1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ĐAU KHỔ TRONG SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA DƯỚI CÁI NHÌN C ỦA TU S Ĩ Sinh Viên Th ự c Hi ệ n: AUGUSTINÔ HUY NGUY ỄN VĂN NHIỆ M Giáo Sư Hướ ng D ẫ n: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄ N H Ồ NG THANH NIÊN KHÓA 2011-2015
84
Embed
hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Đau khổ, Luan van, Viet Huy... · 1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC ------ LUẬN VĂN
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM HỌC VIỆN THẦN HỌC
------
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
ĐAU KHỔ TRONG SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA DƯỚI CÁI NHÌN CỦA TU SĨ
Sinh Viên Thực Hiện:
AUGUSTINÔ HUY NGUYỄN VĂN NHIỆM
Giáo Sư Hướng Dẫn:
LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH
NIÊN KHÓA 2011-2015
2
Lời tri ân
3
Nhận xét của giáo sư hướng dẫn Nói về đau khổ và sự không bao giờ cùng, vì nó tồn tại song hành cùng với con
người. Đau khổ hiện diện dưới muôn hình vạn trạng khác nhau. Đã là người không ai có
thể tránh khổ và thoát khổ trong kiếp nhân sinh. Nhưng mỗi người đối diện và lý giải
đau khổ một cách khác nhau.
Vấn đề đặt ra là đau khổ từ đâu mà đến? Đâu là nguyên nhân hay nguồn gốc
đưa đến đau khổ cho con người? Phải chăng là do tình cờ hay do ai đó gây nên? Làm
sao có thể vượt thoát khỏi khổ đau trong thân phận người? Ai có thể giải thoát con
người khỏi «bể khổ tràn gian»? Tìm kiếm câu trả lời cho vấn nạn đau khổ là một điều
gai góc của con người mọi thời và mọi nơi. Cũng vì muốn lý giải cho vấn đề đau khổ
của kiếp người mà nghiên cứu sinh đã chọn đề tài nghiên cứu của mình là: «Đau khổ
trong sự quan phòng của Thiên Chúa dưới cái nhìn của tu sĩ». Đây là đề tài rất thiết
thực và hữu ích không chỉ cho đời sống thánh hiến mà cho tất cả mọi kitô hữu, cũng
như cho tất cả mọi người nói chúng. Bởi vì ai cũng phải đối diện với đau khổ và muốn
vượt thoát khỏi khổ đau trong cuộc đời mình.
Qua đề tài nghiên cứu này, sinh viên giới thiệu cho chúng ta những cách lý giải
khác nhau về đau khổ theo nhãn quan triết học, và tôn giáo, đặc biệt là dưới ánh sáng
mặc khải của Kitô giáo.
Đặc biệt là với cặp mắt đức tin và dưới góc nhìn của một tu sĩ, nghiên cứu sinh
đã trình bày cho chúng ta những khía cạnh khác nhau của vấn đề đau khổ. Đồng thời
cũng giới thiệu cho chúng ta những mẫu gương vượt khổ và nhất là mở ra cho chúng ta
những chìa khóa để đối diện với đau khổ theo nhãn quan Kitô giáo.
Nhìn chung, bài viết của sinh viên có sự đầu tư, nghiên cứu nghiêm túc. Trích
dẫn rõ ràng và nguồn sách tham khảo cũng tương đối dồi dào, phong phu. Nghiên cứu
sinh cũng có khả năng tổng hợp kiến thức và các nguồn tài liệu khác nhau để hoàn
thành tiểu lận của mình một cách khá thuyết phục.
Hy vọng rằng sau khi hoàn tất tiểu luận này, với tư cách là một đan sĩ, sinh
viên sẽ có đủ can đảm và sức mạnh của Chúa Kitô phục sinh để vượt qua mọi đau khổ
và sự dữ trong cuộc đời dâng hiến của mình để thông phần vào mầu nhiệm Thập giá của
Chúa Kitô, hầu đem niềm vui Phục Sinh đến cho mọi người. Ước mong rằng những ai
đọc qua tiểu luận này cũng biết thăng hoa đau khổ và sự dữ thành Thiên ân.
3. Theo các giáo phụ ............................................................................................................14
4. Theo giáo lý Hội Thánh Công Giáo .................................................................................15
II. KHÁI NIỆM VỀ ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ ................................................................ 17
1. Đau khổ và sự dữ .............................................................................................................18
2. Phân loại sự dữ .................................................................................................................19
2.1. Sự dữ thiên nhiên ......................................................................................... 19
2.2. Sự dữ luân lý ............................................................................................... 22
III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ .............................. 24
1. Phải chăng đau khổ và sự dữ đến từ Thiên Chúa? ............................................................24
2. Đau khổ và sự dữ đến từ ma quỷ ......................................................................................26
3. Đau khổ và sự dữ do tội nguyên tổ ...................................................................................27
4. Đau khổ và sự dữ đến từ con người ..................................................................................28
4.1. Do con người khước từ Thiên Chúa ............................................................. 29
4.2. Do tính hữu hạn của con người .................................................................... 31
IV. NHỮNG LÝ GIẢI VỀ ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ THEO CÁC TRIẾT GIA VÀ CÁC THẦN HỌC GIA ................................................................................................. 33
1. Theo các Triết Gia ............................................................................................................33
2. Theo các Thần Học Gia ....................................................................................................34
2.1. Theo thánh Irênê .......................................................................................... 34
2.2. Theo Thánh Augustinô ................................................................................ 36
a. Sự dữ là thiếu sự thiện .................................................................................... 36
b. Nguyên lý của sự phong phú ........................................................................... 37
c. Thẩm mỹ luận ................................................................................................. 38
2.3. Theo thánh Thomas Aquinô ......................................................................... 39
V. KITÔ GIÁO VÀ TRƯỜNG PHÁI DUY TÂM HÓA GIẢI VỀ SỰ DỮ ................. 41
1. Thiên Chúa không hề muốn sự dữ và đau khổ cho con người ..........................................41
2. Thiên Chúa liên kết với con người trong đau khổ .............................................................42
3. Đức tin hoá giải sự dữ ......................................................................................................44
5
4. Hóa giải sự dữ theo cái nhìn duy tâm ...............................................................................45
VI. THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ .......................... 46
1. Thái độ phản kháng ..........................................................................................................46
2. Thái độ chấp nhận để vươn lên .........................................................................................47
VII. CON NGƯỜI CỘNG TÁC VỚI THIÊN CHÚA NGĂN CHẶN SỰ DỮ ............ 51
1. Ngăn chặn sự dữ thể lý .....................................................................................................51
2. Ngăn chặn sự dữ luân lý ...................................................................................................52
VIII. NHỮNG MẪU GƯƠNG GIÚP TU SĨ ĐỐI DIỆN, THĂNG HOA ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ THÀNH THIÊN ÂN .................................................................................. 55
1. Ông Gióp..........................................................................................................................55
2. Đức Maria ........................................................................................................................57
4. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu ....................................................................................59
5. Cha Henrry Denis Biển Đức Thuận, đấng sáng lập hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam .61
IX. NHỮNG PHƯƠNG THẾ ĐỂ TU SĨ ĐỐI DIỆN VỚI ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ ..... 63
1.Nhìn lên thập giá Đức Kitô................................................................................................63
2. Cầu nguyện trong thinh lặng ............................................................................................65
3. Hiệp thông với cộng đoàn ................................................................................................66
X. TU SĨ ĐÓN NHẬN ĐAU KHỔ TRONG SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA NHƯ THẾ NÀO? ............................................................................................... 68
1. Đau khổ, một phương thế để tu sĩ loan báo Tin Mừng .....................................................68
2. Đau khổ, một bằng chứng tình yêu của tu sĩ đối với Thiên Chúa .....................................69
3. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ nên giống Đức Kitô và bổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Ngài ............................................................................................................71
3.1. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ nên giống Đức Kitô ........................................... 71
3.2. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ bổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Đức Kitô ...................................................................................................... 72
4. Đau khổ, con đường đạt tới ơn cứu độ .............................................................................73
XI. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH ......................................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 79
MỤC SÁCH THAM KHẢO ............................................... Error! Bookmark not defined.
6
DẪN NHẬP
Đã mang kiếp phàm nhân, từ khi sinh ra tới lúc trở về với cội nguồn, con người
luôn thao thức tìm kiếm niềm vui, bình an và hạnh phúc. Vì vậy, nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn đã cất lên tiếng hát: “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, chọn những bông hoa và
những nụ cười”. Nhưng trớ trêu cho phận người, trên con đường tìm kiếm hạnh phúc,
lại luôn gặp phải thách đố và đau khổ, hay có thể nói, hằn sâu trên định mệnh làm người
là hai chữ “khổ đau”.
“Cháu không muốn làm gánh nặng cho mẹ nữa. Mẹ cũng đang bệnh mà chẳng
dám đi khám bệnh. Cháu thà ở nhà chịu chết một mình còn hơn mẹ và các em phải nhịn
đói chữa bệnh cho cháu”. Đó là câu nói của em Thu Hà (quê ở Lâm Đồng) đang mang
trong mình căn bệnh ung thư gan, ai nghe cũng cảm thấy nhói tim, chạnh lòng và cảm
thương cho một phận người hẩm hiu. Đối diện với căn bệnh hiểm nghèo, em muốn
được chữa khỏi bệnh, mong dành lại sức khỏe, cuộc sống và tương lai cho chính mình.
Nhưng vì thấy hoàn cảnh gia đình mình quá nghèo, em đã sẵn sàng chấp nhận số phận,
đón nhận hy sinh, thậm chí phải đối diện với tử thần, để mẹ và các em bớt cực nhọc, đói
khổ... Em chia sẻ, nếu em đi chữa bệnh thì có thể đàn em sẽ bị nghỉ học, chịu đói và mẹ
có thể bị bệnh nặng thêm. Theo suy nghĩ đơn sơ của em, chỉ cần em không đi chữa bệnh
thì mẹ sẽ không tốn tiền, các em sẽ được chăm sóc tốt hơn, có được một cuộc sống ấm
no hơn.
Theo đúng như chỉ định của bác sĩ, vào tháng 4/2014 vừa qua, em đã phải phẩu
thuật gan một lần nữa, nhưng vì thương mẹ, các em, Thu Hà đã không chịu xuống bệnh
viện chữa bệnh. Không thể nhìn con ở nhà chịu đau đớn và nguy hiểm đến tính mạng
bất cứ lúc nào, chị Đinh Thị Dương và bà con hàng xóm động viên Hà tiếp tục chữa
bệnh. Dù chẳng biết việc chữa bệnh sẽ kéo dài được tới đâu, nhưng chị Dương vẫn
muốn con mình tiếp tục được chữa bệnh bởi Chị không muốn mất thêm một người thân
nữa.
Cách đây một năm, chồng chị cũng đã ra đi mãi mãi vì căn bệnh hiểm nghèo,
để lại cho chị đàn con thơ. Chị trở thành trụ cột tinh thần của gia đình. Cảnh mẹ góa con
côi, đàn con nheo nhóc vì thiếu tình cha, vắng hơi ấm tình mẹ. Gia đình chị ngày càng
lâm vào hoàn cảnh túng quẫn.
Ngày ngày chị phải xuống bệnh viện chăm con (bé Hà), đàn con nhỏ ở nhà
không ai chăm sóc, kiếm tiền nuôi dưỡng. Chị bắt đầu lâm cảnh nợ nần từ gần tới xa.
7
Trước đây thu nhập của cả gia đình một năm được 15 triệu đồng. Nhưng từ ngày chồng
chết, chị cũng không làm được việc nhà, kinh tế lại càng thêm khó khăn. Chị vay 20
triệu tiền vốn sản xuất kinh doanh và 8 triệu tiền của chương trình môi trường nước
sạch nhưng vì chữa bệnh cho con, chị đã sử dụng hết. Giờ này 5 mẹ con chị bám víu
vào nhau để sống. Vì thấy hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, mẹ thì mắc bệnh thiếu máu
cơ tim, các em thì không người chăm sóc, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, nên Thu
Hà đã tự nguyện không chữa bệnh để bớt gánh nặng cho mẹ và các em1.
Từ lúc sinh ra tới khi trở về với cội nguồn, con người phải vượt qua hàng
triệu sóng gió thử thách của cuộc đời, phải băng qua hàng ngàn nỗi đau trần thế, phải
lao đao vất vả, khổ đau với kiếp nhân sinh. Đúng vậy, qua hoàn cảnh của gia đình chị
Dương, ta có thể thốt lên như đức Phật: “đời là bể khổ”, hay đời là thời gian kết nối,
đan xen giửa thử thách và gian nan. Vì vậy, chắc chắn mọi người trong chúng ta ai
cũng có kinh nghiệm về đau khổ không ít thì nhiều. Lịch sử loài người luôn gắn liền
với khổ đau và cực hình: Động đất, chiến tranh, bóc lột, đói khát, bệnh tật, thất bại, cô
đơn, tàn sát, trẻ thơ bị giết chết, bị bỏ rơi, mất ý nghĩa cuộc sống … Đã làm người, có
lẽ không ai chối cãi giáo lý nhà Phật “Đời là bể khổ”. Con người ngay từ khi chào đời
đã cất tiếng khóc như báo hiệu cho một cuộc đời dang dở và đau thương bắt đầu, cho
đến lúc lìa đời giữa tiếng khóc bi ai của bao người thân luyến tiếc.
Đời là bể khổ không trừ một ai. Vì thế, ca dao Việt Nam có câu:
«Gánh khổ mà đổ lên non
Cong lưng mà chạy khổ còn chạy theo».
Khổ đau làm bạn với tất cả mọi người: từ vua chúa ngự trị trên ngai vàng, đến
anh nông dân cùng đinh khố rách áo ôm, đều phải mang lấy mọi hình thức khổ đau
trong thân xác và tinh thần. Đau khổ không tránh né ai, cũng chẳng bao giờ biến khỏi
trần đời. Đối diện với đau khổ, là nỗi kinh hoàng đối với bạn trẻ, nỗi khiếp sợ đối với
người trưởng thành và là điều không thể chịu nổi đối với người lớn tuổi. Nhất là đứng
trước cái chết, hẳn ai cũng khiếp sợ. Khiếp vì chẳng ai có kinh nghiệm về cái chết.
Chẳng có ai thử chết bao giờ. Cái chết luôn là điều tăm tối, bế tắc, cùng đường và chấm
hết của kiếp người. Vì vậy, đứng trước những thách đố về sự dữ và đau khổ trong kiếp
nhân sinh, lắm khi ở vào một mức độ khốc liệt, con người bị rơi vào tuyệt vọng, không
lời giải đáp. Trải qua dòng lịch sử nhân loại, biết bao thế hệ đã bất lực trước những
huyền nhiệm của sự dữ và đau khổ, mà không có một lời giải đáp mỹ mãn, từ bất lực
1x. Vietnamnet-15:19 ngày 17/07/2014.
8
đó, con người đánh mất niềm tin vào một Thiên Chúa quan phòng hay ít ra niềm tin đã
bị đặt lại. Nếu mọi sự do và bởi Thiên Chúa quyền năng, tốt lành và hằng yêu thương
quan phòng cho vạn vật, vậy sự ác phải giải thích thế nào? Sự dữ từ đâu đến? Ai là
người chịu trách nhiệm về những sự dữ xảy ra trên thế giới này? Tại sao Thiên Chúa
giàu lòng nhân từ và rất mực xót thương lại không can thiệp mà để cho đau khổ xảy ra?
Nhiều người còn chua chát hơn nữa, đã hằn học kêu trách Thiên Chúa: “Làm sao để tôi
có thể yêu mến và đặt hết tin tưởng vào một Thiên Chúa thiện hảo và giàu lòng từ nhân,
nếu Ngài đã để cho tôi phải khóc lóc, đớn đau như vậy”2? Đó là những câu hỏi muôn
thưở mà con người đặt ra để chất vấn Chúa. Nhất là khi đối diện với một thế giới toàn
cầu hoá, trào lưu chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa cá nhân và thực dụng, khuynh hướng tự
do, hưởng thụ và tương đối hoá như hiện nay, thì những vấn nạn đau khổ và sự dữ lại
càng là một thách đố gai góc hơn. Bởi vì con người tìm mọi cách, mọi phương tiện để
chạy trốn đau khổ, nhưng không thể tránh nổi và phải chấp nhận với số phận. Đức giáo
hoàng Benedicto XVI đã nói: “Chúng ta tìm cách ngăn chặn, chiến đấu với đau khổ,
như thể loại trừ ra khỏi thế giới. Ngay chính con người tìm cách chạy trốn, lẩn tránh tất
cả những gì mang ý nghĩa đau khổ, muốn loại bỏ khó nhọc và đau đớn của chân lý, tình
yêu và thiện hảo, họ lại rơi vào một đời sống trống rỗng, có lẽ bớt đau khổ, nhưng lại
có nhiều cảm nghiệm mơ hồ về sự vô nghĩa và hụt hẫng”3.Vậy, những người tu trì bước
theo chân Chúa Giêsu để mô phỏng đời sống của Ngài, họ có thái độ nào khi phải đối
diện với đau khổ và sự dữ ? Họ đón nhận đau khổ trong sự quan phòng của Thiên Chúa
như thế nào? Họ phải làm gì để thăng tiến đau khổ và sự dữ thành Thiên ân?
Từ những lời chất vấn này, người viết đã chọn đề tài sau đây để tìm hiểu về
vấn đề đau khổ: Đau Khổ Trong Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Dười Cái Nhìn
Của Tu Sĩ. Đề tài sẽ được khai triển qua các phần chính sau:
I. Khái niệm về quan phòng và đau khổ
II. Nền tảng của niềm tin vào ơn quan phòng.
II. Đâu là nguyên nhân gây ra đau khổ?
IV. Thái độ của con người trước đau khổ.
V. Những tấm gương thăng hoa đau khổ thành Thiên ân.
2Lm: Lê Văn Quảng, Sức Mạnh Tình Yêu, Nxb Tôn Giáo, 2013,tr. 45. 3ĐGH Benedicto XVI, Thông Điệp Spe Salvi,số 37.
9
VI. Tu sĩ đón nhận đau khổ trong sự quan phòng của Thiên Chúa như thế nào?
VII. Một vài nhận định cá nhân về đề tài đau khổ
Với đề tài này, bản thân người viết chỉ mong cố gắng tìm hiểu và làm sáng
tỏphần nào vềnguyên nhân của đau khổ và đau khổ được đón nhận trong sự quan phòng
của Thiên Chúa như thế nào đối với các tu sĩ, chứ không ảo tưởng sẽ giải quyết hết mọi
vấn đề đau khổ và sự dữ.
Qua những gì sẽ trình bày trong đề tài này, người viết chỉ dựa vào mạc khải
của Thiên Chúa qua Thánh Kinh, suy tư của các giáo phụ, Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo, các nhà thần học, triết gia, cũng như thu thập các tài liệu và tổng hợp những quan
niệm khác nhau về vấn đề đau khổ và sự dữ, nhất là qua kinh nghiệm thực tế của cuộc
sống. Với mục đích và thao thức cầu mong chính bản thân, cũng như mọi người nói
chung, đặc biệt các tu sĩ nói riêng, khi gặp thử thách trong cuộc đời, thay vì than trách,
thất vọng, buông xuôi…, thì nên có cái nhìn lạc quan, tích cực, hy vọng, nhất là tìm ra
được ngay trong đau khổ một ý nghĩa và giá trị cho bản thân cũng như cuộc sống. Bên
cạnh đó, với niền tin Kitô giáo, đau khổ và cái chết không phải là một cái gì đó phi lý và
vô nghĩa của cuộc đời, nhưng nó là con đường, là phương thế để kết hợp với Đức Kitô
Thập giá, để từ đó ngang qua đau khổ mở ra một chân trời hạnh phúc và vinh quang.
10
I. KHÁI NIỆM VỀ SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA
1. Quan phòng là gì?
Để định nghĩa quan phòng là gì, trước hết chúng ta cần phải hiểu từ ngữ quan
phòng được dùng để ám chỉ điều gì, từ ngữ này được hiểu như thế nào khi người ta
dùng nó để ám chỉ hoạt động của Thiên Chúa trong vũ trụ? Theo Jasques Lison, từ ngữ
quan phòng được hiểu theo truyền thống vốn dĩ chỉ thuộc tính những Thiên hướng qua
đó, Thiên Chúa chỉ huy vạn vật theo cứu cánh của chúng4.
Từ “quan phòng” có nguyên ngữ từ Hy-lạp là pronoia và dịch qua La-ngữ là
providentia. Cả trong tiếng Hy-lạp lẫn La-tinh, từ quan phòng đều bắt đầu với giới từ
pro, giới từ này có nghĩa là: trước, trước kia, do chiếu cố đến, vì lợi ích của nó. Giới từ
pro được gép với động từ noein biến thành pronoia trong tiếng Hy-lạp và với động từ
videre biến thành providentia trong tiếng La-tinh. Pronoia hay providentia có nghĩa là:
thấy, nhìn thấy, tài trí, trong tư tưởng5.
Do đó, ta có thể định nghĩa như sau: Theo quan niệm bình dân, quan phòng gợi lên
ý tưởng Thiên Chúa an bài xếp đặt, lo liệu mọi sự. Đồng thời cũng gợi lên ý tưởng về:
mệnh Trời, ý Trời, hoặc số phận, số kiếp, hay là nghiệp.
Từ Điển Công Giáo định nghĩa về quan phòng như sau:
Quan: Chú ý nhìn. Phòng: Gìn giữ.
Quan phòng: chý ý nhìn xem và gìn giữ.
Còn theo sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo định nghĩa: “Sự quan phòng của
Thiên Chúa chính là những đường lối người xếp đặt để đưa vạn vật tới sự trọn hảo (số
302)”. Hay: “Quan phòng là những lo liệu của Thiên Chúa, trong khôn ngoan và tình
thương, để dẫn đưa mọi loài thụ tạo tới mục đích sau cùng của chúng là chính Ngài”6.
Theo truyền thống thần học: “Quan phòng là việc Thiên Chúa xếp đặt và phối
trí, trong trí khôn từ muôn thuở, mọi sự cho phù hợp với những mục đích riêng của mỗi
vật và với mục đích chung của cả vũ trụ. Hay sự quan phòng là thuộc tính thiên linh chỉ
những thiên hướng qua đó Thiên Chúa chỉ huy những sự vật tạo dựng theo cứu cánh
của chúng. Sáng tạo là dựng nên vũ trụ vạn vật, tức là làm ra những cái chưa có. Còn
4 x. Jacques Lison, Sự Quan Phong Của Thiên Chúa Ngay Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Trần Văn Khuê, aa., tr. 6. 5 x. Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Trần Văn Khuê, aa., tr. 28. 6GLHTCG, số 321.
11
quan phòng là gìn giữ và bảo tồn vũ trụ vạn vật, tức là quản trị những gì đã có”7.Còn
theo Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo định nghĩa như sau: “Quan phòng hay thiện hữu là
việc Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan và tình thương, đã an bài mọi sự”8.
2. Sự quan phòng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh
Đức tin của Giáo Hội vào một Thiên Chúa quan phòng được đặt trên nền tảng của
mạc khải trong Kinh Thánh. Quả vậy, trong Cựu Ước và Tân Ước là kho tàng mạc khải về
một Thiên Chúa yêu thương quan phòng con người và vạn vật.
2.1. Cựu Ước
Chính Thiên Chúa muốn mặc khải tình yêu của mình qua việc chọn dân riêng là
Israel giữa các dân tộc khác và đã ký kết với họ một giao ước vĩnh cửu (Gs 31, 31-37 ;
Ez 36, 26-29). Là dân được Thiên Chúa tuyển chọn riêng, nên Israel nhận biết quyền
năng của Thiên Chúa trên vũ trụ vạn vật, mà chính Ngài đã sáng tạo nên. Chính Israel
cảm nhận được sự che chở, tình yêu thương, quan phòng của Thiên Chúa luôn ở bên họ
trong từng biến cố của lịch sử, Ngài sắp đặt mọi sự trong vũ trụ (St 8,22), để hướng đến
giao ước (Dnl 11,13). Thiên Chúa khôn ngoan cai trị vũ trụ mà Người đã dựng nên.
Chúa là mục tử yêu thương, nuôi dưỡng và dẫn dắt dân riêng Ngài (Tv 105 và 106)9.
Thiên Chúa quan phòng, như là sự bảo đảm căn cốt và vĩnh cửu cho con người
và sự tự do của con người trong vũ trụ, trong Cựu Ước cho thấy rõ điều này khi con
người nhìn nhận chính Thiên Chúa là khiên che, thuẫn đỡ, là thành luỹ vững vàng, là
núi đá không thể phá hủy được: “Lạy Chúa, con yêu mến Ngài, Ngài là sức mạnh của
con. Lạy Chúa, Ngài là núi đá, là thành luỹ của con, là Đấng giải thoát con. Lạy Thiên
Chúa, Chúa là núi đá nơi con trú ẩn, là khiên mộc che chở con, là Đấng cứu độ quyền
năng, là thành trì bảo vệcon”(Tv 18,3). Chính vịnh gia còn nói lên lòng tin tưởng và
phó thác cho Thiên Chúa quan phòng số mạng của mình: “Chúa là Đấng nắm giữ số
mạng con”(Tv 16,5).
Trong thời lưu đày, giữa cảnh gian truân, toàn dân Israel đã đặt niềm tin rất chắc
chắn vào Chúa quan phòng và che chở họ. Vì thế họ đã thưa lên với cả tâm can rằng:
“Lạy Chúa, xin nghe lời con cầu khẩn, tiếng con kêu, mong được thấu tới Ngài. Buổi
7Giải Thích Thần Học, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Tạo Thành, 1995, tr. 289. 8Lm. Hồng Phúc. CSsR, Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo, mục: quan phòng. 9 x. M. Vinh sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Sáng Tạo Và Quan Phòng. Học Viện Thần Học Xitô Thánh Gia Việt Nam, 2012, tr. 185.
12
con gặp gian truân, xin Ngài đừng ẩn mặt, trong ngày con cầu cứu, xin Ngài lắng tai
nghe và mau mau đáp lời” (Tv 102,2-3).
Không chỉ các vịnh gia đã đặt niềm tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa,
mà tác giả sách Khôn Ngoan cũng cho chúng ta thấy một Thiên Chúa duy nhất quan phòng,
an bài và gìn giữ tạo vật và con người: “Thế nhưng lạy Cha,chính Cha mới quan phòng
hướng dẫn” (Kn 14,3a). Ngoài Ngài ra không có vị thần nào chăm lo đến muôn loài : “Vì
Chúa chăm sóc mọi loài. Ngoài Ngài ra, chẳng còn thần nào khác”(Kn 12,13), hay “Chúa
biểu dương sức mạnh đến mút cùng cõi đất, và cai quản vũ trụ cách nhân hậu” (x.Kn
8,1),“Nếu như Ngài Không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi?Nếu như Ngài không cho
hiện hưu, Làm sao nó có thể được duy trì”? (Kn 11,25).
Riêng đối với con người, Isaia nói: “Lạy Chúa, Ngài cho chúng con được an cư lạc
nghiệp, vì hết mọi việc chúng con làm đều do Ngài thực hiện cho chúng con”(Is 26,12).
Không những con người mà đối với tạo vật, Người nuôi dưỡng, chăm lo. Chẳng hạn
trong Thánh Vịnh ca lên:“Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài
đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Tv 145,
15-16), hay “Chúa cho loài gia súc có đầy đủ thức ăn,bầy quả non kêu đói cũng luôn được
no mồi” (Tv 147,9)10.
Qua mặc khải trong Cựu Ước, Thiên Chúa cho ta biết về một niềm tin vào sự
yêu thương quan phòng của Thiên Chúa được thể hiện qua dân riêng mà Ngài đã tuyển
chọn…Giờ đây người viết xin được tiếp tục tìm hiểu qua mặc khải trong Tân Ước về
tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
2.2. Tân Ước
Ngay trong chương trình cứu chuộc của Đức Kitô đã diễn tả và khai mở cho
chúng ta về tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa Cha, vì như thánh Phaolô đã
viết:“Khi thời gian tới hồn viên mãn Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một
người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng
ta nhận được ơn làm nghĩa tử”(Gl 4,4-5). Qua câu nói này cho chúng ta thấy được ý
định đời đời của Thiên Chúa yêu thương trong sự quan phong, muốn cho mọi người
được cứu độ. Cũng chính thánh Phaolô nói tiếp:Thiên Chúa quan phòng là kế hoạch yêu
10Jasque Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, 2008. Chuyển ngữ: Lm. Trần Văn Khuê, tr. 94.
13
thương, Thiên Chúa đã chọn lựa Đức Giêsu Kitô làm Đấng cứu độ và cho chúng ta
được thừa hưởng ân sủng, ban làm nghĩa tử của Ngài(x. Ep 1,3-10).
Việc Thiên Chúa yêu thương quan phòng được làm sáng tỏ và rõ nét nhất là qua
các tác giả Tin Mừng Mat-thêu và Luca. Chính các ngài đã ghi lại những lời Đức Giêsu
đã mạc khải cho loài người về tình yêu và quan phòng của Chúa Cha: “Vì thế anh em
đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những điều đó, dân
ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”(Mt
6, 31-33 ; Lc 12, 29-31). Không dừng lại ở đây, thánh Mat-thêu và Luca còn nhấn mạnh
và xác quyết hơn : “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không ? thế mà không
một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay
đến tóc trên đầu anh em, người cũng đếm cả rồi”(Mt 10, 29-31 ; Lc 21,18)11. Để xác tín
niềm tin sắt đá của mình một lần nữa vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa
hai tác giả sách Tin Mừng còn nói tiếp: “Anh em nhìn chim trời : chúng không gieo,
không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh
em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài
đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy
ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên như thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm
lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo thật cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù
vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài
đồng, nay còn, mai đã quặng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì
huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin”(Mt 6,26-30; Lc 12, 24-28)12. Với niềm tin
xác tín vào tình yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, thánh Phaolô đã nói lên cách
hùng hồn và mạnh mẽ qua diễn từ trước hội đồng Arêôpagô trong sách Công Vụ Tông
Đồ như sau: “Người cũng không cần được bàn tay con người phục vụ, như thể Người
thiếu thốn cái gì, vì Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự”(Cv 17,26), và
“Thật vậy, chính nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu”(Cv17,28). Cũng
với niềm xác tín đó, thánh Phaolô đã viết cho giáo đoàn Rôma để khuyên bảo và dạy họ
tin vào tình yêu quan phòng và ca tụng thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa: “Vì muôn
vật đều do Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn
đời! A-men”(Rm 11,36). Có thể nói, sự quan phòng của Thiên Chúa được biểu lộ rõ nét
nhất và huy hoàng nhất trên thập giá.Trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô đã sống khoảnh
11 x. Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, NxbTôn Giáo. Chuyển ngữ : Lm. Trần Văn Khuê, tr. 100-101. 12Thiên Chúa là Cha và Là Đấng Tạo Thành, Giáo Lý Dựa Trên Kinh Tin Kính Do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Chuyển Ngữ : Nguyễn Đức Tuyên, Ngưỡng Nhân Ấu Nhi, tr. 300-301.
14
khắc của thất bại và của sự bỏ rơi cực độ nhất. Nhưng một cách chính xác, chính ở đó,
trong người Con của Ngài chịu đóng đinh, Thiên Chúa đã phá vỡ hận thù (x. Ep 2,16),
và làm cho điều thiện thắng điều dữ13.
Như thế, qua Kinh Thánh, chính Đức Kitô đã mặc khải cho chúng ta một khuôn
mặt như một người Cha, luôn yêu thương, chăm sóc và giữ gìn cho công trình tạo dựng
của Người.Nhất là cho chúng ta thấy rõ được phẩm giá cao quý của mình là được làm
nghĩa tử của Người nhờ Đức Giêsu Kitô.
Qua những gì đã trình bày, Kinh Thánh cho chúng ta thấy rõ một Thiên Chúa
luôn yêu thương và quan phòng công trình sáng tạo của Người trong mọi thời gian và
qua từng biến cố. Vậy giờ đây người viết xin được làm rõ nét hơn về tình yêu quan
phòng của Thiên Chúa qua cái nhìn của các giáo phụ.
3. Theo các giáo phụ
Dựa vào Mặc khải, và kết hợp với năm tháng cầu nguyện, chiêm niệm, suy tư
một số giáo phụ cũng đã lãnh ân được sự khôn ngoan về sự quan phòng của Thiên Chúa
và đã trình bày cho chúng ta về việc Thiên Chúa quan phòng như sau14.
Thánh Justinô viết: “Vật tham phần thời khác và chính vật được vật đó tham
phần vào thời khác. Linh hồn tham phần sự sống vì Thượng Đế muốn nó sống. Một khi
Ngài không muốn nó sống nữa, là nó thôi không được tham phần nữa. Vì khác với
Thượng Đế, linh hồn không có sự sống bởi riêng mình”.
Tương tự như thế, thánh Irênê cũng nói: “Mọi vật đã bắt đầu có và chúng tồn tại
bao lâu Thượng Đế muốn cho chúng có và tồn tạo”.
