BỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY LỚP 11 NHỮNG BÀI VĂN CHỌN LỌC PTTH BỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY LỚP 11 (Tư liệu tham khảo dành cho phụ huynh và giáo viên) LÊ LƯƠNG TÂM - THÁI QUANG VINH - NGÔ LÊ HƯƠNG GIANG - TRẦN THẢO LINH (Tuyển chọn và giới thiệu) LỜI NÓI ĐẦU Các em học sinh thân mến Việc đánh giá học tập môn Văn học của các em, phần lớn nhà trường thường nhìn ở kết quả một bài viết theo một đề bài nhất định. Bài viết có chất lượng là thước đo năng lực và có ý nghĩa quyết định cho điểm kiểm tra thường xuyên tại lớp, điểm học kì, điểm cuối năm và quan trọng nhất là thi tuyển sinh vào đại học. Phải có những bài viết được tổ chức với cấu trúc chặt chẽ; phải có những câu văn, đoạn văn diễn đạt thật khúc chiết sinh động thì chúng ta mới đạt tới cái đích học tốt bộ môn mà mình yêu thích. Do đó, chúng tôi cho rằng các em phải tiếp xúc thật nhiều với những bài viết hay. Trước hết là những bài
578
Embed
Bồi Dưỡng Làm Văn Hay Lớp 11 (Word) - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/275.BoiDuongLamVanHay11.docx · Web view“Cui cút” - âm thầm, lẻ loi, có gì như hắt
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
BỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY LỚP 11
NHỮNG BÀI VĂN CHỌN LỌC PTTHBỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY LỚP 11
(Tư liệu tham khảo dành cho phụ huynh và giáo viên)
LÊ LƯƠNG TÂM - THÁI QUANG VINH
- NGÔ LÊ HƯƠNG GIANG - TRẦN THẢO LINH
(Tuyển chọn và giới thiệu)
LỜI NÓI ĐẦU
Các em học sinh thân mến
Việc đánh giá học tập môn Văn học của các em, phần lớn nhà trường
thường nhìn ở kết quả một bài viết theo một đề bài nhất định.
Bài viết có chất lượng là thước đo năng lực và có ý nghĩa quyết định
cho điểm kiểm tra thường xuyên tại lớp, điểm học kì, điểm cuối năm và quan
trọng nhất là thi tuyển sinh vào đại học.
Phải có những bài viết được tổ chức với cấu trúc chặt chẽ; phải có
những câu văn, đoạn văn diễn đạt thật khúc chiết sinh động thì chúng ta mới
đạt tới cái đích học tốt bộ môn mà mình yêu thích.
Do đó, chúng tôi cho rằng các em phải tiếp xúc thật nhiều với những
bài viết hay. Trước hết là những bài thuộc các đơn vị giới hạn trong chương
trình, trong sách giáo khoa.
Cuốn sách:
BỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY 11
Ngoài việc cung cấp những bài viết hay của các tác giả có uy tín, của
các bạn học sinh đã đạt giải, đạt điểm cao thì nó đặc biệt chú trọng tới một
lượng đề luyện tập rất phong phú đa dạng. Nó bám sát chương trình lớp 11
từ Văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài và Lí luận văn học; từ những bài
khái quát đến những bài phân tích bình giảng, từ những đề có dung lượng
“quy mô” tới những đề giải quyết một vấn đề nhỏ mà thú vị.
Hy vọng cuốn sách sẽ đem đến cho các em nhiều hứng khởi trong việc
học tốt môn văn học ở lớp 11. Và đây chính là điều kiện đề các em tự tin
bước vào những kì thi có tính quyết định đối với cuộc đời mình.
Chúc các em thành công.
CÁC TÁC GIẢ
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
NGÔ GIA VĂN PHÁI
A. BÀI VĂN
Phân tích đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” (Hoàng Lê nhất thống chí -
Ngô gia văn phái).
BÀI LÀM
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho
thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực,
việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng,
không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân.
Cuộc tranh giành đó Trịnh Tông là kẻ đang bị thất thế, có nguy cơ bị
hại, phải nhờ mẹ là thái phi họ Dương kêu với quận Huy mới bảo toàn được
tính mệnh.
Lính kiêu binh phần nhiều đều thuộc phe của Trịnh Tông. Tông mà bị
diệt trừ thì họ mất chỗ dựa và có thế bị diệt theo. Số phận của các đám gia
thần, tôi tớ, binh lính của các tập đoàn phong kiến xưa nay là vậy. Có thể kế
các nhân vật kiêu binh như: Dự Vũ, đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần,
Bằng Vũ là gia binh. Chúng căm ghét quận Huy như kẻ thù của chúng.
Vì thế, lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn
cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính
thức, lái mũi nhọn chĩa vào quận Huy.
Mục đích nổi loạn cùa kiêu binh là trả thù, rửa hận. Lời nói của Dự Vũ
đã cho thấy quân lính “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh
và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận. Đề xuất kế sách của Bằng Vũ
chứng tỏ quân lính rất khinh nhờn thế lực của phủ chúa: “Đánh một hồi trống
làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm
một cái là xong thôi mà!”.
Sự can thiệp của bọn quý tộc, thân tộc trong phủ như quận Viêm, con
hắn là Chiếu lĩnh bá, quận Hoàn, Thánh mẫu... cho thấy chúng chỉ muốn lợi
dụng để hớt lấy công hoặc che chắn đế bảo vệ quyền lợi mình. Tiêu biểu cho
thái độ bàng quan là Viêm quận công. Tiêu biểu cho thái độ hớt công là Bùi
Bật Trực và Chiếu lĩnh bá. Mặt khác qua sự can thiệp này ta thấy phủ chúa
hoàn toàn bất lực, kiêu binh lộng hành, làm chủ tình thế. Ở nơi tập trung
quyền hành trung ương chỉ là một đám lưu manh họp chợ để giở thói côn đồ
thanh toán nhau!
Đoạn văn đã miêu tả một cuộc nổi loạn của binh lính. Thế lực của họ
thật mạnh. Xuất phát từ lòng căm phẫn, khinh bỉ, muốn rửa hận, trả thù, quân
kiêu binh đã tụ tập, bàn định và thống nhất với nhau rất nhanh. Họ nổi lên chi
phối các sự kiện lịch sử. Họ mớm lời và xúi giục Trịnh Tông, họ quyết định
cách nổi loạn, bầu người chủ mưu, không cần chỉ dụ của ai hết. Trịnh Tông
phó thác chỉ là kẻ ăn theo, Trần Hữu Cầu viết hịch chỉ là một việc hiếu sự.
Bằng Vũ quyết định ngày khởi sự, không cần tâu với Thánh mẫu. Khi nghe
tiếng trống, quân lính “nhảy nhót, hăng hái, cầm binh khí xô lấn nhau mà vào
trong phủ”, “họ hò reo quát tháo long trời lở đất”.
Đoạn giết quận Huy đã thế hiện sức mạnh của kiêu binh. Họ dọa quận
Châu. Thoạt đầu, do thói quen phục tùng, họ sợ quận Huy, song chỉ được
một lát, từ tư thế ngồi họ nhao nhao đứng dậy vây lấy voi chiến, nềm gạch
ngói vào voi, dùng câu liêm kéo quản tượng xuống giết, rồi kéo quận Huy
xuống đánh chết, mồ bụng lấy gan ăn sống, sau đó lấy đá ghè chết em quận
Huy. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo đã thể hiện cụ thể, sống động, nó cho thấy
sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, có thể làm lật thuyền.
Trịnh Tông đúng là ông chúa bù nhìn, hắn lên ngôi chúa hoàn toàn nhờ
sự đưa đẩy tình cờ của số phận, tất cả chỗ dựa là đám lính tráng tự phát nổi
lên. Cho nên khi đã làm chúa rồi, vẫn không sao làm chủ được đám âm binh
làm loạn: phá nhà, giết người, cướp của... Trịnh Tông trở thành nhân vật hài
hước khi được bọn lính tráng đặt lên cái mâm rồi nâng lên hạ xuống như
“giỡn quả cầu” trong tiếng reo hò của đám loạn quân và dân hàng phố đông
như họp chợ...
Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ,
đưa lên, đưa xuống, mọi người xúm lại đông như họp chợ. Hai tiếng “họp
chợ” thật mỉa mai! Họ lại đặt sập gụ ngoài phủ đường để đưa Tông lên ngôi.
Mấy chữ “ngoài phủ đường” cũng hài hước, chẳng có chút ụy nghiêm nào. Họ
lại xin di phá tất cả dinh cơ quận Huy, làm náo động kinh thành liền trong mấy
ngày.
Trái lại với sức mạnh bạo lực của kiêu binh, giai cấp thống trị tỏ ra hoàn
toàn bất lực và thảm hại.
Sự bất lực thảm hại của phe quận Huy đã quá rõ. Không đề phòng,
thiếu mưu lược, sờ đến cung thì cung đứt dây, sờ đến súng thì súng không
nổ! Hai anh em Huy bị giết nhanh chóng! Chúa thì chạy trốn, đói bụng khóc
nheo nhéo phải dọa bị bắt mới không khóc nữa. Những kẻ nắm quyền quốc
gia trong phủ mà như thế, thật là hài hước hết mức!
Phe theo Tông cũng bất lực không kém. Quận Châu lúc đầu theo Huy
đứng trong cửa định lên giọng đe quân lính. Kiêu binh mới đe một câu liền
mở cửa ngay. Thế mà khi kiêu binh đã giết hết anh em quận Huy rồi, Châu
còn phất cờ đuôi báo và khua chiêng thu quân, làm như mình đã là người chỉ
huy quân đội của phe Trịnh Tông vậy!
Đoạn trích cho thấy Trịnh Tông, Thánh mẫu chỉ là đám bèo bọt trôi nổi
trên bề mặt dòng thác lịch sử. Tông chỉ là con rối trong tay kiêu binh. Chỉ của
Thánh mẫu chỉ là bản viết tức thời trước việc đã rồi. Khi kiêu binh thừa thế đốt
phá, trả thù riêng, “Tông hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi” chứng tỏ
Tông chẳng có chút uy quyền nào cả. Khi chúa vờ giết phứa “một người
thường dân” (vì không dám đụng vào kiêu binh!) thì việc phá phách mới tạm
ngừng, nhưng việc bắt người vẫn đang tiếp tục. Đoạn văn đã cho thấy làn
sóng nổi loạn của quân lính và số phận bèo bọt của một vương triều, chứng
tỏ sự thối nát cùng cực của một chế độ.
Có thề nói quận Huy và Trịnh Tông ở hai phía là những nhân vật của
một tấn bi hài kịch lịch sử nói về sự suy sụp của triều đại họ Trịnh. Một triều
đại phong kiến lâu đời, hiển hách đã rơi vào tình trạng suy sụp một cách thảm
hại. Bố chết nằm đấy, anh em đã xung đột, tranh nhau ngai vàng. Đám lính
tráng nổi lên làm chủ cả thành Thăng Long, phá nhà, đốt nhà, cướp của, giết
người vô tội vạ v.v... Quận Huy bị phanh thây. Trịnh Cán bị phế truất. Tất cả
là do bọn lính tráng, bọn bồi bếp tự phát nổi lên. Trịnh Tông lên ngôi mà bất
lực trước đám, âm binh bất trị... Đúng là tấn bi kịch lịch sử.
Nhưng chất hài của tấn kịch lịch sử này cũng rất rõ: Những nhân vật đã
bị lịch sử lên án, đã hết vai trò lịch sử, vẫn cố khẳng định uy quyền của mình
và trở thành những vai hề như quận Huy vẫn tin ở uy quyền của mình, biết
trước âm mưu nổi loạn của đám kiêu binh vẫn không thèm phòng bị gì, một
mình giữa đám loạn quân hung hãn vẫn quát tháo thị oai. Nhưng bắn cung
cung gẫy, bắn súng súng không nổ... cuối cùng bị kéo cổ xuống đất. Đúng là
hài hước. Trịnh Tông thì tuy vẫn được gọi bằng những danh hiệu những từ
ngữ trang trọng cao quy của bậc đế vương: thế tử, mặt rồng, Thánh chúa...
nhưng ngai vàng chỉ là cái mâm đặt trên vai đám lính tráng, để cho hàng phố
đến xem như họp chợ.
Những tư liệu được trình bày hết sức cụ thể, tỉ mỉ: về lai lịch tính cách
các nhân vật, về địa chỉ của các vụ việc, về âm mưu của các phe phái, về quá
trình hình thành, phát triển và kết thúc của sự kiện.v.v…Nghĩa là những tư
liệu đủ để dựng lại bộ mặt, không khí của lịch sử một cách cụ thể, sinh động.
Bút pháp tả thực của lối chép sử biên niên không che dấu một nụ cười
mỉa mai và xót xa trước tình cảnh đất nước bị rữa nát từ chính quyền trung
ương. Cơn hấp hối vào giờ chót của một triều đại bao giờ cũng chẳng là một
màn bi hài của lịch sử?
B. LUYỆN TẬP
1. “Chính kiến của tác giả Ngô Gia Văn Phái là muốn ca ngợi sự nghiệp
của nhà Lê nhưng ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt đã đi được chính kiến ấy”.
Hãy phân tích đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” để làm rõ ý kiến ấy.
2. “Cuộc đảo chính của đám kiêu binh trong phủ Chúa là một trò đùa,
một cuộc họp chợ nhưng mức độ tàn bạo có tính trung cổ”.
Hãy phân tích đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” để làm rõ ý kiến ấy.
3. Hãy phân tích màn hài kịch về sự đăng quang của Chúa Trịnh Tông
trong đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn”.
4. Phân tích nhân vật Quận Huy để cho thấy cái chết của y là tất yếu và
hài hước.
5. Hãy tìm một chi tiết hài hước độc đáo của đoạn trích. Kể lại và cho
thấy ý nghĩa của nó.
Phân tích đoạn “Quang Trung tiến quân ra Bắc” trong tiểu thuyết
“Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia Văn Phái.
BÀI LÀM
1) Khái quát chung:
“Hoàng Lê nhất thống chí” là một trong những đỉnh cao của văn xuôi
viết bằng chữ Hán trong quá khứ. Tác phẩm này gồm 17 hồi, viết theo thể
“chí” - một thể tiểu thuyết cổ điển có nguồn gốc từ Trung Quốc (Đông Chu liệt
quốc, Tam Quốc chí...). Đó là một bức tranh rộng lớn về xã hội thời vua Lê -
chúa Trịnh, về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và sự kiện nhà Nguvễn thống nhất
đất nước.
Các tác giả của cuốn sách được gọi là Ngô Gia Văn Phái, gồm Ngô Thì
Chí, Ngô Thì Du và Ngộ Thì Thiến. Có nhiều tài liệu cho rằng phần chính biên
gồm 7 hồi đầu do Ngô Thì Chí viết; phần tục biên Ngô Thì Du viết 7 hồi, Ngô
Thì Thiến viết hồi cuối cùng... Điều lạ là lối diễn đạt trong việc dựng lại các sự
kiện và nhân vật lịch sử khá thống nhất. Nguyên tắc tôn trọng sự thật lịch sử
và giọng kể khách quan được các tác giả tôn trọng khá triệt để và thống nhất.
Tác phẩm viết theo lối chương hồi. Ở đầu mồi hồi bao giờ cũng có hai
câu văn biền ngẫu giới thiệu những sự kiện chính (hay nhân vật) diễn ra trong
hồi ấy. Hồi sách thường kết thúc ở những tình tiết hay, hấp dẫn sẽ được nói
tiếp ở những hồi sau để cuốn hút người đọc. Đó là kết cấu bề mặt của tác
phẩm.
Xung quanh việc xác định thể loại của “Hoàng Lê nhất thống chí”, có rất
nhiều ý kiến. Nếu căn cứ vào kết cấu bề mặt của tác phẩm, ta có thế coi đây
là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi. Nhưng nếu xét mức
độ hư cấu sự kiện và nhân vật lịch sử, tác phẩm thực chất chỉ là một cuốn kí
sự lịch sử ghi chép theo lối biên niên. Theo trên, ta có thể gọi “Hoàng Lê nhất
thống chí” là một cuốn truyện kí lịch sử (viết về người thật, việc thật nhưng
theo lối viết của tiểu thuyết).
Có một điều lưu ý thêm là tên của cuốn sách. Tác phẩm thường được
gọi là “Hoàng Lê nhất thống chí” hay “An Nam nhất thống chí”. Có lẽ tên gọi
sau chính xác hơn, vì cho đến cuối cuốn sách, nhà Nguyễn thống nhất đất
nước chứ đâu phải nhà Lê? Gọi theo lối thứ nhất, chẳng qua là do những
người viết vốn là trung thần nhà Lê (Ngô Thì Chí đã chết trên đường chạy
theo Lê Chiêu Thống sang Trung Quốc). Tên “Hoàng Lê nhất thống chí”, thực
chất là một hoài niệm đẹp; một ước muốn, một tình cảm “trung quân” cuối
cùng mà những người viết sách có thể làm được. Dĩ nhiên, do tôn trọng lịch
sử, các sự kiện được họ ghi lại, dù ngoài ý muốn, vẫn hoàn toàn là chân thật.
2) Nội đung:
2.1. Đoạn trích “Quang Trung tiến quân ra Bắc” kể lại sự kiện Quang
Trung tiến quân ra Bắc lần thứ hai (1788) lãnh trách nhiệm đánh đuổi xâm
lăng. Trước đó hai năm, Quang Trung đã kéo quân ra Bắc với mục đích “Phò
Lê diệt trịnh” (1786) và được vua Lê phong tước Uy quốc công, gả công chúa
Ngọc Hân và cắt đất Nghệ An cho Tây Sơn làm lễ khao quân... Lần này,
Nguyễn Huệ ra Bắc không phải với tư cách là một trung thần của nhà Lê.
Trong bối cảnh vua Lê Chiêu Thống đã bán rẻ nước ta cho nhà Thanh,
Nguyễn Huệ ra Bắc với tư thế của người anh hùng cứu nước; bảo vệ chủ
quyền thiêng liêng của dân tộc.
Sử cũ chép lại sự kiện này theo năm tháng và một vài tình tiết lịch sử
chính. Ví dụ, ngày 21 tháng 12 năm 1788 (tức ngày 24 tháng 11 năm Mậu
Thân), Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo của vua Ngô Văn Sở. Ngay hôm
sau, ông làm lễ tế trời đất, lên ngôi Hoàng Đế rồi xuất quân ra Bắc. Ngày 26
tới Nghệ An... Ngày 20 tháng chạp(25-1-1789) tới Tam Điệp... khoảng thời
gian Quang Trung chỉ huy quân đội Tây Sơn hành quân từ Phú Xuân ra tới
Tam Điệp diễn ra trong vòng một tháng.
Khác với biên niên sử, trích đoạn nói riêng (toàn tác phẩm nói chung)
tuy vẫn nhằm mục đích chép sử nhưng trích đoạn đã “chép” một cách chi tiết
các sự kiện và nhân vật lịch sử (tái hiện). Các sự kiện được thuật lại và được
tô đậm bằng miêu tả, các nhân vật không chỉ được nhắc tới với một vài nhận
xét tổng quát, chung chung mà được khắc họa khá toàn diện ở nhiều thời
điểm, ở hành động, ngôn ngữ... của nó. Nói khác đi, sự kiện và nhân vật lịch
sử ở đây đã được hình tượng hóa, trở thành những tình tiết và nhân vật của
văn chương.
2.2. Các tình tiết trong đoạn trích giảng không nhiều. Các tình tiết ấy
được thể hiện trùng với ba thời điểm chính ở ba địa điểm của cuộc tiến quân.
Ở Phú Xuân, sau khi nhận được tin cấp báo quân Thanh đã vào Thăng
Long, Quang Trung “giận lắm, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm
quân đi ngay”. Nghe các tướng lĩnh phân giải, Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi
Hoàng Đế cho chính vị hiệu và làm yên lòng người, rồi “hạ lệnh xuất quân,
hôm ấy nhằm ngày 25 tháng chạp 01 năm Mậu Thân”.
Tới Nghệ An, Quang Trung cho mời Nguyễn Thiếp vào hỏi ý kiến và
cùng lúc, sai Hám Hổ hầu “kén lính”, “cứ ba suất đinh thì lấy một người”. Sau
đó, nhà vua “cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn”, tổ chức quân đội và
“cưỡi voi ra doanh yên ủy quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe
lệnh”. Cuộc hành quân trên đất hậu phương được tổ chức khá chắc chắn: số
thân quân vùng Thuận Quảng được phiên chế vào bốn doanh tiền, hậu, tả,
hữu; số lính mới tuyển thì làm trung quân (đi ở giữa, có bốn doanh quân trên
bảo vệ).
Khi đến núi Tam Điệp, nghe kể quân Tây Sơn bỏ Thăng Long rút về
Tam Điệp, Quang Trung đoán biết ngay là kế củạ Ngô Thì Nhậm. Nhà vua tin
là sẽ đuổi được giặc Thanh trong 10 hôm; ông đã sai Ngô Thì Nhậm chuẩn bị
bang giao giữ hòa hiếu giữa hai nước. Cuối cùng, Quang Trung chia đội hình
hành quân theo thế trận xiết chặt vòng vây Thăng Long hết sức chính xác và
tài tình.
2.3. Qua những tình tiết trong ba thời điểm kể trên, các tác giả đã khắc
họa được khá nhiều nét tính cách của nhân vật vua Quang Trung.
Trước hết, Quang Trung là người anh hùng, có bản lĩnh, có tầm nhìn xa
trông rộng, biết việc, biết người và biết lắng nghe ý kiến của người khác.
Chính vì thế mà khi nghe tin quân Thanh vào Thăng Long, ông định kéo quân
đi ngay, tức là dám nhận lấy trách nhiệm trước lịch sử. Ông thực sự nhận
trách nhiệm đánh xâm lăng nhưng khi nghe lời các tướng lĩnh luận bàn, ông
làm lễ lên ngôi Hoàng Đế. Ông biết lắng nghe ý kiến của người khác nên khi
vừa tới Nghệ An, ông đã cho mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp vào hỏi ý
kiến. Được Nguyễn Thiếp phân tích rõ tình hình đất Bắc và cố vũ, Quang
Trung càng quyết tâm hành động hơn. Ông cũng đủ bình tĩnh và sáng suốt để
nghe Sở và Lân ra tạ tội ở Tam Điệp. Ông phân xử công, tội rất công minh;
biết chê và khen thuộc hạ dưới quyền thật đúng lúc. Đánh giá của ông về Ngô
Thì Nhậm thật công bằng và sáng suốt, có tác dụng động viên những người
hiền tài đem hết sức lực và tài năng cống hiến cho đất nước.
Qua đoạn trích, ta còn thấy Quang Trung là một người anh hùng giỏi
cầm quân.
Việc giỏi cầm quân của Quang Trung thể hiện rất rõ ở việc ông giỏi
thuyết phục và khơi dậy được ý chí cứu nước của binh sĩ. Đoạn văn tiêu biểu
khắc họa tính cách này của Quang Trung là đoạn ông “cưỡi voi ra doanh yên
ủy quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh...”. Lời “yên ủy” của
ông cũng là “lệnh”? Là lời “yên ủy” khi ông phân tích truyền thống đánh giặc
vẻ vang của dân tộc, dã tâm xâm lược của nhà Thanh... Là “lệnh” khi ông
khép lại “những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta hiệp lực, để
dựng nên công lớn”, “kẻ nào ăn ở hai lòng... sẽ bị giết chết ngay tức khắc”.
Lời, ý đều hùng hồn, khúc chiết và tác dộng rất mạnh vào việc củng cố quyết
tâm đánh giặc cho tướng sĩ.
Tài giỏi cầm quân của Quang Trung thế hiện rất rõ qua việc ông chỉ huy
hai chặng đường hành quân. Chặng thứ nhất, cho đến nay, người ta vẫn
chưa lí giải được làm thế nào mà Quang Trung có thế đưa một đội quân lớn
từ Phú Xuân ra tới Nghệ An trong vòng có hai ngày! Từ đây, cuộc hành quân,
dù còn ở hậu phương (Thanh - Nghệ), Quang Trung đã rất thận trọng. Việc
đội trung quân, bao gồm lính mới tuyển ở Nghệ An, đi ở giữa đội hình tiền,
hậu, tả, hữu của thân quân nói rất rõ điều đó. Và ở chặng thứ ba, tuy chưa
nói đến ở đoạn trích, ta đã thấy cuộc hành quân được nhà vua tổ chức theo
đội hình chiến đấu, theo thế bàn tay năm ngón, xiết chặt lấy Thăng Long. Đó
chính là “phương lược tiến đánh đã có sẵn” và kết quả đã được nhà vua báo
trước “chẳng qua mươi ngày, có thể đuổi được người Thanh”.
3. Đoạn trích chỉ vẻn vẹn có năm trang sách. Mặc dù vậy, thông qua
những tình tiết chọn lọc, tiêu biểu, các tác giả đã kể lại khá chân thực cuộc
tiến công, dũng mãnh của quân đội Tây Sơn, trong đó hình ảnh người anh
hùng dân tộc Quang Trung được khắc họa thật đậm nét và độc đáo.
Trong mạch ngầm của đoạn văn, dù các tác giả đứng về phía nhà Lê
mà phản ánh lịch sử, ta vẫn thấy toát lên một niềm tự hào dân tộc thật sảng
khoái.
LUYỆN TẬP
1. Anh (chị) hãy tóm tắt ngắn gọn một trong hai đoạn trích của Hoàng
Lê nhất thống chí:
a) Kiêu binh nổi loạn.
b) Quang Trung tiến quân ra Bắc.
2. Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” là “sự biến đầu tiên bộc lộ cuộc khủng
hoảng trong nội bộ giai cấp thống trị đương thời sau khi chúa Trịnh Sâm chết”
(SGK 11).
Anh (chị) hãy bình giảng đoạn trích để làm sáng tỏ nhận định trên.
3. Hình tượng vua Quang Trung dưới cái nhìn của Ngô gia văn phái -
một dòng họ cựu thần nhà Lê.
4. Bình giảng lời dụ của vua Quang Trung: “Quân Thanh sang xâm lấn
nước ta (...) chớ bảo ta không báo trước”.
5. Tại sao có thể nói: “Hoàng Lê nhất thống chí” là một truyện kí biên
niên sử.
BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
NGUYỄN CÔNG TRỨ
A. BÀI VĂN
Phân tích bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ.
BÀI LÀM 1
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1859) là một ông quan lớn văn võ toàn tài
dưới triều Nguyễn. Nhắc đến ông người ta nhớ đến công lao khai khẩn đất
hoang, lấn biển, lập nên hai xã Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình).
Người ta cũng không quên một nhà thơ với những vần thơ đầy khẩu khí của
một bậc chính nhân quân tử về chí nam nhi phụng sự đất nước, về cái tôi
ngất ngưởng của một con người hiểu rõ về mình, về xã hội mà mình đang
sống. Nếu như Chí anh hùng tràn đầy khí phách của người tuổi trẻ, thì Bài ca
ngất ngưởng, được viết lúc ông đã thành danh, là bài thơ tổng kết về cuộc đời
và khẳng định cái tôi (bản ngã) của cụ Thượng Trứ.
Để làm rõ được cái tôi ngất ngưởng của mình, nhà thơ đã chọn thể hát
nói bằng chữ Nôm - một thể thơ tài tử của dân tộc tương đối tự do, viết ra
không phải để đọc mà để ngâm nga, hát xướng. Người thể hiện có thể theo
đà cảm xúc mà luyến láy cho phù hợp. Bài thơ vì vậy mà đầy âm sắc, nhạc
điệu.
Nếu tính cả nhan đề, bài thơ có đến năm lần dùng từ “ngất ngưởng”,
được đặt ở cuối mỗi đoạn như nốt nhấn của bài ca. Đây là cái dáng vẻ của
một tinh thần ngạo nghễ, tự coi mình, hơn người, trên thiên hạ. Đây cũng là
tư thế chung của toàn bài.
Mở bài ta bắt gặp sự khác đời trong cách tự giới thiệu về mình:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
Câu thơ chữ Hán tạm dịch là: Phàm những việc trong trời đất này
không có việc gì không phải là phận sự của ta - Tiếp theo tác giả dùng một
loạt từ Hán - Việt cùng thủ pháp liệt kê, kể cụ thể những chức tước danh
phận của mình: Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông.../ Lúc bình
Tây, cờ đại tướng/ Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên... Nhịp thơ trầm bổng
nhấn nhá của lối ca trù nghe thật êm đềm nhẹ nhàng như mặt sông mùa
xuân. Một sự khẳng định tài năng kiệt xuất của mình thật khéo mà cũng thật
kiêu ngạo khác đời. Nguyễn Công Trứ dám nói thẳng không hề né tránh.
Ngay cả cách đưa biệt hiệu “ông Hi Văn” vào bài cũng chẳng giống ai. Hi Văn
- chữ Hán có nghĩa là nhà văn hiếm. Tự gọi mình một cách trang trọng là ông
và nhận mình như vậy thì chỉ có ông. Nguvễn Công Trứ đã phá vỡ tính phi
ngã của thi pháp trung đại, không chịu ép mình vào cái ta chung của cộng
đồng, xã hội. (Ở câu cuối ta thấy ông còn tự tách mình ra, đối lập mình với cả
tầng lớp phong kiến). Tất nhiên ông có cái thế của một bậc đại nhân quân tử
để viết như vậy. Nhưng nói được như ông ở thơ văn trung đại không nhiều.
Nếu có chăng, trước đó có Nguyễn Trãi với một tình yêu lãng mạn ở Cây
chuối, Phạm Thái đau đớn xót xa đến tuyệt vọng trước cái chết của người
yêu trong Văn tế Trương Quỳnh Như. Gần nhất có cách xưng danh khắng
định mình của Hồ Xuân Hương (Này của Xuân Hương mới quệt rồi - Mời
trầu), hay Nguyễn Du (Thiên hạ ai người khóc Tố Như - Độc Tiểu Thanh kí).
Các nhà văn ấy vẫn còn nhún nhường, khép nép hoặc còn bóng gió, chung
chung.
Cái ngất ngưởng còn ở lối sống, cách sống khác đời. Nguyễn Công Trứ
là người biết sống. Khi trai trẻ, hoạt động hăng hái hết mình theo quan niệm
nhập thế hành đạo tích cực của nho gia, Trở về già thì sống nhàn hạ hưởng
lạc. Một trong những thú vui của ông là nghe hát ả đào (còn gọi là ca trù).
Người ta lên xe xuống ngựa xênh xang thì cụ Thượng Trứ ngao du sơn thủy,
thưởng lãm chùa chiền cùng các cô đầu bằng xe bò. Mà là bò cái vàng với cái
mo cau che sau đuôi. Cụ giải thích: Để che miệng thế gian:
Điển viên dạo chiếc xe bò cái
Sẵn chiếc mo che miệng thế gian
Sự ngông ngạo này chính ông đã nhận xét: Bụt cũng nực cười...
Nguyễn Công Trứ đã vượt ra khỏi lẽ sống được tầm thường ở đời:
Được mất dương dương người tái thượng
Khen che phơi phới ngọn đông phong
Khi cơ, khi tửu, khi cắc khi tùng
Không phật, không tiên, không vướng tục
Như trên đã nói, Nguyễn Công Trứ tự tách mình ra khỏi cái trật tự xã
hội nhố nhăng, ô uế, bẩn thỉu, nhiều kẻ vỗ ngực là quân tử nhưng thực chất
chỉ là hạng cây vông: Tuổi tác càng già càng xốp xáp/ Ruột gan không có, có
gai chông (Vịnh cây vông).
Ngông ngạo nhưng ở hai bài này Nguyễn Công Trứ không rơi vào tình
thế bi quan bế tắc hay phá phách bất cần đời như một số nhà văn lãng mạn
sau này. Mục đích sống của ông rất rõ ràng: Phò vua giúp nước:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Hay như có lần đối lại ý của một nhà sư ông hóm hỉnh nêu:
Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ
Không quân thần phụ tử đếch nên người.
Nói khác đi, sự ngất ngưởng của ông ta là để nhằm lật tung cái trật tự
xã hội phong kiến đương thời tưởng như yên ả bằng phẳng nhưng thực chất
thối nát, mục ruỗng đến cùng cực. Ông không muốn mình bị “đồng hóa” cùng
hội cùng thuyền với lũ tham quan vô lại.
Vì vậy tiếng cười tự trào của Nguyễn Khuyến có ngạo nghễ nhưng
không ngoa ngôn, lộng ngữ, vừa cụ thể lại vừa có tính biểu tượng, vừa có
chút trào phúng lại vừa mang tính triết lý, thể hiện quan niệm sống của nhà
thơ.
Thơ văn Nguyễn Công Trứ vốn phóng khoáng ngang tàng như bản
chất con người ông. Bài ca ngất ngưởng là một trong những bài thơ hay được
nhiều người nhắc đến với sự tán thưởng thích thú. Một phần bởi bài thơ giàu
tính nhạc, nhưng phần lớn bởi bản lĩnh vững vàng cứng cỏi của con người tài
năng xuất chúng này. Nguyễn Công Trứ đã thổi một luồng sinh khí mới lạ cho
văn chương đương đại, đưa yếu tố cá nhân, cái tôi cần được giãi bày vào
trực tiếp trong văn chương. Đó cũng là một trong những bước đệm quan
trọng để văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX có những bước chuyến
mình vượt bậc, bước qua cái ta, giải phóng yếu tố cá nhân, cho văn chương
Việt Nam tiến kịp nền thơ ca nói riêng và văn học nghệ thuật hiện đại thế giới
nói chung.
ĐINH THỊ THÚY LAN
BÀI LÀM 2
Từ xa xưa đến nay, thơ trước hết là tấm gương phản chiếu tâm hồn và
tình cảm của chính nhà thơ. Không những thế, qua thơ người đọc còn thấy
rất rõ cốt cách và phong độ của mỗi thi nhân. Ai đó đã nói: Văn là người. Điều
đó thật đúng với những nhà văn, nhà thơ lớn. Ở họ văn với người là một, con
người trong văn chương và con người ngoài đời tuy không hẳn đồng nhất,
nhưng rất thống nhất. Nguyễn Công Trứ thuộc những nhà văn như thế. Cho
nên, qua Bài ca ngất ngưởng ta có thể hình dung rất rõ chân dung một
Nguyễn Công Trứ tự họa.
Bao trùm lên toàn bộ bài ca là hình tượng một con người “ngất
ngưởng”. Nhưng đó không phải là cái ngất ngưởng của một người gàn dở, tự
hợm mình và hợm đời, mà lài cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin
và đầy tự tin và đầy bản lĩnh. Con người ấy ý thức rất rõ về tài năng và phẩm
giá của chính mình. Cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải là
kiểu sống ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một vẻ đẹp
ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Chẳng thế mà ngay từ câu đầu của bài ca, Nguyễn Công Trứ đã coi:
mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải nhận sự của ông “Vũ trụ
nội mạc phi phận sự”. Câu thơ toàn là âm Hán, vang lên trang trọng, thiêng
liêng, biểu lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh và một ý thức rất sâu sắc về
trách nhiệm của chính mình. Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc thơ văn
Nguyễn Công Trứ chúng ta thấy rất nhiều lần ông nhắc tói “Chí nam nhi”, “Chí
làm trai”, “Chí tang bồng”, “Phận sự làm trai”, “Nợ nam nhi”, “Nợ tang bồng”...
Phải chăng đó chính là lẽ sống nhập thế tích cực của một nhà nho chân
chính. Trong bài thơ này thái độ tự tin, kiêu hãnh ấy lại được thể hiện bằng
một giọng diệu “ngất ngưởng”, “ngang tàng”. Cứ xem cách xưng hô ở câu thơ
thứ hai, Nguyễn Công Trứ tự gọi mình là “Ông Hi Văn”, tự giới thiệu chính
mình là người có tài lớn và coi việc ra làm quan như “đã vào lồng”, ta cũng đủ
thấy rõ thái độ người viết vừa như trang nghiêm lại vừa như “u mua”, hài
hước.
Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải chỉ lúc làm
quan đương chức “Khi Thủ khoa, khi Tham tá, khii Tổng đốc Đông”. Hoặc:
“Lúc Bình Tây, cờ Đại tướng; có khi về Phủ doãn Thừa Thiên” mà sau khi về
hưu, không làm quan nữa, thái độ ấy càng thêm đậm nét, tính cách “ngất
ngưởng” càng thêm ổn định. Phải chăng khi đã thoát ra khỏi chốn quan
trường, khi đã “tháo cũi, sổ lồng”, không chịu một sự ràng buộc nào nên ông
càng trở nên “ngất ngưởng”. Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một
cách sống có vẻ khác người, ngược đời: Người đời thường cưỡi ngựa,
Nguyễn Công Trứ cưỡi bò, đeo nhạc ngựa và thung dung trong tư thế:
“Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gói tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng”
Không chỉ mình cung cách sống, thái độ ngất ngưởng của ông còn thể
hiện rất rõ trong quan niệm được mất và sự lạc quan, bình thản trước cuộc
đời:
“Được mất dương dương người Tái thượng
Khen chề phơi phới ngọn đông phong”.
Cũng giống như chuyện ông già biên ải mất ngựa (Tái ông thất mã),
Nguyễn Công Trứ quan niệm được mất là lẽ thường tình; ở đời may rủi hay
sướng khổ đều như nhau, vì thế không có gì phải vội vàng hốt hoảng. Cũng
như khen chê là chuyện bình thường, có gì mà phải bi quan sầu muộn, hãy
phơi phới như ngọn đông phong; hãy “quảng gánh lo đi mà vui sống” (Lâm
Ngữ Đường).
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vương tục”.
Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi và
nhiều luật lệ hết sức chặt chẽ, hà khắc, quan niệm và cách sống ngất
ngưởng, “ngông nghênh” kiểu Nguyễn Công Trứ như trên quả là một sự
thách thức, một sự “chòng ghẹo” cuộc đời. Thực ra thái độ và cách sống ấy
của ông được bắt nguồn từ một bản lĩnh và một ý thức muốn khẳng định cái
cá nhân độc đáo của mình. Dường như ông muốn chống lại sự vùi dập và
bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến thời bấy giờ. Mặt khác, quan
niệm và cách sống ấy cũng bắt nguồn từ sự tự ý thức rất rõ về tài năng và
phẩm giá của chính bản thân mình. Chẳng thế mà ông tự ví mình với bao
danh tướng từ đời Hán đến đời Tống của Trung Hoa: “Chẳng Thái, Nhạc
cũng vào phường Hàn, Phú”. Chẳng thế mà ông đau đáu một tấm lòng trước
sau thủy chung như nhất: “Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn sơ chung”. Câu thơ
rưng rưng một niềm cảm động và vang lên như một lời thề son sắt. Sinh ra và
lớn lên vào buổi giao thời cuối Lê đầu Nguyễn, ông đỗ đạt và làm quan vào
thời kỳ mà nhà Nguyễn mới thống nhất đất nước, chấm dứt nội chiến, củng
cố quân quyền và phục hưng nho học. Hoàn cảnh lịch sử ấy là cơ sở tinh
thần cho cả một tầng lớp nho sĩ đang hăm hở bước vào một triều đại mới với
một lẽ sống mới, cố gắng vươn lên trong một vận hội mới để khẳng định
mình. Chính Nguyễn Công Trứ từng tự nhủ:
“Đã sinh ra ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
Ông tâm niệm và đã làm được hơn thế. Tên tuổi của ông đã được non
sông ghi nhận. Hình bóng và phong cách của Nguyễn Công Trứ vẫn còn in
đậm trong mỗi trang thơ của chính ông.
Kết thúc bài ca, Nguyễn Công Trứ viết: “Trong triều ai ngất ngưởng như
ông!”. Câu thơ buông lấp lửng: vừa như hỏi vừa như khẳng định; vừa như tự
hào, ngợi ca, vừa tự giễu mình một cách thấm thìa; vừa như là lời tự bạch
của ông, lại vừa như một nhận xét bình giá của người đời... Đúng như câu
thơ và cả bài thơ cũng “ngất ngưởng” như ông vậy. Cái vẻ đẹp ngất ngưởng
từ bài ca và cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã trở thành một cách sống, một mẫu
hình in đậm trong hàng loạt nhà nho tài tử sau này. Ta như còn gặp lại hình
bóng và cốt cách ấy của ông ở một Tú Xương, một Tản Đà - Nguyễn Khắc
Hiếu và phần nào ở nhà văn Nguyễn Tuân ngày nay.
LUYỆN TẬP
1. Bài thơ có tất cả bao nhiêu từ “ngất ngưởng”? Hãy giải thích từng
câu thơ có từ đó để cho thấy quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ.
2. Cuộc đời của Nguyễn Công Trứ có nhiều lúc “lên voi” nhưng cũng
lắm phen “xuống chó”. Tại sao tổng kết đời mình, ông không nhắc những năm
tháng bi cực của mình?
3. Khi gọi mình là “ông ngất ngưởng” nhà thơ đã lạ hóa chính mình.
Điều này có ý nghĩa gì trong việc bộc lộ cá tính của Nguyễn Công Trứ?
4. Nên hiểu câu:
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng như thế nào? Thực ra Bụt có cười
khi thấy “dạng từ bi” của “tay kiếm cung”?
5. Có ý kiến cho rằng tùng trong câu thơ sau là cây tùng - một biểu
tượng của đấng trượng phu mà nhà thơ rất tâm đắc.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Anh (chị) hiểu từ này như thế nào?
6. Khi nhà thơ viết:
Khônq Phật, không Tiên, không vướng tục
thì Nguyễn Công Trứ đã khẳng định mình là người như thế nào?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về “Người thiếu phụ Tây Phương”)
CAO BÁ QUÁT
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Dương phụ hành” của Cao Bá Quát.
BÀI LÀM
Vẫn thể Đường thi xưa, vẫn âm điệu, vần luật cũ, nhưng từ đề tài, nhân
vật, đến kết cấu, cách nhìn, cảm xúc... có nhiều điểm mới. Hình như trước
Cao Bá Quát chưa ai viết như vậy. Tám câu thơ, hai khổ tứ tuyệt, không cần
đề, thực, luận, kết. Vào bài, rồi vẽ người, dựng cảnh luôn. Bức tranh hiện rõ
hai hình ảnh đối mà không chọi, đối mà không cân xứng, quá xa với quan
điểm hội họa phương Đông. Người thiếu phụ Tây Dương tọa hưởng hạnh
phúc lứa đôi dưới trăng sáng (tọa minh nguyệt) chiếm lĩnh rộng, dài suốt bảy
dòng thơ. Chỉ còn lại mấy chữ cuối “Nam nhân hữu biệt li” - người Nam đang
chịu cảnh cô đơn li biệt, - dành cho nhà thơ, một đấng mày râu vốn ngang
tàng khinh bạc. Đọc suốt mấy trăm năm thơ văn trung đại nước ta, kể từ thời
Lí - Trần, đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm,
Nguyễn Gia Thiều..., chúng ta chỉ gặp toàn những hình ảnh, những cảnh đời,
những số phận khổ đau, bất hạnh, bị lệ thuộc, bị khinh rẻ, lãng quên. Chưa
thấy một ai, chưa có một chân dung nào của “thân bồ liễu” được văn chương
tái tạo rõ nét, mạnh bạo, vừa đẹp đẽ, vừa chứa chan hạnh phúc như thế. Từ
cái áo “trắng như tuyết”, đến cái cử chỉ “kéo áo chồng”, rồi cách cư xử bình
Ngôn pgữ đời thường, những cách nói thông dụng đã đem lại trong thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu cái bình dị, chân chất chỉ tìm thấy ở những con người
lao động thật thà, chất phác. Khi viết về người nông dân mộ nghĩa đã nói
bằng tiếng nói của họ: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa (...) ghét thói
mạt như nhà nông ghét cỏ”.
Hay:
“Thương quan tướng khóc quan tướng chiu chít như gà
Giận thằng tà mắng thằng tà om sòm như nhái”
Khi viết về Bùi Kiệm trong Lục Vân Tiến Nguyễn Đình Chiểu hạ câu:
... “Con người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chề bê mặt như sề thịt trâu”
Ôi! Nghe mới thân thuộc và buồn cười làm sao, những ngôn ngữ tưởng
chừng như không bao giờ thành thơ, thành văn vậy mà nó đã đi sâu vào tác
phẩm của Nguyễn Đình Chiểu mới thật tự nhiên và sống động làm sao và
cũng chính âm hưởng, ngữ điệu từ đó đi ra tạo nên cho tác phẩm của ông
một sự hấp dẫn, lôi cuốn đến kì lạ.
Nếu có người nào đó đặt câu hỏi “Ai là người đã tạo nên lịch sử?”. Tôi
e không ngần ngại đáp rằng - chính nhân dân là người đã tạo nên lịch sử và
cũng chính là người phán xét lịch sử. Nhân dân có từ thuở khai sinh ra loài
người và còn mãi muôn đời sau. Lịch sử Văn học Việt Nam cũng bắt đầu từ
cái buổi bình minh của dân tộc. Trải qua bao tháng năm thời gian đã dựng
nên bao thành tựu, bao bước ngoặt nhưng cũng chính nó đã xóa bỏ, vùi chôn
đi bao nhiêu. Không có gì vĩnh cửu với thời gian! Đó là quy luật ư? Có lẽ.
Nhưng cuộc đời, con người và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã bất tử với thời
gian, bởi lẽ nó bất tử với lòng người, bởi qua bao tháng năm vẫn còn đó sừng
sững tượng đài người nông dân Việt Nam, trong thơ ca, trong lòng người đọc,
vẫn còn mãi tấm lòng yêu nước, yêu nhân nghĩa của người dân lao động Việt
Nam, vẫn còn mãi tấm lòng tin yêu nhân dân của nhà thơ lớn Nguyễn Đình
Chiểu.
LÊ KIM OANH
B. LUYỆN TẬP
1. Bài học thấm thìa nhất về cuộc đời nhà văn thơ Nguyễn Đình Chiểu?
2. Có ý kiến cho rằng: Nếu không bị mù lòa thì Nguyễn Đình Chiểu nhất
định phải là một Phan Tòng, Trương Định, đứng lên cầm gươm chống Pháp.
Anh (chị) hãy bình luận về ý kiến trên.
