1 HOÏC VIEÄN HOÄI DOØNG XITOÂ THAÙNH GIA Nieân Khoaù 2011-2015 MẦU NHIỆM CÁC THÁNH HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI LUAÄN VAÊN TOÁT NGHIEÄP Sinh viên thực hiện: M. Montfort Chu Văn Toàn Giáo sư hướng dẫn: Lm. M. Vinh Sôn Lieâm Nguyeãn Hoàng Thanh Ñan Vieän Thaùnh Maãu Phước Sơn 2015
93
Embed
hoidongxitothanhgia.comhoidongxitothanhgia.com/upload/file/Toàn - Màu nhiệm các... · 2 Lời tri ân “Uống nước nhớ nguồn Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Trong
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
HOÏC VIEÄN HOÄI DOØNG XITOÂ THAÙNH GIA Nieân Khoaù 2011-2015
MẦU NHIỆM CÁC THÁNH
HIỆP THÔNG
TRONG GIÁO HỘI
LUAÄN VAÊN TOÁT NGHIEÄP
Sinh viên thực hiện: M. Montfort Chu Văn Toàn
Giáo sư hướng dẫn:
Lm. M. Vinh Sôn Lieâm Nguyeãn Hoàng Thanh
Ñan Vieän Thaùnh Maãu Phước Sơn
2015
2
Lời tri ân
“Uống nước nhớ nguồn
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Trong tâm tình tri ân cảm tạ, con xin nói lên tấm lòng biết ơn đến:
Trước hết là tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi, và toàn thể các thánh. Nhờ chuyển cầu của Mẹ
Maria, các thánh, các linh hồn trong luyện tội, và ông bà tổ tiên mà Thiên Chúa đã đã ban cho
con biết bao ơn lành trong những năm qua: kiến thức, sức khỏe, và những ân sủng khác..., để con
hoàn thành chương trình đào tạo khoa thần học, và tiếp tục sống đời đan tu trong lòng Giáo hội.
Thứ đến, con hết lòng tri ân các Quí Viện Phụ, cách riêng Viện Phụ Gioan Thánh Giá
Lê Văn Đoàn, quí Cha, quí Thầy trong Đan Viện Thánh Mẫu Phước Sơn, đã dày công dạy
dỗ, hướng dẫn, chỉ giáo cho con trong quá trình học tập, tu luyện; nhất là đã gánh vác
những công việc của cộng đoàn, để tạo mọi điều kiện cho con có cơ hội học hỏi về những
chân lý thần học và giá trị đời tận hiến, ngõ hầu có thể dấn thân cho sứ vụ.
Tiếp theo, con xin tri ân đến Cha giám đốc, quí Cha trong Ban Giám Đốc của Học
Viện Thần Học Xitô Thánh Gia Việt Nam, đã hết mình phục vụ tận tình cho khóa học được
kết thúc tốt đẹp. Đặc biệt là cha phó giám đốc Vinh Sơn Liêm - Nguyễn Hồng Thanh, là
người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ con trong suốt thời gian làm bài luận văn này. Nhờ
công lao của cha chỉ dạy mà con đã hoàn thành luận văn một cách tốt đẹp. Con hết lòng cảm
ơn cha…. Con cũng tri ân đến Quí Giáo sư, đã tận tình truyền dạy không chỉ cung cấp kiến
thức mà còn những kinh nghiệm thiêng liêng, những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống và cả
tinh thần nhiệt tâm tông đồ.
Cách riêng trong tình huynh đệ thân thương, em cũng xin cám ơn quí anh trong khóa
học, đặc biệt là các anh cùng lớp, đã chân thành góp ý, giúp đỡ, khích lệ em trong quá trình
học tập. Nhờ đó, em mới có thành quả ngày hôm này.
Cuối cùng, con xin tri ân đến Cha Mẹ, là những người đã cưu mang và sinh thành dưỡng
dục con; cùng với tất cả anh chị em trong gia đình và nội ngoại xa gần, là những người đã tận
tình giúp đỡ con về nhiều mặt, đặc biệt là luôn đồng hành với con trong lời cầu nguyện.
Nguyện xin Thiên Chúa trả công bội hậu và chúc lành cho Quí Cha, Quí Giáo Sư, Quí
Thầy, Bố Mẹ, Anh Chị Em họ hàng nội ngoại, cùng tất cả Bạn Bè, luôn được bình an, hăng say
phụng sự Chúa và phục vụ mọi người, với một tấm lòng hiệp thông với nhau trong Chúa Ki-tô.
Con xin chân thành cám ơn!
Đà Lạt ngày 25/3/2015
M. Montfort – Chu Văn Toàn.
3
Nhận xét của giáo sư hướng dẫn
Hội thánh là mầu nhiệm hiệp thông. Sự hiệp thông này bắt nguồn từ mầu nhiệm
Chúa Ba Ngôi và được diễn tả ra trong mọi chiều kích của đời sống Giáo hội và của mỗi
người kitô hữu. Đặc biệt là qua ba trạng thái của Giáo hội: Vinh thắng, Lữ hành và Thanh
luyện. Với đề tài «Mầu nhiệm các thánh hiệp thông trong Giáo hội», nghiên cứu sinh đã
diễn tả được mọi chiều kích của sự hiệp thông trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Hội thánh
một cách sâu rộng và khá thuyết phục.
Tiểu luận của sinh viên gồm 4 chương. Lời mở và kết luận, sinh viên viết khá hay
vì đã giới thiệu được nội dung của đề tài và tóm tắt được những gì sinh viên đã trình bày
trong bài nghiên cứu.
Chương I, trình bày khá rõ ràng về khái niệm các thánh hiệp thông và ý nghĩa của
sự hiệp thông này.
Chương II, nói về ba trạng thái của Hội thánh theo mặc khải Kinh Thánh, truyền
thống Giáo hội và suy tư thần học.
Chương III, triển khai sâu rộng các khía cạnh của mầu nhiệm các thánh hiệp thông
trong Hội thánh. Mầu nhiệm hiệp thông này khởi đi từ mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi
Thiên Chúa, như là nguồn cội và là khuôn mẫu hiệp thông của Giáo hội Lữ hành, Khải
hoàn và Thanh luyện. Chương này sinh viên viết khá hay.
Chương IV, đưa ra những dẫn chứng cụ thể của đan sĩ sống mầu nhiệm hiệp thông
trong mọi sinh họat hằng ngày, đặc biệt là trong phụng vụ thánh lễ, trong các giờ kinh
nguyện, trong lao tác và trong các việc đạo đức khác nhau.
