thu này công ty không phải tốn các chi phí để
khuyến mại, khuếch trương, xây dựng các kho chứa hàng và
bán hàng ở nước ngoài, không phải đầu tư trang thiết bị để bảo
quản hàng hóa. Tuy nhiên điều này cũng đồng nghĩa với việc tất
cả các hoạt động để đưa hàng hóa của công ty đến tay người
tiêu dùng cuối cùng đều bị thâu tóm bởi các trung gian nước
ngoài. Hoạt động của công ty hoàn toàn bị động bởi đơn đặt
hàng của họ. Công ty không được tiếp xúc trực tiếp với người
tiêu dùng cuối cùng nên không có được các thông tin phản hồi
về giá cả, chất lượng và sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng từ phía
họ nên công ty không thỏa mãn được một cách tối ưu yêu cầu
về hàng hóa của họ. Thêm vào đó, khi ký hợp đồng với các nhà
-84-
nhập khẩu nước ngoài, giá mà công ty hay sử dụng là giá FOB
tại cảng Việt Nam. Với giá bán này trách nhiệm của công ty với
khàch hàng là không cao, vốn của công ty được quay vòng
nhanh. Lợi nhuận thu được trên một đồng vốn công ty bỏ ra là
không cao. Đây chính là những nguyên nhân làm cho hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chưa cao.
III. Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản
của công ty.
Sự biến động tình hình kinh tế, chính trị, tài chính thế giới
trong thời gian qua đã tác động trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của
công ty VILEXIM nói riêng. Vượt lên những khó khăn trong thời
gian qua, hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của
công ty VILEXIM đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy
nhiên trong quá trình hoạt động vẫn còn rất nhiều tồn tại mà
công ty cần giải quyết.
1. Thành tựu.
Chủng loại hàng xuất khẩu ngày càng phong phú và đa dạng,
số lượng xuất khẩu của từng mặt hàng ngày càng tăng. Công
tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu và xúc tiến tiêu thụ
hàng nhập khẩu đang từng bước được hoàn thiện để thích ứng
với môi trường kinh doanh mới.
-85-
Chất lượng hàng của công ty đang ngày một nâng cao. Từ
chỗ hàng của công ty chưa xâm nhập được vào các thị trường
khó tính như thị trường Nhật Bản, Châu Âu, Châu Mỹ đến nay
hàng xuất khẩu của công ty đã có mặt tại các thị trường này.
Thị trường tiêu thụ hàng của công ty cũng được mở rộng
đáng kể theo hướng đa dạng hơn. Nếu như những năm mới
tham gia xuất khẩu, thị trường của công ty chỉ bó hẹp ở Châu á
(thị trường tương đồng về thói quen, sở thích tiêu dùng và yêu
cầu về chất lượng không cao) thì đến nay hàng xuất khẩu của
công ty đã có mặt trên khoảng 23 nước ở hầu khắp các Châu
lục.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tăng lên qua các
năm, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều cá nhân ở
trong và ngoài công ty.
2. Tồn tại và nguyên nhân.
Trong thời gian qua, hàng nông sản xuất khẩu của công ty
chủ yếu là ở dạng thô hoặc mới qua sơ chế nên chất lượng chưa
cao, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu chung của các thị
trường khó tính và nhiều tiềm năng như thị trường Châu Âu,
Nhật Bản . Có rất nhiều nguyên nhân làm cho chất lượng hàng
xuất khẩu của công ty chưa cao:
Trước hết xuất phát từ hoạt động sản xuất hàng nông sản
trong nước. Công ty VILEXIM có chức năng kinh doanh xuất
khẩu hàng nông sản song công ty không trực tiếp sản xuất hàng
để xuất khẩu. Do vậy chất lượng hàng xuất khẩu của công ty
hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động sản xuất hàng nông sản
trong nước. Tuy nhiên trong thời gian qua hoạt động sản xuất
-86-
nông sản trong nước chưa thực sự nhận được sự đầu tư, quan
tâm chỉ đạo sắt sao của nhà nước. Hoạt động sản xuất nông sản
hầu như mang tính tự phát, tự giác. Nông dân thích gieo trồng
loại cây nào, giống nào, thời vụ gieo trồng, kỹ thuật gieo trồng
như thế nào là tùy. Do vậy có hiện tượng thuốc trừ sâu, phân
bón hóa học và các thuốc kích thích tăng trưởng được sử dụng
một cách bừa bãi; nhiều vùng, nhiều địa phương, nhiều hộ nông
dân chạy theo năng suất, số lượng, chưa chú ý đến chất lượng.
Đây là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng hàng
nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng chưa
cao. VD: Do chưa có sự chỉ đạo của nhà nước nên việc mở rộng
quá mức diện tích lúa vụ 3 ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hay
việc sử dụng các giống lúa lai cho năng suất cao nhưng chất
lượng lại thấp của nông dân các tỉnh phía Bắc.
Ngoài ra, công tác chế biến, bảo quản hàng sau khi mua
cũng gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng hàng xuất khẩu của
công ty. Trong thời gian qua công ty chưa đầu tư thích đáng vào
công tác chế biến hàng xuất khẩu. Hàng xuất khẩu của công ty
chủ yếu là ở dạng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế nên hầu như
chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới. Chẳng hạn:
+ Đối với mặt hàng cà phê: Thế giới chuyển sang dùng cà phê
hòa tan, bánh kẹo bằng cà phê, cà phê chè được tiêu thụ chủ
yếu thì cà phê xuất khẩu của công ty chủ yếu là cà phê thô
hoặc mới chỉ qua sơ chế.
+ Đối với mặt hàng chè: 80% tổng lượng tiêu thụ chè của thế
giới là chè túi, chè hộp, thì chè xuất khẩu của công ty chủ yếu
là chè đen và chè xanh.
-87-
Thông thường một kho chứa hàng nông sản phải đáp ứng được
những tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định như phải vệ sinh, có nhiệt
độ và độ ẩm thích hợp với đặc tính của từng mặt hàng nhằm
hạn chế sự biến dạng, biến chất, nấm mốc. Tuy nhiên kho chưa
hàng của công ty mới chỉ đơn thuần là nơi chứa hàng chứ chưa
đáp ứng được những yêu cầu về kỹ thuật. Do vậy đã gây ảnh
hưởng đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty và nhiều khi
còn gây thiệt hại cho công ty. VD: Mùa lạc năm 19996-1997 do
công ty bảo quản không tốt tại kho Đan Phượng - Hà Tây nên
toàn bộ số lạc 50 tấn của công ty đã bị mốc hỏng, tới hạn giao
hàng công ty đã không giao đủ số hàng nên đã phải bồi thường
thiệt hại cho khách hàng.
Chiến lược kinh doanh của công ty chưa rõ ràng.