3. Anh (chị) hãy giải thích và bình luận hai câu thơ của Nguyễn Đình
Chiểu:
Chở bao nhiều dạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
4. Đọc thơ Đồ Chiểu, Lê Anh Xuân viết:
Tám năm xa quê hương
Trăm năm gần Đồ Chiểu
Nay lòng ta càng hiểu
Thơ là súng, là gươm.
Nhân ý thơ trên, anh (chị) hãy phân tích và làm sáng tỏ tính chiến đấu
trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.
BÀI LÀM 1
1. “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” - bức tượng đài hào hùng và khúc ai ca bi tráng.
Giá trị nghệ thuật hết sức đặc sắc, làm cho bài Văn tế nghĩa sĩ cần
Giuộc trở thành bất tử là lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của văn học Việt
Nam, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được bức tượng đài về những người
nông dân yêu nước, những người anh hùng vô danh “sống đánh giặc, thác
cũng đánh giặc”. Bức tượng đài được đắp xây bằng nghệ thuật ngôn từ này
có những đường về ngoại hình rất nổi, rất đặc thù của người nông dân nghèo
mà giàu nghĩa khí không trộn lẫn vào ai khác được: “Ngoài cật một manh áo
vải” Vũ khí họ mang theo khi ra trận cũng là những công cụ thô sơ lạc hậu.
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”, “gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay”, có
khi chỉ là một đoạn gậy gộc: “trong tay cầm một ngọn tầm vông”. Thế nhưng
tinh thần chiến đấu của họ đã tỏa sáng lên bức tượng đài: “Đạp rào lướt tới
coi giặc cũng như không”, “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”. Những
đường nét ghi lại hành động chiến đấu của họ thật đẹp, thật khỏe, thật hào
hùng.
Nét độc đáo tạo nên tinh thần ngoan cường hiếm có kể trên bắt nguồn
từ phẩm chất cao cả của người nông dân mặc áo nghĩa quân. Trước khi trở
thành nghĩa sĩ, dũng sĩ, họ chỉ là người dân cày chất phác, cần cù, giản dị. Họ
có “đôi bàn tay vàng” trong nghề nông: “Việc cuốc, việc cày, việc bừa việc cấy
tay vốn quen làm”. Họ có đôi mắt hiền lành, ánh lên vẻ đẹp hòa bình của đời
sống thường nhật: “Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Nhưng đối với quân xâm lược lòng căm thù của họ thật sâu sắc: “Mùi tinh
chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Tinh thần và
lòng quyết tâm chiến đấu của họ rực rỡ hào quang của chân lí, chính nghĩa:
“Hai vầng nhật nguyệt chói lòa đâu dung lũ treo dê bán chó”.
Những người nông dân anh hùng đã hi sinh trong trận đánh ngày 16-
12-1861 ở Cần Giuộc sẽ mãi mãi là vô danh như hàng trăm, hàng ngàn người
nông dân anh hùng khác đã hi sinh trong các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp
cuối thế kỉ XIX. Nhưng với bức tượng đài hào hùng, văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm cho họ trở thành bất tử. Họ sống mãi trong
lâu đài văn chương, văn hóa của nhân dân.
2. Mọi giá trị nghệ thuật đặc sắc khác của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Là nó thực sự trở thành khúc ai ca bi tráng biểu hiện tấm lòng ngưỡng
mộ và tiếc thương của cả một dân tộc đối với những người nông dân yêu
nước, những nghĩa sĩ, những anh hùng vô danh này. Nguyễn Đình Chiểu đã
viết những câu văn thật xúc động khi khóc thương họ:
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo
Ngữ điệu câu văn đọc lên nghe như có tiếng khóc nức nở, tắc nghẹn.
Lời khóc tắc nghẹn nên nó mất mát các từ, các tiếng. Đáng ra đầy đủ là là
phải: “Nước mắt khóc người anh hùng lau không hết được” có nghĩa là khóc
và nước mắt chảy mãi, chảy hoài..
Tiếc thương và ngưỡng mộ, Nguyễn Đình Chiểu muốn các nghĩa sĩ
không chết. Ông vận dụng cả tiềm thức và tâm linh để sáng tạo nên những
hình tượng có tính siêu hình đặng nói cái vĩnh hằng, bất tử của những người
nghĩa sĩ: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh”.
Tiếng lòng của Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
cũng là tiếng lòng của cả một thời đại. Vua Tự Đức đã từng rung động với bài
Văn tế và cho in phổ biến nó trong các tỉnh ở đồng bằng Nam bộ. Miên Thẩm
Tùng Thiện Vương vắ công chúa Mai Am những người thuộc hoàng tộc triều
Nguyễn cũng có thơ biểu hiện sự cộng hưởng, đồng sáng tạo với Nguyễn
Đình Chiểu:
Bồi hồi đọc mãi bản văn ai
Phách cứng văn hùng cảm động thay...
... Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi
Còn hơn xây mộ cất khô hài.
(Thơ của Mai Am công chúa).
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là tác phẩm bất hủ sẽ trường tồn với lịch sử
Việt Nam, nhân dân Việt Nam.
BÀI LÀM 2
1. Đây là bài văn tế các nghĩa sĩ đã hi sinh anh dũng trong trận tấn công
đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định (Long An ngày nay).
Về cơ bản. “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” là tiếng khóc lớn của Nguyễn
Đình Chiểu - lý luận văn học gọi là “nhân vật trữ tình”. Nhân vật này (thứ tự
xuất hiện không quan trọng, thường người ta hay phân tích nhân vật người
nông dân đánh giặc trước làm cơ sở cho tác giả bộc lộ cảm nghĩ của mình).
2.1. ...“Một trận khói tàn, nghìn năm tiết rõ” (Về nhân vật người nghĩa sĩ
Cần Giuộc):
Đây là nhân vật tập thể, nhân vật đám đông (trường hợp này hay bắt
gặp trong những tác phẩm sử thi, kiểu như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn
Trãi). Trong văn học trung đại, đám đông chỉ thấp thoáng hiện ra theo ước lệ
(người nông dân thường xuất hiện theo công thức (ngư, tiều, canh, mục).
Điều độc đáo trong bút pháp Đồ Chiểu là nhân vật tập thể nông dân đã hiện
ra trong văn chương giống như họ đã tồn tại trong đời thực, cụ thể, sinh động,
chân thực với một quan điểm mỹ học và quan điểm lịch sử mới mẻ mang tính
dân tộc và tính nhân dân sâu sắc.
“Súng giặc đất rền...”
Âm vang tiếng súng gợi lên cơn tao loạn của đất nước một thời. Hoàn
cảnh xuất hiện nhân vật của bài thơ là thời điểm những năm đầu Pháp xâm
lược nước ta. Đó là một hoàn cảnh dữ dội, là chiến tranh, là thử thách lớn
của lịch sử. Vận nước là thước đo lòng người.
Trước đòi hỏi của vận nước, tiếc thay... “Hỡi trang dẹp loạn rày đâu
vắng?”. (1) Ghé vai gánh vác sứ mệnh dân tộc lúc này lại là những con ngưới
“côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, tức là người nông dân đích thực. Tác giả
nhấn mạnh cái gốc nông dân, hơn nữa: Nông dân trong chế độ phong kiến -
đó là cái đáng quí đầu tiên, cái mới đặc sắc của hình tượng này. Hàng loạt
đối lập giữa cái quen và cái không quen (“làm ăn”, “nghèo khó”, “ruộng trâu”,
“cuốc”, “cày”, “bừa”, “cấy” đối lập với “cung”, “ngựa”, “trường nhung”, “khiên”,
“súng”, “mác”, “cờ”...) đã nêu bật bản chất lao động thuần túy của người nông
dân. Đám đông hiện dần lên: đó là những người nông dân cần cù, nghèo khó,
hiền lành, cuộc sống tù đọng âm thầm bị thít chặt trong khóm tre làng.
Nguyễn Đình Chiểu với vài nét phác vẽ, đã tóm đúng cái thần của người nông
dân trong xã hội nông nghiệp lạc hậu thế kỷ XIX.
Khi Pháp xâm lược, lạ lùng thay, người nông dân “lành như đất” bỗng
trở thành người lính can trường. Điều kỳ diệu nào đã tạo nên sự biến chuyển
đó?
Y thức dân tộc trong một hoàn cảnh đặc biệt và lòng quả cảm là hai lời
giải đáp sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Điều lý thú là khi lý giải quá
trình chuyển biến từ người nông dân thành nghĩa sĩ, tác giả đã phát hiện ra
chất nghĩa đậm sắc thái nông dân, khiến hình tượng của tác giả phải được
gọi chính xác bằng một hợp từ: nông dân - nghĩa sĩ.
Thì đây, hãy lắng nghe những mong mỏi, yêu ghét của họ:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời
hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mạt như nhà nông
ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp: muốn tới ăn gan.
Ngày xem ống khói chạy đen sì: muốn ra cắn cổ”.
Nếu lối nói đầy ví von so sánh của câu trước (như trời hạn trông mưa...,
như nhà nông ghét cỏ) mới cho tới tư duy ngôn ngữ nông dân thì kiểu diễn
đạt bộc trực nhưng mạnh mẽ, dứt khoát của câu sau đã đưa hình tượng vào
vùng tư duy nông dân Nam bộ.
Song, Đồ Chiểu không nhìn nhận người nghĩa sĩ nông dân như một
thực thể bản năng mà như một thực thể ý thức. Hình ảnh Tổ quốc hiện lên
trong tâm hồn họ lớn lao, rực rỡ, thiêng liêng dường nào: “Một mối xa như đồ
sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa...”. Vì thế, lòng yêu nước đã trở thành sự
thực bên trong dẫn đến nét đẹp nhất ở người nghĩa sĩ vì nghĩa lớn này “mến
nghĩa làm quân chiêu mộ”. Chính ý thức vì nghĩa tự nguyện này là nguyên cớ
sâu xa tạo nên bức tranh chiến trận kỳ lạ:
“Ngoài cật cỏ một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi trong
tay cầm một ngọn tầm vòng, chi nài sắm dao tu nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng dốt xong nhà dạy đạo kia, gươm
đeo dùng bằng dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chỉ nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc
cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như
chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lủ ó sau trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ”.
Mật độ động từ lớn (đốt, chém, đạp, lướt, đâm, hè, ó...) gợi một bức
tranh công đồn ào ạt, vang động. Những nhịp ngắn: đạp rào / lướt tới, đâm
ngang / chém ngược... dồn dập, gấp gáp như nhịp đi chiến trận. Song điều
cốt yếu trong đoạn văn này là sự sử dụng triệt để thủ pháp tương phản để
xoáy vào cái thế ta đối lập với thế địch, cái chí ta đối lập với chí địch. Ta
nghèo nàn (áo vải, tầm vông, rơm con cúi, dao phay...), địch hiện đại (đạn
nhỏ, đạn to, tàu thiếc tàu đồng...), ta can trường (đạp rào lướt tới coi giặc
cũng như không), dịch khiếp nhược (mã tà ma ní hồn kinh...). Phép đối lập
mang chiều sâu thực tại: phản ánh cuộc chạm trán không cân sức giữa hai
lực lượng, hai nền kinh tế (đội quân khởi nghĩa mang đậm dấu ấn thời đại, họ
mang cả nền nông nghiệp vào trận đánh). Phép đối lập cũng mang chiều sâu
chân lý của chiến tranh vệ quốc (một thời): nghèo nàn thắng hiện đại, lòng
dũng cảm đè bẹp sức mạnh vật chất, yếu tố tinh thần sức mạnh chính nghĩa
là yếu tố quyết định trong chiến tranh. Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là nhà
chép sử mà còn là nhà nghiền ngẫm lịch sử. Vì vậy, nhân vật đám đông nông
dân nghèo nàn, rách rưới bước vào trang văn Đồ Chiểu bỗng mang tầm vóc
của hình tượng sử thi bi tráng, sinh động chân thực mà giàu sức khái quát,
xứng đáng là tượng đài tráng lệ chưa bao giờ có trong văn học Việt Nam
trước đó.
2.2. “Nước mắt anh hùng”..
Văn tế là một tiếng khóc. Khi hồi tướng - tiếng khóc nén lại. Khi than
tiếc - tiếng khóc òa ra.
- Tiếng khóc Đồ Chiểu là một tiếng khóc lớn:
“Hỡi ôi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”.
Tiếng khóc Đồ Chiểu chọn ba yếu tố hợp thành: Nước - Dân - Trời.
Nước có biến mới thấy “lòng dân”. Lòng dân được ghi nhận tại “trời” (tức là
lịch sử). Như vậy, Đồ Chiểu nhân danh lịch sử mà khóc dân, cũng như
Nguyễn Trãi nhân danh nhân dân mà nói về lịch sử:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới”.
Hay:
“Phúc chu thủy tín dân do thủy” (làm lật thuyền mới biết sức dân như
nước).
Chính vì thế, nỗi đau, giọt nước mắt Đồ Chiểu mới được phóng to độ
lớn thế này.
“Đoái trông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng,
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ”
Hình ảnh trước: thương xứ sở. Hình ảnh sau: xứ sở thương. Như vậy,
đau thương bao trùm xứ sớ. Không chỉ đau cho người tiết liệt mà đau cho cả
quê hương.
- Tiếng khóc Đồ Chiểu còn thăm thẳm độ sâu. Đau gắn với căm (mắc
mớ chi cha ông nó... vì ai khiến quan quân khó nhọc...), đau gắn với thương:
“Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều,
Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Đây không còn là văn mà là lệ.
Đau còn gắn với cảm phục, ngợi ca. Nếu tác giả từng viết rất hay về cái
sống, thì phần cuối viết rất sâu sắc về cái chết. Cái chết cao cả (thà thác mà
đặng câu địch khái...), cái chết bất tử (sống đánh giặc, thác cùng đánh
giặc...).
Tất cả những điều trên hòa thành một giọng điệu trữ tình đa thanh, giàu
cung bậc. Đây là cái thang của mỗi người và mọi người. Có người khi phân
tích “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”, cứ băn khoăn bởi tư tưởng trung quân rớt
trong mấy chữ: ”... Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã đành rành,
một chữ ấm đủ đền công đó”, hay “Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám
bởi một câu vương thổ”.
Nhưng nên nhớ: Nguyễn Đình Chiểu có tôn quân nhưng không ngu
trung. Cả bài Văn tế chẳng là tiếng khóc những người đành giặc trái ý vua đó
sao?
3. “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là khúc ca bi
tráng về những người anh hùng thất trận. Nó là cánh cửa mở rộng cho người
nông dân vô danh lam lũ bước vào văn học như một tượng đài tráng lệ.
“Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” là tác phẩm văn học lớn trong lịch sử văn
học Việt Nam. Sự hòa quyện giữa tư tưởng yêu nước và tinh thần nhân dân
tạo nên độ lớn này.
Phân tích bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu để cho thấy cuộc đối đầu giữa lòng dân và súng đạn đã tạo nên nét đẹp của người nghĩa sĩ nông dân.
BÀI LÀM
Khi khóc Nguyễn Văn Trỗi, người con anh dũng của miền Nam thành
đồng, nhà thơ Tố Hữu từng nhận thấy:
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có những người như chân lí sinh ra
Nhưng, trước Tố Hữu gần 100 năm, giữa trang văn của nhà thơ mù xứ
Đồng Khởi, đã sừng sững hiện lên bóng dáng của những người con anh dũng
đất Sài Gòn Chợ Lớn, những con người “làm nên lịch sử”, những con người
“như chân lí sinh ra”, người nghĩa sĩ nông dân cần Giuộc.
Khi đọc Văn tế... không ai có thế vô tình lướt qua câu văn mở đầu của
nó, câu văn gắn liền với một tiếng than “Hỡi ơi” rất quen thuộc. Nhưng, trong
tiếng than ấy, là cả một tình thế căng thẳng của thời đại, của đất nước: tình
thế có ngoại xâm và có cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Lúc giặc nổ súng
vào đất nước, tấm lòng yêu nước và sự căm phẫn kẻ thù của nông dân không
ai thấu hiểu, chỉ có trời hiểu biết cho. Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc chính là sự
đối đầu giữa lòng dân và súng đạn, giữa tâm hồn tình cảm và vũ khí tối tân;
giữa thô sơ mộc mạc thiếu thốn với cái hiện đại, đầy đủ giữa cái anh hùng,
cao cả dũng mãnh với cái đê hèn. Nguyễn Đình Chiểu đã triển khai cái nhìn,
suy tư của mình trên cơ sở cái từ đối lập ấy, trong quan hệ giữa nghĩa sĩ
nông dân với lũ giặc. Người nghĩa sĩ nông dân đem tấm lòng mình mà đối
chọi với bọn quan quân không có tấm lòng, với bọn giặc ngoại xâm chỉ biết ỷ
vào thế lực súng đạn. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên, hình ảnh tấm lòng
xuất hiện rất nhiều lần trong bài văn tế... và mỗi lần có mặt, nó đều hiện diện
với tất cả bản sắc riêng của mình, với những dấu ấn ngày càng một cụ thể
hơn, rõ nét hơn. Có khi đó là tấm lòng ở thế đối đầu cùng súng đạn, “Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Có khi đó là tấm lòng tự nguvện chiến
đấu, tự nguyện phụng thờ một lí tưởng cao đẹp “mến nghĩa làm quân chiêu
mộ”. Có khi đó là “tấm lòng son” chưa thỏa được ước nguyền, vẫn tồn tại vĩnh
viễn cùng thiên nhiên cây cỏ: “Tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm”.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc trước hết là sự hừng sáng của tấm lòng
nông dân, tấm lòng mến nghĩa trước họa ngoại xâm. Thiếu thốn đủ thứ, họ
chỉ biết đem lòng ra mà đánh giặc. Những con người ấy đã đứng lên tự giải
phóng mình, bảo vệ lấy mình, bằng những gì họ có. Đọc Văn tế... người ta
không thể không nghĩ đến ý tưởng của Ph.Ăng- ghen, khi ông cho rằng,
người đầu bếp sẽ đánh giặc theo cách của đầu bếp, bằng lập là, dao, thớt...
và người nông dân sẽ đánh giặc theo cách của người nông dân, bằng “manh
áo vải”, “ngọn tầm vông”, “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”...
Nhà thơ mù xứ Đồng Khởi rất chú ý đến quá trình phát triển của hình
tượng nghệ thuật. Bài Văn tế... thể hiện một quá trình phát triển hết sức hợp
lí, không hề đứt quảng, một quá trình biện chứng từ người nông dân áo vải,
trở thành người nghĩa sĩ cần Giuộc, và cuối cùng là anh hùng thực sự. Nhưng
tư cách người hùng ẩn mình ngay trong người nghĩa sĩ. Nguyễn Đình Chiểu
đã dùng một dung lượng khá thích đáng (từ câu 3 đến câu 9), để mô tả quá
trình ấy. Có người cho rằng, chính hoàn cảnh có tiếng súng ngoại xâm, chính
sự hèn hạ của triều đình, sự vắng bóng của những “trang dẹp loạn” đã buộc
người nông dân phải đứng lên cầm súng. Nhưng nét độc đáo của Nguyễn
Đình Chiểu còn ở chồ, ông đã thổi vào trong bài Văn tế... một giọng diệu, một
ngữ điệu nghệ thuật. Ông đã nhập thân vào người nông dân mà khám phá ra
những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm bên trong của họ. Họ đâu phải là những bù
nhìn, những con người chỉ biết “giã nhà đeo bức chiến bào - Thét roi cầu Vị
ào ào gió thu” (Chinh phụ ngâm), chỉ là những con rối, những thằng hề ra trận
không hề suy nghĩ! Họ là những con người thực sự, có những toan tính thực
sự, những suy nghĩ và cảm nhận bằng giọng điệu của mình:
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ống
khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8 Một mối xa thư đồ sộ, há để ai thèm rắn đuổi hươu, hai vầng nhật
nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kinh chẳng thèm trốn
ngược trôn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ?”.
Giọng điệu nghệ thuật ấy đã làm cho gương mặt tâm hồn của người
nghĩa sĩ thêm sâu sắc và phong phú. Họ đã sống cùng đất nước này, đâu chỉ
ở những ngày lam lũ, hay những ngày làm chủ sa trường, mà còn sống
chung đất nước trong những suy tư, trong từng nếp nghĩ. Nỗi đau mất nước
đã từng canh cánh trong tâm hồn của những con người ấy. Họ sống cùng đất
nước bằng tất cả sự tự nguyện, chủ động của mình và những suy nghĩ ấy đã
thúc đẩy họ trở thành nghĩa sĩ. Cũng cần lưu ý rằng, ở đây, còn có giọng
điệu, ngữ điệu của Nguvễn Đình Chiểu, của cái tôi trữ tình. Có khi đó là giọng
điệu hoài niệm sâu xa, là niềm thương xót cảm phục chân thành, là nỗi đau
buốt giá. Có khi là giọng ngợi ca ngưỡng vọng, khi gần gữi thân quen... cái
giọng điệu đa dạng và linh hoạt ấy đã làm cho bài văn tế có rất nhiều yếu tố
tự sự, hồi tưởng này bão hòa tình cảm của con người.
Trong tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, những người anh hùng ấy
không bao giờ trở thành cát bụi, mà hóa thân vào dáng sông hình núi, vào
tâm khảm của con người. Không phải ngẫu nhiên, trong phần cuối của bài
văn tế này, hàng loạt ý niệm về một thời gian vĩnh viễn, muôn đời được lặp đi
lặp lại: “nghìn năm tiết rỡ”, “muôn đời ai cũng mộ”, “sống đánh giặc, thác cũng
đánh giặc”, “sống thờ vua, thác cũng thờ vua...” Nhà thơ Pháp V.Huygô đã
từng có lần nhận thấy cái chết trong lòng người, trong sự lãng quên mới là cái
chết đáng sợ nhất (Đêm Đại dương). Cho nên, điều đáng quý nhất là những
người nghĩa sĩ anh hùng nông dân cần Giuộc không chỉ bất tử trong thời gian
mà còn bất tử nơi lòng người. Họ sống trong lòng già trẻ nơi chợ Trường
Bình, nơi sông Cần Giuộc, sống trong lòng mọi người: “Danh thơm đồn sáu
tỉnh chúng (tức mọi người - P.H.C chú thích) đều khen”, “tiếng ngay trải muôn
đời ai cũng mộ”… có lẽ không có một sức sống nào vững bền hơn thế.
Truyền thống bất tử hóa người anh hùng, bất tử hóa cái đẹp ấy vốn đã từng
đằm sâu trong hàng nghìn năm văn hóa dân gian, trong từng pho cổ tích và
huyền thoại, từ Trầu cau, Chủ Đồng Tử, Tấm Cám đến Thánh Gióng, Thạch
Sanh... và những người nghĩa sĩ cần Giuộc cũng vậy, họ đã từng sinh ra từ
nhân dân, bất tử trong nhân dân.
PHẠM HỮU CƯỜNG
Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân trong vài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu và cảm nghĩ của bản thân.
BÀI LÀM
Vinh quang có khi không làm nên anh hùng. Một thời kì lịch sử đã đi
qua, đau thương và anh dũng. Còn lại với hôm nay không phải là thành
quách, lâu dài; còn lại với hôm nay là những con người - những nghĩa sĩ -
nông dân trong văn chương Đồ Chiểu.
Họ sinh ra không phải đã là anh hùng, cùng không nuôi ý định trở thành
anh hùng. Những con người ấy lớn lên trong bình lặng, chân chất, đói nghèo.
Cuộc sống cấy cày đẩy họ vào những lo toan sớm tối - lo toan suốt một đời
người. Trên những cánh đồng xưa chìm trong mênh mông, bóng họ hôm nao
cũng miệt mài:
“Cui cút làm ăn...”
“Cui cút” - âm thầm, lẻ loi, có gì như hắt hiu và tội nghiệp, Như biết
cảnh mình, biết phận, biết thân. Cứ mỗi ngày, những dáng hình nhỏ bé ấy lại
thêm một lần thu vào lặng lẽ, lặng lẽ đến gần như không tồn tại. Và phải
chăng, chính lịch sử đã lãng quên những kẻ chân lấm tay bùn?
Nhưng rồi, Tổ quốc lao đao trong tiếng “súng rền” xối xả. Cuộc sống đã
mất đi nhịp điệu ngày thường - nhịp điệu tẻ buồn song yên ổn. Với họ, giờ
đây trong những “toan lo” không chỉ có tính suy khó nghèo. Đó còn là những
thấp thỏm, âu lo, những ngóng trông, hồi hộp
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như, trời
hạn trông mưa”...
Dầu “mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” thì cơn mưa ngày hạn hán ấy
vẫn chỉ là mong mỏi, để rồi thấm thìa bơ vơ - nỗi bơ vơ của những đứa con bị
bỏ rơi trong nguy biến và vô vọng.
Thế mà...
Hình như trong huyết quản của người nông dân, máu nghĩa sĩ vẫn rần
rật chảy. Từ thuở xưa, trước mũi kiếm quân thù, cha ông họ từng:
“Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”.
Nên không chịu chung trời với bọn đê hèn là điều tất yếu. Gót giày
chúng xéo lên mình Tổ quốc, phỉ báng những điều thiêng liêng trong cõi lòng
phụng thờ thầm kín, cướp đi giấc ngủ yên bình nơi thôn dã, làm sao có thể
dung tha? Những con người rất đỗi hiền lành ấy uất lên vì căm giận, vì bất
bình, vì bàn tay chưa thể giơ lên thành nắm đất, vì tất cả những gì đang ngùn
ngụt bốc lên sau những dằn nén ngột ngạt:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống
khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hưu; hai vầng nhật
nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”.
Cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn những tức tưởi tầm thường.
Mạnh hơn sự yếu hèn. Mạnh hơn cái chết. Và họ xông ra chiến trường không
đợi “ai đòi ai bắt”, mặc cho chốn “trường nhung”, “mắt chưa từng ngó”, khi
“ngoài cật có một manh áo vải”, “trong tay cầm một ngọn tầm vông”. Liều lĩnh
ư? Nông nổi ư? Không, chí căm thù hun nên lòng nhiệt huyết, hun nên dạ sắt
gan đồng, hun nên một sức mạnh tinh thần đủ để làm nên những điều kì diệu:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”.
“Con cúi” và “dao phay” - không phải chiến công nào cũng giành được
từ vũ khí thô sơ. Nhưng kì tích đôi khi không bắt đầu từ lẫy lừng, danh tiếng.
Thắng lợi ấy đủ vọng vào lòng người niềm tự hào chẳng dễ gì có được - niềm
tự hào cất lên từ tiếng reo hân hoan của cõi lòng phấn chấn - tự hào bằng
một niềm tin!
Những bàn tay quen việc cấy cày - những bàn tay chẳng bao giờ muốn
cầm vũ khí - lại kinh ngạc chốn sa trường. Họ là nông dân. Nhưng trên trận
mạc sống còn, màu áo bình dị ấy nhuộm thêm màu khói lửa. Phải chăng,
chính họ đã hóa nên anh hùng?
Anh hùng - đó không phải là đoàn quân ào ạt ra trận. Cũng chẳng là
những chàng trai “mài gươm bóng nguyệt”, quyết chí phục thù. Họ từng lao
vào trận địa, hiên ngang và anh dũng, quên mình, quên đạn, quên bom:
“Chỉ nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi
giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông
vào, liều lĩnh như chẳng có”.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn
hè trước, lũ ó sau trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ”.
Ai tạc vào thế kỉ tối đen một tư thế tràn ánh sáng? Tư thế của người
anh hùng, người nghĩa sĩ đánh Tây! Lịch sử cần đến họ hay cuộc đời cần họ
mà trong tư thế quật cường, ta nhận ra chân dung những con người đang
gánh trên vai mình vận mệnh non sông. Ngoài họ ra nào vua, nào chúa...!?
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Triều đình quy hàng trong nhục nhã. Họ có khác nào những đứa trẻ bơ
vơ. Ai sẽ lấp đầy “khoảng trống” ấy? Nhưng thay vì tiếng khóc cô đơn, đứa trẻ
tự tạo cho mình tiếng gọi của chàng trai Phù Đổng - tiếng gọi anh hùng! Để rồi
những con người quanh năm côi cút ấy không còn bị lãng quên. Bởi chính họ,
trên vũ đài lịch sử, đã khẳng định được mình - sự khẳng định nghiệt ngã mà
bản lĩnh.
Những người nghĩa sĩ ấy sinh ra đâu phải để cầm gươm. Nhưng cỏn
con thôi, một lưỡi dao phai, thô sơ thôi, mồi rơm con cúi - họ vẫn có cho mình
vũ khí “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không” - vũ khí bình dân ấy mang
trong mình sức mạnh của tấc lòng. Đấy là tất cả những gì họ có, nghèo nàn,
lạc hậu. Nhưng khi mũi dao kia phóng vào đầu quan hai nọ, khi ngọn tầm
vông quê mùa quặt chết lũ chó dê, cơn vũ bão cuốn họ đi trong hừng hực lửa,
biến những thứ tầm thường thành linh diệu. Họ đánh giặc bằng cả sức mình,
bằng tất cả những gì có trong tay cộng với lòng yêu nước, căm thù giặc cháy
bỏng.
Nhưng... “Ôi thôi thôi!” - Tiếng khóc quặn lòng, tiếng khóc xát vào nỗi
đau. Họ ngã xuống nơi chiến trường, ngã xuống vì ai? Một sự nghiệp chưa
thành, dở dang như cuộc đời họ... Tiếng khóc ấy, khóc cho những linh hồn,
cho những tấc lòng, cho cả một cơ đồ “ngã gió xiêu mưa”. Cái chết ấy tạc nên
tượng đài của họ, vĩnh viễn nằm trong lòng người - cái chết tráng và bi.
Nỗi hãi hùng đạn bom, tính mạng không thể ủ kín để vẹn toàn, họ đã hi
sinh - dầu chẳng “gươm hùm treo mộ” - vẫn thỏa lòng, thỏa chí. Bởi họ bỏ
mình cho một lẽ sống, một tâm niệm, rằng: “Tấc đất ngọn rau ơn Chúa, tài bồi
cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó”, rằng
“Sống đạnh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh”, rằng “sống
thờ vua, thác cũng thờ vua”... rằng:
“Tha thác mà đặng câu địch khải, về theo tổ phụ cũng vinh: hơn còn mà
chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”.
Lẽ nhục - vinh ấy không chỉ bắt đầu từ quan niệm về đạo đức. Nó dẫn
họ về với những điều khí tiết, thiêng liêng. “Thà thác...” mà chẳng chịu “đầu
Tây” — lời khí khái tuyên ngôn cho một đời người. Phải đâu, khổ là nhục. Cái
nhục ấy - nhục của kẻ bị đọa đày, kẻ bị đày xuống làm thân nô lệ. Và đau
thương hơn tất cả - nhục mất nước - họ chẳng thể khoanh tay đứng nhìn!
Đau đớn hấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Những tiếng nấc nghẹn ngào, vỡ ào trong điêu linh, ai oán. “Mẹ già
ngồi khóc trẻ”, “vợ yếu chạy tìm chồng” - lại cui cút, tiêu điều, lại oan trái, tang
thương. Những cảnh ngộ ấy xuất hiện bất ngờ nhưng làm thấm thìa nỗi đau.
Thì ra chiến tranh đã cướp đi không chỉ của người nghĩa sĩ sự sống. Họ mãi
mãi nằm xuống để lại “mẹ già”, “vợ yếu”, “con thơ” để lại sau lưng trách nhiệm
nặng nề với những con người bơ vơ ấy, với non sông:
“Binh tướng nó hãy đông sông Bến Nghé, ai là nên bốn phía mây đen;
ông cha ta còn ở đât Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ?"
Người nghĩa sĩ nông dân trong bài văn tế giúp ta hình dung cả một thời
đại họ từng sống qua những năm cuối cùng của thế kỉ XIX sang đầu XX khổ
nhục mà vĩ đại (Phạm Văn Đồng). Lịch sử đã tạo nên anh hùng cũng như anh
hùng có thể vần xoay thời thế. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một tượng
đài nghệ thuật bất hủ về họ, về những người anh hùng “tuy thất thế nhưng
vẫn hiên ngang”. Cái hiên ngang của cả một dân tộc, một giống nòi!
TRẦN THỊ THU HÀ
LUYỆN TẬP
1. Hãy cho biết ý kiến của anh chị về nhận định sau:
“Bằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nhà thơ mù xứ Đồng Khởi, lần
đầu tiên, hình ảnh người nông dân hiện lên trong văn học với tất cả sự bình dị
và những phẩm chất anh hùng của họ”.
2. Nhận định về bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu,
ông Phạm Văn Đồng cho rằng đó là “Khúc ca của những người thất thế
nhưng vẫn hiên ngang”. Anh (chị) hãy phân tích bài văn để làm sáng tỏ nhận
định trên.
3. Trong Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu có một
tượng đài nghệ thuật mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước
chống ngoại xâm. Anh (chị) hãy phân tích bài văn tế để làm rõ vẻ đẹp hiếm có
của hình tượng nghệ thuật đó.
4. Bàn về nét đặc sắc trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, SGK 11 viết:
“Ngôn ngữ và hình tượng nhân vật của Đồ Chiểu có sắc thái miền Nam độc
đáo”.
Hãy phân tích “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” để làm sáng tỏ nhận định
trên.
5. Tấm lòng và tình cảm của nhà thơ mù Đồ Chiểu đối với những người
nghĩa sĩ - nông dân đã chiến đấu hi sinh cho Tổ quốc qua bài “Văn tế nghĩa sĩ
cần Giuộc”.
6. Hãy thống kê bài Văn tế những từ, cụm từ nào có yếu tố “nghĩa”.
Cho biết yếu tố này có ý nghĩa thế nào trong việc dựng tượng đài về những
nghĩa sĩ - nông dân đã đứng lên làm lịch sử.
7. Hãy phân tích hình ảnh so sánh:
Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ
8. Hai dòng sau do đâu mà làm cho người đọc đồng tình sâu sắc:
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc thấy lại
thêm buồn
Sống làm chi ở lính Mã Tà, chia rượu nhạt, gặm bánh mì, nghe càng
thêm hổ.
9. Phân tích giá trị của hai từ trẻ và yếu trong hai hình tượng Mẹ già
ngồi khóc trẻ
Vợ yếu chạy tìm chồng.
10. Do đâu mà gọi đoạn cuối bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” là “tiếng
khóc vĩ đại?”
TÁC GIẢ NGUYỄN KHUYẾN
A. BÀI VĂN
Nhà thơ Xuân Diệu viết: “Nguyễn Khuyến mặc dầu không cầm gươm
chiến đấu dưới lá cờ phấn nghĩa cần Vương, vẫn đáng được xếp vào hàng
những nhà thơ yêu nước” (Thơ văn Nguyễn Khuyển - NXB Văn học, 1974).
Hãy giải thích và chứng minh.
BÀI LÀM
Thế nào là một người yêu nước? Thế nào là một nhà thơ yêu nước?
Trong trường kỳ lịch sử, có nhiều thời điểm, những câu hỏi ấy được đặt ra
tưởng như bình dị, giản đơn mà đôi khi thật khó trả lời cho trọn vẹn. Câu hỏi
ấy cũng đặt ra với nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835-1909) trong thời đại chúng
ta. Và nhà thơ Xuân Diệu đã trả lời.
“Nguyễn Khuyến mặc dầu không cầm gươm chiến đấu dưới lá cờ phấn
nghĩa Cần Vương, vẫn đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu nước”.
Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên đúng vào giai đoạn bi hùng nhất của
lịch sử dân tộc: Pháp xâm lược nước ta (1858), triều đình nhà Nguyễn đầu
hàng, cam tâm làm nô lệ, một phong trào yêu nước kháng Pháp nổi lên mạnh
mẽ ngay từ buổi ban đầu; sau khi được thổi bùng lên bởi chiếu Cần Vương;
biết bao tấm gương hy sinh chói lọi vì độc lập của đất nước. Trong bối cảnh
lịch sử đó, nhiều người băn khoăn tự hói: Tại sao Nguyễn Khuyến không làm
một Thủ Khoa Huân? Trương Định, Phan Tòng? Nguyễn Trung Trực hay một
Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám? Tại sao ông không có mặt trong đội
ngũ những chí sĩ cần Vương kháng Pháp. Câu hỏi đó quả có phần nghiệt ngã
đối với nhà thơ Nguyễn Khuyến. Bởi ông đã trót làm quan với triều đình nhà
Nguyễn tới chức Bố Chánh. Và mặc dầu cuối đời ông kiên quyết chối từ sự lôi
kéo của bọn thực dân, về quê dạy học, sống một cuộc đời thanh bạch...
Nhưng quả là ông đã “Không cầm gươm chiến đấu dưới lá cờ phấn nghĩa
cần Vương”. Đó là một sự thật lịch sử. Tuy nhiên, sẽ là vội vã khi chỉ vì thế
mà ta kết luận: Nguyễn Khuyến không phải là con người yêu nước, chưa phải
là nhà thơ yêu nước.
Không, Nguyễn Khuyến “đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu
nước”. Nhưng chúng ta đều biết, mặc dầu Nguyễn Khuyến chưa phải là một
chiến sĩ cần Vương xông ra trận tiền đánh giặc, nhưng đọc thơ ông, ta thấy
tấm lòng nhà thơ thật nặng tình với quê hương xứ sở, một con người luôn
trăn trở, băn khoăn, đau đớn, uất ức trước một xã hội đầy nhố nhăng. Không
ra trận, ông làm thơ, nén một nụ cười châm biếm sâu cay vào cái xã hội nửa
Tây, nửa ta ấy. Không yêu nước, không nặng lòng với quê hương, xứ sở làm
sao tâm hồn ông lại có thể rung động và hòa nhập với phong cảnh làng quê
đến thế. Một bầu trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” (Thu vịnh), một ánh trăng
lóe lên trên mặt nước óng ánh. Nếu như trong cuộc đời, Nguyễn Khuyến bất
hợp tác với kẻ thù là một bằng chứng, chứng tỏ ông là người yêu nước thì
trong thơ văn, tấm lòng yêu nước của nhà thơ thể hiện rất rõ ở tiếng cười
châm biếm sâu cay đối với hiện thực xã hội đầy cảnh bất công, ngang trái.
Trước hết ta thấy ông đả kích bọn thực dân vơ vét hết tài nguyên của đất
nước ta:
“Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm
Nước độc ma thiêng mấy vạn người
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả
Phá tan phên dậu hạ đi rồi”
(Hoài cổ)
Ông vạch trần những trò bịp bợm của thực dân trong ngày Hội Tây và
nói lên nỗi nhục của người dân mất nước:
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu”
Ông châm biếm những nhà tiến sĩ giấy, thứ quan lại chỉ còn là bù nhìn,
con rối trong tay bọn thực dân:
“Ghế chéo lọng xanh ngồi bánh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chai”
Có khi ông mượn lời người vợ hát chèo mà ném thẳng những lời khinh
bỉ vào mặt lũ bán nước”
“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
Nếu như Tú Xương đã đem cái “đít của bà đầm” đặt lên trên “đầu ông
cử”.
“Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngóng đầu rồng”
thì Nguyễn Khuyến còn ngang ngược hơn nữa, ông đặt mảnh váy của lũ me
Tây, gái đĩ, ngang với lá cờ tam tài của thực dân:
“Ba vuông phấp phới cờ bay dọc
Một bức tượng hoành váy sắn ngang”
(Lấy Tây)
Bên cạnh những vần thơ châm biếm sâu cay ấy, ta còn thấy tình cảm
yêu nước thầm kín của Nguyễn Khuyến thấp thoáng trong nhiều bài thơ, khi
ông mượn tiếng cuốc kêu mà thổ lộ tâm sự:
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”
Khi thì ông vịnh Phổng đá trong hòn non bộ để tỏ thái độ của mình:
“Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó
Non nước vơi đầy có biết không?”
Tóm lại, thơ Nguyễn Khuyến dù là thơ phong cảnh hay thơ châm biếm,
thơ tự vịnh hay thơ giễu người, thì đó vẫn là thơ của một con người nặng tình
với đất nước. Ngay cả những bài như khóc Dương Khuê, ở một phương diện
nào đó, cũng là tiếng nói của một con người cô đơn trước thời thế.
Dân tộc ta có một truyền thống yêu nước lâu đời và sâu sắc. Chúng ta
cảm ơn những con người yêu nước, khi giặc đến đã cầm súng, cầm gươm ra
trận... Nhưng ta cũng vô cùng trân trọng và ghi nhận những tâm hồn cao đẹp,
nặng tình, nặng nghĩa với đất nước, quê hương qua những trang thơ, Nguyễn
Khuyến là một tâm hồn như thế.
Lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu lộ trong thơ văn của ông như thế nào? Hãy phân tích và dẫn chứng.
BÀI LÀM
Khoảng hậu bán thế kỷ thứ 19, lịch sử nước ta đã trải qua một biến cố
vô cùng quan trọng, đó là việc nước ta bị Pháp xâm chiếm và đô hộ. Nước
mất, làm con dân ai chẳng đau lòng. Nhất là giai cấp sĩ phu từ xưa vẫn tự hào
lãnh trách nhiệm dìu dắt quốc dân, đến đây, phải đau đớn nhận thấy sự bất
lực và vô dụng của mình, nhiều người đành rút về ẩn cư và đem tấm lòng với
đất nước gởi vào lắm áng văn giá trị. Một trường hợp tiêu biểu là Nguyễn
Khuyến. Thi văn ông có khá nhiều bài diễn tả những dằn vặt, những tỏ lường
của ông trong cơn vong quốc, chứng tỏ tác giả đã nung nấu một lòng yêu
nước thiết tha. Chúng ta hãy thử xem lòng yêu nước ấy của Nguyễn Khuyến
qua những văn thơ của ông như thế nào.
Yêu nước ấy là muốn cho nước được độc lập, được vinh quang. Nước
mất chủ quyền, dân tộc sống trong vòng nô lệ ngoại bang. Người đã biết nghĩ
đến nước không khỏi cảm thấy tủi đau. Nguyễn Khuyến đã mượn tiếng cuốc
kêu đêm hè để biểu lộ tình cảm ấy. Ông viết:
Khoắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sâu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Nghe cuốc kêu mà tưởng như máu chảy hồn tan là bởi tiếng cuốc rung
gợi trong tâm hồn tác giả lắm nỗi xót xa. Nhưng Nguyễn Khuyến không phải
chỉ là người dân tầm thường. Ông là bậc sĩ phu đã đạt tới bậc cao tuyệt vời
của danh vọng sĩ phu, do đó mà ông tự coi như có trách nhiệm lớn đối với
dân, với nước. Ông từng than thở cho mình, cho sự bất lực của giai cấp
mình:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Điều ông có thể tự an ủi ấy là thái độ bất hợp tác của ông đối với địch.
Không ham địa vị giàu sang, không chịu những phĩnh phờ lừa gạt của thực
dân và tay sai, ông đã treo ấn từ quan, trở về sống đạm bạc, nghèo thiếu ở
nông thôn, để nêu cao tiết tháo bất khuất. Thái độ ấy ông cũng thường hay
mượn vần thơ giải tỏa, để tự hiện bạch. Khi thì ông tự ví mình với một “mẹ
mốc” tuy nhan sắc tuyệt trần, nhưng giả điên giả dại, tự bôi tấm váy nhơ, cho
không ai chú ý, để có thể yên thân mà dành cả tâm tư cho chồng con xa
vắng:
So danh giá ai bằng mẹ Mốc.
Ngoài hình hài gấm vóc chẳng thêm ra
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa
Làm thế để cho qua mắt tục.
Khi thì ông tự ví mình như một sương phụ nghèo đói bị người ta cám
dỗ bằng đủ mai mối, mồi bả, nhưng vẫn kiên trinh ở vậy vẫn một dạ trung
thành với kỷ niệm người cố phu. Đó là ý nghĩa bài Gái góa.
Vốn xưa cha mẹ dặn lời
Từ hôn chi để kè cười người chế
Mụ hỏi mụ thương chỉ thương thế
Thương thì hay nhưng kế không hay
Thương thì gạo vải cho vay
Lấy chồng thì gái già này xin van
Nhưng những cảm nghĩ của Nguyễn Khuyến về đất nước, về thời cuộc
không phải chỉ giam hãm ở một thái độ thụ động, tự mình mình biết, tự mình
mình hay, bộc lộ ra bằng những lời thở than hay biện bạch đối với chính
mình. Ông còn hướng ra ngoài, hướng ra cái xã hội lố lăng, những nhân vật
đê tiện mà cuộc đô hộ của ngoại nhân đẻ ra. Ở đây ông ra khỏi lối thơ tâm sự
và lấy giọng trào lộng để mỉa mai, chế diễu hay cảnh cáo. Yêu nước tất nhiên
là phải ghét bọn qụân thù kéo đến cướp nước. Ác cảm của ông đối với người
Pháp tỏ rõ trong nhiều câu chuyện còn truyền tụng. Như một lần, đến chơi
nhà một người bạn, người này vừa tiễn một viên công sứ Pháp ra cửa, ông
tấm tức ứng khẩu:
Hốt đáo nhĩ môn phùng nhi cấu.
Đời bấy giờ gọi Pháp là quỷ, nhà nho khinh bỉ coi họ như một loài “cẩu”
hung hãn, phải đề phòng. Nhưng nghĩ lại, ngoại nhân đáng ghét, song còn
đáng ghét hơn nữa là bọn tay sai ngoại nhân, được chúng bôi mặt vẽ mày
cho ra đảm đang những công vụ quốc gia, khoe khoang hách dịch với đồng
bào. Bọn này không xa lạ gì lắm với tác giả, có kẻ xuất thân ngay trong hàng
khoa cử. Tác giả đã chế riễu cái khoa danh cuối mùa của họ.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
hoặc mỉa mai thói tham lam vơ vét của họ:
Bây giờ đã trót trầy da trán
Ngày trước đi đâu mất máy lông
Bây giờ có viên án sát hình như được thực dân ủy cho dò la và mua
chuộc đám chí sĩ Việt Nam, thường hay lui tới thăm hỏi Nguyễn Khuyến, lại
trong lúc lai vãng tống tặng, hay sinh tài câu thi vần phú. Nhân dịp quan An
gởi biếu một chậu hoa trà, cụ Tam Nguyên liền có bài thơ tạ như sau:
Bác lại cho ta một chậu trà
Ta say ta chả biết mùi hoa
Da mồi tóc bạc ta già vậy
Áo tía đai vàng bác đấy a
Mưa bụi những kinh phường xỏ lá
Gió may lại sợ đứa giơi già
Xưa nay ta vẫn xem bằng mũi
Đếch thấy mùi thơm một chút khà
Tác giả đã tự cho là một mẹ mốc, đã tự phô trương mình là một anh
lòa, vậy thì những “dính chung, chu tử” của cái “Tân trào” kia đối với tác giả
còn có hương vị gì hấp dẫn nữa. Nghĩ mà giận ông án sát mê muội, thật đáng
cụ văng tục cho một tiếng “đếch”. Nếu ông hiểu được cụ đã nguyện “sạch
như nước, trắng như ngà, trong như tuyết, mảnh gương trinh bằng vặc quyết
không nhơ”, thì đâu ông còn dám múa lưỡi khoe khôn với cụ!