Nhìn chung, nghiên cứu sinh đã hoàn thành tiểu luận của mình khá suất sắc. Bài
viết có nghiên cứu sâu rộng, trích dẫn nhiều nguồn tại liệu khác nhau một cách rõ ràng
minh bạch theo phương pháp nghiên cứu biên soạn. Sinh viên cũng có khả năng lập luận,
và diễn tả tư tưởng tốt. Bài viết có sự liên kết mạch lạc giữa các phần với nhau. Đọc tiểu
luận của sinh viên, độc giả sẽ thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc sống hiệp
thông trong mầu nhiệm Giáo hội, cũng như trong cuộc sống của kitô hữu, đặc biệt là của
mỗi đan sĩ. Nhờ sống mầu nhiệm hiệp thông mà Hội thánh được hiệp nhất trong một thân
mình mầu nhiệm, và hồng ân cứu độ của Thiên Chúa đến với con người.
Chương III: Mầu Nhiệm Các Thánh Hiệp Thông Trong Giáo Hội .............................................. 44
I. Ba Ngôi Là Khuôn Mẫu Của Sự Hiệp Thông ................................................................................. 44
1. Mối hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa ................................................................................. 44
2. Ba Ngôi hiệp thông với nhau nhờ sự trao ban tình yêu ............................................................... 46
3. Giáo hội hiệp thông bắt nguồn từ Ba Ngôi ................................................................................. 46
II. Hiệp Thông Giữa Các Thành Phần Trong Giáo Hội Lữ Hành ........................................................ 48
1. Hiệp thông trong phẩm trật ........................................................................................................ 48
2. Hiệp thông trong thân thể .......................................................................................................... 50
3. Hiệp thông trong liên đới ........................................................................................................... 51
3.1. Lời cầu nguyện cho nhau .................................................................................................... 51
3.2. Nhường công phúc cho người khác ..................................................................................... 53
3.3. Đền tội thay cho người khác ............................................................................................... 53
III. Giáo Hội Lữ Hành Hiệp Thông Với Giáo Hội Vinh Thắng ........................................................... 55
1. Sự tôn kính và kêu cầu các thánh ............................................................................................... 55
2. Các thánh chuyển cầu ơn Chúa xuống cho Giáo hội lữ hành ...................................................... 58
3. Đức Maria trung gian của hiệp thông ......................................................................................... 59
IV. Ba Trạng Thái Của Giáo Hội Hiệp Thông Với Nhau .................................................................... 60
1. Giáo hội lữ hành hiệp thông với Giáo hội thanh luyện ............................................................... 61
2. Giáo hội Thanh luyện hiệp thông với Giáo hội Lữ hành ............................................................. 64
3. Các thánh trên trời cầu bầu cho các linh hồn ở luyện tội............................................................. 65
4. Đức Maria an ủi và giải thoát các linh hồn ở luyện tội ............................................................... 66
Chương IV: Đan Sĩ Sống Mầu Nhiệm Các Thánh Hiệp Thông .................................................... 69
I. Hiệp Thông Qua Các bí tích Và Thánh Lễ ...................................................................................... 69
1. Hiệp thông qua các bí tích ......................................................................................................... 69
2. Hiệp thông qua Thánh lễ ........................................................................................................... 72
II. Hiệp Thông Qua Giờ Kinh Phụng Vụ ........................................................................................... 77
1. Hợp với các thánh trên trời ca ngợi Thiên Chúa ......................................................................... 77
2. Chuyển cầu muôn ơn lành xuống cho nhân loại ......................................................................... 78
3. Chuyển cầu cho các linh hồn đang còn thanh luyện ................................................................... 80
III. Hiệp Thông Qua Lao Động Và Các Việc Đạo Đức Khác ............................................................. 81
1. Hiệp thông qua lao động ............................................................................................................ 81
1.1. Đan sĩ lao động theo gương Chúa Giê-su, các Tổ phụ và các thánh ..................................... 82
1.2. Đan sĩ lao động để đền tội, giúp ích cho các linh hồn .......................................................... 83
2. Những việc đạo đức khác .......................................................................................................... 84
2.1 Đi đàng Thánh giá ............................................................................................................... 84
2.2 Viếng nghĩa trang ................................................................................................................ 86
Kết luận: .......................................................................................................................................... 88
Sách Tham Khảo ............................................................................................................................. 92
6
Dẫn nhập
John Donne đã để lại câu nói về sự tương quan giữa con người với nhau: “No man
is an island” – “Không ai là một hòn đảo” 1. Con người được sinh ra là để sống cùng, sống
với, sống cho và sống vì. Quả thật, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh
Thiên Chúa và đặt con người vào trong mối tương quan liên vị, tình yêu, hiệp thông với
Thiên Chúa, với thiên nhiên vạn vật và với nhau. Tuy nhiên, khi phạm tội con người đã
phá vỡ mối tương quan hiệp thông thủa ban đầu. Con người không thể tự hàn gắn, mà còn
gây hấn và chia rẽ nhau. Thiên Chúa là tình yêu, cũng là Thiên Chúa của tương quan liên
vị, Ngài không đành để cho con người đi vào cõi diệt vong. Vì yêu con người, Ngài đã sai
con mình đến thế gian để khai thông lại mối tương quan hiệp thông thủa ban đầu, và đưa
con người đi vào trong sự hiệp thông trọn vẹn với sự sống và tình yêu Thiên Chúa. Cũng
chính nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa mà con người lại được thông giao với nhau và với
vạn vật. Có thể nói cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là khuôn mẫu của sự tương quan hiệp
thông: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với
nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Cộng đoàn
kiểu mẫu đó nay không còn.
Thay vào đó là một xã hội đầy những mâu thuận chia rẽ, đã đánh mất sự tương
quan hiệp thông. Chúng ta đang sống trong một thời đại mạng truyền thông internet bùng
nổ, với việc trao đổi thông tin trở nên nhanh và dễ hơn. Tuy nhiên, dù internet có khả năng
rút ngắn khoảng cách toàn cầu nhưng lại đẩy ngõ hàng xóm ra quá xa, ở cùng một chung
cư, một xóm, một khu phố mà không ai biết ai. Tương quan tình làng xóm vốn là truyền
thống tốt đẹp nay đã mai một. Qủa thật, sự hiệp thông đang bị báo động. Chiến tranh,
khủng bố nổi lên khắp nơi trên thế giới. Điển hình biến cố khủng khiếp vào ngày 11 tháng
9 năm 2001 tại New York đã làm “rung động” cả thế giới. Từ đó đã mở màn cho làn sóng
khủng bố, chiến tranh khắp nơi. Mới đây lại xuất hiện nhóm khủng bố có tên là IS, làm cho
thế giới lâm vào tình trạng ngày càng bất ổn trong nhiều lãnh vực, đi đâu, đứng đâu cũng
phải cảnh giác, đề phòng. Bên cạnh đó còn xảy ra những vụ tai nạn giao thông, và nghề
nghiệp thật khủng khiếp. Cách riêng những chuyến bay hàng không được xem là an toàn
nhất, thì gần đây lại xuất hiện hàng loạt bất an. Cụ thể chuyến bay QZ 8501 từ Surabaya,
Indonesia sang Singapore với 162 người trên khoang đã bị tai nạn chết chìm dưới đáy biển
vào ngày 28 tháng 12 năm 2014. Qua đó cho chúng ta thấy sự sống thật mong manh, cái
chết đến một cách bất ngờ, cướp đi những người thân yêu, chia cắt những quan hệ thân
mật, gây lên sự đau đớn, khiến chúng ta sống mãi trong sự cay đắng, vì đã đánh mất một
1 x. John R. Sách, SJ. Nhân học Ki-tô giáo, nxb Minnesota, 1991, tr. 40. Chuyển ngữ Duy Khánh, OP.