Trong khi đó thánh Gioan Kim Khẩu viết: “Chúa lưu ý đến từng điều cho con
người. Phần ta, ta không thêm được gì cho thân ta, nhưng Chúa quan phòng làm hoàn
toàn đầy đủ mọi việc cho ta. Nếu không có Chúa quan phòng, thì mọi sự lo lắng vất vả
của chúng ta đều vô ích”. Đối với thánh Thomas Aquinô, ngài kết luận như sau: “Sự
quan phòng thuộc về Thiên Chúa, đó là điều thiết yếu. Quan phòng là kế hoạch của
chính Thiên Chúa, Đấng thiết lập sức mạnh của Ngài trong mọi sự, Ngài dự liệu tất
cả”15
.
13 x. Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Trần Vă Khuê, aa., tr. 102. 14 x. Nguyễn Văn Hạnh, Thiên Chúa Sáng Tạo, Học Viện Đa Minh, 2005, tr. 80. 15 M. Vinh Sơn Liêm. Nguyễn Hồng Thanh, Sáng Tạo Và Quan Phòng. Học Viện Thần Học Xitô Thánh Gia Việt Nam, 2012, tr. 185.
15
Thánh Basiliô lại dùng kiểu nói tỉ dụ và ví von để nói về tình thương Chúa quan
phòng các thụ tạo như sau: “Chúa cho bò ngựa có cỏ, thì lại cho con người có của cải
sinh sống. Chúa tạo nên mọi thứ là dự bị cho con người có đủ thức ăn… không có gì là
không có lý do hay tình cờ, nhưng là kết quả của tài khôn ngoan vô cùng”16. Còn thánh
Augustinô đã đưa ra một lập luận vững chắc và đầy thuyết phục: “Thượng Đế không
phải như một kỹ sư xây nhà xong có thể bỏ đấy đi, vì nếu Ngài ngơi tay ra thì tất cả vũ
trụ sụp đổ”. Thánh nhân lại viết tiếp: “Sao tôi lại xin để Chúa ở trong tôi, trong khi tôi
không thể tồn tại nếu Chúa không ở trong tôi”? Theo ngài, đúng hơn phải nói: “Tôi
không thể tồn tại nếu tôi không ở trong Chúa, mà do đó, nhờ đó và trong đó tất cả mọi
vật tồn tại”17.
4. Theo giáo lý Hội Thánh Công Giáo
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo khẳng định, Thiên Chúa luôn quan phòng những gì
mà Ngài sáng tạo: “Sau khi sáng tạo, Thiên Chúa không bỏ mặc các thụ tạo của Người.
Người không chỉ ban cho chúng hữu thể và hiện hữu, Người còn luôn giữ gìn chúng hiện
hữu, cho chúng khả năng hành động và đưa chúng đến cùng đích”. Nhờ tình yêu không
giới hạn mà ngài vẫn hằng sắp xếp, điều khiển, gìn giữ, và hướng dẫn cũng như luôn tác
động thúc đẩy các tạo vật đạt đến sự hoàn hảo và cứu cánh mà Ngài đã định sẵn, đó được
gọi là việc Thiên Chúa quan phòng. Bởi vì: “Công trình sáng tạo có sự tốt lành và hoàn
hảo riêng, nhưng chưa hoàn tất khi được dựng nên. Vạn vật đang ở trong một “tiến trình”
hướng tới sự trọn hảo tối hậu do Thiên Chúa định sẵn”18. Như vậy, qua Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo cho ta thấy một cách minh nhiên, Thiên Chúa không chỉ sáng tạo ra vạn
vật rồi bỏ mặc chúng. Nhưng Ngài còn quan tâm, săn sóc, bảo vệ cũng như điều hành
chúng bằng ý định và sự khôn ngoan của Ngài. Lý do mà các thụ tạo cần đến sự quan
phòng của Thiên Chúa vì bản chất của nó mỏng dòn và chưa hoàn thiện. Chúng không tự
mình tồn tại và đứng vững. Mà luôn lệ thuộc vào Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất đã
sáng tạo nên chúng. “Tính bất tất của thụ tạo có ngay từ đầu và ám ảnh thụ tạo mãi, nên
muốn bổ túc cho nó có, cứ phải cần đến nguyên nhân đã làm cho nó ngay từ đầu. Chỉ
Thượng Đế mới tự mình có điều kiện để tự hữu và để luôn luôn có”19.Điều này được Giáo
hội xác định một cách mạnh mẽ như sau: “Thụ tạo mà không có Đấng Tạo Hoá thì sẽ tan
16 Nguyễn Văn Hạnh, Thiên Chúa Sáng Tạo, Hoc Viện Đa Minh, 2005, tr. 79. 17 Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Trần Văn Khuê, tr. 107-110. 18GLHTCG, số 302. 19 Nguyễn Văn Hạnh, Thiên Chúa Sáng Tạo. Học Viện Đa Minh, 2005, tr. 80.
16
biến” (Gs 36,3); nó lại không thể đạt tới cùng đích tối hậu của mình nếu không có sự trợ
giúp của ân sủng”20.
Do đó việc Thiên Chúa quan phòng trước hết là việc Thiên Chúa bảo tồn vạn vật do
Người đã sáng tạo: “Thật ra thì tác động bảo tồn và tác động sáng tạo chỉ khác nhau theo
quan điểm trí khôn thôi… tác động bảo tồn không phải là tác động mới, nhưng chỉ là tiếp
tục tác động sáng tạo mà thôi”21.Do vậy, việc quan phòng còn biểu dương quyền năng và
sự khôn ngoan của Thiên Chúa nữa: “Sự quan phòng chính là Thiên Chúa lo liệu với sự
khôn ngoan và tình thương để dẫn đưa mọi thụ tạo tới cùng đích tối hậu của chúng”22.
Còn về cách thức quan phòng, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nói: “Thiên Chúa
quan phòng, săn sóc mọi sự cách cụ thể và tiếp tục, từ những cái nhỏ nhất đến những biến
cố vĩ đại của thế giới và lịch sử. Nhưng để thực hiện, Thiên Chúa cần đến sự cộng tác của
nguyên nhân đệ nhị là các thụ tạo bằng cách trao quyền cho con người “làm chủ” trái đất
(x. St 1, 26-28) và cộng tác vào chương trình quan phòng qua cách vô thức = bản năng và
cách có ý thức = hành động có suy nghị, bằng lời cầu nguyện, bằng chính đau khổ của
mình(x. Cl 1, 24). Khi đó, họ hoàn toàn trở thành “những cộng tác viên của Thiên
Chúa”(x. 1Cr 3, 9), và của Nước Trời (x. Cl 4,11). Đây không phải là dấu hiệu của sự yếu
kém, nhưng là dấu của sự cao cả và lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa toàn năng. Vì
Thiên Chúa không chỉ cho các thụ tạo hiện hữu, nhưng cũng cho chúng phẩm giá tự mình
hoạt động, làm nguyên nhân và nguyên lý cho nhau, và nhờ đó mà cộng tác vào việc hoàn
thành ý định của Người”23.
Như vậy, qua Kinh Thánh, quan niệm của các giáo phụ, và Giáo Lý Hội Thánh
Công Giáo, cho ta thấy được một Thiên Chúa rõ nét nhất về lòng nhân từ, săn sóc và quan
tâm đến vạn vật bằng một tình yêu không giới hạn và đặc biệt yêu thương con người với
tình phụ tử. Vậy phải hiểu thế nào về việc Thiên Chúa quan phòng và vấn đề đau khổ, sự
dữ? Sự dữ do đâu mà có? Giờ đây người viết xin được bước sang tìm hiểu vấn đề về đau
khổ và sự dữ.
20 GLHTCG, số 308. 21 Nguyễn Văn Hạnh, Thiên Chúa Sáng Tạo. Học Viện Đa Minh, 2005, tr. 80. 22GLHTCG, số 321. 23GLHTCG, số 303 -308.
17
II. KHÁI NIỆM VỀ ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ
Thật là điều hết sức khó khăn, phức tạp và bí ẩn nhất khi con người đối diện với
vấn đề đau khổ và sự dữ. Thế nhưng, thực tế tất cả chúng ta đều phải đương đầu với vấn
nạn ấy một cách hết sức cụ thể, và thường là hết sức đau đớn. Đó là một kinh nghiệm
rất đa dạng, đặc biệt là những đau khổ (thể lý và luân lý), những cái chết do sức mạnh
thiên nhiên, hay do sự độc ác của con người gây ra. Và dù có một niềm tin theo triết học
hay tôn giáo, chúng ta cũng không thể tránh khỏi bị chất vấn một cách khủng khiếp và
đau đớn24. Vậy đau khổ và sự dữ là gì? Chúng ta có thể định nghĩa một cách bình dân
về sự dữ như sau: Sự dữ là sự đau đớn. Sự dữ là bất cứ điều gì hại đến cơ thể. Sự dữ là
bất cứ sự thiếu sót nào của thiên nhiên hay sự dữ hệ tại trong sự thiếu vắng sự hoàn
hảo25.Đau khổ là tình trạng đau đớn, khó chịu mà con người cảm thấy khi sự dữ xuất
hiện hay khi thiếu sự lành26. Nhưng theo quan niệm của các triết gia thì, đi tìm cho đau
khổ và sự dữ một định nghĩa thật là điều hết sức khó khăn, vì giả như từ bản chất sự dữ
có hiện hữu thật, thì ta cũng chỉ có thể định nghĩa sự dữ qua một điều tốt đã bị sự dữ
làm giảm thiểu hay tổn hại. “Có thật chúng ta biết… sự lành là gì và sự dữ là gì không,
khi chúng ta luôn pha trộn với nhau không thể tách biệt được”? Etienne Borne đã đưa
ra nghi vấn đó. Ông còn lập luận: “Cần lưu ý là ta không bao giờ có thể định nghĩa sự
dữ một cách trực tiếp được. Không phải chỉ vì sự dữ luôn đi đôi với sự lành, nhưng còn
vì không thể kể ra một sự dữ mà không nhắc đến một sự lành”. Chính Lavelle cũng quả
quyết: “Sự dữ chính là thiếu sự lành”. Tuy nhiên, mặc dù theo quan niệm của các triết
gia, dù không thể định nghĩa sự dữ mà không liên hệ với sự lành, nhưng như thế không
có nghĩa là sự dữ không có thật. Nó không phải chỉ là tình trạng thiếu sự lành, nhưng
thỉnh thoảng người ta vẫn nói: “Các triết gia có thể hài lòng với những lập luận kiểu đó
một mình trong bàn giấy; nhưng họ sẽ nghĩ sao trước cảnh một bà mẹ vừa mới chứng
kiến con mình chết? Không, đau khổ là một thực tại kinh khủng và thật là quá lạc quan
đến mức không chịu được khi định nghĩa sự dữ…là một sự lành ở một mức độ nhỏ
hơn”27.
24 x. Dominique Morin, Gọi Tên Thượng Đế, tr. 199. 25 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 185-190. 26 x. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin Tiểu Ban Từ Vựng, Từ Điện Công Giáo 500mục từ, Nxb Tôn Giáo, 2011, tr. 104. 27Dominique Morin, Gọi Tên Thượng Đế, tr. 207-208.
18
1. Đau khổ và sự dữ
Trong kiếp sống nhân sinh nỗi kinh hoàng, sự ám ảnh hầu như mang lại nhiều
hoang mang cho con người có thể nói được đó là đau khổ và sự dữ. Vì vậy, triết lý nhà Phật
mới thốt lên rằng: “Đời là bể khổ”. Đúng thế, đã là người ai cũng có kinh nghiệm về sự ác
hay đau khổ của kiếp sống dương gian này. Bất kể là người trẻ hay các bậc tiền bối, người
giàu sang, quyền quý hay người mang thân phận bần cùng trong xã hội, tất cả đều phải kinh
qua những đau khổ, như: Bệnh tật, thiên tai, chiến tranh, khủng bố, nghèo đói…
Năm 1940 Phát xít Đức đã gieo kinh hoàng và đau khổ cho cả thế giới qua việc sát
hại hàng loạt những người vô tội bằng nhiều hình thức vô nhân đạo như: Dùng phòng hơi
ngạt, cho uống và chích thuốc độc, dùng lò thiêu sống, bỏ đói và rét cho đến chết. Theo kế
hoạch huỷ diệt người Do Thái và tù nhân chính trị, trùm phát xít Hitler đã cho xây một nhà
tù, tên gọi là Auschwitz. Từ đó Auschwitz đã trở thành “lò giết người hàng loạt” lớn nhất
trong lịch sự nhân loại28.Theo thống kê có khoảng 6 triệu người bị giết tại đây, đa số là
người Do Thái29. Đây là một biến cố tang thương và đau khổ bao trùm mọi nơi trên thế
giới. Mọi người nói chung và dân Do Thái nói riêng đều phẩn uất và lên án vụ tàn sát đó
cho đến ngày nay.
Năm Ất Dậu 1945, dân Việt Nam trải qua một nạn đói kinh hoàng. Có đến khoảng
2 triệu người phải chết đói trong tuyệt vọng vì không có miếng ăn, với sự lạnh giá thấu
xương của thời tiết. Đây là một biến cố mà con người luôn rùng mình và căm hận mỗi khi
họ phải chứng kiến những hình ảnh bi thương nhất của những người nằm giơ xương chờ
chết.
Gần đây nhất, vào thứ ba ngày 11 tháng 9 năm 2001, nhóm khủng bố Osama Bin
Laden đã cướp bốn chiếc Boeing 767 và chỉ trong một giờ đồng hồ đã làm nổ tung hai ngọn
tháp chọc trời của trung tâm thương mại thế giới này. Tổng số thương vong trong cuộc
khủng bố này trên ba ngàn người, gồm nhiều quốc gia, trong số đó có rất nhiều chuyên gia
lỗi lạc về các nghành kinh tế, tài chánh, ngân hàng, kỹ thuật và quân sự. Biến cố này không
chỉ làm chấn động nước Mỹ, mà còn làm rúng động cả thế giới, và phải còn rất lâu người ta
mới có thể nguôi ngoai nỗi đau30.
28 x. Michel Rondet S.j., Lời Thì Thầm Của Chúa hay những nẻo đường khác nhau trong hanh trình tâm linh, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Đặng Xuân Thành, tr. 54-57. 29 x. Giuse Đinh Thanh Bình.Lạy Chua! Tại Sao Ngài Im Lặng? Tủ Sách Dân Chúa, 1995, tr. 93. 30x.Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật. Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007, tr. 46.
19
Đứng trước những tiếng khóc bi ai trong đau thương, bất công và mất mát của cuộc
đời, rất nhiều câu hỏi được đặt ra xung quanh vấn đề về sự hiện hữu, quan phòng yêu
thương của Thiên Chúa, như: Có Thiên Chúa không? Nếu thật sự có Thiên Chúa thì Ngài ở
đâu khi sự dữ xảy ra? Hoặc nếu Thiên Chúa đầy tình thương và giàu lòng nhân hậu thì tại
sao Ngài lại không ngăn chặn sự ác… Những vấn nạn liên tục được đặt ra và đã có rất
nhiều người không thể tìm được câu trả lời thoả đáng cho mình. Chính vì thế biết bao người
đã đánh mất niềm tin, hay ít ra niềm tin vào một Thiên Chúa quyền năng và yêu thương bị
nghi ngờ. Để làm rõ những thắc mắc trên, người viết xin được bước sang mục phân biệt các
loại sự dữ.
2. Phân loại sự dữ
Khi đề cập đến vấn đề đau khổ và sự dữ, thường người ta phân loại ra hai khía
cảnh đó là, sự dữ đến từ thiên nhiên và luân lý.
2.1. Sự dữ thiên nhiên
Khi nói tới sự dữ thiên nhiên, con người luôn đi tìm và đặt ra cho mình
những câu hỏi: Tại sao thiên nhiên luôn xẩy ra những biến cố động đất, lũ lụt, dịch
bệnh…? Có thể trả lời cho những thắc mắc của con người về những bất toàn của
thiên nhiên là do con người đã lạm dụng tự do để khai thác thiên nhiên một cách bừa
bãi và thiếu khoa học. Đây có thể được coi là nguyên nhân chính hay nói nhẹ hơn là
một phần. Ngoài ra còn có những sự dữ nằm ngoài và độc lập với ý chí con người đã
làm phát sinh ra đau khổ cho con người như: Sóng thần, động đất, bão lụt, hạn hán,
nghèo đói… dù muốn dù không, chúng ta phải nhìn sự dữ thiên nhiên hiện hữu thật
sự và dương như nó nằm ngay trong cơ cấu của vũ trụ bất toàn.
Cho dù biết bao nhiêu nhà khoa học, thiên văn học qua mọi thời đại cất công
nghiên cứu tìm hiểu nhưng vẫn không thể hiểu thấu được tại sao vũ trụ lại bất toàn? Và
với niềm tin tôn giáo vào Thiên Chúa hay Thượng Đế cũng không ngừng tìm hiểu do
đâu mà Thiên Chúa hay Thượng Đế chấp nhận cho một số sự kiện xấu xẩy ra. Tại sao
Thiên Chúa không dựng nên một vũ trụ hoàn hảo đến độ không có sự dữ đó? Để trả lời
cho những vấn nạn con người luôn thao thức đi tìm, niềm tin của Kitô Giáo đã xác
quyết: “Theo quyền năng vô cùng của Ngài, Thiên Chúa có thể tạo nên một cái gì tốt
hơn, nhưng trong sự khôn ngoan và tốt lành của Ngài, Thiên Chúa đã muốn tự do sáng
tạo một vũ trụ “trong trình trạng đang tiến tới” sự toàn hảo tối hậu của nó… như vậy
20
bao lâu sự sáng tạo chưa đạt tới mức toàn hảo của nó, thì cùng với sự thiện vật lý sẽ có
những sự ác vật lý”31.
Dù muốn dù không, con người cũng phải thừa nhận rằng chúng ta đang sống
trong một thế giới đã sa ngã, và con người phải chịu những thiên tai đáng lẽ không xẩy
ra nếu con người không chống lại Thiên Chúa cũng như không làm trái với quy luật tự
nhiên.
Bên cạnh đó, đối với lập trường Kitô giáo chưa bao giờ giả định rằng Thiên
Chúa có ý định tạo nên thế giới mà trong đó con người có thể tận hưởng tối đa các lạc
thú và chịu đau khổ tối thiểu. Trái lại, thế giới này chỉ được coi như là nơi mà con người
phải vất vả để trở thành một hữu thể tự do, và phải đối diện với những nhiệm vụ và
thách đố đến từ môi trường sống, để trở thành con cái Thiên Chúa. Thật vậy, một số
giáo phụ đã có những suy tu thần học về việc Thiên Chúa có ý định sáng tạo liên tục,
chẳng hạn như thánh Irênê. Gợi hứng từ tư tưởng của thánh Phaolô, ngài dạy rằng:
“Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng chưa phải là một tác
nhân tự do và trách nhiệm giống như Thiên Chúa”, giới hạn này chỉ có thể được Mặc
khải nơi Đức Giêsu Kitô. Với tất cả gai góc của nó, thế giới này chính là nơi mà tiến
trình tạo dựng được diễn ra liên tục cho tới khi (nên giống Thiên Chúa).32
Trong tâm khảm mọi người, ai ai cũng mong ước một thế giới vẹn toàn, là một
thiên đàng trong đó không có đau khổ, chết chóc, lo âu, phiền muộn… Thế nhưng, thử
hỏi rằng nếu thế giới này là một thiên đàng, trong đó không có đau khổ và phiền muộn
thì hậu quả sẽ thế nào? Chúng ta hãy giả định rằng, chúng ta đã sống trong một thế giới
ở đó Thiên Chúa không ngừng can thiệp để ngăn cản đau khổ và sự dữ. Sự ngăn cản này
đòi hỏi một sự loại bỏ tất cả những luật lệ tự nhiên phổ quát. Thiên Chúa sẽ lấy đi nhiệt
của lửa, phòng trường hợp khi chúng ta đưa tay vào lửa. Ngài sẽ thay đổi bản tính của
nước khi một ai đó ở trong sự nguy hiểm của việc chết chìm. Sự sắc bén của con dao sẽ
biến mất khi có sự nguy hiểm cho một ai đó bị cắt bởi con dao. Thuốc lá không còn là
nguyên nhân của bệnh ung thư phổi… Sự can thiệp như thế của Thiên Chúa vào trong
luật lệ tự nhiên để ngăn cản đau khổ sẽ tạo nên một thế giới trong đó thiên nhiên hoàn
toàn không thể đoán trước được. Vì vậy, trong thế giới này không có chỗ cho khoa học
và bất kỳ sự phát triển kỹ thuật. Đi xa hơn, nếu như Thiên Chúa can thiệp không ngừng
vào trong đời sống con người để ngăn cản đau khổ và để tạo nên hạnh phúc tối đa.
Trong một thế giới như thế không có hành động nào của sự dữ có thể gây ra những hậu
31GLHTCG, số 310. 32x. John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Dịch giả: Lm. Nguyễn Thịnh Phước, tr. 67.
21
quảgây hại. Sự gian lận không phá huỷ xã hội, sự phản bội không mang đến đau khổ
cho bất kỳ cá nhân nào… Trong một thế giới như thế không có sự phát triển đặc tính
luân lý của con người. Sẽ không cần đến nhân đức can đảm, kiên nhẫn và bền chí. Tách
biệt khỏi mọi đau khổ, tình yêu của con người không bao giờ có thể phát triển, không có
chổ cho sự hy sinh bản thân và quan tâm đến người khác33. Có thể nói, khi loại bỏ các
vấn nạn, khó khăn và những quy luật thiên nhiên, đời sống sẽ trở thành dễ chịu. Nhưng
trái lại, đời sống con người đánh mất đi giá trị và ý nghĩa của nó, từ đó con người chỉ
sống một cách vật vờ và không có mục đích vươn tới. Con người luôn đặt ra câu hỏi:
Tại sao vũ trụ bất toàn, đau khổ, chết chóc, và các điều xấu Thiên Chúa vẫn cho xẫy ra?
Là vì, con người không tưởng tượng hay chưa có khả năng để nhận ra đâu là lý do mà
Thiên Chúa cho phép chúng xẩy ra. Như một đứa bé, không phải lúc nào nó cũng hiểu
rõ và nhận biết rằng những lý do mà cha mẹ nó không cho phép hay cấm nó không được
làm việc này hay việc kia.
Tóm lại, điểm thiết yếu nhất để giải quyết các vấn nạn thiên nhiên là phải nhìn
nhận rằng, khi nói đến Thiên Chúa là Đấng toàn năng, chúng ta không có ý nói Ngài có
khả năng làm bất cứ điều gì ta tưởng tượng ra. Đúng vậy, chính Kinh Thánh khẳng định
rằng: “Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mt 19,26). Tuy nhiên, Kinh Thánh
cũng khẳng định rằng, có một số điều Thiên Chúa không thể làm vì nó đi ngược với bản
tính và sự trung tín của Ngài như: “Với niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên
Chúa, Đấng không hề nói dối đã hứa từ thuở đời đời” (Tt 1,2), hay “Vì Thiên Chúa
không thể bị cám dỗ phạm tội” (x. Gc 1,13). Nói cách khác, Ngài không thể làm bất cứ
điều gì “ngược lại” với bản chất công chính, thánh thiện của Ngài. Ngài cũng không thể
làm những gì trái với bản chất hợp lý của Ngài trong một thế giới trọng lý lẽ. Chắc chắn
Thiên Chúa cũng không làm trái với những quy luật thiên nhiên mà Ngài đã ban cho
chúng. Đặc biệt, Thiên Chúa không bao giờ làm những gì phi lý và vô nghĩa34.
Dựa vào những chứng lý trên, chúng ta có thể kết luận rằng, Thiên Chúa không
thể loại trừ sự dữ và đồng thời Ngài cũng không làm cho nó trở nên vô hiệu đối với sự
hoàn thành những mục đích quan trọng khác. Chúng ta đã tìm hiểu về sự dữ thiên nhiên
gây ra, giờ đây người viết xin được bước sang sự dữ luân lý.
33 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 220-222. 34 x. Giuse Đinh Thanh Bình, Lạy Chúa! Tại Sao Ngài Im lặng. Tụ Sách dân Chúa,1995, tr. 62-63.
22
2.2. Sự dữ luân lý
Theo niềm tin Kitô giáo thì tất cả hình thức của tội lỗi là do con người đi
ngược lại ý muốn hay kháng cự lại tình yêu Thiên Chúa. Khi con người bất tuân với
Đấng chân thiện mỹ là lúc con người chiều theo điều xấu và tạo nên những sự dữ
luân lý, một điều không bao giờ Thiên Chúa tạo nên35.Còn theo quan niệm của John
Hick: “Sự dữ luân lý là sự dữ mà con người gây ra như: sự tàn nhẫn, sự bất công,
sự xấu xa, những suy nghĩ và hành xử đồi bại”36.
Lập luận trên được chứng thực qua những biến cố thương tâm đã xẩy ra trong
thế giới như: Thế chiến thứ I và thế chiến thứ II, những lò thiêu hay hầm chết ngạt trong
các trại tập trung của Đức quốc xã thời Hitler, cuộc khủng bố kinh hoàng xẩy ra ớ Mỹ
vào Ngày 11 tháng 9 năm 2001… Cũng có thể kể đến những cái chết thương tâm và bi
ai của hàng triệu triệu thai nhi đã bị chính bàn tay vô nhân đạo của các đấng bậc sinh
thành giết đi ngay khi còn chưa chào đời. Thật vậy, chúng ta phải nhìn nhận rằng, tội ác
luân lý luôn là những hậu quả của việc con người lạm dụng tự do mà chính Thiên Chúa
ban, để quay lưng và chống lại ý muốn tốt lành của Thiên Chúa.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết: “Các thiên thần và con người, những
tạo vật thông minh và tự do, phải đi tới cùng đích tối hậu của mình bằng một lựa chọn
tự do, trách nhiệm và bằng niềm ưu ái. Vậy họ có thể lạc đường. Sự thật thì họ đã phạm
tội, do đó sự ác tinh thần đã đi vào thế gian”37. Tội lỗi của con người đã gây ra không
phải do Thiên Chúa dựng nên. Thật vậy: “Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của
sự ác tinh thần chút nào, dù cách trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên, Ngài cho phép như
thế để tôn trọng sự tự do của tạo vật của Ngài”38.
Việc liên kết tự do con người với khả thể, và giờ đây đã trở thành hiện thực, con
người phạm tội, soi sáng rất nhiều cho ta về những nỗi thống khổ nhân loại đã phải gánh
chịu. Vì phần lớn những đau khổ của con người là đến từ những hành vi vô nhân đạo,
hay do con người không làm tròn trách nhiệm của mình. Những đau khổ đó như:
Nghèo đói, áp bức, bách hại, chiến tranh và mọi thứ bất công xẩy ra trong xã hội. Một
câu hỏi luôn đặt ra là, tại sao Thiên Chúa không sáng tạo nên con người tốt lành, thánh
thiện và toàn diện đến nỗi không thể phạm tội?
35 x. George A. Maloney, S..J., Nơi Chúa Giêsu Chúng Con Tín Thác, tr. 246. 36 John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước, tr. 66. 37 GLHTCG, số 311. 38 GLHTCG, số 311.
23
Để trả lời cho thắc mắc vừa đưa ra, người viết xin được quay về với quan niệm
của Kitô giáo. Kitô giáo luôn coi sự dữ luân lý trong tương quan tự do và trách nhiệm
của con người. Là một nhân vị có tự do và tự chủ, phải chịu trách nhiệm lấy vận mạng
của mình thông qua những quyết định. Vì vậy, không ai trong loài người dám vỗ ngực
và đảm bảo trước được rằng, một tác nhân luân lý sẽ không bao giờ chọn sai. Như vậy,
khả năng làm điều xấu hay phạm tội không thể tách rời khỏi việc tạo nên những con
người hữu hạn. Vậy tại sao Thiên Chúa không dựng nên con người có tự do nhưng
không thể phạm tội? Nếu như ta hiểu hành vi tự do là hành vi không bị cưỡng bức từ
bên ngoài, nhưng nó xuất phát chính từ bên trong hay ngay từ bản tính của tác nhân, khi
họ phản ứng lại hoàn cảnh họ sống. Tuy nhiên sẽ mâu thuẫn khi nói rằng Thiên Chúa đã
tạo nên chúng ta để chúng ta buộc phải hành động theo một cách thức nhất định, và
chúng ta thực sự là những nhân vị độc lập với Thiên Chúa. Nếu như mọi tư tưởng và
hành động của chúng ta đã được Thiên Chúa tiền Định, thì dù chúng ta thấy mình có vẽ
tự do và có trách nhiệm đến mấy đi nữa, chúng ta không thể nào tự do và chịu trách
nhiệm luân lý trước mặt Thiên Chúa, nhưng trái lại, lúc đó chúng ta chỉ là những con rối
của Thiên Chúa.
Tóm lại, Thiên Chúa có dư quyền năng để sáng tạo nên bất cứ loài thọ tạo nào ta
có thể nghĩ ra. Nhưng nếu thụ tạo đó không có tự do luân lý, thì dù thụ tạo đó có trổi
vượt con người đến mấy đi nữa, thì chúng ta cũng không coi đó là những ngôi vị. “Khi
chúng ta hỏi tại sao Thiên Chúa lại không tạo nên những thụ tạo như thế thay vì con
người, câu trả lời truyền thống chỉ có ngôi vị, theo một nghĩa nào đó có ý nghĩa, mới có
thể trở thành “con cái Thiên Chúa”, có khả năng đi vào tương quan hữu vị với Đấng
Tạo Hoá qua sự đáp trả tự do không bị cưỡng chế trước tình yêu của Thiên Chúa”39.
39 John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Dịch giả: Lm. Nguyễn Thịnh Phước. Tr 65.
24
III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ
1. Phải chăng đau khổ và sự dữ đến từ Thiên Chúa?
Vấn đề về sự dữ luôn là những nhức nhối và băn khoăn đối với mọi người. Nhất
là vấn nạn: Phải chăng sự dữ đến từ Thiên Chúa? Thật vậy, Carl Jung, đồ đệ của
Simund Freud cũng đã đặt ra những thắc mắc về Thiên Chúa là nguyên do phát sinh sự
dữ như: Phải chăng Đấng tối hậu cũng mang trong mình hai khuôn mặt? Phải chăng sự
dữ bắt nguồn từ Ngài? Bởi vì nếu sự dữ hiện hữu thì hẳn nó phải là cái gì phát xuất từ
nơi Ngài. Để trả lời cho những thắc mắc này, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã dùng
lời nói của Thánh Gioan để nói về thực tại của bóng tối và phẩm tính nơi Thiên Chúa:
“Thiên Chúa là ánh sáng, nơi Người không có một chút bóng tối nào” (Ga 1,5); mà
bóng tối tượng trưng cho sự dữ và quyền lực tối tăm. Vì thế, có thề khẳng định bóng tối
(sự dữ) đến từ một thế lực khác ngoài Thiên Chúa, chứ không phải đến từ Thiên Chúa.
Ma quỷ hay sự dữ không thể ở gần hay ở nơi Thiên Chúa. Vậy sự dữ phát xuất từ đâu?
Nếu sự dữ không do Thiên Chúa tạo ra thì làm sao nói Thiên Chúa là Đấng tác tạo mọi
sự? Chính Giáo Hoàng Bênêdictô XVI lại khẳng định: “Sự dữ không phải là một tạo vật
mới. Nó không phải là một cái gì tự sinh tồn nhưng tự bản chất nó là phủ định, là sự
huỷ diệt thụ tạo. Nó không phải là một hữu thể vì hữu thể chỉ phát xuất từ nguồn của
mọi hữu thể. Nó là một cái không. Sự dữ không phải là một thụ tạo riêng lẻ. Nó là một
thứ cây tầm gửi. Nó sống nhờ kẻ khác và cuối cùng nó sẽ tự giết nó”40. Cho nên, dù sự
dữ có đó, hiện hữu đó,và vẫn đang hoành hành giữa thế giới con người, thì Thiên Chúa
cũng luôn quan phòng mọi sự và dẫn đưa vạn vật đến cùng đích tối hậu của chúng. Hay
nói như thánh Thomas Aquinô: “Thiên Chúa sắp xếp mọi sự đều hướng về cứu cánh tối
hậu của chúng là sự tốt lành của Thiên Chúa”41.
Tuy nhiên, khi gặp sự dữ và đau khổ con người thường chỉ nghĩ ra một Thiên Chúa
theo như họ quan niệm và đòi hỏi Thiên Chúa đó phải đáp ứng những nhu cầu của họ; một
vị Thiên Chúa luôn tiêu diệt kẻ dữ và thưởng công cho người lành. Thiết tưởng nếu có một
vị Thiên Chúa như thế, thì vị Thiên Chúa đó đã bị chính con người đóng khung. Trái lại,
Thiên Chúa không như con người nhìn nhận. Ngài không chỉ là một Thiên Chúa công bình
nhưng còn đầy tình thương hay tha thứ. Ngài không chỉ là một Thiên Chúa toàn năng mà
thôi, nhưng Ngài là một Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, nhẫn nại, giàu lòng xót thương (x.
40 Joseph Raszinger, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, Nxb Tôn Giáo. Người dịch: Phạm Hồng Lam, 2011, tr. 129-130. 41 M. Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Sáng Tạo Và Quan Phòng. Học Viện Thần Học Xitô Thánh Gia Việt Nam, 2012, tr. 185.