Nếu có một chiến lược kinh doanh rõ ràng, công ty sẽ biết
được đâu là thị trường trọng điểm và đâu là mặt hàng chủ lực,
cách thức thâm nhập vào thị trường trọng điểm như thế nào
trong những năm tiếp theo. Khi ấy công ty sẽ có một sự chuẩn
bị chu đáo cho các công việc có liên quan sau này. Chẳng hạn:
Khi biết được mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong những năm tiếp
theo công ty sẽ có thu mua dự trữ hoặc tạo nguồn cung cấp ổn
định thông qua việc thiết lập mối quan hệ tốt với người sản
xuất. Đồng thời công ty sẽ tập trung nguồn lực vào công tác
bảo quản và chế biến nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất
khẩu. Hoặc khi xác định được thị trường chủ lực, công ty sẽ có
các chính sách Marketing thích hợp để thúc đẩy xuất khẩu như:
mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài để giới thiệu sản phẩm
của công ty và tìm kiếm khách hàng, thu thập thông tin, chuẩn
-88-
bị để tham gia các cuộc hội chợ triển lãm được tổ chức trong
hoặc ngoài nước...
Tuy nhiên một thực tế đang tồn tại ở công ty hiện nay đó là
chiến lược kinh doanh của công ty còn rất chung chung. Chính
vì vậy mà hoạt động xúc tiến thương mại của công ty rất yếu,
công ty không tập trung nguồn lực của mình vào bất cứ mặt
hàng nào, hoạt động kinh doanh của công ty dàn trải trên tất cả
các mặt hàng với cơ cấu mặt hàng thay đổi một cách liên tục.
Do đó công ty không thực sự mạnh ở bất cứ một mặt hàng nào.
Nguyên nhân là do:
Công ty thiếu thông tin về sự biến động tình hình cung, cầu,
gía cả... trên thị trường.
Ngoài ra sự việc này còn bị gây ra bởi yếu tố nhân lực trong
công ty. Hiện tại nếu phân theo độ tuổi thì trong công ty có 24%
người ở độ tuổi từ 18 - 25, 64% người ở độ tuổi từ 36 - 50 và
12% người ở độ tuổi trên 50. Nếu phân theo trình độ văn hóa thì
hiện tại trong công ty có 7% số người tốt nghiệp phổ thông
trung học, 38% tốt nghiệp cao đẳng, 48,7% tốt nghiệp đại học
và có 6,7% số người tốt nghiệp trên đại học. Như vậy ta có thể
thấy hiện tại vẫn còn một số lượng khá lớn số người trong công
ty có trình độ dưới đại học. Đây là một khó khăn lớn cho quá
trình hoạt động của công ty. Thêm vào đó hiện tại có tới 76%
số người trong công ty có độ tuổi trên 35. Đây là độ tuổi mà ít
nhiều đã chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu. Bởi
vậy nên mặc dù đã cố gắng rất nhiều song trình độ chuyên môn
chọ vẫn còn hạn chế, họ vẫn quen với lề lói làm việc quan liêu
và thụ động.
-89-
Qua phân tích tình hình của công ty ta thấy việc đề ra một
chiến lược kinh doanh rõ ràng là thực sự cần thiết đối với công
ty trong thời gian tới. Một chiến lược kinh doanh rõ ràng phải
nêu rõ mục tiêu và công việc công ty cần phải làm để thực hiện
mục tiêu đó. Tuy nhiên trước mắt công ty cần phải chỉ ra được
đâu là mặt hàng chủ lực và đâu là thị trường trọng điểm và cách
thức thâm nhập được vào thị trường đó trong tương lai.
Công tác thu thập thông tin, nghiên cứu và tìm kiếm thị
trường của công ty hoạt động thực sự chưa hiệu quả.
Thông tin là một trong những nhân tố quyết định sự thành
công của một doanh nghiệp. Cũng như các doanh nghiệp nhà
nước, một vấn đề bức xúc của công ty VILEXIM hiện nay là công
ty rất thiếu thông tin về thị trường. Do thiếu thông tin nên công
ty không phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị trường
và không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Đồng thời do
thiếu thông tin nên công ty không chớp được thời cơ kinh
doanh. Khi gía thị trường lên cao thì công ty lại không có hàng
để xuất. Ngược lại khi giá thị trường xuống thấp thì hàng lại dư
thừa, công ty phải xuất khẩu với giá thấp.
Hiện tại, công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường
của công ty còn mang nặng tính hình thức, công ty chưa có một
bộ phận chuyên trách đảm nhận nhiệm vụ thu thập thị trường,
nghiên cứu thị trường. Công tác này được thực hiện bởi từng cá
nhân trong công ty nên rất yếu ớt và lẻ tẻ. Thông tin thu thập
được thường có độ trễ và độ chính xác không cao.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là do công ty chưa có
được sự hỗ trợ thích đáng từ phía nhà nước. Ngoài ra do nguồn
-90-
vốn hoạt động hạn hẹp nên công ty chưa có sự đầu tư tích đáng
vào công tác này.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty
cũng còn nhiều bất cập.
Do chưa có hệ thống nghiên cứu thị trường (cả thị trường
trong và ngoài nước) nên công ty không thể dự báo trước được
khả năng cung ứng, sự biến động cầu về hàng hóa tại thị trường
trong và ngoài nước. Do vậy, công tác thu mua tạo nguồn hàng
xuất khẩu của công ty thường rất bị động. Công ty thu mua
hàng chủ yếu dựa vào các đơn đặt hàng của nước ngoài chứ ít
có sự chuẩn bị dự trữ sẵn hàng để đáp ứng cho những đơn đặt
hàng vào những lúc trái vụ nên nhiều khi công ty đà bỏ lỡ cơ hội
ký kết hợp đồng xuất khẩu. Đặc biệt là với kiểu kinh doanh chắc
bán, chắc mua như hiện nay công ty dễ bị nhà cung ứng cấu kết
ép giá mỗi khi công ty cần lô hàng để thực hiện hợp đồng xuất
khẩu.
Công ty mới chỉ thực hiện được các hoạt động thu mua đơn
thuần mà chưa thiết lập được mạng lưới thu mua rộng khắp tại
các cơ sở. Công ty chưa có hệ thống chân hàng ổn định và có
thể cung cấp hàng hóa có chất lượng cao. Một trong những
nguyên nhân làm nguồn cung cấp hàng của công ty chưa ổn
định là sự thay đổi trong cơ chế chính sách của nhà nước . Cơ
chế phân bổ hạn ngạch trước đây của nhà nước cũng đã từng
tạo ra tâm lý bất ổn định , không muốn đầu tư lâu dài cho sản
xuất.