7 mối quan hệ tỏ ra đầy hứa hẹn. Một nắm đất vô tri đã ngăn cách sự tương quan hiệp thông
giữa người còn sống với người đã khuất. Sự chết dường như là dấu chấm hết.
Trước sự bế tắc và trong lúc tuyệt vọng đó thì “Mầu Nhiệm Các Thánh Hiệp
Thông” đã thắp lên cho chúng ta một ngôi sao hy vọng. Với niềm tin của Ki-tô Giáo về sự
hiệp thông các thánh: chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống cũng như Chúa
của kẻ chết, hay nói đúng hơn, Người là Thiên Chúa hằng sống (x. Mt 22,31-32). Bởi vậy,
những người đã chết đối chúng ta chỉ là vắng bóng ở đời này, nhưng vẫn hiện hữu, vẫn
sống trong vương quốc của Thiên Chúa và chúng ta có thể hiệp thông với nhau2. Cách
riêng với đời sống tâm linh, chúng ta cảm nhận được các ngài luôn ở bên và sống mãi nơi
cung lòng ta. Nắm đất vô tri kia tưởng chừng như đã ngăn cách sự tương quan giữa người
sống và kẻ chết, thì giờ đây đã được khai mở. Bởi vì nơi đề tài của luận văn về: “Mầu
Nhiệm Các Thánh Hiệp Thông” nói lên một mối tương quan hiệp thông mật thiết giữa
người còn sống với người đã khuất. Quả thật, Giáo hội Công giáo dành riêng tháng 11 để
cầu nguyện, hiệp thông với các đẳng linh hồn. Có thể nói “tháng 11 là tháng Âm Dương
hội ngộ, tháng mà kẻ sống kẻ chết có cơ hội gặp nhau nhiều hơn trong niềm tin và lòng yêu
mến”3. Sự hiệp thông này không dừng lại ở đó, nhưng còn được thể hiện nơi Thánh lễ mỗi
ngày trên toàn cầu đều nhớ đến những người đã an giấc ngàn thu.
Chính vì thế, lý do và mục đích của người viết chọn đề tài này trước hết là cho bản
thân xác tín niềm tin vào sự hiệp thông giữa người còn sống với những người đã qua đời.
Sau đó, là muốn nói cho những người đã đánh mất niềm tin vào sự hiệp thông với những
người thân yêu đã ra đi trước, nhận thấy rằng: không có gì tách được chúng ta với những
người thân yêu, cho dù chiến tranh, khủng bố, tai nạn... Ngay cả cái chết cũng không thể
cắt đứt sự tương quan đó được. Bởi vì, chúng ta với các ngài có một mối liên hệ mật thiết
trong tình yêu và sự hiệp thông trong các thánh. Còn chúng ta những người đang còn tại
thế, hãy mang sự hiện diện của những người đã khuất trong chính sự hiện diện của mình.
Nói cách khác bằng chính cuộc sống của mình, chúng ta hãy làm cho ông bà, cha mẹ, tổ
tiên, anh chị em và bạn hữu của chúng ta được tiếp tục hiện diện. Cũng như chúng ta có
trách nhiệm trở nên “hình ảnh sống động” của chính Chúa Ki-tô.
Thật vậy, vì là “hiện thân” và có sự hiệp thông mật thiết với Đức Ki-tô, nên các ki-
tô hữu đang còn sống ở đời này và những người đang ở bên kia thế giới được gọi là “các
thánh hiệp thông”. Điều này sẽ được làm sáng tỏ hơn ở chương thứ nhất của luận văn về
“Ý Niệm Các Thánh Hiệp Thông”. Chương mở đầu này sẽ cho ta biết thuật ngữ về “các
2 Chia sẻ số 28 Nội san Liên Tu sĩ Tp. HCM, Các thánh thông công, sự hiệp thông trong Hội thánh và trong
cộng đoàn tu trì, tháng 11-2000, tr. 4. 3 Chia sẻ số 28 Nội san Liên Tu sĩ Tp. HCM, Các thánh thông công, sự hiệp thông trong Hội Thánh và trong
cộng đoàn tu trì, tháng 11-2000, tr. 3.
8 thánh” và sự “hiệp thông” là gì? Và ý nghĩa hiệp thông ra sao? Hạn từ “các thánh” sẽ
mang một ý nghĩa phổ quát, chứ không phải chỉ dừng lại các thánh ở trên Thiên đàng
(thuộc Giáo hội Khải hoàn) mà bấy lâu nay chúng ta hiểu. Nhưng là trở về ý nghĩa nguyên
thủy mà thánh Phao-lô thường dùng khi viết thư hỏi thăm các giáo đoàn của ngài là “dân
thánh…”, cho nên các tín hữu còn sống (Giáo hội Lữ hành), và những người đã qua đời
(Giáo hội Thanh luyện) cũng được gọi là thánh, vì đã liên kết trong Đức Ki-tô. Những
thành phần đó được Giáo lý Hội thánh Công giáo gọi là ba trạng thái của Giáo hội.
Trong chương thứ hai của luận văn, sẽ tìm hiểu sự hiện hữu của “Ba Trạng Thái Của
Giáo Hội”. Trước hết là Giáo hội lữ hành, có nguồn gốc hình thành như thế nào? Và có
những đặc tính gì? Sau đó là sự hiện hữu của Giáo hội Thanh luyện. Và cuối cùng là Giáo
hội Khải hoàn, có nền tảng Kinh Thánh, quan điểm của Giáo hội và suy tư thần học ra sao?