25
Tv 85; 103), hay “Ngài đã cho mặt trời mọc lên soi sáng người lành cũng như kẻ dữ và cho
mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,45). Cho nên, trong vấn đề
đau khổ và sự dữ, con người thường bị cám dỗ có xu hướng kéo Thiên Chúa ngang hàng
với mình, tạo ra cho mình một vị Thiên Chúa đầy quyền năng nhưng hoạt động theo như ý
họ muốn. Đó không phải là đường lối của Thiên Chúa cũng như không phải cách Thiên
Chúa hành động.
Một số không nhỏ, nếu không muốn nói là tất cả mọi người, khi ở trong cuộc sống
thịnh vượng, mọi sự đều an bình, xuôi thuận thì không ai kêu ca, trách móc, cầu khẩn hay
nhớ đến để tạ ơn Thiên Chúa. Nhưng khi gặp gian nan, đau khổ, thử thách thì người ta bắt
đầu khấn vái, kêu cầu Ngài giúp sức, phù hộ, nếu không được như ý mình xin thì quay lại
chống đối, trách móc. Tuy nhiên dù con người cầu khẩn hay trách cứ thì Thiên Chúa vẫn có
đó, vẫn hiện hữu. Thật vậy “Danh Thánh Thiên Chúa khắc sâu vào lòng lịch sử các niềm
hy vọng và các nỗi đau khổ của nhân loại. Chính trong lịch sử nhân loại mà có khi danh
thánh trở nên chói loà vang dội, có lúc lại tàn lụi, khi thì được tôn kính, lúc khác lại bị phủ
nhận, nhưng không bao giờ bỏ quên”42. Cho nên nếu nói sự dữ đến từ Thiên Chúa thì
không đúng, vì sự dữ và đau khổ là sự khiếm khuyết của sự thiện hảo; mà Thiên Chúa là
Đấng thiện hảo trọn vẹn. Vì vậy, sự dữ và đau khổ không thể đến từ Ngài. Nếu sự dữ và
đau khổ đến từ Thiên Chúa thì tại sao Đức Giêsu lại trừ quỷ và chữa bệnh cho con người43?
Chúng ta phải khẳng định đau khổ và sự dữ không bắt nguồn từ Thiên Chúa, và
Ngài cũng không tạo ra đau khổ, cũng như không gây nên bất công, bởi vì Ngài là tình yêu
“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16), và là sự công bằng vô biên44.Chính Đức Thánh Cha
Bênêdictô XVI đã xác quyết như sau: “Không thể nói Chúa tạo ra Satan. Câu chuyện về
Luxiphe muốn nói lên rằng không phải Chúa tạo nên các thế lực sự dữ. Các thế lực này
xuất hiện rõ nét trong câu chuyện Đức Giêsu trừ quỉ. Chúa chỉ tạo nên thần lành”45.Hay
như thánh Giacôbê đã nói: “Nơi Chúa không hề có sự dữ, Người không bao giờ thử thách
ai. Mỗi người khi bị thử thách là do dục vọng của mình lôi cuốn, và dùng mồi mà bẫy. Một
khi dục vọng đã cưu mang thì sinh ra tội, còn tội, khi đã phạm rồi thì sinh ra cái chết… Mọi
42 Herbert Vorgrimler, dẫn nhập, tuyển chọn và giới thiệu trong bộ Texte Zur Theologie Dogmatik, Thiên Chúa LuậnQua Các Tác Giả, tr. 105. 43 x. Joseph Ratzinger Đức Giáo Hoàn Bênêdictô XVI, Thiên Chúa Và Trần Thế, Nxb Tôn Giáo. Người dịch: Phạm Hồng Lam, tr. 126. 44 x. Thiên Phúc, Nữ Thánh Giữa Đời Thường. 30 Câu Chuyện, Suy Niệm và Cầu Nguyện, 1997, tr. 50-51. 45 Joseph Ratzinger Đức Giáo Hoàn Bênêdictô XVI, Thiên Chúa Và Trần Thế, Nxb Tôn Giáo. Người dịch: Phạm Hồng Lam, tr. 126.
26
ơn lành, mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha, là Đấng dựng nên
tinh tú, nơi Người không có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối, khi
sáng”(Gc 1, 13-17). Tóm lại, Thiên Chúa không bao giờ tạo ra tàn tật, bệnh hoạn, chết
chóc, thất bại, nhục nhã… Vì Thiên Chúa đã yêu cho đến chết để cứu chúng ta. Một Thiên
Chúa đã yêu đến thế, không thể có bóng tối của quỷ dữ nơi Người được46.Nếu vậy thì tại
sao có đau khổ và sự dữ? Phải chăng đau khổ và sự dữ đến từ ma quỷ? Để làm sáng tỏ vấn
nạn này, người viết xin được trình bày mục “đau khổ và sự dữ đến từ ma quỷ”.
2. Đau khổ và sự dữ đến từ ma quỷ
Khi đề cập đến ma quỷ, chúng ta không cần tìm chứng cứ để chứng minh có ma
quỷ thật hay không, mà tìm hiểu xem có phải sự dữ, sự ác đến từ ma quỷ hay không ?
Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn là ma quỷ có thật, và chúng hoạt động trong thế
giới để làm hại con người. Nhưng chúng chỉ được phép làm hại con người trong một
phạm vi mà Thiên Chúa cho phép. Điều này ta thấy rõ trong sách Gióp: “Được, nó
thuộc quyền ngươi, nhưng người phải tôn trọng mạng sống nó” (G 2,6). Ma quỷ luôn
tấn công dụ dổ con người phạm tội vì ma quỷ là kẻ gian ác, với lòng phân bì, chúng nỗ
lực ngăn cản không cho loài người tiến tới, nhưng phải hư vong; chúng tìm mọi cách để
tiêu diệt loài người. Cho nên cám dỗ là việc của ma quỷ47. Còn theo các nhà thần học,
ma quỷ thường xuyên lôi kéo con người đi trệch con đường cứu độ mà Thiên Chúa đã
vạch ra cho họ. Theo thánh Thomas Aquinô: “Ma quỷ không thể biến đổi ý chí nhưng
có thể biến đổi những năng lực hạ cấp của con người, do đó dù ý chí không bị nó cưỡng
bức nhưng bị khuých đảo”48.Dựa vào quan điểm của thánh Thomas Aquinô và mặc khải
của Thánh Kinh ta có thể nói, không phải mọi tội ác đều do ma quỷ cám dỗ con người.
Chính trong Cựu Ước nhấn mạnh chân lý này: Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên
Chúa, con người luôn luôn có thể chống lại sự dữ. Như thế, quyền lực của Satan không
phải là bất khả phản kháng. Trong sách Huấn Ca có nói: “Khi người vô đạo chửi rủa
Satan, nó rủa chính mình”(Hc 21,27). Đây là câu nói bằng chứng, nhằm ngăn ngừa tư
tưởng sai lầm là đổ lỗi cho Satan khi chính bản thân mình đã phạm luật Chúa49.Trong
Kinh Thánh chính Đức Giêsu cũng khẳng định: “Từ lòng người phát xuất những ý định
“Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà
bắt”(Gc 1,14). Trong con người có đủ nguyên nhân của tội lỗi, là tính tự do dự quyết,
46 x. Stan Rougier, Những cuộc hẹn của Thiên Chúa. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết, tr. 218. 244. 47 x.Giải Thích Thần Học, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Tạo Thành, 1996, tr. 204. 48 Thánh Thomas Aquinô, Tổng Luận Thần Học về việc Thiên Chúa cai quản vũ trụ. Phầ I, vấn để 114. 49 x. Tội Lỗi Đau Khổ Theo Cựu Ước, tr. 58.
27
những mơn trớn của xác thịt, tính kiêu ngạo, lòng ghen ghét…dù có thể kìm hãm. Vậy
nếu không ai cám dỗ, mà thiên thần cao cấp đã phạm tội, phương chi là con người, dù
ma quỷ không cám dỗ, cũng có thể tự mình sa ngã phạm tội. Cho nên không phải mọi
tội đều do ma quỷ50.Vậy có thể nói, nguyên nhân của đau khổ và sự dữ không chỉ đến từ
ma quỷ, nhưng cũng do từ tội nguyên tổ. Để làm sáng tỏ vấn nạn này, người viết xin
được trình bày mục “khổ và sự dữ do tội nguyên tổ”.
3. Đau khổ và sự dữ do tội nguyên tổ
Theo quan niện của Kitô giáo, đau khổ và sự dữ là do tội lỗi loài người mà đầu
tiên là tội nguyên tổ. Có thể nói, sự bất phục tùng của nguyên tổ Ađam và Evà đã xô đổ
lâu đài hạnh phúc của con người, để từ đó đau khổ và sự dữ đi vào trần gian mặc sức
tung hoành51. Chồng đổ lỗi cho vợ: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái
cây ấy, nên con đã ăn” (St 3,12). Anh cả giết em: “Cain xông đến giết em mình”(St
4,8). Con người không còn biết nghe và hiểu nhau nữa (tháp Baben, x. St 11,1-9)52.
Thật vậy “kể từ khi con người có khả năng tự chọn, không có thời gian nào mà con
người không phải là tội nhân”53. Chính Công đồng Vaticano II cũng đã khẳng định như
sau: “Ngay từ đầu lịch sử, con người theo thần dữ nên đã lạm dụng tự do của mình khi
nổi dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh của mình ngoài Thiên Chúa.
Thật thế, biết lành dữ là quyền định đoạt cái gì tốt cái gì xấu, quyền ấy chỉ thuộc một
mình Thiên Chúa. Con người muốn dùng tự do của mình để nên hoàn thiện mà không
cần Thiên Chúa” (GS, 13). Ngay từ khởi thuỷ “Adam là người đầu tiên vượt chặng
đường ấu trĩ của nhân loại, là kẻ đầu tiên có khả năng hoạt động tự do và đáp trả lời
mời gọi của Thiên Chúa. Ông đã phạm tội ngay từ khi bước vào tự do, và cử chỉ từ
khước đó, ông đã chặn đứng bước thẳng tiến siêu nhiên của nhân loại. Ông đã tự ngăn
cản mình và ngăn cản người khác không đạt tới được trạng thái địa đàng (hạnh phúc
viên mãn)”54. Chính hậu quả của tội đã phá hỏng sự hài hoà giữa điều khác và điều
giống, nên lãnh vực nào (lẽ ra trong đó có sự phối hợp hài hoà giữa cái giống và khác)
cũng đều trở nên xấu đi do tội lỗi gây ra. Chẳng hạn từ nay sự khác biệt giữa ta với
Thiên Chúa trở nên tai hại, khó chấp nhận, vì Ađam và Evà bỗng trở nên sợ Thiên Chúa
50x. Giải Thích Thần Học, Mầu nhiêm Thiên Chúa Tạo Thánh, 1995, tr. 205. 51 x. Lm Nguyễn Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 60. 52 x. Stan Rougier, Những Cuộc Hẹn Của Thiên Chúa. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết, tr. 264. 53 Jacques Bur,les Editios du Cerf, Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ. Lưu hành nội bộ, tr. 22. 54 Jacques Bur,. les Editios du Cerf , Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ. Lưu hành nội bộ, tr. 34.
28
(St 3,8). Tình trạng này sẽ được tái tạo và phục hồi lại nhờ chương trình cứu độ của
Chúa Ki tô thực hiện qua mầu nhiệm thập giá vàn phục sinh55.
Tuy nhiên, chúng ta không thể đổ lỗi hết cho ma quỉ và ông bà nguyên tổ, nhưng
trái lại phải nhìn nhận một phần tội lỗi của chính mình và chính tội lỗi mình đã đẩy
chúng ta vào cuộc sống đau khổ cũng như phải đối diện với sự dữ. Vì khi chúng ta
phạm tội, là chúng ta khước từ những gì giúp xây dựng con người một cách thật sự, vì ý
định của Thiên Chúa là làm sao cho con người đạt được mức viên mãn, làm con người
đứng thẳng, con người thành công, làm nghĩa tử đã được giải cứu. Bởi khi phạm tội là
luôn luôn tự làm cho mình bớt là người, là thụt lùi xuống một cấp, có hại cho sự phát
triển của mình, là tạo ra những tình huống đau đớn, trong đó con người sẽ đau khổ cảm
nhận những hậu quả của sự vong thân56. Vậy phải chăng sự dữ xuất hiện không chỉ đến
từ ma quỷ hay hậu quả của tội nguyên tổ của loài người mà thôi, nhưng cũng do từ con
người?
4. Đau khổ và sự dữ đến từ con người
Khi người ta xem đau khổ như là một đồ vật có thể nắm gọn trong tay hay một
vấn đề có thể quán triệt được nhờ sự hiểu biết của trí óc, thì con người sẽ đi vào ngõ cụt
và bế tắc. Thực ra sự dữ là một mầu nhiệm hay nói cách khác; sự dữ không chỉ đơn
thuần là một vấn đề triết học mà còn là một vấn đề tôn giáo. Mầu nhiệm sự dữ là một
mầu nhiệm con người không thể quán triệt được, vì là chương trình và ý định của Thiên
Chúa vượt qua giới hạn của con người. Khoảng cách từ con người đến Thiên Chúa là vô
biên. Ngay cả những thực tại của trần gian, con người còn chưa hiểu hết, huống chi là
đòi hiểu chương trình của Thiên Chúa! Như vậy, vấn nạn sự dữ, đau khổ vẫn còn đó;
đau khổ vẫn là một huyền nhiệm. Tuy nhiên, chính nó cũng trực tiếp liên quan đến kinh
nghiệm cũng như sự tự do của con người57. Vì vậy, trước đau khổ và sự dữ ta không thể
dùng các lý chứng để giải thích; ta phải đi từ vô nghĩa đến có nghĩa. Đứng trước mầu
nhiệm đau khổ và sự dữ khiến người ta nổi loạn vì họ bị chồng chất những đau khổ và
đối diện với những điều vô lý mà không thể giải đáp.
Vậy sự dữ nơi con người là gì? Về phương diện thể lý, có thể nói sự dữ phát
sinh do thể xác con người như: Bệnh tật, khuyết tật bẩm sinh, sự chết…; về phương
diện tâm linh do: lo âu, suy nhược tâm thần, chấn thương tâm lý…; còn sự dữ phát sinh
trong tinh thần là do: phản bội tinh thần, phản bội tự do, tình yêu… Hoặc sự dữ phát
55 x. Xavier Thevenot, Tội Lỗi. Trình Bày Về Tội Cho Con Người Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, tr. 59. 56 x. Xavier Thevenot, Tội Lỗi. Trình Bày Về Tội Cho Con Người Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, tr. 106. 57 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP., Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 82
29
sinh do liên quan đến một cá nhân hay xã hội: liên quan cá nhân, sự dữ là ích kỷ, tính
kiêu căng, hận thù, phản bội, tôn thờ bản năng; liên quan đến xã hội, sự dữ là chủ nghĩa
dân tộc quá khích, chủ nghĩa quân phiệt độc tài khuynh hướng tôn thờ giới tính, quyền
lực, tiền bạc...58.Tuy nhiên, một điều ít ai để ý tới, đó là sự dữ xuất hiện vì do con người
khước từ Thiên Chúa.
4.1. Do con người khước từ Thiên Chúa
Có thể nói, phần lớn sự dữ xẩy ra trong thế giới là do con người dùng tự do của
mình quay lưng, khước từ Thiên Chúa là nguồn gốc mọi điều thiện hảo. Thật vậy chính
vì lạm dụng tự do hay đề cao tự do một cách mù quáng, mà con người bất cần Thiên
Chúa và xem Ngài như một kẻ quấy rối và đưa tới tình trạng nổi loạn chống lại Thiên
Chúa! Nietzsche hô lớn: “Ta đã chết và ta đã để cho Thiên Chúa chết”59. Nhất là ông
đã hạ cấp Thiên Chúa khi nói: “Một Thiên Chúa không còn vô cùng, nhưng như một
hữu thể bần cùng, vụ lợi, luôn bận tâm chống lại thụ tạo của mình”60.Còn nhà thơ
Lautréamont đã tự sát ngày ông sinh nhật thứ 21 với ý đồ đen tối là để đời đời Thiên
Chúa phải ngắm nhìn một cực hình mà đáng lẽ ông không phải chịu. Hơn nữa, con
người còn nhân danh công lý để nổi loạn chống lại Ngài.“Chống lại Thiên Chúa nhân
danh công lý, nhân danh sự ghê tởm sự dữ”61.Để xây dựng lại công trình của Thiên
Chúa, cần phải giết tự do, và để giết chết tự do, ta phải giết chết Thiên Chúa, đặc biệt là
Thiên Chúa của Kitô giáo. Người ta muốn Thiên Chúa im lặng để khỏi nghe nói về
Ngài, khỏi bị quấy rối. Người ta muốn giết Thiên Chúa như người Do-thái đã làm để
khỏi bị tra hỏi và bị kết án bởi Thiên Chúa62. Tuy nhiên, con người không biết rằng khi
loại trừ Thiên Chúa, thì tức khắc con người đi ngược lại chân, thiện, mỹ, cũng như đánh
mất sự hoà hợp, thông thương, là lúc bắt đầu sắm cho mình một hung khí tự huỷ diệt
chính mình và tha nhân, cũng là nguồn gốc phát sinh đau khổ và sự dữ. Vì thế ta hiểu
được câu nói của triết gia Jean Paul Sartre: “hoả ngục chính lá tha nhân”!Chính vì con
người chối bỏ Thiên Chúa nên đời sống đã diễn ra trong cảnh cướp bóc, hãm hiếp, ám
sát và chết chóc. Tại Nantes, người ta đã chế tạo một chiếc tàu giết người hở đáy. Chiều
chiều họ chất đầy tù nhân. Và vào ban đêm, họ đem đổ tất cả xuống sông Loire. Mỗi
chuyến như thế là 1.300 người. Người ta đếm được cả thảy là 23 chuyến, trong đó có
600 trẻ em. Trên bờ sông đã có sẵn bọn côn đồ. Hễ ai bơi được vào bờ thì liền bị chúng
58 x. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô, tr. 90-92. 59 B. Bro, Quyền Lực Sự Dữ, Paris 1976, tr 44. 60 Lm Thái Nguyên, Những Canh Hoa Tâm Linh 1. Cuộc sống với những tương quan, 2007, tr. 219. 61 B. Bro, Quyền Lực Sự Dữ, Paris 1976, tr 44. 62 x. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô, tr. 96-97.
30
chặt tay, chặt chân rồi đẩy xuống sông. Ngoài ra trong một vài tháng đầu năm 1794,
nguyên tại thành phố Nantes đã có tới 15.000 bị hành quyết. Bởi đó, Platon ngày xưa đã
nói: “Xây một thành quách trên chín tầng mây còn dễ hơn cai trị một dân tộc không có
tôn giáo”. Hay như Chateaubriand thốt lên: “Tiêu huỷ việc thờ phượng Thiên Chúa thì
mỗi xã, mỗi huyện đều phải xây thêm nhà tù và phải tuyển thêm nhiều đao phủ”. Còn
Napoleon thì kết luận: “Một dân tộc không tôn giáo thì phải cai trị bằng súng đạn”63.
Sau biến cố tang thương ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, con gái của một vị
giảng thuyết lừng danh đã được mời phỏng vấn trên truyền hình và người dẫn chương
trình hỏi cô như sau: Tại sao Thiên Chúa lại để xẩy ra một thảm hoạ khủng khiếp như
thế? Cô trả lời: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn
bằng chúng ta. Từ bao năm nay chúng ta đã yêu cầu Ngài đi khỏi trường học, khỏi chính
phủ và khỏi đời sống chúng ta. Ngài là người “Quân tử” nên đã lẳng lặng rút lui. Làm
sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã khẩn
thiết xin Ngài để mặc chúng ta một mình”. Bên cạnh đó cô còn trả lời một cách mạnh mẽ
hơn, khi nhắc đến những biến cố mới xảy ra như: các cuộc khủng bố, giết người, chiến
tranh… như sau:“Tôi nghĩ rằng mọi sự bắt đầu với Madeleine Murray O’Hare, khi bà ấy
than phiền là không nên đọc kinh trong trường học nữa, và chúng ta đã đồng ý. Rồi người
khác có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh trong trường học, nhưng chính
Kinh Thánh dạy chúng ta: “Chớ giết người, chớ trộm cắp, hãy yêu thương tha nhân như
chính mình mình”… và chúng ta cũng đã đồng ý”64.Thiết nghĩ điều đó cũng quá đủ để
chúng ta thấy nguyên nhân những sự tàn ác xảy ra trong thế giới này. Thật vậy, vì chạy
theo và tôn sùng tự do một cách sai lạc, mù quáng, con người đã chuốc vào thân bao
nhiêu đau khổ, tang thương, nhất là đánh mất giá trị là người của mình. Triết gia Pascal
nói thật chí lý: “Đối với tôi, tôi thú thật, đạo Kitô cho tôi biết nguyên lý là bản tính con
người đã bị hư hỏng, trầm luân vì mất Thiên Chúa, ngay lúc đó tôi thấy khắp nơi đặc
điểm của chân lý này, vì thiên nhiên với tính cách là thế đánh dấu khắp nơi một Thiên
Chúa vắng mặt trong con người”65. Thay vì nhận Thiên Chúa làm cứu cánh đời mình, thì
con người lại dùng tự do để quay lưng, khước từ Thiên Chúa và nâng mình lên là cứu
cánh. Chính lúc con người khước từ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, là lúc cuộc sống của
con người trở thành hư vô, và mọi sự trong đó chỉ còn là phi lý và vô nghĩa, “cuộc đời
đáng buồn nôn” (Jean Paul Sartre), cũng là lúc con người mở đường cho những bất hạnh
63 Hương Việt, Tôi Tin Có Một Thiên Chúa. Quyển II, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2006, tr. 138. 64 Trích trong bài“Tình Yêu Thầm Lặng Của Người Cha”. 65 Sư Huynh Phan Văn Chức, It Phút Suy Tư Thần Lý. Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo TPHCM, 1994, tr. 170.
31
và đau khổ tràn vào thế giới. Thay vì chọn Thiên Chúa, con người lại chọn sự dữ, thay vì
sống trong hạnh phúc, bình an thì con người lại sống trong lo âu và bất hạnh. Chính sự dữ
huỷ diệt mọi giá trị trong thế giới khi con người xem mình là trung tâm và cùng đích. Đó
là nguyên nhân con người gây ra đau khổ và sự dữ trong thế giới. Bởi vậy, xét cho cùng
nguồn gốc đau khổ phát sinh từ con người, và chính tội lỗi là sự dữ lớn nhất trong đời
sống con người. Người ta vẫn có thể thấy hạnh phúc khi đau khổ, nhưng họ không thể
hạnh phúc khi phạm tội, vì tội lỗi phát xuất từ chính trong thâm cung của lòng người.
Chính tội lỗi làm cho con người trở nên xấu xa và gánh lấy hậu quả tai hại. Cho nên
người ta mới nói: “Sự dữ là điều bẩn thỉu nhất mà người ta có thể làm cho nhau và cho
Thiên Chúa”66.
Chính Công đồng Vatican II đã khẳng định: “Những chênh lệch trong thế giới
ngày nay được nối liền với những chênh lệch căn bản hơn phát xuất từ đáy lòng con
người, bởi vì chính trong con người có nhiều yếu tố xung khắc nhau. Bởi vậy, có sự
phân rẽ trong chính con người, từ đó sinh ra bao điều bất hoà lớn lao trong xã hội”
(GS, 10). Bên cạnh đó, Giáo hội cũng cho thấy nguyên nhân của sự dữ, bất ổn trong xã
hội, là do cuộc chiến của tội lỗi, nó từ chối mến Chúa yêu người67. Tóm lại,khi con
người loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi chân trời của mình, là lúc con người đã phủ một bóng
đen trên đoạn kết của cuộc đời. Con người sẽ mãi mãi không được biết đến lời cuối
cùng của lịch sử. Chính việc loại Thiên Chúa ra khỏi đời mình, là nguyên nhân đẩy con
người vào đường cùng, đến tuyệt vọng và sống trong đau khổ68.
4.2. Do tính hữu hạn của con người
Con người được dựng nên là môt hữu thể hữu hạn và bất toàn, chính vì vậy mà
con người phải đối diện với bao đau khổ: đau khổ về thể lý, tâm lý, tâm linh.
Trước hết là các đau khổ do tính hữu hạn của thể lý, phát xuất từ một sự rối loạn
của các cơ quan trong chúng ta hoặc từ những trục trặc về sinh lý. Loại đau khổ này mang
nhiều “khuôn mặt”: Những cơn dịch liệt thật sự vật ngã con người xuống; những trục trặc
mãn tính làm cho cuộc sống hằng ngày của ta luôn xấu đi, tính tình gắt gỏng; những bệnh
tật trong đó người ta biết mình sẽ phải chết hay phải tật nguyền trầm trọng, rồi từ đó tâm
hồn ta ngấm dần nỗi sợ hãi và cảm giác rằng tương lai mình kể như hư hỏng, đời ta tàn
phế; những “khốn khổ” do tuổi già huỷ hoại dần dần tất cả và rồi đi đến làm thân xác suy
66 Jacques Bur, les Editions du Cerf, Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ. Lưu hành nội bộ, tr. 92. 67x. Jacques Bur, les Editions du Cerf, Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ. Lưu hành nội bộ, tr. 71. 68x. Stan Rougier, Những Cuộc Hẹn Của Thiên Chúa, Nxb Phương Đông. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết, tr. 139.
32
sụp, các mối tương giao đổ vỡ và khả năng trí tuệ biến mất; tuổi già đôi khi chẳng khác
nào một sự phá sản, một cuộc đắm tàu… Tắt một lời, cái thân xác thường cho ta cảm giác
an toàn sâu xa nay lại bỏ rơi ta, phản bội ta, tạo ra nơi ta nào là sợ hãi, đau khổ và đoạn
tuyệt!...69. Những đau khổ tâm lý thường được biểu lộ qua nhiều cách đôi khi thật bất ngờ
và khó hiểu đối với người chung quanh như lo âu vô căn cứ, ám ảnh, sợ hãi, rối loạn tính
dục và tình cảm; hay những điều rốt cuộc làm nản lòng cả đến những người yêu thương
chúng ta và từ đó, đi đến chỗ càng cảm thấy cô đơn hơn. Thêm vào đó, còn có tình trạng
trầm cảm u uất đè bẹp ta tới mức làm cho ta tỏ ra bất lực không đương đầu nổi với chúng,
càng ngày càng chán sống. Thế rồi, chúng đưa chúng ta vào tình trạng mặc cảm về sự phi
lý, về một tâm hồn đã chết cũng như thèm khát được chấm dứt tất cả, và rốt cuộc trở nên
sợ hãi đối với chính mình!...70.
Sau hết là những đau khổ có nguồn gốc tâm linh.Đây là những đau khổ đụng
chạm đến người Kitô hữu trong niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Họ đối diện với
những đau khổ nặng nề như: Con chết, chồng hay vợ qua đời, hoặc một bất công
nghiêm trọng mà mình phải chịu, khiến người Kitô hữu đâm ra nghi ngờ không biết
con người có tốt không, Thiên Chúa có hiện hữu hay không… Đó là những đau khổ
len lói vào tâm hồn con người và từ đó quay ra nghi ngờ mọi sự, nghi ngờ một cách
nghiêm túc cả những “chân lý đức tin” mà người tín hữu đã được khắc ghi trong tim
từ khi còn bé71.Con người có lý trí và tự do nhưng con người có khả năng sai lạc vì
mang trong mình tính hữu hạn. Vì vậy, con người khi sử dụng tự do của mình và hậu
quả xấu có thể phát xuất từ đó. Thiết nghĩ nếu huỷ bỏ những khả năng gây ra đau
khổ thì tức là huỷ bỏ tính hữu hạn nơi con người và đậy con người vào vòng xoáy
cám dỗ muốn bằng Thiên Chúa như tổ tiên loài người đã từng vấp ngã. Có thể nói,
nếu không có những yếu đuối và giới hạn thì thế giới này chắc sẽ buồn chán vì thiếu
thách đố, không có mục đích và con người không còn cố gắng để phấn đấu vươn lên.
Theo quan niệm của thánh Irênê và thánh Augustinô, mọi sự do Thiên Chúa
sáng tạo, tự bản chất chúng là tốt đẹp: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là
rất tốt đẹp” (St 1,31), vì chính thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện. Tuy nhiên
thiện tính nơi thụ tạo không có nghĩa là chúng đã hoàn hảo, mà Thiên Chúa đã sáng tạo
chúng và đặt chúng vào tiến trình đi đến sự hoàn hảo. Như vậy, do tính chất bất toàn và
giới hạn của thụ tạo mà có sự ác, đau khổ và sự dữ trong tự nhiên và trong thế giới con
người
69 x. Xavier Thévenot, Đau Khổ Và Hạnh Phúc, NxbTôn Giáo, tr. 9-10. 70 x. Xavier Thévenot, Đau Khổ Và Hạnh Phúc, Nxb Tôn Giáo, tr. 10. 71 x. Xavier Thévenot, Đau Khổ Và Hạnh Phúc, Nxb Tôn Giáo, tr. 11.
33
IV. NHỮNG LÝ GIẢI VỀ ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ THEO CÁC TRIẾT GIA VÀTHẦN HỌC GIA
Vấn đề đau khổ và sự dữ là một vấn đề mang tính hiện sinh, nên không chỉ có
các tôn giáo muốn đi tìm và trả lời cho những chất vấn của con người về nó, nhưng bên
cạnh đó còn có các triết gia và các thần học gia cũng luôn quan tâm và không ngừng tìm
hiểu về những vấn nạn đau khổ và sự dữ. Vì thế, để làm sáng tỏ vấn nạn về đau khổ và
sự dữ, thiết tưởng sẽ là một thiếu sót không nhỏ nếu không đề cập đến các lập trường
triết học và thần học tiêu biểu. Vậy sau đây người viết xin được tìm hiểu xem lập trường
của họ về vấn đề đau khổ và sự dữ như thế nào?
1. Theo các Triết Gia
Thuyết hiện sinh vô thần J.P. Sartre và Albert Camus xem cuộc đời là buồn
nôn, tha nhân là đau khổ. Vì vậy, ông cho rằng: “Hiện sinh con người tự căn bản
mang tính phi lý. Cuộc sống con người tự nền tảng là vô nghĩa. “Con người là một
đam mê vô ích” hay “Người là sói của người”72. Nhất là:“Cái nhìn của tha nhân chỉ
biến tôi thành sự vật, và cái nhìn của tôi chỉ biến tha nhân thành sự vật khi những cái
nhìn đó là cái nhìn vô nhân đạo mà thôi”73. Trong lãnh vực của những học thuyết
chính trị chúng ta có những nhà tư tưởng như John Hobbes, ông quan niệm con người
khởi đầu là tàn bạo và tình trạng xã hội nguyên thuỷ căn bản là sự dữ: “Từ nguyên
thuỷ, con người đã mang nơi mình bản năng hung ác, người với người chỉ là lang sói:
Lợi dụng nhau, khai thác nhau. Phải nhờ khế ước xã hội, con người mới hạn chế được
phần nào khuynh hướng gian ác để chung sống hoà bình”74.
Qua những quan niệm của các triết gia vô thần, ta thấy con người là nguyên
nhân gây ra đau khổ và sự dữ cho chính mình, tha nhân và thế giới. Vậy đâu là lập
trường và quan niệm của các triết gia hữu thần? Bất cứ chủ thuyết nào né tránh vấn đề
nguồn gốc của sự dữ bằng cách coi nó như một yếu tố cấu thành vũ trụ, đồng đẳng với
sự thiện, đều bị Kitô giáo bác bỏ ngay từ đầu, chẳng hạn: Thánh Augustinô là người
đầu tiên cho rằng sự dữ chính là điều thiện bị sai lạc. Ngài đã chủ trương mạnh mẽ
rằng: “Theo xác tín Do thái-Kitô giáo, vũ trụ này là tốt lành, Thiên Chúa dựng nên nó
vì mục đích tốt”. Còn triết gia David Hume, khi được đặt câu hỏi về Thiên Chúa và
vấn đề sự dữ, ông đã lập luận như sau: “Có phải Thiên Chúa muốn ngăn cản sự dữ,
72 Lm. J.B. Nguyễn Đăng Trực. OP, Lý Học Về Thượng Đế, tr. 49. 73 Trần Thái Đỉnh, Triết Học Hiện Sinh, Nxb Văn Hoá, 2008, tr. 334. 74 Michael D. Moga,Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực, Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên Tác: In Search of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr.205-206.