Công tác kiểm tra chất lượng khi thu mua chưa được thực
hiện một cách chặt chẽ, công cụ kiểm tra rất thô sơ, chủ yếu
dựa vào trực quan của cán bộ thu mua. Chẳng hạn: Đối với mặt
-91-
hàng lạc xuất khẩu. Mặt hàng này thường được kiểm tra dựa
vào sự quan sát màu sắc của lụa lạc và độ bong của nó. Hoặc
có chăng thì nó được kiểm tra bằng một cái máy đo nhỏ, chỉ
kiểm tra được với một khối lượng nhỏ. Như vậy có thể thấy với
cách kiểm tra này công ty chỉ kiểm tra được với một khối lượng
nhỏ và độ chính xác của cách kiểm tra này sẽ không cao.
Quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu khi đi giao hàng của
công ty chưa được giám sát theo một quy trình chặt chẽ. Công
ty chỉ kiểm tra chất lượng khi mua hàng chứ chưa kiểm tra,
giám sát khi bốc hàng lên phương tiện vận chuyển ra cảng nên
xảy ra hiện tượng hàng xuất khẩu khi còn ở trong kho thì có
chất lượng tốt nhưng khi ra đến cảng giao hàng thì lại bị dập
nhiều và có chất lượng không đảm bảo.
Các nguyên nhân làm cho công tác thu mua của công ty chưa
được thực hiện tốt đó là:
Vốn hạn hẹp nên công ty chưa thiết lập được mang lưới thu
mua rộng khắp tại các cơ sở, không tổ chức liên doanh liên kết
được với các cơ sở sản xuất và không có sự trợ giúp cho các hộ
gia đình sản xuất nên công ty không tạo được chân hàng ổn
định. Đặc biệt do thiếu vốn nên công ty không thể đầu tư mua
sắm trang thiết bị và xây dựng kho bảo quản theo đúng tiêu
chuẩn kỹ thuật.
Cơ chế thưởng phạt cán bộ thu mua chưa phát huy hết tác
dụng. Nó chưa khuyến khích người thu mua cống hiến công sức
một cách tối đa.
Ngoài ra cơ chế chính sách của nhà nước thường xuyên thay
đổi trong thời gian qua cũng là nguyên nhân làm cho công tác
thu mua của công ty chưa thực hiện tốt. Chẳng hạn sự thay đổi
-92-
trong cơ chế phân bổ hạn ngạch của nhà nước gây tâm lý không
ổn định cho công ty, công ty không yên tâm đầu tư lâu dài cho
sản xuất.
Chương III : Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu
hàng nông sản của công ty VILEXIM trong thời gian tới .
I. Định hướng phát triển của công ty giai đọan 2001 - 2005.
Trong chiến lược phát triển công ty vẫn xem măt hàng nông
sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực bên cạnh những mặt hàng
khác.
-93-
ở trong nước, công ty tăng cường hoạt động thu mua , khai
thác tối đa nguồn lực ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam nhằm đảm
bảo hàng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Công ty sẽ cố
gắng nâng cao chất lượng sản phẩm, giành ưu thế trên thị
trường.
ở nước ngoài công ty sẽ tăng cường các hoạt động tuyên
truyền, quảng cáo, chủ động tìm kiếm khách hàng và mở rộng
thị trường. Chiến lược thị trường của công ty trong những năm
tới là phải mở rộng địa bàn hoạt động sang khu vực thị trường
mà sản phẩm của công ty còn chưa thâm nhập được nhiều như
EU, Mỹ... trên cơ sở duy trì các bạn hàng truyền thống như
Singapo, Indonexia, Malaixia.... Để làm được như vậy công ty sẽ
phải theo dõi sự biến động các mặt hàng công ty kinh doanh ở
thị trường trong và ngoài nước nước một cách chặt chẽ.
II. Giải pháp và kiến nghị.
Trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu hàng nông sản
của công ty VILEXIM đã đạt được một số thành tựu đáng kể tuy
nhiên cũng còn không ít tồn tại. Những tồn tại này có thể bị tác
động bởi các yếu tố chủ quan xuất phát từ phía công ty mà
công ty có thể điều chỉnh được song cũng có thể nó bị tác động
bởi các yếu tố khách quan, công ty không thể tự điều chỉnh
được mà cần phải có sự trợ giúp của nhà nước. Sau đây là một
số giải pháp, kiến nghị đối với công ty VILEXIM và đối với nhà
nước.
A. Giải pháp đối với công ty.
1. Tổ chức tốt công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị
trường và xúc tiến thương mại.
-94-
Theo Kemchiomare - một chuyên gia kinh tế xuất sắc của
Nhật Bản thì: “bí quyết đảm bảo sức mạnh kinh doanh của công
ty trước hết là thông tin. Thông tin chính là tiền đề cho sự phát
triển, cho khả năng chi phối thị trường và cho thành công của
doanh nghiệp”. Cả thị trường trong nước và thị trường thế giới
đều tác động trực tiếp đến hoạt động của công ty. Vì vậy, công
ty cần thu thập thông tin về thị trường trong nước và thị trường
thế giới. Cụ thể hơn, đó chính là thông tin về tình hình cung, cầu
một mặt hàng nào đấy ở thị trường trong nước và thị trường thế
giới, thông tin về đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, thông
tin về chính sách của nhà nước và của nước ngoài đối với một
mặt hàng nào đấy...
Ngoài việc thu thập thông tin của thị trường nước ngoài,
việc giới thiệu với khách hàng nước ngoài về công ty cũng rất
quan trọng bởi vì công ty sẽ không có được khách hàng nước
ngoài nếu như khách hàng nước ngoài không hề biết về công ty.
Như đã phân tích ở phần tồn tại của công ty, trong thời gian
qua công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường của
công ty thực hiện chưa tốt, hoạt động xúc tiến thương mại rất
yếu. Chính vì vậy trong thời gian tới công ty cần tăng cường hơn
nữa trong công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường và
xúc tiến thương mại.
Các công việc mà công ty nên thực hiện là:
Theo dõi và nắm bắt tình hình trong nước và thế giới hàng
ngày, hàng giờ thông qua đài phát thanh, đài truyền hình. Có
như vậy thông tin mới cập nhật và thường xuyên.
Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm được tổ chức trong và
ngoài nước. Đây là một cơ hội tốt cho công ty trao đổi thông tin,
-95-
nắm bắt nhu, chào hàng, tìm đối tác kinh doanh để đến ký kết
các hợp đồng kinh tế. Mặt khác đây cũng là một cơ hội tốt để
công ty học hỏi và nâng cao nghiệp vụ kinh doanh.
Đầu tư kinh phí để thu thập thông tin từ các nguồn thông tin
quan trọng, đáng tin cậy và cập nhật như thông tin của Trung
tâm thương mại Quốc tế (ITC), thông tin từ tổ chức thương mại
và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), thông tin của ngân
hàng thế giới(WB).
Thành lập ra một bộ phận chuyên trách đảm nhiệm công việc
thu thập thông tin và nghiên cứu thị trường.