Sau khi nêu lên sự hiện hữu của ba trạng thái của Giáo hội, qua chương thứ ba
người viết trình bày về “Sự Hiệp Thông Giữa Ba Trạng Thái” đó với nhau, nhưng hiệp
thông như thế nào? Có thể nói đây là phần trọng tâm của đề tài luận văn này. Sự hiệp thông
này có nguồn gốc và theo khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi có một sự tương quan
hiệp thông mật thiết nhờ vào sự trao ban tình yêu trào tràn. Từ đó, các thành phần của Giáo
hội hiệp thông qua việc cầu nguyện, cầu bầu cùng Chúa cho nhau, tạo nên một mối dây
hiệp thông giữa người còn sống với những người đã qua đời, cho dù đã vào Thiên đàng
hay đang còn chịu thanh luyện. Quả thật, hiệp thông vốn là bản chất của Giáo hội. Do đó,
mọi thành phần của Giáo hội tích cực thể hiện sự hiệp thông này ở giữa trần gian, để thắp
lên một niềm hy vọng cho thời đại hôm nay.
Như vậy, có thể nói rằng các đan sĩ cũng là thành phần của Giáo hội, vì thế phải
thực sự là con người hiệp thông, nghĩa là tiếp nhận và thể hiện sự hiệp thông trong cuộc
sống4. Chính vì thế, trong chương cuối cùng của luận văn này sẽ cho ta biết các “Đan Sĩ
Sống Mầu Nhiệm Các Thánh Hiệp Thông” một các cụ thể. Từ những công việc hằng ngày:
bắt đầu bằng phụng vụ các bí tích và giờ kinh, cho đến những công việc lao công vất vả để
diễn tả sự hiệp thông sâu xa. Bởi chưng những việc đó Chúa Giê-su, Mẹ Maria và các
thánh xưa nay cũng làm. Nay các đan sĩ đang sống mối tình hiệp thông của các ngài, và
được thể hiện ngang qua cuộc sống của người đan sĩ.
Có thể nói, tựa đề của luận văn: “Mầu Nhiệm Các Thánh Hiệp Thông Trong Giáo
Hội” là một chủ đề khá quen thuộc vì đã có từ lâu, bắt nguồn từ Truyền thống các Tông đồ.
Vì đề tài rất sâu rộng, khả năng của người viết lại giới hạn, nên không thể nào triển khai
hết mọi khía cạnh lịch sử, cũng như ý nghĩa và mọi vấn đề được. Bởi vậy, người viết chỉ
4 x. Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, Hạt giống chiêm niệm - Nội san linh đạo Đan tu: Trong lòng Giáo
hội, số 8, tháng 1 năm 2010, tr. 33.
9 dừng lại ở khía cạnh Ba Trạng Thái của Giáo hội để nói lên sự hiệp thông với nhau, ngõ
hầu có thể đem áp dụng vào cuộc sống của đời đan sĩ.
Những gì sẽ trình bày trong đề luận này, không phải là những khám phá mới mẻ,
nhưng chỉ là tổng hợp những nguồn tài liệu khác nhau mà người viết đã dày công tìm hiểu
trên sách vở ngang qua các tác giả đã đi trước, cộng với chút kinh nghiệm thực tế của cuộc
sống hằng ngày mà bản thân đã và đang thực hiện. Từ đó người viết tổng hợp lại và đưa
vào những dẫn chứng cụ thể, nhằm triển khai đề tài một cách mạch lạc, có thể giúp cho độc
giả vượt qua những khó khăn khi nhận thấy mình cô đơn, thất vọng trước những mất mát
của người thân. Để hiểu rõ từng vấn đề của ‘các thánh hiệp thông’ hơn, chúng ta cần tìm
hiểu nội dung của bài luận văn này.
10
Chương I:
Ý Niệm Các Thánh Hiệp Thông Khi nói ý niệm các thánh hiệp thông là muốn nói đến một thuộc tính khác của Giáo
hội, mọi phần tử trong Giáo hội đều liên đới, hiệp thông với nhau. Vì vậy, trước hết ta cần
tìm hiểu ý niệm các thánh hiệp thông. Sau đó trình bày ý nghĩa của sự hiệp thông các thánh.
I. Thuật ngữ các thánh hiệp thông
Để hiểu rõ thuật ngữ hay ý niệm các thánh hiệp thông, trước hết chúng ta cần tìm
hiểu “các thánh” nghĩa là gì? Kinh thánh đã nói gì về hạn từ “thánh” và các thánh gồm
những ai? Thứ đến là tìm hiểu về “hiệp thông”. Cối cùng, sau khi đã hiểu rõ “các thánh”
và “hiệp thông” là gì, chúng ta sẽ rút ra một vài định nghĩa về các thánh hiệp thông. Vậy,
các thánh nghĩa là gì?
1. Thuật ngữ các thánh
Hầu hết các tôn giáo đều biết đến khái niệm thánh. Ý niệm “thánh” bao gồm hai yếu tố chủ
chốt là: tách biệt và thanh khiết. Điều này đã được Kinh thánh triển khai cho chúng ta.
Cựu ước gọi “thánh” là những điều được tách ra khỏi thế tục để dành riêng cho Thiên
Chúa, và vì thế được tham dự vào đặc tính “thánh” của Thiên Chúa. Bởi tự bản tính, Thiên Chúa
là thánh, nghĩa là hoàn toàn khác với thế gian, nên “sự thánh” là chính Giavê. Israel là dân thánh
vì đã được Giavê chọn để dành riêng cho Người. Vậy, “thánh” mang ý nghĩa tương tự như
“được chọn”. Thiên Chúa đã chọn họ, tựa như đã sinh họ ra làm con cái, nên họ được thông phần
bản tính của Người (x. Đnl 14, 1-2). Vì họ là thánh, tức là được dành riêng cho Chúa, nên họ phải
trở nên thánh5. Như vậy, trong Cựu ước khi dùng “thánh” đi một mình có nghĩa đặc biệt: là để chỉ
những kẻ được tuyển chọn thời cánh chung6.
Tân ước quan niệm sự thánh trong ánh sáng của kinh nghiệm phục sinh và của mạc khải về
sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa là “Cha thánh” (Ga 17, 11), đã hết lòng yêu loài người (x.
Ga 3, 16; 13, 1). Giữa dòng lịch sử, dân mới của Chúa phải làm cho sự thánh ấy lan tỏa trong khắp
thế giới: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi
anh em...” (1Pr 1, 15-16). Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa chí thánh, là “Đấng Thánh của
Thiên Chúa” (Mc 1, 24), vì Ngài được đầy Thần Khí (x. Lc 4, 18). Đức Giêsu là thánh vì được thụ
thai bởi Thánh Thần (x. Lc 1, 35), vì hoạt động nhờ sức của Thần Khí (x. Mt 12, 28). Đức Giê-su là
thánh vì Ngài là một với Cha thánh (x. Ga 10, 30), vì Ngài là Thiên Chúa chí thánh (x. Ga 20, 28).