Ghét Tây, ghét bọn quan lại làm tôi tớ cho Tây, Nguyễn Khuyến còn
ghét nữa những tục lệ lố lăng mà họ xướng ra, như những ngày hội Tây, hội
Phá ngục Bát ti, hội Đình chiến... đều là những kỷ niệm trong lịch sử Pháp,
nào có liên quan gì đến ta đâu. Vậy mà họ bày ra hội hè linh đình, với những
trò vui thô bỉ như liếm chảo, đập nồi. Dân chúng vô tình tham dự hết mình.
Tất cả hể hả trong bầu không khí vui sướng. Nguyễn Khuyến đứng nhìn mà
tủi cho quốc thể, đau cho quốc hồn, giận lây cả đám quần chúng vô tâm:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui the bao nhiêu nhục bấy nhiêu
Thật là một lời cảnh cáo nghiêm khắc, một tiếng gọi hồn nước thiết tha
mà đau đớn hướng vào những ai còn biết nghĩ, biết thương.
Ngoài ra, những bài tâm sự hay trào phúng, ta cũng còn có thể thấy
lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến trong nhiều bài thơ nông thôn của ông.
Yêu nước, đối với ông không phải chỉ là than thở giận hờn trước thời cuộc đất
nước. Yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là, trở về một giọng thơ
thanh thản hơn, nhận xét và ca tụng những vẻ đẹp của đất nước, yêu nước
ấy là yêu cảnh sắc quê hương. Quê hương ta phần lớn là nông thôn với
quang cảnh đơn sơ thân thuộc những lũy tre, những mái tranh, những ngõ
đất, những ao nước... Nguyễn Khuyến đem tất cả những vật liệu ấy vào thi
phẩm. Đọc những vần thơ mùa thu của ông như:
Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
hay:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm khuya đốm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Ta cảm thấy một rung động nhẹ nhàng, thanh tao. Tác giả đã thi vị hóa
cảnh quê của chúng, làm cho chúng ta cũng cảm thấy yêu mến quê hương
hơn.
Và yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là yêu lớp người nền
tảng của đất nước, lớp dân quê, dân cày, đã hai sương một nắng sản xuất và
đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Ông đã cúi xuống phản ánh sinh hoạt của
họ. Dân quê ta đa sô là tiểu nông bần nông đã phải sống chật vật, eo hẹp như
thế nào, ông đã nói lên trong bài Làm ruộng:
Phần thuế quan thu phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa giàu chè chả dám mua...
Và những trận lụt tai hại, thêm vào chính sách cao thuế nặng của thực
dân đã làm cho nông thôn ta lo lắng- buồn đau như thế nào, ông đã nói lên
trong nhiều bài khác:
Quai Mễ Thanh Liêm đã lỡ rồi
Vùng ta thôi củng lụt mà thôi
Gạo năm ba bát cơ còn kém
Thuế một hai nguyên dáng chửa đòi...
Như vậy ta thấy, qua thi văn Nguyễn Khuyến, tác giả đã chứng tỏ một
tấm lòng yêu nước chân thành. Nguyền Khuyến đã không hổ danh một vị ông
Tam Nguyên, đại biểu cho giai cấp sĩ phu trong lúc quốc phá gia vong. Ngày
nay đọc lại những vần thơ trong đó biểu lộ, khi thì nồng nàn hiển hiện khi thì
bóng gió xa xôi, lòng tác giả thiết tha rung động với non sông, với dân tộc
trong cơn bĩ cực, ta càng thấy yêu mến nhà nho và nhà thơ nổi danh của làng
Yên Đổ.
PHẠM THẾ NGŨ
THU VỊNH
A. BÀI VĂN
Bình giảng bài Thu vịnh để qua đó thấy được chân dung của nhân vật
trữ tình: cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.
BÀI LÀM
Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm.
Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu.
Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm (Xuân Diệu). Trong ba kiệt tác ấy, Thu vịnh
dường như có thần hơn cả. Bài thơ không chỉ là một minh chứng về tài năng
mà còn mang đậm hình ảnh Nguyễn Khuyến với những băn khoăn, trăn trở
đáng trọng. Trăn trở ấy hiện ngay trong câu thơ đầu tiên.
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Có phải vô tình chăng khi cả ba bài thơ mùa thu của cụ, da trời đều
mang màu “xanh ngắt”? Xanh ngắt chứ không phải xanh lơ, xanh dịu hay
xanh lục. Chỉ riêng mấy tiếng “mấy từng cao” đã thấy một độ cao khá lớn.
Nhưng khi bàn tay Nguyễn Khuyến tô vẽ cho da trời một màu “xanh ngắt” thì
trời thu như bị đẩy lên cao hơn, xa hơn, chẳng dừng lại ở mấy tầng nữa mà
gấp bội lần như thế.
Đến câu thơ sau:
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Câu thơ vẻn vẹn bảy âm tiết mà đã có tới hai từ láy song vẫn không hề
thúc ép, gượng gạo “lơ phơ” là một từ láy chỉ số lượng chẳng mấy đông đúc,
thậm chí rất thưa thớt, vả chăng, khi thu sang, thân măng đã thành thân tre,
có hình cong như cần câu và lá hãy còn thựa thớt lắm. Không chỉ mô tả được
dáng điệu của sự vật, từ láy này còn gợi cả một chuyển động, dù rất nhỏ -
nếu không tinh mắt, thì khó mà phát hiện ra. Ngay đến gió thu cũng chi “hắt
hiu” chứ không phải là cơn gió mạnh mẽ căng đầy nhựa sống, cũng không
phải là cơn gió lay lắt cuối mùa. Hơi “gió hắt hiu” gợi một cảm giác buồn sầu
thanh nhẹ, ngắm dần vào con người. Và khi đã ngắm rồi thì buồn và sầu sẽ bị
đẩy lên tới đỉnh điểm.
Câu thơ đầu tiên đã tạo được một ấn tượng mạnh mẽ từ màu “xanh
ngắt” thì đến câu thứ ba, một lần nữa, ấn tượng ấy lại được khắc họa:
Nước biếc trông như từng khói phủ.
Đáng chú ý là sự xuất hiện hình ảnh so sánh đầu tiên và duy nhất trong
bài thơ. So sánh, không phải để cụ thể hóa đối tượng, sự vật mà để cho nó
trở nên huyền ảo, mông lung hơn. Do vậy, cảnh thu như nhiều hơn là thực.
Có trời, có nước, có trúc và bây giờ đến trăng:
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Ngỡ là thêm sự vật thì bức tranh thu sẽ trở nên đông đúc, rộn rã hơn.
Nào ngờ càng thêm vào thì cái lạnh lẽo đơn độc càng tăng lên gấp bội. Lúc
này, trăng không khơi gợi được cảm xúc của thi nhân cũng tỏ ra hờ hững với
trăng nên mới “để mặc”. Hờ hững với trăng hay là còn hờ hững cả với đời
nữa vậy?
Đúng! vẫn chưa rõ duyên cớ. Song tôi chắc chắn rằng nỗi buồn của
Nguyễn Khuyến chưa đến mức tuyệt vọng, bởi nếu tuyệt vọng thì cụ còn nhìn
cảnh âu sầu hơn thế rất nhiều. Tâm trạng của cụ Tam Nguyên lúc này vui thì
không vui mà tuyệt cùng không phải là tuyệt vọng. Chỉ buồn, chỉ cứ ngồi bất
động mà buồn. Con người ta nếu nằm ở hai trạng thái tình cảm minh bạch, rõ
ràng: Vui thì vui mà buồn tuyệt vọng thì tuyệt vọng rõ đi - thì chẳng có gì đáng
nói. Cứ như trường hợp nửa nọ nửa kia của Nguyễn Khuyến thì quả là một
sự khó chịu khủng khiếp. Con người như vô cảm (?), nửa muốn phó mặc
những gì đang diễn ra trước mát, nửa lại không.
Nếu như bốn câu thơ đầu bộc lộ một nỗi buồn vô cớ thì đến hai câu
luận đã thấy rõ lí do:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Chỉ trong khoảng thời gian năm ngoái đến năm nay đã xảy ra những
biến cố gì để thi nhân phải quay về cảm xúc trong “hoa năm ngoái” và xót xa
trước tiếng “ngỗng nước nào”? “Một tiếng trên không ngỗng nước nào” là một
câu hỏi hoài nghi song cũng là một câu trả lời chắc chắn. Thế mới đau, thế
mới uất, mới rầu... Âm thanh duy nhất của bài thơ cất lên không chút rộn rã
đà đành, lại chỉ duy nhất “một tiếng” và đặt vào chú “ngỗng nước nào” thì u
hoài, lạc lõng biết bao nhiêu.
Mà toàn bộ bài thơ, hình như cái gì cũng ít ỏi: trúc thì “lơ phơ”, song thì
“thưa”, hoa thì “mấy chùm”, ngỗng thì “một tiếng”... Lạ! Vì mải mê suy nghĩ mà
hững hờ với cảnh hay đấy chỉ là những âm thanh, sự vật của tâm tưởng, của
cảm giác? Dù sao những sự vật đó đều tạo cho bài thơ một không gian lí
tưởng để con người tự đối diện với chính mình mà giãi bày tâm sự. Cho vơi
bớt đi chăng? Có lẽ càng giãi bày bao nhiêu thì nỗi niềm ấy càng hun đúc lại
bấy nhiêu; bởi làm gì có tri âm mà giãi bày giữa cõi đời ô trọc này?
Tất cả vẫn chỉ là cảnh, bóng dáng con người chỉ thấy rõ nét nhất trong
hai câu kết:
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Song lại là con người vô ngôn, bất động mặc dù có hành động “toan cất
bút" - nhưng chỉ là “toan”. Chỉ có cuộc sống nội tâm là hoàn toàn xáo trộn. Vì
“thẹn với ông Đào” chăng? Một cái “thẹn” đáng trân trọng đã nâng cao tầm
vóc Nguyễn Khuyến hơn, đẹp hơn, đáng kính hơn.
Có một điều tôi chợt băn khoăn. Chẳng rõ thời điểm thi nhân viết bài
thơ này là khi nào? Băn khoăn và cũng chợt nhận ra rằng, bài thơ được viết ở
nhiều khoảnh khắc khác nhau “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” là hiện hữu
rành rành của ngày, nhưng đến “Song thưa đế mặc bóng trăng vào” thì đã
chuyển sang đêm mất rồi. Không rõ có phải do công việc bộn bề nên vần thơ
dang dở thi nhân phải gác lại chờ trăng lên viết tiếp? Hay là cái nỗi sầu kia cứ
hút lấy thi nhân, không dứt ra được và Nguyễn Khuyến cứ chìm trong cái bể
sâu bất tận ấy từ ngày tới đêm?
Bài thơ có một không gian rất rộng. Trời thì bị đẩy lên cao tít tắp, nước
như sâu hơn và cảnh thì thờ ơ lãnh đạm: Giữa một khu cảnh rộng rãi khác
thường ấy, con người co lại như một chấm nhỏ. Bỗng thấy chơ vơ, lạc lõng.
Buồn đến nao lòng.
Có thế nói, mỗi dòng thơ, mỗi âm tiết thơ ở bài này đều ắp đầy những
băn khoăn trăn trở của cụ Tam Nguyên trước cuộc đời. Đọc kĩ bài Thu vịnh,
phần nào, cũng thấy rõ thêm tính cách thi nhân của Nguyễn Khuyến là vậy.
THU ĐIẾU
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến.
BÀI LÀM 1
1. Vài nét về tác giả và tác phẩm
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, hiệu là Quế Sơn. Ở làng Yên Đổ,
huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam (nay thuộc Hà Nam Ninh). Ông vốn dòng dõi
nhà nho nghèo. Học giỏi, ông đỗ đầu cả ba kỳ thi (thi hương, thi hội, thi đình)
nên gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan đến chức Tống đốc. Năm
1883, buồn vì không làm được ích lợi cho quốc gia trong khuôn khố của chế
độ thực dân, ông cáo quan về dạy học. Tác phẩm của ông gồm có Quế Sơn
thi tập bằng chữ Hán và nhiều thơ, văn, câu đối bằng chữ Nôm, hầu hết được
sáng tác trong thời gian cáo quan về nhà. Ông mất năm 1909.
2. Thời đại Nguyễn Khuyến và hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.
Cuộc đời Nguyễn Khuyến nằm gọn trong cảnh “nước mất nhà tan”. Bên
cạnh triều đình bù nhìn, hèn nhát, phản bội quyền lợi của dân tộc, có những
tên bán nước, cầu vinh, có những người cố tình bưng tai bịt mắt để trục lợi,
có những kẻ làm quan chỉ nhằm đục khoét của dân, có những phường “vá áo
túi cơm” mang danh khoa bảng mà bất tài, bất lực..v..v. Ngòi bút đả kích của
Nguyễn Khuyến đã chỉa thẳng vào những con người ấy, kể cả bọn thực dân
“Vịnh Kiều, Ồng Nghè tháng Tám, Hỏi thăm quan tuần mất cướp, Hội Tây,
Gục nhe...”
Đời sống của nhân dân dưới hai tầng áp bức bóc lột, ngày càng cơ
cực- thiên tai đe dọa, sưu thuế nặng nề... Lâu năm sống ở nông thôn, ông
rung cảm với cảnh sống của người nông dân một cách sâu sắc. Những mũi
tên trào phúng của ông bắn vào bọn thống trị đương thời. Tấm lòng yêu nước
của ông lắng sâu trong lòng. Nhiều lúc ông thấy phải xa lánh cuộc đời xấu xa,
lánh những thực tế đau buồn để hòa vào thiên nhiên cho tâm hồn chơi vơi
trên mặt nước, bay trên từng mây. Bài Thu Điếu được sáng tác trong hoàn
cảnh như vậy. Ta còn rung cảm qua bài thơ chính là vì hình tượng tâm tư của
tác giả, vì thái độ phán kháng, dù là tiêu cực, của một con người có tài không
chịu khuất phục bọn cướp nước và bán nước.
3. Phân tích bài thơ
Quan hệ đồng nhất hay chủ đề của bài thơ này là gì? Ta phân tích cấu
trúc của bài thơ mới có thể xác nhận được.
Câu “thừa” đặt vấn đề, nói đến người đi câu:
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Câu “thực” lẽ ra phải miêu tả buổi câu cá, nhưng tác giả chỉ miêu tả
thiên chiên:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lả vàng trước gió khẽ đưa vèo
Câu “luận” lẽ ra phải luận về câu cá, nhưng tác giả cũng chỉ nói đến
thiên nhiên:
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Nqõ trúc quanh co khách vắng teo
Câu “kết” nói rõ: Câu mãi mà không được cá, thực ra cũng chằng kết
luận gì về câu cá.
Vậy thì tác giả diễn tả cái gì trong bài thơ này? Phải phân tích những
yếu tố trong bài thơ và những nét đối lập giữa chúng với nhau mới thấy được.
Bài thơ thể hiện hai trạng thái đối lập nhau: tĩnh và động, nhưng tĩnh nhiều
hơn động:
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Từng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Chỉ có tiếng động khẽ phá vỡ không khí yên tĩnh này:
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Tác dụng của hai tiếng động khẽ ấy nêu rõ được tính chất của trạng
thái yên tĩnh và của bức tranh hiện thực:
Người câu cá (tác giả) ngồi trên thuyền câu “tựa gối ôm cần”, nhưng
không phải để câu cá mà là để nhìn mặt nước và “sóng biếc theo làn hơi gợn
tí”. Bỗng chiếc lá vàng bay vèo trước mắt, kéo ông trở về thực tại, rồi ông
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Rồi bỗng “Cá đâu đớp động dưới chân
bèo” làm ông chú ý tới việc đi câu và mới biết mình: “Tựa gối ôm cần lâu
chẳng được”. Rõ ràng tác giả không tả buổi câu cá, mà chỉ tả cái dáng điệu
người câu cá. Thông qua dáng người câu cá, tác giả miêu tả tâm trạng cô
đơn của mình.
Những từ ngữ miêu tả tâm trạng cô đơn, vắng vẻ trong bài thơ là
những yếu tố chủ yếu diễn đạt hệ thống tâm tư của nhà thơ. Thuyền câu ở
đây cũng không phải là một “con thuyền” linh hoạt như thuyền của ông Tô Tử
trên sông Xích Bích:
Ông Tô Tử qua chơi sông Xích Bích
Một con thuyền với một túi thơ
Cũng không phải là một “lá thuyền” mơ mộng:
Thuyền một lá xông pha dòng Bạch Lộ
Nhởn nhơ nhường lên bến tiên hương
mà là một chiếc thuyền cô đơn, bé tẻo teo.
Sự bé nhỏ của chiếc thuyền càng làm tăng thêm cảnh “lạnh lẽo” của ao
thu, đồng thời như quên cả cái tồn tại vật chất bên ngoài, mà chỉ còn lại cái
suy tưởng bên trong của người câu cá. Tất cả là vắng vẻ, cô đơn. Nhà thơ
chìm đắm triền miên trong dòng suy tưởng. Nhìn lên bầu trời thì:
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Mây cũng chơi vơi ở giữa bầu trời bao la xanh ngắt, không trung êm
ắng, mọi hoạt động như ngừng đọng. Nhìn xuống đất thì chung quanh ao
cũng đượm một màu hiu quạnh:
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Ngõ trúc bên ao cũng mang hình ảnh ngõ trúc của nhà tác giả. Dù nhìn
xuống mặt nước, nhìn ra chung quanh, nhìn lên trời hay xuống đất, lúc nào
cái nhìn của nhà thơ cũng là cái nhìn trong suy tưởng.
BÀI LÀM 2
“Thu điếu” là một trong ba bài thư viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến
rất nổi tiếng xưa nay. Mùa thu đã thú vị, mùa thu ngồi câu cá lại càng thú vị
hơn. Niềm thú vị ấy đã trở thành cảm hứng cho một trong những bài thơ hay
nhất của Nguyễn Khuyến.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến giới thiệu và hạn định khái quát nơi
phát sinh cảm hứng với câu phá đề:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Địa điểm là ao, thời gian là thu, một mùa thu. Hai từ “ao”, “thu” được kết
hợp thành một nghĩa “ao thu”, một thứ ao riêng chỉ đến mùa thu mới có
những nét ấy. Cảm xúc ban đầu của Nguyễn Khuyến về ao thu được phát
hiện nhờ tính chất “lạnh lẽo” và “nước “trong veo”. Chính nhờ vậy mà lòng
nhà thơ tràn trề cảm hứng. Sau một mùa hạ nóng nực, kéo dài, cái “lạnh lẽo”
của mùa thu với bao cảm xúc, cái lạnh nhưng lại có “nước trong veo”. Ao
lạnh, nước yên, nước trong nhìn tận đáy. Trời cũng lặng gió, bầu trời cũng
phải thật trong, nước mới có thể “trong veo” như thế. Cái “ao” ở đây gợi lên
một cái gì rất thân quen bình dị trong cuộc sống ở nông thôn.
Trên cái nền ấy là hình ảnh người ngồi câu cá.
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Người ngồi câu cá không phải ngồi trên bờ như những người khác ngồi
mà ngồi trên “một chiếc thuyền câu”, vì thế tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn.
Nhà thơ lại ngồi trên một chiếc thuyền câu “bé tẻo teo” nghĩa là rất nhỏ có thể
đó là một thứ “thuyền thúng” rất phổ biến ở vùng quê miền Bắc, vừa vặn cho
một người ngồi. Vừa thực mà vừa mơ, cả không gian như co lại trong cái lạnh
mùa thu và trên chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Nhờ vậy nhà thơ đã nhận ra
nhiều vẻ của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Trong bốn câu thơ trên, hai câu thực là cảnh gần, hai câu luận là cảnh
xa. Cảnh gần thì có “sóng biếc gợn” và lá vàng đưa tiếng và hình cực nhỏ
cuối hai câu nổi lên hai từ “tí”, “vèo”, một từ diễn tả sự cực nhỏ của hình khối,
một từ diễn tả sự cực nhỏ, của âm thanh. Vẻ tĩnh lặng của mùa thu cứ tăng
dần qua từng cấp độ. Không gian động mà tĩnh ở hai câu luận, cảnh thu như
xa hơn một chút, cảnh ngoài giới hạn của ao thu, phía trên là bầu trời mùa
thu, trước mắt là làng xóm mùa thu. Trời thu xanh, xóm làng thì vắng vẻ. Trời
thu thì xanh ngắt, đó cũng là điểm đặc trưng khơi gợi của trời thu.
Từng mây lơ lửng ở bên dưới là để làm rõ thêm trời xanh ngắt. Một cái
nhìn và cảm thật tinh tế! Cảnh xóm làng thì vắng vẻ gần như tuyệt đối: “vắng
teo”. Hai câu kết con người mới xuất hiện, chính là tác giả bài thơ:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được.
Một tư thế có thể ngồi lâu để mà vừa câu cá, vừa trầm tư, thưởng thức
cái cảnh đẹp của mùa thu. Nhưng ngồi đã lâu mà vẫn chưa có cá. Hình như
nhà thơ chỉ một điều gì đó mà chính mình cũng không rõ.
Thế rồi “Cả đâu đớp động dưới chân bèo”
Một câu kết mơ hồ mà cũng như có thực: Có thể cá cắn câu mà cũng
có thể không. Cái rung động nhẹ nhành ấy khiến cả không gian mùa thu như
lắng đọng lại.
“Thu điếu” với sự điêu luyện trong việc sử dụng tiếng nói dân tộc uyển
chuyển, phong phú đạt đến mức tuyệt đối trong sáng và tinh tế. Nhờ đó đã
diễn tả được vẻ đẹp giản dị thực sự của mùa thu ở những làng quê Việt Nam,
đồng thời trong “Thu điếu” ta cũng nhận ra một vẻ đẹp của tâm hồn trong
sáng tinh tế, mà giản dị, chân thành, gắn bó với quê hương và dân tộc.
THU ẨM
A. BÀI VĂN
Phân tích bài thơ “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến.
BÀI LÀM
Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu (Âm: uống, uống rượu). Nó có
nghĩa là một trong bài thơ Nôm về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu
điếu (Mùa thu câu cá) Thu vịnh (mùa thu làm thơ) và Thu ẩm. Cũng có nhiều
bài thơ khác về mùa thu bằng chữ Hán, ba bài này đều in đậm hai nét tiêu
biểu cho tâm hồn thơ của tác giả: đó là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc
bộ thời xưa và thắm đượm vào cảnh vật là tâm tư của nhà thơ trước cảnh
tình đất nước thời gian ông từ quan về sống ở quê nhà. Tất nhiên, ở mỗi bài
là dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng.
Dáng thu trong Thu vịnh là cái gì cao thăm thẳm xa vời, quen mà hóa
lạ. Trời thu thì xanh ngắt những mấy từng; cây tre thu lại chỉ còn một cần trúc;
khói phủ thành từng trên mặt nước; song cửa đê mặc ánh trăng vào; hoa năm
nay giấu vào hoa năm ngoái, tiếng ngỗng vang trong mơ hồ... Hồn thu như
lắng chìm vào bên trong, ấn chứa ở chiều sâu. Dáng thu, hồn thu trong Thu
điếu là cái gì cũng như thu mình cho nhỏ bé, cho lặng im: Chiếc thuyền câu
bé tẻo teo, mặt ao chỉ gọn tí, mảnh lá vàng rơi vèo không thành tiếng, cá quẫy
chỉ động nhẹ dưới chăn bèo. Tất cả cùng mọi vật khác đều như im lìm trong
một không khí lặng yên, tĩnh mịch của một sự đợi, đợi chờ tưởng như ông
câu cũng hóa đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ
trong cái lắng chìm vào bên trong, cái đợi chờ mỏi mòn trong yên lặng như
thế.
Với lên hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là mượn chút so sánh để
nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này.
Dáng thu, hồn thu, cả tâm tư nhà thơ có khác.
Cảnh vật vẫn là cảnh vật ở hai bài thơ kia: Từ nhà từ vườn nhìn ra
đồng, cái ao, rặng tre, hàng dậu, lối xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu
khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở hai bài thơ trên
kia, Nguyễn Khuyến là nhà thơ, là ông câu cá, còn ở đây ông khề khà ly
rượu. Nhưng cũng chính từ cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến dạng,
đầy bất ngờ mà thú vị.
Hai câu đề:
Ba gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ một bậc nhưng chữ nghĩa
khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te đã rõ là thấp và chẳng còn lành lặn,
mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo: Ngõ tối và đêm sâu là cảnh
bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm lập lòe làm cho ngõ tối và đêm
sâu lúc tối, lúc sáng thành ra cũng biến dạng.
Hai câu thực cũng vậy:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làm áo lóng lánh bónq trăng loe.
Sương thu lớt phớt như khói mỏng phủ bờ giậu khiến cho cây xanh
cũng chẳng còn màu đêm. Câu thơ đặc biệt miêu tả tài tình: Mặt ao cũng
không còn phẳng lặng mà lăn tăn gợn sóng và ánh trăng chiếu vào nên lóng
lánh; bóng trăng chiếu xuống nước gợn sóng cũng chẳng còn nguyên hình
mà chao lại loe ra, dồn lại, biến dạng liên tiếp.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Cảnh trời và cảnh mình. Trời cũng như mình đều do ai đó làm cho biến
đổi: Trời thì ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy mà cũng đỏ hoe?
Người nghiên cứu bảo cụ Tam nguyên đau mắt, có lần mắt đỏ như máu, hay
là do rượu say? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ “ai” lấp lửng một mối
hoài nghi, nghe lửng lơ nhưng chắc không phải vô ý. Bỗng dưng lại lấy một
thế lực nào đó bên ngoài tác động vào trời, nhuộm cả da trời, rồi bỗng dưng
mắt mình “đỏ hoe nước mắt”. Đây cũng là nét tâm tư của nhà thơ? Nó cùng
một mạch cảm thương như hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái, và tiếng
ngỗng bay qua trời mình mà nghĩ mà ngỡ là ngỗng nước nào. Tâm tư nhà thơ
không ngoài nét buồn đau trước cánh nước mất, lũ giặc lũ gian giày xéo mà
mình thì bất lực, bứt rứt không nguôi.
Cuối cùng là tửu tượng cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng
hay chả mấy nên chỉ dăm ba chén đã say nhè. Nhìn chung tại sao lại có sự
biến hình đổi dạng này? Do rượu chăng? Sao nhìn vật một hóa thành hai, ba,
hoặc nhòa nhạt tất cả. Dáng hình biến đổi, màu sắc, đường nét nổi lên nhòe
ra chập lại, lảo đảo như say.
Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất,
thú vị nhất là ở tất cả các từ: le te, lập lòe, đỏ hoe, say nhè. Cả câu: Làn ao
lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l, càng tăng gấp bội cái
cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng dưới nước mà ở cả
mặt ao, làn ao. Từ đó mà cảm giác ngả nghiêng chao đảo ấy lan tỏa ra toàn
bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè” ở chót câu cuối nhưng rồi âm thanh
và ý nghĩa lại dội ngược lên toàn bài.
Thế là nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu này. Sau
dăm ba chén, tâm tư đã nhòa ra, thẩm thấu vào cảnh vật, khiến cho dáng thu,
hồn thu đều cùng biến dạng, lảo đảo, say nhè. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu
Ẩm này là ở đó. Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt khôn
nguôi trong lòng. Mượn vài chén rượu cho khuây nhưng uống vào lại thấy nỗi
niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo cả cảnh vật đêm thu. Có lúc không
rượu mà tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam nguyên đã tự cười mình và cũng
thấy người mình như say: Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!
LÊ TRÍ VIỄN.
Có ý kiến cho rằng Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ đặc săc của làng cảnh Việt Nam. Anh (chị) hãy chứng minh điều đó qua việc phân tích chùm thơ về mùa thu của ông.
BÀI LÀM
1. Không phải tôi đang làm cái việc của người đọc ở những thế kỷ sau.
Bởi tôi đang là người của thế kỷ này, làm sao biết bậc lớp hậu sinh nghĩ gì,
yêu ghét những gì. Nhưng cứ theo quy luật thông thường, để cho hành trang
không quá cồng kềnh trên con đường xa. Người ta lại đành lòng bỏ bớt.
Không phải mọi giá trị hôm nay được ngưỡng mộ tôn vinh, đều đủ sức đeo
bám theo con người vào thế kỷ tới. Thời gian sàng lọc hay con người sẽ quên
đi nhiều, hay các giá trị tự nó vơi đi? Nguyễn Trãi sẽ còn gì? Nguyễn Du sẽ
còn gì? Hồ Xuân Hương? Tú Xương?... Và Nguyễn Khuyến? Nguyễn Khuyến
cũng thế, rồi người ta sẽ quên đi nhiều. Nhưng thời gian không nỡ quên các
Chùm thơ thu của Yên Đổ. Bởi xem ra là những kỷ vật cuối cùng mà thi nhân
tặng cho thi ca mai hậu. Đến nó cũng bị lãng quên, nghĩa là hết! Rồi đây, cái
làng xưa với những nhà cỏ hao gầy và đơn sơ có thể không còn nữa, những
làng ao chuôm cỏn con có thể bị vùi lấp, cái cảnh quan thôn xã giao hòa với
thiên nhiên, được ôm ấp trong vòng tay của thiên nhiên bây giờ cũng đổi
khác. Thì có lẽ ba bài thơ thu ấy vẫn cứ còn. Nó còn như một ký ức về cội
nguồn, như một ảnh hình được lưu giữ trong tâm linh người Việt, thuộc về
văn hóa Việt.
Tôi tin thế và hằng mong thế!
Ba bài thơ thu ấy là một thế giới. Chúng nói cùng ta về một thứ chỉnh
thể của văn chương: chỉnh thể chùm. Ba thi phẩm được viết khá gần nhau,
nếu không nói là thuộc về cùng một hơi thơ, một mạch cảm hứng. Tuy ba mà
một, tuy một mà ba. Nguyễn Khuyến đã có Tam nguyên trong khoa cử, lại có
Tam thủ tuyệt thi trong thơ ca. Ba bài thơ tự kết với nhau hợp thành một
không gian riêng, một thời gian riêng, một bầu khí quyển riêng, mang một sinh
khí riêng. Thế giới ấy là của riêng Nguyễn Khuyến. Ông đã tạo ra nó bằng cả
tâm hồn mình, và ông đã chọn cái thế giới ấy làm nơi cư trú riêng cho cốt
cách của mình. Tâm hồn ông đã chọn nơi này để ký thác vào thế giới này đã
nhận ông để biến cái thên thế phù du trôi nổi thành giá trị vĩnh hằng.
2. Thơ ẩn dật điền viên ở ta không thành hẳn một thi phái, trào lưu,
nhưng thời nào cũng thấy. Đối với ta, nó không xa lạ. Tuy nhiên đây vẫn là
một cõi riêng của Nguyễn Khuyến. Ta không thấy có ở người khác. Ông nhào
nặn, tái tạo từ những nguyên liệu, vật liệu quen thuộc của cảnh quê, nhưng lại
khắc phục được cái thô mộc, quê kệch để làm cho tất cả trở nên thanh nhã
hơn, cao sang hơn. Toàn bộ cái nguyên tắc xây cất, tái tạo của thi nhân để
làm thành cái nẻo riêng, cái khuôn viên riêng của mình ở cõi thu này có thể
tóm tắt vào một chữ: THANH.
Bước vào cõi thu Nguyễn khuyến là bước vào thế giới khiêm nhường
mà thanh cao. Những sự vật chốn thôn dã quê mùa bỗng trút bỏ cái thô mộc,
vụng về để trở nên thanh thoát, bỗng thoát khỏi cái lam lũ, tồi tàn thành tinh
tế, thanh cao. Đúng thế, chưa có ở đâu mà những nếp nhà, bờ giậu, mặt ao,
lối ngõ, con thuyền, đám bèo, ngọn khói, tiếng ngỗng trời, tiếng cá quẩy v.v...
Chùm thơ thu Nguyễn Khuyến. Ông đã khơi dậy từ đó một chất thơ mà không
cần phải cầu đến lối thi vị hóa. Và các sự vật ấy đã óng lên một chất thơ mà
vẫn giữ nguyên được cái chân chỉ duyên quê trong bản tính của mỗi sự vật.
Cảnh thơ dân dã mà nho nhã, quê kiểng mà chẳng quê mùa! Bao trùm lên là
một không khí thanh đạm, thanh vắng. Nó là không gian Nguyễn Khuyến, là
bầu khí quyển riêng của Yên Đổ. Vì thế bước vào thế giới này là bước tới một
nơi thật quen của ta, nhưng dường như ta vẫn phải đi thật chậm, thật gượng
nhẹ, nhón chân, hoặc ta nên yên lặng không di dịch mà trầm ngâm cùng thi
nhân, nếu không muốn trở thành phàm nhân, lố bịch.
Ở trung tâm của cõi thu Nguyễn Khuyến là một nếp nhà giản dị mà
thích thảng: “Năm gian nhà cỏ thấp le te”. Nhưng vẫn có đủ “Song thưa để
mặc bóng trăng vào”, vẫn mở thông ra thiên nhiên, giao hòa với trời cao -
thấp đấy mà cao đấy! Vẫn là cái “Mái rạ nghìn năm” ấy thôi, nhưng không
phải là “Mái nhà tranh thấp ngủ im hơn” trong tủi sầu, trì trệ. Cũng không phải
là “Mái gianh ơi hỡi mái gianh, Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương”
đầy nhẫn nại, thương nhớ. Cũng không phải là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm
vàng” phong tình lãng mạn...Bản lĩnh của Nguyễn Khuyến là ở đấy! Chữ “le
te” vẫn giữ cho năm gian nhà cỏ vẹn nguyên là nhà cỏ đời thường. Nó không
định trở thành “thảo đường”, “am mây” một cách ẩn dật, cùng không mặc cảm
thành tội nghiệp, tồi tàn. Không thấp kém, không cao đạo, mà thanh cao! Nó
là gian - nhà - Nguyễn - Khuyến!
Trước sân là bờ giậu thưa, ở đó những xế chiều trông ra có thể gặp
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái” vừa như một ảo giác, lại vừa như một
hiện hữu. Còn khi trời về tối có thể thấy bảng lảng khói sương “Lưng giậu
phất phơ màu khói nhạt”. Trước nhà là một khoảng ao bé. Khi phẳng lặng có
thế thấy “Nước biếc trông như từng khói phủ” mơ hồ, dường có lại dường
không. Khi hiu hắt gió, Có thể thấy “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”. Và đêm
trăng thu thì ở đó sẽ khuấy động những ánh vàng “Làn ao lóng lánh bóng
trăng loe”. Trên mặt nước ngày thu lặng là “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”,
không phải là “Con thuyền gối bãi suốt ngày ngơi” mà là con thuyền bất động
mà thảng thốt trên nước, xế ra chút nữa là lối ngã luồn trong vòm tre, bóng
trúc quanh co, uốn lượn, mở ra chiều sâu thâm u cho không gian thu làng
quê: “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Và khi bóng đêm thôn ổ đong đầy
thì nó sẽ là “Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe” hoang dã và có phần bí ẩn. Và
ngước lên, bất cứ lúc nào, ta cũng có thể gặp bầu trời thu trong trẻo, yên tĩnh
và thăm thẳm. Lúc này là “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” nhẹ nhõm,
thoáng đãng; lúc khác lại thấy lơ lửng cả những xốp mây bông lặng lẽ trôi, di
chuyển mà như không di chuyển: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Và lúc
khác, cô đơn thảng thốt hơn sẽ thấy lạ lùng trước sắc xanh của nó: “Da trời ai
nhuộm mà xanh ngắt”.
Mải mê vào cái khuôn, viên riêng của Nguyễn Khuyến, dường như tôi
đã xáo trộn cả ba bài thu lên, rồi để chúng liên kết lại theo trật tự đầy cảm tính
của mình, chẳng biết sự minh họa vụng về của tôi có xúc phạm đến tiền nhân.
Nhưng nếu được làm một họa sĩ vẽ cõi thu Nguyễn Khuyến thì hẳn là tôi
không thể làm khác thế! nghĩa là tôi sẽ dùng một gam màu thật ĐẠM, thật
THANH để chấm phá như thế về nơi ẩn cư của Yên Đổ. Đấy không phải là
chốn “thảo đường” như trong thơ chữ Hán, không phải là “am mây” lánh đời.
Nguyễn Khuyến đã ở ẩn bằng việc hòa mình vào thôn quê, thôn ổ.
3. Trên cái nền ấy ta thấy hiện ra cốt cách một thi nhân - nho gia.
Người sau ít ai để ý rằng: Ba bài thơ Nôm nhưng lại mang ba cái nhan đề
hoàn toàn Hán. Vì thế mà gây lúng túng trong việc dịch. Thu điếu là Mùa thu
câu cá, Thu ẩm là Mùa thu uống rượu, còn Thu vịnh là Mùa thu làm thơ hay
Vịnh mùa thu. Xét đơn thuần về tính chất quán của ba nhan đề trong một
chùm người ta thấy nên dịch Mùa thu làm thơ. Nhưng cần thấy một sự nhất
quán khác: Nhất quán trong con người Nguyễn Khuyến! Làm thơ câu cá,
uống rượu... là những thú chơi tao nhã của những tao nhân mặc khách thuở
xưa, nhất là những khi nhàn tản. Trở về vườn Bùi với một tâm sự u uẩn,
Nguyễn Khuyến muốn ẩn cư, muốn tìm những nhã thú kia để hưởng những
phút thư nhàn thanh thản của một kẻ sĩ lánh đời. Mùa thu câu cá, thì chẳng
câu được con cá nào! Mùa thu uống rượu, cũng chẳng được là bao. Và mùa
thu làm thơ, cũng thế: “Nhân hứng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông
Đào”, cảm hứng thơ ca mới dâng lên khi đối diện với cảnh thu êm ả, thanh
tĩnh thì lập tức một nỗi thẹn dâng lên, chẹn ngang làm cụt hứng. Vậy là trong
ông vẫn có một tâm sự ẩn kín. Dường như xúc cảm của một thi nhăn vừa mới
dâng lên thì nỗi niềm của một nho gia đã cản lại. Nó không cho phép ông
được hưởng một sinh thú ở đời dù đó là một cái thú trong sạch nhất, vô hại
nhất. Tâm sự ấy là nỗi ưu thời mẫn thế, ông không muốn quên mà không thể
quên. Ông muốn mang về vườn Bùi chốn cũ để nó tiêu tan trong thảo mộc
điền viên, nhưng nó chẳng thể tan. Nó vẫn nghèn nghẹn trong lòng. Vì thế,
trong cả ba bài thu này, ông định làm việc gì thì không có kết quả việc ấy.
Nghĩa là nhàn cư mà chẳng thể nhàn tâm. Cái cốt cách thanh cao của
Nguyễn Khuyến là ở đấy.
Và cứ để ý mà xem, ba bài thơ ấy dường như có một trật tự nào đấy.
Không phải là trật tự thời gian. Không phải bài Thu điếu có vẻ như buổi chiều,
Thu vịnh là thời gian tổng hợp, còn Thu ẩm thì nghiêng vế đêm, mà trật tự
nằm ngay trong các trạng thái cô đơn của thi nhân, ở Thu vịnh là một nỗi
ngượng ngùng với tiền nhân: “Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại
thẹn với ông Đào”, ở Thu điếu là một nỗi lo âu triền miên, chìm đắm: “Tựa gối
ôm cần lâu chẳng được, cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Và cuối cùng ở
Thu ẩm, ông đã khóc một mình đơn độc dưới đêm thu, giữa những cảnh thân
thiết vườn Bùi: “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vầy cũng đỏ
hoe”. Nỗi u uẩn muốn giấu kín bằng cốt cách điềm tĩnh. Nhưng vẫn không giữ
được lâu mãi. Nó đã ùa ra thành nước mắt khi một mình đối ẩm với bầu trời.
Thực là “Nói lời trước mặt rơi châu vắng người”.
4. Nhưng dẫu sao Nguyễn Khuyến cũng là một thi sĩ. Con người thi
nhân đã được ngòi bút thi sĩ truyền vào thơ ca thật tinh diệu. Ở đây ta có thể
thấy một tấm lòng quê thuần khiết, một cái nhìn Đường thi vào làng cảnh Việt
Nam trong cái yên tĩnh đời đời của đồng quê, của mùa thu.
Mùa thu phải chăng là mùa mà thiên nhiên trở nên thư thái hơn. Nó là
cái quãng lặng để hòa giải hai đối cực của mùa hè nóng nực và mùa đông
buốt giá. Sự hòa giải ấy khiến cho tất cả đều như được thanh lọc. Tất cả đều
hơn, trong trẻo hơn, mát mẻ hơn... Nắm được “thần” của mùa thu phải chăng
là cảm được và truyền được những nét ấy vào thi ca của mình?
Chùm thơ này, bài nào cũng làm được điều đó. Hãy nhìn riêng vào Thu
vịnh:
Trời xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như từng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Hai câu đề đã ghi ngay được cái thần thái của trời thu. Câu thứ nhất
gợi ra cái nền phông cảnh bằng nét rộng khoáng đạt. Chữ xanh ngắt nói
được cái sắc xanh riêng của mùa thu với tất cả vẻ êm ả, mát mẻ và trong
xanh của nó. Ba chữ “Mấy từng cao” cho thấy tầm nhìn thi sĩ rộng mở cùng
với các tầng trời, ở trên nền ấy hiện ra tiền cảnh là “cần trúc lơ phơ...” Chữ
“cần” gợi được nét cong, mềm mại thật hợp với điệu thu. Chữ “lơ phơ” tả sự
lưa thưa mà lay động. Chữ “hắt hiu” thật là cái hồn của gió thu. Những gợn
gió thật mỏng manh nếu không tinh tế thì khó mà nhận biết. Thi sĩ đã dùng cái
“động” để gợi cái “tĩnh” trong bao la của thinh không. Bức tranh cứ hạ dần độ
cao.
Hai câu thực tả mặt nước và mặt đất. Nếu xanh ngắt rất đặc trưng cho
trời thu thì xanh biếc lại đúng cái thần của nước thu. Nước trời soi chiếu nhau
qua cảm quan của thi sĩ và với hai sắc độ ấy, bức tranh thu của Nguyễn
Khuyến đã lan tỏa một gam xanh vừa thanh đạm vừa sâu lắng, cái mà Xuân
Diệu đã gọi là những điệu xanh. Thi sĩ nhìn ra cái làn hơi vừa có vừa như
không quấn quýt đầu con sóng. Ấy là nét hư ảo chỉ có trong vườn thu. Cái
ngôi nhà cỏ thấp le te của Nguyễn Khuyến ở đây được hiện ra qua một khung
cửa sổ. Đây là không gian quen thuộc của trăng thu, không gian quen thuộc
của các thi sĩ phương Đông. Cửa sổ mở thông vào thiên nhiên cho tâm hồn
hòa với tạo vật. Chữ “song thưa” rất không đâu mà thật ăn nhịp, hòa điệu với
cái không khí riêng của mùa thu. Có phải vì đến mùa thu thì cái vẻ “thưa” kia
mới trở thành ấn tượng của thi ca? vầng trăng tri kỉ thoải mái đi về cùng với
thi nhân.
Đến hai câu luận, không gian và thời gian bỗng mở rộng ra:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Câu trên là một ảo giác về thời gian, câu dưới là một niềm thảng thốt
trước không gian. Với hai câu thơ này, bức tranh thu như trở nên thi vị, hư
huyền. Chữ “năm ngoái” vốn được Nguyễn Du tái tạo từ chữ “y cựu” (y như
cũ) trong thơ Thôi Hộ. Đến đây nó lại trôi về Yên Đổ, đậu lên cái chùm hoa
nơi lưng giậu của Nguyễn Khuyến, phủ lên hình ảnh thơ một chút hoài niệm,
bâng khuâng. Nơi lưng giậu là một hiện hữu trong không gian. Nhưng “hoa
năm ngoái” đã lại không xác thực về thời gian. Có một cái gì đó ngưng đọng
trên những chùm hoa kia. Hoa vẫn lặng lẽ ở đó từ năm ngoái, hay hoa mới
trở về từ trong kỷ niệm? Phải trong lòng nặng nỗi u hoài không dễ tỏ bày, thi
nhân mới có cái cảm nhận huyền hồ ấy! Với một tiếng ngỗng kêu, không gian
chợt mở ra, mênh mông, xa vắng, ở bài Thu điếu ta gặp một tiếng cá quẫy
vọng lên từ đáy nước, ở đây ta gặp một tiếng chim di trú rơi xuống từ không
trung. Đến từ hai phía khác nhau nhưng cùng đánh động một tâm hồn. Và cả
hai đều là những tiếng động nhằm làm cho cái tĩnh của trời, của nước trở nên
thẳm sâu, thanh vắng. Âu đó cũng là thủ pháp dùng cái động để gợi cái tĩnh
vậy. Hai chữ “nước nào” cũng rất không đâu, nhưng sao lại gồm chứa trong
đó tất cả sự xa vắng của không gian thơ!
Chữ nghĩa của Yên Đổ ở đâu cũng rưng rưng xót cảm! Cuối cùng, Thu
vịnh khép lại bằng bức tự họa thật nhanh mà thật động:
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Nỗi niềm u uẩn không chịu buông tha cho Yên Đổ. Cái cảm giác “thẹn
với ông Đào” là cái nét thanh cao của Nguyễn Khuyến. Nó không chỉ in vào
riêng bài thu này, mà nó đã đổ bóng xuống cả ba bài thơ, làm nên một chân
dung thật nhất quán của Nguyễn Khuyến - một thi nhân tao nhã, một nho gia
khí tiết. Và tất cả đã làm thành một cây cổ trúc thanh cao, chỉ cần một gợn gió
nhẹ thôi cũng xao mình, lay động trăn trở! Giữa trời yên mà nó có được yên.