Tạo điều kiện để các cán bộ làm công tác thị trường tiếp xúc
với thị trường trong và ngoài nước từ đó nâng cao khả năng
phân tích, phán đoán, xử lý thông tin và đưa ra các giải pháp
thích hợp nhằm ứng phó trước những biến động của thị trường.
Xúc tiến các hoạt động mở văn phòng đại diện tại những khu
vực thị trường được xem là trọng điểm của công ty nhằm thu
thập thông tin về thị trường nước sở tại và giới thiệu với khách
hàng nước ngoài về công ty.
Tranh thủ triệt để cơ hội tiếp xúc, thu thập thị trường từ các
tổ chức kinh tế, thương nhân nước ngoài đến thăm vầ tìm kiếm
cơ hội kinh doanh tại Việt Nam.
2. Lựa chọn thị trường trọng điểm.
Trong điều kiện vốn và năng lực kinh doanh có hạn công ty
không thể cung cấp tất cả các mặt hàng cho tất cả các thị
trường nên việc lựa chọn thị trường trọng điểm đối với công ty
là rất cần thiết. Công ty cần phải xác định được thị trường trọng
điểm từ đó có cách thức xâm nhập thị trường, đầu tư đổi mới
công nghệ sản xuất để tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao
-96-
về giá cả, chất lượng và đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng tại
những thị trường đã chọn. Các tiêu chí mà công ty có thể căn cứ
đó là:
Quy mô thị trường mặt hàng nông sản cả trong hiện tại và tương lai.
Sự phát triển của nhu cầu thị trường, các yếu tố kinh tế xã hội, chính trị, văn
hóa và trào lưu tiêu dùng.
Chí phí kinh doanh phát sinh: Chi phí thuê phương tiện vận tải, thuế nhập
khẩu hàng hóa, chi phí phân phối hàng hóa.
Mối quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước đó như thế nào, công ty
có được hưởng chính sách ưu đãi nào không.
Ưu thế cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó: Uy tín, giá cả
chất lượng, sản phẩm...
Mức độ rủi ro trên thị trường.
Khả năng đáp ứng của công ty.
3. Xây dựng chính sách sản phẩm thích hợp.
Sau khi đã lựa chọn được thị trường trọng điểm, công ty cần
phải có một chiến lược sản phẩm thích hợp với thị trường này.
Chẳng hạn đối với những thị trường có yêu cầu cao về chất
lượng sản phẩm công ty cần phải nâng cao chất lượng, cải tiến
cách thức phân phối và có chính sách giá cả hợp lý. Cụ thể:
a. Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Theo xu hướng phát triển chung của thị trường thế giới, yêu
cầu về sản phẩm có chất lượng cao ngày càng tăng. Chất lượng
sản phẩm cao chính là yếu tố giúp cho công ty giữ được thị
trường và tranh thủ tình cảm của khách hàng. Do vậy trong
chiến lược phát triển lâu dài công ty cần phải tìm cách nâng cao
chất lượng sản phẩm. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm của
công ty bao gồm các công việc sau:
-97-
Đối với mặt hàng mà công ty trực tiếp kinh doanh (Sẽ được trình bày cụ thể
ở phần sau).
Đối với mặt hàng công ty nhận ủy thác xuất khẩu. Công ty cần:
Giao nhận hàng đúng thời gian và địa điểm.
Bảo quản tốt hàng nhận ủy thác.
Các thủ tục hành chính phải đảm bảo tính pháp lý và bàn giao đúng thời hạn.
Tuy nhiên trước mắt nếu những thị trường trọng điểm của công ty có yêu
cầu về chất lượng chưa cao (VD: thị trường Châu Phi hoặc thị trường các nước
có khả năng chi trả thấp ở Châu á) thì công ty chưa cần quan tâm nhiều đến chất
lượng sản phẩm, khi đó việc xây dựng một chính sách giá cả hợp lý tại những
thị trường nên được công ty quan tâm hơn.
b. Xây dựng chính sách giá cả hợp lý
Giá cả là một yếu tố quan trọng trong kinh doanh nói chung và trong kinh
doanh xuất khẩu hàng nông sản nói riêng. Giá cả hợp lý là mức gía phù hợp với
nhu cầu về sản phẩm và mức gía trên thị trường. Giá quá cao sẽ làm cho sản
phẩm của công ty khó tiêu thụ và gía quá thấp sẽ gây ra sự thua thiệt và đôi khi
cũng đưa khách hàng đến sự ngờ vực sản phẩm của công ty. Chính vì vậy giá cả
công ty đưa ra phải dựa trên chi phí cho sản phẩm của công ty cũng như của đối
thủ cạnh tranh. Đối với những sản phẩm của công ty tương tự như sản phẩm của
đối thủ cạnh tranh thì ngoài việc căn cứ vào chi phí cho sản phẩm để định giá,
công ty cần xem xét kỹ lưỡng giá của đối thủ cạnh tranh vì khách hàng thường
có tâm lý tham khảo giá trước khi mua hàng. Đối với những mặt hàng được xem
là độc đáo riêng của công ty thì công ty có thể tự do áp dụng mức giá linh hoạt
sao cho vừa đảm bảo được có lãi và tiêu thụ được nhiều sản phẩm.
Nghiên cứu xác định giá cả đối với công ty là một nhiệm vụ
quan trọng và phải được tiến hành một cách thường xuyên,
nhất là đối với các sản phẩm đồng nhất với sản phẩm của đối
thủ cạnh tranh. Trong việc định giá, công ty cần phải thu thập
-98-
đầy đủ thông tin và cũng cần xác định mục tiêu của chính sách
giá đưa ra là tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị trường hay một mục
tiêu nào khác.
4. Đẩy mạnh xâm nhập thị trường.
Sau khi đã chọn được những thị trường trọng điểm công ty
cần phải chọn được phương thức tốt nhất để xâm nhập vào thị
trường. Các công việc mà công ty có thể thực hiện là:
Quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của họ nâng
cao uy tín hàng nông sản của công ty. Đồng thời đưa hàng nông sản của công ty
vào kênh phân phối của họ qua đó nâng cao khả năng xâm nhập thị trường.
Liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để đẩy mạnh hoạt động
chế biến, xuất khẩu hàng nông sản ra thị trường thế giới.
Lập các văn phòng giao dịch tại các thị trường đã chọn để đẩy mạnh các hoạt
động tiếp thị, chọn các kiốt phân phối và tiêu thụ, tăng cường các hoạt động
quảng cáo, khuếch trương, tích cực tham dự các hội chợ triển lãm nhằm nâng
cao uy tín và nhãn hiệu của sản phẩm.
5. Huy động các nguồn vốn để phát triển hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Trong thời buổi hiện nay thì vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến
quy mô sản xuất hàng hóa, chất lượng hàng hóa, đến công tác
thu mua hàng hóa, đến quá trình nghiên cứu và tìm kiếm thị
trường tiêu thụ hàng hóa của bất kỳ một công ty nào. Và đối với
công ty VILEXIM cũng thế. Chính vì vậy trong thời gian tới để
tăng thêm vốn phục vụ cho công tác kinh doanh ngoài nguồn
vốn của mình công ty phải huy động thêm từ các nguồn trong
và ngoài nước. Cụ thể công ty có thể huy động từ các nguồn
sau:
-99-
Vốn vay từ các ngân hàng.