“Thánh” là biệt hiệu đặc trưng của Thần Khí, được gọi là “Thánh Thần”. Không được
Thần Khí thánh hóa, thì chẳng có gì và không một ai là “thánh” cả. Như ở tại sông Giođan, Thần 5 x. Filipe Gomez, Giáo hội học, thần học tín lý 2, nxb An tôn và Đuốc sáng, 2002, tr. 232. 6 x. Điển ngữ Thần học Thánh Kinh, M-Y, IV, bản dịch Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh Pio
X Đà lạt- Việt Nam, nxb Hạnh phúc, 1974, tr. 45.
11 Khí ngự xuống trên Đức Giêsu để khai mở sứ mạng, thì ngày Lễ Ngũ tuần, Thần Khí cũng đã
xuống trên Giáo hội sơ khai (x. Cv 2, 3-4). Mục đích sứ mạng của Thánh Thần là thông truyền
cho loài người sự sống thánh thiện của Ngôi Cha và Ngôi Con7. Do đó, khi lãnh bí tích rửa tội
các ki-tô hữu được gọi là thánh. Vì đã thông hiệp trọn vẹn sự thánh thiện của Thiên Chúa
Ba Ngôi. Vì vậy, đến thời Tân ước “thánh” được chỉ tất cả ki-tô hữu. Bởi nhờ Chúa Thánh
Thần, ki-tô hữu tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Hơn nữa sự thánh thiện của
ki-tô hữu bắt nguồn từ việc tuyển chọn, nên đòi buộc phải đoạn tuyệt với tội lỗi để hành
động theo sự thánh thiện đến từ Thiên Chúa, chứ không phải theo sự khôn ngoan xác thịt8.
Như thế, những ki-tô hữu còn sống hay đã qua đời đều được gọi là thánh. Điều này đã
được linh mục Phan Tấn Thành phân tích chữ “sanctorum” có ba lối giải thích khác nhau.
Thường chúng ta hiểu “santi” là các thánh. Là những người thánh thiện nhân đức, các
thánh nhân ở trên trời. Hai là sự hiệp thông của các tín hữu với nhau. Bởi vì trong các thư
gởi các giáo đoàn, thánh Phaolo đã nhiều lần gọi tất cả các tín hữu là các thánh. Thứ ba là
hiệp thông trong sự thánh (sancta), tức là những bí tích. Chữ “thánh” gồm cả ba ý nghĩa
này. Cả ba cùng bổ túc cho nhau để làm sáng tỏ hơn bản chất của Giáo hội9. Bởi vì,
“thánh” là thuộc từ đầu tiên được gán cho danh từ Giáo hội trong truyền thống. Từ thế kỷ
thứ hai trong thư gởi cho cộng đoàn Trailles thánh Inhaxio Antiokia gọi Giáo hội là
thánh10. Thật thế, “các thánh” ở đây là danh từ để gọi chung các thánh trên Trời, các linh
hồn trong luyện ngục và mọi người tin theo Đức Ki-tô đang còn sống. Các thánh vì cùng
một thân thể Đức Ki-tô, cùng một gia đình Đức Ki-tô, cùng một “huyết thống” với Đức Ki-
tô, cùng trong một Giáo hội duy nhất của Đức Ki-tô nên không ngừng hiệp thông, hiệp ý,
hiệp lòng, hiệp lực với nhau trong Đức Ki-tô. Các thánh cùng chung một đức tin, một đức
mến, một lòng trông cậy, nên cảm nghiệm chung những cố gắn, thành công, hạnh phúc, đồng
thời cảm thông những yếu đuối, vấp ngã của nhau11.
Như vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng chí thánh, khi các ki-tô hữu thông hiệp với
Thiên Chúa Ba Ngôi cũng được gọi là thánh, cho dù đang còn sống hay đã qua đời được
hưởng tôn nhan Chúa hay đang còn thanh luyện. Hạn từ “thánh” ở đây phải hiểu nghĩa
rộng và nghĩa nguyên thủy từ trong Tân ước, có nghĩa là tất cả các tín hữu còn sống cũng
như đã qua đời đang còn thanh luyện hay đã được hưởng tôn nhan Chúa đều hiệp thông
với nhau. Nhưng hiệp thông là gì và hiệp thông như thế nào?
7 x. Filipe Gomez, Giáo hội học, thần học tín lý 2, nxb An tôn và Đuốc sáng, 2002, tr. 233. 8 x. Điển ngữ Thần học Thánh Kinh, M-Y, IV, bản dịch Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh Pio X
Đà lạt- Việt Nam, nxb Hạnh phúc, 1974, tr. 45-46. 9 x. Lm. Phan Tấn Thành, Hiểu để sống đức tin, tập 1, Học viện Đaminh, 2009, tr. 367-368. 10 x. Filipe Gomez, Giáo hội học, thần học tín lý 2, nxb An tôn và Đuốc sáng, 2002, tr. 231. 11 Jorthe Nắng Tím, Những người lữ hành hạnh phúc, tập 3: Vòng tay đời đời, nxb Tôn giáo 2012, tr. 86.
12
2. Thuật ngữ hiệp thông
Theo từ điển Công giáo: “Hiệp” là chung nhau; “Thông” là cùng nhau hòa hợp. Hiệp
thông là hai bên hòa hợp với nhau. Sự hiệp thông có gốc tiếng Hy lạp là “Koinonia”, nghĩa là
tình anh em bằng hữu, sự chia sẻ, dự phần vào12. Như thế, hiệp thông chính là vừa hiệp vừa
thông, thông truyền sự sống, sự thánh thiện, ân sủng cho nhau. Hiệp thông như cành và thân
cây mà có lần Chúa Giê-su đã nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và
Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Đây chính là hình ảnh
Kinh Thánh dùng để diễn tả sự hiệp thông.
Trong Tân ước dùng từ Koinonia 19 lần “để diễn tả những tương quan giữa người
ki-tô hữu với Thiên Chúa thật được Đức Kitô mặc khải, và mối tương quan giữa các tín
hữu với nhau13. Sự hiệp thông này phát xuất và đặt nền tảng trên sự hiệp thông thần linh
của chính Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”14. Thiên Chúa
mời gọi con người tới kết hợp với Ngài. Ngay từ lúc mới sinh ra, con người được mời gọi
đối thoại với Thiên Chúa. Thế nhưng tội lỗi đã phá vỡ sự hiệp thông đó. Chính vì thế,
Thiên Chúa đã ban con của Ngài là Đức Kitô đến hiến mạng sống mình làm giá chuộc tội
lỗi con người. Đức Ki-tô chính “là hy tế của giao ước mới cho con người hiệp thông lại với
Thiên Chúa”15. Hiệp thông với Thiên Chúa thì cũng hiệp thông với Đức Kitô qua việc
thông phần những đau khổ của Ngài (x. Pl 3,10), và qua lễ bẻ bánh. Bởi đó là hành động
“dự phần vào Thân Thể Ngài” (x.1Cr 10,6), nhờ ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần (x.