Mà có lẽ trong thế giới của ba bài thu kia, nó vẫn cứ hắt hiu, cứ lay động đến
muôn đời!
B. LUYỆN TẬP
1. Mùa thu là bạn muôn đời của thi nhân. Trong lịch sử thơ ca Việt Nam
xưa nay có không biết bao nhiêu bài viết về mùa thu tựu trung có uy danh vào
loại nhất phải nói tới chùm thơ “Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh” của Nguyễn
Khuyến.
Anh (chị) hãy lần lượt bình giảng ba bài thơ trên để thấy cái hay, cái
đẹp của làng quê Việt Nam dưới con mắt nhà thơ Nguyễn Khuyến.
2. Nhận định về Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu nhận xét: Nguyễn Khuyến
là “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”.
Ý kiến anh (chị) về nhận định trên của Xuân Diệu như thế nào?
Phân tích chùm thơ (Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh) để làm sáng tỏ nhận
định trên.
3. Qua chùm thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến, anh (chị) thấy bức chân
dung tinh thần (hình tượng nhân vật trữ tình) của Nguyễn Khuyến hiện lên
như thế nào?
4. Trong ba bài thơ viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến (Thu điếu, Thu
ẩm, Thu vịnh), anh (chị) thích bài thơ nào nhất? Hãy bình giảng để nói rõ cái
“thích nhất” của mình.
5. Tại sao lại nói Thu vịnh là bài thơ tả cảnh ngụ tình nhiều ẩn ý đặc
sắc?
6. Thu trong Thu ẩm chật chội, bức bối, nhập nhòe...” Hãy phân tích bài
thơ để làm rõ ý kiến đó.
7. Những “cái lạ” mà anh (chị) cảm nhận được qua bài thơ Thu điếu.
KHÓC DƯƠNG KHUÊ
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Khóc Dương khuê" của Nguyễn Khuyến.
BÀI LÀM
Bác Dương thôi đã thôi rồi.
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Mở đầu là cảm giác sửng sốt và nỗi “ngậm ngùi” của Nguyễn Khuyến
trước sự ra đi đột ngột và vĩnh viễn của bạn mình - Dương Khuê, ở đoạn sau,
cảm nhận ấy còn được nhắc lại.
“Làm sao bác vội về ngay.
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”
Câu “làm sao bác vội về ngay” trong nguyên tác bằng chữ Hán là “Hốt
văn công phó chí” (1), dịch nghĩa là “Chợt nghe tin báo bác đã qua đời”. Câu
thơ dịch không dùng chữ theo nghĩa đen “đã qua đời” mà theo nghĩa bóng
“vội về ngay”. Cả bốn lần nói về cái chết của Dương Khuê, Nguyễn Khuyến
đều cố tránh cánh diễn đạt trực tiếp về một mất mát đau lòng, một thực tế có
vẻ phi lý nhưng lại hiển nhiên:
“...thôi đã thôi rồi” (câu 1)
“...vội về ngay” (câu 25)
“...mãi lên tiên” (câu 28)
và “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở” (câu 35).
Cuộc tử biệt sinh ly đem đến cho người đang sống một tâm trạng hai
chiều bạn mất và mất bạn.
Cái chết của bạn sống lại trong lòng tác giả một quãng đời quan trọng
với bao kỷ niệm tưởng đã lùi sâu vào dĩ vãng, từ những chuyện nghiêm chỉnh
như thi cử đến những chuyện phóng khoáng như cuộc rượu, câu thơ, con
hát... Quãng đời ấy lại gắn liền với một cục thế hết sức phức tạp và đen tối.
Năm 1882. Hà thành thất thủ; năm 1883, thất thủ kinh đô: Hiệp ước Hác -
măng (Harmand) rồi hiệp ước Pa - tơ - nốt (Patennôtre) nhục nhã... Hầu như
cơn giông tố ba đào “quốc biến” cứ dồn dập đuổi theo Tam Nguyên trẻ tuổi
vừa mới xuất chinh (2).
Hai người kết bạn với nhau ít nhất cũng ba mươi tám năm kể từ khoa
thi Giáp Tý (1864). Sau cái sự kiện năm 1883, mỗi người chọn lấy một cách
xử thế. Nguyễn “cáo về” ở tuổi năm mươi, tuổi của sự dày dặn và chính chắn.
Hai mươi bốn năm tiếp theo, ông là chính nhân đáng giá của lịch sử đất nước
với hàng loạt vấn đề cũ và mới như nước mắt, dân nô lệ, nạn đói, kẻ sĩ biến
chất, bọn cơ hội, tùy thời “bung ra” và lấn lướt...” bao nhiêu sự kiện phản ảnh
vào ông bao nhiêu dằn vặt, tranh đấu trong tâm hồn ông!” (Xuân Diệu) (3).
Thơ văn ông đẫm lệ nhân sinh và vũ trụ. Dương ở lại theo “phận đẩu thăng”,
thơ văn nặng mùi hưởng lạc. Như vậy, ba mươi tám năm bầu bạn, họ không
phải luôn luôn và hoàn toàn tượng tri, tương đắc. Nhất là khoảng thời gian
mười chín năm cuối với vấn đề nổi cộm là họ Dương ở lại công tác với kẻ thù
dân tộc (?). Dĩ nhiên, họ Dương không thuộc “ê kíp” (4), những tên nhồi tro
xác cụ Phan vào thuốc súng rồi bắn xuống “Lan Giang” (4) những kẻ bày trò
văn chương thi vịnh Kiều đề đánh hỏa mù vấn đề chính trị (5).
Một câu hỏi lý thú được đặt ra là: Nguyễn Khuyến nhìn nhận bạn như
thế nào mà luôn một lúc “sáng tác một bài Nôm song song với bài chữ” (6) để
“Khóc Dương Khuê”, bài nào cũng hay và bài thơ dịch còn được đánh giá là
áng văn vào hàng hay nhất về tình bạn trong Văn chương nước nhà?
Những câu thơ tuyệt vời dưới đây đâu phải là chuyện kỷ xảo hoặc tài
chơi chữ mà sự chuyển tải những xao xuyến tâm hồn, một tiếng khóc chân
thành:
“Rượu ngon không có bạn hiền.
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết.
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Giường kia treo cũng hững hờ.
Đàn kia gẩy củng ngẩn ngơ tiếng đàn”.
Một câu lục bát chỉ mười bốn tiếng, có đến năm từ “không” lặp đi lặp lại
nỗi tiếc bạn không nguôi, nỗi đau mình cô độc trước cuộc đời bất như ý. Còn
ai để giải bày tâm sự: “viết đưa ai” và còn ai có thể hiểu được mình “ai biết
mà đưa?” Nỗi cô đơn của tác giả đã vượt quan hệ Dương - Nguyễn lớn lên
thành nỗi đau đời! Thực dân Pháp đã ngồi yên chỗ, ngọn cờ cần Vuơng đã
ngã xuống... trong tâm trạng lớp người như Yên Đổ, đại cục của đất nước coi
như đã hỏng. Âu trong nỗi buồn mất bạn là nỗi buồn nhân thế, một nỗi buồn
thế kỷ. Điều ấy giải thích vì sao tác giả đã tìm được sự đồng cảm của nhiều
thế hệ bạn đọc. “Đàn kia” có “gẩy” nữa cũng chỉ làm “ngẩn ngơ” những ai
đang “ngất ngơ, lơ láo” trong cảnh “ngày loạn, người cùng”(7). Nỗi buồn nhân
thế ấy đã được tác giả khái quát vào một câu thơ đậm chất triết lý: “Ai chẳng
biết chán đời là phải”. Không chán sao được khi cái đạo của đời thì đang sụp
đổ, còn mình thì:
“Nghĩ đến bút nghiên trào nước mắt
Ngước nhìn sông núi xiết buồn đau!” (8)
Trở lại câu hỏi đã được đặt rạ.
Nguyễn Khuyến vẫn giữ một tình bạn chân thành “từ trước đến sau”,
thủy chung như nhất. Ông hết sức ân cần với bạn:
Cầm tay hỏi hết xa gần.
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.
Và thực sự đau xót khi nhận được tin chẳng lành:
“Chợt nghe, tôi bỗng tay chân rụng rời”
Nhưng, Nguyễn Khuyến cũng có một thái độ rạch ròi trong việc Dương
Khuê ra hợp tác với Tây. Có điều thái độ đó được chuyển tải ra câu chữ hết
sức kín đáo và tinh tế.
Tác giả dành hai mươi câu thơ (từ câu 3 đến câu 22) trên tổng số ba
mươi tám câu toàn bài để nói về ba mươi tám năm hai người là bạn của
nhau. Mười sáu câu trên nói về mười chín năm đầu, lúc cuộc đời dù sao vẫn
còn suôn sẻ, khi cả hai tuổi xuân đang phơi phới. Ở tám câu còn lại thì bốn
câu cuối (các câu 19,20,21,22) nhắc lại lần gặp nhau gần nhất. Không bao
giờ là lần cuối, lần vĩnh biệt. Bốn câu trên (các câu 15,16,17,18) tóm lược
chín năm cuối cùng kể từ cái mốc 1883: “Buổi dương cửu... thì thôi mới là!”
Mười chín năm va đập trong cơn quốc biến, chính là lúc vàng đưa vào
lửa, lúc nhân cách con người được thử thách trước vận hạn “nước loạn, nhà
nghèo”. Lẽ nào lại “dám than trời” cái “phận đẩu thăng?”. Lẽ nào phải đi xin
giống khác miếng ăn, “ăn vào thì lại nhục”(9). Vẫn biết, mỗi người có một
cảnh ngộ, có kẻ vì cơm áo, có người mất lòng tin và dũng khí... an phận
“sáng vác ô đi, tối vác về”. Nguyễn Khuyến cũng nghèo, gốc gác vốn nghèo,
làm quan thanh liêm, về già có người “cho thịt” mà ông “ôm mặt khóc”. Khóc
vì “Những nỗi cực nhục ở trên đời” (Xuân Diệu) (10). Đối với kẻ sĩ chân chính,
danh tiết còn nặng hơn hình hài. “Nghèo chứ không khốn khổ. Kẻ sĩ không thi
hành đạo đức thì mới khốn khổ (Trang Tử) (11). Vả lại, rộng và lớn hơn
khuôn khổ chữ trung cũ kỹ đối với một dòng họ, một triều đại, vượt khỏi cấp
độ truyện cổ “Bá Di, Thúc Tề”, đây là vấn đền nỗi nhục của quốc gia Đại Việt
văn hiến. Trước họ mấy thập kỷ, Đồ Chiểu đã dứt khoát: “Thà đui mà giữ đạo
nhà”, “thà thác mà chẳng đầu Tây” (12)... Dương Khuê không hẳn không biết
Nguyễn Khuyến từng băn khoăn “về hay ở?” (13), “Mừng thấy các ông lùi
mạnh bước” (14), mừng thấy “Đạo ta có lẽ chưa cùng chăng?” (15), “Khóc
Dương Khuê” không phải là việc “đập cổ kính...” (16) mà đây là lần cuối nói
với nhau một lời phải, lúc đậy nắp quan tài cho người đã khuất:
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!” (câu 18)
Câu thơ dịch trên, nguyên văn chữ Hán là “Giải tổ quy điền viên”, dịch
nghĩa “Cởi dây ấn về với ruộng vườn”, ý tứ rõ ràng cụ thể. Câu thơ dịch thanh
thoát, ngôn từ dung dị, nhạc điệu uyển chuyển mềm mại làm cho ý nghĩa “co
giãn”, vừa mang sắc thái triết lý, vừa là một lời trách cứ nhẹ nhàng nhưng dứt
khoát.
Không ai có thể dịch đúng ý tác giả hơn chính tác giả, nhất là đối với
con người “nếu ngày xưa có thi thơ Nôm thì Nguyễn Khuyến lại đoạt thêm
một cái bảng vàng Tiến sĩ thơ Nôm nữa, chứ chẳng chơi!” (17).
Câu thơ trên - “cái gai hoa hồng” ấy - luôn nhắc nhở con người hãy
nghĩ về danh tiết.
PHAN THỊ BẠCH HUỆ.
So với bài văn tế khác “Khóc Dương Khuê” có sự sáng tạo khá độc đáo về chủ đề và bố cục, có tiếng khóc bạn rất chân thành”. Anh (chị) thử trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
BÀI LÀM
Khóc Dương Khuê là bài thơ hay, là đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác
của Nguyễn Khuyến. Bài thơ có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều thế hệ. Ở quê
tôi, mà có lẽ cũng nhiều nơi như thế, trong các buổi lễ hiếu, lễ thọ các cụ rất
thích đọc bài thơ này và bài Di chúc của Nguyễn Khuyến.
Từ sự nhận thức về bài văn, chúng tôi xin đề xuất thêm vài ý kiến nhỏ:
a) Về chủ đề bài văn: Thông thường, ở mỗi bài văn tế, (Văn tế Phan
Châu Trinh của Phan Bội Châu, Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình
Chiểu chẳng hạn) đều có thể phát biểu chủ đề một cách ngắn gọn: Ca ngợi
và tiếc thương. Ca ngợi là ca ngợi công đức, sự nghiệp của người đã khuất.
Bài văn tế hay phải miêu tả, ca ngợi được những nét tiêu biểu, điển hình của
người đó. Mặt khác, người làm bài văn (thường thì đọc khi đứng tế luôn) còn
tỏ rõ niềm thương tiếc của mình. Niềm tiếc thương này càng quảng đại, càng
đại diện cho được nhiều người bao nhiêu, bài văn càng có giá trị. Đôi khi,
trong quá trình miêu tả, ca ngợi các tác giả có lồng vào lời phê phán. Cũng
phải thôi, ở đời ai mà hoàn mỹ, hoàn hảo được. Khi Phan Bội Châu viết về
Phan Châu Trinh: Quay đầu lại giả ơn tù đảo, tấm thân già con nặng gánh
giang sơn; Bước chân đi tìm bạn Âu châu, đôi tay trắng quyết phất cờ xã hội
là tác giả có ý phê phán chủ chương “Pháp - Việt đề huề” của ông Tây Hồ. Ây
vậy mà lời phê phán khéo léo đó đã chìm hút đi trong câu thơ tuyệt bút. Viết
Văn tế Nghĩa sĩ cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu cũng nhằm ca ngợi và tiếc
thương những người nghĩa sĩ đã vong trận.
Với bài Khóc Dương Khuê thay vì ca ngợi công đức sự nghiệp của bạn,
Nguyễn Khuyến đã đưa một chuỗi hồi ức đẹp đẽ về tình bạn. Cũng có chỗ tác
giả tỏ ý chê trách bạn. Nhưng trách mà thương, có thương mới trách. Chính
vì xác lập ý tưởng của mình như thế ngay từ lúc cầm bút nên tác giả mới lấy
nhan đề Khóc Dương Khuê. Như vậy, ngay từ chủ đề, tác giả đã ghi một sáng
tạo. Chúng tôi nhận thấy việc phát biểu chủ đề là cần thiết.
b) Về bố cục bài thơ: Với bố cục của bài thơ, Nguyễn Khuyến ghi thêm
một điểm sáng tạo thứ hai. Văn khóc bạn, viếng bạn là loại văn điếu người
chết. Nó cũng theo một lề lối như bài văn viết theo thể phú Đường luật. Nghĩa
là phải có bốn đoạn (lung khởi, thích thực, ai vãn và kết), Nguỵễn Khuyến
thuộc hàng khoa bảng đậu đạt, ông nắm vững, thành thục mọi quy định của
loại văn này. Nhưng tác giả muốn sáng tạo. Ở bài này, trên căn bản tác giả
vẫn men theo mạch kết cấu của bài văn theo thể phú Đường luật. Cái mốc để
chia đoạn là khúc rẽ trong đồ thị diễn biến tình cảm của tác giả.
c) Về cơ sở của tình bạn: Điều này quan hệ đến cách nhìn nhận, đánh
giá về cuộc đời và văn nghiệp của Dương Khuê. Cái vị thế của Dương Khuê
cũng giống như người nghĩa sĩ trong bài văn tế “Nghĩa sĩ Cần Giuộc”, có một
vai trò quan trọng nếu không muốn nói là định đoạt ít nhất là với giá trị nội
dung bài thơ. Về điểm này, sách giáo viên, văn 11, NXB Giáo dục - 1991 có
ghi một câu ngờ ngợ: “Dương Khuê thì làm quan cho Pháp, và chạy theo lối
sống hành lạc. May là trong tâm can có lúc còn chút ngao ngán với sự đời...
Tình hình như thế, nhưng Nguyễn Khuyến vần giữ tình bạn cũ”. Nói Dương
Khuê làm quan cho Pháp thì Nguyễn Khuyến làm quan cho ai? Một câu danh
ngôn đại ý nói: Muốn biết một người tốt xấu ra sao ta hãy xem bạn của người
đó. Gớt - nhà thơ Đức nổi tiếng cũng nói: “Hãy cho tôi biết anh giao du với ai,
tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai”. Nguyễn Khuyến giao du với Dương Khuê.
Qua bài thơ, ông đã nhìn nhận bạn mình một cách thẳng thắn và đích xác. Cả
bài thơ là những dòng tình cảm nóng hổi, chân thành chảy tràn trề, tự nhiên
từ đáy lòng Nguyễn Khuyến dành cho bạn. Đây quyết không thể là một sự
chiếu cố.
Như trên đã nói, câu hỏi ở giáo khoa có chi tiết mà chưa đủ. Các câu
hỏi có nghiêng về nêu những biểu hiện của tình bạn mà chưa lí giải được
nguyên nhân, cơ sở của nó. Chúng tôi nghĩ đây là một mặt nội dung quan
trọng cần chỉ rõ.
Viết “Khóc Dương Khuê, ngoài tình bạn. Nguyễn Khuyến còn muốn bày tỏ một thái độ gì?”. Hãy phân tích bài thơ và làm sáng tỏ thái độ ấy của tác giả.
BÀI LÀM
“Khóc Dương Khuê” là một kiệt tác về tình bạn. Khóc Dương Khuê,
Nguyễn Khuyến còn muốn tỏ rõ một thái độ chính trị trong thời cuộc lúc đó.
Điều ấy, không hiểu vì lẽ gì, có lúc đã lọt qua mắt người đọc (như ở vài sách
giáo khoa chẳng hạn?). Muốn hiểu điều ấy cần phân tích cả bài thơ có thể
cách lý giải thỏa đáng.
Mở đầu bài thơ là cảm giác sửng sốt và “ngậm ngùi” của Nguyễn
Khuyến trước sự ra đi đột ngột và vĩnh viễn của Dương Khuê.
“Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta!”
Nguyễn Khuyến thực sự đau xót khi nhận được tin bạn mình đã mất.
“Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng tay chân rụng rời”.
“Khóc Dương Khuê” là bài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến tự dịch bài
chữ Hán của mình, bài "Văn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng Thư”.
Câu thơ trên không dịch sát nghĩa của nguyên tác là đã qua đời mà là “vội về
ngay”.
Cả bốn lần nói về cái chết của bạn. Nguyễn Khuyến đều nói tránh đi về
một mất mát đau lòng đã trở thành hiển nhiên:
“...thôi đã thôi rồi” (câu 1)
“...vội về ngay” (câu 25)
“...mãi lên tiên (câu 28)
“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở” (câu 35).
Cái chết của bạn làm sống lại trong lòng Nguyễn Khuyến một quãng
đời quạn trọng, từ những chuyện trọng đại như thi cử, làm quan đến những
chuyện phóng khoáng như thú vui con hát, cuộc rượu, câu thơ...Quãng đời ấy
gắn liền với một cuộc thế hết sức đen tối và phức tạp. Hà thành (1882), kinh
đô (1883)... lần lượt thất thủ, vua Tự Đức băng hà, triều đình chia rẽ, kẻ chủ
hòa, người chủ chiến. Hiệp ước Hác - măng (Harmand) rồi hiệp ước Pa - tơ -
nốt (Patennôtre)... Nước mất, nhà tan!
Ít nhất cũng từ khoa thi năm Giáp Tý (1864), hai người đã là bạn của
nhau, tính ra là là ba mươi tám năm cho đến ngày Dương Khuê mất. Sau các
sự kiện bi thảm năm (1883). Nguyễn “cáo quan” về ở ẩn, về vào lúc tuổi mới
năm mươi. Ông là chứng nhân lịch sử của một thời kỳ nước mất, dân nô lệ,
"... bao nhiêu sự kiện phản ảnh vào ông bao nhiêu dằn vặt, tranh đấu trong
tâm hồn ông!” (Xuân Diệu - Đọc thơ Nguyễn Khuyến - Thơ văn Nguyễn
Khuyến - NXB Văn học - Hà Nội, 1971).
Nguyễn cáo về, còn Dương ở lại. Một vấn đề nổi cộm là Dương Khuê ở
lại, cộng tác với kẻ thù dân tộc. Mặc dù họ Dương không thuộc hàng tán tận
lương tâm, trở thành tay sai đắc lực cho giặc như Nguyễn Thân, Hoàng Cao
Khải...nhưng Nguyễn Khuyến đã nhìn nhận bạn như thế nào mà đã viết một
bài thơ hay đến thế về tình bạn?
Những câu thơ dưới đây là một tiếng khóc chân thành, xưa nay từng
làm xao xuyến biết bao tâm hồn người đọc.
“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Giường treo cũng hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”.
Buồn đau da diết. Còn ai để giãi bày tâm sự - “viết đưa ai” - và còn ai
có thể hiểu được mình - “ai biết mà đưa?”. Vừa tiếc bạn, vừa đau mình cô
độc bất như ý. Nỗi đau riêng đã trở thành nỗi đau đời. Thực dân Pháp đã ngồi
yên chỗ, đại cục của đất nước coi như đã hỏng... Tác giả triết lý:
“Ai chẳng biết chán đời là phải”
Không buồn chán sao được khi cuộc đời đang điên đảo, kẻ sĩ phần lớn
biến chất, đạo lý sụp đổ, còn mình thì:
Nghĩ đến bút nghiên tràn nước mắt
Ngước nhìn sông núi xiết buồn đau.
Nguyễn Khuyến giữ một tình bạn chân thành, thủy chung. Nhưng ông
cũng có thái độ rạch ròi trong việc bạn mình ở lại hợp tác với Tây.
Trong hai mươi câu thơ (từ câu 3 đến câu 22) nói về quãng đời hai
người là bạn của nhau có một sự phân lượng có dụng ý. Mười hai câu trước
nói về đoạn đời đầu dù sao vẫn còn suông sẻ, lúc hai người tuổi xuân còn
phơi phới, ở tám câu còn lại thì bốn câu cuối (các câu 19, 20, 21, 22) nhắc lại
lần gặp cuối cùng, lần chia tay vĩnh viễn. Còn bốn câu trên (các câu 15, 16,
17, 18) là các câu Nguyễn Khuyến đã gửi gắm hết sức tinh tế và kín đáo một
thái độ chính trị trước vận hạn của đất nước:
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đẩu thăng chẳng dám than trời:
Bác già tôi củng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Cơn quốc biến, đối với người, chính là lúc “lửa thử vàng, gian nan thử
sức” (ca dao), lúc “lúc nước loạn mới biết tôi chung, nhà nghèo biết con hiếu”.
Lẽ nào lại còn “dám than” cái “phận đẩu thăng”.
Đối với kẻ sĩ chân chính, danh tiết còn nặng hơn hình hài. Cái danh tiết
này còn gắn liền với nỗi nhục của quốc gia Đại Việt. Trước họ (Nguyễn
Khuyến, Dương Khuê...) Đồ Chiểu đã nói dứt khoát:
- Thà đui mà giữ đạo nhà (Ngư tiều y thuật vấn đáp)
- Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây (Thơ điếu Phan Tòng)
Đậy nắp quan tài cho bạn, thả hòn đất xuống huyệt cho người đã khuất,
Nguyễn Khuyến cũng nói với bạn (và với đời) một lời đầy ý nghĩa:
“Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là” (câu 18).
Câu thơ trên, trong nguyên văn chữ Hán có nghĩa là “Cởi dây ấn về với
ruộng vườn”. Câu thơ dịch thanh thoát, mềm mại, chuyển tải ý nghĩa hết sức
tinh tế.
Không ai có thể dịch đúng ý tác giả hơn chính tác giả. Hơn nữa, tác giả
lại là con người “nếu ngày xưa có thi thơ Nôm thì Nguyễn Khuyến lại đoạt
thêm một cái bảng vàng tiến sĩ thơ Nôm nữa, chứ chẳng phải chơi”. (Tiểu sử
- Thơ văn Nguyễn Khuyến).
Trong thơ văn trung đại, rất hiếm có những bài thơ khóc bạn được như Nguyễn Khuyến. Hãy phân tích bài “Khóc Dương Khuê” để thấy những điểm độc đáo của nó.
BÀI LÀM
1. Nguyễn Khuyến từ trong phong cách ứng xử, sinh hoạt đến học vấn
đều tỏ rõ là một bậc túc Nho. Song thơ viết về tình bạn của ông hầu như
không vướng víu, câu nệ với nếp nghĩ và cách làm bao nhiêu nhà Nho học
vẫn quen theo. Thơ tình bạn của ông có giọng điệu thanh thoát, tự nhiên và
đặc biệt, hầu như không có màu sắc tượng trưng, ước lệ với cách dùng hình
ảnh ẩn dụ, ví von.
Hay tin bạn qua đời, ông kêu lên:
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nhớ tiếc bạn không nguôi, ông kể lại những kỷ niệm với bạn thật cụ
thể:
- Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo
- Có khi bài soạn câu văn
Biết bao động bích điểm phần trước sau.
Lời kể ở đây thật bồi hồi, xúc động, nó chỉ theo cái nhịp đập của con tim
đang thổn thức, theo cái trí nhớ minh mẫn của một người ưa cuộc sống bình
đạm.
Bác già tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là.
Muốn đi tuổi già thên nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần.
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.
Đọc những dòng này lên, ta như thấy rõ cảnh tay trong tay ân cần thân
ái của những cặp bạn già tri âm tri kỷ thuở nào. Các cụ ngồi đấy, trên bậc
thềm của những căn nhà lợp lá, dưới bóng râm của giàn mướp giàn bầu nơi
xóm mạc quê ta, vẳng lên từ đâu có tiếng gà eo óc gáy khiến cảnh quan như
thêm tĩnh lặng, êm đềm...
Rõ ràng là, chính việc sử dụng một lối viết không ngại sự kể lể, giãi bày
cụ thể, mà tránh đi những ví von khuôn sáo đã khiến cho cái hay của bài thơ,
của tình bạn trong bài này đã được tô đậm hơn lên.
2. Thơ cổ (và phần nào cả thơ bây giờ) vốn rất ngại ngùng khi dùng các
hư từ, thán từ. Bởi vì, dùng không khéo sẽ rất dễ sa vào tình trạng ẩm ở, dở
dang, như ngô như ngọng ngay.
So với người cùng thời, và nhất là so với các nhà thơ xuất thân Nho
gia, quả thực, Tam Nguyên Yên Đổ đã bình thản và mạnh dạn hơn nhiều
trong việc dùng những hư từ và thán từ này. Trong bài “Khóc Dương Khuê”,
ông đã hơn một lần dùng từ “thôi”. Đọc đi đọc lại, dẫu khó tính, cũng phải chịu
là ông dùng rất đạt:
- Bác Dương thôi đã thôi rồi!
- Bác già tôi cũng già rồi.
Biết thôi thôi thế thì thôi mới là,
Là trùng lặp đấy, là láy lại ý từ đấy, là nói chuyện đời người kiếp người,
số phận, chuyện hệ trọng đấy, mà chỉ một chữ “thôi” đặt vào trong một sự sắp
xếp đầy ý tứ, bề ngoài cứ như không, cứ nhẹ như một hơi thở nhẹ và ngắn.
Đố ai thay được chữ “thôi” ở bài này. Chữ “thôi” ấy được đưa ra, hẳn đã từ
một sự lựa chọn từ núi ngôn từ dân dã và cao sang trong bấy nhiêu năm, bấy
nhiêu cuộc đời, bấy nhiêu hoàn cảnh mà tác giả của nó từng biết.
3. “Khóc Dương Khuê” là một bài thơ nói về nỗi đau khi mất bạn. Mất,
là vì bạn đã chết, đã qua đời. Sự thực là như thế. Song có lẽ hơn rất nhiều
bài thơ viết về đề tài này từ xưa lại lại nay, tác giả của nó đã dùng một số từ
thật đắt. Những từ nói về cái chết, cái mất mát to lớn hẳn là không gì bù đắp
được ấy của Nguyễn Khuyến vừa gợi lên được cái bàng hoàng, cái đau đớn,
cái hụt hẫng trong lòng nhà thơ, lại vừa có vẻ tao nhã, thanh cao mà thật gần
chứ không một chút hệ lụy kiêu sa nào.
Ông viết, nào là: “Thôi đã thôi rồi, thôi thế thì thôi mới là” rồi lại: “vội về
ngay, mải lên tiên, bác chẳng ở...”
Chuyện đáng chú thêm là kèm theo những từ và những cụm từ, nhà
thơ không thể đế cho nỗi đau đớn của mình tự nhiên trào ức ra, cho đỡ bớt,
cho nguôi ngoai đi phần nào, mà ta như thấy có cả sự trách cứ, hờn dỗi nào
đó đối với người quá cố:
Vội vàng chi đã mải lên tiên...
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở...
Có người bảo ấy là Nguyễn Khuyến có cười cợt một tí cho đỡ đau
thương mà thôi. Còn người đọc bây giờ, cũng muốn cho rằng phải thật quý
bạn đến mức nào đó, mới viết ra được tự nhiên như vậy (mà không sợ dưới
sâu kia bạn lại mếch lòng).
Thì đây, sự tin mến quý trọng là đây:
Bạn quy tiên rồi, nên:
Câu thơ nghĩ đắn do không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Tri kỷ tri âm, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu là vậy.
Cùng với một vài câu trích trọn vẹn ở trên, bài thơ khóc bạn này của
Nguyễn Khuyến được truyền tụng, còn là vì ở đây có được cái câu hay hay
này nữa:
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
Đây là những câu có thể đứng độc lập được, như thơ ca dân gian.
LUYỆN TẬP:
1. Phân tích bài “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến để thấy rằng
đây là tiếng khóc bạn rất chân thành là thấm thìa.
2. Bình giảng những câu thơ sau:
“Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn
(...)
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là.
Anh (chị) có nhận xét gì qua cách kể kỷ niệm của Nguyễn Khuyến với
bạn? Cách kể đó thấy tình bạn của hai người như thế nào?
3. Niềm đau xót của nhà thơ về sự qua đời của bạn tập trung ở đoạn
nào? Hãy phân tích đoạn thơ ấy.
4. Hãy nói cách hiểu của anh (chị) về hai dòng thơ cuối:
“Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
5. Phân tích tâm trạng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Khóc Dương
Khuê”
6. Phân tích bài “Khóc Dương Khuê” trong mối liên hệ với những bài
thơ khóc bạn khác để thấy nét cảm động riêng của bài thơ này.
THƯƠNG VỢ
TÚ XƯƠNG
A. BÀI VĂN
Phân tích bài thơ “Thương vợ” của Tú xương.
BÀI LÀM 1
Ông Tú thương vợ bắt đầu bằng việc tính công. Đúng hơn là sự biết ơn
công lao bà Tú:
“Quanh năm... một chồng”
Ông Tú nói chuyện bà Tú buôn bán để nuôi con và nuôi mình. Cách nói
đáng lưu ý. Chẳng lẽ bà Tú chạy chợ hết 365 ngày. Ông Tú tính cả, không chỉ
quanh năm mà hết quanh năm này đến năm khác.
Cách nói cường điệu để bày tỏ lòng biết ơn bà Tú một cách triệt để.
Dân gian cũng thường nói “quanh năm tận tháng” bên cạnh “đầu tắt mặt tối”.
Đây là cách nghĩ, cách nói quần chúng để ghi công lao bà Tú về mặt thời gian
lao động. Còn cái nơi bà Tú buôn bán là “ở mom sông”. Có người cho biết:
mom sông Vị là nơi đầu chỗ sông Vị Hoàng chảy thông ra sông Nam Định.
Thời sông Vị Hoàng chưa bị lấy thì mom sông này là nơi buôn bán của bà con
tiểu thương, thuyền bè qua lại hay đậu ở đấy. Bà Tú có ngôi hàng buôn
chung gạo với người khác ở mom sông đó. Về sau, sông Vị Hoàng bị lấp.
Chốn buôn bán của bà Tú cũng tàn lụi theo. Nhưng như Xuân Diệu đã nhận
xét (ngay khi sông Vị Hoàng chưa bị lấp): “ở mom sông là cheo leo, chênh
vênh chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”. Cảnh ngộ
làm ăn như thế mà bà Tú vẫn “nuôi đủ năm con với một chồng”. Tất cả những
sáu miệng ăn. Trừ bà Tú chưa tính. Thành tích này, nói là bà Tú tần tảo vất
vả, nói là bà Tú vị tha, cao cả thì cũng là tần tảo vất vả, cũng là vị tha, cao cả
hết mực. Nhưng ở đây, nói là sự việc là bất công, vô lý thì cũng là hết mực vô
lý bất công. Đẻ con ra, có ít đâu. Những năm đứa. Phải nuôi chúng khôn lớn.
Trách nhiệm đó là của bà Tú. Dĩ nhiên rồi. Nhưng anh chồng “trên đồng cạn,
dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” đâu? Thì ở đây làm gì có.
Ông Tú không phải là loại chồng đó. Ông là loại chồng “tiền bạc phó cho con
mụ kiếm”, loại chồng “thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”. Ông Tú đã không
cùng bà Tú nuôi con đã đành. Mà như có kẻ ác khẩu đã châm biếm: Ông còn
là một “thứ con” đặc biệt đế bà Tú nuôi riêng! Đoảng thế là cùng! Chế độ xã
hội cũ đã sản sinh ra loại chồng đoảng, loại ông chồng “dài lưng tốn vải ăn no
lại nằm” như ông Tú không ít.
Nhưng ở ông Tú, có một điều này là khác, là rất khác: Ông tỏ ra biết
nhận lỗi, biết đền bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng. Cái thái độ của Tú
Xương trở nên dễ thương ở điểm này. Bài thơ của Tú Xương hay bắt đầu từ
điểm này. Ông nói chuyện bà Tú nuôi con đã đành, mà còn là nuôi mình, nói
theo kiểu nói toạc, không một chút ngượng bút, ngượng miệng, lại như vừa
nói vừa tủm tỉm cười, tự trách sao mình vô tích sự, lại để vợ phải nuôi. Việc
nuôi chồng của bà Tú, có thể là ông chưa xem là sung sướng. Cái cảnh “Cơm
hai bữa; cả kho rau muống; quá một chiều: khoai lang lúa ngô” thì có gì là
sung sướng, chắc còn xa sự sung sướng. Nhưng xem ra ông Tú đã không
dám đòi hỏi gì hơn. Ông đã thấy vui, đã ra vẻ bằng lòng, và đặc biệt là đã
cảm cái ơn của bà Tú lắm lắm rồi. Và do như thế mà ngay trong cặp thơ đề,
hình ảnh bà Tú đã thấp thoáng hiện lên lớn, đẹp vô cùng. Cả đám cha con
ông Tú sống trong sự cưu mang của bà Tú, tựa như đàn gà con đang được
“mẹ gà ấp ủ”. Văn chương chữ nghĩa của ông Tú ở đây đơn giản mà thân
tình đến kỳ lạ, có sức gợi phong phú vô cùng. Ông nói: “Nuôi đủ năm con với
một chồng”, nói như nói chơi mà ý tình sâu nặng, chân thành biết bao nhiêu.
Ông Tú không gộp sáu cha con lại mà nói. Ông nói “năm con” riêng, “một
chồng” riêng. Như thế là vì con ơn mẹ là chuyện con với mẹ đã đành. Còn
phần ông, ông chịu ơn vợ thì ông phải nói riêng ra cho thật rõ, nói riêng ra để
khỏi mập mờ dù là một chút. Cũng như trong ý thơ, ông không tính đến bà
Tú. Chỉ nói chuyện bà “nuôi đủ năm con với một chồng”. Không tính đến bà
thì cái lòng vị tha, cái công lao của bà càng thêm rõ. Mà cái lòng tri ân của
ông - thay mặt cả lũ trẻ con năm đứa nữa - đối với bà Tú cũng càng rõ thêm.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
Hai câu thực gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp hàng ngày của bà
Tú. Chẳng hay ông Tú dã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông, gánh
gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”, từ bao giờ? Qua tiếng ru con của một bà
mẹ láng giềng hay chính là ru Trần Tế Xương của bà cụ Nhuận? Chắc chắn
từ “Con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh những bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong
xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc để nuôi chồng con cũng từ
lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa
thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đến bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy
vỗ cánh bay và thi hứng “Thương vợ” của Tú Xương. Ca dao xưa nói: “Con
cò lặn lội bờ sông”, trông đã vất vả, tội nghiệp. Con cò của ca dao lặn lội bờ
sông. Khung cảnh đã mênh mông, heo hút đến rợn người. Trong thơ ông Tú,
có cái rợn ngợp của không gian, lại còn thêm cái rợn ngợp của thời gian. “Lặn
lội thân cò khi quãng vắng”. Chép như thế, dễ thường mất đi cái hoang vắng
của thời gian làm mất đi cái khối hình của ý thơ. Ca dao nói: “Con cò lặn lội”.
Tú Xương chuyển lại thành “lặn lội thân cò”. Hai từ “lặn lội” chen lên đứng đầu
câu. Cảnh lặn lội lại càng lặn lội. Ca dao nói con cò, Tú Xương nói “thân cò”.
Ý thơ cứ xoáy sâu vào sự cực khổ. “Thân” trong ngôn từ văn chương tiếng
Việt trước hết là chỉ cái thân thế con người “Vai năm tấc rộng thân mười
thước cao”. (Truyện Kiều). Nhưng còn là chỉ một đời người, một kiếp người
“Thân này ví đổi thành trai được, sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” - Hồ
Xuân Hương: “Thân lươn bao quản lấm đầu, chút lòng trinh bạch từ sau xin
chừa” (Truyện Kiều) mà nói chung trong văn học xưa là đau khổ, là ê chề, tủi
cực. Tú Xương đã nghĩ kiếp đời bà Tú bằng thứ ngôn ngữ có độ dày của giời
gian, của truyền thống đó. Trong câu thơ, “thân cò” không “khóc nỉ non”. Bởi ở
đây sự gian khổ đang được nén xuống. Nhưng càng nén lại càng đau. Câu
thơ đó vẫn bị rỉ rả tiếng khóc cho thân cò. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Tú
Xương đã nâng cái tầm khái quát con cò trong ca dao từ ngàn xưa lên một
mức để nói cho hết tấm lòng thương cảm da diết của mình đối với cuộc đời
làm ăn vất vả của bà Tú. Câu thơ trở thành như một bức họa phác thảo về
một người dàn bà mỏng manh, gầy guộc, lúi húi một mình kiếm sống giữa
cuộc đời trơ trụi. Cái cảnh bà Tú lặn lội sớm khuya để nuôi chồng nuôi con
giữa cái thời buổi “sống chết mặc bây”, cái thời buổi nghĩa tình đã bạc quá
vôi, chính là người đàn bà trong bức họa phác thảo đó.
“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Ý tình của thơ đúng là đang triển khai. Câu thực thứ nhất mới nói cái
vất vả, cái cô đơn. Câu thực thứ hai này nói rõ thêm cái vật lộn. Vật lộn là có
chuyện đụng chạm đến người chung quanh, đến xã hội rồi. Có sách chú
thích: “Cứ buổi trưa hay chiều có chuyến đò chở những người đi buôn gạo ở
những chợ Thông, chợ Quán (bên kia bên Tân Đệ) về quán bánh dày ở đầu
tỉnh Nam là nơi bán gạo. Quán bánh dày quen gọi là “Mom”, những người này
thường eo sèo với nhau là bán đắt bán rẻ. Có sách lại chú thích: “Eo sèo là kỳ
kèo mặc cả, cãi cọ nhau”. Đúng đây chưa phải là cảnh cạnh tranh cuớp giật
gì nhau ghê gớm, càng chưa phải cái cảnh “cá nuốt cá”, “tre buộc tre” trong
bọn thống trị với nhau và giữa bọn thống trị đối với dân lao động bị áp bức
trong xã hội đó. Cảnh làm ăn của lớp tiểu thương như bà Tú với nhau trong
xã hội cũ về bản chất không có như vậy. Ở đây, trước hết, chỉ mới là sự chen
chúc. Vì cái sống mà phải chen chúc. Chen chúc với nhau trên những chuyến
Đi sâu vào cảm xúc nhà thơ, mùa thu lại hiện ra đặc sắc hơn bao giờ
hết: “Hơn một loài hoa đã rụng cành”. “Sắc đỏ rũa màu xanh”, “luồng rung rẩy
rung rinh lá...” Tác giả đón nhận và cảm nhận bằng trực giác. Cái lạnh trong
lòng đã khiến nhà thơ tưởng như “Những luồng rung rẩy rung rinh”. Luôn luôn
thường trực trong Xuân Diệu ấy là nỗi buồn cô đơn cùng với nỗi niềm cô
quạnh để rồi chỉ thấy trong mùa thu “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Từ “hoa lá cành” tác giả đi vào “trăng sương gió” vẫn long lanh đọng theo
những giọt buồn. Toàn thân nhà thơ run lên, những xúc cảm mạnh mẽ, lan
tỏa và thấm đẫm vào thiên nhiên. Một cảm giác lạnh lẽo, chợt ùa về, chợt
xâm chiếm, chợt ngưng đọng và tan ra... Nếu Đây mùa thu tới đẹp trong cái
tang tóc của thiên nhiên giữa những dự cảm giao mùa của Xuân Diệu thì với
Nguyệt Cầm một ấn tượng siêu thực, bao trùm lên tất cả khiến ta ớn lạnh:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, thương nhớ, hỡi trăng ngần”
Trăng đẹp quá, đẹp lộng lẫy đến lạnh lùng, một cái lạnh da diết nhập
vào năm từ “trăng” “nguyệt” không đủ sức chứa trong haị câu thơ, cái lạnh ấy
lan tỏa vào đất trời, vào tâm hồn thi nhân đang mở rộng lồng mình. Điệp từ
“trăng” xoáy sâu vào lòng người tạo nên một ấn tượng, một niềm cảm xúc
mãnh liệt và da diết nhất. Trăng đẹp bởi trăng lạnh do tiếng đàn ngân nga, réo
rắt. Trăng hiện ra và trăng in đậm:
“Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Linh lung bóng sáng bỗng rùng mình”.
Bầu trời trong vắt, trong như thủy tinh, sáng như thủy tinh nhưng cái
trong ấy chỉ làm tăng thêm cái lạnh, lạnh của đất trời nhưng lại gây u ám cho
lòng người. “Bóng sáng bỗng rung mình” ở đây có từ chuyển đổi từ thị giác
sang xúc giác, cái lạnh của thiên nhiên hay chính cái lạnh của tác giả khiến thi
nhấn ớn lạnh, rùng mình, lại thêm “đàn ghê như nước lạnh”... Như làm nổi bật
hai cái hoang vắng, hiu hắt, lạnh lẽo của thiên nhiên “dấu phẩy ngắt giữa
nước và lạnh như một cái rùng mình giữa hai lần lạnh”. Cảm giác ngày một
tăng lên, cái lạnh ngày một thấm sâu trong tâm hồn và trải rộng ra cùng đêm
khuya lặng ngắt:
“Bón bề ánh nhạc: biển pha lê;
Chiếc đảo hồn tôi rợi bốn bề...
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao khuê”
Tất cả các hình ảnh “bốn bề, rợn bốn bề, làm thinh, nín thở...” đã tạo
nên cái tĩnh cho cả khổ thơ nhưng lại khuấy động cảm xúc tưởng đã trầm
lặng của nhà thơ. Hai từ “bốn bể” được đặt đầu câu thứ nhất và cuối câu thứ
hai đã gói trọn tâm hồn tác giả trong ngoại cảnh làm tăng thêm nỗi cô đơn.
Nhà thơ chơi vơi theo tiếng đàn, lơ lửng cùng ánh “nguyệt tỏ ngời”, vươn tới
một thế giới không tưởng “sao Khuê”, thế giới của tâm linh đẹp, huyền ảo và
cũng thật lạnh. Nguyệt cầm ngoài sự hòa hợp giữa trăng và tiếng đàn còn có
tiếng nói chung của nhà thơ thiên nhiên - đêm thu. Cảnh giác lạnh, hình
tượng đẹp, trong như “pha lê” đã theo suốt chiều dài câu chữ như một sự hòa
hợp thú vị. Chỉ với mùa thu, vậy mà biết bao trạng thái tình cảm, đã làm trái
tim tác giả rung động. Xuân Diệu nói bằng âm thanh, hình tượng của thiên
nhiên và bằng cả tiếng lòng sôi nổi thương yêu tha thiết, mãnh liệt của mình.
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ. Thơ duyên ấy là cái
mộng mơ trong sáng của một con mắt đang yêu:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”
Lời thơ đẹp trong là sự huyền diệu của vạn vật trong mối giao duyên
(đất trời, đất - trời, cây - chim) và mối lương duyên đang hé nở trong lòng
người. Màu xanh của lá, màu xanh của trời, màu xanh trong mắt thi nhân,
màu xanh trong tâm hồn và suy nghĩ. Tất cả đã làm nên một ước vọng: Hồn
thu. Nhưng thật bất ngờ, thoáng chút buồn thoảng qua đã khiến thiên nhiên
buồn trở lại, xa vắng, cô liêu.
“Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng trở chiều.”
Thì ra không phải thiên nhiên mà do một tình cảm mới lạ lùng đang
xâm chiếm tâm hồn. “Gió xiêu xiêu” khiến con đường cũng “xiêu xiêu” là bởi
tâm hồn nhà thơ cũng “xiêu xiêu”. Chỉ trong hai câu thơ mà có tới ba từ láy,
ba từ láy hoàn toàn “nho nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả”. Cái gì cũng nghiêng đi như
chính tình cảm của nhân vật trữ tình đang xao xuyến, ngây ngất trong tình
yêu.
“Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em”
Mở đầu bài thơ là”Chiều mộng hòa thơ” nhưng đến kết thúc đã đột ngột
trở thành “chiều hôm ngơ ngẩn”. Phải chăng đó chính là tâm trạng, là nỗi lòng
đang trắc trở băn khoăn, ngẩn ngơ của chính tác giả trước mùa thu? Bài thơ
là sự thay đổi của tâm trạng trữ tình làm thiên nhiên cũng thay đổi. Đó chính
là sự phức tạp trong cảm xúc của Xuân Diệu nhưng lại có sự nhất quán trong
tư tưởng và cách biểu hiện. Thiên nhiên đẹp một cách dịu dàng trong mối
giao hòa đầy chất thơ. Độc đáo và tài hoa, ấy là Xuân Diệu và hồn thơ Xuân
Diệu.
Nhanh hơn, gấp gáp hơn, Vội vàng - đúng như nhan đề - đã khơi sâu
một cảm giác mãnh liệt, một tư tưởng sống hết mình, sống là mình.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Xuân Diệu mang cảm hứng thời gian và ý thức cá nhân vào mùa xuân.
Từ gốc độ cá nhân, tác giả nhìn sự biến thiên của sự vật. Điệp từ “ta muốn”
thể hiện một ước vọng, một khát khao đến cháy bỏng, đến nao lòng. Mùa
xuân tươi đẹp, mùa của tình yêu đã đến.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si”
Tác giả có quyền ao ước hạnh phúc. Mùa xuân đã ban phát niềm vui
cho tất cả, và Xuân Diệu - nhà thơ của tình yêu ấy - yêu đến say mê cuồng
nhiệt đã giao cảm với đất trời để thấy mình trong đó. Nhà thơ có cảm nghĩ
thật đặc biệt:
“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Với việc thu ảnh hưởng của văn học phương Tây trong cách dùng từ
ngữ hình ảnh (này đây, này đây) với một tình yêu mãnh liệt luôn thường trực
trong lòng, Xuân Diệu đã qua thiên nhiên nói lên tình yêu cuộc sống tha thiết
đến vồ vập “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Đây là sự thăng hoa của
ấn tượng cảm xúc nồng nàn và say mê. Tác giả yêu mùa xuân, mùa của tình
yêu, như đã bao lần gán cho nó hình ảnh người phụ nữ:
“Lá liễu dài như một nét mi
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Xuân Diệu luôn bộc lộ một cách trực diện những cảm nghĩ của mình.
Điều đó khiến ông khác với các nhà thơ khác, nhất là các nhà thơ thời trước,
khiến thơ ông thu hút và làm say mê biết bao tâm hồn. Vội vàng là bài thơ viết
về mùa xuân, ở đó bùng lên một ngọn lửa sống nồng ấm mãnh liệt, gấp gáp
và tươi vui, sống cho mình và cho mùa xuân của đất trời, của mọi người.
Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu có những nét đặc sắc, độc đáo. Mùa xuân
cũng như mùa thu hay buổi giao mùa, thơ Xuân Diệu vẫn khắc họa đậm nét
cá tính và tình yêu của ông. Thiên nhiên buồn hay vui, trầm lắng hay sôi nổi
đều đi qua con mắt thẩm mĩ giao cảm mới mẻ của Xuân Diệu. Thơ ông là
tiếng lòng ông, thiên nhiên là tâm sự khỏa lấp khoảng trống trong tâm hồn
ông. Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu, thiên nhiên là hình thức biểu hiện của
tình yêu đó, là nơi ông gửi gắm tâm trạng, những ý nghĩ khiến ông trăn trở.
Khi ông thất vọng cô đơn, thiên nhiên lạnh lẽo trầm lắng, khi ông vội vã sống,
vội vã yêu, thiên nhiên tươi sáng chan hòa. Tuy nhiên nếu như để tâm hồn
mình cũng ngập chìm trong đó, ta sẽ thấy vương vấn man mác một nỗi buồn
mới nhìn tưởng như là muôn thuở nhưng nhìn kĩ thì nó mang dấu ấn của một
lớp người, của một thời đại đã qua có thể được sự cảm thông của nhiều thế
hệ sau.
TRẦN LIÊN HƯƠNG
B. LUYỆN TẬP
1. Thông qua phân tích một số bài thơ của Xuân Diệu sáng tác trước
1945 hãy chứng minh nhận định của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh:
“Nhìn một cách tổng quát, toàn bộ sự nghiệp văn học của Xuân Diệu,
thấy có một tư tưởng chi phối tất cả, ấy là một niềm khát khao giao cảm với
đời - cuộc đời hiểu theo nghĩa chân thật và trần thế nhất”. (Văn 11 - Sgk).
2. Trong thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết:
“Không cần phải là con hổ ngự trị trong rừng xanh, không cần phải là
con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột của
Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung
động tinh vi:.
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua bài thơ “Đây mùa thu tới”
và “Thơ duyên” của Xuân Diệu.
ĐÂY MÙA THU TỚI
A. BÀI VĂN
Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
DÀN BÀI
I. YÊU CẦU CHUNG
Thí sinh phải nắm vững yêu cầu của đề về thể loại và nội dung. Và thể
hiện được khả năng đó trong bài làm của mình. Đề yêu cầu bình giảng một
đoạn thơ, khi bình giảng đoạn thơ thí sinh phải nêu được nội dung cần giảng,
bình của đoạn và nêu được quan hệ giữa đoạn thơ bình giảng với toàn bài,
chú ý khám phá các dấu hiệu nghệ thuật và khai thác giá trị của đoạn thơ.
II. YÊU CẦU CỤ THỂ:
1) Giới thiệu vài nét về nhà thơ Xuân Diệu và đoạn trích cần bình giảng
trong mối quan hệ với toàn bài thơ “Đây mùa thu tới”.
a) Xuân Diệu là nhà thơ xuất sắc của thơ ca lãng mạn Việt Nam thời kỳ
1930 - 1945. Thơ Xuân Diệu lúc này bộc lộ lòng yêu cuộc sống yêu con người
và khát khao hạnh phúc. Ông là một hồn thơ nhạy cảm với đời với thiên
nhiên, Thơ Xuân Diệu là tâm hồn Xuân Diệu, luôn luôn mở rộng để đón nhận
hương sắc muôn màu của cuộc sống, từ cảm sắc tươi đẹp của thiên nhiên
đến những cảm giác u uẩn trong lòng người. Từ mối giao hòa cùng thiên
nhiên Xuân Diệu đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, một trong số đó là bài “Đây
mùa thu tới” viết trước cách mạng (1938). Đoạn thơ bình giảng là đoạn đầu
của bài “Đây mùa thu tới”.
b) Cả bài thơ gợi tả phong cảnh khi mới chớm vào mùa thu, mang nỗi
buồn của mùa thu, buồn mà đẹp.
2) Bình giảng đoạn thơ:
a) Hai câu thơ đầu:
a1) Hai câu thơ mở đầu gợi cảnh buồn. Cái buồn của lòng người thấm
vào cảnh vật.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
a2) Liễu vẫn là một thi đề quen thuộc trong thơ cổ, thơ Đường tượng
trưng cho vẻ đẹp duyên dáng mềm mại của người thiếu nữ. Nhưng cái mới
của nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu là ở chỗ đem lại cho liễu một dáng hình cụ
thể, một tâm hồn con ngưòi và một nỗi sầu muộn rất người. Liễu nghiêng
mình “đứng chịu tang”, lá buông dài như làn tóc mây, khi lay trong gió chớm
thu về và buồn hơn nữa là lệ tuôn tiếp nối.
a3) Hình ảnh “rặng liễu” xuất hiện ngay đầu bài thơ trong dáng “đứng
chịu tang” là gợi nên một cảm giác nặng nề, dằn vặt. Hãy chú ý sự tưởng
tượng phong phú của thi nhân: dáng liễu mềm buông rủ như những cô thiếu
nữ xỏa tóc, tuôn lệ trong một khung cảnh buồn bã đìu hiu. Câu thơ chưa nhắc
đến thu mà người đọc đã chớm nhận ra thấp thoáng bóng thu sang.
b) Hai câu thơ tiếp theo:
b1) Hai câu thơ tiếp theo như một tiếng reo thầm khi mùa thu đột ngột
hiện ra trong màu áo mơ phai dệt lá vàng. Một niềm vui chợt đến nhẹ nhàng
một chút yêu đời, yêu cuộc sống:
“Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
Nếu âm điệu trong hai câu thơ đầu thật buồn, thật trầm thì đến đây lời
thơ biến đổi, êm đềm hơn, trau chuốt hơn với điệp khúc “mùa thu tới” âm
vang như tiếng chào thân quen vồn vã nhưng ít nhiều có nhuốm vẻ thảng thốt
bâng khuâng, bởi nhà thơ thấy “mùa thu tới” không chỉ một mình mà còn
mang theo cả sắc “lá vàng” dệt từ lớp áo mong manh phai nhạt của trời thu.
Hai câu thơ thật đẹp với sự lan tỏa của các âm tiết vang tạo thành tiếng nhạc
du dương để phần nào xua đi không khí âm u: mấy câu thơ đầu và gieo vào
lòng ta một cảm giác mơ hồ xôn xao.
- Mùa thu đến trong dáng vẻ tươi sáng, thanh nhẹ. Nhờ vậy mà đoạn
thơ có buồn nhưng không hiu hắt, bi thương...
b2) Mùa thu tới là một thi đề quen thuộc của nhiều thế hệ thi sĩ. Mùa
thu khơi dậy nhiều cảm xúc đánh thức mọi giác quan tinh tế của con người:
“Ngô đồng nhất diệp lạc. Thiên hạ cộng tri thu” (Ngô đồng một lá rụng - thiên
hạ đều biết thu). Đã là thi sĩ, không ai có thể vô tình không nói đến cảnh thu.
Thế kỷ trước, nhà thơ Yên Đổ đã vang danh trong văn học với ba bài thơ mùa
thu trác tuyệt. Sang đầu thế kỷ XX, Tản Đà cũng bùi ngùi mượn tiếng tỏ sầu
“cảm thu, tiễn thu”. Đến lớp thi nhân cùng thời Xuân Diệu, mùa thu là cả một
nỗi niềm riêng của mỗi người. Trước cách mạng bao giờ thu cũng đẹp mà
buồn: Khi thì man mác, bâng khuâng (Thu rừng - Huy Cận); khi thì huyền
diệu, kì ảo (Tiếng trúc tuyệt vời - Thế Lữ); khi thì lạnh lùng, chán chường (Thu
- Chế Lan Viên); khi ngỡ ngàng ngơ ngác (Tiếng thu - Lưu Trọng Lư).
b3) Trong âm hưởng của tiếng đàn thu muôn điệu ấy bài thơ thu của
Xuân Diệu vẫn có nét riêng. Cái tài tình của thi nhân là nói đến một đề tài
quen thuộc nhưng không trùng lặp sáo mòn và chắc chắn rằng màu “mơ phai”
của Xuân Diệu để lại những ấn tượng không thể mờ phai, nó khác với màu
vàng của thơ Nguyễn Du, khác với chiếc lá vàng trong thơ Nguyễn Khuyến và
không gian vàng tuyệt diệu của Bích Khuê:
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: thu mênh mông”
3) Tóm lại:
Đoạn thơ có vị trí quan trọng trong bài thơ. Mùa thu của Xuân Diệu hiện
ra với những hình ảnh, màu sắc, âm thanh biến ảo lạ lùng, ẩn chứa những
cảm xúc tinh tế của một tâm hồn Á đông trước thiên nhiên - cảm xúc ấy lại
diễn tả bằng một ngôn ngữ mới lạ hiện đại. Đúng như có người nói: “Xuân
Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình giữa con người và con người,
giữa con người với thiên nhiên”.
Bức tranh chuyển mùa trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu tinh tế và gợi cảm. Hãy phân tích và chứng minh để nêu rõ: Đây là bức tranh thu tiêu biểu của thơ lãng mạn 1930 - 1945.
BÀI LÀM
Nhà thơ thường dễ nhạy cảm với sự đổi thay của đất trời. Với Xuân
Diệu, một nhà thơ mới, một nhà thơ lãng mạn tiêu biểu lại càng không dễ bỏ
qua sự biến đổi diệu kì của hai mùa xuân, thu. Đó là hai mùa tồn tại duy nhất
trong ý niệm của nhà thơ. Bởi thế, thơ viết về thu của Xuân Diệu khá nhiều.
“Đây mùa thu tới” không chỉ là một bức tranh chuyển mùa tinh tế và gợi cảm,
nó còn là một tâm hồn tiêu biểu cho thời đại lãng mạn 30 - 45. Đất trời và con
người của một thời đã được Xuân Diệu ghi lại trong bài thơ thu đầy lãng mạn
đó.
Dường như thơ viết về mùa thu đã rất nhiều, trước Xuân Diệu và cả
sau này nữa. Sức hấp dẫn của mùa thu nơi đồng bằng Bắc bộ đã khiến
Nguyễn Khuyến không khỏi làm ngơ và cho ra đời chùm thơ thu nổi tiếng.
“Đây mùa thu tới của Xuân Diệu cũng chính là sự kế thừa truyền thống đó,
tuy nhiên đã được nhà thơ thổi vào đấy nét mới mang âm hưởng của thời đại.
Bài thơ cổ điển vừa hiện đại, vừa mang cái buồn của ông cha lại vừa có tiếng
reo vui của thế hệ trẻ trước sự giao mùa của thiên nhiên. Quan niệm về thời
đại thiên nhiên và thời gian đời người đã ảnh hưởng lớn tới sáng tác của các
nhà thơ; khi hè đã qua mà đông thì chưa đến, “nằm áp giữa hai khối khí nóng
lạnh đó, thu là một lãnh thổ bị lấn cả đôi đầu nên hay có những trở trời”. Hơn
nữa, thu là khoảnh khắc ngưng kì diệu để cho sự vật lần cuối được bừng sắc
để rồi đi vào héo úa. Các nhà thơ xưa không làm ngơ trước “phút an lạc vĩnh
hằng” này và đã nương gửi cái hài hòa của tâm hồn mình với đất trời thường
là những nỗi buồn mang tính suy tưởng, triết lí nhưng lại không bộc lộ rõ mà
nấp sau bộ mặt buồn mênh mang, khiến người đọc thơ có cảm giác buồn lây
mà vẫn mặc nhiên chấp nhận nó, không cần giải thích. Với Xuân Diệu thì
khác, nhà thơ có phản ứng mạnh với các thay đổi của mùa thu. “Đây mùa thu
tới” tuy vẫn tiếp mạch buồn của thơ thu cổ nhưng đã biến tấu theo chủ quan
của tác giả và theo thời đại, vì thế bài thơ không đơn thuần là sự báo mùa,
mà còn là sự hối thúc của thời gian.
Thời đại của Xuân Diệu là thời đại của hy vọng nhưng cũng là thời đại
của thất vọng. Xã hội có những “rung chuyển” mạnh mẽ đã hất con người ra
khỏi những mối quan hệ tự nhiên - xã hội - con người, chưa tìm được vị trí
cho mình trong cuộc đời. Thời đại 30 - 45 là thời đại các nhà thơ tỏ ra bơ vơ,
cô độc, lạc lõng và nháo nhác đi tìm chỗ đứng của mình trong cuộc đời. Khi
Xuân Diệu nói về Tản Đà, hẳn ông cũng có nghĩ cho cả mình: “Mọi cái cũ đã
phá đi và chưa có chút gì của cái mới thay thế; con người chỉ là một cái gì sẽ
có thật trong tương lai và là một ảo ảnh của hiện tại”. Đó là lúc con người tự ý
thức rõ cá nhân mình, tự khám phá, bộc lộ mình để mong tìm gặp những tâm
hồn đồng điệu.
Cái “tôi” trong “Đây mùa thu tới” được biểu hiện trong tiếng reo vui:
“Đây mùa thu tới! Mùa thu tới”, tiếng reo được buột miệng rất tự nhiên, hứng
khởi, quên đi cả truyền thống buồn của thơ thu, vì thế, ngay sau đó là sự
chữa lại: “Với áo mơ phai dệt lá vàng” giọng thơ chùng xuống, trầm lặng một
cách o ép. Cũng từ đây, giọng văn mất hẳn sự xôn xao, reo vui đón nhận giao
mùa, chủ đề trữ tình cũng “lặn” mất hay đúng hơn biến sang một dạng khác
để dễ bày tỏ hơn. Nếu chủ thể tình bộc lộ mình một cách trực tiếp qua niềm
vui khám phá đón nhận mùa thu ở trên thì ở khổ dưới, một cách gián tiếp chủ
thể trữ tình đã phải khép mình lại, ý tứ hơn với những “nàng trăng tự ngẩn
ngơ”, “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói”. Trong cái tự ngẩn ngơ kia chưa hẳn
đã là quên đi mà chính là nhớ đến. Trạng thái ngẩn ngơ có thể chỉ trạng thái
giả, thực tế thì vẫn rất nhạy cảm. Nếu ngẩn ngơ thật thì sẽ không bao giờ
thấy được: “non xa khởi sự nhạt sương mờ” không nghe được “rét mướt luồn
trong gió” và không cảm được “đã vắng người sang những chuyến đò”. Cái
tôi vẫn ẩn nấp đâu đấy chứ chưa hề mất hẳn. Hai câu cuối cùng:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì
chủ đề trữ tình trở lại xuất hiện lần nữa dưới dạng một chủ đề khác nhưng
vẫn tiếp nối mạch cảm xúc ở câu trên. Nếu ở trên là “tự ngẩn ngơ” thì ở câu
này lại là “buồn không nói”. Không nói nhưng lại nghĩ rất nhiều. Khác hẳn với
câu thơ của khổ đầu reo vui, hoan hỉ, câu thơ này mang nét người lớn hơn,
mặc dù vẫn là cái lớn ngượng ngập, kiểu cách của các thiếu nữ: Điệu tựa cửa
nhìn xa và nghĩ ngợi có vẻ già nua nhưng lại “nghĩ ngợi gì” cũng như “tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn” mà thôi. Ta sẽ thấy mức độ cảm xúc của cái
“tôi” trong bài giảm dần, lúc đầu còn cất lời hồ hởi, phấn chấn, sau đó là trạng
thái trẻ con nhưng điệu đàng hơn “tự ngẩn ngơ”, cuối cùng là nét trầm mi lộ rõ
trên khuôn mặt “buồn không nói” của thiếu nữ. Phải chăng đó là cá nhân
muốn khám phá, được bộc lộ còn chưa đúng lúc đúng chỗ. Hoài Thanh gọi
thời đại 30 - 45 là “thời đại chữ tôi” không phải là vô cớ. Hàng trăm định nghĩa
về “tôi”: “Tôi là khách bộ hành phiêu lãng” hay “Tôi chỉ là một khách si tình”,
lúc thì “Tôi là chim non đến từ núi lạ”... Nhiều cái tôi xưng danh nhưng tất cả
đều giống nhau ở sự cởi mở, tự cho mình thoát khỏi những ràng buộc. Đây là
nét đổi thay táo bạo trong thơ ca Việt Nam bởi trước đó, trong tư tưởng của
nhà thơ cổ không hề có quan niệm về cái tôi như thế mà chỉ là cái “ta” chung
chung. Tuy nhiên, trong “Đây mùa thu tới” Xuân Diệu đồng thời thể hiện cái
“tôi” song vẫn e ngại, dè dặt nên hay nói khéo, nói tránh. Điều này cũng dễ
hiểu bởi vì sau quan niệm thơ tự do, cởi mở, lãng mạn này chỉ phát huy được
trong phạm vi thế giới tình cảm, chứ chưa nhập vào sự đa dạng thực sự của
đời sống. Ngay cách gọi “nàng trăng" cũng chỉ được sử dụng giới văn nghệ sĩ
chưa phổ biến bởi nó có vẻ gì điệu đàng, câu chữ Xuân Diệu được coi là nhà
thơ mới nhất trong các nhà thơ mới và lãng mạn nhất trong các nhà thơ mới
cũng bởi lối dùng từ, lối cảm thụ văn chương của ông ở mức khác hẳn mọi
người. “Hơn một” là bao nhiêu? “ít nhiều” là bao nhiêu? Cách nói của nhà thơ
không khỏi gây ngỡ ngàng cho mọi người. Đã thế lại thêm “trong vườn...
rủa... xanh” rồi thì “những luồng run rẩy rung rinh lá”, hàng loạt âm "r" tạo cảm
giác lành lạnh đang xâm nhập vào chính cơ thể mình và chứng tỏ một con
mắt nhìn tinh tế, một khám phá mới lạ. Ta nhớ đến những câu thơ khác của
Xuân Diệu:
Cây bên đường, trụi lá đứng tần ngần
Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái
Và giữa vườn mi, hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo rụng rơi.
(Tiếng gió)
Ở Xuân Diệu cũng như ở nhiều nhà thơ khác, mùa thu thường choáng
một chỗ đặc biệt trong thơ. Không chỉ riêng mình Xuân Diệu “buồn không nói”
mà nỗi buồn ấy tồn tại trong “vô thức tập thể” của cả một lớp người. Có người
gọi đó là thứ “bệnh thời đại”, đó là bệnh muốn được khẳng định, bệnh cảm
thấy bơ vơ, lạc lõng, không có chỗ đứng hay chưa tìm được cho mình chỗ
đứng trong cuộc đời. Bởi vậy, cá nhân cô đơn phải tự tìm lấy phương thuốc
của mình, tự chữa cho mình. Với Xuân Diệu, ông đã khám phá, tìm ra nét mới
của mùa thu. Các nhà thơ khác cùng có cái nhìn mới về mùa thu, nhưng chỉ
có Xuân Diệu nói lên lời rằng: “Với lòng tôi trời đất chỉ có hai mùa: Xuân và
Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh”. Nhiều chi tiết rất lãng mạn
trong bài “Đây mùa thu tới”, đây cũng chính là xu thế chung của thời đại 30 -
4. Các nhà thơ đi tìm cái tinh tế và lãng mạn nhất để qua đó bộc lộ mình. Với
Thế Lữ thì:
Mắt lệ đắm trông niềm cách biệt,
Phút giây chừng mỏi gối phiêu lưu...
Với Lưu Trọng Lư thì:
Biết sao trái được tính trời
Giang hồ cốt ấy trọn đời phiêu linh...
hay là Nguyễn Bính:
“Giếng thôi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Nhưng tất cả không bằng được Xuân Diệu khi ông nói:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Lung linh bóng sáng bỗng rùng mình.
Thơ lãng mạn 30 - 45 là cuộc đi tìm kiếm cái đẹp. Với “Đây mùa thu
tới”, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp tự nhiên của mùa thu mà bấy lâu bị
mọi người nhìn nó bằng con mắt buồn buồn. Bức tranh thu đẹp bởi sức
tưởng tượng mới lạ của Xuân Diệu và hấp dẫn bởi từng chi tiết tinh tế. vẫn là
những chất liệu thơ ca quen thuộc khi ông dùng lá, trăng, chuyến đò, mây
trời, chim chóc, có điều nó được sử dụng theo lối nói khác hẳn, thiên nhiên
không nhất nhất là chuẩn mực cho con ngưòi nữa mà con người đã trở thành
nét tiêu chuẩn để nói về thiên nhiên. Khổ thơ đầu nói đến rặng liễu nhưng
cách nói như đang hướng người đọc nhìn về một cô gái buồn rượi. Lá liễu rủ
vừa được xem là “tóc buồn buông xuống”, vừa được ví là “lệ ngàn hàng”. Lối
so sánh thiên nhiên - con người này khá phổ biến ở hiện đại thơ lãng mạn.
Anh Thơ trong “Bến đò ngày mưa” cũng nhân hóa thiên nhiên như thế:
Tre rũ rượi ven bờ chen ướt át
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa.
Nói đến trăng, Xuân Diệu cũng tiếp mạch ví von ấy chứ không chỉ nhắc
một cách chung chung “bóng trăng”, “trăng sáng”... mà cụ thể cả cách gọi lẫn
cách tả trăng:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ.
Xuân Diệu nói đến mùa thu nhưng không chỉ nhắc đến sắc vàng vọt
của thu nữa mà ông đã mở rộng tầm nhìn để thu về những màu sắc khác làm
thay đổi không khí thu bấy lâu. Ngoài sắc áo vàng còn có màu “áo mơ”, đỏ,
xanh...
Trong màu sắc đỏ rũa màu xanh.
Nói đây là bài thơ tiêu biểu của thơ ca lãng mạn 30 - 45 có lẽ bởi hồn
của bài thơ. Thời đại Xuân Diệu, các tác giả có xu hướng đi tìm cái mới, đi
khám phá thiên nhiên để được khẳng định mình nhưng vì phong trào thơ mới,
thơ của cái “tôi” còn phải đối đầu gây gắt với thơ cũ nên dù muốn cởi mở lòng
mình vẫn có nét e dè, chưa thực sự nói hết lòng mình. Cảm xúc ở “Đây mùa
thu tới” với nỗi buồn truyền thống để nói về thu và tâm thế thời hiện đại đang
hoang mang như “đứa con lạc mẹ” và phân vân “bâng khuâng đứng giữa hai
dòng nước”.
“Đây mùa thu tới” là một khởi sắc rất đáng kể so với thơ thu trước nó.
Bài thơ tập trung miêu tả sự chuyển động của thiên nhiên ở những biểu hiện
nhỏ bé, tinh vi nhất nhưng lại thể hiện một tâm hồn thơ mới rộng mở, tiêu biểu
cho cả một thời đại. Bài thơ không một dáng vẻ to tát nói về đất trời hay nỗi
niềm ẩn sĩ mà là khao khát mạnh mẽ, rất con người là muốn được bộc lộ cá
nhân trước sự đổi thay của đất trời.
Xuân Diệu đề cập đến một cái “tôi” cô đơn, đang đi tìm mình trong cuộc
đời, những ngẩn ngơ, đìu hiu, buồn không nói, run rẩy, u uất... chứng tỏ điều
đó. Cái tôi đó cũng ý thức được bản thân mình trong xã hội nên càng khao
khát hơn được bày tỏ cho chúng ta về chính họ, muốn phơi bày tâm hồn, cõi
lòng họ. Không chỉ Xuân Diệu tỏ ra đồng cảm với nỗi buồn không nói của ít
nhiều thiếu nữ, ngay Thế Lữ (Cây đàn muôn điệu) cũng tỏ bày:
Tôi ngại ca tiếng lòng phấn khởi
Tôi thở than cùng thiếu nữ bâng khuâng.
Xuân Diệu hay Thế Lữ đều muốn được chú ý, muốn được hòa hợp với
mọi người và bản thân nhà thơ cũng tỏ ra biết thông cảm. Hơn một lần Xuân
Diệu viết về mùa thu với mong muốn được hòa hợp giữa con người với thiên
nhiên, giữa con người với nhau giữa cảnh với nhau:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
(Thơ duyên)
Khi Xuân Diệu tìm thấy cho mình một “nàng trăng ngẩn ngơ”, thì Lưu
Trọng Lư cũng thổn thức với “Tiếng thu”:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Đều giống nhau ở cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến trước mùa thu chứ
không chỉ là cảm xúc buồn, sẵn lòng đón nhận điều gì âm u, tê tái của mùa
đông, vẻ đẹp của mùa thu được các nhà thơ phát hiện và tỏ ra thích thú: “Đây
mùa thu tới! Mùa thu tới” hay “Em không nghe mùa thu” hay “Thu đến nơi nơi
động tiếng huyền” đều là những lời ca vang, reo mừng khi đất trời chuyển
mùa. Mùa thu rõ ràng đã trở thành một mùa thu hoàn toàn khác với thơ cổ.
Vẫn còn nét buồn cố hữu của thu sang thi nhân đã nhìn nhận nó ở một góc
độ khác, tươi mới hơn, lạ lẫm hơn, thậm chí lạ với nét buồn của mùa thu. Chế
Lan Viên không chỉ nhận mùa thu mà còn tỏ ra tiếc nuối, muốn níu kéo:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi một lá vàng
Với nửa hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang.
Rõ ràng phải có những cảm xúc đặc biệt với mùa thu, các nhà thơ mới
ưu ái thu đến thế. Không riêng mình Xuân Diệu biết phấn khởi, hớn hở khi thu
đến, nhiều nhà thơ khác cũng cảm mến mùa thu theo cách ấy. Hình như nỗi
buồn thời đại cộng với lãng mạn tuổi trẻ có nét giao thoa, gần gũi với mùa thu.
Đa phần các nhà thơ lấy cảnh thu để bày tỏ lòng mình.
Với một người luôn “vội vàng”, giục giã, sợ thời gian trôi chảy, tuổi trẻ
tàn phai như Xuân Diệu lại càng không thể làm ngơ trước giao mùa dù đó là
mùa thu. Mùa thu là mùa đáng buồn nhất trong quan niệm của thơ ca cổ,
trung đại. Con người thời ấy luôn tiếc nuối những ngày nắng ấm đã qua, chờ
đợi ngày rét mướt, ảm đạm của thu - đông mang tới. Ở thời của Xuân Diệu
dường như thi sĩ chỉ quan tâm tới cái hiển hiện của mùa thu, nhà thơ thường
khám phá vẻ đẹp hiện tại mà chưa cần bận tâm tới mùa đông cận kề. Nhà
thơ nhìn mùa thu bằng con mắt thật của chính mình, không thông qua một
ước lệ tượng trưng nào còn rơi rớt lại của thời đại trước, ảo não đến như Huy
Cận cũng thấy được một chút gì vương vấn chứ chưa buồn hẳn:
Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...
Nỗi buồn này cũng với thơ cổ điển; nó mang dáng vẻ lãng mạn tâm lí,
dòng tâm linh sâu thẳm, nên ý thơ cũng khó hiểu. Thơ Xuân Diệu cũng khó
hiểu nhưng rất thực: “Những luồng run rẩy rung rinh lá” “Cành biếc run run
chân ý nhi”...
Với “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, chúng ta thấy nét chung của thơ
ca lãng mạn 30 - 45 là sự cởi bỏ mọi ràng buộc, khao khát giải phóng cá
nhân, là sự tự do cho tâm hồn bay bổng, đón nhận thiên nhiên, vạn vật. Xu
thế chung của thế hệ Xuân Diệu là thấy vui mừng vì được tự do cá nhân, tự
do đi tìm những tâm hồn đồng điệu cho mình. Song vẫn còn nét buồn vì dù
sao vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của thơ ca trung đại, ý thức hệ tư tưởng
về cái “tôi” vẫn chưa định hình rõ nét và buồn hơn cả vì chưa khẳng định
được bản thân, chưa tạo được cho mình thế đứng riêng, độc lập. “Đây mùa
thu tới” mang được nét lớn đó vào nội dung của bài thông qua nghệ thuật
biểu hiện rất tài tình của Xuân Diệu. Trong bài có cả niềm vui được chứng
kiến, được đón nhận mùa thu với đổi thay mới mẻ, lạ lẫm, gây tò mò cho
những con người vừa “trẻ tuổi” vừa “trẻ lòng”. Còn nét buồn chủ yếu là do cá
nhân cảm thấy thời gian cứ trôi, tuổi trẻ có giới hạn mà con người vẫn chưa
làm được gì để khẳng định mình. Thiên nhiên trong “Đây mùa thu tới” vừa tả
khái quát sự giao mùa, vừa đặc tả sự chuyển động, trở mình của mùa thu ở
mức rất tinh vi, tinh tế.
Thời đại thơ lãng mạn 30 - 45 đã qua những âm vang và những gì nó
để lại cho thơ ca Việt Nam thật đáng giữ gìn. Đó là một cuộc cách mạng thực
sự làm thay đổi nhãn quan thơ, cách cảm thụ, đánh giá thơ. Mở ra cho thơ ca
Việt Nam một hướng đi mới, một kiểu sáng tác mới tiến bộ hơn thơ ca cổ.
Thơ lãng mạn đáp ứng được nhu cầu biểu hiện và tiếp nhận của quần chúng.
Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất và có những đóng góp lớn lao cho nền
văn học đó. Bức tranh thu “Đây mùa thu tới” của ông được xem là tiêu biểu
cho thơ lãng mạn 30 - 45 cũng bởi chất lãng mạn thời đại thấm nhuần trong
từng câu chữ. Đúng như đánh giá về Xuân Diệu “ông là nhà thơ lãng mạn, là
nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. (Hoài Thanh — Thi nhân Việt Nam).
NGUYỄN MAI HIÊN
Bình giảng bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu
YÊU CẦU
Nội dung: về nội dung và nghệ thuật của bài thơ, cần làm rõ như đã
nêu trong phần yêu cầu của đề trước. Nhưng về phương pháp và hành văn
có nét khác.
Phương pháp: Kiểu bài bình giảng đòi hỏi phải đi vào cảm thụ trực tiếp
ngôn từ, hình ảnh nghệ thuật, trước nhất để đạt yêu cầu hiểu nghĩa lí và
thưởng thức bài thơ rồi trên cơ sở đó mới bàn luận, bình giảng.
So với kiểu bài phân tích, kiểu bài bình giảng đào sâu và mở rộng hơn
ở cả hai yêu cầu bình và giảng. Hai yêu cầu đó đều dựa trên cơ sở cảm thụ,
phân tích hình tượng nhưng được thực hiện một cách chọn lọc chứ không
nhất thiết phải trải đều trên toàn bộ bài thơ, bài văn.
Hành Văn: Lời văn, bài bình giảng có yêu cầu tái hiện hình tượng trong những liên tưởng và thể hiện cảm xúc cá nhân, do đó, có tính hình tượng hơn và tác động vào cảm xúc của người đọc nhiều hơn.
BÀI LÀM
Thơ Xuân Diệu là cả một bầu xuân, là cái bình chứa muôn hương của
tuổi trẻ. Thi sĩ không ngớt chào mời giục giã mọi người hãy tận hưởng tuổi trẻ
và tình yêu - “phần ngon nhất của cuộc đời”. Xuân Diệu đã từng bỏng môi, rát
lưỡi, đau răng vì đã uống tham lam vào suối mặt trời, đã ăn hăm hở vào trái
mùa xuân. Là con người yêu sống, ham sống, cho nên khi cảm nhận được sự
trôi chảy không ngừng của thời gian, sự tàn lụi của cảnh vật (dù là mới chớm)
nhà thơ hốt hoảng buồn sầu cũng là điều dễ hiểu. Đây mùa thu tới tiêu biểu
cho tâm trạng ấy của ông.
Mùa thu là người bạn muôn đời của thi ca. Cái rét buốt tê tái của mùa
đông qua đi để nàng xuân đến với bao nhiêu niềm vui và sự sống, có lẽ gây
ấn tượng mạnh hơn trong lòng người, nhưng lại không gợi thi tử nhiếu như
mùa thu, phải chăng vì thu dịu dàng, thu buồn hơn. Với những tâm hồn thi sĩ
đa cảm, đa tình, niềm vui phơi phới đã dễ rung động, những nỗi buồn thì càng
gợi cảm xúc nhiều hơn. Xuân Diệu cũng vậy. Thi sĩ đã để cho lòng mình, hồn
mình rung lên những nhịp đập xốn xang khi mùa thu đến. Đây mùa thu tới
phảng phất một nỗi buồn nhưng lại đẹp đến nao lòng.
Nhà thơ cảm nhận mùa thu tới trong vẻ đẹp của nỗi buồn:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh liễu - một hình ảnh quen thuộc trong Đường
thi. Trước đó, Nguyễn Du đã từng có câu thơ rất hay về liễu: “Lơ thơ tơ liễu
buông mành”. Mặc dù học tập hình ảnh ước lệ trong văn chương cổ, nhưng
“liễu” của Xuân Diệu không có vẻ gì là vay mượn. Cảnh mang hồn của Xuân
Diệu, hồn Việt Nam tuy quen mà lạ, tuy ước lệ mà lại rất cụ thể bởi cách liên
tưởng sáng tạo và độc đáo: “đìu hiu đứng chịu tang”. Với nét bút mềm mại và
khoáng đạt, nhà thơ đã vờn vẻ vào không gian dáng hình yểu điệu, lả lướt
của những rặng liễu thả dài sóng tóc gội đầm đìa trong những cơn mưa lệ. Từ
láy “đìu hiu” cùng với nghệ thuật láy âm “buồn buông”, “ngàn hàng”... đầy sức
gợi. Câu thơ gợi cảm giác nhiều hơn là tả. Liễu buồn nhưng đẹp ảo não,
lắm nói mãi!” đến 1872 lần. Một câu nói vô vị mà hễ động mồm là cụ tuôn ra.
Có thể thấy, nó đã được đi vào đời sống cũng hết sức sinh động như vốn cái
hài hước, mai mỉa của nó. Có lẽ cụ được nói nhiều lần cái câu nói ấy cũng là
một hạnh phúc. Vì có bao giờ cụ được nói nhiều như thế dâu. Ta còn thấy cụ
cố Hồng mơ tưởng. “Cụ cố Hồng nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái
lúc cụ được mặc đồ xô gai, lụ khụ vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên
hạ phải chỉ trỏ khen ngợi”. Đó chỉ là một màn kịch để lừa thiên hạ và để được
hưởng tiếng khen. Tình cảm phụ tử là hoàn toàn giả dối, lừa bịp trong cái xã
hội bát nháo ấy. Ông Phán mọc sừng lại có một niềm vui ở khía cạnh khác:
được chia thêm vài nghìn đồng. Ông còn đau xót vì bị cấm sừng, vì vợ ngoại
tình, mà mừng rơn vì thêm nặng hầu bao. Cái cười được bật lên từ sự đánh
tráo cái giả, cái thật. Sừng hươu vô tình lại có giá trị to đến thế. Ông Phán
mọc sừng, là một chân dung của kẻ không có tí ti ý thức về nhân cách. Ông ta
không biết nhục và là một con người vô liêm sĩ. Giữa cái đau thương vì tang
tóc ấy, ông ta lại thấy một niềm hãnh diện.
Cái bản chất ích kỉ, bon chen của từng nhân vật đã khiến ta cười giễu
cợt. Tiếng cười ấy, thấm sự đắng chát còn bởi sự biến chất trong mỗi con
người đã trở thành bản chất hằn sâu. Cụ già chết mà tất cả chẳng ai nhắc
đến cụ. Mọi người đều lo riêng cho họ. Ai ai cũng náo nức, sung sướng. Họ
rộn rã hồ hởi trước cái chết của một người thân. Cái chất trào phúng của tác
phẩm nói chung và ở chương này nói riêng được toát lên trong từng câu,
từng chữ, từng chân dung của mỗi một người, được toát lên nhờ sự pha trộn
trắng đen thật - giả. Ông Văn Minh chỉ phiền nỗi không biết đối xử với Xuân
Tóc Đỏ ra sao mà đã khiến ông có cái bộ mặt đúng một nhà có đám - lúc nào
cũng đăm đăm chiêu chiêu.
Nhà có đám được Vũ Trọng Phụhg tạo dựng như một cơ hội để trưng
bày mốt. Mốt mặc áo tang lễ, Mốt các ban bệ. Mốt các bộ lễ. Mốt kèn ta, kèn
tây v.v... và vân vân... Thành thử đám tang trở thành một dịch vụ, một dịp làm
quen, một dịp để phô trương, một dịp để chim chuột lẫn nhau.
Cái cười đau xót không chỉ được toát lên từ cái nghịch lí, cái mâu thuẫn
giữa “hạnh phúc” với “tang gia”, mà còn được toát lên từ những tình tiết bất
ngờ. Tác giả dùng hình thức trì hoãn của tình thế kịch. Nén chốt lại là để bung
ra được mạnh hơn... chưa phát tang được vì chuyện cô Tuyết. Phái trẻ lập
tức la ó. Cậu tú Tân điên người lên, bà Văn Minh sốt cả ruột. Ông Tuýp PN
rất bực mìmh. Nhưng khốn nỗi, người ta bực bội không phải vì thương một
ông già chết mà chưa được đem đi chôn. Người ta muốn chôn cho chóng cái
xác chết ấy để được hưởng hạnh phúc. Bởi sau đó, cái di chúc chia tài sản sẽ
thành hiện thực. Mỗi người sẽ thêm nặng hầu bao”. Và ngay trong đám ma
thôi, họ cũng sẽ được hạnh phúc. Kẻ hạnh phúc vì được trổ tài điện ảnh,
người hạnh phúc vì được lời khen của thiên hạ, người mừng vui vì đây là dịp
may hiếm có để lấy lại danh dự. Và chung quy lại, họ hạnh phúc vì được chôn
kẻ đã chết. Thật là bất nhân!
Vũ Trọng Phụng viết: “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó,
gọi phường ken, thuê xe đám ma”. Nếu không có các từ “cáo phó”, “kèn”,
“đám ma”, có lẽ ta hiểu nhầm sang đám cưới mất. Mà có những từ ấy, cũng
không làm mất hết cái vui tươi, rộn rã như ngày hội. Giọng văn vẫn đều đều
tường thuật ra, đầy tính chất hài hước, mỉa mai.
Bộ mặt đám ma và bộ mặt riêng của từng người được nhà văn khắc
họa rõ nét hơn, phong phú hơn. Tính trào phúng còn được phô bày trên mọi
khuôn mặt trong cái xã hội trưởng giả, thượng lưu mà bất nhân ấy. Chưa nói
gì đến cái đám ma, ta hãy xem người dân ở đây ra sao đã. Trước một linh
hồn vừa siêu thoát, đáng lẽ họ phải ngậm ngùi, lặng lẽ mới phải. Nhưng ở
đây, họ chen chúc, tò mò để xem được cái đám ma này. Điều ấy cũng nói lên
cái kì quặc hài hước ở đây. Quanh lề đám ma, mọi thứ cũng trở nôn nhốn
nháo, nực cười đi thì phải, còn bản thân đám rước đang chủng chỉnh bò
chậm chạp kia, cũng chất chứa đầy những tấm hài kịch. Nếu nhắm mắt lại, ta
không chứng kiến bất cứ một hiện trạng đau lòng nào, thì tai ta cũng bị khua
lên bởi âm thanh “lốc cốc xoàng” của những kèn ta, kèn tây. Thứ nhạc đám
ma rầu rĩ thê thảm ở đây trở thành bản hòa tấu hỗn độn, góp thêm vào cái
không khí vui tươi, nhịp nhàng khi đưa đám. Mở mắt ra thì đầy rẫy những
tượng lạ. Quả là đông người. Người nối người âm thầm và lặng lẽ tiễn đưa
người xấu số, nhưng dường như chẳng có bất cứ ai nghĩ rằng mình đang
đưa ma. Với con mắt quan sát tinh tế, Vũ Trọng Phụng chỉ ra cả một thế giới
hài hước. Này đây những bạn thân cụ cố Hồng rất oai vệ với đủ các huân
chương, huy chương, đủ những bội tinh, lại cảm động trước cô Tuyết ăn mặt
nửa kín nửa hở. Hóa ra họ đi đưa ma chỉ là lí do xã giao, khi có dịp là con
người trần tục, dâm dục xuất hiện. Này đây, ở dưới những bộ mặt nghiêm
chỉnh vẫn thì thầm những tiếng của đời thường. Điều đáng tức cười là họ
hưởng niềm vui với bộ mặt buồn rầu. Họ đưa ra những lời bàn tán, trao đổi,
nhận xét rất xa lạ với nỗi đau thực tế. Phải chăng Vũ Trọng Phụng không phải
chỉ là đả kích mà là hài hước trước thói đời đen bạc. Đám ma trở thành đám
hội.
Ngòi bút của Vũ Trọng Phụng miêu tả đám đưa ma với bao nét hài
hước khác. Hình ảnh “lợn quay đi lọng” miêu tả sự phú quý rởm đời. Một đám
ma kết hợp cả Ta, Tàu, Tây, cổ xưa và hiện đại chứng tỏ những gia đình này
là những kẻ vô văn hóa, chạy theo thời thượng một cách ngu ngốc. Một nét
kịch của cảnh đưa ma là sự đóng góp của Xuân. Người ta còn phê bình lào
xào thái độ của Xuân thì bỗng Xuân xuất hiện với sự đóng góp của “Phật
giáo”, với sáu chiếc xe, hai vòng hoa. Chỉ một từ “món ấy” (giá không có món
ấy thì hiếu không được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi”). Một lần nữa,
tác giả vạch mâu thuẫn giữa cái danh và cái thực, cái bên trong và cái bên
ngoài. Đám ma thì to tát, tiếng khóc thì thảm thiết, nhưng rỗng tuếch lòng
người. Vũ Trọng Phụng không quên khi kổ lại và thêm vào những lời bình:
“Thật là đám ma to tát, có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải
mỉm cười, nếu không gật gù cái đầu”. Đây là cách nói mỉa mai vì nếu người
chết biết thì cụ sẽ đau lòng lắm, vì không ai để ý đến cụ cả. Có người buồn,
có ngưởi vui, có người đăm chiêu có vẻ cảm động... nhưng tất cả đều chẳng
phải cho ông. Cái mặt buồn rầu đưa đám ấy chỉ là cái vỏ để che cho bản chất
thờ ơ, hờ hững, kệch cỡm, giả dối của mọi người.
Trong quá trình miêu tả, tác giả sử dụng toàn những từ chỉ sự nhốn
nháo, những cấu trúc ngôn từ nghịch lí, tương phản, pha trộn nhiều phong
cách Tây, Tàu, Ta có cả để thể hiện sự hỗn hợp cặn bã của nền văn hoá. Và
tính cách trào phúng hài hước không chỉ toát ra ở chân dung, hành động mà
tiềm ẩn trong cái giọng mỉa mai châm biếm của chính nhà văn nữa. Tác giả
viết: “Tuyết bèn mặc bộ ngây thơ để thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh
mất cả chữ trinh”. Cả chữ trinh! Chao ôi! Một khái niệm mới nực cười làm
sao. Chưa mất cả, nhưng đâu còn nguyên vẹn. Và cái hành động rất ý tứ của
ông Phán mọc sừng khi nghẹn ngào hứt hứt: “Dúi tay vào Xuân Tóc Đỏ một
cái giấy bạc năm đồng gấp tư”.