34
nhưng không được? Vậy thì Ngài bất lực. Có thể Ngài có thể ngăn cản, nhưng không
muốn làm vậy? Vậy thì Ngài ác tâm. Có phải Ngài vừa có khả năng vừa muốn ngăn
cản sự dữ? Vậy thì sự dữ bởi đâu? Những người hoài nghi chống lại niềm tin vào
Thiên Chúa, dựa trên căn bản vấn nạn biện chứng về sự dữ, đã phát biểu rằng:“Thật
là phi lý và không thể tin được một Thiên Chúa tốt lành và toàn năng lại hiện hữu một
lúc với thực tại sự dữ và đau khổ. Vì Thiên Chúa tốt lành và toàn năng như thế không
thể chấp nhận cho sự dữ tồn tại được”75. Những nhà triết học theo trường phái Platon
chủ trương rằng: “Cuộc đời con người là một bãi chiến trường của hai lực lượng
tương phản tung hoành; thân xác là biểu tượng sự dữ, tâm hồn là biểu tượng của sự
thiện”76. Triết gia Kierkegaard quan niệm: “Từ nguyên thuỷ đã có buồn chán, vì buồn
chán chư thần đã sáng tạo nên con người. Rồi từ Ađam nguyên tổ chúng ta cũng buồn
chán vì cô đơn, cho nên Eva được tác tạo. Rồi từ đó, cùng với sự phát triển và lan
rộng khắp thế giới. Ađam một mình đã buồn chán, khi Ađam ở với Evà , thì hai người
cũng buồn chán, khi có thêm hai người con là Cain và Aben, thì cả gia đình cũng
buồn chán, và khi cả một loài người đông đúc thì cả lũ người cũng buồn chán”77.
Chúng ta vừa tìm hiểu các triết gia lý giải về vấn nạn sự dữ. Chúng ta thấy, nhìn
chung, những lý giải trên vẫn chưa trả lời thoả đáng cho những băn khoăn và dằn vặt
của con người trước đau khổ và sự dữ. Sau đây ta tìm hiểu xem các nhà thần học sẽ lý
giải như thế nào về vấn nạn đau khổ và sự dữ.
2. Theo các Thần Học Gia
2.1. Theo thánh Irênê
Thánh Irênê đã giải quyết vấn nạn sự dữ bằng cách đưa ra hai khái niệm rất độc
đáo: Hình ảnh Thiên Chúa và sự đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa. Theo thánh
nhân, Thiên Chúa đã tạo nên nhân loại theo“hình ảnh” của Người, cho họ một số tiềm
năng thần linh trong sự thông minh của họ và trong khả năng của họ để đạt tới tình bằng
hữu với Đấng tạo nên họ. Những tiềm năng này chỉ đạt tới tình trạng “giống” như thần
linh sau một quá trình phát triển những đặc tính của con người. Đối với thánh Irênê con
người được dựng nên như những tạo vật chưa hoàn hảo, chưa chín chắn, vì vậy cần phải
trải qua sự phát triển về đạo đức. Ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã có thể trao ban sự
hoàn hảo cho con người, nhưng khi đó con người không thể đón nhận hay gìn giữ được.
Ngài viết: “Chắc chắn, người mẹ có quyền đưa những thức ăn giàu dinh dưỡng cho đứa
75 Lm. J.B. Nguyễn Đăng Trực. OP, Lý Học Về Thượng Đế, tr. 49. 76 Lm. J.B. Nguyễn Đăng Trực. OP, Lý Học Về Thượng Đế, tr. 49. 77 Trần Thái Đỉnh, Triết Hoc Hiện Sinh, Thời Mới xuất bản, Sài Gòn, 1967, tr. 84.
35
con còn đang ẵm của bà, nhưng bà đã không làm, bởi vì đứa trẻ chưa thể đón nhận
thức ăn quá bổ; cũng vậy, Thiên Chúa cũng có thể tạo ra con người hoàn hảo ngay từ
ban đầu, nhưng con người không thể đón nhận sự hoàn hảo này, vì con người chỉ là
những đứa trẻ còn đang ẵm sữa”78.Với quan điểm này, đối với Irênê, thế giới trộn lẫn
tốt và xấu là một môi trường được chọn bởi Thiên Chúa, để giúp con người phát triển
đến tình trạng hoàn hảo.Bởi vì quan điểm này về thế giới nhấn mạnh trên sự lớn lên của
đặc tính con người, nó nhấn mạnh sự quan trọng của tính độc lập nơi con người.Chỉ khi
con người thật sự độc lập với Thiên Chúa họ mới có thể sử dụng khả năng chọn lựa, để
phát triển chính mình và lớn lên như là con cái của Thiên Chúa. Bởi vì sự độc lập là rất
quan trọng cho sự phát triển của con người nên có một sự bào chữa cho Thiên Chúa
trong việc cho phép hiện diện của sự dữ trong thế giới. Để cho con người thật sự độc
lập, Thiên Chúa phải ẩn mình và trình bày cho con người một thế giới vừa bày tỏ, vừa
ẩn giấu Người. Nếu sự tốt lành và tình yêu của Thiên Chúa hoàn toàn rõ ràng trong thế
giới, sẽ không có một thành tựu nào cho con người để tin, yêu mến hay tín thác vào
Thiên Chúa. Nhưng trong thế giới của chúng ta với ánh sáng và bóng tối, nó cho thấy
một thành tựu lớn lao trong việc đáp trả Thiên Chúa. Một thế giới như thế làm cho con
người dễ dàng quên lãng Thiên Chúa và phạm tội.
Tương tự, tiếp cận này nhấn mạnh đến sự quan trọng của tự do con người. Trong
một tình trạng ở đó con người được định để lớn lên giống như thần linh, họ phải có khả
năng để xác định đời sống riêng của họ. Con người chỉ có thể trở nên con cái Thiên
Chúa một cách hoàn toàn bằng việc tự mình chọn lựa để hướng về Thiên Chúa, trong
đức tin và tình mến. Mục đích tạo thành của Thiên Chúa sẽ chỉ đạt được khi con người
hành động một cách tự do.
Nhưng chính quà tặng giá trị này cũng có thể làm cho tội lỗi trở nên có thể.
Thiên Chúa đã có thể không ban tặng con người khả năng chọn lựa để đi đến địa vị làm
con đầy tràn mà không đồng thời cho họ khả năng phạm tội. Tự do làm cho con người
có thể chọn sự dữ cũng như sự lành. Tất cả những sự dữ luân lý hiện diện trong thế giới,
có thể phát sinh từ nguồn gốc là tự do trong chọn lựa của con người. Con người đã chọn
ghen ghét, tham lam, ích kỷ... Xã hội loài người đã chọn gắn bó với những cuộc chiến
tàn bạo, thực thi chế độ nô lệ, áp bức, bất công thay vì chọn công bình và yêu thương.
Thiên Chúa đã có thể làm nên con người là những người máy được lập trình sẵn,
những người luôn luôn làm điều đúng và ngay thẳng. Nhưng những người máy sẽ
78 Irénée, Bài viết của Phạm Đại Quang, SDB, tr. 120.
36
không bao giờ có thể phát triển thành những con cái trọn vẹn của Thiên Chúa. Thật là
một thành tựu vô giá khi con người chọn sống can đảm, yêu thương và ca ngợi Thiên
Chúa theo cách hoàn toàn nhân loại. Để làm thành tựu này trở nên có thể Thiên Chúa đã
cho phép có sự dữ và đau khổ79.
Tóm lại, đối với Irênê thế giới hiện tại này mang trong mình đau khổ và sự dữ là
điều mà Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa đã tạo nên thế giới này với sự tốt lành và xấu xa
của nó như là một nơi huấn luyện để giúp con người đạt tới sự toàn thiện và hoàn thành
kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa dành cho con người.
2.2. Theo Thánh Augustinô
a. Sự dữ là thiếu sự thiện
Theo thánh Augustinô Thiên Chúa là cùng đích của hữu thể và sự thiện. Ngài là
sự Thiện Hoàn Hảo và là một hữu thể vĩnh cửu, bất biến và chân thực. Ngài tạo dựng
thế giới từ hư vô như một tạo vật trong bàn tay Thiên Chúa. Vũ trụ là toàn thiện, mọi
hữu thể xứng đáng để tồn tại bởi vì nó đóng góp một điều gì đó đáng giá vào trong toàn
bộ trật tự của sự vật. Vũ trụ cũng là một thực tại phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều
hình thức hiện hữu, những loại hữu thể mà bản tính của chúng được sắp xếp theo cấp
bậc.
Toàn thể vũ trụ là thiện; nhưng vì nó không có những đặc tính bất biến như
Đấng Tạo Hoá, cho nên nó có thể bị hư mất. Tuy nhiên, không có cấp bậc hữu thể theo
nghĩa hữu thể bậc thấp là sự dữ. Theo Thánh nhân, sự dữ cũng thực sự hiện hữu, nhưng
chúng chỉ tồn tại như một tình trạng thiếu vắng sự tốt lành, một sự thiếu vắng hiện diện
trong sự vật vốn căn bản là tốt, như bóng tối xuất hiện khi thiếu ánh sáng80.
Thánh Augustinô còn khẳng định thêm: Sự dữ không phải là một hữu thể hay
một phẩm chất hiện hữu độc lập mà chúng chỉ là sự khiếm khuyết của cái tốt như hữu
thể.Người ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa không sáng tạo ra mọi sự ở cấp hoàn hảo nhất,
không còn chỗ cho những khiếm khuyết xen vào? Tại sao Ngài đã tạo nên những hữu
thể thấp kém? Tại sao Ngài tạo nên những vật như cá mập, bọ chét và virus HIV? Thánh
79 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên Tác: In Search Of True Religion. A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 218-220. 80 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 212-213.
37
nhân trả lời: Cần có nhiều loại hữu thể được sáng tạo ở cấp độ hoàn hảo khác nhau, nhờ
đó sự phong phú và vẻ huy hoàng càng nổi bật81.
b. Nguyên lý của sự phong phú
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới phong phú và phức tạp. Chính sự đa
biệt này dẫn đến sự không đồng đều. Đứng trên một quan điểm đạo đức nào đó, người
ta có thể đưa ra những lập luận như, ở đây có những bất công. Một loạt các câu hỏi
được đặt ra như : Tại sao Thiên Chúa lại tạo nên một thế giới phức tạp và đa dạng với
các tạo vật không đồng đều như vậy? Tại sao Ngài không sáng tạo con người thông
minh như các Thiên Thần? Tại sao Ngài không tạo dựng thế giới này như Thiên
Đàng…? Thánh Augustinô đã giải quyết các vấn nạn này dựa trên nguyên lý về sự
phong phú.
Theo nguyên lý này, một vũ trụ phong phú và giá trị là một vũ trụ chứa đựng
nhiều tạo vật đa dạng và mọi loài có thể tồn tại thấp hơn cũng như cao hơn, xấu cũng
như đẹp, bất toàn cũng như hoàn hảo, sẽ tốt hơn và phong phú hơn một vũ trụ chỉ có
một tạo vật bậc cao nhất. Chính các tạo vật được tạo nên trong sự đa dạng và phong phú
nói lên một khả năng sáng tạo vô biên xuất phát từ một nguồn hoàn hảo vô tận và đầy
quyền năng.
Tư tưởng của thánh Augustinô cung cấp sự bào chữa cho một số sự dữ bởi vì
nhiều sự dữ trong thế giới là vấn đề của không hoàn hảo, dạng thức thấp kém của sự
sống. Nguyên tắc này khẳng định rằng những dạng thức của sự hiện hữu là những mắt
xích cần thiết trong sợi xích lớn của hữu thể như là một toàn thể, hữu thể này thì tốt đẹp
và cho thấy một cách thích đáng sự phong phú trong việc sáng tạo của Thiên Chúa.
Hơn nữa, nhiều sự dữ trong thế giới nảy sinh từ sự tương tác của những cấp độ
khác nhau, sự xung đột nảy sinh từ trong những dạng thức khác nhau của sự hiện hữu.
Động đất tàn phá cây cối và muỗi quấy rối con người. Sự dữ đến từ những xung đột này
được biện minh bởi sự muôn màu muôn vẻ do sự sáng tạo của Thiên Chúa.
Thay vì nhìn các vấn đề từ quan điểm của chúng ta đối với các tạo vật qua câu
hỏi về tính không đồng đều của những chủng loại hữu thể khác nhau, thì thánh
Augustinô đã dựa vào quy mô tuyệt đối cấp vũ trụ về hữu thể và sự thiện. Bởi vì Thiên
Chúa có sự sống, Ngài làm cho các sinh vật xếp hàng cao hơn so với những vật vô tri
trong dãy hữu thể; bởi vì Thiên Chúa là tinh thần, Ngài làm cho các hữu thể có lý trí và
81 x. Augustinô, Thần Luận. Người dịch: Nguyễn Đăng Trực, tr. 58.
38
tinh thần xếp bậc cao hơn so với các động vật. Mỗi một thụ tạo có một vị trí khác nhau
và mỗi hữu thể đều hướng về chính cội nguồn của mình là Thiên Chúa82.
c.Thẩm mỹ luận
Trong tương quan sự thiện mà đau khổ và sự dữ có một ý nghĩa: quan điểm loại
suy thẩm mỹ. Kinh nghiệm thực tế về thẩm mỹ cho hay, sự tương phản thường làm cho
thực tại tăng thêm vẻ đẹp. Như trong một bản nhạc, đôi khi có những nét không hoà
điệu, một cách nào đó lại có thể làm cho toàn bộ bản nhạc thêm truyệt vời. Ta chứng
kiến điều này rõ nét nhất qua các tác phẩm tranh của Rembrant, chúng nổi tiếng và được
khắc sâu vào lòng người qua mọi thế hệ là nhờ kỹ thuật tương phản giữa ánh sáng và
bóng tối, một số những yếu tố này tự nó là xấu xa và gây khó chịu. Tuy nhiên, những
yếu tố tối tăm và xấu xa góp phần vào sự đẹp đẽ và hoàn thiện trọn vẹn của bức tranh.
Vậy, nếu như ta bất mãn hay không bằng lòng bởi sự bất toàn của vũ trụ, là vì chúng ta
chưa hiểu thấu được bản giao hưởng của vũ trụ trong tổng thể của nó. Sỡ dĩ một chi tiết
của một bức tranh làm chúng ta khó chịu, hay không mãn nguyện với chính nó, là vì
chúng ta thiếu cái nhìn bao quát vốn đem lại ý nghĩa cho từng chi tiết. Tương tự như
một ít khiếm khuyết của một bản nhạc hay của bức tranh, sự dữ cũng có thể làm phát ra
vẻ rực rỡ của điều thiện. Nó cũng là phương thế để đạt tới sự hài hoà tuyệt định của thế
giới83.
Dựa theo sự phân tích này, thánh Augustinô đã lý luận rằng, có một vai trò cho
mảnh vá của bóng tối sự dữ trong vũ trụ, trong đó toàn thể của nó thì hài hoà, trật tự và
tốt đẹp về phương diện đạo đức. Chẳng hạn, sự dữ của tội nhân tàn bạo và ích kỷ chỉ
nhằm làm nổi bật tình yêu đầy lòng thương xót của Thiên Chúa. Một cái nhìn toàn cảnh
này cũng có thể được thấy trong liên hệ với một sự mở rộng về thời gian, nơi đó sự thất
bại trước của những tạo vật tự do được vượt qua trong sự cứu chuộc đầy hoan hỉ.
Như thế, trong cái nhìn của Thiên Chúa, tất cả tạo vật, bao gồm cả tội và sự
trừng phạt của nó, kết hợp để hình thành một sự hài hoà tuyệt vời không chỉ là tốt đẹp
mà là rất tốt đẹp. Mặc dù một phần của vũ trụ có thể là không hoàn hảo và xấu xa, thì
toàn bộ vũ trụ vẫn hoàn hảo. Mỗi một phần, trong chỗ đứng riêng của nó trong hệ
thống, góp phần cho sựhoàn hảo của toàn thể84. Trong các bài viết chống lại phái
82 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên Tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr . 214-215. 83 x. Augustinô, Thần Luận. Người dịch: Nguyễn Đăng Trực, tr. 58. 84 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 215-216.
39
Manikê, thánh Augustinô đã viết: “Sự dữ theo kiểu chất độc thì gây độc, lửa làm cháy,
nước nhận chìm, sẽ chỉ là sự dữ theo một nghĩa tương đối. Chất độc sẽ không độc cho
chính nó, nhưng chỉ sẽ gây hại khi ta cho nó tương tác với sự vật không tương hợp với
nó. Theo tác giả, mỗi hữu thể, dưới quan điểm Thiên Chúa, mang một khả thể sáng tạo,
có nghĩa là mỗi sự vật tốt đẹp theo cách thức của nó. Tuy nhiên, con người thường xem
xét việc sáng tạo dựa trên một cái nhìn hạn hẹp của mình”. Trái lại, Thiên Chúa có thể
thấy sự vật như là một toàn thể và từ cái nhìn đó “những sự dữ” chỉ là sự dữ trong một
nghĩa tương đối. Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra vì một số mục đích tốt. Chẳng hạn,
sự tốt lành của ơn cứu độ của tội nhân, thì có trọng lượng hơn là sự xấu xa của tội lỗi
của họ và cái giá của sự cứu độ họ85.
Tóm lại, qua những gì đã trình bày, cho ta thấy thánh Augustinô có một cái nhìn
và diễn tả một cách lạc quan về cái đẹp, cũng như sự dữxuất hiện như một khiếm khuyết
trong công cuộc sáng tạo mà thôi. Tuy nhiên, dù lập luận như thế nào thì đau khổ và sự
dữ vẫn có đó, vẫn hiện hữu cách thực sự trong thế giới con người. Nhưng với cái nhìn
loại suy, thánh nhân cho rằng, tội lỗi cũng là cơ hội làm nổi bật lòng thương xót và nhân
hậu của Thiên Chúa. Những thất bại của thụ tạo ban đầu cũng đã được khắc phục nhờ
chiến thắng Cứu Độ của Thiên Chúa trong Đức Kitô, con người đã lấy lại được ơn cứu
độ đã mất do tội lỗi của mình86. Có thể nói, Thiên Chúa nhìn mọi sự như một tổng thể
hài hoà trong đó sự ác chỉ mang một màu sắc cục bộ và tương đối, hay chỉ là khiếm
khuyết mà thôi. Sự thiện của ơn cứu độ vượt xa sự ác của tội lỗi “Ở đâu tội lỗi đã lan
tràn, ở đó ơn cứu độ càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20b). Đó là cái nhìn của thánh
Augustinô, còn quan niệm của thánh Thomas Aquinô thì như thế nào?
2.3. Theo thánh Thomas Aquinô
Đứng trước vấn nạn về sự dữ, thánh Thomas Aquinô quả quyết rằng, Thiên
Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Để bảo vệ cho quan niệm của mình, thánh nhân
đã sử dụng những ý niệm siêu hình về hữu thể để xây dựng thuyết chứng của mình và
trình bày vấn đề trong Tổng Luận Thần Học, phần I, vấn đề. 48-4987.
Theo thánh nhân, sự dữ cho thấy cách biệt giữa sự vật như nó phải là (do tự bản
chất của nó) và điều mà thực sự nó là. Như thế, sự dữ chỉ là biểu hiện sự khiếm khuyết
của sự thiện trong bất cứ tạo vật nào. Nó không hiện hữu tự bạn thân nó. Thế nên, trên
85 x. Augustinô, Thần Luận. Người dịch: Nguyễn Đăng Trực, tr. 58. 86 x. Lm. Nguyễn Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 5. 87 x. Thomas Aquinô, Tổng Luận Thần Học. Thiên Chúa Tạo Thành Và Các Thiên Thần, phần I, vấn đề 44-64. Người dịch: Joachim Nguyên Văn Liêm. Op, tr. 138.
40
bình diện hiện hữu, ta không tìm được sự dữ vì mọi tạo vật với tư cách là hữu thể đều
tốt lành hay thiện hảo. Sự thiện đó là điều mỗi người ước mong và không có gì đáng
ước mong nếu nó không hiện hữu. Có hiện hữu mới làm cho vật khác yêu thích được.
Vì thế, người ta chỉ nhận ra sự dữ trên bình diện cách thế hiện hữu của nó mà thôi. Sự
dữ được biết đến là do một hữu thể nào đó thiếu hay khiếm khuyết sự thiện nào đó, như
bóng tối được nhận biết là do thiếu ánh sáng. Sự dữ tự nó không thể hiện hữu được. Vì
vậy, thánh Thomas Aquinô đã định nghĩa: “Sự dữ là thiếu hay khiếm khuyết một sự
thiện hảo nào đó đáng lẽ một vật phải có”. Đôi mắt hay đôi tai là sự thiện hảo phải có
nơi con người, nên người bị khiếm thị hay khiếm thính được coi là người bất hạnh.
Thiếu điều thiện hảo không thuộc về bản chất của mình thì không thể coi đó là sự dữ
được. Ví dụ: Thiếu đôi cánh không thể được coi là bất hạnh đối với con người. Khi định
nghĩa sự dữ là một thiếu sót hay khiếm khuyết trong tạo vật, thánh nhân không hề muốn
làm giảm nhẹ hậu quả và tính bi đát của sự dữ. Vì hậu quả sự dữ vật lý cũng như luân lý
thật tồi tệ, cần phải loại trừ hay lên án. Khi thánh nhân đề nghị lối phân tích có tính kỹ
thuật như thế, ngài chỉ muốn khẳng định rằng: sự dữ không có bề dày hữu thể nào hết.
Nên Thiên Chúa không phải là tác giả sự dữ, vì Ngài chỉ là nguyên nhân mọi hữu thể.
Tuy nhiên, một cách nào đó thánh nhân cho rằng sự dữ đôi khi cần cho sự hài
hoà, cân bằng của vũ trụ. Về phương diện này ngài nói, Thiên Chúa có thể là nguyên
nhân gián tiếp sinh ra sự dữ vật lý. Muốn sinh tồn, các vật trong vũ trụ phải lương
tựavào nhau. Con người nuôi sống mình bằng những việc hạ cấp. Các vật khác cũng
thế. Có thể nói, sự tác động qua lại này tạo nên sự quân bình sinh thái, đây được coi như
một thứ thiện hảo của vũ trụ tổng quan88. Tóm lại, theo thánh nhân sự dữ vật lý không
đúng nghĩa là sự dữ.
88 x. Tủ Sách Tôi Biết-Tôi Tin, La Souffrance, Pourquoi, Đau Khổ Tại Sao? Bản tiếng Việt: Trần Thiên Ân, Antôn Và Đuốc Sáng, 2012, tr. 16.
41
V. KITÔ GIÁO VÀ TRƯỜNG PHÁI DUY TÂM HÓA GIẢI VỀ SỰ DỮ
Với quan niệm của Kitô giáo, đau khổ và sự dữ chỉ là một thực tại thương vong
mà con người không ngừng phải chống lại. Người Kitô giáo hoàn toàn đồng ý với quan
niệm của Camus, khi ông cho rằng phải không ngừng đấu tranh chống lại sự dữ. Đây
cũng là điểm khởi hành cho suy tư Kitô giáo về sự dữ. Tuy nhiên, điều khác với Camus,
là thái độ phản kháng và đấu tranh chống lại sự dữ của người Kitô giáo thì dựa trên
niềm tin không buộc phải chối bỏ Thiên Chúa, trái lại, còn khẳng định sự hiện hữu của
Ngài, cho dù sự dữ hay đau khổ vẫn còn đó. Thực ra, đối với kẻ tin, thái độ phản kháng
và đấu tranh chống lại sự dữ và đau khổ dựa trên hai điều xác tín sau đây: Con người
được dựng nên là để hạnh phúc, Thiên Chúa không hề muốn đau khổ và sự dữ cho con
người; và đứng trước sự dữ xem ra Thiên Chúa bất lực, nhưng Ngài lại liên đới với con
người trong đau khổ.
1. Thiên Chúa không hề muốn sự dữ và đau khổ cho con người
Con người được dựng nên là để hạnh phúc: sự dữ dù là gì cũng luôn luôn là sự
dữ vàThiên Chúa không bao giờ muốn. Phải chăng đây cũng là điều mà mọi nhà thần
học và triết học Kitô giáo đã đồng ý nói lên một cách rõ nét nhất?
Trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước có nhiều nơi nói đến sự dữ và sự Thiện
trong kinh nghiệm của con người. Kinh Thánh đã ghi lại mọi loài đau buồn, khổ sở, bất
trắc…, cũng như nhiều cách thức vô nhân đạo đã xẩy ra cho con người trong thế giới
này. Sự dữ được nhìn nhận như một đám mây u ám, đen tối, đầy kinh tởm và chết chóc,
làm cho con người tan nát cõi lòng. Trong Kinh Thánh, tột đỉnh của sự dữ chính là cái
chết nhục nhã trên thập giá của Đức Kitô, được trình bày không chỉ như là trường hợp
đau khổ một cách bất công, nhưng còn như là một sự sát hại Đấng Thiên Sai. Vậy, chắc
chắn rằng, theo đức tin Kitô giáo, sự dữ luôn luôn là sự dữ, và nó hoàn toàn nghịch lại
với ý muốn của Thiên Chúa89.
Mauric Zundel đã nói, tôi phát điên lên khi người ta nói: “Thiên Chúa cho
phép xảy ra sự dữ”. Không thể được, Thiên Chúa không bao giờ cho phép xảy ra sự
dữ, Ngài đau khổ vì nó, Ngài cũng đã chết vì nó, Ngài là người đầu tiên bị nó đập,
và nếu có sự dữ, đó là bởi vì Thiên Chúa trước tiên đã là nạn nhân của nó90. Còn
François Varone và các nhà thần học, cũng như triết học Kitô giáo cho rằng, phải
cương quyết lên án và chống lại những luận điểm cho rằng Thiên Chúa cho phép sự
89 x. John Hick,Triết Học Tôn Giáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước SDB, tr. 70. 90 x. Mauric Zundel, Lắng Nghe Tiếng Nói Của Thinh Lặng, Uỷ ban đoàn kết công giáo TPHCM. Dịch giả: Nữ tu Nguyễn Thị Chung, 1993, tr. 26.
42
dữ xuất hiện trên thế giới, Thiên Chúa tạo ra nó, làm sao vừa dám nói như thế vừa
khẳng định Thiên Chúa là tình yêu. Thật là một điều phi lý.
“Làm sao có thể tưởng tượng được một Thiên Chúa dửng dưng để mặc cho thế
giới hư hỏng và đau khổ, hoặc tệ hơn, một Thiên Chúa đặt ta vào thử thách rồi ngồi
xem ta chống cự và gục ngã để nếm đôi chút vinh quang bệnh hoạn. Một Thiên Chúa
tính toán tài tình đã nghĩ ra những chước cám dỗ, rồi những hình thức tra tấn dằn vặt
để giáo dục con người. Ta có thể chấp nhận được một Thiên Chúa mà lại có những kỹ
thuật ghê rợn như vậy không? Làm sao ta có thể gọi một người là tốt khi người ấy chơi
xấu với bạn bè và bắt họ phải chịu một tình cảnh tồi tệ đến thế. Bất cứ giải đáp nào cho
những bí ẩn này đều không thể đi theo chứng ấy”91.
2.Thiên Chúa liên kết với con người trong đau khổ
Con người không thể lý giải hoặc thấu hiểu được tại sao Thiên Chúa lại để
cho sự dữ và đau khổ xẩy ra, thì cũng không hiểu hết được tại sao Ngài lại tỏ ra bất
lực trước những thực tại khủng khiếp đó. Chúng ta đang đụng tới một điều có thể nói
là nghịch lý đối với sự hiểu biết của con người, và không thể giải thích được: Thiên
Chúa xem ra yếu đuối.
Thế nhưng chính cái nghịch lý đó, lại là sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong
Kitô giáo: một Thiên Chúa tốt lành và toàn năng nhưng lại tỏ ra bất lực trước sự dữ, bất
lực đến nỗi người ta có thể nói: “Thiên Chúa đau khổ”92. Khi đứng trước tạo vật,
“dường như Thiên Chúa không làm gì được trước cảnh lực lượng của sự dữ tung
hoành”93.Tại sao vậy? Tại sao Thiên Chúa không làm gì để diệt trừ sự dữ và nhất là
hình như Ngài bất lực khi chống lại đau khổ và sự dữ? Ngay cả khi nhìn thấy những cái
chết bi thảm, rùng rợn và bất công ở Auschwitz hay ở Nantes, xem ra sự dữ có nguồn
lực huỷ diệt mạnh hơn là một Thiên Chúa toàn năng, hay nói đúng hơn Ngài không có
một chút quyền nào để cứu thoát. Tại sao một Thiên Chúa toàn năng lại phải bất lực như
vậy? Đối với sự dữ do con người gây ra, ta có thể thông cảm được với sự bất lực của
Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người và trao ban cho họ có quyền tự do,
nên Ngài phải tuyệt đối tôn trọng lời cam kết đó94,cũng như Ngài để cho họ phải tự chịu
trách nhiệm hành động của mình, nên Ngài tôn trọng tự do đó và không can thiệp để
91 Nedoncelle. “La reciprocite des consciences”, Paris, Aubier 1942, P. 272-273. E ; x. John Hick, Triết Học TônGiáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước SDB, tr. 171. 92 John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước SDB, tr. 70. 93Nedoncelle. “La réciprocite des consciences”, Paris, Aubier 1942, P. 272-273. E ; x. John hick, Triết Học TônGiáo. Người dịch: Nguyễn Thịnh Phước SDB, tr. 171. 94 Giuse Đinh Thanh Binh, Lạy Chua! Tại Sao Ngài Im Lặng? Tủ Sách Dân Chúa, 1995, tr. 98.
43
“sắp đặt” mọi sự theo ý Ngài95.Nhưng còn đối với sự dữ “hiện sinh” thì chúng ta hoàn
toàn không thể hiểu được. Đành rằng như thế có vẻ phù hợp với thân phận con người và
với sự bất toàn của thân phận ấy. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại tạo cho bản tính con
người có sức huỷ diệt như thế, trong khi lại muốn con người được hạnh phúc và bình
an? Một lần nữa chúng ta lại phải đối diện với huyền nhiệm ghê gớm và dày đặc này; và
ở đây chỉ có một điều xác tín duy nhất đối với những người có đức tin: Thiên Chúa liên
đới với con người cả trong đau khổ lẫn trong các cuộc chiến đấu chống lại sự dữ và đau
khổ96.
Đức Giêsu cả nhân tính và Thiên tính, đã chia sẻ trọn vẹn kiếp người với chúng
ta. Là một con người, Đức Giêsu đã không được miễn thứ cho khỏi cô đơn, sợ hãi, bị từ
chối, bị hiểu lầm, chống đối, đau khổ… và cuối cùng là cái chết. Như thế, chẳng có nỗi
thống khổ nào của loài người mà Đức Giêsu đã không mang vào mình. Đức Giêsu đã
đồng hội, đồng thuyền với kiếp người trong cõi nhân sinh này97.Ngài đã đồng hoá mình
với con người qua những nỗi đau như: bệnh tật, cùng cực, cô đơn, thất vọng, đớn đau,
hấp hối, gánh tội trần gian… tất cả những thứ đó, Thiên Chúa đều mang lấy hết cho
chúng ta (x. Mt 8,17), như một người mẹ lãnh chịu tất cả các tình trạng của đứa con
mình, bởi vì bà mẹ đó tự đồng hoá hoàn toàn với đứa con98.Nhất là, nếu như cái chết là
đau khổ đe dọa con người ghê gớm nhất và rùng rợn nhất, thì Đức Giêsu không những
đã chọn đi qua cửa chết đó, mà còn chết một cách nhục nhã. Ngài đã tự đón nhận cái
chết với một tình yêu mãnh liệt. Ngài không hề lẩn trốn cho dù có sợ hãi, xao xuyến,
thậm chí đổ mồ hôi máu. Vì vậy, trong nỗi cùng cực nhất, con người vẫn gặp được nơi
đấy người bạn đồng hành và chia sẻ khổ đau là chính Đức Giêsu99. Quan niệm trên đây
vẫn được các nhà triết học và thần học ngày nay lưu ý đặc biệt khi họ phản đối thái độ
thụ động của trường phái khắc kỷ, và khuynh hướng ái khổ đã được nuôi dưỡng rất lâu
trong Giáo Hội.
“Đức Kitô không loay hoay trong những lối giải thích có thể được dựng nên,
nhưng Ngài tố cáo sự dữ và chống lại nó... Ngài không cho biết rõ nguồn gốc của sự
dữ, mà chỉ cho biết lối thoát khỏi nó. Mọi lối thoát không phải là dễ dàng. Trước tình
hình sự dữ leo tới cao điểm, tràn ngập thế giới và đe doạ nhận chìm cả nhân loại, Đức
Giêsu đáp lại bằng cách mặc khải cho thấy một Thiên Chúa với tình yêu cực độ đã dấn
95 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP, Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 81-82. 96 x. C. Geffré,“La crise moderne du théisme”, Op. Cit. P. 379. 97 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP. Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 86. 98 x. Mauric Zundel, Lắng Nghe Tiếng Nói Của Thinh Lặng, Uỷ ban đoàn kết Công giáo TPHCM, 1993. Dịch giả: Nữ tu Nguyễn Thị Chung, tr. 26. 99 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP, Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 86.
44
thân chống lại sự dữ. Đó là lý do tại sao bảng tên của Người bị treo trên Thập Giá. Tên
của Người chỉ có thể là tình yêu”100.