Nguồn vốn vay này là có hạn, đến hạn thì công ty phải trả.
Chính vì vậy mà công ty cần phải tính toán xem nên vay như
thế nào để phục vụ cho công tác kinh doanh một cách có hiệu
quả nhất. Hiện nay, hoạt động thu mua tạo nguồn hàng xuất
khẩu của công ty mang tính thời vụ nên công ty nên vay các
nguồn vốn ngắn và trung hạn bởi lãi suất của có thấp hơn vay
dài hạn. Tuy nhiên trong thời gian tới trước những yêu cầu
chung trong công ty là phải tiến hành đầu tư xây dựng các cơ cở
bảo quản hàng hóa, liên doanh liên kết để sản xuất hàng hóa
thì công ty nên vay vốn dài hạn.
Huy động vốn từ các cán bộ công nhân viên trong công ty.
Sử dụng nguồn vốn này công ty có thể chủ động hơn trong
kinh doanh. Đồng thời công ty không phải chịu sức ép khi đến
hạn phải thanh toán. Hơn thế nữa với hình thức vay vốn này
công ty có thể huy động được một cách tối đa năng lực và lòng
nhiệt của cán bộ công nhân viên trong công ty bởi thu nhập của
họ phụ thuộc nhiều vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty.
Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của công ty.
Muốn sử dụng được nguồn vốn này công ty phải đặc biệt
chú ý tới đối tượng khách hàng có khối lượng mua lớn, đã có
quan hệ truyền thống với công ty. Để có được vốn vay này công
ty phải đảm bảo được chữ “tín” trong kinh doanh. Có nghĩa là
công ty phải nghiêm chỉnh chấp hành các điều khoản về chất
lượng, giá cả, thời gian và cách thức giao hàng như đã thỏa
thuận trong hợp đồng kinh doanh.
-100-
Vay từ các nhà xuất khẩu hàng cho công ty.
Công ty có thể vay từ các nhà xuất khẩu hàng cho công ty
thông qua hình thức trả chậm. Hình thức này thường chỉ được
thực hiện khi công ty nhập khẩu với một số lượng lớn hàng hóa
và là khách hàng quen thuộc của họ. Một điều quan trọng nữa ở
phương thức này mà công ty cũng phải thực hiện được là chữ
“tín” trong kinh doanh. Tức là công ty phải thanh toán đủ tiền
hàng cho nhà xuất khẩu khi đã đến thời hạn thanh toán.
Ngoài các phương thức trên, hợp tác đầu tư, liên doanh liên
kết với đối tác nước ngoài cũng là một biện pháp hữu hiệu mà
công ty cần áp dụng trong tình trạng vừa thiếu vốn, vừa thiếu
máy móc thiết bị như hiện nay. Với phương thức này công ty
phải dựa trên quan điểm “cả hai bên cùng có lợi’’ có như vậy thì
quan hệ của công ty và đối tác liên doanh mới được bền lâu.
Khi đã huy động được vốn, vấn đề tiếp theo mà công ty cần
quan tâm là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn này một cách
có hiệu quả. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện tiết kiệm
trong chi tiêu, phải có biện pháp quản lý nguồn vốn một cách
có hiệu quả. Vốn của công ty phải được tập trung vào những dự
án mang tính khả thi cao. Đặc biệt, công ty phải dần dần giảm
bớt kinh doanh những mặt hàng thô có khối lượng lớn nhưng trị
giá kinh tế không lớn, lợi nhuận thu được không cao để dần
chuyển sang kinh doanh mặt hàng tinh có giá trị kinh tế cao và
có sức cạnh tranh lớn.
6. Tổ chức tốt công tác thu mua hàng xuất khẩu.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty
hiện còn nhiều bất cập. Do vậy nguồn hàng cung cấp cho công
-101-
ty rất bấp bênh, chất lượng chưa đảm bảo. Chính vì vậy trong
thời gian tới để cải thiện công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất
khẩu công ty nên thực hiện tốt một số công việc sau:
Phải đảm bảo có đủ vốn. Hàng xuất khẩu của công ty hiện
chủ yếu là nông sản, đặc điểm của loại hàng hóa này là thu
mua mang tính thời vụ. Trong điều kiện ‘’tranh mua, tranh bán‘’
như hiện nay, nếu thiếu vốn trong dịp thu mua thì công ty
không thể mua được hàng hoặc nếu có thì quá trình thu mua
cũng bị gián đọan. Khi ấy đối thủ cạnh tranh sẽ ngay lập tức thế
chỗ công ty. Sau đó kể cả công ty có chuẩn bị đủ tiền thì nhà
cung ứng cũng chưa chắc đã muốn bán cho công ty do họ đã
quen với đối tác khác. Chính vì vậy việc chuẩn bị đầy đủ vốn
cho quá trình thu mua hàng của công ty là rất quan trọng.
Nhưng chuẩn bị bao nhiêu cho phù hợp lại cũng là một câu hỏi
mà công ty cần đặt ra. Bởi nếu chuẩn bị thiếu vốn thì công ty sẽ
gặp phải những khó khăn như đã phân tích ở phần trên còn nếu
chuẩn bị quá thừa thì công ty lại phải mất một khoản tiền vô
ích để trả lãi suất (trong trường hợp công ty phải vay vốn của
ngân hàng). Chính vì vậy mà việc dự đoán lượng tiền cần chuẩn
bị phải dựa trên sự dự đoán về biến động của giá cả, sự cung,
cầu về hàng hóa trên thị trường. Công việc này cần được đảm
nhiệm bởi những người có năng lực và có đầu óc kinh doanh.
Trong quá trình thu mua công ty cần phải kiểm tra chất lượng
sản phẩm môt cách nghiêm túc bởi đây là yếu tố quyết định cơ
bản đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty. Với mỗi loại
sản phẩm khác nhau công ty sẽ phải đề ra những tiêu chuẩn để
kiểm tra khác nhau và có những cách kiểm tra khác nhau.
-102-
Chẳng hạn đối với mặt hàng lạc xuất khẩu, công tác kiểm tra
chất lượng sẽ phải dựa vào một số chỉ tiêu sau:
Kiểm tra về mối mọt: trong thời gian qua công ty đã tiến
hành kiểm tra chỉ tiêu này nhưng chưa chặt chẽ. Hơn nữa đây là
một chỉ tiệu mà khách hàng của công ty rất quan tâm nên công
ty nhất thiết phải kiểm tra thật kỹ khi thu mua. Cụ thể khi kiểm
tra cần phải tách đôi vỏ lạc ra vì ở giai đọan đầu của quá trình
mốc thì lạc chỉ bị mốc ở bên trong do bị mốc ở hai lá mầm
( mầm có 40% là chất béo nên nấm mốc phát triển tốt còn ở
bên ngoài rất bình thường nên mắt thường không thể nhìn thấy
được).