Thế đấy, con người ta vẫn gào khóc, vẫn thảm thiết như đau đớn, quằn
quại lắm, những vẫn có thể he hé mắt xem có ai thấy không, vẫn nhắc nhở,
thầm nhủ với mình những lợi ích cá nhân. Và đau đớn thay khi người ta đội
ơn và tôn vinh kẻ đã giết cha mình. Xuân Tóc Đỏ đã đem đến niềm vui tràn
ngập cho gia đình, địa vị của họ được củng cố, được nhấc lên cao hơn. Nó
bỗng thành nhân vật quan trọng của đám ma.
Với Hạnh phúc của một tang gia Vũ Trọng Phụng đã phanh phui, bóc
trần cả một xã hội giả dối, chó đểu. Với cách viết trào phúng, với những chi
tiết đầy kịch tính, tác giả đã khắc họa một cách sâu sắc những chân dung
biếm họa trào phúng. Và qua tiếng cười còn là nỗi đau của nhà văn trước
cảnh đời đen bạc bất nhân bất hiếu này.
Hạnh phúc của một tang gia đã chửi thẳng vào cái xã hội thượng lưu
tởm lợm và bỉ ổi thời trước. Cái xã hội mà con người sống với nhau bằng sự
lừa lọc, giả dối và những ngón đòn xảo trá. Tác giả không khỏi xót xa khi tạo
nên những chuỗi cười trào phúng. Và chỉ có tiếng cười hài hước ấy mới
phanh phui hết cái xấu xa bỉ ổi của hiện thực, mới tố cáo vào một cách sâu
sắc hơn bao giờ hết. Chúng ta cũng lây niềm chua chát ấy.
(THIÊN HƯƠNG)
Trong chương Hạnh phúc của một tang gia (Số đỏ), Vũ Trọng Phụng viết:
“Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm"
1. Hãy chứng tỏ điều đó qua các nhân vật trong chương truyện.
2. Câu văn tưởng chừng ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm cả một thứ “thế thái nhân tình” được xây dựng trên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá, hãy làm sáng tỏ.
BÀI LÀM
Tiếng nói căm hờn mãnh liệt cái xã hội thực dân phong kiến tư sản hết
sức bất công, tàn bạo, thối nát, cái xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “khốn
nạn”, “chó đểu” và ông khao khát thay đổi nó từng ngày, từng giờ trong “Số
đỏ” nói chung và “Hạnh phúc một tang gia” nói riêng cứ xoáy sâu vào tâm trí
độc giả. Một “thế thái nhân tình” được xây dựng trên hai điều, sự tàn nhẫn và
sự dối trá là biểu hiện sâu sắc nhất được thâu tóm trong câu văn tưởng
chừng ngược đời mà lại có lí: “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng
lắm”.
Một gia đình đông đúc, nhiều con cháu, họ hàng và người quen của cụ
cố Hồng là cả một xã hội phong kiến tư sản thối nát. Khi sinh ra, lớn lên,
trưởng thành bước vào đời, con người ta lúc nào cũng cầu mong cho mình
được hạnh phúc. Khi ra đi về với cát bụi, không có gì hơn ngoài mong muốn
được đón nhận giọt nước mắt đau thương của người đang tồn tại và đang
sống. Vậy mà, khi đi xuống nơi “suối vàng”, cái chết của cụ tổ lại mang lại bao
nhiêu niềm vui, niềm phấn khởi, hân hoan của con cháu gia đình cụ Hồng.
Tình cảm ngược đời ấy chỉ tồn tại trong xã hội bất công và đầy rẫy sự thối
nát, bẩn thỉu, câu chuyện dường như là điển hình cho cái xấu xa mà xã hội đã
đang mang lại cho tác phẩm Vũ Trọng Phụng. Ngay ở tiêu đề đoạn trích, tác
giả đã có ý nhấn mạnh cái hạnh phúc bên bờ của một người vừa từ trần thế
đến nơi tận cùng của số phận. Hạnh phúc lại đi liền với tang gia và tang gia
tạo nên hạnh phúc, Nếu chỉ đọc tiêu đề, độc giả sẽ hoàn toàn tin tưởng vào
hai khái niệm trái ngược đó; nhưng khi vào sâu thế giới của tác phẩm, độc giả
nhận thấy rằng: tình cảm ấy tồn tại trong nhà cụ cố Hồng rất tự nhiên, hợp lí.
Nhìn nét mặt hành động của mỗi nhân vật trong chương truyện, người
đọc cảm nhận cái hạnh phúc mà họ được nhận và đã chờ rất lâu để cụ cố
mất đi. Khi tắt thở, không biết cụ tổ có nhận thấy cái chết ấy đã làm cho nhiều
người được sung sướng lắm. Niềm hạnh phúc được tràn ra qua cái nhắm
mắt mơ màng của cụ cố Hồng khi nghĩ “đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ
chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ:
- Ui kìa, con giai nhớn đã già thế kia kìa!
Cụ chắc cả mười phần, rằng ai cũng phải khen ngợi một cái đám ma
như thế, một cái gậy như thế... “viễn cảnh hiện ra trước mắt cụ Hồng sao mà
lạ lùng và cay đắng quá. Người ta đến đưa thi thể cụ cố xuống nơi suối vàng,
chứ đâu phải ngắm nhìn “con giai” cụ đã bao nhiêu tuổi, chống gậy gì và đám
ma to hay là bé. Nhưng, những suy nghĩ ấy đã phản ánh đúng tâm trạng của
cụ Hồng trong cái đám ma “rộn ràng”, “huyên náo”...
Còn ông Phán mọc sừng thì lại thấy “không ngờ rằng giá trị đôi sừng
hươu vô hình trên đầu ông mà lại to đến như thế? Ông hạnh phúc khi được
cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai là sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền
là vài nghìn đồng. Dường như đến đưa ma cụ cố, ông Phán mọc sừng lại
được đón nhận số tiền lớn ấy một cách bất ngờ. Dù sao “cái chết kia” cũng
mang lại cho ông niềm hạnh phúc, sung sướng biết bao. Với cái sừng mà
Xuân Tóc Đỏ vô tình hay cố ý gắn cho ông Phán cũng đủ để ông cảm ơn hắn.
Trong bầu không khí của một đám ma nhốn nháo, “thằng bồi tiêm đã đếm
được một nghìn tám trăm bảy hai, câu gắt “Biết rồi khổ lắm nói mãi!” của cụ
cố Hồng thì ông Phán mọc sừng đã kịp trù tính với Xuân công cuộc doanh
thương... và điều trước tiên là trả nốt năm đồng cho Xuân. Ngay trong giờ
phút thiêng liêng của một đời người đã kết thúc ấy mà người ta vẫn không
quên đi được chút ít ánh hào quang của đồng tiền, họ càng lao theo nó say
đắm và đam mê hơn.
“Trước những cặp mắt của một bầy con chí hiếu chỉ nóng ruột đem
chôn cho chóng cái xác của cụ tổ”, thì cụ cố Hồng nhắm nghiền mắt lại kêu
khổ lắm. Sao mà bộ mặt giả dối của họ xấu xa và đê hèn đến thế. Họ đến với
đám ma là để trưng bày trang phục sáng tạo của mình cho mọi người chiêm
ngưỡng". Cậu Tú Tân thì điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh
mà cậu mãi không dược dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt ruột vì mãi không
được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen “demières
creations”. Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng xê ra
thì có thể bán cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng hưởng
chút ít hạnh phúc ở đời”, vậy là, họ đi đám ma mà dường như là đi dự đám
cưới. Họ chỉ biết thỏa mãn cái mong muốn, ước vọng của mình trong khi
không hề để ý đến ai đã khám cho cụ tổ khi cụ bị bệnh và sau khi qua đời.
Đến cả đứa cháu gái Văn Minh giàu sang của cụ cũng hờ hững, tự nhiên phơi
bày nhừng bộ đồ tân thời không hợp chút nào. Với bộ y phục ngây thơ của
Tuyết đã đủ cho thấy cái chết của cụ tổ chỉ làm cho họ hạnh phúc, sung
sướng mà thôi.
Mỗi người, mỗi vẻ, mấy ông cảnh binh Minđơ và Mintoa cũng sung
sướng cực điểm khi được cái đám ma “to lớn” này thuê giữ gìn trật tự. “Thành
thử tang gia ai cũng vui vẻ cả”. Chỉ trừ một mình Tuyết, cô không phải buồn vì
cái chết của cụ tổ mà vì cô không gặp được “người tình Xuân Tóc Đỏ”.
Một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây, “có kiệu bát cống, lợn quay đi
lọng, cho đến lốc cốc xoàng và bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối,
vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy”, lộn xộn, lao xao và
huyên náo, nó xứng đáng như là một hội chợ để các nhà tài tử thi nhau chụp
ảnh. “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài
cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu...” câu văn nghe
sao mà chua chát và đắng cay đến vậy. Dường như trong cái xã hội phức tạp
ấy không còn tồn tại tình người. Họ đối xử với nhau chỉ là do cái ánh sáng
chói chang của đồng tiền đưa lối, dắt đường. Đưa một số phận con người về
bên kia của thế giới, của trần gian mà trong ánh mắt, đôi chút suy nghĩ của họ
đâu có gì gửi gắm vào bản thân người chết. Trong trái tim họ, dường như
không còn có sự tồn tại của tình thương giữa người với người, giữa họ là
khoảng cách của sự tàn nhẫn và dối trá.
Đọc phần đầu của đoạn trích, cứ tưởng tâm địa của bọn cháu cụ cố tổ
ghê tởm đến thế là cùng. Nhưng chưa hết, chính lũ con cháu bất hiếu, vô đạo
kia lại muốn khẳng định chúng là người hiếu thảo nhất trên đời. Đám ma mà
chúng đang tổ chức phải trở thành một kiểu mẫu trong thiên hạ: Những kẻ
mong cho cha ông mau chết đã tìm thấy hạnh phúc vì đó là dịp để họ bày tỏ
lòng hiếu thảo bằng cách tổ chức một đám ma thật to, thật vang, cái mong
muốn “bẩn thỉu” ấy tồn tại trong mỗi đứa cháu, bất nhân, bất nghĩa là cả bao
phức tạp, xô bồ của cuộc sống xã hội thối nát, “chó đểu”.
Câu chuyện của một gia đình trở thành cái tiêu biểu cho cả một xã hội,
từ cái hạnh phúc, sung sướng của một “lũ người gớm ghiếc” là một “thế thái
nhân tình” được xây dựng trên nền tảng là sự tàn nhẫn và sự dối trá. Con
người với con người đối với nhau mà nhự là băng đá tê cứng, đóng lạnh,
không một chút hơi ấm của tình yêu thương. Cụ tổ mất đi lại không hề mảy
may làm cho bất kì một con người nào đau khổ, bọn chúng tìm đến đám ma
mà để lấy và thực hiện sớm bản di chúc. Chỉ còn lặng lẽ sau trang sách là nỗi
đau đớn không nguôi của nhà văn và độc giả. Những đứa cháu, “lũ” con của
cụ tự cho mình là chí hiếu, chúng không nhận thấy trong suy nghĩ, hành động
của chúng là tàn nhẫn và dối trá đến cao độ. Nhịp cầu mà họ tạo nên để đến
với hai chữ “chí hiếu” là từ tàn nhẫn và dối trá mà ra, nó “mỏng manh”, dễ
dứt.
Cố lấy vẻ bề ngoài mà cho đậy cái bên trong xấu xa, thối nát là một sự
dối trá đến tàn nhẫn. Trong thế giới mà bọn họ đang sống, đang tồn tại đâu có
phải là một “thế thái nhân tình”. Cái thế giới của tình người chỉ đáng có khi
con người biết tin yêu và tôn trọng lẫn nhau. Còn ở đây, con người như là vật,
hiến dâng cho cái vòng quay bất nhân của đồng tiền.
Nỗi hạnh phúc, sung sướng của bản thân họ là khác nhau nhưng đều
quy tụ chung dưới hai điều tàn nhẫn và dối trá. Những người đi đưa đám thật
đông đảo; sự xấu xa, đồi bại của xã hội có mặt khắp nơi. Băng điệp khúc
“đám cứ đi”, tác giả đã đặc tả một đám ma thật to thiên hạ tha hồ chiêm
ngưỡng. Nhưng trong cái đám ấy, chẳng có ai thật lòng đi đưa đám. Tất cả -
trong gia đình hay ngoài gia đình, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, tuy cố giữ
vẻ mặt buồn rầu nhưng thực lòng thì đang vui vẻ, hạnh phúc vì một điều gì
đó. “Đám cứ đi” - nghĩa là sự vô liêm sỉ, sự giả dối cứ ngang nhiên diễn ra,
không hề khép lại và chẳng biết sẽ kéo dài đến đâu, lúc nào thì kết thúc. Cái
thế giới tình người mà tác phẩm, đoạn trích có nói, có thể hiện chỉ là sự tàn
nhẫn và dối trá. Sự tàn nhẫn, dối trá ấy đâu chỉ diễn ra trong xã hội “người
dưng”, mà nó tồn tại sâu sắc, đậm nét hơn cả trong bản thân những con
người trong cùng một gia đình, họ hàng, thân quen. Cái đám ma giàu sang,
phú quí, ồn ào của cụ tổ đâu có thể che lấp được bản chất tàn nhẫn, dối trá
của cụ cố Hồng, ông bà Văn Minh, Xuân Tóc Đỏ và cả sư cụ Tăng Phú...
Sự lố lăng của đám tang với hình ảnh của hai tên đại bịp xuất hiện:
Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú lại làm cho cái tàn nhẫn và dối trá được bộc
lộ rõ hơn, sâu sắc hơn. Tại sao bà cụ cố Hồng lại hí hửng vì sự có mặt của
hai nhân vật này? Vì sáu chiếc xe có lọng cắm trên chở sư chùa Bà Banh? Vì
2 vòng hoa đồ sộ? Điều đó ai mà biết được! Chỉ biết sự có mặt của những
thứ trên làm cho đám tang vốn đã lố lăng càng thêm lố lăng, chỉ biết sư cụ
Tăng Phú đã chớp lấy “thời cơ tang gia để kiếm lợi trong cuộc đấu tranh
chính trị nhằm củng cố thanh thế của Hội Phật giáo”. Còn Xuân Tóc Đỏ lại là
ân nhân của gia đình cụ cố Hồng và là “người chồng ăn hỏi” của cô Tuyết.
Hạnh phúc gia đình, thế giới tình người trong gia đình ấy là sự dối trá, bởi
cách bịp bợm của vợ chồng Văn Minh và sự tôn sưng lên mây cao của họ, sự
tàn nhẫn và dối trá trong lối sống của họ là cái để họ tạo nên cái sụp đổ của
xã hội thối nát. Dưới con mắt sắc xảo của Vũ Trọng Phụng, những con người
xấu xa ấy không phải là một “nhóm người”, chúng thật đông đảo và có mặt
khắp nơi. Bởi vậy, có người đã coi đám tang của cụ cố tổ là hành trình xuống
rnộ của toàn xã hội thực dân phong kiến.
Với một tác phẩm hiện thực sâu sắc: “Số đỏ”, Vũ Trọng Phụng đã thể
hiện khá rõ và đậm nét bản chất thối tha, dối trá, tàn nhẫn và “chó đểu” của xã
hội cũ. Tình yêu thương, lòng nhân ái cao cả của một thế giới tình người
không bao giờ có thể tồn tại trong cái xã hội ấy dù chỉ là một giây.
TRẦN THỊ MAI
B. LUYỆN TẬP
1. Anh (chị) hãy phân tích đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia” (Số đỏ -
Vũ Trọng Phụng) để làm sáng tỏ nhận định: “Hạnh phúc một tang gia” được
coi như một màn hài kịch sắc sảo?
2. Anh (chị) hãy viết một bài giới thiệu ngắn về nhà văn Vũ Trọng
Phụng và tiểu thuyết số đỏ (trong đó cần lưu ý tới chương Hạnh phúc một
tang gia.)
3. Anh (chị) hãy phân tích chương “Hạnh phúc một tang gia” để làm
sáng tỏ nhận định:
Đọc “Số đỏ”, dường như mỗi chi tiết lại chứa đựng một mâu thuẫn nào
đó và đằng sau mỗi chi tiết ấy, ẩn hiện thấp thoáng một nụ cười vừa thông
minh sắc sảo, vừa đầy khinh bỉ và căm phẫn của nhà văn đối với tầng lớp xã
hội lố bịch, nhố nhăng...”
4. Nói về Số đỏ và nhân vật Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng, có ý
kiến cho rằng: “Một xã hội bịp bợm đã đẻ ra một tên đại bịp”.
Ý kiến của anh (chị) như thế nào? Hãy phân tích và chứng minh qua
nhân vật Xuân Tóc Đỏ và tác phẩm Số đỏ.
TÁC GIẢ NAM CAO
A. BÀI VĂN
Nhà văn Nam Cao đã từng lấy lời của Francois Coppee (1842 - 1908), nhà văn, nhà thơ Pháp làm đề từ cho truyện ngắn Nước mắt của mình: “Người ta chí xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ, và nước mắt là một miếng kính biển hình vũ trụ”. Rồi trong truyện ngắn Lão Hạc, Nam Cao lại viết: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhân, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương...
Tìm hiểu những ý kiến trên nhằm làm rõ một nét trong cách nhìn đời, nhìn người đầy tinh thần nhân đạo của Nam Cao.
BÀI LÀM 1
Nhà danh họa Pháp Henri Matisse đã từng nói: “Đối với người nghệ sĩ
thì sáng tạo bắt đầu từ cái nhìn...” Câu nói ấy có lẽ cũng là tâm trạng chung
cho tất cả các nhà văn chân chính, những con người trên hành trình văn
chương của mình vẫn luôn khao khát đươc cập bến bờ chân - thiện mĩ. Nam
Cao là một trong số những nhà văn như thế. Suốt cả một đời sáng tạo đầy
cay cực nhưng cũng rất đẹp của mình. Nam Cao luôn trăn trở, day dứt đến
vấn đề Đôi mắt, đến cách nhìn những con người khốn khổ quanh ông. Và văn
chương chính là nơi để ông gửi gắm nỗi niềm thao thức đó. Trong truyện
ngắn Nước mắt ông đã lấy lời của nhà thơ, nhà văn Pháp Francois Coppee
làm đề từ: “Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của của
phường ích kỉ và nước mắt miếng kính hình vũ trụ”. Rồi trong truyện ngắn
Lão Hạc, Nam Cao lại thốt lên những suy tư trăn trở của mình. “Chao ôi! Đối
với những người quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ
gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để ta tàn nhẫn,
không bao giờ ta thấy họ là người đáng thương, không bao giờ ta thương...”.
Những quan điểm đó đã được ông viết ra cách đây hơn nửa thế kỉ mà
ta cứ ngỡ như là ông viết cho hôm nay và cho cả mai sau. Bởi những lời tâm
huyết chân thành ấy mãi mãi là một chân lí nghệ thuật, một ngọn lửa soi sáng
cho chúng ta tìm đến chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao.
Văn chương không bao giờ phản ánh chỉ để mà phản ánh, miêu tả chỉ
để mà miêu tả, mà tận sâu thẳm mỗi lời văn, mỗi trang viết mà nhà văn dâng
tặng cho đời phải được nghiền ngẫm trong một quan điểm nghệ thuật, một
cách nhìn nghệ thuật, cách nhìn ấy chi phối lao động sáng tạo của nhà văn và
quyết định chỗ đứng của anh ta trong làng văn và trong lòng độc giả. Với
Nam Cao cái nhìn nghệ thuật ấy mang một ý nghĩa nhân đạo thật cao quý.
Trên những trang viết mà ông dồn hết cả tinh anh, tinh huyết, trên mỗi giọt
mực mà ông đã thả vào bao mồ hôi nước mắt, bao nỗi thương đời, đau đời,
đều thấm nhuần một cái nhìn đầy nhân ái, và xiết bao trân trọng đối với
những kiếp người cùng khổ quanh ông.
Nam Cao ghét cay ghét đắng những con mắt ráo hoảnh tình thương,
những con mắt lạnh lùng nghiệt ngã đối với đau khổ của con người, Lão Hạc,
Chí Phèo, rồi Điền, Hộ... đều là những hình tượng sống động đầy ám ảnh
trong một cái nhìn Nam Cao.
Lão Hạc, một nông dân lẩm cẩm, ít học và có thể là gàn dở nữa, dưới
con mắt của Nam Cao, đã được đẩy lên cái ngưỡng tột cùng của vẻ đẹp nhân
cách. Một người cha nghèo không đủ tiền cưới vợ cho con để rồi phải day
dứt, ân hận ở đời, một con người vì cùng quẫn quá phải đánh lừa một con
chó để rồi phải giày vò đau đớn cho đến chết. Bên miệng vực của cái đói khổ,
khốn cùng, trong con người lão Hạc vẫn luôn luôn thắp lên một vẻ đẹp tỏa
sáng, vẻ đẹp của nhân cách, của thiên lương. Đó đâu chỉ là vẻ đẹp của người
cha hay người mẹ?... Đó là một con người, sâu sắc và thăm thẳm. Nam Cao
nhìn thấu suốt được điều đó và đã phát hiện ra vẻ đẹp cao quý trong con
người nông dân với vẻ bề ngoài mà người ta tưởng như là “gàn dở, ngu
ngốc, bần tiện, xấu xa...”. Cái nhìn nhân ái đầy trân trọng ấy xuất phát từ đâu
nếu không phải từ một trái tim nặng trĩu nỗi niềm đau đời, thương đời của
Nam Cao?
Nước mắt của ông không chảy dầm dề, tràn trề trên trang giấy như Ngô
Tất Tố, nước mắt của ông chảy vào trong để thấu suốt hơn, và sâu sắc thăm
thẳm hơn. Trên những trang viết tưởng chừng như sắc lạnh, dửng dưng kia
là một nỗi lòng yêu thương thống thiết đến khắc khoải, cái nhìn sâu tận đáy
của ông đã giúp cho ông phát hiện ra những đốm lửa nhân tính, thiên lương
còn âm ỉ cháy trong những con người dị hình dị dạng, những con người luôn
đi trên cái ranh giới mong manh cuối cùng phân biệt con người với con vật
người. Và ta hiểu vì sao những tác phẩm của ông lại chứa đựng một năng
lượng tinh thần mạnh mẽ và sâu sắc đến vậy.
Nếu như Ngô Tất Tố, với tấm lòng chan chứa yêu thương của mình chỉ
thấy được con người trong con người mà thôi thì với Nam Cao, với đôi mắt
sâu sắc của mình, với một tấm lòng sống thật sâu trong cuộc sống đã phát
hiện và đã khẳng định cái con người ngay trong chính con vật - người, trong
những kẻ mà bộ mặt đã bị rạch nát giầy xéo và tâm hồn đã bị mụ mị trong cõi
tối tăm vô thức. Và Chí Phèo có lẽ là nơi tập trung cái nhìn nghệ thuật đau
đáu và sắc sảo của Nam Cao. Một kẻ cỗi cằn và u tối như thế, ở những con
mắt khác, những con mắt ráo hoảnh, lạnh lùng, những con mắt không tình
thương thì chỉ là những con vật đầy thú tính, những con người sống kiếp cỏ
cây, những kẻ “bần tiện, xấu xa và bỉ ổi”. Nhưng đối với Nam Cao, Chí Phèo
không chỉ là bản bi ca về kiếp người bị tha hóa trong xã hội cũ mà còn là khúc
tráng ca về những lẽ sống lương thiện, về vẻ đẹp nhân tính trong mỗi con
người, về chất người trong mỗi con người.
Chí Phèo là hình tượng bất hủ về bi kịch nhân cách, là nỗi đau đớn lớn
nhất của Nam Cao. Cuộc đời Chí là một chuỗi vật vã đến quằn quại để đi tìm
nhân cách, để khẳng định nhân phẩm trong con người hắn. Xây dựng nhân
vật Chí Phèo, Nam Cao không những chỉ tố cáo xã hội tàn ác bất công đã xô
đẩy con người ta đến bước đường cùng tội lỗi mà điều cao cả hơn, thiêng
liêng hơn, điều đã làm cho Nam Cao sống mãi với nhân vật bất hủ của mình
là ông đã phát hiện và đã khẳng định ánh lửa nhân tính còn sót lại và vẫn âm ỉ
cháy trong đáy thẳm tâm hồn của con người bất hạnh ấy, dù rất le lói mong
manh. Với đôi mắt đầy tình thương của mình, Nam Cao đã đánh thức chất
người trong con người mà suốt cuộc đời tưởng như chỉ có thù hằn và căm
giận. Những trang viết miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau lần gặp gỡ với Thị Nở
có lẽ là những trang văn đẹp nhất, lung linh chất thơ nhất. Trong “thiên trữ
tình tàn nhẫn” này, chưa bao giờ ngòi bút của Nam Cao lại có những trang
văn dịu ngọt, đằm thắm và trong trẻo đến thế: “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ
quá, tiếng người thuyền chài gõ mái chèo đuối cá, tiếng người đi chợ lao
xao... ”. Nam Cao đã đưa Chí Phèo về với một trái tim người trọn vẹn, trái tim
trong trẻo thuần khiết của ngày xưa, biết yêu thương cảm xúc, biết nhớ nhung
hờn dỗi, biết khao khát một tình yêu, một mái ấm gia đình. Trái tim ấy đã trở
về nhịp đập và trỗi dậy trong hắn một khát khao bỏng rát được làm người
lương thiện. Phát hiện và khẳng định được bản chất tốt đẹp trong những con
người lao động đau khổ bị đọa đày trong kiếp thú là một minh chứng thật
hùng hồn cho chủ nghĩa nhân đạo cao cả của Nam Cao. Phải có một niềm tin
to lớn ở con người, phải có đôi mắt đầy nhân ái và sâu thăm thẳm, Nam Cao
mới phát hiện được những đốm sáng đặc biệt không bao giờ tắt trong trái tim
con người, Văn học phản ánh hiện thực đâu chỉ để mà phản ánh một cách
hời hợt, nông cạn. Văn học với thiên chức cao quý của nhà văn là biết phát
hiện ra những ý nghĩa nhân sinh to lớn.
Nghệ thuật biết tìm thấy cái bình thường trong cái phi thường, nhưng
nghệ thuật còn biết phát hiện cái phi thường trong cái bình thường, thậm chí
tầm thường. Và có lẽ, chỉ với những nhà văn lớn, những trái tim lớn, những
khối óc lớn với những quan điểm thẩm mĩ tiến bộ sâu sắc về nhân sinh mới
có những phát hiện tầm vóc như thế. Trở lại với những trang viết và những
suy tư về Nam Cao, ta hiểu vì sao chủ nghĩa nhân đạo của ông lại chứa đựng
sức nặng như vậy. “Không có thành tựu nghệ thuật nào nằm ngoài cái nhìn
nghệ thuật của nhà văn”. Một ai đó đã nói như vậy. Với những trang viết đầy
sức ám ảnh của mình, Nam Cao đã đặt ra một vấn đề không chỉ cho một thời
mà cho cả mọi thời đại rằng: Nhà văn chân chính, phải biết nhìn con người ở
bản tính tốt đẹp của người ta, biết phân biệt đâu là thực chất bên trong, đâu là
những biểu hiện sai lệch bên ngoài. Muốn có được điều đó, nhà văn ấy phải
sống thật sâu, thật hết mình trong đời sống, và đặc biệt phải có tình thương
lớn (chứ không phải là thương hại). Quan điểm ấy là ngọn đuốc soi đường
trong mỗi sáng tác của ông và cho tất cả những ai muốn trở thành nhà văn
chân chính.
Với những quan điểm nghệ thuật tiến bộ ấy và với những sáng tạo văn
chương thấm đẫm chất đời và tình người của mình, Nam Cao thực sự trở
thành con người thánh thiện trong văn chương nhưng lại là con người chân
thật, giản dị giữa cuộc đời những con người khốn khổ này. Một đời văn như
ông thật là đẹp và chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao sẽ còn sức ám ảnh,
rung động nhiều người, nhiều thế hệ.
HOÀNG HÀ
BÀI LÀM 2
Cùng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nam Cao
bước vào nhà trường phổ thông với một khuôn mặt khá đậm nét, một tư cách
nhà văn nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc, tiêu biểu cho những giá trị tinh thần cao
cả nhất của dân tộc Việt Nam chúng ta. Tác phẩm của ông được giảng chính
thức cả hai cấp học: Lão Hạc (lớp 8). Đời thừa, Chí Phèo (lớp 11), Đôi mắt
(lớp 12). Ngoài ra, còn truyện Một đám cưới, Trăng sáng và rất nhiều đoạn
văn trích của Nạm Cao được in trong SGK để đọc thêm.
So với những nhà văn cùng thế hệ, chỗ đứng của ông trong chương
trình, trong SGK, trong tâm tưởng mỗi người yên ổn hơn, bền vững hơn và
chắc sẽ bền vững hơn nữa. Những nhân vật như lão Hạc, Chí Phèo, Hoàng,
Độ, rồi Hộ, Điền... dường như quá quen thuộc đối với chúng ta. Thuộc tên,
quen mặt, biết rõ tính tình, nhân cách, nhớ cả những hành động, lời nói... như
những hình tượng điển hình, những con người sống động có thật. Các Mác
từng nói: “Con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Với những nhân
vật của Nam Cao, chúng ta từng nhìn họ trong sự tổng hòa xã hội ấy. Và khi
phân tích, đánh giá nhân vật, cũng như lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn, chúng
ta đã đạt tới những chiều sâu, sự chính xác nhất định. Song với Nam Cao
như thế chưa đủ. “Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các
bờ cõi và giới hạn... Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái... Nó làm cho người
gần người hơn”. Mượn lời nói của Hộ nhân vật chính trong truyện ngắn Đời
thừa, Nam Cao từng khát khao sáng tạo những tác phẩm vượt lên trên mọi
bờ cõi, giới hạn, xây dựng những nhân vật “gần người hơn”. Phải chăng, ở
đây, nhà văn muốn nói chữ người theo nghĩa “Con Người” viết hoa, con
người nhân tính, nhân bản, sản phẩm tuyệt vời của tạo hóa, vượt lên trên tất
cả mọi sinh vật khác, vượt lên trên tất cả những ngăn cách của hoàn cảnh xã
hội, của số phận mỗi cá nhân. Người phải gần người, mỗi cá nhân phải xứng
đáng là Con Người, mọi người gần gũi, yêu thương nhau, sống với nhau
bằng tình bác ái, sự cảm thông, sống bằng cái thiện, trước hết trong chính
mình rồi dùng cái thiện mà gần gũi, ràng buộc với ngừời khác... Với cách hiểu
Nam Cao như thế, chúng ta thử đọc lại Nam Cao, tiếp xúc với các nhân vật
của ông trong cái gốc Con Người - nhân tính phổ quát, con người tự làm chủ
mình; chịu trách nhiệm về chính mình, vượt lên tất cả các bờ cõi và giới hạn.
Không kể hoàn cảnh xã hội, xuất thân giai cấp, thành phần nào, dường
như tất cả nhân vật trong tác phẩm Nam Cao mà chúng tôi nêu trên đều giống
nhau ở một bản tính tốt đẹp. Sự vật vã, nỗi gian lao trên con đường đi tìm
nhân cách, tìm sự sống sao cho xứng đáng Con Người, sao cho “gần người
hơn”. Điểm khác nhau giữa họ tất nhiên là cách đi, là số phận mỗi người...
Trước hết xin bàn về Chí Phèo. Trang đầu của cuộc đời Chí, như nhà văn kể,
là thân phận một người vừa ở tù ra (không rõ được tha hay vượt ngục) với
những bộ dạng “trông gớm chết”. Lời nói, hành động đầu tiên của Chí khi về
làng là... rửa hận, đòi trả thù. Trong cái làng Vũ Đại đầy thù hận ấy, cách xử
sự này không đáng trách. Tiếp xúc với Chí Phèo, nhiều người bỏ qua cái
bước khởi đầu này, xáo trộn trang sách của Nam Cao, nhìn ngắm Chí Phèo
theo cái chiều con người bị xô đẩy: từ lương thiện, bị lưu manh hóa, phạm tội
rồi bế tắc, từ vào tù, ra tù, say rượu, chém chết... E rằng không đúng chủ đích
sáng tác của nhà văn, không đúng dòng đời, bước đi của Chí Phèo. Mở đầu
tác phẩm, Nam Cao giới thiệu một nhân cách đã bị xua đuổi, bị tha hóa,
không chỉ là bút pháp nghệ thuật hấp dẫn, mà chắc có ngầm ý. Phải chăng,
nhà văn muốn nói: chính cái nhà tù đế quốc, cái dã tâm bẩn thỉu của bọn
cường hào ở nông thôn lúc bấy giờ là... cha mẹ đẻ ra Chí Phèo, đẻ ra nhân-
cách-tha-hóa-Chí-Phèo, chứ không phải Chí Phèo xương thịt, nhân chi sơ...
Đến với người đọc, Chí Phèo là một thân phận bơ vơ, oan ức, bị cướp đoạt
tất cả, mất hết tất cả. Do đó điểm khởi đầu của anh ta là lên tiếng đòi lại, nhớ
lại, để tìm về. Tiếp theo nhà văn như một người tế nhị kể lại quá khứ tuy
không tốt đẹp, nhưng có chút gì đáng thương của Chí Phèo, bởi đó là một
con người có nhân cách lương thiện, như để người đọc thông cảm, cũng để
nhắc nhở, khích lệ Chí. Chẳng thế mà giọng văn Nam Cao ở những dòng đầu
này khi xuất khi nhập, bên ngoài bên trong nhân vật, linh hoạt, tinh tế, hấp
dẫn, truyền cảm. Song Chí Phèo chưa kịp nhớ lại, chưa bước được một bậc
nào “căn nhà lương thiện bị mất” đã bị mất tiếp, đẩy xa tiếp. Thế là anh ta
phải vật vã, nhiều lần vật vã để trở về, để tìm lại nhân cách lẫn người, tìm
lương thiện. Đường đời của Chí gồm ba chặng: chặng 1, đòi lại cội nguồn,
không thể trở thành người lương thiện được nữa với những vết mảnh chai
trên mặt, dấu vết của tội lỗi, của bao lần rạch mặt, ăn vạ, ức hiếp, gây rối.
Như vậy là Chí rất tỉnh. Vả lại lời văn của Nam Cao cho chúng ta thấy rõ khi
Chí Phèo uống thêm chai rượu nữa nhưng “càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra,
Chí buồn, khóc rưng rức rồi ra đi với con dao ở thắt lưng. Phải nói, theo cách
dẫn truyện Nam Cao, Chí Phèo đang tỉnh.
Do đó, người đọc hiểu Chí Phèo đã giết Bá Kiến trong trạng thái vừa
tỉnh vừa say, nhưng có lẽ phần tỉnh nhiều hơn.
Cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến có nhiều ý nghĩa. Thứ
nhất, nó tố cáo xã hội thực dân - phong kiến đã tàn nhẫn đẩy người cố nông
như Chí Phèo vào bế tắc, cùng đường không lối thoát. Chí Phèo vốn lương
thiện, có nhân cách. Chỉ vì sự ghen hão của tên bá hộ cáo già, anh trai làng
vô tội đó đã phải vào tù đến bảy, tám năm. Nhà tù của thực dân đã lưu manh
hóa con người lương thiện ấy. Rồi Bá Kiến tiếp tục đẩy sâu Chí Phèo vào
vũng bùn tội lỗi, biến anh thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Kết cục là Chí
Phèo tự sát sau khi đã đâm chết tên thủ phạm Bá Kiến. Anh chưa tìm được
lối thoát, một mặt không thể sống hung hãn, ngập trong rượu và máu như
trước được nữa, mặt khác cũng không thể trở lại con đường sống lương
thiện. Ý nghĩa khách quan của cái chết Chí Phèo là khi chưa được ánh sáng
cách mạng soi rọi thì cuộc đời người nông dân nghèo hèn trong xã hội cũ rất
dễ rơi và kết thúc bi thảm.
Cái chết của Bá Kiến và Chí Phèo còn nói lên sự phản kháng của con
người dưới đáy xã hội. Dù sự phản kháng này là manh động, liều lĩnh, đơn
độc nhưng cũng giáng một đòn chí tử, đích đáng vào kẻ có tội ác, đầu mối
của những bi kịch trong cái làng Vũ Đại khốn khổ. Kẻ gieo gió đã phải gặt
bão. Bá Kiến đã bị trừng phạt bởi chính người mà hắn đã đào luyện thành tên
tay chân đắc lực. Bá Kiến chết cùng với tội lỗi của hắn. Chí Phèo chết trong
người cố nông đáng thương, đáng giận ấy gục xuống trên vũng máu, chưa
phải là hết chuyện. Sẽ có thể có Chí Phèo con ra đời nếu xã hội bất công, xấu
xa ấy chưa thay đổi.
Đoạn kết thúc truyện Chí Phèo của Nam Cao là một bi kịch gợi nhiều xót xa. Chí Phèo muốn trở lại làm người lương thiện mà không được, trong cơn đau đớn tuyện vọng, Chí Phèo đã đâm chết kẻ thù là Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Anh (chị) hãy nêu cảm nghĩ của mình về cảnh kết thúc truyện Chí Phèo.
BÀI LÀM
Truyện ngắn Nam Gao trước cách mạng tháng Tám là thế giới của
những số phận bi thảm, nhưng bi kịch đầy xót xa của những kiếp dân cày
cùng cực trong xã hội thực dân phong kiến. Chính ở đó, tôi đã gặp, đã biết và
đã khóc cho số phận con người - Chí Phèo (Truyện “Chí Phèo”) Người ta gọi
Chí Phèo là một thằng lưu manh, côn đồ một gã « đầu bò”, một quỷ dữ. Cả
cái làng Vũ Đại sợ Hắn, ghê tởm hắn như thể hắn chui từ địa ngục lên chứ
không phải ở tù ra. Mà nói cho cùng thì nhà tù thời ấy nào có khác gì địa
ngục. Cũng toàn những kẻ “đầu trâu mặt ngựa”, với những thủ đoạn, mưu mô
đủ để biến một chàng trai lực điền khỏe mạnh thành kẻ có bộ dạng “trông
gớm chết!”: đầu “trọc lốc”, răng “trắng hớn”, cái mặt “cơng cơng” chằng chịt
những vết sẹo ngang, sẹo dọc. Bi kịch của Chí Phèo có lẽ bắt đầu từ cái ngày
bà ba trẻ đẹp của ông Lý Kiến bắt hắn lên “bóp chân”, “xoa bụng”, “đấm lưng”
mà ông Lý lại được cái “khỏe ghen”. Vậy là làng Vũ Đại mất đi một anh canh
điền hiền lành rồi thay vào đó là kẻ lưu manh Chí Phèo. Hắn cứ sống vất
vưởng, côn đồ, quậy phá, ăn vạ, say sưa như thế cho đến ngày gặp Thị Nở.
Cứ tưởng rằng đau khổ của Chí sẽ chấm dứt, cuộc đời đang ở bên kia dốc
của Chí sẽ ấm lại với “bát cháo hành bốc khói”, với tình yêu thương quê mùa,
chân chất, đơn giản của một người đàn bà cũng không kém phần giản đơn,
quê mùa như thế. Nhưng trời ơi, đó lại là khởi đầu của một bi kịch mới - bi
kịch lớn nhất, thảm nhất, xót xa nhất trong đời Chí Phèo! Chính cái lúc Chí
tỉnh rượu, lúc chí cảm nhận được sống ấy, tình yêu ấy cũng là lúc Chí nhận ra
một sự thực đau lòng: cuộc đời không dang tay đón Chí, không chấp nhận
cho Chí làm lại “con người lương thiện”, không cho Chí một con đường về...
Đau đớn quá! Đoạn kết trong tác phẩm chính là cao trào của bi kịch ấy.
Chí lại uống rượu, nhưng càng uống, càng tỉnh, càng buồn. Cảm giác
“buồn” đã có một thời gian trong cuộc đời Chí bị chìm vào quên lãng, nay trở
lại trong tâm hồn hắn càng lúc càng thấm sâu để rồi trở thành nỗi đau tê dại,
điên cuồng của một con người bị chính xã hội loài người chối bỏ. Nỗi đau ấy
quá sức chịu đựng của Chí. Nỗi đau ấy dẫn Chí thẳng đến ngõ nhà Bá Kiến
rồi “xông xông đi vào” với con dao ở thắt lưng. Chí làm cụ Bá thấy bực mình.
Cụ chỉ muốn tống hắn đi cho chóng nên đã móc sẵn năm hào. Nhưng than ôi,
mấy lần năm hào của cụ thì nào có thấm tháp gì so với nỗi đau khổ triền miên
mà Chí Phèo đã từng chịu đựng. Chí đến gặp cụ với bộ dạng của một thằng
say nhưng với trí óc và tâm hồn của một người tỉnh táo - một con người vừa ý
thức được sự “không tồn tại” của mình. Chí dõng dạc nói:
- “Tao không đến đây xin năm hào”.
- “Tao đã bảo tao không đòi tiền”.
- “Tao muốn làm người lương thiện”.
Cả đời, chưa bao giờ Chí Phèo dõng dạc như thế, dứt khoát như thế,
kiêu hãnh và đầy tự tin như thế. Phải chăng anh canh điền 20 tuổi khỏe mạnh
và đầy lòng tự trọng của ngày trước đã trở về? Trở về để đòi lại thứ quí giá
nhất của đời mình. Nhưng muộn rồi, Chí Phèo ơi! Xã hội không cho hắn trở
về. In dấu trong suy nghĩ, trong tiềm thức của dân làng Vũ Đại, hắn là một
“con quỷ dử”. Và cho dù hắn đã tìm lại được lương thiện của mình người ta
cũng vẫn chỉ coi hắn là một thằng bất lương thôi. Người ta không thể nhét vào
đầu cái suy nghĩ: “Chí Phèo lại là người lương thiện”. Ngay cả Bá Kiến, đến
khi chết dưới lưỡi dao của hắn cũng chẳng thể ngờ được điều đó kia mà.
Chính vì thế, hắn không thể sống còn. Thương cho Chí Phèo, đau khổ cả một
đời, đến lúc chết cũng không thoát khỏi sự đau khổ ấy. Cái chết của hắn đầy
thê thảm, bi đát. Chí Phèo “giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi”,
mắt “trợn ngược”, mồm “ngáp ngáp, nhưng không ra tiếng”... Tôi vẫn nghĩ đó
là cái chết đầy uất ức. Chí đã được ai trả lời cho câu hỏi lớn của đời mình
đâu? “Ai cho tao lương thiện?”. “Ai cho tao lương thiện?”... Câu hỏi ấy ngàn
đời còn vang lên. Chí vẫn còn muốn hỏi, muốn nói, muốn kể tội những kẻ đã
đầy đọa, đã bóp méo cuộc đời Chí ư? Những Chí Phèo ơi, Bá Kiến và cả làng
Vũ Đại làm sao trả lời câu hỏi ấy cho anh đây?
Hình ảnh Chí Phèo quằn quại trong vũng máu mãi mãi là nỗi thương
tâm của mọi người.
Cái chết của Chí Phèo cũng là đoạn kết cho tấn bi kịch của những
người dân cày cùng cực dưới xã hội “một cổ hai tròng”. Họ không chỉ là
những người cùng cực bình thường. Họ còn là những người bị lưu manh hóa,
bị tha hóa. Tôi chưa bao giờ muốn gọi Chí Phèo là một thằng lưu manh. Tôi
gọi anh là “người - nông - dân - bị - lưu - manh - hóa”. Trở thành lưu manh
không phải lỗi của hắn mà là tội của bọn cường hào ác bá đã đẩy con người
đến bước đường cùng không lối thoát. Nam Cao hẳn cũng buồn lắm khi
không thể mở ra cho nhân vật của mình một con đường, mặc dù ngòi bút của
ông khi viết về cuộc đời và cái chết của Chí Phèo có vẻ lạnh lùng, dửng dưng
như thể cái chết đó là một điều tất yếu vậy. Cái hay, cái tài của Nam Cao là ở
chỗ đã đưa một kẻ đang bị nhận chìm trong vũng bùn của tội lỗi - một con quỷ
dữ - vụt đứng dậy trong tư thế của một con người, đầy tình cảm của độc giả
từ cao trào của sự ghê tởm, căm ghét, khinh bỉ sang đỉnh điểm của lòng
thương cảm, xót xa mà không hề gượng ép chút nào. Sự chuyển đổi cảm xúc
ấy diễn ra đầy tự nhiên, không gò bó. Chính nhờ Nam Cao mà Chí Phèo đã
có được sức sống mạnh mẽ đến vậy trong lòng độc giả.
Mỗi lần đọc “Chí Phèo” là mỗi lần cảm nhận khác nhau về cảnh đời, số
phận của những con người trong xã hội cũ. Và mỗi lần như vậy, tôi lại càng
thương cảm hơn cho cái dáng vẻ ngất ngưởng, dềnh dàng bước ra từ trang
sách của Chí Phèo. Càng thêm căm ghét cái xã hội bất công cũ đã đầy dọa,
vùi dập, con người hóa côn đồ và cắt đứt đường hoàn lương của họ. Đau
lòng và đau đớn lắm dù biết rằng những gì cảm nhận được về cuộc đời cũ
vẫn còn ít ỏi lắm, nhỏ bé lắm, hữu hạn lắm!
Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.
BÀI LÀM 1
Khi Chí Phèo “Ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam
Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi
là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào
xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán
sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và
linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ” (Giáo sư Nguyễn Đặng Minh).
Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không
chú ý đến cái bi kịch cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng là chủ đề
xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm “Chí Phèo”
“Bi kịch là tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà
con người phải chịu đựng”. Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một
chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước.
Nhiều người khẳng định. Chí xuất hiện tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ
chưa đủ, Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng
nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng dầu tiên của tác phẩm, độc giả
thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động
một cuộc đối thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp, nhờ những câu văn
ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà
người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong
cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn
loài). Chí chửi làng “cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người”...
Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công
nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có người để chửi
nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống - dù là để chửi nhau cũng
không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ
ra mình thì cũng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật
vã, dẫu là vô ý thức, để tìm ra căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khổ
thay, Chí càng chửi càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người
lên tiếng, cũng như sau đó, Thị Nở “không chỉ biết cho mà còn biết giữ”... Giá
như... giá như... chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn
người ở làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ có cơ hội
không xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra... Nam Cao ngược
dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu
quá trình bị cự tuyệt làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời, ông cũng
chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chỉ là một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn (...) một buổi
sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đục để
bên một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà
góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một câu văn dài, dường như đã báo
trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời,
Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ
không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí có lẽ vì lớn lên cùng với những
người lao động, Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết
không thích những cái gì mà người ta khinh”. Anh khát khao “có một gia đình
nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành
cho Chí cái mà anh có thể với trong tầm tay.