3. Đức tin hoá giải sự dữ
Kitô hữu không lảng tránh, nhưng dám đối diện với đau khổ và coi đau khổ
như là trung tâm của Mầu Nhiệm Vượt Qua và Phục Sinh Vinh Hiển. Người Kitô hữu
tin rằng, Qua Mầu Nhiệm này chúng ta được cứu độ, được cứu khỏi tội lỗi hay khỏi sự
ác và quyền lực sự dữ, được chung hưởng vinh quang bất diệt. Chính tình yêu và lòng
trắc ẩn của Đức Kitô không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Trong suốt hành
trình thi hành sứ mạng, Ngài luôn cố gắng đẩy lui mọi đau khổ nơi con người. Ngài đã
chữa lành bệnh tật cho con người: chữa kẻ bại tay (x. Mc 3,5), cho người phong hủi
được sạch (x. Mc 1,42), và giải thoát con người khỏi quỷ ám (x. Mt 9, 33). Như thế,
Đức Kitô đã đồng cảm với số phận bi đát nhất của con người. Nhất là Ngài đã đón
nhận lấy cái chết nhục nhã trên thập giá. Thật vậy, nếu cái chết, đau khổ là sự sợ hãi
và là sự tuyệt vọng của con người, thì Đức Kitô đã không né tránh, nhưng Ngài đã tự
mình hy sinh chết thay cho nhân loại để cứu chuộc toàn thể nhân loại và đẩy lui sự sợ
hãi đó nơi con người101.Vậy, đối với Kitô hữu, những ai biết liên kết với sự đau khổ
của mình với đau khổ của Đức Kitô, và tin rằng Đức Kitô luôn ở bên mình trong cả
những lúc đen tối nhất của cuộc đời, thì những khổ đau ấy cũng có thể biến đổi chính
họ thành con người mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn. Đối với họ, cái chết đã mất đi nọc độc
của nó, và đây chính là giờ chiến thắng: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một
mối lợi” (Pl 1,21). Như vậy, ta có thể nói chỉ có niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh,
nhân loại mới giải thích được đâu là ý nghĩa của sự dữ và đau khổ102. Đây là một niềm
hy vọng lớn lao của con người, khi họ đối diện với những đau khổ mà không hiểu
được bằng lý trí của mình: Thiên Chúa có thể biến sự dữ thành sự lành chống lại sự dữ
đó103. Chính nhờ chân lý này, chúng ta có thể tìm thấy niềm vui và hy vọng ngay cả
lúc chúng ta đang ở giữa những buồn sầu và đau đớn: “Gian truân, khốn quẫn, lo âu,
đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả…coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực
chúng tôi luôn vui vẻ” (x. 2Cr 6, 4-10).
Tóm lại, đối với những người không có niềm tin thì cây thập giá là một biểu
tượng của sự chết, sự ô nhục và điên rồ (x. 1Cr 1,23). Nhưng đối với người tin vào Đức
100 Dominique Morin, Gọi Tên Thượng Đế, tr.111. 101 x. John Na Vone, S.J, Thất Bại Và Tình Yêu. Những suy tu thần học về sự thất bại, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm Montfort Phạm Quốc Huyên O.Cist, tr. 135. 102 x.Herbert Mc Kayes, Sr. Maria Bolding Osb, Qua Thập Giá Đến Vinh Quang, Nxb Tôn Giáo, tr. 176. 103 x.Herbert Mc Kayes, Sr. Maria bolding Osb, Qua Thập Giá Đến Vinh Quang, Nxb Tôn Giáo, tr. 177.
45
Kitô chết và phục sinh, thì cây thập gía sẽ biến thành cây sự sống. Và đau khổ có một
giá trị mua ơn phúc cho mình cũng như cho mọi người, khi kết hợp đau khổ với thập giá
Đức Kitô104. Vì trong Ngài, đau khổ mới nở hoa, chiều thứ Sáu sẽ là khởi điểm cho bình
minh phục sinh105.Có thể nói, nhờ đức tin, người Kitô hữu xác tín rằng: “Con đường
dẫn đến tột đỉnh vinh quang chính là con đường thập giá, con đường chông gai, con
đường đau khổ”106.
4. Hóa giải sự dữ theo cái nhìn duy tâm
Trường phái duy tâm cho rằng đau khổ và sự dữ chỉ biết đến khi có ý thức của
con người. Thật vậy, những tai ương xảy ra trong thiên nhiên như: động đất, lũ lụt, núi
lửa, sóng thần, ôn dịch…tự bản chất của nó không tốt cũng không xấu, chỉ khi nào nó
đụng đến ý thức của con người qua những tàn phá mà nó gây ra; khi đó nó mới là sự
dữ. Các triết gia đã nhanh chóng giản lược sự dữ thành một sản phẩm thuần tuý của ý
thức và rồi dùng ngay chính ý thức để hoá giải chúng. Theo họ, nếu sự dữ là của ý
thức thì chính ý thức cũng có khả năng để hoá giải. Chẳng hạn như xem nó không có,
hay không quan trọng, cứ thản nhiên hoặc điều khiển ý thức sao cho phù hợp, ăn khớp
với hoàn cảnh và môi trường xung quanh. Những trường phái khắc kỷ lại quan niệm
rằng thông qua ý thức, con người có thể đạt tới hạnh phúc. Nên không có sự dữ tự
thân, chỉ có sự dữ do cái nhìn hay thái độ của con người; và như thế, vì ước ao tìm
được sự nguôi dịu khi đứng trước sự dữ,đau khổ; các triết gia khắc kỷ đã tìm cách
tuyên truyền cho thái độ tùng phục nhiều hơn là giải thích về sự dữ. Đối với họ, khôn
ngoan là hãy chăm lo phát triển những gì thuộc quyền mình và can đảm ghánh chịu
những điều khác, đúng như lời chỉ bảo của Epictète, một trong những triết gia lớn nhất
của trường phái này: “Chớ đòi hỏi những gì xảy ra phải xảy ra như ý bạn muốn, mà
hãy mong mốn mọi sự xảy ra như phải xảy ra, và bạn sẽ được hạnh phúc”. Với chủ
trương này, chúng ta cần phải làm chủ ước muốn và đam mê của mình, phải giữ bình
thản, đặc biệt trước đau khổ và sự dữ, hầu tìm được sự bình tâm thật sự.
Tóm lại, thái độ trên được tóm gọn trong khẩu hiệu nổi tiếng sau đây của
phái khắc kỷ: “Sustine et abstine; chịu đựng những gì không phụ thuộc mình và
tránh bớt đam mê”107.
104 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 81. 105 x. Lm Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 142. 106 Herbert Mc Kayes Op. Sr. Maria Bolding, Qua Thập Giá Đến Vinh Quang, Nxb Tôn Giáo, tr.173. 107 Epictète, “ Manuel VIII; trích trong Dominique, Gọi Tên Thượng Đế, sđd, tr. 155.
46
VI. THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ Có thể nói, đau khổ và sự dữ là thực tại bi đát nhất trong kiếp sống nhân sinh.
Hành trình của cuộc đời con người được ấn định bằng những bậc thang của đau khổ và
kết thúc bằng cái chết. Mặc dù có những cái chết mang màu sắc tang thương, bi ai,
nhưng cũng có những cái chết mang nhiều ý nghĩa. Cũng vậy, có những người lẩn trốn,
phản kháng, nguyền rủa đau khổ và chết chóc, nhưng trái lại có những người dùng đau
khổ và cái chết để làm chứng cho một lý tưởng và một chân lý cao đẹp. Như vậy, chúng
ta thấy có hai thái độ trái ngược nhau khi đối diện với đau khổ và sự dữ: thái độ phản
kháng và thái độ chấp nhận. Giờ đây người viết xin được trình bày thái độ phản kháng.
1. Thái độ phản kháng
Sống trên đời, đã là người ai cũng phải đối diện với đau khổ và sự chết. Đó là
một chân lý ngàn đời ai cũng phải chấp nhận. Đứng trước chân lý nghiệt ngã, phũ phàng
này, không ai có thể tránh khỏi hoang mang, run sợ và thất vọng. Ở gần bờ vực thẳm
của sự chết, con người thường đặt ra những câu hỏi đại loại như: Tại sao tôi lại đau khổ,
tại sao tôi lại phải chết và tại sao tôi lại khốn khổ thế này?... Khi đối diện với bệnh tật
hiểm nghèo, con người thường thất vọng, nản chí, ấm ức, bất mãn hay ít ra thốt lên ước
gì tôi không phải mang căn bênh này, hay ước gì Thiên Chúa cất nó khỏi nơi
tôi…108.Tất cả những chất vấn hay những lời ước đó đều biểu lộ một thái độ phản kháng
lại đau khổ và sự dữ. Có thể nói, ai cũng tỏ ra hoang mang, sợ hãi khi đau khổ và nhất là
giây phút thần chết sắp mời gọi. Do đó, thái độ phản kháng lại đau khổ và sự dữ là một
thái độ chung nhất cho cả loài người. Các nhà khoa học gọi đó là một bản năng sinh tồn
của thế giới động vật.
Trở về Kinh Thánh, ta thấy rất nhiều nơi nói đến thái độ phản kháng của con
người khi đối diện với đau khổ và sự chết. Điểm khởi đầu cho đau khổ và sự chết là sự
bất phục tùng của con người (x. St 3,1-19). Còn thánh Phaolô nói: “Vì tội lỗi của con
người, tội đã nhập vào thế gian, và bởi tội nên có sự chết” (Rm 5,12). Sự chết là số
mạng chung cho toàn thể loài người: “Con hãy nhớ: mệnh ta thế nào, mệnh con cũng
vậy, hôm qua là phiên ta, hôm nay đến lượt con” (Hc 38,22). Nó cũng là nỗi ám ảnh lớn
nhất đối với phận người sống trên dương gian: “Điều không ngừng ám ảnh khiến lòng
người sợ hãi âu lo là cứ phải nghĩ rằng mình đang chờ chết” (Hc 40,2). Cử chỉ phản
kháng lại đau khổ và sự chết được diễn tả qua hành vi khóc lóc, than van: “Vua Đa-vít
run rẩy, đi lên trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa nói: “Áp-sa-lôm con ơi, Áp-sa-
108 x. Hương Việt, Tôi Tin Có Một Thiên Chúa, Quyển II, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2006, tr. 93.
47
lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con! Áp-sa-lôm con ơi, con ơi” (2Sm 19,1).Hay
“Ông Giu-se gục vào mặt cha mà khóc và hôn cha. Rồi ông Giu-se truyền cho các thầy
thuốc vẫn giúp việc ông, ướp xác cha ông. Các thầy thuốc ướp xác ông Ít-ra-en” (St
50,1-2). Sở dĩ con người phản kháng lại sự chết vì nó kéo theo một hệ quả rất khủng
khiếp. Chết là rơi vào quên lãng ngàn thu: quên luôn cả Thiên Chúa (x.Tv 6,6) và dường
như bị cả Thiên Chúa quên lãng (x.Tv 88,6), không còn biết ca tụng Ngài (x.Tv 30,10;
88,12; 115,17; Is 38,18).
Số phận của con người là: được sinh ra, đau khổ, già, rồi cuối cùng phải đi về
cỏi vĩnh hằng. Đau khổ và cái chết không loại trừ một ai, già trẻ lớn bé, từ quan quyền
cho đến thứ dân, từ kẻ quyền cao chức trọng cho đến dân đinh nghèo hèn, đều phải đi
qua ngưỡng cửa của sự chết, hậu quả của nó thật tang thương và bi ai. Con người có tìm
mọi cách hay phản kháng cách mãnh liệt đến đâu đi nữa, thì đau khổ và sự chết cũng
đến. Mỗi người một cách thế và một thời điểm khác nhau, nhưng kết cục rồi cũng giống
nhau, đều từ biệt dương gian để đi về với lòng đất109. Vậy đâu là bí quyết, là phương thế
để con người giảm bớt đau khổ? Chỉ có một cách duy nhất để con người giảm bớt lo sợ
hoang mang và đau khổ là dám đối diện cũng như chấp nhận thực tại đau khổ và yêu
mến sự chết110.
2. Thái độ chấp nhận để vươn lên
Để chấp nhận được điều gì thì trước hết phải biết nó như thế nào đã. Triết gia
Socrates đã từng nói: “Hãy biết chính mình”.Qua câu nói này, ông muốn nhắn nhủ
người đời hãy trở về với chính mình để tìm hiểu mình là gì và thân phận mình như thế
nào. Biết rõ mình và thân phận của mình thì chúng ta mới chấp nhận được chính mình.
Quả thế, thân phận của con người là phải chết, đó là chân lý ngàn đời, là kết cục chung
cho mọi loài thụ tạo. Socrates cũng đã xác tín điều này qua câu nói: “Là người ai cũng
phải chết, Socartes cũng là người, nên Socrates cũng phải chết”.Hay như đức Phật nói:
“Đời là bể khổ”. Biết được thân phận con người là thế, chúng ta mới dám đối diện và
chấp nhận để thăng hoa khổ đau và sự chết có một ý nghĩa.
Thành nhân chẳng phải là tiến trình tự nhiên ắt có, mà là hoa trái trổ sinh từ
những đau khổ. Thế nhưng, không phải qua đau khổ, ai cũng được thành nhân. Có kẻ đã
phải ngậm đắng, nuốt cay và ngã gục, vì trong đau khổ ấy vắng bóng tình yêu. Hơn nữa,
phải chấp nhận đau khổ là một thành phần trong đời sống con người, đơn giản chỉ vì
không ai tránh khỏi. Có nhiều người chạy trốn đau khổ bằng cách vùi đầu vào khói
109 x. Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật. Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007, tr. 99-100. 110 x. Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật. Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007, tr. 122-125.
48
thuốc, men say, rượu tình…Cuối cùng nỗi đau lại càng xoáy mòn sâu thêm. Thái độ tích
cực có lẽ là đón nhận đau khổ để biến đổi nó, biến nó thành sức mạnh và là một đau khổ
có ý nghĩa. Rủi ro là điều chẳng ai mong đợi, nhưng ai cũng có thể từ chối được. Chấp
nhận sự may rủi không phải là buông theo số phận, mà là mở ngỏ lối vào và cho phép
đau khổ có thể biến đổi chúng ta. Một điều thật nghịch lý: nếu muốn tận hưởng cuộc
sống, chúng ta phải biết mở lòng với đau khổ; nếu muốn yêu thương, chúng ta phải chấp
nhận mất mát! Muốn có cuộc sống tròn đầy chúng ta phải biết đón nhận cả những điều
không hay, không tốt. Một khi chúng ta chấp nhận đau khổ như cái giá sự hiện hữu của
con người, thì chúng ta có thể tìm thấy ý nghĩa trong đó111.
Về phạm trù nhân bản, đau khổ sẽ giúp con người phát triển cá tính và tinh thần
phục vụ lẫn nhau: Thế giới hiện tại này, nơi khổ đau luôn hiện diện, là một tình trạng rất
phù hợp cho sự phát triển cá tính. Sự khôn ngoan của chúng ta được phát triển trong sự
gặp gỡ với khó khăn, với những tình trạng phức tạp mỗi ngày. Sự can đảm của chúng ta
được phát triển ngang qua những vật lộn với khía cạnh sợ hãi trong cuộc sống: thất bại,
chối bỏ, bệnh tật, đau khổ và sự chết. Sự bền chí của chúng ta là nhờ những nỗ lực để
thích ứng với những khó khăn mà chúng ta phải đối diện trong việc đạt tới những mục
tiêu nhân loại của chúng ta. Lòng thương xót của chúng ta được phát triển bởi những
đau khổ mà chúng ta gặp thấy nơi người khác. Sự kiên nhẫn của chúng ta được phát
triển bởi sự cần thiết phải chịu đựng thất bại, buồn phiền, đau khổ, yếu đuối, tuổi già và
cái chết… Đau khổ không chỉ huấn luyện cá tính con người nhưng còn cần cho sự liên
đới của xã hội. Nó là một sự vật lộn với sự dữ mà trong đó cộng đồng nối kết lại với
nhau. Một cộng đồng trở nên một cộng đồng đích thực khi nó quan tâm đến những
thành phần bệnh tật, nghèo đói, chiến đấu chống lại những yếu tố gây hỗn loạn, mang
giáo dục đến cho mọi người, quan tâm đến kẻ mồ côi, tù tội và an ủi những người mang
gánh nặng buồn phiền. Như thế, đau khổ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển
cộng đồng nhân loại. Không có đau khổ thì sẽ không có lòng thương cảm nối kết chúng
ta lại với nhau. Không có đau khổ sẽ không có những công việc phục vụ cộng đồng như
bác sĩ, giáo viên, y tá, điều dưỡng… Cộng đồng cần đến chúng ta bởi vì những đau khổ
vẫn còn hiện diện112. Có thể nói, đời người có trải qua đau khổ thì mới thấy giá trị của
niềm vui. Đau khổ càng lớn thì niềm vui càng tăng. Không có khả năng chịu đau khổ thì
cũng khó có khả năng hưởng hạnh phúc. Triết gia Lavelle đã phải thốt lên: “Đau khổ là
111 x. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn. OP, Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, tr. 87-88. 112 x. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search of True Religion a Philosophy of Religion, Nxb Phương Đông. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị, 2013, tr. 223-224.
49
điều thiết yếu của cuộc đời”113. Về lãnh vực đức tin: Đón nhận đau khổ và cái chết còn
mang một ý nghĩa lớn lao và sâu xa hơn như, chết vì làm chứng cho chân lý, sự thật,
hay vì một hành vi cao thượng. Có nhiều vĩ nhân đã đón nhận đau khổ và sự chết để làm
chứng, bảo vệ đức tin, chân lý. Đó là hình ảnh các vị tử đạo; các ngài biết rằng mạng
sống của mình chẳng là gì so với Thiên Chúa. Đây không phải là thái độ của những
người theo trường phái khổ dâm114, nhưng là những người có một sự quân bình và khôn
ngoan. Các ngài đã thực hiện một chọn lựa đúng đắn, một bước nhảy từ đời sống tạm bợ
sang đời sống vĩnh hằng, qua cái chết anh dũng.
Hơn nữa, đối với những người mang trong mình niềm tin vào Đức Kitô thái độ
chấp nhận này còn mang một ý nghĩa lớn lao, đó là được tham dự vào mầu nhiệm đau
khổ và cái chết của chính Đức Kitô. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được liên kết với
Đức Kitô trên thập giá, được tẩy rửa trong cái chết của Ngài (x. Rm 6,3-4; Pl 3,10). Nhờ
đó chúng ta trở thành những kẻ đã chết đối với tội lỗi (x. Rm6,11) và đối với con người
cũ (x. Rm6,6), cho thế gian (x. Cl 2,20). Như thế, thái độ đón nhận đau khổ và sự chết
không còn mang tính tiêu cực, nhưng đã khoác vào nó một ý nghĩa tích cực. Ý nghĩa
này chỉ được trọn vẹn khi người Kitô hữu biết liên kết những đau khổ của mình với đau
khổ của Đức Kitô trên thập giá. Hay đau khổ và sự chết cũng là một đặc ân, hay ý muốn
của Thiên Chúa. Một nhật báo ở Hoa Kỳ đăng tải một mẫu tin như sau: “Ngày
14.01.1953, tại Kansas người ta báo tin cho cha Bussi đang nằm điều trị ở bệnh viện
rằng: “Ngài sắp chết vì ung thư”. Thay vì buồn bã, cha chỉ mỉm cười đáp lại: “Đó là
đặc ân, là thánh ý Chúa. Với bệnh ung thu, tôi có đủ thời gian dọn mình chết. Còn với
các bệnh khác, người ta ít có may mắn, để làm việc chuẩn bị cho giờ sau hết
này”115.Trong Kinh Thánh có ba nhân vật nổi bật sống chấp nhận đau khổ và sự chết,
đó là: ông Gióp, Người tôi tớ đau khổ trong Isaia, và Đức Giêsu. Ông Gióp được Kinh
Thánh gọi là người liêm khiết và chính trực, đầy lòng kính sợ Thiên Chúa và tránh xa
điều ác (x. G 1,1). Người tôi tớ đau khổ là người hiền dịu, đầy Thần Khí, đầy lòng nhân
hậu và sống theo sự thật (x. Is 42,1-3). Còn Đức Giêsu, Con một Thiên Chúa và là Đấng
vô tội. Người là Thiên Chúa mà đã từ bỏ vinh quang của mình để mặc lấy xác phàm (x.
Pl 2,6-11). Đối với ông Gióp, ông nhìn nhận sự đau khổ như là thử thách Thiên Chúa
gửi tới(x. G 1,2; 2,10). Nơi người tôi tớ đau khổ của Isaia và Đức Giêsu, thái độ đón
nhận đau khổ và sự chết là tham gia vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, đã trở nên
113 Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Hạt Giống Chiêm Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Dám Đối Diện,số 9, 2010, tr.104. 114 x. Đây là những người lấy sự đau khổ làm niềm vui. Họ ham mê sự đau khổ và cố tình làm cho thân thể bị đau đớn. 115 Lm. Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 95.
50
Con Chiên gánh tội cho nhân loại (x. Is 53,8; 1Cr 15,3). Có thể nói, cả ba nhân vật tiêu
biểu mà Kinh Thánh nói tới, đều nhìn đau khổ và sự chết một cách tích cực. Các Ngài
đã đón nhận nó như một thử thách mà Thiên Chúa gửi đến để kiểm chứng lòng tin của
các Ngài và nhờ đó mà danh Thiên Chúa được tôn vinh116. Đã mang lấy kiếp người,
“Ngay lúc được sinh ra, con người đã mang trong mình cái chết; con người là một bản
thể cho cái chết”117. Biết rằng kiếp sống con người phải đau khổ và phải chết, nhưng đa
số con người vẫn phản kháng trước sự thật phũ phàng đó. Tuy nhiên, vẫn còn đó những
con người nhìn ra ý nghĩa tích cực của đau khổ và sự chết, nên đã vui lòng đón nhận nó
với một tâm hồn an bình. Đối với người Kitô hữu, ý nghĩa lớn nhất để họ đón nhận đau
khổ và sự chết trong tin yêu, phó thác là họ được diễm phúc công tác vào đau khổ, cái
chết của Đức Giêsu và cùng được phục sinh với Ngài.
Hình ảnh Đức Giêsu và Con Chiên vô tội bị đem đi sát tế, là tấm gương và là
ngọn hải đăng chiếu soi cho mọi người nói chungvà người Kitô hữu nói riêng, có một
cái nhìn và thái độ tích cực hơn trước thực tại đau khổ và sự dữ. Thánh Phaolô đã nói:
“Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở
nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến
nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Qua những câu Kinh Thánh,
chúng ta thấy Đức Giêsu đã chấp nhận đi đến cái chết rốt cùng của kiếp nhân sinh. Ngài
chấp nhận đi vào kiếp người, sống như một con người và chết như một con người, để
làm của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha nhằm cứu rỗi loài người.
Tóm lại, đau khổ không phải là cùng đích của đời sống con người, cũng chẳng
phải là con đường cùng; nhưng đối với những kẻ tin vào sứ mệnh cứu độ của Chúa
Giêsu, thì bên kia bóng tối của sự chết và đau khổ, chính là ánh sáng của sự sống vĩnh
cữu và của hạnh phúc bất diệt118. Vậy khi chấp nhận đau khổ là người Kitô hữu đã chấp
nhận đi con đường của Đức Kitô, con đường qua đau khổ để vào vinh quang119.
116 x. Jean Potin, Đức Giêsu Tư Tưởng Và Hành Động Của Ngài, Paris, 1973, tr. 131-137. 117 Fx. Durrwell, Đức Kitô, Con Người Và Cái Chết. Dịch giả: Vân Thuý, tr. 11. 118 x. Thiên Phúc, Nữ Thánh Giữa Đời Thường, 30 Câu Chuyện, Suy Niệm Và Câu Nguyện, 1997, tr. 64. 119 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niền Tin, 2007, tr. 32.
51
VII. CON NGƯỜI CỘNG TÁC VỚI THIÊN CHÚA NGĂN CHẶN SỰ DỮ
Đau khổ và sự dữ không phải là điều Thiên Chúa muốn, cũng không phải là điều
chúng ta muốn, thì chúng ta phải có trách nhiệm nỗ lực để ngăn chặn nó. Nhưng để
ngăn chặn hoàn toàn cái ác, thiết nghĩ là điều không thể, vì con người không phải là
Đấng toàn năng. Thế nhưng, hạn chế nó một phần, cũng như làm cho nó bớt ảnh hưởng
lên cuộc sống con người là điều nằm trong khả năng của chúng ta. Nếu đau khổ và sự
dữ không do bởi Thiên Chúa, mà xuất phát từ sự lạm dụng tự do của con người cũng
như sự bất toàn của tạo vật, thì để làm giảm bớt đi một phần nào, chúng ta có lẽ cũng
phải bắt đầu từ đó.
1. Ngăn chặn sự dữ thể lý
Vũ trụ được Thiên Chúa dựng nên và vận hành theo quy luật tự nhiên của nó. Vì
vậy, con người muốn hoá giải nó thì cần phải nỗ lực khám phá và nương theo quy luật
đó. Như thánh Thomas Aquinô đã nói: “Mọi tạo vật được Thiên Chúa dựng nên vẫn
được hưởng một quy chế đặc biệt: tính cách tự trị. Trong vũ trụ hữu hình, có cả một trật
tự riêng biệt, có môi trường hoạt động và bản tính riêng của mỗi sự vật”. Theo ngài,
dường như Thiên Chúa cũng phải tự buộc mình tôn trọng mọi vật do chính Người đã tác
tạo120.Thế nhưng, thay vì dùng khối óc sáng tạo và quyền làm chủ vũ trụ mà Thiên
Chúa đã ban để nối tiếp công trình tạo dựng của Ngài, thì con người thường lạm dụng
quyền đó, để khai thác thiên nhiên một cách tuỳ tiện, ích kỷ, bừa bãi và tàn bạo… Kết
quả bi thảm là phá vỡ mối tương quan hài hoà giữa con người với môi trường sinh thái
và đẩy trái đất đến bờ vực thẳm của diệt vong! Càng cố gắng chinh phục trái đất và chế
ngự nó theo quan điểm duy kỹ thuật , con người càng làm ô nhiễm hoá vũ trụ và tạo nên
những gánh quá nặng cho môi trường. Chính vì vậy, thay vì bảo vệ con người và môi
trường sinh thái thì chính nó quay lại giết hại con người và môi trường bằng những trận
cuồng phong, sạt lở, động đất, hạn hán, ô nhiễm sông ngòi, môi trường… Đau đớn hơn,
con người đã gạt lương tâm, trách nhiệm ra khỏi cuộc đời, để sử dụng thuốc trừ sâu, diệt
cỏ cách cẩu thả, không đúng quy cách, hậu quả là con người mắc bao chứng bệnh nan y
như: ung thư, ôn dịch, nhiễm độc…121. Hậu quả này ai chịu trách nhiệm? Phải chăng là
do Thiên Chúa không quan phòng? Con người thường quay ra đổ trách nhiệm hết cho
Thiên Chúa những khi gặp đau khổ, mà chính con người ác tâm làm hại chính mình.
120 x. Nguyễn Trọng Viện, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Học Viện Đa Minh, 1998, tâp 2, tr. 205-206. 121 x. Gm. Nguyễn Thái Hợp, Op., Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Nxb Phương Đông, 2010, tr. 460.
52
Vậy nên, để làm giảm bớt sự dữ thể lý, con người cần tìm hiểu quy luật thiên
nhiên mà Thiên Chúa quan phòng đã định sẵn và nương theo nó. Cũng như làm sao
khi sử dụng khoa học kỹ thuật tân tiến vào việc thám hiểm và khai thác thiên nhiên,
con người biết tuân thủ những quy tắc đạo đức, bảo vệ môi trường và các sinh vật
khác. Chính vì vậy, Giáo hội luôn yêu cầu các nhà khoa học biết sử dụng một cách tốt
nhất các nghiên cứu khoa học và khả năng kỹ thuật để phục vụ nhân loại. Ngỏ lời với
công nhân của Olivetti tại Ivrea (Bắc Ý), đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh:“Cần phải
tận dụng nghiên cứu khoa học và khả năng kỹ thuật một cách trung thực để phục vụ
nhân loại”122.Nhất là con người cần ý thức rằng: Thế giới này đã được Thiên Chúa uỷ
thác cho con người để canh tác. Vì thế con người có nghĩa vụ bảo vệ, trân trọng thế
giới, chứ không được phá hoại bằng sự khai thác bừa bãi, vô độ, nhất là không được
phép tàn phá sự sống hoặc gây ô nhiễm khiến cho sự sống ngột ngạt. Nếu Thiên Chúa
sẽ canh tân đổi mới thế giới chứ không huỷ diệt nó, tại sao con người lại tàn phá món
quà đã nhận lãnh để thăng tiến sự sống?”123. Mặt khác, Thiên Chúa ban cho con người
có trí thông minh và óc sáng tạo, con người cần vận dụng để nghiên cứu khám phá ra
các loại thuốc để chữa bệnh, các công cụ để dự báo thiên tai, các công trình để phòng
chống tai hoạ. Dẫu vậy, điều trên hết là con người cần được giáo dục về “sinh thái
nhân bản” và có khả năng nhận thức, kiểm soát chính mình, có trách nhiệm trong việc
sử dụng thiên nhiên có hiệu quả, theo quy luật Thiên Chúa đã định sẵn thì sự dữ thể lý
sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi và con người sẽ có cuộc sống bình an, hạnh phúc hơn124.
2. Ngăn chặn sự dữ luân lý
Sự dữ luân lý xuất phát đầu tiên là do lạm dụng tự do quá đáng và sai lầm của
thụ tạo có lý trí. Ngay từ sơ khai của công trình sáng tạo, các thiên thần và nguyên tổ
loài người đã sử dụng sai lạc tự do này và từ đó đến nay, sự dữ và đau khổ không ngừng
xuất hiện. Thiên Chúa biết tự do là đầu mối gây nên sự dữ luân lý nhưng Ngài tôn trọng
tự do ấy, tôn trọng đến nỗi con người vận dụng tự do ấy chống lại chính Thiên Chúa.
Như vậy, sử dụng tự do như thế nào là trách nhiệm của con người. Vì con người quan
niệm rằng tự do là muốn làm gì thì làm và đã sử dụng tự do để làm bậy, say sưa với
nhục lạc, lòng đầy thù hận, một nhân loại đang muốn sụp đổ. Những gì có thể dùng để
giúp nhân loại thoả mãn các nhu cầu của mình, thì lại được đem phung phí vào việc chế
tạo các dụng cụ phá hoại. Các chủ nghĩa duy vật chống báng nhau. Những nhà lãnh đạo
122 Gm. Nguyễn Thái Hợp, Op., Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Nxb Phương Đông, 2010, tr. 460. 123 GLHTCG, số 2415. 124 x. Gm. Nguyễn Thái Hợp, Op., Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Nxb Phương Đông, 2010, tr. 470.
53
đang dẫn các dân tộc đến đủ mọi hình thức rối loạn. Các triết thuyết đều dẫn con người
đi sai lạc, trái với ý muốn của Thiên Chúa, cũng như chống lại Ngài125.
Vì con người cho rằng, làm theo ý Thiên Chúa là đánh mất tự do. Nhưng con
người không biết rằng: “Càng làm điều thiện, con người càng trở nên tự do. Chỉ có
tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý
Thiên Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên nô lệ cho tội
lỗi”126. Đứng trước một thế giới khổ đau và hận thù đang hoành hành như vậy, con
người phải làm gì để ngăn chặn?
Cuộc chiến đấu trường kỳ gian khổ chống lại nghèo đói, bệnh tật, lầm than,
chiến tranh và bạo lực là một nghĩa vụ của Kitô giáo127. Hay chống lại sự dữ có thể nói
được đây là một nhu cầu và là bổn phận của mọi người, cho dù chúng ta có phải bước
qua đau khổ, hoặc phải chết đi nữa128. Thiết nghĩ, để ngăn chặn sự dữ luân lý thì con
người cần sử dụng tự do Chúa ban để sống công bằng, làm những đều nhân đạo, ban
phát tình thương và lòng nhân ái. Tình yêu và lòng nhân ái sẽ làm phát sinh những pháp
chế công minh, những cuộc chiến đấu cho công lý, và những trợ giúp quảng đại. Tình
yêu và lòng nhân ái sẽ điều tiết những đam mê quá đáng, sự lạm dụng quyền lực, những
đòi hỏi bừa bãi, những hy vọng hão huyền. Tình yêu cũng có khả năng thống nhất con
người, các nền văn minh, và giảm thiểu những khoảng cách giữa các tầng lớp hay giai
cấp xã hội129. Chính tình yêu đem lại cho những con người đau khổ, bần cùng của xã
hội đúng phẩm giá con người mà họ có quyền được nhìn nhận, cũng như đem lại cho
thế giới đầy đau khổ và bất công này niềm tin và hy vọng.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã chứng minh cho thế giới thấy, chỉ có con đường yêu
thương mới ngăn chặn được sự dữ và đau khổ. Với con tim yêu thương không giới hạn,
Mẹ đã dành suốt cuộc đời lăn lộn bên cạnh những người nghèo khổ, những người phong
cùi, những nạn nhân của bệnh AIDS, nhất là những kẻ hấp hối bên vệ đường. Mẹ đã
làm cho những người hấp hối, được an vui, thanh thản trước khi nhắm mắt lìa đời.