2Cr 13,13). Đó là sự thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi được coi là chiều dọc. Còn hiệp
thông chiều ngang là giữa các tín hữu với nhau. Các tín hữu hiệp thông với nhau về cả tinh
thần cũng như vật chất: “các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp
thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).
Để diễn đạt hiệp thông, các giáo phụ Hy lạp đã dùng từ “Koinonia” để ám chỉ bữa tiệc
Thánh thể. Còn ở Tây phương, nhất là thánh Augustino thì dùng “Communio”, có ý liên tưởng đến
Giáo hội16. Giáo hội là dấu chỉ hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người. Bởi vì sự hiệp thông
giữa con người với nhau bắt nguồn từ sự kết hiệp với Thiên Chúa17.
Như vậy, ta có thể dùng hai từ Koinonia và Communio để nói về hiệp thông. Hiệp
thông có hai ý nghĩa: hiệp thông chiều dọc là giữa con người với Thiên Chúa. Hiệp thông
12 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam- Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Từ điển Công giáo, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 158. 13 x. Điển ngữ Thần học Thánh kinh, A-L, II, bản dịch Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh Pio X
Đà lạt- Việt Nam, nxb Hạnh phúc, 1974, tr. 191. 14 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Từ điển Công giáo, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 158. 15 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 613. 16 Filipe Gomez, Giáo hội học, thần học tín lý 2, nxb An tôn và Đuốc sáng, 2002, tr. 354. 17 x. Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 775.
13 chiều ngang là giữa con người với nhau, đồng thời là mối dây liên kết tất cả các ki-tô hữu
còn sống cũng như đã qua đời đang còn thanh luyện hay đã được lên trời.
3. Khái niệm các thánh hiệp thông
Sau khi tìm hiểu rõ về thuật ngữ “các thánh” và “hiệp thông”, giờ đây ta có thể rút ra một vài
khái niệm về các thánh hiệp thông. Theo tiếng Việt chúng ta gọi là “các thánh hiệp thông”, nhưng
theo nguyên bản tiếng Latinh thì nói ngược lại: “sự hiệp thông các thánh” (Communio Sanctorum).
Communio Sanctorum có thể hiểu là tất cả các tín hữu (tức là các thánh nhân) họp thành một sự
thông hiệp, một gia đình. Hoặc có thể hiểu là các tín hữu tại thế này thông hiệp với các thánh nhân
trên trời, hoặc các linh hồn nơi luyện tội18. Trong Hội thánh mọi phần tử đều thông hiệp với nhau.
Theo nghĩa rộng Hội thánh bao gồm mọi người đã được cứu chuộc và thánh hóa nhờ ân sủng Chúa
Ki-tô, hoặc ở dưới thế, trong lửa luyện tội hay đã ở trên trời, họ đều hiệp thông với nhau19. Quả thật,
các thánh ở đây phải hiểu là các ki-tô hữu, thông công hay hiệp thông là chia sẻ, trao hiến cho nhau
những của cải thiêng liêng để thể hiện tình yêu hiệp thông. Của cải thiêng liêng là kho tàng đức tin, là
các bí tích. Nhất là bí tích Thánh Thể, là các đặc sủng của Chúa Thánh Thần ban để phục vụ vì ích
chung, là của cải tiền bạc để chia sẻ cho người nghèo, là tình bác ái chia sẻ vui buồn cho nhau. Các
thánh hiệp thông còn có nghĩa là các ki-tô hữu đang ở trong ba trình trạng: trên trời, dưới đất và tình
trạng thanh luyện20.
Từ điển công giáo cũng định nghĩa tương tự như thế, nhưng mở rộng hơn, nói lên sự hiệp
thông với Thiên Chúa Ba Ngôi: “Các thánh thông công là sự hiệp thông giữa các thánh, bắt nguồn
từ sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự hiệp thông này mang hai nghĩa liên kết chặt chẽ với
nhau: hiệp thông trong các thực tại thánh (sanct) và hiệp thông giữa những người thánh” (sancti)21.
Đây là điều chúng ta sẽ triển khai trong phần hai về ý nghĩa hiệp thông.
II. Ý nghĩa các thánh hiệp thông
Ý nghĩa các thánh hiệp thông là hiệp thông trong sự thánh và hiệp thông giữa những
người thánh, nhờ liên kết với nhau trong Đức Ki-tô, tức là trong ân sủng thiêng liêng.
1. Hiệp thông trong sự thánh
Hiệp thông trong sự thánh “là toàn thể dân Chúa đều thông phần vào đức tin, các
bí tích, các đặc sủng và những ân huệ thiêng liêng khác”22. Các tín hữu sẽ được thông dự
sự thánh thiện của các thánh là những chi thể chói ngời trong nhiệm thể Đức Ki-tô. Nhưng
trước hết và trên hết họ sẽ tham dự sự thánh thiện của chính Đức Ki-tô là Đầu của Hội thánh
và cũng là Đầu của các chi thể trong Hội thánh. Sự thánh thiện mà họ được hưởng nơi Đức
18 x. Lm. Phan Tấn Thành, Hiểu để sống đức tin, tập 1, Học viên Đaminh, 2009, tr. 369. 19 x. Lm. Nguyễn Văn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ, tr. 363-364. 20 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô – Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 238. 21 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin-Tiểu Ban Từ Vững, Từ điển Công giáo,
nxb Tôn giáo, 2011, tr. 39. 22 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam- Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin-Tiểu Ban Từ Vững, Sđd, tr. 39.
14 Ki-tô là hiệu lực của cuộc thương khó và công nghiệp của cuộc đời Ngài để được ơn tha thứ
tội lỗi. Rồi họ cũng tham dự sự thánh thiện của các thánh nhưng trước khi tham dự sự thánh
thiện của các vị đó, họ đã tham dự sự thánh thiện của của Hội thánh tức là các bí tích23.
Không chỉ có các bí tích làm cho các thánh hiệp thông với nhau mà thôi, sách Giáo lý còn
trình bày 5 hình thức hiệp thông như sau.
Trước hết là hiệp thông trong đức tin. Đó là đức tin mà Giáo Hội đã lãnh nhận từ
các Tông Đồ. Nó thật sự là kho tàng sự sống và kho tàng này ngày càng phong phú hơn
nhờ được chia sẻ. Sự hiệp thông này không dựa trên cảm tính mà dựa vào sự chấp nhận
sống chia sẻ trong chân lý24.