Một cơn ghen vu vơ của cụ Bá đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong
kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy - tám
năm. Đây là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí
thành con người khác. “Hắn về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người
của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần thân hình, ở tù ra
trông hắn như một thằng “sáng cả” (lính Tây), đầu trọc lốc, răng cạo trắng
hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng”, (“câng câng” là còn ra cái mặt người), “hắn
mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng, cải ngực phanh ra đầy những nét
chạm trỗ rồng phượng với một ông tướng cầm trùy trông gớm chết”. Đó là
hình hài của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm
trước, hôm sau, Chí đã điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ,
chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền của người có thù (oán thì trả oán, ân
thì trả ân) thì Bá Kiến đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả
được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ
mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ đòi tiền, để đâm
chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Từ đó, hắn chìm trong cơn
say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say.
“Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiều hạnh phúc, làm chảy
máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt
dài. Nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã
xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ
Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có
mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt
quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc
nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát, Chí đành phải dấn thân
vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta
sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi
gặp Thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu
có biết chính xã hội thực dân phong kiến chẳng những đã sinh ra Chí mà còn
nuôi dưỡng tính côn đồ hung hãn của Chí bằng cách tước đoạt dân quyền
làm người của y. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa,
đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì
Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm lửa
nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí
của Thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê
quỷ hờn”, lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng
cõi đời tăm tối của Chí. Tình thương của Thị đã gợi dậy cái tính người mà lâu
nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở, Chí nghe được âm
thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ
hắn mới nghe tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi
chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ
trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm
thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc cô độc còn sợ hơn
đói rét và ốm đau”. Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những
tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự
thương yêu - dù là tình thương yêu của kẻ dở hơi, của một con người con gái
quá lứa lỡ thì, có dòng giống ma hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã
chết. Sức cảm hóa của tình thương vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân
vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người
của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người, Chí
Phèo đã tự tìm cho con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối
để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu ấy chính là Thị Nở. Thị có thể sống
chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và
đau đớn thay cho Chí, Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị,
“đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha,
không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa
lại bị xã hội kia cướp đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa. Chí đau
đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người,
xã hội đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí.
Không ai cho Chí làm người lương thiện kể cả khi Chí đòi làm người lương
thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình. Chí
đau xót cảm thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”. Chí còn cách chết
trong, hơn sống đục. Chí đã nói câu cuối cùng với Bá Kiến và cũng là tự nói
với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc
thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí
là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là
lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người. Chí chết, mồm ngáp ngáp trong
vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình
của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người
nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái
phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể có, nếu
không biết tự kiềm chế và nêu bị các thế lực hắc ám “nuôi dưỡng”.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí do nhiều căn nguyên. Có
căn nguyên từ xã hội và cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con
người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như
một nỗi đau của toàn nhân loại.
HÀ THỊ ANH ĐÀO.
BÀI LÀM 2
Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông
dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng. Khác với đa số
truyện ngắn khác, Chí Phèo vừa phản ánh xã hội nông thôn trên bình diện
dấu tranh giai cấp vừa thể hiện vấn đề con người bị tha hóa. Qua hình tượng
Chí Phèo, một trường hợp nông dân bị lưu manh hoa. Nam Cao không những
đã miêu tả sâu sắc, cảm động cuộc sống đày đọa của người nông dân bị đè
nén bóc lột đến cùng cực, mà còn dõng dạc khẳng định nhân phẩm của họ
trong khi họ bị xã hội vùi dập đến mất cả hình người, tính người.
1. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là một “thằng cùng hơn cả dân cùng”,
không cha không mẹ, không thân thích họ hàng, không nhà không cửa, không
tấc đất cắm dùi..., cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ được chăm sóc bởi một
bàn tay đàn bà” đến nỗi mơ ước được chung sống với một người phụ nữ xấu
đến “ma chê quỷ hờn” cũng không đạt được. Chí Phèo sống cuộc sống tối
tăm của một con vật và chết cái chết thê thảm của một con người, số phận
khốn khổ của Chí Phèo cũng chính là số phận của cả một lớp người cố cùng
dưới đáy xã hội nông thôn Việt Nam cũ.
Từ tuổi thơ “bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ” đến tuổi
thanh niên “làm canh điền cho ông Lí Kiến”, Chí Phèo sống cuộc sống lao
động cực khổ của người cố nông ở nông thôn. Quãng đời lương thiện ấy
chấm dứt khi Chí bị lão Lí Kiến cho giải lên huyện rồi đi ở tù.
Sau 7, 8 năm biệt tích trở về Chí đã hoàn toàn thay đổi. Hắn trở nên xa
lạ với dân làng Vũ Đại và cùng xa lạ với bản thân. Hắn không còn là người
nông dân lao động nữa mà là phần tư bị loại ra ngoài xã hội loài người. Dù
vậy, hình tượng Chí Phèo không phải là ngẫu nhiên, cá biệt xã hội thực dân,
phong kiến trước đây không hiếm những trường hợp người lao dộng bị đề
nén bóc lột đến cùng cực đã quay lại chống trả bằng con đường lưu manh.
Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào nhà tù (giai cấp địa chủ phong kiến còn chỗ dựa
nào tốt hơn là bộ máy cai trị của “nhà nước bảo hộ” trong việc đàn áp nông
dân!) nhà tù thực dân, cái nhà tù đã bắt giam người ta lúc lương thiện và thả
ra khi trở thành hung ác - đã giết chết cái phần người của Chí, biến Chí thành
Chí Phèo, một người nông dân hiền lành thành một con thú dữ. Hiện tượng bi
thảm ấy là có tính quy luật, tính phổ biến trong cái xã hội ăn thịt người đó.
Trong nhiều truyện ngắn khác của Nam Cao, ta đã gặp những họ hàng xa
gần của Chí Phèo: Trạch Văn Đoành (Đôi móng giò), cu Lộ (Tư cách mõ)... và
ngay trong Chí Phèo là Năm Thọ, Binh Chức, những tiền bối gần gũi của hắn.
Chí Phèo chết nhưng hiện tượng Chí Phèo phải chăng, sẽ hết? Nghe tin Chí
Phèo chết, Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và bỗng “thấy thoáng hiện ra một
cái lò gạch cũ bỏ không xa nhà cửa và vắng người lại qua...”. Câu chuyện kết
thúc ở đó. Sau này Thị Nở có tìm đến cái lò gạch cũ và cho ra đời một Chí
Phèo con để “nối nghiệp” bố hay không, điều đó chưa có gì chắc, nhưng có
một điều chắc là: hiện tượng Chí Phèo chưa hết chừng nào bọn địa chủ
cường hào còn tác oai tác quái trên đầu dân lành không cho ai được sống.
“Tre già măng mọc, có bao giờ hết những thằng du côn!” Sức mạnh phê phán
của Chí Phèo trước hết là ở chỗ đã vạch ra thật hùng hồn cái quy luật tàn
bạo, khủng khiếp trong xã hội thực dân, phong kiến đó.
Đi vào cuộc đời người nông dân lưu manh hóa - vừa tiêu biểu cho số
phận cực khổ của người nông dân bị đè nén bóc lột vừa tiêu biểu cho sự tha
hóa đó phổ biến trong cái xã hội tàn phá tâm hồn con người - ngòi bút Nam
Cao đã đạt tới một sức mạnh phê phán mãnh liệt, sâu sắc ít có.
2. Nhưng giá trị độc đáo của Chí Phèo không phải chỉ ở đó. Vẽ nên
hình ảnh người nông dân lưu manh đầy thú tính, Nam Cao không hề bôi nhọ
nông dân mà trái lại, đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật để phát
hiện và khẳng định nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân ngay trong khi họ
bị rách nát cả bộ mặt người, giết chết cả tâm hồn người.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong chuỗi ngày
tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Thị Nở không phải đã khởi dậy bản năng sinh
vật ở nơi gã đàn ông Chí Phèo mà sự săn sóc giản dị, đầy ân tình cùng tình
thương yêu mộc mạc chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã khiến bản
chất người lao động lương thiện trong Chí Phèo thức dậy. Lần đầu tiên sau
bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghẹ thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười
nói của mấy người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá...
Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm
nào chả có, nhưng hôm nay bỗng vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo như
là tiếng gọi tha thiết của sự sống vẳng đến đôi tai lần đầu tiên tỉnh táo của
anh. Chí Phèo ăn bát cháo hành từ tay Thị Nở và bỗng nhận ra rằng cháo
hành ăn rất ngon. Hương vị cháo hành hay hương vị tình yêu thương chân
thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà thấm thìa, lần đầu tiên Chí Phèo
được hưởng? Lần đầu tiên Chí Phèo “mắt ươn ướt nước” và cười cái cười
“nghe thật hiền”. Giờ đây, Chí Phèo mới trở lại là mình, anh rưng rưng và bẽn
lẽn khi trở về với cuộc sống con người. Anh tha thiết được trở lại với xã hội
loài người, anh “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”
Lòng yêu thương, cái tính người cảm động đã thức dậy trong Chí Phèo,
phần sâu kín nhất trong tâm hồn, cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao
động bị che lấp, vùi dập bao nhiêu lâu vẫn không tắt. Xưa kia, Chí Phèo đã
từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị trong lao động. Tuy còn trẻ
trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa:
bị gọi lên bóp chân cho “bà ba”, “anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Bản
chất trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn
cường hào và nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo không chịu trách
nhiệm về tội lỗi của mình. “Trần trụi giữa bầy sói”, anh không thể hiền lành,
mà muốn sống anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh,
gan góc, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, “hắn
say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo gây tội ác một
cách vô ý thức, linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay Chí Phèo không say. Tình yêu đã thức tỉnh anh và hé
mở cho anh con đường trở lại làm người. Anh hồi hộp, hi vọng. Nhưng con
đường ấy bị chặn đứng: bà cô Thị Nở không cho phép cháu bà “đâm đầu đi
lấy một thằng (...) chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ!”. Mọi người đã quen coi
Chí Phèo như một con vật và không công nhận anh là con người từ lâu rồi.
Thế là Chí Phèo rơi vào một bi kịch tâm hôn đau đớn. Bi kịch của một con
người bị cự tuyệt không được làm người. Chí Phèo uống và “ôm mặt khóc
rưng rức”. Anh lại xách dao đi, và như mọi lần, vừa đi vừa chửi.
Nhưng bước chân Chí Phèo hôm nay không hẳn là bước chân loạng
choạng của kẻ say. Anh đến thẳng nhà Bá Kiến chứ không rẽ vào nhà thị Nở.
Có thể vì anh say nên quên dự tính lúc ra đi và đi theo thói quen. Nhưng đúng
hơn là anh đã đi theo sự thôi thúc của lòng căm thù giai cấp vẫn âm ỉ chưa tắt
trong đáy khối óc u tối dày đặc này đã bùng lên. Quằn quại đau khổ vì tuyệt
vọng, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp quyền làm người, cướp
cả hình người, hồn người của mình. Trước Bá Kiến, Chí Phèo “chỉ tay vào
mặt” lão, dõng dạc đòi quyền làm người. Lưỡi đao căm thù của Chí Phèo đã
vung lên.
Không phải là một vụ giết người mới của một Chí Phèo lưu manh mà
đây là một hành động lấy máu rửa thù của người nông dân cùng khổ đã uất
ức vùng lên, vùng lên một cách cô độc, tuyệt vọng, manh động. Giết chết kẻ
thù, Chí Phèo cũng “chỉ còn một cách” kết liễu cuộc đời mình. Ý thức nhân
phẩm đã trở về. Chí Phèo không bằng lòng trở lại cuộc sống thú vật nữa.
Trước đây để bám lấy sự sống, Chí Phèo đã phải bán linh hồn cho quỷ, giờ
đây, linh hồn trở về, Chí Phèo lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình!
Chí Phèo đã chết. Chết vì không tìm ra đường sống. Kẻ thù đã bị đền
tội, nhưng “tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác”. Cuộc sống vẫn
tối tăm.
Qua Chí Phèo, Nam Cao đã như mơ hồ cảm thấy cái khốc liệt của mối
mâu thuẫn giai cấp ngàn đời giữa nông dân và địa chủ không gì có thể xoa
dịu, cái sức mạnh ghê tởm của mối căm thù giai cấp đang âm ỉ trong lòng trật
tự phong kiến nông thôn, càng nén xuống thì càng dễ nổ bùng không gì có
thể dập tắt.
NGUYỄN HOÀNG KHUNG
B. LUYỆN TẬP
1. Nhận định về tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, từ điển văn học có
viết: “Điều đặc sắc là khi miêu tả người nông dân lưu manh hóa, Nam Cao
không hề bôi nhọ nông dân mà trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát
hiện và khẳng định nhân phẩm của họ, ngay trong khi họ bị xã hội cướp mất
cả nhân hình, nhân tính”.
Hãy phân tích nhân vật Chí Phèo để làm sáng tỏ ý kiến trên.
2. Vì sao Chí Phèo lại tự sát sau khi giết Bá Kiến? Từ bi kịch đó, ành
(chị) hãy nêu lên giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả của
truyện ngắn Chí Phèo. (Nam Cao)
3. Phân tích hai câu nói cuối cùng của Chí Phèo với Bá Kiến để cho
thấy rõ chủ đề của tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao)
4. Đọc truyện Chí Phèo (Nam Cao), anh (chị) thích nhất chi tiết hoặc
hình ảnh nào? Hãy viết một bài phân tích hoặc bình giảng về chi tiết, hình ảnh
đó.
5. Phân tích đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện giai đoạn văn: “Hắn vừa đi
vừa chửi (...) cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”.
6. Có người nhận xét: “Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã tạo thành ánh chớp
lên trong chuỗi tăm tối của đời Chí Phèo.. Thị Nở không phải khơi dậy bản
năng sinh vật mà bằng sự săn sóc giản dị ân tình cùng tình thương mộc mạc
của người đàn bà khốn khổ đã khiến bản chất lao động lương thiện trong Chí
Phèo thức dậy”. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua việc phân tích mối tình
Chí Phèo — Thị Nở để khẳng định cái nhìn nhân đạo đầy tin yêu vào con
người của Nam Cao.
7. Sách giáo khoa văn 11 nhận xét: “Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo,
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của ông là niềm tin sâu sắc vào
phẩm chất cao quý của người lao động.
2. “Biển đêm” là một bài thơ trong tập thơ “Tia sáng và bóng tối” của
Vichto Huygô xuất bản năm 1840. Bài thơ viết về số phận những người thủy
thủ.
2.1 Hình ảnh người thủy thủ hiện lên thấp thoáng. Họ lên đường mang
niềm vui của những người được đến chân trời xa lạ:
Buổi ra đi vui sướng đường xa.
Nhưng niềm vui đó lụi tắt ngay. Họ đã:
Chôn vùi thân dưới sóng muôn trùng.
Cơn cuồng phong đã ném họ vào biển khơi muôn trùng. Và, sóng của
đêm như con thú dữ đã vồ lấy họ như vồ mồi. Thi thể họ trôi dạt muôn
phương. Số phận họ thật bi thảm. Hình ảnh: “Trán anh va vào đá nhô đầu” đối
đáp với hình ảnh lúc lên đường.
Sự đối lập đó đẩy nỗi bi đát đến tột cùng. Biện pháp nghệ thuật đó để
lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
2.2 Hình ảnh những người thân: những thủy thủ đã vùi thân trong biển
khơi, nhưng những người thân của họ vẫn đợi chờ, nhắc nhở.
2.2.1 Trên bãi biển, sớm chiều những người cha, người mẹ vẫn đợi
chờ, vẫn hy vọng, ngóng trông.
Các bậc cha mẹ vẫn tin là con mình sẽ về. Ngày lại ngày, họ sống trong
khắc khoải chờ mong.
Số phận họ mới thật bi đát. Người chết đi thì đã đành phận, nhưng còn
người sống thì chỉ còn là sự tồn tại của thể xác, tinh thần thì đã tê cứng, đúng
là:
Lá vàng còn ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời
2.2.2 Và, những người vợ:
Chí đêm đêm giông bão gào bay
Những người vợ bơ phờ mỏi mắt
Kể về anh, khêu lớp tro tàn
Của lòng đau và của lò than
Đêm về, nhà vắng vẻ, những người quả phụ cô đơn cảm thấy thấm thìa
nỗi buồn. Còn những đêm giông bão thì nỗi buồn đó càng da diết: Trống vắng
bơ vơ. Họ ngồi bên lò than, “khêu lớp tro tàn”, “kể về anh”, nhắc lại quá khứ,
thời các anh còn sống, những ngày hạnh phúc. Giờ đây, thời gian đã phủ bụi,
tro tàn bếp lạnh nên họ cố “khêu lớp tro tàn” để lòng đỡ giá lạnh.
Nỗi đau của người chết, của người thân còn được tác giả đẩy đến mức
tột cùng. Tác giả muốn nói với ta về số phận của những người lao động:
Niềm vui thì ít ỏi, nỗi buồn thì mênh mông.
2.2.3 Cuộc sống vẫn trôi di. Người chết không còn biết gì. Cha mẹ, vợ
con sống trong buồn đau khắc khoải. Nhưng đó là nỗi đau riêng, còn cuộc
sống thì vẫn diễn ra bình thường.
Tối đến:
Nhà nhà vui bên lửa vây quanh
Có người vẫn còn nhớ các anh, “nhắc đến tên anh”. Trong họ, có
những người vợ trẻ của các anh. Không chờ đợi được, họ đã yêu người khác
nhưng trong đáy lòng, họ vẫn còn nhớ anh:
Trong khúc hát, tiếng cười, câu chuyện
Giữa cái hôn của cả người yêu.
Mọi người còn nhớ anh, nghĩa là các anh vẫn còn, các anh đang được
hưởng cảnh sung sướng:
Vua đảo này hay gặp chốn giàu sang?
Họ nghĩ rằng các anh đang sung sướng. Có ai biết đâu là cái các anh
đã vùi xác trong biển khơi.
2.2.4 Hoài niệm
Nhưng rồi các anh rơi vào sự quên lãng của thời gian. Đó là điều tất
nhiên. Cuộc đời biết bao lo toan:
Người người lo thuyền lưới, đi cày
Hình ảnh các anh mờ dần
Chẳng ai nhớ dáng hình anh nữa.
Ngay cả tên anh thì cùng với năm tháng, người đời cũng quên đi:
Chẳng còn gì ai biết nữa tên anh.
Các anh chỉ còn là bóng hình trong quá khứ:
Hòn đá trong nghĩa địa vắng tanh
Cả gốc liễu mùa thu trút lá
Và cả người hành khất bên cầu
Hát điệu buồn, ai nhớ anh đâu
Hòn đá trong nghĩa trang, cây liễu thu là những hình ảnh nói lên nỗi cô
đơn. Cô đơn thì dễ hoài niệm. Nhưng hòn đá và gốc liễu cũng không còn nhớ
anh đâu.
Người hành khất bên cầu là kẻ lang thang. Con người khốn khổ đó hát
điệu buồn, nói về những số phận bất hạnh. Nhưng trong điệu buồn đó, người
hành khất cũng quên cả các anh - Đoạn thơ này đẩy sự đau xót đến tột cùng.
2.2.5 Nỗi lòng tác giả:
Trong các khổ thơ trên, thông qua hiện thực miêu tả, nhà thơ đã nói lên
lòng mình. Nhưng phải đến khổ cuối cùng nhà thơ mới trực tiếp nói lên sự
đồng cảm:
Ôi! Đâu hết những người thủy thủ
Chim trong đêm bi thảm đời người
Xót thương cho những người đã chết và cảm thông với những người
thân, những bà mẹ sống trong nỗi kinh hoàng.
Và, trước biển, nhà thơ vẫn nhớ đến những người thủy thủ ra đi không
ngàv về
Phải chăng lúc triều lên sóng vỗ
Những tiếng người tuyệt vọng kêu la
Mỗi chiều về lại đến cùng ta
3. Mở đầu là hình ảnh người thủy thủ mang niềm vui lên đường, kết
thúc là hình ảnh các anh trong tiếng kêu la. Tác giả muốn nói gì với chúng ta?
Cuộc sống của con người lao động là vậy đó. Vui ít, buồn nhiều. Thật bi đát,
Âm hưởng của bài thơ buồn. Nhưng nỗi buồn không làm ta bị lụy. Vì sao vậy?
Cuộc sống đầy rẫy khó khăn. Để kiếm miếng ăn, con người phải chấp nhận
cái chết. Cuộc sống nghiệt ngã là vậy. Người đời phải hiểu điều đó, phải nhớ
những người đã chết cho hôm qua để có cuộc sống hôm nay.
Thông qua nghệ thuật, nhà thơ đã gửi đến chúng ta tấm lòng đồng
cảm, tiếng nói xót thương những kiếp người nghèo khổ.
Sức rung động của “Biển đêm’’ là ở tấm lòng và tài năng của Vichto
Huygô.
CÂU HỎI LUYỆN TẬP
1. Nêu xuất xứ của bài thơ?
2. Hình ảnh người thủy thủ trong hoài niệm của nhà thơ?
3. Cấu từ bài thơ?
ĐẢM TANG LÃO GÔRIÔ
BANZẮC
A. BÀI VĂN
Phân tích đoạn trích “Đám tang lão Gôriô” của Banzắc.
BÀI LÀM
1. Đám tang lão Gôriô được đặt vào một không gian, thời gian xác định
với những con người và sự kiện có thực xảy ra - một đặc điểm bút pháp hiện
thực của Banzắc, đem lại cho người đọc ấn tượng như thật về sự kiện được
kể.
Đó là ấn tượng về sự thê thảm, cô đơn, về số phận người nằm xuống -
một người cha tử tế và đứng đắn, có hai cô con gái giàu sang, là ấn tượng về
nỗi nhạt nhẽo, vô ơn của tình người và sự lạnh lùng đến tàn nhẫn của cái xã
hội tôn thờ đồng tiền. Đoạn trích có giá trị hiện thực và khái quát đến mức
điển hình. Nó góp phần quan trọng vào việc thể hiện chủ đề tác phẩm.
Bố cục đoạn trích có thể xác định như sau:
- Đám tang từ quán trọ của bà Vôke đến nhà thờ và cuộc hành lễ tại
nhà thờ.
- Đám tang đi từ nhà thờ đến nghĩa trang.
- Raxtinhắc sau đám tang.
2. Một đám tang vội vàng
Đám tang diễn ra trong một không gian, thời gian xác định. Lão Gôriô
chết tại quán trọ của bà Vôke, cuộc hành lễ tổ chức tại nhà thờ Thánh Êchiên
duy Mông và chôn cất tại nghĩa địa cha Lasezơ. Đấy là con đường đi đến nơi
an nghỉ cuối cùng của lão Gôriô.
Cảnh chiều tàn, không khí ảm đạm, vắng vẻ. Ánh sáng và màu sắc
càng thê lương trên nghĩa địa, khi cuối cùng, phía xa xa, trung tâm thành phố
đã lên đèn. Buổi lễ cầu hồn diễn ra dưới ánh sáng lờ mờ của một giáo đường
nhỏ, thấp và tối. Lễ chôn cất thực hiện trọng buổi Hoàng hôn ẩm ướt. Khung
cảnh thật rầu rĩ, thê thảm.
Đám tang còn thê thảm hơn với một thời gian nghi lễ vội vàng, gấp rút,
qua quýt: nghi lễ trong nhà thờ hết hai mươi phút, giờ đưa ra nghĩa địa là năm
giờ rưỡi, sáu giờ rưỡi hạ huyệt. Tác giả nêu sự chính xác đến từng phút.
Công việc vội vã, sơ sài, dường như còn thể hiện ở cả những dòng văn ngắn
ngủi: một bài thánh kinh, bài kinh siêu độ, bài kinh cầu hồn, bài kinh đọc lúc
hạ huyệt ngắn ngủi, đọc xong là nhà đạo biến ngay. Dường như không ai
nghe thấy những lời cầu kinh của các vị nhà đạo, tiếng của chú bé hát lễ,
tiếng khóc của người thân và bạn bè.
Người ta thường đo tính chất trang trọng của đám tang bằng kích
thước thời gian. Bởi đây là những nghi lễ cuối cùng đối với người đã khuất.
Nhưng đám tang lão Gôriô lại là một đám tang buồn thảm, vội vã, sơ sài, qua
quýt. Yếu tố thời gian đã được nhấn mạnh để làm tăng ấn tượng trên.
3. Một đám tang không người đưa tiễn
Nỗi bi đát thật sự, nỗi đau đớn tận cùng đối với số phận người ra đi là
đám tang không có người đưa đám, như nhận xét của vị linh mục. Kể làm gì
những kẻ khiêng đòn, phu đào huyệt, đám người nhà thờ. Một người cha tử
tế và đứng đắn, chưa bao giờ to tiếng, không hề làm hại ai, vậy mà đến lúc
nằm xuống, trong giờ phút “nghĩa tử là nghĩa tận” (tức nghĩa vụ cuối cùng với
một con người) con cháu chẳng một ai, không một kẻ thân thích kề bên. Vậy
mà lão Gôriô có những hai cô con gái! Hai cô con gái yêu quý mà anh đang
được đặt trên ngực lão Gôriô: cái hình ảnh thuộc về một thời mà Đenphin và
Anaxtazi còn bé bỏng, lúc hấp hối lão còn nhắc đến tên. Hai cô con gái sống
ở rất gần mà lúc ở nhà thờ, Raxtinhắc hoài công để ý tìm nhưng không hề
thấy. Hai cô con gái giàu sang mà ngay đến cả bài kinh ngắn ngủi cầu cho
ông cụ cũng do chàng sinh viên nghèo trả tiền.
Một “nhân vật” đặc biệt xuất hiện trong đám tang: hai cỗ xe không
người hiện diện của nó chỉ làm tăng nỗi bi đát của người đã khuất. Đây chính
là “người đại diện” cho hai nhân vật quan trọng nhất của đám tang: hai cô con
gái, những người thân cuối cùng, duy nhất của lão Gôriô. Rõ ràng, hai cô và
hai gia đình đều biết chuyện bố mất, nhưng họ đều “bận” không đến được, và
không hẹn mà cùng cử hai chiếc xe đến thay, không người, không tiền bạc.
Hai cái xe không diễn tả được việc vừa có mặt vừa vắng mặt của hai cô
con gái. Vắng mặt thật và có mặt giả. Nếu không có hai chiếc xe ấy, linh hồn
người cha xấu số đỡ bất hạnh hơn. “Nhân vật” hai cỗ xe không qua đã có khả
năng hùng hồn trong việc diễn ta sự nhẫn tâm vô bờ của con người trong
quan hệ máu mủ, ruột rà.
Còn có một sức mạnh vô hình ám ảnh dám tang lão Gôriô. Là nguyên
nhân của nỗi bạc bẽo của người đời, của người thân thích đối với người đã
khuất - đó chính là đồng tiền. Trong một đám tang, người ta ít nhắc đến tiền,
bởi ở đó, không khí thành kính với người đã khuất và nỗi đau thương của
người đang sống ngự trị tất cả. Vậy mà Banzắc đã không ngần ngại nhắc đến
tiền - biểu tượng của sự lạnh lùng, sòng phảng, trong đoạn văn rất ngắn này:
anh ta (Crixtôphơ) kiếm được mấy món tiền kha khả, những nghi lễ xứng
đáng với giá tiền bảy mươi quan, bài kinh ngắn ngủn... chàng sinh viên trả
tiền, hai gã đào huyệt mới hất được vài xẻn đất đã đòi tiền đãi công. Tất cả
các chi tiết này đã qui tụ lại hình ảnh tuy lạc lõng với đám tang nhưng có sức
mạnh chi phối quan hệ giữa người và người: tiền.
4. Một đám tang - chôn hai người
Đám tang đã chôn lão Gôriô, người cha bất hạnh. Nhưng không chỉ
như vậy. Một nhân vật có mặt suốt từ đầu đến cuối đám tang là Raxtinhăc. Đó
là một chàng sinh viên nghèo, sống cùng quán trọ với lão Gôriô, biết tường
tận về sự giàu sang cũng như sự nhẫn tâm của các cô con gái Gôriô và tình
yêu thương con cũng như sự bất hạnh đau khổ của lão. Lão Gôriô chết,
chàng một mình chạy đến báo tin cho các cô con gái, tự mình đưa quan tài
lão Gôriô đi làm lễ chôn cất và tự trả tiền tất cả. Trước sự tàn nhẫn, vô ơn của
những đứa con, sự lạnh lùng, sòng phảng của người đời, chàng đã nghẹn
ngào rơi nước mắt: giọt nước mắt... của một trái tim trong trắng, thứ nước
mắt rơi xuống mặt đất rồi từ đó lại vút lên trời cao.
Nhưng đấy lại là giọt nước mắt trong trắng cuối cùng của Raxtinhăc. Từ
đây, tính cách chàng đã thay đổi. Sự kiện cuối cùng này của tiểu thuyết Lão
Gôriô được tiếp tục ở những tiểu thuyết khác: Raxtinhăc chấp nhận lối sống
tư sản, tàn bạo, nhẫn tâm, và cố gắng bằng đủ mọi thủ đoạn xấu xa để ngoi
lên trong xã hội tư sản.
Do vậy, còn có thể nói, đám tang lão Gôriô cũng đã chôn vùi luôn cả
hình ảnh một thanh niên trong trắng, biết yêu thương, biết xúc động trước
những tình cảm chân thật của con người, biết căm giận cái ác, cái tàn nhẫn,
xấu xa... để chỉ còn lại một kẻ tán thành chính lối sống tàn bạo, nhẫn tâm,
sặc mùi tư sản ấy.
5. Yếu tố kì ảo duy nhất
Đoạn trích đã thể hiện tài năng của Banzắc trong việc sử dụng các chi
tiết hiện thực không chỉ mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc mà còn có ý nghĩa
điển hình và khái quát cao. Bên cạnh những chi tiết đời sống chân thực như
chuyện cử hành tang lễ vội vàng trong một không gian chật hẹp, thời gian
ngắn ngũi, ai cũng nghĩ đến tiền bạc trong cái đám tang nghèo khó này, hai
cỗ xe không người đi đưa đám..., nhà văn đôi khi vẫn sử dụng yếu tố tượng
trưng, kì ảo. Đó là hình ảnh giọt nước mắt chân thực, trong trắng, đầy tình
thương của chàng sinh viên nghèo, giọt nước mắt rơi xuống đất rồi lại vút lên
trời cao. Một yếu tố kì ảo nhất trong vô số các chi tiết hiện thực chính xác. Nó
bộc lộ sự đánh giá và những tình cảm chủ quan của nhà văn bên sự khách
quan lạnh lùng của việc miêu tả hiện thực. Tất cả đã góp phần tạo dựng nên
bức tranh xã hội và tình người rất toàn vẹn, tinh vi và sâu sắc của Banzắc,
“bâc thầy của chủ nghĩa hiện thực”.
Về tác phẩm, chính Banzắc đã phát biểu: “Lão Gôriô, cuốn sách tuyệt
vời, nhưng buồn ghê gớm là buồn, để nói lên sự thật đầy đủ, phải vạch ra cái
đạo đức thối tha của Pari”. Chọn vấn đề cha con để miêu tả, Banzắc đã trình
bày bi kịch của lão Gôriô - một người cha - một bi kịch không chỉ có tính chất
cá nhân mà mang ý nghĩa xã hội. Sự tan vỡ của tình cha con là hậu quả của
một xã hội bị thế lực của đồng tiền thống trị. Vào giờ phút hấp hối, người cha
bị ruồng bỏ, “vua Lia của thế kĩ XIX”, nhận thấy tai họa của sự đổ vỡ gia đình,
cá nhân: “Tổ quốc sẽ bị diệt vong nếu như những người cha bị giày xéo dưới
chân xã hội, thế giới dựa trên tình cha con, tất cả sẽ sụp đổ nếu những đứa
con không còn yêu thương cha chúng nữa”…
Đọc “Hạnh phúc một tang gia” (Số đỏ - Vũ Trọng Phụng) và “Đám tang lão Gôriô”(Lão Gôriô – Bazắc) anh chị có suy nghĩ gì không? Hãy phân tích hai đoạn trích để nói cảm nhận của mình.
BÀI LÀM
Có những nhà văn trên thế giới hoàn cảnh sống hoàn toàn khác nhau
nhưng lại gặp nhau ở cùng một quan điểm nghệ thuật. Bởi lẽ dù ở thời đại
nào thì những vấn đề sâu xa nhất thuộc về bản chất xã hội cũng vẫn cứ gặp
nhau, giống nhau, đi chung một con đường và phát triển cùng quy luật.
Ô. Banzắc là một nhà văn lớn của nước Pháp ở thế kỉ XIX, Vũ Trọng
Phung là nhà văn lớn của Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX. Hai nhà văn, hai
cuộc đời, hai hoàn cảnh sống nhưng lại có điểm giống nhau về bản chất của
xã hội tư bản.
Đọc Lão Gôriô của Ô. Banzắc chắc chắn không ai quên những trang
viết sắc lạnh đến tàn nhẫn của nhà văn khi miêu tả đám tang lão Gôriô. Cũng
như vậy, ta gặp lại cảnh đám tang trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
qua tiếng cười hoạt kê, châm biếm sâu sắc bản chất của xã hội tư sản Việt
Nam những năm đầu thế kỉ này.
Lão Gôriô là một tư sản giàu có một thời. Ông chủ hãng buôn bán lúa
mì ấy đã một thời khiến nhiều người mơ ước. Vậy mà đến khi khánh kiệt vì
gia tài bị con gái bòn rút, lão phải ra ở quán trọ của bà Vôke. Cái chết của lão
trong quán trọ không khiến cho một ai trong gia đình lão phải bận tâm. Lão
còn gì để người ta phải để ý? Lão chết trong cô đơn, nghèo khó. Nếu không
có sự quan tâm của Ráxtinhắc thì không hiểu ai sẽ chôn cái xác đau khổ ấy.
Cảnh chuẩn bị cho đám tang hết sức sơ sài. Ráxtinhắc làm công việc cuối
cùng với người chết bằng lòng thương của kẻ khó với kẻ khó. Anh đặt lên
ngực lão Gôriô hình ảnh ngây thơ trong trắng “và không biết lí sự” của hai cô
con gái ngày xưa. Kỉ vật thiêng liêng ấy được đặt nơi trái tim lão như muốn an
ủi người đã khuất bằng hình ảnh đẹp, giả dối về hai đứa con. Nghĩa tử là
nghĩa tận. Có lẽ Ráxtinhắc nghĩ vậy mà cố làm nốt công việc này để coi đó
như một cử chỉ an ủi người quá cố. Nó an ủi ông cụ, nhưng khách quan lại
đối lập với hiện tại. Cả hai người con gái đã từng được bố yêu chiều hết mức
đều tìm cớ vắng mặt ngay trong phút cuối cùng của đời lão. Nó khiến cho ta
nghĩ đến nhiều điều trái ngược và cả sự pha trộn phức tạp quá khứ và hiện
tại, chân thật và giả dối, ước mơ và thất vọng... Phải chăng từ sâu thẳm lòng
mình lão Gôriô chết vì đau đớn nhận ra chân tướng của các con gái. Xót xa,
chua chát hơn là những cử chỉ thân thiết, cảm thông của những con người
không phải là ruột thịt, nghèo hèn mà thương người, giàu tình nghĩa. Người
ngoài mà còn nhận xét về lão Gôriô: “Ông cụ là người tử tế và đứng đắn,
chưa bao giờ to tiếng, không hề làm hại ai và chưa từng làm điều gì nên tội”.
Cảnh này lên án sự vô tình, bạc bẽo của hai cô gái vắng mặt: Ông bố già
nghèo túng, ốm đau, đơn chiếc chết đi có lẽ đã lầm trút tất cả tình yêu thương
và của cải của họ. Ông bố hết của cải dường như không còn cần thiết, do đó
không còn quan hệ gì với hai người con gái lấy chồng quý tộc.
Lễ cầu kinh dẫn ra trong một giáo đường nhỏ, thấp. Con người dự lễ thì
thiếu vắng. Chỉ có Raxtinhắc và Crittôphơ. Lão Gôriô nằm trong sự âm thầm,
cô quạnh, như lặng đi trong niềm xúc động nén chặt. Lễ cầu kinh diễn ra đúng
nghi thức với những đại diện của tôn giáo và nhà thờ, với các lớp bài bản
quen thuộc của tôn giáo trong đám tang. Nhà văn chỉ dùng vài dòng miêu tả
ngắn. Lễ cầu hồn không thêm một lời nói, một động tác, một giây phút thừa.
Không có cả một không khí bi thương, tang tóc, thường thấy trước một linh
hồn vừa được siêu thoát. Tất cả dường như đều vội vã, qua quýt, lấy lệ, cho
thật xứng đáng với số tiền ít ỏi mà nhà đám đã bỏ ra, cho đúng với tính chất
bố thí (làm phúc). Đúng là tiền “nào của ấy”, thật sòng phẳng, đúng luật,
chẳng còn phàn nàn gì được. Duy chỉ thiếu tình người ở những trong “người
nhà đạo” đang là nơi gửi gắm niềm tin cậy ở phần lớn các con chiên.
Đám tang không có người dự. Ta có thể hình dung một đám tang mà
chỉ có độc nhất một chiếc xe tang, theo sau là xe của linh mục cho phép thêm
cả Ráxtinhắc và Crittôphơ, một sự trống vắng đến thê thảm.
Hai chiếc xe đến sau, mang cùng một cung cách hai ông con rể. Chi tiết
ấy khác nào một nét vẽ nghịch mắt. Một nét giễu cợt. Hai chiếc xe bất ngờ,
treo huy hiệu quý tộc, chúng cố ý tách riêng ra để nêu cao vẻ sang trọng,
kênh kiệu, để khỏi bị hòa lẫn trong đám tang. Chúng miễn cưỡng phải có mặt
theo nghĩa vụ, hay xấu hổ vì phải nhận kết thân với một người quá nghèo
hèn? Hiện tượng không có người ngồi trên hai chiếc xe đưa tang cũng có thể
nói lên ý nghĩa của một cái chết. Cả cái xã hội hào nhoáng kia chỉ là cái xác
mà chẳng có hồn. Đó cũng là một thứ vật chất giá lạnh không tình người.
Đến nghĩa trang, màn kịch bước vào giai đoạn chót. Đám người đưa
tang chỉ vì nghĩa vụ, mệnh lệnh, chỉ chờ dịp “biến” càng nhanh, càng tốt.
Không một tiếng khóc than. Không một vẻ sầu bi. Không một nắm đất đưa
tiễn. Ông cụ nằm đấy đất chưa phủ lên người đã bị bọn phu đào huyệt đòi trả
công. Tất cả, chẳng có gì đáng trân trọng, chẳng có gì đáng quyến luyến,
chẳng có gì đáng bận tâm trong cái nhá nhem, chạng vạng của một ngày tàn -
đã quá sáu giờ chiều. Chỉ còn có hơi tiền lạnh lẽo và sự vô tình cũng lạnh lẽo
không kém ở xứ sở của cái chết - nghĩa địa.
Dưới ngòi bút của Banzắc cả xã hội ấy chỉ vì tiền. Đồng tiền được tôn
thờ, lối sống vì tiền đã ăn sâu vào đến tận những ngõ ngách thầm kín dễ rung
động nhất, dễ được bao dung nhất. Nó tàn phá tan hoang tất cả những gì đẹp
đẽ.
Có những trái tim trong trắng, chưa từng trải cũng bị đồng tiền làm thui
chột đi. Raxtinhắc nhỏ những giọt nước mắt cuối cùng cho một con người “tử
tế và đứng đắn”, “không hề làm hại ai và chưa từng làm điều gì nên tội”.
Những giọt nước mắt của anh bao trùm cả trời đất như muốn khóc cho thói
đời bạc bẽo, khóc cho cả xã hội tư sản vô tình đến tàn nhẫn. Nhưng sự phá
hoại của đồng tiền thật là ghê gớm. Nó làm cho con người có lương tri còn
sót lại cũng bị biến chất. Ban đầu anh căm ghét, khinh bỉ đồng tiền để rồi sau
đó thấy nó và cuộc sống của nó cũng “lấp lánh ánh đèn... rào rào” như cái tổ
ong mật đáng thèm khát. Anh muốn lại gần muốn thử thách với nó.
Banzắc đã lên án nó một cách mạnh mẽ. Ông kết tội cả xã hội bạc tình
bạc nghĩa, phủ nhận nó trong khi vạch ra sức mạnh ghê gớm và sức hút khó
cưỡng lại của nó như những qui luật khắc nghiệt của xã hội tư sản. Đó cũng
chính là chỗ tiến bộ của Banzắc - bậc thành chủ nghĩa hiện thực, đồng thời
cũng là hạn chế của nhà văn.
Nếu Banzắc sử dụng một bút pháp sắc lạnh để phê phán thì trong Số
đỏ, Vũ Trọng Phụng lại dùng bút pháp hoạt kê để miêu tả. Chẳng có đám tang
nào đem lại hạnh phúc cho một gia đình. Vậy mà ở chương Hạnh phúc của
một tang gia người đọc lại cảm nhận được tất cả niềm vui sướng, hạnh phúc
của một gia đình, một xã hội trước đám tang của cụ cố tổ. Mỗi thành viên từ
trong gia đình đến ngoài xã đều tìm niềm hạnh phúc theo cách riêng của
mình.
Cuộc họp bàn giữa các thành viên chủ chốt của gia đình là cuộc họp
bàn vô cùng quan trọng khi ông cụ “nằm xuống”. Bên ngoài nhìn vào ai cũng
tưởng là cuộc họp quan trọng bàn về việc “báo hiếu”, bởi lẽ họ bàn căng
thẳng, cụ cố Hồng và cụ bà đã cãi nhau rất lâu, ông Văn Minh thì “đăm đăm,
chiêu chiêu”. Thực chất họ không bàn chuyện tổ chức đám tang mà lại bàn
chuyện lo đám cưới cho cô Tuyết. Thế là từ chuyện “báo hiếu” sang chuyện
“báo hỉ”, từ chuyện khóc sang chuyện cười. Cụ cố Hồng - con trai trưởng -
trước cái chết của ông bố đáng kính thì mơ màng, tưởng tượng lúc mặc xô
gai, được ho khạc, khóc mếu, trước sự trầm trồ thán phục của thiên hạ “Úi...
con giai nhớn đã già đến thế kia à?”. Ông cháu đích tôn Văn Minh thì đăm
chiêu vì tìm cách trả ơn Xuân, và lo chia gia tài theo chúc thư. Ông Phán mọc
sừng sung sướng vì cái sừng vô hình trên đầu lại có giá trị vài nghìn bạc. Cô
Tuyết mong ông chết để được mặc bộ “ngây thơ”. Tú Tân sung sướng vì
được chụp ảnh. Tiệm may âu hóa thì hạnh phúc vì sẽ thu được nhiều tiền khi
đưa ra thị trường những “đặc sản” nhà mình là các kiểu quần áo tang. Cái
chết của cụ cố tổ là niềm hạnh phúc lớn lao, niềm hạnh phúc không nén nổi,
cứ tràn ra. Nó chẳng làm cho ai sầu não, tiếc thương mà trái lại đã làm chc
nhiều người “sung sướng” lắm, “thỏa thích” lắm để “tưng bừng, vui vẻ” đi đưa
cáo phó, gọi phường kèn, thuê ke đám ma... Thành ra “tang gia ai cũng vui vẻ
cả”. Đó là không khí của ngày chuẩn bị hội hè vui vẻ.
Mâu thuẫn giữa cái thật và cái giả, giữa cái bên ngoài và cái thực chất
bên trong cứ được nhà văn miêu tả qua nghệ thuật trào phúng xuyên suốt
cảnh đám ma. Khác với đám tang của lão Gôriô, đám tang này rất trọng thể,
đúng là “một đám ma gương mẫu” nhưng kì thực lại giống như một đám hội,
đám rước.
Nếu đám tang lão Gôriô là đám tang của kẻ khó thì đám tang này lại
phô bày sự sang trọng, thừa thải của tất cả mọi thứ. Từ cái trịnh trọng cần có
đến cái hổ lốn, hỗn độn không nên có. Một đám ma “to tát”, “long trọng”, có
kiệu bát cống, lợn quay đi lọng. Vài trăm câu đối vòng hoa, vài trăm người đi
đưa, máy ảnh chụp lia lịa như ở hội chợ... kèn đám ma thì đầy đủ cả ta, Tàu,
Tây... (Ta nhớ đến lễ cầu hồn của lão Gôriô chỉ là hai mươi xu). Đám ma to
tát đến nỗi người thật thà nhất trong gia đình này là cụ bà mà cũng cảm thấy
“hết sức sung sướng”. Người hàng phố thì “nhốn nháo cả lên khen đám ma
to”. Đám to đến nỗi “có thể làm cho người nằm trong quan tài nếu không mỉm
cười sung sướng thì cũng gật gù cái đầu”.
Kì thực, những cái “to tát”, “long trọng”, "danh giá” của cái “đám ma
gương mẫu” ấy chỉ là sự phô trương giả dối, lộ liễu, hợm người, hợm của lố
lăng, vô văn hóa. Cảnh ấy cho thấy ở xã hội ấy người ta quen và rất thích, rất
bằng lòng với sự lừa dối mọi người, lừa dối chính mình bằng những trò lòe
loẹt, om sòm.
Nhà văn muốn đưa lên cận cảnh một vài nhóm nhân vật ngoài xã hội
cùng chung hưởng niềm hạnh phúc ấy. Đó là sự hí hửng, mẫn cán của hai
viên cảnh sát Minđơ, Mintoa được thuê giữ trật tự cho đám ma. Đó là những
quan khách đến viếng đám ma để có dịp khoe các loại huân chương và các
kiểu râu ria. Đó là những bộ mặt “trai thanh, gái lịch” đi đưa để “cười tình
nhau”, “chê bai nhau”, “hẹn hò nhau”... hoặc khoe khoang của cải, sở thích...