Những kẻ vô gia cư lang thang cơ nhỡ có mái nhà để che nắng, che mưa. Những kẻ sinh
ra không cha không mẹ, không cửa không nhà được nhìn nhận phẩm giá như con người.
Những kẻ phong cùi, sida, được có những anh chị em hết lòng yêu thương chăm sóc.
125 x. Joseph-Louis Lebret, Tình Yêu Không Biên Giới, tr. 226-227. 126 x. Gioan Phaolo II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự. Dịch giả: Đaminh Cao Tấn Tĩnh, tr. 203. 127 x. Gm. Nguyễn Thái Hợp, Op. Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Nxb Phương Đông, 2010, tr. 97. 128 x. Herbert Mc Kayes, Sr. Maria Bolding, Osb, Qua Thập Giá Đến Vinh Quang, Nxb Tôn Giáo, tr. 173. 129 x. Joseph-Louis Lebret, Tình Yêu Không Biên Giới, tr. 89-90.
54
Những người bất hạnh, nghèo đói, đau khổ có được những bàn tay yêu thương chăm sóc
cho họ được mạnh khoẻ, lạc quan, vui sống…130.
Đức Kitô đã từng là nạn nhân của sự dữ nhưng Ngài đã sống lại, tức là đã thắng
sự dữ. Vì thế, chúng ta là những môn đệ của Ngài, cần phải có thái độ tích cực đối với
sự dữ, một thái độ đầy hy vọng, nghĩa là phải đối đầu với sự dữ và ra sức làm sao để
khổ đau giảm đi càng nhiều càng tốt, bởi làm thế là cộng tác với Đức Kitô trong “trận
chiến cánh chung”, hầu mang lại những lợi ích chiến thắng của Ngài cho lịch sử loài
người. Chính Thiên Chúa Tạo Hoá đã ban cho chúng ta tài năng và Thiên Chúa Cứu Độ
đã nêu cao tấm gương, cũng như ban ân sủng để chúng ta có đủ điều kiện chu toàn sứ
mệnh đó. Vấn đề là mỗi người, phải nhận ra phần trách nhiệm của mình đối với thực
trạng sự dữ, và thành thật tự hỏi: Tôi có sẵn sàng trả giá để góp phần vào cuộc chiến
thắng của Đức Kitô không? Nếu không tập trao ban, không tập khước từ, không tập cho
đi và không dám xả thân hay không dám chết đi từng ngày cho tình yêu, cho những
người đau khổ, thì đừng mong ngăn chặn và tẩy trừ sự dữ ra khỏi thế giới con người131.
130 x. Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật, 2007, tr. 104-105. 131x. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, Lm. Giuse Nguyễn Hữu An, …, Đức Giêsu Với Cái Chết, tr. 13-14.
55
VIII. NHỮNG MẪU GƯƠNG GIÚP TU SĨ ĐỐI DIỆN, THĂNG HOA ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ THÀNH THIÊN ÂN
Xã hội ngày nay, con người đang đề cao nhu cầu hưởng thụ và vui chơi. Vì vậy
hai từ đau khổ và hy vọng có vẻ khó song hành, vì đau khổ đặt con người trước những
chướng ngại lớn, lắm khi khó vượt qua. Nhìn vào những người bị mang trong mình
bệnh nan y như ung thư vào giai đoạn cuối, hay nhiễm “căn bệnh thế kỷ”: họ đã phải
đối diện với những đau khổ lớn lao dường nào, trong thân xác cũng như tinh thần. Đã
không ít người suy sụp, không giám đối diện, nhất là tìm đến cái chết như một giải pháp
thoát khỏi sức nặng của đau khổ. Đối với họ, tất cả đều bế tắc, không một tia hy vọng.
Nhưng may thay, Giáo Hội cũng như xã hội vẫn còn đó những vĩ nhân anh dũng dám
đối diện với những đau khổ và thử thách. Nhất là họ đã biến những đau khổ thành sức
mạnh và thăng hoa những đau khổ thành Thiên ân. Giờ đây người viết xin được đề cập
tới những mẫu gương trong Kinh Thánh và trong Giáo Hội khi đối diện với đau khổ.
1. Ông Gióp
Ông Gióp, có lẽ đã cảm nhận được rằng cuộc sống của con người trên trần thế
chẳng khác gì một cuộc khổ dịch, con người luôn luôn vất vả suốt chuỗi ngày của một
kiếp nhân sinh, dường như Thiên Chúa tặng ban cho con người một món quà để rồi diễu
cợt vậy. Bởi vì: “cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là một thời khổ dịch
sao? Và chuỗi ngày lao lúng vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong
bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những thứ vô vọng,
số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề” (G 7,1-3).
Như thế, cuộc sống con người quá đỗi phù du và khổ ải: Vừa nằm xuống, tôi đã
nhủ thầm: “khi nào trời sáng?” Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: “Bao giờ chiều buông?”
Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng. Thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc nhúc, da tôi
nứt nẻ, máu mủ đầm đìa. Ngày tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một
tia hy vọng132. Trước thực tế buốt nhói của đau khổ, ông lại thốt lên: “Vô phúc cho ngày
tôi đã sinh ra, ngày người ta nói, một người đã ra đời. Ước gì ngày đó đã ra tối tăm u
ám. Ước gì Chúa trên trời đã không săn sóc tới ngày ấy, ước gì ánh sáng đừng soi cho
ngày ấy, ước gì sự tăm tối đã bao phủ ngày ấy và ngày ấy đã không được tính vào ngày
trong năm. Ước chi đừng ai tính ngày ấy vào ngày trong tháng. Ước gì đêm ấy là một
rừng hoang không cây cỏ. Ước gì không ai nghe một tiếng vui vẻ ở ngày ấy” (G 3,1-7).
132 x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiên Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Thử Thách, số 7, 2009, tr. 8.
56
Đối với ông Gióp, thà “được kể như không có” hay “được đưa thẳng từ lòng mẹ
xuống mồ” thì tốt hơn. Ông không thể lặng câm không nói, trong khi nỗi đớn đau xé nát
ruột gan, ông quá bất mãn đến độ đổ lỗi cho Thiên Chúa về thảm kịch đời ông. Thật trớ
trêu, khi thân phận con người tựa như cánh hoa sớm nở tối tàn, như bóng câu qua cửa
sổ, như hơi thở (x. G14,2). Ông cay đắng xót xa, ông đã nhận ra ân huệ sự sống và lòng
nhân hậu của Thiên Chúa giống như một trò chơi chẳng có ý nghĩa gì. Ông cảm thấy
rằng Thiên Chúa như đang đùa giỡn mạng sống mình vậy: “Ngài quật cho nó ngã
không dậy được và nó phải ra đi. Con cái nó có được vẻ vang rạng ngời, nó cũng chẳng
hay; chúng nó bị khinh khi miệt thị, nó nào có biết! Đau đớn trong thân xác, duy một
mình nó chịu, tang tóc trong tâm hồn, chỉ một mình nó hay” (G 14,20-22). Có thể nói,
đau khổ chưa được ánh sáng phục sinh chiếu rọi, là một nỗi bất hạnh và tuyệt vọng đối
với Gióp. Vậy, đâu là lối thoát cho ông khi đối diện với những đau khổ? Mặc dầu ông là
người công chính vẹn toàn trước nhan Đức Chúa.
Thật ra ông Gióp đau khổ và tuyệt vọng với những tai ương của mình, vì ông chỉ
tìm câu trả lời trước những đau khổ huyền nhiệm bằng lý luận và chứng cứkhôn ngoan
của phàm nhân. Nhưng sau khi ông được tiếp xúc thực sự với Thiên Chúa, thay vì ông
đổ lỗi cho Thiên Chúa và than thân trách phận, thì ông đã sám hối và thốt ra những lời
hết sức thân tình: “Trước kia con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ
đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi con
sấp mình thống hối ăn năn” (G 42,5-6)133.
Dù trong mọi quẫn bách, đau khổ tột cùng: con cái chết hết, gia sản bị cướp
sạch, thân thể ghẻ lở hôi hám, ung nhọt, bạn bè khiển trách, ngay cả vợ cũng lên tiếng
nguyền rủa,“nhưng trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không để cho môi miệng
thốt ra lời tội lỗi” (G 2,10)134.
ÔngGióp đã không hiểu hết mọi sự về huyền nhiệm của đau khổ. Nhưng ông đã
cảm nghiệm và tin rằng Thiên Chúa ông thờ là Đấng Hằng Sống, và ông luôn sống dưới
sự che chở, quan phòng của Người khi ông sống hạnh phúc cũng như khi ông gặp tai
hoạ: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận
sao?” (G 2,10), hay “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần
truồng. Đức Chúa ban cho Đức Chúa lại lấy đi. Xin chúc tụng danh Đức Chúa” (G
2,21).
133 Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiên Niệm, Thử Thách, số 7, 2009, tr. 22. 134 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niền Tin, 2007, tr. 56-58.
57
Tóm lại, ông Gióp đã tìm ra ý nghĩa của đau khổ là nhờ một cuộc gặp gỡ với
chính Thiên Chúa. Vì vậy, đối với ông, đau khổ cũng như đức tin hay hạnh phúc ở
đời này đều là ân huệ135.
2. Đức Maria
Nhân loại ngày nay nói rất nhiều về việc giá trị hoá, tối đa hoá, về sự thăng tiến,
tất cả đều nhằm giải thoát con người khỏi đau khổ. Nhưng nhân loại không hiểu được
điều gì sẽ làm họ tăng triển, vì họ tự khép kín và không hề chịu cởi mở trước mầu
nhiệm đau khổ của Đức Kitô, cũng như họ không biết rằng, con người chỉ có giá trị
trong việc hiến dâng đau khổ của mình136.Trái lại, Đức Maria hiện hữu nơi trần gian là
để làm Mẹ Chúa Cứu Thế và để dự phần cứu chuộc với Đấng Cứu Thế: Đức Giêsu đã
cứu chuộc nhân loại bằng đau khổ Thập giá, Mẹ cũng đồng công cứu chuộc nhân loại
với Đức Giêsu qua con đường đau khổ137. Điều này được minh định qua bảy sự đau khổ
của Đức Maria sau:
Ngay lúc dâng con trong đền thờ, tiên tri Simêon ẵm lấy Hài Nhi trong cánh
tay mình và nói tiên tri với Mẹ Maria rằng, đứa trẻ sẽ là cớ cho một số người vấp ngã
và một số người khác chỗi dậy, rồi đây con trẻ này sẽ trở nên một dấu hiệu cho người
ta chống đối. Ông cũng nói với Mẹ về những đau khổ sẽ đến: “Còn chính bà, thì một
lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người
phải lộ ra” (Lc 2,35)138. Trong niềm đau thứ hai, trước hành động dã man và tàn độc
của Hêrôđê muốn tìm giết Chúa Hài Nhi, Mẹ đã phải bồng bế Đức Giêsu, theo chân
thánh Giuse chạy trốn trong đêm sương giá rét, để bảo vệ cho Hài Nhi khỏi bị tàn sát,
không biết đi đâu và cũng không biết trước ngày trở về.Một niềm đau đặc biệt khác
của Đức Maria, nhân dịp đi dự lễ Vượt qua tại Giêrusalem, năm Đức Giêsu lên 12
tuổi, Mẹ và thánh Giuse lạc mất Chúa Giêsu trong ba ngày, đã hoảng hốt và đi tìm
kiếm ròng rã ba ngày.Đau khổ thứ tư, gợi lại cho tâm trí chúng ta giờ phút hãi hùng
khi Mẹ Maria đã gặp Đức Giêsu con Mẹ, với thập giá trên vai, với vòng gai trên đầu,
với tấm thân rách nát tả tơi, gương mặt đầy máu, cùng với những tiếng la hét, chửi vả
kinh hoàng trên con đường dẫn tới núi Canvê.Trong niềm đau thứ năm, Mẹ đứng dưới
chân thập giá treo xác Đức Giêsu, với tâm hồn tan nát, chứng kiến thảm kịch đau
thương của con yêu dấu trong ba giờ, với biết bao hành vi dã man mà bọn lý hình tuôn
135 x. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô, tr. 147. 136 x. Joseph-Louis Lebert, Tình Yêu Không Biên Giới, tr. 140-141. 137 x. Hương Việt, Truyện Các Thánh, quyển III, tháng 7,8,9, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008, tr. 396. 138 x. Các Bài Đọc Kinh Sách, Quyển 2, Mùa Thường Niên, tuần VI- XXXIV. Bản dịch do: Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ thực hiện, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008, tr. 1061.
58
ra và bao tiếng nhục mã của kẻ qua, người lại xỉ vả con Mẹ. Ta chiêm ngắm với niềm
đau thứ sáu,Mẹ ôm xác con Mẹ mới được tháo đanh, còn mang đầy vết thương tím
bầm, do những cái vả vào mặt, những roi, những đanh, lưỡi đòng còn ghi dấu lại.Đau
khổ sau cùng, Mẹ chứng kiến cuộc táng xác Đức Giêsu, đơn giản, sơ sài, hấp tấp và
lạnh lùng139.Thông qua bảy đau khổ mà Mẹ đã đón nhận, cho thấy Mẹ Maria đã luôn
theo dõi từng bước mọi đau khổ của con mình và âm thầm đón nhận những đau buồn,
tủi hổ ấy của con140.
Mẹ đón nhận những đau khổ với một tinh thần siêu nhiên, một thái độ anh hùng,
và phát xuất từ một tấm lòng nhân ái, thương xót đối với nhân loại, cũng như do tình yêu
mến đối với Đức Giêsu. Mẹ không than vãn, không khóc lóc, không ngất xỉu trước đau
khổ, nhưng luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Giám mục Bốt-xu-ê nói: “Mẹ cương quyết,
kiên tâm và hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã quyết định Chúa Con phải
chết để cứu chuộc nhân loại”141. Công đồng VatianôII cũng nói: “Đức Maria đã đau đớn
chịu khổ cực với Con một của mình và dự phần vào hy lễ của Con với tấm lòng của một
người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế hy lễ do lòng mình sinh ra”142. Tóm lại, Mẹ Maria đã
can đảm trèo lên đỉnh đồi Golgotha và đã đứng với Chúa Giêsu trong cơn hấp hối, ở bên
cạnh Ngài để cùng đón nhận với Con của Mẹ những lời chế nhạo và lăng nhục. Bất chấp
sự thù ghét và đau khổ, Mẹ vẫn ở bên Con Mẹ để chia sẻ giờ sau hết của Ngài143. Mặc dù
tim Mẹ tan nát, đau khổ tột cùng, khi phải nhìn đứa con yêu dấu của mình thân hình tàn tạ
treo trên thánh giá, nhưng Mẹ vẫn tiếp tục đứng đó, đứng như một chứng tá cho Đấng
Chịu Đóng Đinh. Mẹ chia sẻ trọn vẹn “giờ” của Chúa Giêsu, và đã “chịu đóng đinh với
Chúa Giêsu”144.
3. Thánh Phaolô Tông Đồ
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu được mời gọi sẵn sàng từ bỏ mình,
vác thập giá mà theo Chúa (x. Mt 16,24). Từ sau biến cố Đamas, Phaolô đã thật sự ý
thức mình được Chúa chọn gọi làm Tông đồ (Gl 1,11tt) và đã hoàn toàn đáp trả bằng
cả cuộc đời loan báo Tin Mừng, đạt cao điểm nơi chính sự chết theo gương Đức
Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, và tột đỉnh của vâng phục là cái
chết đầy đau khổ trên thập giá (x. Pl 2, 6-8). Phaolô đã quả quyết: “Chúng tôi luôn
139 x. Hương Việt, Truyện Các Thánh, quyển III, tháng 7,8,9, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008, tr. 397-398. 140 x. Stan Rougier. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết, Những Cuộc Hẹn Của Thiên Chúa, Nxb Phương Đông, 2013, tr. 211. 141 Hương Việt, Truyện Các Thánh, quyển III, tháng 7,8,9, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008, tr. 398-399. 142 Lumen Gentium, số 58. 143 x. Dân Chúa Ngày Nay, số 106, Đứng Gần Thập Giá Chúa Giêsu, tr. 36. 144 x. Dân Chúa Ngày Nay, số 106, Đứng Gần Thập Giá Chúa Giêsu, tr. 18.
59
mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu
cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4,10). “Tôi cùng chịu đóng đinh
với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn là tôi mà là Đức Kitô sống
trong tôi” (Gl 2,19-20). Chọn Chúa là lẽ sống, Phaolô là người môn đệ tuyệt vời của
Đức Giêsu, thể hiện cao điểm nơi ý thức và thái độ trước đau khổ và cái chết.
Qua sự chiêm ngắm Đấng đã chết và sống lại, Phaolô xác tín rằng niềm tin Đức
Giêsu chết và sống lại không loại bỏ đau khổ, nhưng giúp can đảm chiến đấu để loại trừ
và làm giảm bớt đau khổ. Đau khổ mang chiều kích cứu độ và nhìn đau khổ trong tương
quan với hy vọng (x. Rm 5,1-2)145. Chính vì thế, mặc dù bị giam trong tù nhưng thánh
Phaolô cảm thấynhư đang ở trên Thiên Quốc. Người đón nhận đòn vọt và thương tích
một cách vui vẻ hơn cả những người chạy đua để giật giải. Người yêu thích đau khổ
chẳng kém chi phần thưởng, vì người coi những đau khổ là phần thưởng; bởi thế người
gọi chúng là ơn: “Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng, khi mình yếu đuối, khi bị xỉ nhục,
hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô” (x. 2Cr 12, 10”146. Có thể nói, trái tim đau
khổ của thánh nhân luôn tràn ngập một niềm an ủi và biết ơn đối với Thiên Chúa:
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phục Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ngài là Cha
giàu lòng từ bi nhân ái và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ, ủi an” (2Cr 1,3)147.
Thánh nhân còn nói: “Tôi vui chịu trong thân xác tôi tất cả những gì còn thiếu trong
cuộc khổ nạn của Đức Kitô” (Cl 1,24). Ngài sẵn sàng đón nhận tất cả vì nhận thức sâu
sắc rằng trong mọi đau khổ phải chịu, Ngài thật sự cộng tác vào ơn cứu độ của Đức
Kitô.
Đối với Phaolô, Đức Kitô là trung tâm mọi suy tư và ước muốn của thánh nhân,
cũng như mẫu mực sống cho mình, cho nên thánh tông đồ muốn được sống trong Đức
Kitô, được đồng lao cộng khổ với Đức Kitô, được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức
Kitô trong những đau khổ và hy vọng cùng được phục sinh với Ngài148.
4. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu
Đau khổ giữ một địa vị quan trọng trong cuộc đời của chị thánh Têrêsa Hài
Đồng Giêsu, hơn cả việc chấp nhận, Têrêsa đã yêu thích đau khổ một cách nồng nhiệt.
Giống như các nhân đức khác, Chịthánh yêu thích đau khổ, là hiệu quả kéo dài của tình
yêu đối với Thiên Chúa. Để cho tình yêu Thiên Chúa có thể nắm giữ linh hồn và phát
145 x. Tài Liệu Học Tập Năm Thánh Phaolô. Số 2, tr. 100-106. 146 Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển 1, Nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 959-960. 147 Hương Việt, Tôi Tin Có Một Thiên Chúa, quyển II, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2006, tr. 93. 148 x. Lm. Phan Tấn Thành, Nt. Maria Đinh Thị Sáng, Cánh Chung Học, Học Viện Liên Dòng Thánh Tôma, TPHCM, 2004, tr. 73.
60
triển trong Chị, Chị thánh quyết tâm thực hành sự từ bỏ đến mức độ tận cùng. Ước
muốn đáp trả tình yêu của Đức kitô, Chị đã tận hiến chính mình để yêu thương những
người thân cận mà không giữ lại gì cả. Nhưng một tình yêu bắt nguồn từ lò lửa tình yêu
Thiên Chúa, không ngừng ở đó. Nó mong muốn trao ban chính mình trong sự hy sinh
trọn vẹn.Nó đòi hỏi đau khổ để cái tôi có thể được tiêu huỷ hoàn toàn bởi tình yêu149.
Chúng ta hãy nghe lời thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nói trong “Truyện một linh
hồn”: “Linh hồn con đã qua biết bao cơn thử thách, con đã đau khổ rất nhiều. Lúc còn
bé, con đau khổ và buồn nhưng ngày nay con mến tất cả các thứ quả đắng trong sự
bằng yên và vui vẻ…”, và: “Đừng tưởng con được bơi lội trong sự yên ủi. Không, chính
sự yên ủi của con, ấy là không được yên ủi ở đời”. Nhất là khi trả lời một chị hỏi ngài:
“Người ta nói: “Không khi nào chị bị đau khổ lắm, có phải không?” Thánh nữ liền chỉ
vào ly thuốc đựng một chất đỏ tươi, và nói: “Chị hãy nhìn cái ly này, ai cũng tưởng nó
đầy chất ngọt, nhưng thật ra không gì đắng hơn nữa. Đấy chính là hình ảnh linh hồn
em: trước mắt người khác, đời em là một vườn hoa đầy những màu tươi thắm, người ta
tưởng em chỉ được uống toàn những chất ngọt và thơm, nhưng thật ra em chỉ uống toàn
chất đắng. Em nói chất đắng, nhưng đời em không cay đắng, vì em đã làm cho chất
đắng hoá vui và ngọt… Em đã hoá thành con người không biết đau khổ nữa vì hết mọi
sự đau khổ biến thành sự ngọt ngào cho em…”150. Đặc biệt, Chị còn thân thưa với Chúa
một cách mạnh mẽ: “Lạy Chúa, bao lâu Chúa muốn, con còn bằng lòng ăn bánh đau
khổ… Con sẽ ngồi luôn ở bàn ăn cay đắng, cho đến khi Chúa biểu đứng dậy”151. Chị
cũng viết cho mẹ Agnès như sau: “Bao lâu ở trong tu viện Carmel con mong ước chỉ
một điều là luôn chịu đau khổ vì Chúa Giêsu”. Vì đối với Chị thánh đau khổ được chịu
đựng với sự vui vẻ, bình an, thì Chị sẽ yêu mến Thiên Chúa hoàn hảo hơn trong cõi
vĩnh hằng! Do đó, quyết tâm mạnh mẽ của Chị thánh là: “chúng ta hãy ôm chầm lấy
đau khổ”152, hay “Con luôn cố gắng yêu mến sự đau khổ và tiếp nhận nó. Khi đau khổ
nhiều, khi những điều phiền toái, đau đớn xảy đến với con, thay vì nhìn cách buồn thảm,
con cố gắng tươi cười. Lúc đầu con không thành công trong việc này nhưng bây giờ nó
đã trở thành thói quen. Con chịu đựng nhiều vì con đang sống trên dương gian, nhưng
149 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 169. 150 Lm. Antôn Nguyễn Văn Tuyên, Ý Nghĩa Sự Đau Khổ, tr. 137. 151 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 110. 152 Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 173-174 .
61
nếu trong thời thơ ấu, con chịu đựng bằng sự buồn nản. Giờ đây con chịu đựng bằng
hoan lạc và bình an. Con thật sự hạnh phúc chịu đau khổ”153.
Chị thánh Têrêsa Hài Đồng là gương mẫu cho các tu sĩ, dù trong đau khổ, cô
đơn cùng cực, Chị vẫn xin thêm đau khổ vì yêu Chúa và vì phần rỗi các linh hồn. Chị
vui sướng chịu đau khổ vì ý thức sứ vụ cao cả của mình trong lòng Giáo Hội. Đặc biệt,
chị muốn nên giống người yêu của mình là Đức Kitô trong đau khổ154.
5. Cha Henrry Denis Biển Đức Thuận, đấng sáng lập hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam
Đối với cha Henrry Denis Biển Đức Thuận, Thánh giá như là một thành tố hình
thành cuộc đời dâng hiến. Có thể nói, Thánh giá đã in sâu vào tâm hồn ngài và trở thành
đối tượng chiêm niệm. Trong một lá thư gửi cho bà kế mẫu, ngài tâm sự: “Con cầu cho
mẹ hơn mọi khi. Xin Chúa ban cho mẹ được bằng lòng chịu đau đớn và chịu cách vui
vẻ. Luyện ngục còn cực hơn bội phần. Trong đó không lập công được nữa. Vả sự
thương khó Chúa chịu vì ta còn cực hơn muôn phần, không so sánh được. Mẹ hãy
ngước mắt trông Thánh Giá Chúa mà thân thưa: “Dạ con xin vâng chịu mọi sự Chúa
gởi cho con! Chính lúc con viết thư cho mẹ, con cũng liếc mắt trông lên Chúa trên
Thánh Giá và thầm thỉ cầu cho mẹ”155. Qua câu “liếc mắt trông lên Chúa trên Thánh
giá”; có thể nói đây là một diễn ngữ nói lên môt cái nhìn, một liếc mắt, để định hướng
đi cho cuộc đời. Thánh giá Đức Giêsu được ví như ngọn hải đăng chiếu soi, hướng dẫn,
con đường thập giá. Nhưng con đường đó chẳng mấy ai muốn đi, vì đó là con đường hy
sinh và từ bỏ:“Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá của mình mỗi ngày mà
theo”(Lc 9,23), Chúa đã quả quyết và chính Ngài đã làm gương cho mọi người qua việc
vác thập giá để rồi bị đóng đinh và chết trên đó vì tình yêu.
Cha Henrry Denis Biển Đức Thuận không chỉ “liếc nhìn” Thánh giá mà cha còn
ôm ghì Thánh giá trong suốt cuộc đời. Điều này được thể hiện rõ nét khi ngài khuyên
nhủ các môn sinh của mình: “Có ít câu này, cha tưởng cũng sinh ích cho chúng ta, nên
chúng ta hãy đem vào trí vào lòng mà suy nghĩ, chắc sẽ sinh ích cho linh hồn chúng ta
nhiều. Vậy, lời rằng: một lần chịu khổ vì Chúa, thì hơn trăm lần làm lành cho thế gian”
(Di Ngôn, số 126)156. Sau khi đã nhắc lại câu châm ngôn và giải thích việc hy sinh cho
Chúa, cha mời gọi các môn sinh của mình đón nhận thập giá với một tình yêu Chúa, bởi
153 Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, 2011, tr. 223. 154 x. Hội Dòng Xit ô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Dám Đối Diện,số 9, 2010, tr. 105. 155 Di Ngôn, số 58. 156 x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Trên Nền Tảng Đức Kitô, số 10, 2011, tr. 97-98.
62
vì chỉ tình yêu mới làm cho những gánh nặng và ách kia trở thành êm dịu và nhẹ nhàng:
“Nếu chúng ta biết ấp yêu Thánh Giá vào lòng, thì mọi sự gian nan tân khổ đời này,
không làm cho chúng ta nao núng. Có lòng trìu mến Thánh Giá thật, thì ở trong Nhà
Dòng này rất đỗi vui mừng. Như vậy, ai làm chi được chúng ta! Bề trên có quở phạt,
anh em có khinh chê, đó là Thánh Giá. Là điều mình hằng nâng niu trân trọng. Những
kẻ ấy trong Nhà Dòng này rất đỗi vui mừng” (Di Ngôn, số 156)157.
Như vậy, đau khổ vì Đức Kitô không những là một thành tố hình thành cuộc đời
dâng hiến của cha Henrry Denis Biển Đức Thuận mà thôi, nhưng nó còn vẫn hành trong
mọi chọn lựa và hướng đi cho cuộc đời ngài. Từ đây, mọi Thập giá trong cuộc đời nhân
sinh đều được cha ấp yêu, trân trọng và là ngọn hải đăng rọi chiếu ánh sáng trên mọi
ngõ ngách của hành trình dâng hiến của ngài158.
157 Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Thử Thách, số 7, 2009, tr. 99. 158 x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Trên Nền Tảng Đức Kitô, số 10, 2011, tr. 98-99.
63
IX. NHỮNG PHƯƠNG THẾ ĐỂ TU SĨ ĐỐI DIỆN VỚI ĐAU KHỔ VÀ SỰ DỮ
1.Nhìn lên thập giá Đức Kitô
Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong bài giảng vào sáng thứ tư hàng tuần khi
tiếp kiến khách hành hương tại quảng trường thánh Phêrô chia sẽ rằng: “Theo dự án đời
đời của Thiên chúa, cũng như theo tác động quan phòng của Ngài trong lịch sử, thì mọi
sự dữ, nhất là sự dữ luân lý-tức là tội lỗi-vì thập giá và cuộc phục sinh của Chúa Kitô,
đều quỵ luỵ sự thiện của ơn cứu chuộc và cứu độ”159. Như vậy lời khẳng định của thánh
giáo hoàng Gioan Phaolô II là quy Kitô và chỉ duy một mình Đức Kitô Thập giá mới là
giải đáp thoả đáng mọi đau khổ của nhân loại. Ngài viết tiếp:“Nếu không căn cứ vào
Chúa Kitô, không thể nào giải đáp dứt khoát cho vấn nạn làm sao dung hoà được sự dữ
và đau khổ với sự thật về việc Quan Phòng Thần Linh”160. Như thế, vai trò của Đức
Kitô trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa là rất lớn và là nguồn giải đáp mọi
thắc mắc. Vậy, tại sao Đức Kitô là câu trả lời duy nhất? Đó là nhờ Đức Giêsu, Ngôi Lời
Nhập thể đã tháp nhập đời sống con người, một cuộc sống nghèo hèn, đơn sơ- nhất là
bằng cuộc tử nạn trên Thập giá, rằng Thiên Chúa ở với mọi người trong đau khổ của họ.
Đức Kitô đã xuống thế làm người, đã nhận vào mình mọi khổ đau của kiếp người và
qua khổ đau Ngài đã thánh hoá và cho muôn loài thấy rằng việc chịu đựng đau khổ
mang một ý nghĩa và có giá trịcứu độ. Vì tình yêu, và vì phần rỗi con người, Thiên
Chúa Cha đã ban tặng Người Con duy nhất cho nhân loại, và chấp nhận để cho con
mình chết trên thập giá: “Vì yêu, Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con
Một của Người, mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9). Nhờ cái chết cao quý của Đức
Giêsu, mầu nhiệm cứu độ đã được mở ra cho con người, để con người được sống đời
đời. Chính thập giá Đức Kitô và cái chết của Người mà mọi quyền lực sự dữ đã bị đập
tan (x. 1Cr 15,55-57). Qua thập giá Đức Kitô, Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa con
người (x.Ga 1,14), để cùng con người chịu đau khổ và giải phóng con người khỏi quyền
lực của ác thần. Khi con người quỳ xuống tôn thờ và chiêm ngắm Tôi Tớ Đau Khổ của
Thiên Chúa bị treo trên thập giá, họ sẽ nhận ra được khuôn mặt của chính mình. Một
khi được liên đới trong đau khổ của Đức Kitô, chúng ta cũng được phục sinh và chung
phần vinh quang với Ngài (x. Rm 8,17). Nơi mà chính Ngài đi trước dọn chỗ và sẽ trở
lại đón chúng ta, để Ngài ở đâu thì chúng ta cũng được ở đó với Ngài (x. Ga 14,3). Nơi
đó sẽ không còn đau khổ và khóc than, vì: “Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần… và sẽ
159 ĐGH Gioan Phaolô II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự. Dịch giả: Đaminh Cao Tấn Tĩnh, tr. 206. 160 ĐGH Gioan Phaolô II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự. Dịch giả: Đaminh Cao Tấn Tĩnh, tr. 206.
64
lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô
nhục của dân Người” (Is 25,8).
Xác tín thập giá Đức Kitô là lời giải đáp thoả đáng cho tất cả đau khổ và sự dữ
của con người. Điều đó không có nghĩa là tu sĩ chỉ xác tín một lần cho tất cả. Nhưng,
muốn hoá giải và loại bỏ được đau khổ, sự dữ, tu sĩ cần phải gắn chặt cuộc đời với thập
giá của Đức Kitô, vì đau khổ thuộc về hiện sinh của con người, nó gắn liền với bản chất
của thụ tạo. Điều mà các tu sĩ phải làm là ôm trọn đau khổ và thăng hoa nó với tất cả
niềm xác tín và cùng với nó, người dâng hiến đóng đinh chính mình vào thập giá Đức
Kitô. Một niềm xác tín tuyệt đối vào Đức Kitô tử nạn và phục sinh như thánh Phaolô:
“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Ki tô? Phải chăng là gian truân, khốn
khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo… Trong tất cả mọi thử thách ấy, chúng ta
toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (x. Rm 8,35-37). Hơn nữa, noi gương Đức
Kitô các tu sĩ phải trung thành với những cơn thử thách, vì: “Sự quan phòng không
miễn cho Đức Giêsu khỏi thử thách, vì Người đã thấy Chúa Cha ruồng bỏ (x. Mt 27,46)
và khi vâng lời cho đến chết, Người đã xác quyết lòng tín thác hiếu thảo bằng lời sau
hết trên thập giá: “Lạy Cha con phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46)161.