Độ ẩm của lạc: Đây là một chỉ tiêu để xác định chế độ bảo
quản. Khi độ ẩm của lạc từ 7% trở xuống thì có thể bảo quản ở
kho bình thường từ một đến hai tháng vẫn không bị mốc. Tuy
nhiên khi độ ẩm của lạc trên 7% thì cần thiết phải tiến hành
sấy khô lạc ngay bằng hơi nóng và đảo trộn ( không được phơi
nắng vì làm như vậy lạc sẽ bị chảy dầu).
Kiểm tra về mức các tạp chất có trong lạc như vụn than, cành
lá và các loại tạp chất khác. Cần đặc biệt chú ý đến các loại vi
sinh vật cũng như sâu mọt có trong lạc khi bao gói.
Kiểm tra về tiêu chuẩn lạc: với hàm lượng hạt/100g xem có
bao nhiêu hật đủ tiêu chuẩn.
Công ty cần xây dựng mối quan hệ tốt với các địa phương
sản xuất hàng xuất khẩu của công ty. Khi đó, quá trình thu mua
của công ty sẽ thuận lợi hơn, khối lượng thu mua được sẽ nhiều
hơn. Muốn xây dựng được mối quan hệ tốt này, công ty nên tiến
hành các công việc như: Gặp gỡ các đại biểu ở các địa phương
ngay từ đầu vụ sản xuất để trao đổi, bàn bạc và ký hợp đồng,
-103-
hỗ trợ một phần cho sản xuất như hỗ trợ vốn, hỗ trợ phân bón.
Đồng thời công ty có thể hỗ trợ địa phương một phần vào việc
xây dựng các công trình phúc lợi công cộng như: Bệnh viện,
trường học, hệ thống giao thông, thủy lợi. Các chi phí này thuộc
vào chi phí mua hàng cho công ty. Hiện tại đối với công ty chi
phí này không phải là nhỏ nhưng nó là một sự đầu tư thích đáng
trong chiến lược phát triển lâu dài của công ty, nó tạo ra mối
quan hệ thân thiết giữa công ty và địa phương đồng thời cũng
tạo nên sự ràng buộc về kinh tế giữa công ty và địa phương.
Công ty cần đưa ra những biện pháp để khuyến khích hoạt
động thu mua có hiệu quả như: Quy định một tỷ lệ hoa hồng mà
cán bộ thu mua được hưởng nếu khối lượng mua được lớn, chất
lượng đảm bảo. Đồng thời xử lý nghiêm túc đối với những
trường hợp gian lận, tráo hàng làm giảm chất lượng và uy tín
hàng xuất khẩu của công ty.
Công ty nên giám sát chặt chẽ quá trình vận chuyển và giao
nhận hàng hóa.
Quá trình vận chuyển và giao nhận hàng hóa cần được giám
sát một cách chặt chẽ để tránh trường hợp hàng bị thiếu hụt,
mất phẩm cấp khi vận chuyển, giao nhận. Giám sát hàng khi
bốc lên phương tiện vận tải để giao cho khách hàng nước ngoài
cần:
Xem khối lượng từng bao có hao hụt gì so với trước khi xếp
hàng vào kho không.
Xem có còn đúng chất lượng như ban đầu không.
Trong quá trình này nếu thấy có sai sót gì thì cần sữa chữa lại
ngay để tránh các khiếu kiện sau này.
-104-
Ngoài ra công ty cần phải kiểm tra độ thông gío, độ sạch sẽ
của phương tiện vận tải, cần phải giám sát công nhân chặt chẽ
lúc bốc hàng lên phương tiện vận tải, nhắc họ không được
quăng, quật, giẫm đạp lên hàng để tránh dập, vỡ hàng và hư
hỏng bao bì.
7. Đầu tư vào công tác chế biến, bảo quản.
Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của công ty phụ thuộc
rất nhiều vào công tác chế biến và bảo quản. Hiện tại công ty
đang xuất khẩu mặt hàng thô là chủ yếu nên trị giá xuất khẩu
thường không cao. Chính vì vậy trong thời gian tới để nâng cao
chất lượng, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh công ty
cần phải xây dựng những cơ sở sản xuất chế biến. Ngoài ra,
công ty cần xây dựng hệ thống nhà xưởng, trang thiết bị, máy
móc phù hợp với trình độ người lao động nhằm nâng cao chất
lượng hàng xuất khẩu .
8. Nâng cao chất lượng người lao động.
Bất kỳ một công ty nào dù có vốn lớn, có trang thiết bị hiện
đại, mà nguồn nhân lực không đảm bảo cho yêu cầu sản xuất,
quản lý, kinh doanh thì công ty đó cũng không thể phát triển
được bởi con người là chủ thể quyết định sự thanh công hay
thất bại của công ty. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì buộc
mỗi công ty phải chăm lo đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
một cách thường xuyên, liên tục.
Đối với công ty VILEXIM, vấn đề nguồn nhân lực là một vấn
đề nan giải và khó giải quyết trong thời gian ngắn. Tuy nhiên
nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên cần
-105-
phải được công ty đặc biệt chú trọng. Sau đây là một số giải
pháp:
Thường xuyên gửi các cán bộ kinh doanh trẻ có triển vọng tới
các trung tâm đào tạo KDQT ở trong hoặc ngoài nước.
Tạo điều kiện để các nhân viên còn yếu và thiếu về nghiệp vụ
đi học các lớp đào tạo bổ sung hoặc đào tạo tại chức.
Thành lập và đào tạo đội ngũ nhân viên kỹ thuật làm nhiệm
vụ giám định hàng hóa.
Có được đội ngũ lao động tốt là điều kiện cần đối với bất kỳ
một công ty nào. Tuy nhiên để đội ngũ lao động này làm việc
một cách có hiệu qủa, trung thành với công ty thì công ty cần
phải có chế độ khen thưởng hợp lý, xử phạt nghiêm minh đối với
những trường hợp làm tổn hại đến toàn công ty. Ngoài ra công
ty cần cất nhắc những cá nhân làm việc có hiệu quả lên những
vị trí cao nhằm nêu gương, tạo động lực cho những cá nhân
khác.
B. Kiến nghị với nhà nước.
1. Đẩy mạnh hoạt động sản xuất chế biến hàng nông sản.
Hoạt động sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản
chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó có ảnh hưởng đến
quy mô và cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy để
nâng cao hoạt động xuất khẩu hàng nông sản thì bên cạnh hoạt
động tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, nhà nước cần đầu tư
mạnh vào phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâu,
từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Để đẩy mạnh
hoạt động sản xuất, chế biến hàng nông sản nhà nước cần thực
hiện các biện pháp sau:
-106-
Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân.