Đáng mỉa mai là họ làm tất cả những việc ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của
những người đi đưa đám. Những mẩu đối thoại mà họ nói với nhau khi tác giả
có ý ghi lại đã nói lên rằng: Những kẻ đi đưa ma hoàn toàn dửng dưng với
người chết. Bởi họ đều thản nhiên vui vẻ, để soi mói, ngắm nghía, bình phẩm
nhau với những chuyện đồi bại thường ngày.
Đám tang của lão Gôriô tẻ nhạt, thiếu vắng, nghèo khổ nhưng ít nhất
còn được một người dưng nhỏ vài giọt nước mắt xót thương, còn được lời
nhận xét chân thành cuối cùng bằng sự cảm thông trân trọng, ở đây đám tang
này được cả xã hội chú ý, quan tâm, tốn tiền, hao của, thừa thải mọi thứ. Vậy
mà trong sự to tát, trọng thể ấy vẫn thiếu một thứ quan trộng nhất là lòng
thương tiếc, sự đau buồn chân thành với người đã khuất. Thiếu một chút ấy
thôi thì tất cả đều trở nên vô nghĩa và giả dối. Hàng trăm người đi đưa, cảnh
con cháu khóc tưởng ngất đi, cảnh chụp ảnh có dàn dựng như sân khấu kia,
cảnh kèn ta, tàu, tây với bao thứ nghi thức cồng kềnh kia liệu có khiến cho
người chết “mỉm cười sung sướng” khi nhận ra vẻ dửng dưng, sung sướng
của những người đưa đám mình không?
Những người đưa đám lão Gôriô đều cố gắng đi cho thật nhanh, về cho
thật nhanh còn ở đây đám tang cụ cố cứ từ từ chuyển động một cách nghiêm
trang khi thực đây đâu phải là đám ma thật mà chỉ là đám hội đám rước vui vẻ
như một trò hề hấp dẫn. Kết thúc đám tang của lão Gôriô là cái nhìn của
Raxtinhắc về nguồn ánh sáng hấp dẫn của xã hội thượng lưu mà anh đang
chuẩn bị lao vào. Màn cuối cùng của đám tang cụ cố tổ là ông cháu rể quý
hóa khóc rống lên, la oặt người đi trong khi tranh thủ thanh toán một món tiền
với Xuân... Cảnh này là đỉnh cao của sự trào phúng trong màn kịch một đám
ma gương mẫu” vì sự giả dối bịp bợm đã lên tới độ vô liêm sỉ đến ghê tởm.
Hai cảnh đám ma diễn ra với hai con người cùng thuộc giai cấp tư sản
nhưng lại đối lập nhau. Sự đối lập về hình thức tổ chức đám tang nhưng lại
thống nhất ở bản chất của nó. Banzắc và Vũ Trọng Phụng đã cùng gặp nhau
ở một điểm. Đó là sự thống nhất ở cách nhìn nhận và đánh giá giai cấp tư
sản và cả xã hội của những kẻ thượng lưu danh giá. Banzắc cố tình miêu tả
sự giá lạnh về mọi thứ tình cảm trong xã hội ấy vì sự chi phối của đồng tiền.
Mọi sự thật giả đều được phơi bày qua giọng văn lạnh lùng, phũ phàng đến
tàn nhẫn. Ngược lại Vũ Trọng Phụng lại thể hiện bút pháp đối lập sâu sắc qua
nghệ thuật châm biếm cái thật giả. Mọi sự ồn ào, huyên náo của đám tang,
mọi sự “tưng bừng”, nhộn nhịp của xã hội ấy cũng nhằm mục đích che đậy cái
bản chất lạnh lùng đến vô tình vì đồng tiền. Cảnh đám ma trong xã hội tư sản
giả dối, bịp bợm. Con cháu lão Gôriô vô tình với lão vì chúng đã bòn rút hết
tiền của lão. Con cháu cụ tổ làm đám ma linh đình như thế cũng chỉ nhằm
mục đích chia tiền của cụ, để rồi khi đã chia xong rồi thì cụ cũng lại rơi vào
quên lãng như lão Gôriô. Đó là điều mà Vũ Trọng Phụng đã gặp Banzắc ở
cùng luồng tư tưởng: Hai cái chết là liều thuốc thử nghiệm với cả xã hội tư
sản.
Xưa nay văn học thế giới viết về cảnh tang ma không hiếm. Nhưng lại
như một sự vô tình những người biên soạn sách giáo khoa văn học lớp 11 lại
chọn cảnh hai đám ma này trong chương trình giảng dạy. Sự so sánh hai
cảnh này có vẻ như khập kiễng nhưng ít nhất cũng đem lại cho người đọc
một nhận thức mới về nội dung: Văn học phản ánh hiện thực bằng nghệ thuật
điển hình hóa.
TÔI YÊU EM
A.PUSKIN
A. BÀI VĂN
Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình qua bài thơ “Tôi yêu em” của Puskin
BÀI LÀM
Bài thơ Tôi yêu em là một bài thơ tình đặc sắc của Puskin. Ta tìm gặp ở
bài thơ tâm hồn Nga, tính cách Nga, hồn thơ Nga sôi nổi, đằm thắm, ngọt
ngào...
Tôi yêu em đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai...
Ghi nhận sự có mặt của câu thơ đầu là hình ảnh của chủ thể trữ tình.
Nó không bằng một cái tên cụ thể nào hết, mà là em và tôi. Nhân vật tôi ư?
Không cần thiết phải nghi vấn, là người khác hay tác giả. Thống nhất nhưng
không đồng nhất. Thơ trữ tình luôn lưu ý ta về đặc điểm này. Và em nữa,
cũng như tôi vậy thôi. Chỉ có điều em và tôi là hai trong một chính thể. Tôi yêu
em, vâng, tôi đã yêu, yêu say đắm, yêu vô vọng và cuồng nhiệt. Em không
biết ư? Nó chưa tắt đâu, chưa tàn đâu, hay đúng hơn, sẽ không bao giờ lụi
tàn đâu. Tôi yêu em bằng tình yêu số một, tình yêu duy nhất, tình yêu vĩnh
cửu. Có lẽ em không biết, nhưng với tôi, trước sau không khoảng cách, bởi
tôi là tôi. Tôi không phải là một người nào khác.
Nhưng không muốn em bận lòng thêm nữa
Hay hồn em phải gợn sóng u hoài.
Từ sâu thẳm của tôi là nỗi đau của sự chấm dứt một mối tình - một mối
tình cô đơn và lạc lõng. Tôi yêu em, nhưng tôi không muốn làm bận em, hay
gây day dứt cho em. Tôi đứng giữa hai con đường. Tất cả đều khó tin và đều
buồn như nhau. Mặc dầu thế tôi càng yêu em. Trái tim mách bảo với tôi
không thể rủ bỏ dễ dàng được đâu. Đã có sự mâu thuẫn giữa con người suy
nghĩ và con người hành động. Một mối mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí đã
giằng xé tôi, co giật tôi. Chia tay thì tôi đã tự nguyện chia tay, nhưng câu thơ
sao trăn trở rớm máu! Tự nguyện mà sao lòng quặn lại, xót xa... Càng day
dứt, càng đau, càng yêu. Tôi muốn có em, nhưng tôi biết rằng không thể. Tôi
đứng đứng ở tư thế yêu và rất yêu nhưng chỉ là tình cảm từ một phía. Tình
yêu tôi mất phương hướng, tôi chao đảo, tôi chới với. Em đấy, nhưng rất xa
xôi, có thể tôi không bao giờ với tới được.
Tôi yêu em âm thầm không hi vọng
Khi rụt rè, khi hậm hực lòng ghen.
Tôi đơn phương? Điều đó quá rõ. Biết rằng tôi yêu em, nhưng : cũng
biết là không mơ có được em. Tôi yêu một cách vô vọng. Ý thức đấy tôi tới
một mối bi kịch sâu sắc. Điệp từ Tôi yêu em như một minh chứng về sự yêu
tột đỉnh của tôi. Yêu và ghen, đó là sắc thái tự nhiên của tình yêu, càng đơn
phương, càng vô vọng, tôi càng tự biểu hiện mình rõ rệt và tự nhiên hơn. Bài
thơ Tôi yêu em - đó là tiếng lòng của tôi, nhưng tôi phải để cho em tự do lại là
tiếng nói đầy lí trí. Rụt rè, mãnh liệt, hậm hực, ghen tuông... trong tình yêu, ấy
là điều dễ có. Si mê, đau khổ và cao thượng, vô vọng nhưng kết thúc, tôi đã
thốt lên:
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.
Một câu thơ vị tha, một tấm lòng vị tha. Tình đơn phương mà không tàn
lụi đi. Trái lại, tình cảm của tôi càng thêm mãnh liệt. Giọng điệu cũng như tâm
trạng thơ, vừa thiết tha, vừa đau đớn. Đó chính là ấn tượng riêng của tôi yêu
em.
Bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu hi vọng, bao nhiêu cay đắng và day dứt,
tôi đã cất lên được tiếng lòng mình: Tôi yêu em.
HAI TÂM TRẠNG
(Trích Chiến tranh và hòa bình)
L.TÔNXTÔI
A. BÀI VĂN
Phân tích đoạn trích “Hai tâm trạng” trong tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình” của L. Tônxtôi.
BÀI LÀM
1. Lep Nicôlaievits (1982 - 1910) là nhà văn vĩ đại của Nga và thế giới.
Ông là tấm gương tìm tòi về sự thật. Một trong những sự thật mà Tônxtôi tìm
kiếm suốt đời, đó là tìm hiểu sự thật lịch sử và bản chất tính cách Nga. Về sự
thật lịch sử, ông đã dựng lại những biến cố lịch sử trọng đại có liên quan đến
vận mệnh toàn dân, dựng lại bức tranh linh hoạt rộng lớn với các tầng lớp xã
hội. Từ đó, nhìn nhận và đánh giá các biến cố lịch sử theo quan điểm nhân
dân, coi quần chúng nhân dân như người sáng tạo lịch sử, như ngọn nguồn
đạo đức và sức mạnh của cộng đồng. Điều này thể hiện qua tất cả các tác
phẩm mang tính sự thi, từ Truyện Xevaxtôpôn đến Chiến tranh và hòa bình.
Đánh giá cao cống hiến của Tônxtôi, Lênin coi Tônxtôi là “tấm gương phản
chiếu cách mạng Nga”.
Dường như Tônxtôi đã miêu tả được bản chất tính cách Nga qua một
số nhân vật như Natasa, Cutudôp, Karataiep... (Chiến tranh và hòa bình). Đó
là những tính cách tốt đẹp, những tâm hồn giản dị, những “trí tuệ của trái
tim”...
Bên cạnh những bức tranh tuyệt vời về đời sống Nga, đặc điểm nghệ
thuật nổi bật của các tác phẩm Tônxtôi là sự xâm nhập một cách nhuần
nhuyễn bản chất quá trình phát triển xã hội vào quá trình phát triển tâm lí con
người. Nói đơn giản, tác phẩm Tônxtôi đã đạt đến trình độ phân tích tâm lí
xuất sắc khi coi cuộc sống là một quá trình vận động và tâm lí con người “như
một dòng sông”, lưu chuyển không ngừng.
2. Chiến tranh và hòa bình là tác phẩm lớn nhất của L.Tônxtôi, được
gọi là “tác phẩm vĩ đại của thế kỉ XIX”(Gorki). Với chủ đề chiến tranh, nhà văn
ca ngợi cuộc chiến tranh nhân dân, bản chất anh hùng và khả năng quyết
định vận mệnh đất nước của nhân dân, phê phán cuộc xâm lược bành trướng
của Napolêông. Trong chủ đề chiến tranh, nhà văn mô tả cuộc sống sinh hoạt
bình thường của giai cấp quý tộc Nga. Xen vào hai chủ đề đó là việc kể về
con đường đi tìm chân lí của một số thanh niên quý tộc tiến bộ. Tác phẩm là
đỉnh cao của nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí con người, còn được gọi
là nghệ thuật về “phép biện chứng tâm hồn”.
“Hai tâm trạng” là đoạn trích nói về tâm trạng nhân vật Anđrây
Bôncônxki, một thanh niên đại quý tộc, có tư tưởng tiến bộ, từ tâm trạng buồn
bã, bi quan chuyển sang yêu đời, yêu sự sống. Đây là một thiên diễn tả tâm lí
tinh vi, xuất sắc, thể hiện tài năng nghệ thuật của L.Tônxtôi. Muốn hiểu được
đoạn trích này, cần biết đôi điều về nhân vật Anđrây Bôncônxki.
Anđrây là một thanh niên đại quý tộc, thông minh, sắc sảo, tinh tế, giàu
nghị lực và nhiều hoài bảo. Là mẫu người quý tộc tiên tiến, lí tưởng của thời
đại, của nước Nga thế kỉ XIX, chàng khao khát chân thực, cao thượng, căm
ghét mọi giả dối, xấu xa, thấp hèn. Nhưng xã hội thượng lưu - môi trường
sống của chàng lại đầy rẫy những giả dối, công thức, xấu xa. Mâu thuẫn giữa
khát vọng và hiện thực chuyển thành xung đột nội tâm. Vì vậy, cả cuộc đời
chàng luôn đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi về chân lí, hạnh phúc, về
những giá trị đạo đức, tinh thần. Thực chất, những vấn đề luôn nung nấu
trong tâm hồn Anđrây cũng là những vấn đề mang tầm cỡ dân tộc, thời đại và
nhân loại mà chính L.Tônxtôi cũng day dứt và khao khát khám phá suốt đời.
Trốn chạy xã hội thượng lưu cũ kĩ, sáo mòn, giả dối, Anđrây hăm hở ra trận
tìm vinh quang cá nhân. Chạm trán với cái chết, Anđrây mới nhận thức được
rằng, vinh quang không thể có khi con người mưu cầu mục đích cá nhân, đặc
biệt trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa mà cuộc chiến tranh 1805 là ví dụ.
Trở về nhà, Anđrây đột ngột phải chứng kiến cái chết đau thương của người
vợ trẻ trong cơn sinh nở. Tuyệt vọng, đau đớn vô cùng, tâm hồn chàng trở
nên khép kín, lãnh đạm, thờ ơ với cuộc sống.
Đoạn trích “Hai tâm trạng” miêu tả giai đoạn này trong cuộc đời Anđrây.
Những day dứt, dằn vặt, suy tư và sự chuyển biến đột ngột, mạnh mẽ trong
tâm hồn chàng được phản chiếu qua một hình ảnh thiên nhiên độc đáo: cây
sồi già.
3. Một cây sồi - hai tâm trạng
Hiện lên trước mắt người đọc là hai bức tranh của cùng một cây sồi
trong một khu rừng vào hai thời điểm tương đồng với hai tâm trạng khác biệt
của Anđrây. Bức tranh thứ nhất được chiêm ngưỡng bằng con mắt buồn bã,
chán nản, bi quan của Anđrây bắt đầu chuyến đi xa. Bức tranh thứ hai được
soi rọi bằng ánh sáng rực rở của một tâm hồn đã hồi sinh, tràn ngập lòng yêu
đời, yêu sự sống của Anđrây trên đường về. Khoảng cách hai tháng giữa hai
chuyến đi với những sự kiện, những cuộc gặp gỡ là cơ sở hiện thực hợp lí
cho sự đổi thay bất ngờ trong tâm hồn nhân vật. Là vật chứng kiến, cây sồi
như tâm gương thu gọn, ánh chiếu rõ nét những chuyển biến tinh vi trong bộ
mặt tâm lí nhân vật với hai thời điểm khác nhau này. Những sắc thái đổi thay
trên toàn cảnh thiên nhiên chính là sự khúc xạ của những biến đổi trong thế
giới nội tâm, một thế giới sâu xa, phức tạp và đầy bí ẩn của con người.
Lần thứ nhất, Anđrây gặp cây sồi là vào đầu mùa xuân. Mùa xuân lưu
dấu trên mọi vật dọc đường đi của chàng. Mọi cây cối, cảnh vật đều ở trạng
thái mới mẻ, tinh khôi, dấu vết của một mùa xuân sinh sôi, nảy nở, đẹp tươi.
Vậy mà cây sồi vẫn bất chấp phép nhiệm màu của mùa xuân: vỏ cây nứt nẻ
đầy những vết sứt sẹo, ngón tay quều quào, rạn gẫy, sây sát, trông như một
quái vật già. Phép nhân hóa khiến cây sồi hiện lên sống động, như một thực
thể có linh hồn, đầy cá tính. Vẻ già nua, xấu xí của cây sồi tương ứng với tâm
trạng bên trong của nó, bộc lộ qua một loạt tính từ miêu tả: cau có, lầm lì, què
quặt, khinh khỉnh. Giữa rừng xuân tràn ngập ánh nắng và sức sống mà cây
sôi già vẫn thở than, rên rỉ với những lời lẻ mỉa mai, chán chường, nghi ngờ
cái gọi là mùa xuân, hạnh phúc, tình yêu! Điệp từ dối trá, khờ khạo, điên rồ,
được lặp đi lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh nỗi nghi ngờ, sự mỉa mai. Lời lẽ
ấy, dáng vẻ ấy đặc biệt gây ấn tượng đối với Anđrây khiến chàng phải ngoái
cố nhìn lại cây sồi mấy lần, dường như chờ đợi ở nó một cái gì. Lời thở than
của cây sồi đồng vọng với những tâm tư sâu thẳm trong trái tim chàng: “Phải
cây sồi ấy nói phải, một ngàn lần phải... cuộc đời của chúng mình hết rồi”.
Anđrây đọc được tâm sự cây sồi hay cây sồi cảm nhận, thấu hiểu những uẩn
khúc lắng sâu trong tâm hồn chàng? Có lẽ với một trái tim nhạy cảm, Anđrây
đã nhìn thấy chính tâm trạng mình, con người mình qua vẻ cô đơn, già nua,
khép kín và tuyệt vọng của cây sồi: sự hoài nghi, vẻ ngờ vực ghê gớm, niềm
bi quan sâu sắc... Kí thác nỗi niềm tận đáy tâm tư vào cây sồi cô độc, buồn bã
giữa rừng xuân tràn trề nhựa sống. Anđrây như thấy thiên nhiên, đất trời cùng
chia sẻ nỗi buồn, tìm thấy ở cây sồi một hỗn hòa hợp, một lời tri kỉ, một chốn
sẻ chia, giải bày. Nhà văn đã hình tượng hóa nét lãnh đạm, thờ ơ với cuộc
sống của Anđrây bằng cách đối lập với khu rừng mùa xuân đầy sức sống và
đồng nhất nó với hình ảnh cây sồi cằn cỗi, cau có, khinh khi...
Cảnh rừng xuân thứ hai hiện ra tươi mát, trong sáng, sống động và đầy
hương sắc: Cây cối đầy đặn, rợp bóng và rậm rạp, lá cây xanh mọng, óng
ánh dưới nắng, cảnh vật nở hoa, tiếng họa mi thánh thoát. Trung tâm của bức
tranh rừng xuân đó vẫn là cây sồi dạo trước với đầy đủ dáng vẻ cao xa,
khoáng đạt và tráng lệ, tạo nên một bức phong cảnh tuyệt đẹp, hùng vĩ về
rừng Nga: Tỏa rộng thành một vòm lá xum xuê, xanh tốt thẫm mà, đang như
say sưa ngây ngất, khẽ đung đưa trong ánh nắng chiều... xuyên qua lớp vỏ
cứng già. Những khóm lá non xanh tươi đã đâm thẳng ra ngoài. Mùa xuân và
quy luật tự nhiên đã chiến thắng, từ cây sồi tỏa ra hừng hực sức sống mùa
xuân với vẻ đẹp mạnh mẽ, muôn đời của tự nhiên. Hòa với trạng thái mới mẻ
của cây sồi, Anđrây bỗng có một cảm giác vui sướng vô cớ đầy sức xuân,
cảm giác mình đã đổi mới. Tâm hồn đã hồi sinh mãnh liệt của chàng được
phụ họa, được tiếp sức bởi cả sức xuân của cây sồi hùng vĩ trong rừng Nga.
Dường như nỗi bi quan, niềm nghi ngờ, sự tuyệt vọng của Anđrây đã bị sức
sống của rừng xuân, của tuổi trẻ đẩy lùi.
Dùng thiên nhiên làm thước đo thế giới tâm hồn con người. Tônxtôi coi
việc hòa nhập, mở lòng trước thiên nhiên là dấu hiệu của một tầm hồn nhạy
cảm và tinh tế, phong phú và mạnh mẽ.
4. Bí mật của hai tâm trạng - phép biện chứng tâm hồn
Lí giải cho những chuyển biến, những vận động tinh vi trong tâm hồn
nhân vật, Tônxtôi đã sử dụng điêu luyện nghệ thuật miêu tả độc thoại nội tâm.
Đó là những ý nghĩ thầm kín, là lời nhân vật tự nhủ thầm hoặc nói to lên với
chính mình, bộc lộ trực tiếp mọi sắc thái của bộ mặt tinh thần nhân vật.
Những nghĩ suy thầm kín không chỉ thể hiện những suy tư, xúc cảm mà còn
bộc lộ sâu sắc, tinh vi sự vận động, lưu chuyển biện chứng của thế giới nội
tâm nhân vật. Hơn nữa, độc thoại nội tâm thường thể hiện sự tự nhận thức
của nhân vật với những day dứt, trăn trở, giằng xé, mâu thuẫn trong tâm hồn.
Đoạn độc thoại “Sống hay không sống” của Hămlet (Hămlet - Sêcxpia), của
Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích (Truyện Kiều - Nguyễn Du), của Chí Phèo buổi
sáng tỉnh rượu (Chí Phèo - Nam Cao) là những ví dụ. Còn khi cuộc sống nội
tâm thanh nhàn, phẳng lặng, ít phải nghĩ ngợi, con người đâu cần đến độc
thoại nội tâm! Trong độc thoại nội tâm, những liên tưởng, hồi ức luôn xen kẽ,
con người thường nhớ về quá khứ, suy ngẫm hiện tại và khẳng định cách
ứng xử trong tương lai. Dùng biện pháp độc thoại nội tâm, nhà văn có khả
năng thâm nhập vào chiều sâu tâm lí nhân vật, phát hiện sự vận động biện
chứng tâm hồn con người với những nguồn gốc, động lực sâu xa của những
suy tư và xúc cảm...
Cuối phần một, sau lời lẽ cây sồi già và lời đồng tình hưởng ứng của
Anđrây là lời độc thoại nội tâm chậm rãi, lặng buồn: một loạt những ý tưởng
mới mẻ, vô hi vọng nhưng buồn dìu dịu do cây sồi già gợi lên. Tất cả những
phảng phất một nỗi buồn sâu lắng (bởi những sự kiện đã diễn ra trong đời
chàng đều đau đớn mạnh mẽ, sâu sắc) mà dịu nhẹ (vì tất cả đã lùi vào dĩ
vãng). Chỉ còn đây một con người sống nốt cho hết cuộc đời mình, không còn
hi vọng gì về hạnh phúc, tình yêu, lẽ sống, không ưu tư, không ước muốn.
Cuối phần hai, một loạt những hồi ức tốt đẹp nhất, ân tượng nhất của
cuộc đời Anđrây dồn dập ùa về trong tâm hồn chàng.
- Chiến trường Auxterlitx với bầu trời cao lồng lộng.
Cách đâv bốn năm, năm 1805, Anđrây tham gia trận Auxterlitx với giấc
mộng công danh, mong muốn đạt được chiến công như của Napôlêông - từ
một đại úy trở thành hoàng đế khiến cả thế giới phải nể phục, nhờ một trận
đánh lẫy lừng - trận Tulông. Giấc mộng Tulông ám ảnh suốt một thời tuổi trẻ
của Anđrây. Trong trận chiến với quân Pháp tại Auxterlitx, Anđrây cầm cờ
xông lên và trúng đạn ngã xuống. Chàng nhìn lên, thấy bầu trời xanh vô tận
trên đầu. Tới lúc ấy, chàng mới nhận thấy hết cái vô nghĩa, bé nhỏ của việc đi
tìm vinh quang bằng con đường chiến tranh, gây đổ máu và chết chóc. Bầu
trời cao lồng lộng từ lúc đó là nơi soi sáng, thức tỉnh tâm hồn chàng. Hình ảnh
ấy thường trở đi trở về trong nghĩ suy và tình cảm của Anđrây nhất là vào
những khúc ngoặt của cuộc đời.
- Khuôn mặt đầy vẻ trách móc của vợ khi tắt thở
Sau khi bị thương ở Auxterlitx, Anđrây đột ngột về nhà trong một đêm
đông giá lạnh đúng lúc vợ chàng sinh đứa con đầu lòng và qua đời. Khuôn
mặt nàng đượm vẻ trách móc. Anđrây ân hận, đau buồn vì cái chết của vợ. Bi
kịch vỡ mộng ở chiến trường cùng bi kịch gia đình đã đẩy Anđrây vào tâm
trạng chán chường, tuyệt vọng.
- Pie trên chuyến phà
Đang trong tâm trạng ấy thì Pie - Pêdukhốp một người bạn thân, hiền
lành, tốt bụng đến thăm Anđrây. Trên chuyến phà, Pie khuyên Anđrây hãy
sống vì người khác, quên đi nỗi buồn đau của riêng mình.
- Và kỉ niệm gần nhất còn tươi rói trong tâm hồn chàng là người con gái
bồi hồi, xúc động muốn bay lên với vầng răng.
Tất cả những hồi ức và liên tưởng ấy - bài học cay đắng nơi chiến
trường, kỉ niệm đau thương về người vợ, tấm lòng chân thành của người bạn,
vẻ đẹp hồn nhiên, tươi trẻ, đầy sức sống của cô gái mới quen - đã làm
Anđrây bừng tỉnh. Phút thay đổi tâm hồn được diễn tả bằng nhịp điệu gấp
gáp, sôi động của câu văn. Cái tâm trạng náo nức, hăm hở, đầy nghị lực, biểu
hiện trong những lời khẳng định dứt khoát, mạnh mẽ, quả quyết: “Không,
cuộc đời chưa chấm dứt ở tuổi ba mươi mốt”. Anđrây đã hiểu rằng không thể
chỉ đắm chìm trong đau khổ, cần phải vượt lên sự cô đơn, không phải chỉ
sống vì mình mà phải biết sống vì người khác. Dòng suy tư thể hiện rõ ràng
và sinh động năng lực tư duy khúc chiết, trong sáng của công tước Anđrây,
một con người trung thực, chân thành, giàu nghị lực. Vào giờ phút này,
Anđrây đã tìm được câu trả lời cho niềm day dứt suốt đời mình: sống cho
mình hay sông cho mọi người? “Sao cho cuộc sống của ta trôi qua không
phải chỉ vì mình ta”. Câu trả lời đã giúp chàng trở nên mạnh mẽ, giàu nghị lực
và niềm tin trên con đường đi tìm chân lí, bởi chàng vốn là người “dốc hết tâm
hồn đi tìm một điều duy nhất, làm sao trở thành người tốt hoàn toàn”. Nhân
vật Anđrây Bôncônxki mang một vẻ đẹp trí tuệ sâu xa và tâm hồn cao cả vì lẽ
đó.
Qua đoan trích “Hai tâm trạng”, chúng ta có thể cảm nhận được phong
cách và cá tính sáng tạo của Tônxtôi. Bằng ngòi bút hiện thực, tài phân tích
tâm lí tinh vi, sắc sảo, nhà văn miêu tả con người như nó đang tồn tại, tính
cách con người được quan niệm như một dòng sông, vận động và lưu
chuyển không ngừng. Động lực của phép biện chứng tâm hồn bắt nguồn từ
những cảm xúc, suy tư, những trăn trở trong tâm hồn con người để vươn tới
sự hoàn thiện mình. Để đi sâu vào phép biện chứng tâm hồn đó, Tônxtôi triệt
để sử dụng hai phương thức nghệ thuật. Một là, dùng thiên nhiên để vừa tạo
dựng phong cảnh, không gian, thời gian, không khí và phong vị Nga, vừa góp
phần khắc họa những diễn biến tâm lí tinh vi của nhân vật. Chiến tranh và hòa
bình đã có những bức tranh thiên nhiên trở thành mẫu mực cổ điển trong kho
tàng văn chương thế giới về miêu tả nội tâm: bầu trời Auxterlitx lồng lộng của
Anđrây Bôncônxki, đêm trăng huyền ảo ở Otratnôiê của Natasa Rôxtôva, bầu
trời đầy tiếng nhạc thần kì đêm trước trận chiến đấu của Pêchia Rôxtôp, ngôi
sao Chổi rực sáng trên nền trời Matxvơva của Piê Bêdukhốp, và hình ảnh cây
sồi già mùa xuân của Anđrây. Đó là những hình tượng thiên nhiên độc đáo,
tượng trưng cho những gì cao cả, tốt đẹp, vĩnh hằng mà các nhân vật này
khát khao vươn tới, Hai là, nhà văn đã dùng ngôn ngữ miêu tả độc thoại nội
tâm để thâm nhập và phản ánh dòng suy tư, cảm xúc của nhân vật một cách
chính xác, khúc chiết và đầy tinh tế, khiến cho nhân vật của Tônxtôi có một
chiều sâu tâm lí, một sự đầy đặn về tâm hồn và một tầm cao trí tuệ khó quên.
BÀI THƠ “28”
R.TAGORE
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “28” trong tập thơ “Dâng” của R.Tagore.
BÀI LÀM
1. Rabinđranat R.Tagorẹ (1861 - 1941) là nhà thơ, nhà viết kịch, nhà
văn hóa thiên tài của Ấn Độ. R.Tagore đã để lại cho kho tàng văn học Ấn Độ
và thế giới một di sản lớn lao: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết...,
đặc biệt là tập thơ Dâng được giải thưởng Nobel năm 1913.
Cống hiến vĩ đại nhất của R.Tagore là ở chỗ ông đã phát huy được
truyền thống đấu tranh yêu nước và nhân đạo chủ nghĩa của dân tộc Ấn Độ,
kết hợp với tinh hoa văn hóa Phương Tây.
R.Tagore ca ngợi tình yêu thương cao cả giữa con người một cách
chân thành, rộng mở với lòng từ bi và đức tin của truyền thống tôn giáo Ấn
Độ. Ông tiếp thu những nét tích cực trong chủ nghĩa nhận đạo phương Tây,
như đòi hỏi giải phóng cá tính, đề cao tinh thần tự giác đấu tranh cho tự do,
đòi công bằng bác ái, tin ở sức mạnh con người.
Theo R.Tagore, con người là đáng tôn thờ nhất, do đó, ông đề xướng
“tôn giáo con người”. Tầng lớp nhân dân lao động cùng khổ cũng được
R.Tagore luôn quan tâm.
Mặc dù chủ nghĩa nhân đạo của R.Tagore có màu sắc duy tâm, huyền
bí, nhưng nội dung cơ bản của nó vẫn là yêu đất nước, yêu con người, yêu
sự sống.
Yêu thiên nhiên là một đặc điểm nổi bật trong cá tính R.Tagore.
R.Tagore chủ trương con người cần hòa đồng với thiên nhiên, coi thiên nhiên
như người bạn tâm tình và là đối tượng của thơ ca. Trong các tác phẩm của
R.Tago, thiên nhiên xuất hiện không chỉ như môi trường sống, hoạt động của
con người mà là một thế giới mĩ lệ, một thế giới của cái đẹp, của nghệ thuật,
của thơ ca.
Tính đa cảm, thích trầm tư là đặc điểm khác trong cá tính đã ảnh
hưởng rất rõ trong các tác phẩm của R.Tagore. Ông rung động trước tất cả
mọi điều, dù là nhỏ nhặt của cuộc sống, đặc biệt là vẻ đẹp thiên nhiên, con
người và nỗi đau khổ con người. Nét trầm tư, suy nghĩ đã tạo nên chất triết lí
với các cung bậc ý nghĩa, chiều sâu tình cảm trong thơ ông. Tác phẩm của
R.Tagore tràn ngập tinh thần dân tộc, yêu nước, chống thực dân, thức tỉnh
niềm khát khao giải phóng, độc lập, tự do của nhân dân Ấn Độ. Bên cạnh đó,
văn thơ R.Tagore còn chứa chan một tình yêu thiên nhiên và niềm tin mãnh
liệt vào cuộc sống và con người.
Bút pháp nghệ thuật R.Tagore vừa mang tính hiện thực vừa giàu chất
biểu tượng. Dưới cái vỏ thần bí, cao siêu vẫn cháy bỏng một lòng tin yêu
cuộc sống và những vấn đề của cuộc đời trần tục hàng ngày. Thơ trữ tình
R.Tagore là những bản tình ca say đắm, là bức tranh thiên nhiên mĩ lệ muôn
màu và những hình ảnh lung linh, huyền diệu.
2. Bài “28” được tin trong tập Người làm vườn, là một trong những bài
thơ tình hay nhất thế giới. Bài thơ khẳng định: tình yêu là sự đồng điệu, hòa
hợp, dâng hiến tâm hồn, tin yêu và hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau. Nhưng trái tim
con người, thế giới tâm hồn con người lại mãi là một cõi bí mật lớn lao. Chính
vì vậy, việc tìm tới sự đồng điệu, chan hòa vào thế giới tâm hồn của người
yêu luôn là những khát khao không bao giờ vươn tới nổi. Điều đó tạo nên vẻ
hấp dẫn muôn đời của tình yêu.
Chất triết lí được trình bày qua những lập luận chặt chẽ với một hệ
thống hình ảnh rực rỡ, sinh động. Với cách đặt vấn đề, phản đề, nghi vấn, giải
thích để đi tới chân lí, bài thơ rất đặc trưng cho tư duy người Ấn: tìm tới chất
triết lí trong muôn vàn hiện tượng đời sống.
- Những nghịch lí muôn đời của trái tim
Nghĩa bài thơ được diễn theo tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến
trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa triết lí, và cảm xúc trong bài cũng được
nâng dần theo các tầng nghĩa của bài. Sự đan chéo giữa lời lẽ của một người
tình pha một triết gia làm cho ý nghĩa và cảm xúc trong bài thơ càng thêm sâu
sắc, cao siêu.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đối mắt - “cửa sổ tâm hồn”. Đôi mắt ấy,
dưới con mắt nhà thơ, như ánh sáng kì diệu của trời đất, đang muốn rọi sáng
tân đáy sâu của trái tim người yêu, như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Đó
chính là niềm khát khao hòa hợp tâm hồn, là khát vọng muốn chan hòa và
thấu hiểu người mình yêu. Nhưng đôi mắt ấy cũng đủ chứa một nỗi băn
khoăn, u buồn vì khát khao trên là vô vọng.
Rất chân thành, chàng trai thô lộ: “Anh đã để cuộc đời anh trần trụi
dưới mắt em, Anh không giấu em một điều gì”. Nhưng, một nghịch lí xảy ra:
“Chính vì thế mà em không biết gì cả về anh”. Vì sao vậy? Bởi tất cả những
điều em biết về anh đều mới chỉ là cái bề ngoài (ví như ăn mặc, hành động,
lời nói... ), còn cái đáy sâu thăm thẳm của tâm hồn anh, trái tim anh (những
suy nghĩ, cảm xúc) dễ đâu nắm bắt được.
Vẫn một mực chân thành, chàng trai sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho
người yêu. Cả đoạn thơ là những lời nguyện ước thiêng liêng với những hình
ảnh, từ ngữ đẹp đẽ, sang trọng. Nhưng cái phần cuộc đời ấy vẫn chỉ là những
cái đó có thể nắm bắt được, dù rất quý giá, cao sang. Một phản đề được đưa
ra: cái quý giá nhất của cuộc đời chàng trai lại là một trái tim - một thế giới
tinh thần bí ẩn, vô biên, một vương quốc mà em là nữ hoàng, là người làm
chủ nó mà cũng không thể biết được biên giới của nó xa gần, rộng hẹp đến
đâu. Đây chính là một khoảng cách không bao giờ phá vỡ nổi, một đỉnh cao
không bao giờ bị chinh phục của tình yêu. Niềm hòa hợp, đồng cảm dù đẹp
đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính hay của trái tim con
người.
Một giả thiết lại được nêu lên: Nếu trái tim chàng trai có những phút
giây lạc thú, thì người yêu cũng dễ chia vui bằng nụ cười nhẹ nhõm, nếu trái
tim chàng khổ đau thì người yêu cũng thông cảm bằng hàng lệ trong.
Nhưng chàng trai tự biết mình có một trái tim phức tạp hơn nhiều: trái
tim anh lại là tình yêu. Một trái tim đâu chỉ có những vui sướng, khổ đau dễ
chia sẻ, cảm thông, mà bao gồm nhiều nỗi đối lập, mâu thuẫn: vừa sung
sướng - vừa khổ đau, vừa thiếu thốn — vừa giàu sang, mà tất cả đều vô biên,
trường cửu, một thế giới bí ẩn, không giới hạn, không ai có thể đo đếm được
(ca dao Việt Nam cũng từng có một câu mang ý nghĩa tương tự: “Sông sâu
còn có kẻ đo, Lòng người ai dễ mà đo cho tường”).
Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một: anh xin dâng hiến trọn vẹn
cuộc đời anh cho em. Ý hai: nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn
vẹn trái tim anh. Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong
những lập luận của toàn bài.
Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hòa vào tâm hồn
người yêu và cái bí ẩn không gì khám phá nối của trái tim là những đối lập tồn
tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hòa hợp trọn ven trong tình yêu là điều không
thể đến, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.
Nếu mỗi người tình đều biết hướng về cái trọn vẹn, để nắm bắt, dựng
xây, điều đó sẽ đem đến hạnh phúc trong tình yêu.
Phải chẳng đấy là triết lí tiềm ẩn của thơ tình R.Tagore?
- Sức mê hoặc, quyến rủ của nghệ thuật bài thơ “28”
Bài thơ là một hệ thống tầng tầng lớp lớp những hình ảnh tượng trưng
và so sánh: đôi mắt em muốn nhìn... như trăng kia muốn rào sâu biển cả (sự
khao khát hòa hợp, thấu hiểu tâm hồn), đời anh là viên ngọc, đóa hoa (những
gì đẹp đẽ nhất, quý giá nhất của đời anh), em là nữ hoàng của vương quốc
đó (em là người làm chủ trái tim anh), em có biết gì biên giới của nó đâu (cái
bí ẩn vô biên của trái tim anh)... Hệ thống những hình ảnh tượng trưng, so
sánh này làm cho những hình ảnh của tình yêu, của tâm hồn, của trái tim
người đang yêu được mĩ lệ hóa, lung linh những sắc màu huyền diệu. Bài thơ
mang tính chất, mê hoặc vì lẽ đó.
Đây là một bài thơ trữ tình giàu chất triết lí. Chất triết lí của bài thơ thể
hiện trên nhiều bình diện: Đó là những lập luận, đưa ra giả thiết rồi phản bác
lại với những mẫu câu lặp lại: Nếu... chỉ là... nhưng. Sự vật của đời sống
không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để
tìm sự thật cuối cùng. Nhà thơ hướng về cái vô hạn của vũ trụ (biển cả,
vương quốc) để xác định giới hạn, bản chất của thế giới tâm linh - phần bí ẩn,
sâu xa nhất của tâm hồn con người và nêu lên những đối lập, mâu thuẫn
muôn đời như là những quy luật vĩnh cửu của tình yêu.
Tago muốn nói điều gì về tình yêu? Có lẽ ông muốn nói lên một chân lí:
tình yêu là một cuộc dâng hiến trọn vẹn và khám phá, đi tìm. Nhưng trái tim
tình yêu mãi mãi vẫn là những điều bí ẩn. Chiếm lĩnh cái bí ẩn, vô bờ, không
giới hạn của tâm hồn người yêu sẽ luôn là những khát khao vĩnh cửu của con
người.
TÀI LIỆU SỬ DỤNG CHÍNH
1 - Một số bài giảng thơ văn Hồ Chí Minh. NXBGD 1984
2- Thơ và lời binh (Vũ Quần Phương) NXBGD 1989
3- Giảng văn 1930 - 1945 (Văn Tâm) NXBGD 1991
4- Giảng văn (tập 1 & 2) (trường ĐHSP TPHCM) 1981
5- Thơ và thẩm bình thơ (Nguyễn Công Trứ) 1990
6- Những bài giảng chọn lọc (ĐHSP Hà Nội) 1991
7- Tác phẩm văn học (Hà Minh Đức chủ biên) NXBKHXH 1991
8- Những bài giảng văn ở đại học (Lê Trí Viễn) NXBGD 1982
9- Văn học dân gian VN trong nhà trường (Nguyễn Xuân Lạc) NXBGD
1998
10- Cảm nhận và suy tưởng (Hoàng Thiệu Khang) NXB Văn học 1994
11- Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp (Nguyễn Thị Dư
Khánh) NXBGD 1995
12- Nam Cao một đời người, một đời văn (Nguyễn Văn Hạnh) NXBGD
1993
13- Giảng văn dưới ánh sáng ngôn ngữ học (Đài Xuân Ninh) NXB
TPHCM 1985
14- Giảng văn (2 tập) NXBĐH & THCN
15- Nhĩ từ công việc dạy văn (Đỗ Kim Hồi) NXBGD 1997
16- Tiếng nói tri âm (2 tập) NXB Trẻ 1994 & 1996
17- Tinh hoa thơ mới... (Lê Bá Hán chủ biên) NXBGD
18- Giảng văn văn học Việt Nam NXBGD 1997
19- Phân tích thơ văn 12 (Đỗ Kim Hồi – Nguyễn Đức Quyền) NXBGD
1998
20- Những bài làm văn chọn lọc 12 Trần Đồng Minh
21- Những bài làm văn chọn lọc 12 Đỗ Kim Hồi chủ biên, NXBGD 1998
22- Những bài làm văn chọn lọc 11 Đặng Hiển chủ biên.
23- Giới thiệu đề thi tuyển sinh (Nguyễn Xuân Lạc - Trần Đồng Minh).
24- Giảng văn (Trần Đình Sử Tuyển) NXB Hà Nội.
25- Để viết hay bài văn 12 (Trần Đình Sử - Phan Huy Dũng - Nguyễn
Đăng Điệp)
26- Trên đường bình văn (Vũ Dương Quỹ) NXBGD 1993
27- Một số nhân vật trong tác phẩm tự sự ở sách giáo khoa 12 (Vũ
Dương Quỹ chủ biên) NXBGD 1996
28- 21 bài văn hay (Lưu Đức Hạnh - Đinh Văn Hiền) NXB Hải Phòng
1997
29- Nam Cao (Văn Giá tuyển chọn) NXBGD 1997
30- 20 bài giảng văn chọn tuyển (10, 11, 12) (Nguyễn Sĩ Bá — Nguyễn
Quốc Văn - Nguyễn Quang Trung - Trần Trung)
31- 217 đề và bài văn (Nguyễn Đặng Minh chủ biên)
32- Những bài làm văn chọn lọc (Trần Đồng Minh - Dương Thanh Vân -
Võ Thị Quỳnh)
33- 45 bài văn 10, 11, 12 Thái Quang Vinh
34- Những bài làm văn chọn lọc 10, 11, 12 Thái Quang Vinh.
35- Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 10, 11, 12 NXBGD 1998
36- Đề ôn luyện lớp 12 PTTH môn Văn ( Nguyễn Văn Long chủ biên)
NXBGD 1993.
MỤC LỤC
• Kiêu binh nổi loạn
• Bài ca ngất ngưởng
CAO BÁ QUÁT
• Dương phụ hành
• Bài ca ngất ngưởng & Dương phụ hành
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
• Bài học thấm thìa.
• Ý kiến Hoài Thanh
• Văn tế Nghĩa sĩ cần Giuộc
• Xúc cảm
TÁC GIẢ NGUYỄN KHUYẾN
• Ý Xuân Diệu.
• Lòng yêu nước
• Thu vịnh
• Thu điếu
Thu ẩm
• Chùm thơ mùa thu
• Khóc Dương Khê
• Tiếng khóc chân thành.
• Thái độ Nguyễn Khuyến qua tiếng khóc
• Độc đáo trong tiếng khóc bạn
TÚ XƯƠNG
• Thương vợ
• Mồng hai Tết viếng cô Kí
• Hương sơn phong cảnh ca
PHAN BỘI CHÂU
• Về thơ văn Phan Bội Châu
• Bài ca chúc Tết thanh niên
• Xuất dương lưu biệt
• Thề non nước
• Cha con nghĩa nặng
XUÂN DIỆU
• Sự nghiệp.
• Thiên nhiên
• Đây mùa thu tới
• Vội vàng
Thơ duyên
• Tràng giang
• Đây thôn Vĩ Dạ
• Tống biệt hành
• Chữ người tử tù
THẠCH LAM
• Đặc điểm truyện ngắn của Thạch Lam
Hai đứa trẻ
SỐ ĐỎ
• Xuân tóc đỏ
• Hạnh phúc một tang gia
• Vắn tắt sự nghiệp Vũ Trọng Phụng
NAM CAO
• Đời thừa
• Chí Phèo
• “Thơ hay là thơ giản dị...”
• Người nông dân 1930 - 1945
• Thơ lãng mạn 1930 - 1945
VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
• Ngang trái
• Biển đêm
• Đám tang lão Gôriô
• Tôi yêu em
• Hai tâm trạng
• Bài thơ 28
---//---
NHỮNG BÀI VĂN CHỌN LỌC PTTHBỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY LỚP 11
TƯ LIỆU THAM KHẢODÀNH CHO PHỤ HUYNH VÀ GIÁO VIÊN
LÊ LƯƠNG TÂM - THÁI QUANG VINH
- NGÔ LÊ HƯƠNG GIANG - TRẦN THẢO LINH
(Tuyển chọn và giới thiệu)
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 17 Quang Trung - Đà Nẵng
Tel: 0511.822434 - Fax : 0511.822250
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc : VÕ VĂN ĐÁNG
Tổng biên tập: NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Biên tập: HUỲNH YÊN TRẦM MY
Bìa: ĐỖ DUY NGỌC
Sửa bản in: HOÀNG HỮU
In 1.500 cuốn, khổ 16 x 24 cm. Tại cty CP In Bến Tre. Giấy TNKHXB số:
51/583/XB - QLXB. QĐXB số: 380/QĐXB. In xong và nộp lưu chiểu quí III