Thứ đến là hiệp thông các bí tích. Chính khi tham dự các bí tích trong Giáo hội,
mọi người đã được nối kết lại với nhau để làm nên một thân thể duy nhất trong Đức Ki-tô
Phục Sinh. Điều này sách Giáo lý đã minh chứng cho chúng ta: “Mọi người đều được
hưởng nhờ hiệu quả của các bí tích. Các bí tích kết hiệp chúng ta với nhau và với Đức Ki-
tô, đặc biệt phép thánh tẩy là cửa đón mọi người vào Hội thánh. Hiệp thông trong dân
Thánh là hiệp thông nhờ các bí tích... Bí tích nào cũng tạo sự hiệp thông, vì kết hiệp chúng
ta với Thiên Chúa... Hơn mọi bí tích khác, bí tích thánh thể đưa chúng ta vào sự hiệp thông
trọn vẹn”25. Những hoa trái ấy được chuyển ban cho mọi tín hữu qua các bí tích của Giáo
hội. Không hình ảnh nào nói lên sự chia sẻ hiệp thông này bằng nghi thức bẻ bánh hay
phụng vụ Thánh Thể mà Chúa Kitô đã thiết lập. “Ngay từ buổi sơ khai, Hội thánh đã được
đồng hóa với “cộng đoàn Thánh Thể”. Nhờ cùng chia sẻ một đức tin và thân mình duy
nhất của Đức Ki-tô mà Hội thánh rải rác khắp nơi đã họp thành Hội thánh duy nhất của
Thiên Chúa”26. Khi được liên kết với Đức Ki-tô, vị Thượng Tế tối cao, nhờ bí tích thánh
tẩy, các tín hữu được tham dự vào chức tư tế của Ngài đến nỗi dân Thiên Chúa cũng là dân
tộc trong đó mọi người là tư tế. Để phục vụ dân tư tế đó đã có chức tư tế thừa tác của các
giám mục và linh mục. Các ngài là cộng tác viên của Đức Ki-tô để ban phát Lời Chúa và
các bí tích. Dân tư tế của Thiên Chúa sẽ tiếp nối sứ vụ của Đức Ki-tô, Đấng là mục tử, là
trung gian giữa Thiên Chúa và loài người để “thâu họp mọi người tản mác khắp nơi thành
đoàn chiên duy nhất của Thiên Chúa” (Ga 11, 52) để giao hòa loài người với Thiên Chúa
và với nhau (Ep 2,13-17). Các ki-tô hữu sẽ hành xử chức tư tế ấy trong chính đời sống
mình để phúc lành của Thiên Chúa được lai láng trên mọi người27.
23 x. Thedule Rey-Mermet, Kinh tin kính, Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông biên soạn, 1990, tr. 221. 24 x. Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 949. 25 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 950. 26 Thedule Rey-Mermet, Kinh tin kính, Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông biên soạn, 1990, tr. 222. 27 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), 10-12.
15
Kế tiếp là hiệp thông các đặc sủng. Để xây dựng Giáo hội, Chúa Thánh Thần ban
phát các ân sủng đặc biệt cho các tín hữu theo bậc sống của mỗi người. “Trong sự hiệp
thông của Hội thánh, Chúa Thánh Thần “còn ban các ân sủng đặc biệt cho mọi thành
phần tín hữu...” để xây dựng Hội thánh (x. LG 12). Và “Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi
người một cách là vì ích chung” (1Cr 12,7)28. Các đặc sủng này lớn nhỏ khác nhau nhưng
tất cả vì thiện ích chung. Nghĩa là, gián tiếp hay trực tiếp, chúng được nhắm vào việc xây
dựng Giáo hội, nhằm mưu ích cho con người và đáp lại các nhu cầu của thế giới. “Với tư
cách là Ki-tô hữu, chúng ta biết rằng chúng ta không phải là những người sở hữu các điều
thánh mà chỉ là những người quản lý những ân sủng của Thiên Chúa để làm cho cộng
đoàn được hiệp nhất đồng thời cũng để phá đi những gì gây phương hại cho sự hiệp nhất
này29, hầu làm cho mọi người sống trong sự hiệp thông, liên đới với nhau.
Tiếp theo là hiệp thông của cải trần gian. Điều này thoạt nghe có vẻ lạ. Nhưng các tín
hữu tiên khởi từng làm việc này (x. Cv 4,32). Mặt khác, tài sản trong vũ trụ là dành cho tất cả
loài người. Nên tất cả những gì người ki-tô hữu có, họ phải coi đó như của chung cho họ và
mọi người. Do đó, họ phải sẵn sàng và mau mắn phân phối, chia sẻ cho người túng thiếu, bất
hạnh. Dù sao, họ cũng chỉ là người quản lý các tài sản của Chúa. Điều này giáo lý của công
giáo đã minh chứng: “Ki-tô hữu chân chính phải coi tất cả những gì mình có như là tài sản
chung của mọi người, luôn sẵn sàng và nhiệt thành cứu giúp kẻ khốn cùng”. “Ki-tô hữu là
người quản lý tài sản của Chúa” (x. Lc 16,1.3)30. Mà người quản lý thì có nhiệm vụ phân
phát của cải của Thiên Chúa cho anh em trong tình bác ái yêu thương.
Cuối cùng là hiệp thông đức ái. Thánh Phaolô đã trình bày học thuyết về Nhiệm
Thể Chúa Kitô nói lên tình liên đới khi sống cũng như khi chết. Trong mầu nhiệm các
thánh hiệp thông, chúng ta liên kết chặt chẽ với nhau. “Nếu có một bộ phận nào đau thì
mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang thì mọi bộ phận cũng vui
chung. Và anh em là thân thể Đức Ki-tô và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12,26-27).
“Đức ái không tìm tư lợi” (x. 1Cr 13,5). Mỗi việc nhỏ nhất làm trong đức ái đều hữu ích
cho mọi người, vì mọi người dù sống hay chết đều liên đới với nhau trong mầu nhiệm các
thánh hiệp thông. Mọi tội lỗi đều làm tổn thương sự hiệp thông này31. Vì thế, mọi ki-tô hữu
có bổn phận sống gắn bó mật thiết với nhau, giúp nhau trong mọi hoàn cảnh để ngày càng
thánh thiện hơn. Nhờ đó chúng ta được hiệp thông với nhau giữa những người thánh.
28 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 951 29 Thedule Rey-Mermet, Kinh tin kính, Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông biên soạn, 1990, tr. 223. 30 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 952. 31 x. Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo , 1997, s 95.