Thập giá Đức Kitô là lời giải đáp thoả đáng cho những người đặt niềm tin nơi Ngài,
nhưng những người chưa tin vào Đức Kitô thì sao? Đức thánh Cha Gioan Phaolô II đã
nói trong cuốn sách “Tất Cả Trong Mọi Sự” của Ngài rằng : “Với sự hỗ trợ của một đức
tin được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện, con người sẽ dần khám phá ý nghĩa đích thực
của đau khổ mà mỗi người đều cảm nghiệm nơi cuộc sống của mình. Đó là khám phá
dựa vào lời mặc khải thần linh, cũng như vào lời thập giá” (x. 1Cr 1,18) của Chúa Kitô
là “Quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24)162. Nhờ sự trung thành và
tin tưởng vào Đức Kitô tử nạn và phục sinh, các tu sĩ được thông phần sự chiến thắng
ấy, sự chiến thắng mang lại niềm hy vọng cho mọi người, vì là chiến thắng đau khổ và
sự dữ, chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết. Đức Kitô đã sống lại, sự chết không cầm
giữ được Người, Người là hy vọng của chúng ta, là tương lai của chúng ta. Mặc dù thế
giới có tàn bạo, đau khổ, sự dữ đến bao nhiêu, thì tiếng nói cuối cùng vẫn là của tình
yêu Thiên Chúa, và của chúng ta trong Thiên Chúa. Dù thế giới đầy dẫy bất công và đau
khổ, tiếng nói cuối cùng là tiếng nói công lý và hoà bình của Thiên Chúa và hạnh phúc
của con người163.
161 x. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Giáo hoàng học viện Pio X dịch, tr. 306. 162 x. ĐGH Gioan Phaolô II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự. Dịch giả: Đaminh Cao Tấn Tĩnh, tr .209. 163 x. Những Trái Khuấy Và Đôi Lời Góp Ý Về Đời Sống Tu Trì, số 24, tr. 159.
65
Đau khổ quả là một thử thách lớn đối với mỗi tu sĩ. Thế nhưng, nhờ nỗi khổ
nhục và cái chết đau thương, nhục nhã trên thánh giá, Chúa Giêsu đã tuôn trào một sức
mạnh tình yêu trao ban, đến nỗi đã biến thành cuộc phục sinh khải hoàn và trở nên ơn
cứu độ cho muôn người. Vì thế, những đau khổ mà các tu sĩ đang gánh chịu cùng với
Đức Kitô sẽ làm trổ sinh những cánh hoa yêu thương rực rỡ, trong vườn hoa muôn sắc
của thiên đường tình yêu164. Như thế, khi nhìn lên Thập Giá, và nhờ sức mạnh của tình
Yêu Thập Giá, đau khổ đối với tu sĩ không còn phải là viên đá làm cho vấp phạm, mà là
dụng cụ, con đường đi về với Thiên Chúa. Từ đây tu sĩ khi đối diện với đau khổ và sự
dữ, lửa tình yêu trong mình không lụn tắt, nhưng sẽ bùng lên mãnh liệt, vì đau khổ sẽ
làm tu sĩ nên giống Chúa Kitô165.
2. Cầu nguyện trong thinh lặng
Khi còn ở trần gian, nhất là trên Thập giá, Chúa Giêsu đã dùng lời nói và nhất là
sự thinh lặng để cầu nguyện. Đây là một đặc điểm quan trọng trong việc cầu nguyện của
Chúa Giêsu, cũng là chiều kích quan trọng của tu sĩ khi cầu nguyện. Cần phải giữ thinh
lặng nội tâm và bên ngoài để lắng nghe Lời Chúa. Nhưng oái ăm thay, đối với các tu sĩ
ngày nay giữ thinh lặng là một thách đố không nhỏ166. Quả thật, tu sĩ đang sống trong một
thời đại không thích hợp cho việc hồi tâm; trái lại, đôi khi có cảm tưởng con người sợ đối
diện với chính mình, dù chỉ trong giây lát. Những đau thương của cuộc đời thường quá
lớn đến nỗi con người chỉ muốn tìm cách lẩn trốn để khỏi phải đối diện với chúng. Truyền
thanh, truyền hình, báo chí, sách vở, phim ảnh, cả những công việc vất vả và đời sống bận
rộn xã hội nữa…, tất cả đều có thể là những phương thế giúp con người tránh đối diện với
chính mình và biến cuộc sống thành cuộc giải trí trường kỳ. Có thể nói, giải trí giúp cuộc
sống con người có những niềm vui, thanh thản qua một ngày làm việc mệt nhọc. Nhưng
nếu ta sống cuộc đời vui chơi giải trí triền miên, thì tâm trí ta sẽ tách xa khỏi tâm hồn và
trở thành những khán giả của vở tuồng cuộc đời mình. Nhất là khi đối diện với thử thách,
đau khổ chúng ta sẽ chao đảo và dễ buông xuôi, thất vọng167. Vậy đâu là phương thế để tu
sĩ dám đối diện với chính mình và với sóng gió, đau khổ của cuộc đời? Câu trả lời là:
“cầu nguyện trong thinh lặng”.
Thập giá của Đức Kitô không chỉ cho thấy sự tĩnh lặng của Chúa Giêsu, như lời
cuối cùng dâng lên Chúa Cha, mà còn cho thấy Thiên Chúa đã nói bằng sự thinh lặng:
164 x. Thiên Phúc, Lời Gọi Yêu Thương, 30 Câu Chuyện Suy Niệm Và Cầu Nguyện, Nxb Tôn Giáo, tr. 27-28. 165 x. Lm Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời, tr. 61. 166 x. Bênêđictô XVI, Cầu Nguyện Trên Nền Tảng Thánh Kinh. Tập II: Tân Ước. Chuyển ngữ và biên soạn: Vương Nghi- Khổng Thành Ngọc, Nxb Tôn Giáo, tr. 104. 167 x. Lm Henri Nowen. Phỏng dịch: Lm. Dominic Thuần,SSS, Chén Cuộc Đời. Tủ sách Eymard, tr. 68-69.
66
“Trải nghiệm về sự thinh lặng, xa cách của Chúa Cha, Đấng Toàn Năng, là cả một
chặng đường quyết định trong cuộc đời trần thế của Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập
thể. Bị treo trên thập giá, Người đã thốt lên nỗi đau đớn do sự im lặng đó gây ra cho
Người: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, vì sao Ngài bỏ con” (Mc 15,34). Chính
trong thinh lặng, Đức Giêsu đã vâng phục ý Chúa Cha cho đến hơi thở cuối cùng, bước
vào bóng tối sự chết, Chúa Giêsu kêu lên cùng Chúa Cha. Người đã trao lại chính mình
cho Chúa Cha vào lúc vượt qua sự chết tiến đến sự sống đời đời: “Lạy Cha, con xin phó
linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46)168. Chính trong lúc chịu khổ nạn và chịu chết,
Chúa Giêsu đạt đến độ sâu nhất của việc cầu nguyện cùng chúa Cha khi nói lời “Xin
vâng” tuyệt đối tuân theo ý Chúa Cha định cho Ngài, đồng thời cho thấy làm thế nào để
ý muốn của con người được nên trọn trong sự tháp nhập hoàn toàn với ý Thiên Chúa,
chứ không phải ngược lại169.
Còn đối với tu sĩ, thinh lặng trong cầu nguyện là phương thế giúp họ sẵn sàng
lắng nghe và đón nhận ý Chúa. Cũng như nhờ thinh lặng trong cầu nguyện, tu sĩ có
thể hoà tan niềm vui và đau khổ với nhau nơi đáy thâm sâu của cuộc sống. Thinh
lặng có thể giúp tu sĩ dám nhìn thẳng vào chính mình và nói: “Đừng sợ, ngươi có
thể nhìn thẳng vào cuộc hành trình của ngươi, nhìn thẳng vào những khía cạnh đen
tối và tươi sáng của nó, để khám phá ra con đường dẫn tới tự do thật”170.Chính nhờ
cầu nguyện trong thinh lặng mà tu sĩ luôn tìm kiếm những gì thuộc về Chúa, những
gì làm đẹp lòng Người. Ngay cả đó là những sự dữ, những điều xỉ nhục, đau khổ đối
với bản thân mình171. Hay nhờ lời cầu nguyện từ thẳm sâu trong hồn, tu sĩ không còn
tìm ý riêng của mình nữa, nhưng chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa, cho dù thánh ý của
Người có trái ngược với ý muốn tầm thường của họ và thường làm cho họ khổ sở172.
Lúc đó tu sĩ cùng với Đức Giêsu thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “Cha ơi, nếu được,
xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”(Mt
26,39).
3. Hiệp thông với cộng đoàn
Ngay từ nguyên thuỷ, nền tảng của sự hiện hữu nơi con người là con người
sống với con người. Vì con người là một hữu thể của sự gặp gỡ, chia sẻ; con người
168 x. Bênêđictô XVI, Cầu Nguyện Trên Nền Tảng Thánh Kinh. Tập II: Tân Ước. Chuyển ngữ và biên soạn: Vương Nghi - Khổng Thành Ngọc, Nxb Tôn Giáo, tr. 103-104. 169 x. Bênêđictô XVI, Cầu Nguyện Trên Nền Tảng Thánh Kinh. Tập II: Tân Ước. Chuyển ngữ và biên soạn: Vương Nghi - Khổng Thành Ngọc, Nxb Tôn Giáo, tr. 111. 170 x. Lm Henri Nowen. Phỏng dịch: Lm. Dominic Thuần,SSS, Chén Cuộc Đời. Tủ sách Eymard, tr. 69. 171 x. Lm. Vũ Văn Tự Chương, Từ Suy Niệm Đến Chiêm Niệm, Nxb Phương Đông, tr. 55. 172 x. Lm. Vũ Văn Tự Chương, Từ Suy Niệm Đến Chiêm Niệm, Nxb Phương Đông, tr. 92.
67
là một hữu thể sống với người khác trong thế giới và để xây dựng thế giới. Điều
quan trọng hơn, con người được sinh ra là những anh em với nhau, con cùng một
Cha trên trời. Tuy nhiên, con người là tạo vật bất toàn, vì thế luôn luôn hướng tới sự
toàn thiện. Do đó, con người luôn sống và cần đến sự tương trợ, liên đới và hiệp
thông với nhau173. Tu sĩ cũng vậy, họ cũng là người như bao người khác, vẫn mang
trong mình những yếu đuối, bất toàn của kiếp nhân sinh. Vì vậy, họ cũng cần đến sự
tương trợ, bao bọc của người khác và cộng đoàn. Vì chính lúc hiệp thông với cộng
đoàn mà người tu sĩ được chia sẻ những khó khăn và được thông cảm, nâng
đỡnhững yếu đuối của mình, cũng như được kín múc sức mạnh và lòng tín thác ngay
trong lòng cộng đoàn, để có sức mạnh vượt qua khó khăn và đau khổ trong cuộc đời.
Nhờ hiệp thông với cộng đoàn qua việc chia sẻ những khó khăn và yếu đuối, để xin
được giúp đỡ và cầu nguyện, thì ví được như xi-măng kết dính với cát và đá. Chính
nơi cộng đoàn mà tu sĩ khám phá ra được lời mời gọi nối kết lẫn nhau và tạo nên sự
hiệp nhất, và là nguồn yêu thương, sức mạnh, để trung thành và thực thi các ân huệ
của mình, cho dù có phải đối diện với phong ba bão táp của cuộc đời174. Cũng vậy,
qua cộng đoàn và nhờ cộng đoàn, tu sĩ được hiệp thông trong Chúa. Họ cùng nhau
đến với Chúa trong sự hiệp thông và giúp nhau để hoàn tất hành trình ơn gọi. Không
có mối dây hiệp thông với cộng đoàn, tu sĩ không thể trung thành với đặc sủng, linh
đạo và sứ mạng của họ. Họ cần cộng đoàn nâng đỡ trong những lúc khó khăn, đau
khổ và chán nản, để tiếp tục kiên vững dấn thân175. Tóm lại, nhờ hiệp thông trong
cộng đoàn, tu sĩ trưỡng thành trong chiều kích thiêng liêng và có đủ sức mạnh để
dám đối diện, vượt qua những đau khổ, thách đố trong cuộc đời dâng hiến và vượt
thắng chính mình.
173 x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Hạt Giống Chiêm Niệm, Cội Nguồn Hy Vọng, 2008, tr. 147. 174 x. Jean Vanier, Đời Sống Công Đoàn, Cộng Đoàn, Nơi Tha Thứ Và Mừng Lễ, Nxb Fleurus/ Bellarmin, Lưu hành nội bộ. Người dịch: Lm Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ, tr. 398. 175 x. Vũ Thị Thu Thuỷ, Tình Bạn Trong Cộng Đoàn Thánh Hiến, Nxb Phương Đông, 2014, tr. 137-139.
68
X. TU SĨ ĐÓN NHẬN ĐAU KHỔ TRONG SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA NHƯ THẾ NÀO?
1. Đau khổ, một phương thế để tu sĩ loan báo Tin Mừng
Sự đau khổ của Đức Kitô biến đổi sự đau khổ của tu sĩ đang mang trong mình:
cho nên giữa thế giới tục hoá và hưởng thụ, tu sĩ đau khổ sống như một chứng nhân,
như một ngôn sứ không ngừng nói lên rằng con người được sinh ra là để hướng về và
dành cho đời sống vĩnh cửu, từ những đau khổ và bất hạnh của đời này.
Thật vậy, tuyệt đại đa số những người sống ở đời này thường tỏ ra quá gắn bó
với đời sống tạm bợ ở đời này và xem nó như là cùng đích. Vì vậy, họ không ý thức
được rằng sự gắn bó này chỉ dẫn đến diệt vong. Con người vẫn tin có Thiên Chúa- một
Thiên Chúa mà họ có thể kêu cầu trong trường hợp khẩn cấp hay bất lực - nhưng họ hy
vọng sẽ không bao giờ phải sử dụng đến Thiên Chúa. Trên lý thuyết, con người tin rằng
Thiên Chúa là nguồn cội và cùng đích của hạnh phúc, nhưng bao lâu họ còn bám víu
được hạnh phúc tạm bợ nơi trần gian này, họ không cần tới Thiên Chúa.
Tu sĩ đón nhận đau khổ và bệnh tật với một lòng yêu mến vì Đức Kitô, có vai trò
nhắc mọi người hay rằng, hạnh phúc con người quả thật mỏng manh và ta mang trong
mình một sự “thiếu thốn” mà cuối cùng ta sẽ khám phá ra. Ngày mà ta đối diện với
Thiên Chúa, ta chỉ có thể tiến dâng Người một cái gì đó nhỏ nhoi mà ta còn giữ lại được
nhờ hoa trái của đau khổ. Bên cạnh đó, họ cũng giúp ta tìm lại được tinh thần mà ta phải
có khi sống ở trần gian: tiền tài, vật chất, danh vọng, quyền thế và ngay cả trái đất này
đều không phải là Thiên Chúa chúng ta thờ, và kho báu đích thực ta phải tìm kiếm chính
là Đức Kitô. Và đây là điều ta có thể gọi là vai trò loan bào Tin Mừng của những người
đau khổ. Thiên Chúa dùng họ để nói với mọi người rằng, đời sống trần gian chỉ là đời
tạm và mọi người đang trên đường tiến về đất hứa để được an nghỉ trong bình an của
Thiên Chúa. Người đau khổ, bệnh tật luôn sống trong sự phó thác vào Thiên Chúa là
con người sống trong sự thật. Phúc thay ai chịu đau khổ ở đời này!
Cũng như Đức Kitô chết trên thập giá, tu sĩ đau khổ và bệnh tật là người bất lực,
nhưng họ có khả năng nói cho mọi người biết rằng thật là lầm lẫn nếu họ gắn bó với thế
gian, vì chính thế gian ngăn cản họ đến cùng Thiên Chúa. Chính đau khổ và bệnh tật
cũng thanh luyện, thánh hoá, biến đổi tu sĩ đang mang trong mình bệnh tật, cũng như
người khỏe mạnh khi họ hiểu được sứ điệp của người bệnh. Có biết bao nhiêu đấng
thánh trong cuộc đời dâng hiến đã hiểu được ý nghĩa của đau khổ- đặc biệt là đau khổ
của những người vô tội - và đã trở thành chứng nhân loan báo Tin Mừng của Thánh
Thần. Emmanuel Mounier - một nhà văn, một nhà triết học Kitô giáo người Pháp - nhìn
69
đứa bé mới lọt lòng mẹ đã bị viêm não và bị mù, đã thốt lên những lời đầy xúc động
như sau: “Không, đây không phải là một sự may rủi, một tai họa…Một ai đó đã đến với
ta và không hẳn đã mang cho ta điều bất hạnh… Ta hãy cúi nhìn thinh lặng trước mầu
nhiệm non trẻ này và hãy để niềm vui xâm chiếm ta… Từ sáng tới chiều, ta đừng nhìn
trẻ thơ này như một cái gì đã bị người ta cướp mất, nhưng một cái gì mà ta dâng hiến
để Đức Kitô không phải làm việc một mình… Không gì giống Đức Kitô cho bằng một
trẻ thơ vô tội phải chịu đau khổ…” (E. Mounier và thế hệ của ông, Paris 1940). Người
tu trì cũng vậy, khi họ đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, họ trở nên giống Ngài và loan báo
cho mọi người Đức Kitô khổ nạn và phục sinh176.
Tóm lại, tu sĩ khi chấp nhận Mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Kitô
(x. 2Cr 4,10), thì họ đã biểu lộ quyền năng Phục Sinh của Đức Kitô nơi thân mình, và
trong trường hợp này, những người tu trì trở thành khí cụ cho việc loan báo Tin
Mừng177.
2. Đau khổ, một bằng chứng tình yêu của tu sĩ đối với Thiên Chúa
Sự phát triển tình yêu là một sự phát triển trong nỗ lực và đau khổ. Đức ái
vốn cao sang vô tận, lên tới Thiên Chúa huy hoàng, vốn trải rộng vô biên, lan khắp
toàn thể nhân loại, vốn đang tiếp diễn trong thời gian và phóng tới vĩnh cửu, nhưng
nó lại đặt nền móng trên đau khổ mà Thiên chúa đã chấp nhận trong sự hiệp thông
với đau khổ của Đức Kitô178.
Khi vào trần gian, Đức Kitô đã thân thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con đây,
con đến để thực thi ý muốn của Cha” (Dt 10,7). Ý muốn đó, Ngài đã thực hiện đến “đổ
mồ hôi máu” và kinh hoàng tới mức, phải thân thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, nếu
có thể được, xin cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42a). Xin như thế, nhưng Ngài
vẫn sẵn sàng trong tư thế vâng phục: “Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”
(Lc 22,42). “Ngài vâng phục và vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8).
Đau khổ, với Đức Kitô, thực là bằng chứng nói lên tình yêu của Ngài với Chúa Cha và
với nhân loại179. Ngài yêu không chỉ bằng lời nói suông, nhưng bằng hành động cụ thể.
Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá chính là lời tỏ tình trọn vẹn nhất dành cho con
người180. Có thể nói, qua đau khổThập Giá, Thiên Chúa chứng minh cho nhân loại thấy
176 x. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô, tr. 150-151. 177 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 110. 178 x. Joseph-Louis Lebret, Tình Yêu Không Biên Giới, tr. 120. 179 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 91-92. 180 x. Thiên Phúc, Tình Yêu Mạnh Hơn Sự Chết, 30 Câu Chuyện Suy Niệm Và Cầu Nguyện, Nxb Tôn Giáo, tr. 61.
70
rõ Người là Tình Yêu, một tình yêu sẵn sàng hy sinh hiến mạng sống mình, vì thế hy lễ
Thập Giá không là bằng chứng cao cả nhất của tình yêu hay sao181?
Vì vậy, khi đón nhận đau khổ làm cho tu sĩ nên giống Chúa Giêsu; nó cũng cho
những người sống đời tận hiến vô số dịp, để tỏ lòng họ yêu mến Ngài. Không ai nghĩ là
còn nhiều cách khác để chứng tỏ tình yêu ấy. Đức vâng lời, trong sạch, khiêm nhường,
yêu anh em, hết mọi nhân đức đều là cách biểu lộ tình yêu. Cũng vậy, việc chiêm niệm,
hoạt động tông đồ, việc bác ái, lần lượt mang đến cho tu sĩ những dịp để biểu lộ tình
yêu và tỏ ra cho Chúa Giêsu thấy họ yêu Ngài đến thế nào. Nhưng linh hồn yêu nồng
nhiệt lắm, thật say yêu Thiên Chúa, cảm thấy một cách tự phát rằng: sự đau khổ dưới
thiên hình vạn trạng có lẽ là phương tiện tốt nhất để tỏ tình yêu. Thánh Gioan Thánh
Gía khi được Đức Giêsu hỏi, con muốn Ta thưởng cho cái gì. Thánh nhân trả lời: “Lạy
Chúa, chịu đau khổ và chịu khinh dể vì Chúa”. Còn nhà chiêm niệm cao siêu Avila kêu
lên: “Chịu khổ hay chết”. Madalena de Pazzi lại thưa: “Không chết, nhưng cứ tiếp tục
chịu đau khổ”. Và gần hơn với thời đại chúng ta, chị thánh nhỏ Lisieux đã sung sướng
thốt lên: “Tôi đã đến mức không chịu khổ được nữa rồi, vì mọi đau khổ đã thành vui
sướng cho tôi”.
Yêu chính là ban mình đi; vậy thì tu sĩ càng yêu nhiều thì càng ban mình đi
nhiều. Làm sao người ta có thể ban mình đi cách hữu hiệu và ý nghĩa, nếu không qua
con đường nhẫn nhục chịu đau khổ, tìm khổ, yêu khổ vì người yêu? Yêu cũng còn
quên mình đi. Khi người dâng hiến bỏ mình ra một bên vì người yêu, thì họ càng
yêu nhiều hơn, thế thì làm sao họ có thể quên hẳn mình, nếu họ không yêu đau khổ
vì Chúa Giêsu, là Đấng tình quân của họ?
Yêu là một hy sinh, một hành vi sát tế chính mình. Còn có việc sát tế bản thân
nào đẹp và cao cả hơn sự chịu đau khổ với tinh thần vì lòng yêu mến Đức Kitô!182 Hay
có thể nói, tình yêu được diễn tả trọn vẹn nhất qua thành ngữ “cho đến tận cùng của tình
yêu”, đó là nỗi đau trong cái chết, và cái chết đi của bản thân trong sự đau khổ183. Cũng
như thánh Aloisio Gonzaga dạy: “Người nào muốn yêu mến Thiên Chúa, mà không
muốn vì Người mà chịu đau khổ, thì không thể yêu Người cách chân chính”184. Còn
thánh Gioan Thánh Giá trong bài ca sốt mến, ngài viết: “Ai không qua kinh nghiệm khổ
đau, trong thung lũng u sầu này, thì sẽ chẳng hiểu gì về điều tốt lành, cũng như không
181 x. Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Lưu hành nội bộ. Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi - Bình Thuận, 2010, tr. 11. 182 x. Paul Jaegher. S.J, Đức Ái . Chuyển ngữ. Lm. Bênađô Maria, C.M.C, tr. 147-150. 183 x. Tác giả: Guy Joal. Chuyển Dịch: Trần Khánh Hưng, AA., Tình Yêu Và Đau Khổ, Nxb Tôn Giáo, 2007, tr. 65. 184 Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật. Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007, tr. 92.
71
nếm được tình yêu, vì đau khổ là y phục của kẻ yêu nhau”185. Tóm lại, tình yêu chân
chính không thể lớn lên nơi tâm hồn thiếu vắng hay muốn tránh né đau khổ. Cuộc sống
chẳng ý nghĩa và đẹp đẽ gì, khi con người không chấp nhận khổ đau186. Đau khổ là con
đường và điều kiện cho tâm hồn tu sĩ chứng tỏ tình yêu, cũng như giúp tình yêu lớn
mạnh và tăng triển187. Như cha Combes nói: Khi người tu trì đau khổ vì lòng mến và
chứng tỏ tình yêu của họ, họ cũng sẽ chết vì yêu và để chứng tỏtình yêu của họ188. Cho
nên, tu sĩ phải can đảm để thốt lên như chị Claire: “Lạy Chúa, con muốn chịu đau khổ,
muốn như điên cuồng, sẵn sàng khước từ mọi thú vui, dù là thú vui được phép, để tỏ
lòng con yêu mến Chúa”189.
3. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ nên giống Đức Kitô và bổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Ngài
3.1. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ nên giống Đức Kitô
Khi yêu nhau, hai người tự nhiên muốn nên giống nhau, giống nhau từ lời ăn
tiếng nói, đến các cử chỉ, ăn mặc…Cũng vậy, tu sĩ mến Chúa và yêu Chúa thật sự thì họ
cũng muốn nên giống Chúa. Vậy họ phải làm gì để được nên giống Chúa? Phải chăng,
là họ phải sống như Đức Kitô đã sống?
Đức Kitô đã sống một cuộc đời đau thương khổ não, trăm đường phiền muộn.
Từ khi giáng thai trong lòng Đức Mẹ, cho đến khi chịu chết trên thánh giá và an táng
trong mồ, không giây phút nào là không đau khổ, thiếu thốn: “Con cáo có hang, con
chồn có tổ, Con Người không có nơi tựa đầu” (Mt 8,20). Chính Chúa đã phán về mình
như thế. Khổ hơn nữa, là vì Chúa có thể sống một cuộc đời lộng lẫy, giàu sang phú quý,
tránh được hết mọi sự đau khổ, nhưng vì yêu thương con người và vì muốn chia sẻ kiếp
người mà Ngài đã tự chọn lấy một cuộc đời tràn ngập đau khổ. Chúa đã biến thành
“Người đau khổ”(Tv 21,7). Vì vậy, tu sĩ muốn nên giống Chúa, thì chỉ có một con
đường phải theo là con đường đau khổ, con đường thánh giá, con đường chông gai, con
đường đi đến chỗ chết, chết dần chết mòn… đó là con đường mà tu sĩ phải đi theo. Nếu
người tu trì đi con đường khác thì thế nào cũng lạc190. Tóm lại, đau khổ đặc biệt cần
thiết cho tu sĩ quy về chỉ một mình Chúa Giêsu, bởi vì tu sĩ phải chịu đau khổ nhiều nếu
185 Đức Ái Ngọt Ngào. Đan Viện Phước Sơn, Những Bài Tĩnh Tâm Năm, 2010. Lưu hành nội bộ, tr. 195. 186 x. Lm Thái Nguyên, Những Cánh Hoa Tâm Linh. Cuộc Sống Với Những Tương Quan, 2007, tr. 133. 187 x. Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi - Bình Thuận, 2010. Lưu hành nội bộ, tr. 98. 188 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 228. 189 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007, tr. 92. 190 x. Lm. Antôn Nguyễn Văn Tuyên+DCCT, Ý Nghĩa Sự Đau Khộ, tr. 153-156.
72
họ muốn Chúa chiếm hữu họ hoàn toàn. Chính đau khổ làm cho người tu trì dấn thân
theo Chúa trở nên giống Chúa hơn. Một vị hôn thê của Chúa Giêsu phải giống như
Giêsu191.
3.2. Đau khổ, điều kiện để tu sĩ bổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Đức Kitô
Vì ơn cứu độ của loài người Chúa Giêsu đã tự huỷ chính mình và chịu đau
khổ đến tột cùng. Chúa để cho mình bị nghiền nát bởi đau thương và chết đi bởi
những vết thương đẫm máu. Nhưng công cuộc cứu chuộc chưa hoàn tất. Nó còn kéo
dài bao lâu còn có những linh hồn cần được cứu độ. Chúa Kitô tiếp tục công việc
này qua những chi thể của Thân Thể Mầu Nhiệm Người192. Thánh Gioan Eudes nói:
“Chúng ta phải tiếp nối và hoàn thành nơi bản thân chúng ta các giai đoạn của
cuộc đời Chúa Giêsu và các mầu nhiệm của Người, và thường xuyên cầu xin Người
hoàn tất và kiện toàn những điều ấy nơi chúng ta, cũng như nơi toàn thể Hội
Thánh... Vì Con Thiên Chúa có ý truyền thông, mở rộng và tiếp tục các mầu nhiệm
của Người trong chúng ta và trong toàn thể Hội Thánh Người, nhờ các ân sủng
Người thông ban cho chúng ta và nhờ những hiệu quả của các mầu nhiệm Người
thực hiện nơi chúng ta. Theo phương thế đó, Người muốn hoàn tất các mầu nhiệm
của người nơi chúng ta”193. Hay như đức giáo hoàng Gioan Phaolô II nói trong tông
thư Salvifici Doloris (Ý Nghĩa Đau Khổ Theo Kitô Giáo) như sau: “Đấng cứu thế đã
chịu đau khổ thay con người và vì con người. Mọi người cách này hay cách khác
đều tham dự vào công trình cứu độ. Mỗi người được mời gọi tham dự vào sự đau
khổ, nhờ đó công cuộc cứu độ được hoàn tất. Khi thực hiện ơn cứu độ bằng đau khổ,
Đức Kitô đồng thời cũng nâng cao đau khổ của con người, đến nỗi thông ban cho nó
một giá trị cứu độ. Như vậy, qua đau khổ của mình, mọi người đều có thể tham dự
vào đau khổ cứu độ của Đức Kitô”194.
Vì vậy, từ đây các tu sĩ là những người bước theo sát con đường Đức Giêsu ở
trần gian để tiếp tụcbổ túc những gì còn thiếu sót nơi Nhiệm Thể của Ngài. Từ đây các
tu sĩ là người đau khổ cho toàn thế giới nhân loại, không những ở chiều kích không
gian, mà còn ở chiều kích thời gian nữa. Nỗi đau của họ không còn là nỗi đau của riêng
191 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 172. 192 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 174. 193 GLTHCG, số 521. 194 Đức Thánh Cha PhaoLô II, Tông Thư salvifici donoris (Ý Nghĩa Đau Khổ Theo Kitô Giáo), 1984. Số 20.
73
mình, mà biến thành nỗi đau của Đức Kitô, đó là chính nỗi đau của Đức Kitô. Khi chạm
đến nỗi đau của mình, người sống đời tu trì sẽ chạm đến nỗi đau của Đức Kitô. Khi
đụng tới cuộc khổ hình của mình, tu sĩ đụng tới cuộc khổ hình của Đức Kitô, vì lẽ cả hai
cuộc khổ hình chỉ là một, và cũng giống như thân xác là dấu chỉ của hệ thống giao tiếp
(đúng hơn là biểu tượng - con người được coi là một thế giới thu nhỏ), tất cả đau khổ
của loài người đều liên quan tới đau khổ của tu sĩ. Đây đúng là tín điều về các thánh
thông công; thánh Phaolô đã chẳng nói: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình những
đau khổ đưa đến cái chết của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ
nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức
Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng
tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em”
(2Cr 10-12). Lại nữa: “Nhờ thập giá Đức Giêsu Kitô thếgian đã bị đóng đinh vào thập
giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian”(Gl 6,15).
Vì thế, những đau khổ của người dâng hiến giờ đây được liên kết với những đau
khổ của Đức Kitô, cho nên, theo một nghĩa nào đó, trở thành một với cuộc khổ nạn của
Ngài. Vì vậy, những đau khổ của tu sĩ hoàn tất mầu nhiệm khổ nạn của Đức Kitô195.
Hay như thánh Phaolô nói:“Tôi hoàn tất trong thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong
sự đau khổ của Chúa Kitô”(x. Gl 1, 24). Đức Kitô đã chịu đau khổ. Thì giờ đây, các tu
sĩ cũng là những chi thể của Ngài cũng phải thông chia phần đau khổ. Nhờ phương thế
đó, tu sĩ sẽ làm cho công nghiệp và sự đền tội của Chúa Kitô được ứng dụng cho các
linh hồn196.
4. Đau khổ, con đường đạt tới ơn cứu độ
Đã là người, ai cũng sợ hãi khi phải đối diện với đau khổ. Nhưng đau khổ thực
sự là một nhu cầu thiết yếu cho đời sống làm người. Không có đau khổ, hay thiếu vắng
đau khổ trong đời, người ta “sẽ không lớn nổi thành người”, không hoàn thành “định
mệnh” của mình, càng không thể hiểu được giá trị chân thực, sâu xa của đời sống làm
người và làm con Thiên Chúa. Đau khổ có một ý nghĩa và giá trị nhất thiết để đem lại
ơn cứu độ và hoàn thành chính mình theo Thiên ý197. Thật vậy, chính thánh Phaolô quả
quyết: “Không đổ máu, không có ơn tha tội” (Dt 9,22). Ngay Con Một của Chúa Cha,
195 x. Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi - Bình Thuận, 2010, tr. 24-25. 196 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 174. 197 x. Lm Thái Nguyên, Những Cánh Hoa Tâm Linh. Cuộc Sống Với Những Tương Quan, cuốn 1, 2007, tr. 132.
74
muốn gánh lấy tội chúng ta, Chúa Cha cũng không vì thế dung tha198. Ngài vẫn phải
chấp nhận đổ máu, chết nhục nhã trên thập giá, để biến đổi thế giới, để xuất hiện trong
thế giới, để được chôn cất và bị tổn thương bởi thế giới và để cứu độ thế giới199.