Đây là một việc làm ban đầu hết sức cần thiết. Vì để thay
đổi những cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa
học và quản lý vào trong sản xuất đòi hỏi những chi phí không
nhỏ mà nhiều khi người nông dân không thể tự trang trải nổi.
Trong thời gian qua các chương trình trợ giúp vốn cho nông dân
đã được thực hiện song kết quả thu được còn hạn chế, người
nông dân vay vốn lãi suất diễn ra dàn trải, thiếu tập trung điều
đó dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay được một vài trăm
ngàn đồng, không đủ cho đầu tư sản xuất. Các hộ nông dân
năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay lới lãi suất tín
dụng thông thường thì lai gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế
chấp trong khi đấy ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền
mặt. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới nhà nước
cần đưa ra chính sách ưu đãi đối với ngân hàng phục vụ người
sản xuất hàng nông sản để họ tạo cung cấp vốn cho nông dân
nhiều hơn nữa.
Nhà nước nên tập trung nghiên cứu ra các loại giống tốt cho
năng suất cao và cung cấp cho nông dân để sản phẩm nông
dân sản xuất ra có chất lượng đồng bộ dễ xuất khẩu.(Tránh tình
trạng nhà nước thả nổi, nông dân thích trồng giống gì thì trồng,
chất lượng không đồng bộ).
Nhà nước nên đầu tư vào công tác chế biến.
Đầu tư cho công tác chế biến sản phẩm đôi khi là quá sức
đối với doanh nghiệp bởi công việc này đòi hỏi doanh nghiệp
phải bỏ ra một lượng vốn tương đối lớn để nhập khẩu các loại
trang thiết bị, máy móc hiện đại. Chính vì vậy nhà nước nên đầu
tư xây dựng các cơ sở chế biến hàng nông sản. Chẳng hạn nhà
-107-
nước sẽ đầu tư lắp đặt các dây chuyền đánh bóng gạo hay dây
chuyền tinh chế cà phê thành sản phẩm cuối cùng để sản phẩm
xuất khẩu của của công ty có thể đến tận tay người tiêu dùng
cuối cùng. Ngoài ra nhà nước có thể hỗ trợ công ty thông qua
đẩy mạnh áp dụng công nghệ chế biến mẫu mã, bao bì để tạo
ra sản phẩm có hàm lượng giá trị kỹ thuật cao.
Nhà nước nên tổ chức tốt công tác thu mua nông sản cho
nông dân.
Hoạt động thu hoạch của nông dân mang tính mùa vụ nên
quá trình thu hoạch diễn ra một cách dồn dập trong một thời
gian ngắn. Tuy nhiên đối với nông dân khả năng về vốn có hạn,
các điều kiện về kho hàng cất giữ sản phẩm hạn chế nên người
nông dân phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch. Trong khi
đấy nhà nước lại chưa sẵn sàng mua nông sản cho nông dân,
điều này dẫn đến tình trạng nông dân bị tư thương ép phải bán
hàng với giá thấp và thực sự không khuyến khích nông dân sản
xuất. Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự
ổn định nguồn hàng xuất khẩu của công ty. Do vậy trong thời
gian tới nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho chứa,
mạng lưới thu mua hàng cho nông dân... để hạn chế bớt lượng
cung hàng của nông dân trên thị trường vào những lúc chính vụ,
đặc biệt là vào những năm được mùa nhằm hạn chế sự ép giá
của tư thương đối với nông dân. Có như vậy mới khuyến khích
được nông dân sản xuất, cung cấp hàng ổn định và có chất
lượng cao cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
2. Trợ giúp cho công ty xuất khẩu hàng nông sản.
Trợ giúp vốn.
-108-
Hàng nông sản là mặt hàng mang tính thời vụ nên đòi hỏi
các công ty phải có lượng vố đủ lớn để thu mua hàng trong vụ
thu hoạch và dự trữ cho xuất khẩu trong cả năm. Hiện nay hầu
hết các công ty Việt Nam đều gặp khó khăn do thiếu vốn nên bỏ
lỡ cơ hội kinh doanh. Thêm vào đấy, do thiếu vốn nên các công
ty gặp khó khăn trong công tác đầu tư chế biến nâng cao chất
lượng hàng xuất khẩu. Chính vì vậy thời gian tới nhà nước cần
đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn
để công ty có thể nâng cao hoạt động chế biến và thu mua
hàng xuất khẩu. Nhà nước nên thông qua các ngân hàng tạo
điều kiện cho các công ty vay vốn với lãi suất thấp, thời gian
hợp lý và đặc biệt thủ tục hành chính cần phải được cải tiến.
Nhà nước nên áp dụng thuế suất ưu đãi. Nhà nước nên áp
dụng thuế suất ưu đãi hơn nữa đối với hàng nông sản xuất
khẩu, mở rộng hơn nữa đối với số lượng mặt hàng được miễn
giảm thuế.
Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và
cung cấp thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công
ty hoạt động trong lĩnh vực này.
Thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong thành công hay thất
bại của công ty. Thị trường hàng nông sản là một thị trường
thường có sự biến động khá phức tạp nhưng ở Việt Nam thông
tin thường thiếu, có độ chính xác chưa cao. Vì vậy trong thời
gian tới nhà nước cũng như các Bộ nên chú trọng tới công tác
nghiên cứu, khảo sát, dự báo sự biến động của thị trường thế
giới. Đồng thời nhà nước cần xây dựng một trung tâm cung cấp
thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoài
nước.
-109-
Nhà nước cần lập qũy bảo hiểm xuất khẩu.
Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài nhiều công ty
thực hiện hình thức bán chịu hàng cho khách hoặc cho khách
áp dụng hình thức mua trả chậm. Việc bán hàng theo cách này
giúp công ty tiêu thụ được hàng hóa và lợi nhuận công ty thu
được có thể cao hơn so với cách bán hàng trả tiền ngay. Tuy
nhiên công ty cũng dễ gặp phải nhiều rủi ro, dễ bị mất vốn. Do
vậy nhà nước cần lập nên một qũy bảo hiểm xuất khẩu để
khuyến khích công ty xuất khẩu hàng hóa của mình đồng thời
giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro.
Nhà nước cần lập qũy bình ổn giá cả.
Nhà nước cần xem xét bằng qũy bình ổn giá cả để bớt đi
một phần gánh nặng lãi suất tín dụng cho các công ty xuất
khẩu hàng nông sản trong trường hợp giá hàng nông sản trên
thị trường thế giới xuống thấp hoặc giá thu mua hàng nông sản
trong nước tăng cao gây thua lỗ cho các công ty.
3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu
theo hướng đơn giản, thông thoáng và phù hợp với cơ
chế thị trường .