Nếu sự chết của Đức Kitô trên thập giá đã bộc lộ ý nghĩa và sức mạnh cứu độ,
thì con đường đó cũng được khai triển trong đời sống tu trì, là những người muốn tiếp
bước theo Đức Giêsu một cách triệt để hơn, với một đòi hỏi dứt khoát: “Ai muốn theo
ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24)200. Đức Kitô phải qua đau
khổ, mới đạt tới vinh quang. Vinh quang của Ngài, trong cương vị Con Thiên Chúa, là
điều phát sinh từ bản tính thần linh nơi Ngài. Nhưng về phía nhân tính, Ngài đã thủ đắc
nó, bằng sự hạ mình đến quên mình và chết đau thương trên thập giá. Vì “Ngài đã vâng
lời cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã suy tôn Ngài và ban cho Ngài
một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2,8-9)201. Từ con tim bị đâm thâu của Đức
Kitô, một nguồn mạch phong phú ơn cứu độ đã trào ra và tràn xuống cho những ai
muốn thông phần vào đau khổ của Ngài. Và Ngài đã mở rộng đau khổ của Ngài, để mọi
người đều có thể tham dự vào202. Nói cách khác, khi thực hiện công trình cứu độ qua
con đường đau khổ, Đức Kitô, thực sự đã thông truyền cho đau khổ một giá trị cứu độ
đặc biệt và Ngài mời gọi mọi người nói chung và các tu sĩ nói riêng là những người theo
Đức Kitô một cách triệt để, tham dự vào công trình đó, bằng chính đau khổ của mình,
như thánh Phaolô đã từng khuyên anh em tín hữu Corintô: “Anh em hãy tôn vinh Thiên
Chúa nơi thân xác anh em” (1Cr 6,20), cũng như: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình
cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân
mình chúng tôi” (2Cr 4,10). Mỗi khi “Chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức
Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi”(2Cr 1,5)203. Vì vậy,
nhờ đau khổ và qua đau khổ, tu sĩ được thanh luyện, và được thông phần vào công cuộc
cứu chuộc trần gian của Đức Kitô. Đau khổ không chỉ có tính cách thanh luyện, mà còn
để được ơn cứu độ, như lời thánh Phaolô tâm tình: “Những gian nan thử thách Đức
Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người
là Hội Thánh” (Cl 1,24). Như thế, dâng hiến sự đau khổ là cách để tu sĩ trở nên đồng
198 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 55. 199 x. L. Patrick Carroll, S.J., Tình Yêu Chia Sẻ Phục Vụ: Những Thách Đố Cho Một Tu Sĩ, tr. 141. 200 Dân Chúa Ngày Nay, số: 113, tr. 145. 201 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 55. 202 x. Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 74. 203 Lm. Hồng Nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 70.
75
hình đồng dạng với Đấng mà họ yêu mến204. Tóm lại, đời sống tu trì là một ơn gọi để
mô phỏng sự đau khổ của Chúa Giêsu205.
Vì vậy, tu sĩ phải theo gương Đức Giêsu sống chung với đau khổ và đón nhận
nó như của lễ dâng lên Thiên Chúa nhằm cứu rỗi các linh hồn, và đem lại lợi ích thiêng
liêng cho mọi người cũng như cho chính mình… Khi chấp nhận sống hoà bình với đau
khổ là tu sĩ đã chấp nhận đi con đường của Đức Kitô, con đường qua đau khổ để đến
vinh quang: “Nếu ta đã cùng đau khổ với Đức Kitô, thì nhất định, ta cũng sẽ được
chung hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17)206. Hơn bất kỳ thứ gì khác, đau khổ là
khí cụ cứu rỗi các linh hồn và chính mình: “Không có phần rỗi linh hồn, không có hy
vọng sống đời đời nếu không do ở Thánh Giá”, hay “Hãy vác Thánh Giá và đi theo
Chúa Giêsu bạn sẽ được sống đời đời”207. Và cũng nhờ đau khổ giúp đồng hoá tu sĩ với
Đức Kitô chịu khổ và làm cho tu sĩ trở thành những cộng sự của Ngài trong chương
trình cứu chuộc208.
204 x. Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Đan Viện Xi tô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi - Bình Thuận, 2010. Lưu hành nội bộ, tr. 98. 205 x. L. Patrick Carroll, S.J., Tình Yêu Chia Sẻ Phục Vụ: Những Thách Đố Cho Một Tu Sĩ, tr. 138. 206 x. Dám Đối Diện. Hội Dòng Xit ô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, số 9, 2010, tr. 105. 207 Lm. Le Ba Tu, Gương Chúa Giêsu, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2009, tr. 232. 208 x. Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 227.
76
XI. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH
Kitô hữu là người mang trong mình niềm tin vào Đức Kitô và là người mô phỏng
cuộc sống của Ngài. Vì vậy, họ phải xác tín rằng: qua đau khổ mới tới vinh quang, hay
thập giá là vinh quang của ta. Theo nghĩa nào đó, người kitô hữu nói chung và người tu sĩ
nói riêng, là những người thuộc về Đức Kitô thì phải mặc lấy Đức Kitô: “Tôi sống nhưng
không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20a). Nhất là chính Đức Kitô
đòi hỏi gắt gao đối với những ai muốn theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Thập giá chính là những hy sinh,
bắt bớ, đau khổ, chúng ta gặp trong cuộc đời dương thế.
Đã mang kiếp trần ai, thì con người phải đối diện với đau khổ, tuy nhiên mỗi người có
một cái nhìn và có cách phản ứng khác nhau. Người thiếu lạc quan, không tin tưởng, thiếu lòng
phó thác vào Thiên Chúa thì khi gặp đau khổ dễ dẫn tới oán trách, thất vọng, buông xuôi… làm
cho đau khổ trở nên nặng nề hơn, làm cho phận đời hẩm hiu và bi ai hơn. Trái lại, người có niềm
tin sắt đá, lòng cậy vững vàng vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, khi gặp thử thách, đau
khổ họ vẫn bình tĩnh để đón nhận, nhất là họ có thể thăng hoa các đau khổ đó trong sự kết hợp
với đau khổ của Đức Kitô trên Thập giá. Cho dù có những lúc không thể giải thích được tại sao
mình đau khổ? Bởi vậy, bao lâu tu sĩ còn chưa hiểu được giá trị, ý nghĩa của đau khổ, chưa cảm
nếm được vị ngọt trong đau khổ, cũng như chưa kết hợp đau khổ của mình với đau khổ của Đức
Kitô Thập giá, thì bấy lâu tu sĩ chưa thực sự là môn đệ đích thực của Đức Kitô. Vâng, chính Đức
Kitô là Thiên Chúa thật, Ngài được sinh bởi Chúa Cha, Ngài hiện hữu từ đời đời, quyền năng,
phép tắc vô cùng, là Đấng vô tội (trong kinh tin kính). Thế nhưng tại sao Ngài đã trút bỏ vinh
quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế? (x. Pl 2, 6-11). Không những vậy, Ngài còn
đón nhận sự ngược đãi, khinh chê, nhạo báng, tra tấn, hành hung, nhất là chết nhục nhã trên
Thập giá. Chính đức giáo hoàng Lêo Cả đã tôn vinh với cả tâm hồn về cái chết của Đức Giêsu,
khi nói: “Lạ lùng thay, quyền năng của cây Thập giá, nói sao cho cùng, vinh quang cuộc thương
khó! Đây vừa là toà phán xét của Thiên Chúa, vừa là bản án cho thế gian, vừa là quyền năng
của Đấng chịu đóng đinh”.
Xã hội ngày nay đang bị tha hoá bởi một “nền văn minh sự chết” (Đức thánh cha
Phaolô II, Thông Điệp Tin Mừng Sự Sống), con người lấy hưởng thụ làm lẽ sống, tôn vinh chủ
nghĩa cá nhân làm cùng đích. Vì vậy, họ chủ trương: “Chơi cho liễu chán hoa chê, cho lăn lóc
đá, cho mê mẩn đời” (Nguyễn Du). Với một ý thức hệ như vậy, còn đâu cho tinh thần hy sinh
ngự trị? Họ thích được phục vụ hơn là phục vụ, muốn đầy đủ tiện nghi vật chất hơn là hy sinh
chấp nhận trong sự thiếu thốn, họ lao mình vào những thú vui vô bổ như: đi bar, thuốc lắc, ma
tuý, mại dâm… Vì vậy, tinh thần hy sinh hãm mình và khổ chế trong Tin Mừng đòi hỏi, đó là
77
những điều nghịch lý và xa xỉ, là một điều gì đó phi lý và hoang tưởng209. Nhưng theo tinh
thần Kitô giáo, khổ chế và hy sinh là con đường cho tu sĩ bước theo Đức Kitô một cách triệt để
hơn, làm chứng cho mọi người biết “con tim chỉ thuộc về một mình Đức Kitô, cũng như không
lấy gì hơn tình yêu Đức Kitô, hay Đức Kitô là hạnh phúc đích thực của đời mình”, nhất là ước
mong nên đồng hình, đồng dạng với Ngài. Bên cạnh đó, hy sinh, khổ chế cũng là phương tiện
để tu sĩ cảm nghiệm, sẻ chia cảnh thiếu thốn với người nghèo khó, bất hạnh hơn mình. Con
đường đau khổ, con đường Thập giá sẽ dẫn người tu sĩ đến với Thiên Chúa. Chính Đức Kitô
đã kinh qua con đường này để thành toàn Thiên ý, mà Chúa Cha đã giao phó cho Ngài. Là
môn đệ Đức Kitô, tu sĩ cũng phải theo vết chân Thầy Chí Thánh của mình “Chính Thầy là con
đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga
14,6).
Các thánh là những người đã đi hết chặng đường mà Đức Kitô đã đi, và đã để lại
cho chúng ta những kinh nghiệm quý giá. Như thánh Têrêxa Hai Đồng Giêsu đã nói:
“Chúng ta hãy ôm chầm lấy đau khổ”210, và thánh nữ còn nhấn mạnh thêm rằng“con luôn
cố gắng yêu mến sự đau khổ và tiếp nhận nó. Khi đau khổ nhiều, khi những điều phiền
toái, đau đớn xảy đến với con, thay vì nhìn cách buồn thảm, con cố gắng tươi cười. Lúc
đầu con không thành công trong việc này nhưng bây giờ nó đã trở thành thói quen. Con
chịu đựng nhiều vì con đang sống trên dương gian, nhưng nếu trong thời thơ ấu, con chịu
đựng bằng sự buồn nản. Giờ đây con chịu đựng bằng hoan lạc và bình an. Con thật sự
hạnh phúc chịu đau khổ”211. Thánh Phaolô nói một cách hùng hồn hơn: “Ước chi tôi
chẳng hãnh diện điều gì, ngoài Thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Gl 6,14). Ngài
nói tiếp: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt
nghèo vì Đức Kitô” (2Cr 12,10a).
Như vậy, ta có thể xác tín rằng: phải trải qua đau khổ mới đạt tới vinh quang, cuối con
đường đau khổ cánh cửa hạnh phúc sẽ mở ra, đó là quy luật của cuộc sống hằng ngày, cũng
như điều phải có dành cho những ai muốn tiến vào Nước Trời. Ví như nhà nông muốn có một
mùa gặt bội thu thì cũng phải, đắng cay, vất vả, giãi nắng dầm sương:
“Cày đồng đang buổi ban trưa, mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi bưng bát cơm đầy,
dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. (Ca dao Việt Nam).
209 x. Lm. Hồng nguyên, Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, tr. 3. 210 Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 173-174 . 211 Học Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Gia Đình Têrêsa, 2011, tr. 223.
78
Một vận động viên muốn đạt được thứ hạng cao nhất, đứng trên bục vinh quang, thì
trước đó họ phải khổ luyện ngày đêm, kiêng cự đủ điều. Thật vậy, không có đau khổ không có
ngày vinh quang, không có đổ lệ không có tiếng cười… Bên cạnh đó, đau khổ cũng sẽ giúp tu
sĩ biết yêu thương, chia sẻ, và biết cảm thông với người khác. Nhất là nhận ra thân phận yếu
đuối, mỏng giòn của mình, để khiêm tốn cầu xin ơn trên phù giúp, biết cậy trông vào ơn Chúa,
chứ không phải cậy trông vào sức mạnh của chính mình. Đau khổ cũng là phương dược đào
luyện tu sĩ phát triển cá tính, sự khôn ngoan, lòng can đảm. Đau khổ không chỉ huấn luyện cá
tính con người, nhưng còn cần cho sự liên đới, lòng thương xót với người khác. Như thế, đau
khổ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cộng đồng nhân loại.
Qua đau khổ mới biết được ai là người có đức tin vững mạnh, ai là người yêu mến
Thiên Chúa thực sự. Vì vậy, tu sĩ phải là người biết vui mừng đón nhận mọi đau khổ trong
cuộc sống, như thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Bổn phận của tâm hồn quảng đại là say yêu
đón nhận những nghịch cảnh và những đau buồn một cách dũng cảm, là chịu đựng những thử
thách. Nhưng tốc độ của sự dũng cảm và dấu hiệu của một linh hồn tỉnh thức vượt trên mọi
tình cảm nhân loại, là biết ơn Đấng đã cho thử thách xẩy đến”212.
212 J. Gatlot, Đấng Chiến Thắng Nhờ Đau Khổ, tr. 39.
79
KẾT LUẬN Để kết luận, xin được mượn lời của một tác giả trong cơn khốn quẫn đã thốt lên rằng:
“Hằn sâu trên định mệnh làm người là hai tiếng đau khổ, kể từ khi cất tiếng khóc chào đời.
Hằn sâu trên bộ mặt thế giới là chiến tranh, hận thù, nghèo đói, bệnh tật, tai ương nối tiếp.
Hằn sâu trên trái tim của mỗi người Công giáo, là những khắc khoải day dứt tìm kiếm lời giải
thích cho những hệ luỵ khổ đau tràn ngập trong đời sống”213. Đúng vậy, ai trong chúng ta
cũng đã hơn một lần có kinh nghiệm về đau khổ, vì đau khổ như một phần của cuộc đời. Dù
muốn, dù không, đã mang kiếp phàm nhân thì ai ai cũng phải đối diện. Tuy nhiên, vấn đề là ta
tích cực đón nhận, và tìm ra nơi đau khổ ấy một ý nghĩa, hay chúng ta thất vọng, buông xuôi,
để mặc dòng đời cuốn trôi?Con người và Thập giá là hai hình ảnh không thể tách rời trong
cuộc sống nhân sinh. Ngày nào con người còn hiện hữu ở trần gian, thì Thập giá vẫn còn đó.
Chúng ta nên nhớ rằng, con người chỉ là một thụ tạo hữu hạn, do đó, đau khổ là cái gì phải trả
của đời sống thụ tạo. Khi hiểu được điều này, chúng ta sẽ không còn thắc mắc tại sao con
người lại phải chịu đau khổ? Câu hỏi bấy giờ sẽ là: chúng ta làm gì khi phải đối diện với đau
khổ để nó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống? Có thể chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết được tại
sao chúng ta khổ bằng lý trí, hiểu biết của mình, và sẽ không bao giờ kiểm soát được tất cả
nguyên nhân của mọi đau khổ. Đó là điều chúng ta luôn luôn phải thừa nhận: “Sự dữ mãi mãi
là một huyền nhiệm mà nhân loại không bao giờ lý giải được”214. Tuy vậy, chúng ta chắc chắn
sẽ học được rất nhiều qua những kinh nghiệm đau khổ, nhất là qua các tấm gương của các
thánh để lại cho dương thế khi các ngài đối diện với đau khổ như thế nào.
Nhờ kinh qua đau khổ, chúng ta mới học được bài học trắc ẩn, cảm thông, giúp đỡ,
thương yêu và cùng đồng hành bên những người bất hạnh, cùng họ xây dựng một thế giới hoà
bình, huynh đệ và công bằng hơn. Nhất là giúp chúng ta nhận ra rõ hơn giá trị đích thực của
đời mình, cũng như biết được mối tương quan của mình… Có thể đau khổ chặn đứng những
bước chân của chúng ta, nhưng lại thúc đẩy chúng ta dám đương đầu với những thực tại trong
chính bản thân và trong môi trường sống.
Trong khi chúng ta tìm hết cách để thoát khỏi đau khổ, còn các thánh lại hướng chúng
về Đức Kitô. Trong sự kết hiệp với Đức Kitô, các thánh không còn đau khổ một mình, nhưng
đau khổ của các ngài là đau khổ của Đức Kitô và ngược lại đau khổ của Đức Kitô là đau khổ
của các ngài. Mọi sự đối với các ngài trở thành thân thiết hơn, nếu không thể tránh được. Có
thể nói, các ngài sống trong niềm vui Chúa Kitô giữa các thử thách và đau khổ. Như một hệ
213 Giuse Đinh Thanh Bình, lạy Chúa! Tại Sao Ngài Im Lặng?Tủ Sách Dân Chúa, 1995, tr. 9. 214 x. Tông Thư Đau Khổ Cứu Độ, Đức Gioan Phaolô II gửi cho toàn Giáo hội nhân lễ Đức Mẹ Lộ Đức, ngày 11-201984.
80
quả, giờ đây, khi chúng ta muốn tìm thấy niềm vui trong Chúa Kitô, chúng ta phải thay đổi
đường lối của mình qua việc bắt chước các thánh bằng lòng, khao khát chịu đau khổ để cộng
tác vào việc đem lại ơn cứu độ thay vì tìm cách tránh né, than thân trách phận khi gặp đau khổ.
Cần phải xác định lại rằng, ngay từ đầu Thiên Chúa không tạo nên đau khổ và sự dữ-
tột đỉnh là cái chết – Ngài cũng chẳng vui gì khi sinh vật tiêu vong; Ngài dựng nên muôn vật
cốt cho chúng được tồn tại. Thật vậy, Thiên Chúa tạo dựng con người để nó sống mãi, Ngài
dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Vì vậy, chúng ta đừng đổ lỗi cho Thiên chúa. Thay vì
nói có sự dữ, nên tôi chối bỏ Thiên Chúa, chúng ta phải xác tín rằng: nhờ Thiên Chúa và trong
Thiên Chúa, tôi chiến thắng sự dữ. Chúng ta cũng phải nhìn nhận, chính bởi ác quỷ ghen
tương, và sự lạm dụng tự do của con người, mà đau khổ và sự dữ đã xâm nhập vào thế gian (x.
St 1,13-14; 2,23-24). Thiên Chúa cũng không dùng đau khổ để răn dạy con người, nhưng con
người cần phải lợi dụng đau khổ để học hỏi và thanh luyện chính mình. Chúng ta không thể
coi Thập giá như sự đối chọi nghiệt ngã của đời sống mình, nhưng phải coi như một sự tương
tác để tồn tại và hình thành chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm nên.
Con người và Thập giá, tuy không tương đồng, tương ứng, nhưng tương khắc, tương sinh theo
cách thức của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã rời Thập giá để cho ta bước lên: không phải Thập giá của hận thù,
nhưng là Thập giá của tình yêu; không phải Thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô
đơn, nhưng là Thập giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của Thiên Chúa. Đó là
Thập giá của niềm vui và ân phúc, Thập giá của tin yêu và hy vọng, vì được hiến thân cho
người mình yêu. Vì vậy, đau khổ đối với chúng ta giờ đây không còn là mất mát, hãi hùng, bi
thương, nhưng chúng ta đón nhận đau khổ với cả tấm lòng kết hiệp với hy tế của Đức Kitô làm
thành của lễ dâng lên Chúa Cha, để đem lại ơn cứu độ cho chính mình và nhân loại.
Thật vậy, khi chúng ta nhìn ra được ý nghĩa của đau khổ, thì chúng ta không cón coi sự
dữ và đau khổ là một điều hoàn toàn xấu, trái lại đó cũng là điều hữu ích: “Đau khổ quả là
điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 118,71). Trong Tông Thư ý nghĩa sự
đau khổ nhân loại theo tinh thần Kitô giáo, ban hành tháng 2-1984, Đức Gioan Phaolô II đã
tuyên bố: “Chúa Kitô đã dạy con người hãy mưu ích bằng đau khổ của họ và làm ích cho
những người đau khổ. Qua hai khía cạnh kép đôi này, Chúa đã mạc khải ý nghĩa trọn vẹn của
đau khổ”215. Chính đời sống của mẹ Têrêxa Calcutta đã minh họa việc sống hai khía cạnh kép
đôi này là một biểu tượng hy vọng giữa bóng tối và cảnh đói khổ đang bao trùm. Mẹ Têrêxa
dạy: “đau khổ có thể mưu ích bằng cách làm phát sinh một niềm vui đích thực nơi tâm hồn
215 Đức Gioan Phaolô II-E; x. Elieen Egan và Kathleen Egan, OSB, Biến Đau Khổ Thành Niềm Vui, tr. 17.
81
người tín hữu”216. Cuộc sống của mẹ Têrêxa là một chứng từ sâu sắc về cách thức để đau khổ
có thể mưu ích cho gia đình nhân loại. Nói đến cuộc sống của mẹ Têrêxa, chúng ta không thể
không nói tới cuộc sống của Đức Giêsu, vì Ngài đã nếm mùi đau khổ, phải gánh lấy sự dữ cho
nhân loại để nhân loại được nên công chính. Sự dữ đó chính là cuộc khổ nạn, là cái chết nhục
nhã trên Thập Giá. Nhưng chính qua Thập Giá, Ngài đã bước vào vinh quang. Vậy, ước gì khi
gặp đau khổ, chúng ta biết hướng về Thập Giá của Đức Kitô để nơi đó, ta tìm thấy trong ánh
mắt của Ngài, nếu không phải là một lới giải thích về sự dữ mà mình đang gánh chịu, thì ít nữa
nơi đó ta có một sự cảm thông và bình an trong tâm hồn217.
Theo ý nghĩa đó, với niềm tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, tu sĩ giờ
đây không nhìn đau khổ với tâm thức mất mát, thất vọng, bi đát, nấm mồ giam giữ cuộc
đời…, nhưng xác tín rằng: nếu có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh; nếu
có tủi nhục, sẽ có vinh quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có khao khát, sẽ có
no thoả; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Vì Chúa Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng
của tất cả nhân loại. “Bởi vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng ta
cũng sẽ được chứa chan niềm an vui của Ngài” (2Cr1,5).
Như thế, đau khổ hẳn không hoàn toàn vô ích, nhưng nó đang thanh luyện con người,
và có sức mạnh cứu độ con người. Làm sao tu sĩ nhận được phúc lành ngay trong nỗi sầu đau
mất mát? Làm sao người tu sĩ bước trọn cuộc đời dâng hiến với những bước xiêu vẹo, tập tễnh
của phận người? Đó mới là điều quan trọng và ý nghĩa nhất, chứ không phải cố gắng đi tìm lý
do tại sao đời người lại phải đau khổ?
Chính lúc tu sĩ kinh nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa bên đời và thực sự Ngài
đang cùng lầm lũi đồng hành với mình trong đau khổ, thì lúc đó tu sĩ sẽ cảm nhận được trong
đau khổ và sự dữ mang một ý nghĩa và có vị ngọt của vinh quang: “Nếu cùng chịu đau khổ với
Đức Kitô, thì cũng sẽ được cùng hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17).
216 Trích mẹ Têrêxa, Ibid, tr. 18. 217 x. Jacques Lacourt, Tuổi Trẻ Đức Tin Và Cuộc Sống, Nxb Lion de Juda, 1990, Tủ sách chuyên đề, tr. 89.
82
SÁCH THAM KHẢO 1. Thomas Aquinô. Tổng Luận Thần Học: Thiên Chúa Tạo Thành Và Các Thiên Thần. Người dịch Joachim Nguyên Văn Liêm. Op. 2. Augustino,Thần Luận. Người dịch. Nguyễn Đăng Trực.
3. Tủ Sách Tôi Biết - Tôi Tin. La Souffrance, Pourquoi? Đau Khổ Tại Sao? Bản tiếng Việt: Trần Thiên Ân. Antôn Và Đuốc Sáng, 2012.
4. Giuse Đinh Thanh Bình, Lạy Chua! Tại Sao Ngài Im Lặng? Tủ Sách Dân Chúa, 1995. 5. B. Bro, Quyền Lực Sự Dữ, Paris, 1976.
6. Jacques Bur, Les Editios du Cerf, Giáo Hội Nói Gì Về Nguyên Tổ (Lưu Hành Nội Bộ).
7. L. Patrick Carroll, S.J, Tình Yêu Chia Sẻ Phục Vụ: Những Thách Đố Cho Một Tu Sĩ. 8. Sư Huynh Phan Văn Chức, It Phút Suy Tư Thần Lý, Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo TPHCM, 1994. 9. Trần Thái Đỉnh,Triết Học Hiện Sinh, Nxb Văn Hoá, 2008
10. Trần Thái Đỉnh,Triết Hoc Hiện Sinh, thời mới xuất bản, Nxb Sài Gòn, 1967. 11. Durrwell, Đức Kitô, Con Người Và Cái Chết. Dịch giả: Vân Thuý.
12. C. Geffré,“La Crise Moderne Du Théisme”, Op. 13.Dom Andre Gozier, Thập Giá Sự Điên Rồ Của Thiên Chúa. Lưu hành nội bộ. Đan Viện Xit ô Thánh Mẫu Châu Thuỷ, Lagi- Bình Thuận, 2010.
14. Nguyễn Văn Hạnh. Thiên Chúa Sáng Tạo. Học Viện Đa Minh, 2005.
15. John Hick, Triết Học Tôn Giáo. Dịch giả. Lm. Nguyện Thịnh Phước. 16. Gm. Nguyễn Thái Hợp, OP, Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo. Nxb Phương Đông, 2010. 17. Irénée, Bài viết của Phạm Đại Quang, SDB.
18. Herbert MC Kayes OP. SR. MariaBolding OSB. Qua Thập Giá Đến Vinh Quang. Nxb Tôn Giáo, 2013.
19. Joseph - Louis Lebret, Tình Yêu Không Biên Giới. 20. Jacques Lison, Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa Ngày Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, 2008. Chuyển ngữ: Lm Trần Văn Khuê, aa. 21. George A. Maloney, S..J., Nơi Chúa Giêsu Chúng Con Tín Thác.
22. Michael D. Moga, Trong Sự Tìm Kiếm Tôn Giáo Đích Thực. Triết Học Về Tôn Giáo. Nguyên tác: In Search Of True Religion A Philosophy Of Religion. Nxb Phương Đông, 2013. Người dịch: Lm. Lê Đình Trị. 23. Dominique Morin, Gọi Tên Thượng Đế, Nxb Phương Đông, 2008. Dịch giả: Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành; Luy Nguyễn Anh Tuấn. 24. Nedoncelle, “La Réciprocité des Consciens»,Paris, Aubier, 1942.
25. Lm. Nguyễn Hồng Nguyên, Những Cái Chết Gọi Mời. 26. Lm. Thái Nguyên, Những Cánh Hoa Tâm Linh 1.Cuộc Sống Với Những Tương Quan, 2007. 27. Lm. Hồng Nguyên. Đau Khổ Một Thách Đố Cho Niềm Tin, 2007.
83
28. Lm. Thái Nguyên, Những Cánh Hoa Tâm Linh. Cuộc Sống Với Những Tương Quan, 2007.
29.Lm. Hồng Phúc. CSsR, Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo, mục: quan phòng. 30. Jean Potin. Đức Giêsu Tư Tưởng Và Hành Động Của Ngài, Paris, 1973.
31. Thiên Phúc, Hạnh Phúc Thật: Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa, 2007. 32. Thiên Phúc, Lời Gọi Yêu Thương, 30 Câu Chuyện Suy Niệm Và Cầu Nguyện, Nxb Tôn Giáo, 2011. 33. Thiên Phúc,Tình Yêu Mạnh Hơn Sự Chết, 30 Câu Chuyện Suy Niệm Và Cầu Nguyện, NxbTôn Giáo, 2011.
34. Thiên Phúc, Nữ Thánh Giữa Đời Thường. 30 Câu Chuyện, Suy Niệm và Cầu Nguyện, 1997. 35. Michel Rondet S.J., Lời Thì Thầm Của Chúa Hay Những Nẻo Đường Khác Nhau Trong Hành Trình Tâm Linh, Nxb Tôn Giáo. Chuyển ngữ: Lm. Đặng Xuân Thành. 36. Joseph Raszinger, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI, Thiên Chúa và Trần Thế, Nxb Tôn Giáo, 2011. Người dịch. Phạm Hồng Lam. 37. Stan Rougier, Những Cuộc Hẹn Của Thiên Chúa, 2013. Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết. 38. M. Vinh sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Sáng Tạo và Quan Phòng, Đan Viện Phước Lý, 2012. 39. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, Lm. Giuse Nguyễn Hữu An, Lm. Fx Vũ Phan Long, Jac. Vũ Thế Hanh, Hậu Nhi, Hoa Trang, Tuấn Anh, Đức Giêsu Với Cái Chết. 40. Xavier Thevenot. Tội Lỗi Trình Bày Về Tội Cho Con Người Hôm Nay, Nxb Tôn Giáo, 2008. 41. Xavier Thévenot, Đau Khổ Và Hạnh Phúc, Nxb Tôn Giáo, 2008.
42. Nguyễn Đăng Trực, Lý Học Về Thượng Đế, Học Viện Đa Minh. 43. Lm. Le Ba Tu, Gương Chúa Giêsu, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2009.
44. Lm. Antôn Nguyễn Văn Tuyên DCCT, Ý Nghĩa Sự Đau Khổ, 2003. 45. Gioan Phaolô II, Là Tất Cả Trong Mọi Sự, Đaminh Cao Tấn Tĩnh dịch.
46. Hoc Thuyết: Con Đường Nhỏ Yêu Thương, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, 2011. Gia Đình Têrêsa.
47. Thiên Chúa Là Cha Và Là Đấng Tạo Thành, Giáo Lý Dựa Trên Kinh Tin Kính Do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Chuyển Ngữ : Nguyễn Đức Tuyên, Ngưỡng Nhân Ấu Nhi.
48. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP, Cuộc Sống Tròn Đầy, Nxb Tôn Giáo, 2009. 49. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sự Triết Học Tây Phương, Học Viện Đa Minh, 1998, tâp 2. 50. Hương Việt, Tôi Tin Có Một Thiên Chúa.Quyển II, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2006.
51.Hương Việt. Truyện Các Thánh, quyển III, tháng 7,8,9. Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2008. 52. John Na Vone, S.J. Thất Bại Và Tình Yêu. Những suy tu thần học về sự thất bại, Nxb Tôn Giáo, 2009. Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist Chuyển ngữ.
84
53. Herbert Vorgrimler, dẫn nhập, tuyển chọn và giới thiệu trong bộ Texte Zur Theologie Dogmatik, Thiên Chúa Luận Qua Các Tác Giả. 54. Paul Jaegher. S.J, Đức Ái. Chuyển ngữ. Lm. Bênađô Maria, C.M.C. 55. Tác giả: Guy Joal, Tình Yêu và Đau khổ, Nxb Tôn Giáo, 2007. Chuyển Dịch: Trần Khánh Hưng, AA. 56. Mauric Zundel. Lắng Nghe Tiếng Nói Của Thinh Lặng. Uỷ ban đoàn kết công giáo TPHCM, 1993. Dịch Giả: nữ tu Nguyễn Thị Chung. 57. Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển 1, Nxb Tôn Giáo, 2008.
58. Các Bài Đọc Kinh Sách. Quyển 2, Mùa Thường Niên, tuần VI- XXXIV. Bản dịch do: Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ thực hiện. Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2008.
59. Con Người Và Những Vấn Đề Của Con Người Trong Ánh Sáng Đức Kitô (Lưu hành nội bộ).
60. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Dám Đối Diện. Số 9, 2010.
61. Dân Chúa Ngày Nay, số 113. 62. Di NgônCha Biển Đức Thuận (Hội Dòng Xitô Thánh Gia).
63. Đây Là Những Người Lấy Sự Đau Khổ Làm Niềm Vui: Họ Ham Mê Sự Đau Khổ Và Cố Tình Làm Cho Thân Thể Bị Đau Đớn.
64. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Giáo hoàng học viện Pio X dịch, 1974. 65. Đức Ái Ngọt Ngào. Đan Viện Phước Sơn, Những Bài Tĩnh Tâm Năm, 2010 (Lưu hành nội bộ). 66. Dân Chúa Ngày Nay, Đứng Gần Thập Giá Chúa Giêsu, số 106 (Lưu hành nội bộ). 67. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
68. Công đồng Vatican II, hiến chế Lumen Gentium. 69. Giải Thích Thần Học. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Tạo Thành, 1996.
71. Thiên Phúc, Nữ Thánh Giữa Đời Thường. 30 Câu Chuyện, Suy Niệm và Cầu Nguyện, 1997. 72. Tài Liệu Học Tập Năm Thánh Phaolô, số 2. 73. Những Trái Khuấy Và Đôi Lời Góp Ý Về Đời Sống Tu Trì, số 24.
74. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiên Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Thử Thách. số 7, 2009.
75. Trích trong bài “Tình Yêu Thầm Lặng Của Người Cha”. 76. Tội Lỗi Đau Khổ Theo Cựu Ước.
77. Đức Thánh Cha Phaolô II, Tông Thư Salvifici Doloris (Ý Nghĩa Đau Khổ Theo Kitô Giáo), 1984.
78. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt Giống Chiêm Niệm, Nội San Linh Đạo Đan Tu, Trên Nền Tảng Đức Kitô, số 10, 2011.