Những quy định về xuất khẩu, các hàng rào thương mại
trong nước là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
xuất khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, hệ thống các
chính sách và quy định xuất khẩu của nhà nước cần được đổi
mới và hoàn thiện hơn nữa. Chẳng hạn:
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý.
Hệ thống văn bản pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất
quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế
tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định,
-110-
lâu dài cho các công ty chuyên doanh xuất khẩu, tránh tình
trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, khuyến khích xuất khẩu
một mặt hàng nào đấy nhưng lại không khuyến khích sản xuất
mặt hàng đó. Việc khuyến khích sản xuất trực tiếp và khuyến
khích đầu tư xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới quan tâm
đến các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu và các công ty
kinh doanh xuất khẩu chứ chưa quan tâm đến các công ty làm
nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Vì vậy trong thời
gian tới nhà nước cần phải xem xét và có các chính sách đối với
các công ty này.
Chính sách thuế VAT như hiện nay đang cản trở đến hợp
đồng xuất khẩu của công ty. Để nạp thuế VAT, công ty phải đi
vay tiền của ngân hàng với lãi xuất cao. Tuy nhiên, quá trình
hoàn thuế VAT của nhà nước lại diễn ra quá chậm chạp. Điều
này làm cho công ty đã thiếu vốn kinh doanh lại càng thiếu hơn.
trong thời gian tới, nhà nước cần xem xét lại chính sách này
nhằm tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu .
Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu.
Hiện nay công tác quản lý xuất khẩu của nhà nước còn
nhiều bất cập. Thủ tục xuất khẩu rườm rà phức tạp, gây lãng
phí thời gian và công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhiều
khi tỏ ra quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh
nghiệp. Chính vì vậy trong thời gian tới nhà nước phải tiếp tục
hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cho phù hợp với tình hình
mới. Ngoài ra nhà nước cũng cần giám sát chặt chẽ, phối hợp
hoạt động giữa các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản
để tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá
-111-
một cách bất hợp lý, gây tổn hại cho công ty cũng như cho nhà
nước.
Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu.
Đây là một chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng
cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần
phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách
khác, tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không
chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. ở chính
sách này, để tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu, các nhà
hoạch định chính sách thường phá giá đồng bản tệ. Về mặt lý
thuyết, việc phá giá tiền tệ làm giảm nhập khẩu và khuyến
khích xuất khẩu. Khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định một
tỷ giá vừa đủ nhưng cũng phải vừa ngắn để thu được một hiệu
ứng có lợi cho goại thương và bảo toàn được đội ngũ bạn hàng.
Thành công của chính sách này đòi hỏi một loạt các chính sách
khác đi kèm để giữ cho nền kinh tế không “suy sụp“ trong điều
kiện lạm phát. Từ quan điểm này việc chọn thời điểm phá giá
tiền tệ là hết sức quan trọng.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã
có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu của các doanh
nghiệp xuất khẩu trong nước. Ngày 7/8/1998, ngân hàng nhà
nước đã quyết định thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ xuống 7%, đồng thời nâng tỷ giá chính thức 11.800VNĐ/USD lên
12.998 VNĐ/USD đã làm cho sản lượng gạo xuất khẩu của Việt
Nam sau một năm tăng 75%, Cà phê tăng 49%, Chè tăng 20%...
Ngoài ra, điều chỉnh tỷ giá còn giắt giảm lỗ cho những mặt hàng
xuất khẩu bị lỗ, một số mặt hàng xuất khẩu đang bị đã chuyển
-112-
thành lãi. Thực tiễn này cho thấy, để thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu hàng hóa ở các doanh nghiệp trong nước (nói chung) và ở
công ty VILEXIM nói riêng, nhà nước nên thiết lập một chế độ tỷ
giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu, chế độ tỷ giá này phải
được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác của
nhà nước.
Kết luận:Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc
dân.Thông qua đó, các quốc gia có được nguồn ngoại tệ để
trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, duy trì và
mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa
học và công nghệ của thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng
nâng cao trình độ phát triển kinh tế, xã hội, hoà nhập với nền
kinh tế thế giới.
-113-
Với tầm quan trọng như vậy, ở nước ta xuất khẩu được đặt
vào vị trí trung tâm, làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế - xã
hội. Đẩy mạnh xuất khẩu đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của
quốc gia trong suốt thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự cố gắng của Đảng, nhà nước,
tất cả các Bộ, ngành và đặc biệt là sự thực hiện của các công ty
hiện đang tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Trước yêu cầu đó,
công ty VILEXIM đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn, đẩy
mạnh xuất khẩu phục vụ các chương trình kinh tế của Đảng và
nhà nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này đã trình bày nội dung,
thực tiễn và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy
hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản ở công ty
VILEXIM. Em hy vọng những kiến thức thực tế thu nhận tại công
ty trong thời gian thực tập sẽ góp phần bổ xung cho kiến thức
được trang bị ở trường.
-114-
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty VILEXIM
các năm 1996-2000.
2. Giáo trình “ Kinh doanh quốc tế ”: chủ biên PTS Đỗ Đức Bình,
NXB Giáo dục, 1997.
3. Giáo trình “ Marketing quốc tế ”: biên soạn PTS Nguyễn Cao
Văn, NXB Thống kê, 1999.
4. Giáo trình “ Kinh tế học quốc tế ”: chủ biên GS -PTS Tô Xuân
Dân, NXB Giáo dục,1995.
5. Sách: “Mấy vấn đề kinh doanh lương thực ở Việt Nam ”. Tác
giả :
6. Sách: “Lương thực Việt Nam - đổi mới hướng xuất khẩu ” Tác
giả : Nguyễn Trung Văn, NXB Chính trị Quốc gia,1997.
7. Tạp chí Thương mại số 12-2000. Bài “ Một số vấn đề đặt ra
với hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trong xu thế hội nhập
quốc tế” .
8. Tạp chí Phát triển kinh tế :
Số 105-1999. Bài “ Tìm thị trường cho các sản phẩm nông
nghiệp Việt Nam” Tác giả : TS Lê Khoa .
Số 107-1999. Bài “ Một số giải pháp cho vấn đề tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp” Tác giả : Th.S Nguyễn Thị Minh Tâm .
Số 124-2001. Bài “Xuất khẩu Việt Nam năm 2000 - nhìn lại cơ
cấu mặt hàng” Tác giả :
9. Tạp chí Kinh tế và phát triển. Số 38-2000. Bài “10 năm xuất
khẩu hàng nông sản ở Việt Nam từ 1991-2000”. Tác giả : TS Đỗ
Đức Hạnh - Trần Mai Phương.
-115-
10. Tạp chí Kinh tế và dự báo.
Số 9-1999. Bài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt
Nam trên thị trường thế giới”. Tác giả : Nguyễn Văn Nam .
Số1-2000.Bài “Thành tựu 10 năm nông nghiệp nước ta”.Tác