16
2. Sự hiệp thông giữa những người thánh
Như chúng ta đã bàn ở trên, “các thánh” bao gồm tất cả các ki-tô hữu còn sống ở
trần gian này hoặc đã qua đời đang còn thanh luyện hay đã được hưởng vinh phúc trên
Thiên đàng với Thiên Chúa, tất cả hiệp thông với nhau. Theo thi sĩ Rainer Maria Rilke thì
hữu thể đích thực của cây cối không phải là các nhánh bên trên mà là các rễ bên dưới. Các
rễ của cây này đâm sâu vào lòng đất tìm đan kết với các rễ của cây khác tạo nên một cuộc
đối thoại, tương giao mênh mông dưới đất. Các thánh cũng thế, chỉ có bề mặt xem ra tách
biệt nhau, nhưng kỳ thực bên trong luôn giao nhau, tạo nên một lục địa mênh mông liên
kết với nhau. Đó là hình ảnh của thế giới ơn thánh nơi con người32. Hay nói đúng hơn là sự
hiệp thông giữa những người thánh, là “mối hiệp thông giữa các thành phần của Hội thánh
tại thế với các thành phần của Hội thánh trên trời và trong Luyện ngục. Tất cả đều có thể
nâng đỡ và chuyển cầu cho nhau, liên kết với nhau thành nhiệm thể Đức Ki-tô để ca ngợi
và tôn vinh Chúa Ba Ngôi” 33. Bởi vì con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên
Chúa, lại được qui tụ trong Đức Giê-su (x. Ep 1,10) để được thông hiệp với Ba Ngôi Thiên
Chúa34. Con người không sống cho riêng mình mà sống cho và sống vì người khác để làm
cho hình ảnh Thiên Chúa rõ nét hơn nơi mình. Sống cho người khác, hiện hữu cho người
khác là mang tặng cho người khác những gì tốt đẹp nhất nơi mình và khiêm tốn lãnh nhận
và đón nhận mọi người.
Như thế, thánh nhân là người biết thực sự quên mình, làm cho mình ngày một nhỏ
bé dần đi để sống nhiều hơn cho Thiên Chúa và tha nhân theo ơn kêu gọi. Thánh Thần tình
yêu sẽ làm cho những ai đón nhận Người biết tự trao hiến chính mình, tự hủy mình ra
không cho Thiên Chúa để nên dụng cụ vừa tầm tay Người mà phục vụ anh em. Nhưng lúc
quên mình đi chính là lúc họ gặp lại chính mình với tất cả sự phong phú của một hạt lúa
chết đi để nảy sinh nhiều bông hạt35. Điều này chính Balthasar đã xác tín: “Những người
thánh thiện trong Hội thánh là những người theo gương Đức Ki-tô chỉ biết cho và cho đi
mãi. Còn những người tội lỗi là những người chỉ biết nhận. Chỉ có những người tốt và vô
vị lợi mới mang lại hoa trái còn sự dữ thì hoàn toàn vô tích sự”36. Do đó, tín điều sự hiệp
thông các thánh quả quyết rằng: kho tàng phong phú của sự thánh thiện trong Hội thánh
luôn trào tràn cho tất cả mọi người, khiến những người nhỏ bé nhất có sức nâng dậy cả thế
giới. Paul Blondel thêm rằng: chúng ta không những chỉ hiểu biết, phụng thờ và yêu mến
Thiên Chúa bằng sức riêng của mình mà còn bằng sức của tất cả mọi người, từ Đức Maria
32 x. Thedule Rey-Mermet, Kinh tin kính, Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông biên soạn 1990, tr. 224. 33 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam- Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin-Tiểu Ban Từ Vững, Từ điển Công giáo, nxb
Tôn giáo, 2011, tr. 39-40. 34 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 4. 35 x. Thedule Rey-Mermet, Kinh tin kính, Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông biên soạn, 1990, tr. 225. 36 Thedule Rey-Mermet, Sđd, tr. 227.
17 và các thánh trên trời, tới người tật phong thì thào những câu thưa trong thánh lễ với cái
miệng đã rụng mất đôi môi, những người già nua, bệnh hoạn, những kẻ bị thất sủng, bị mất
tự do, những người chỉ thấy mình là gánh nặng cho người khác, lại là những người được
Thiên Chúa chiếu cố hơn cả. Vì “kẻ nghèo kêu cứu và Chúa đã lắng nghe” (Tv 34,7)37.
Như vậy, các thánh hiệp thông với nhau, hiệp thông trong sự thánh, cùng lãnh ân
sủng như nhau và hiệp thông giữa những người thánh. Những người thánh được tập hợp
trong Hội thánh, nghĩa là hội của những người thánh. Tất cả các Ki-tô hữu được liên kết
với Đức Ki-tô đều được gọi là thánh, và tất cả được hiệp thông với nhau, từ người đầu tiên
cho đến người sau cùng được gia nhập Hội thánh. Tuy là Hội thánh duy nhất, nhưng Hội
thánh gồm các tín hữu thuộc ba trạng thái khác nhau.
37 x. Thedule Rey-Mermet, Sđd, tr. 228-229.
18
Chương II:
Ba Trạng Thái Của Giáo Hội
Khi nói đến Giáo hội ta không dừng lại ở Giáo hội lữ hành, mà còn mở rộng cả
Giáo hội Thiên quốc và Giáo hội đang còn thanh luyện, được Giáo lý Công giáo gọi là ba
trạng thái của Giáo hội. Các thánh trên trời (Giáo hội khải hoàn), các tín hữu ở dưới trần
(Giáo hội lữ hành hay chiến đấu), các linh hồn đang chịu thanh luyện (Giáo hội đau khổ)38.
Chúng ta sẽ lần lược tìm hiểu ba trạng thái của Giáo hội. Trước hết là Giáo hội lữ hành.
I. Giáo Hội Lữ Hành
Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI định nghĩa: “Giáo hội là một dân tộc lữ hành vượt qua
sa mạc trần gian đến vương quốc sự sống”39. Đức cố Hồng y Thuận nói rõ hơn: “Giáo hội là
toàn thể dân Chúa đang tiến về Nước Trời”40. Quả thật, Giáo hội là một dân tộc lữ hành, bắt đầu
từ tổ phụ Abraham cho đến những người sau cùng hiện diện ở trần gian này. Chúng ta sẽ tìm
hiểu đề mục này trước hết là nguồn gốc và tiến trình thành lập Giáo hội. Thứ đến là các đặc tính
của Giáo hội. Và cuối cùng là tìm hiểu xem Giáo hội là một dân tộc lữ hành như thế nào?
1. Nguồn gốc và tiến trình thành lập Giáo hội
Nguồn gốc của Giáo hội được bắt đầu từ khi Thiên Chúa tạo dựng con người, cụ thể
hơn là khi Thiên Chúa gọi tổ phụ Abraham bỏ họ hàng, gia tộc đi đến đất mà Thiên Chúa sẽ
chỉ cho. Nhất là khi Chúa Giê-su đến trần gian và chính thức thành lập Giáo hội của Người.
1.1 Giáo hội lữ hành được loan báo trong Cựu ước
Có thể nói Giáo hội lữ hành được chuẩn bị từ trong Cựu ước, khi Thiên Chúa kêu
gọi Abraham: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất mà ta sẽ chỉ cho
ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân lớn” (St 12,1-2). Thiên Chúa hứa cho
Abraham trở thành ông tổ của một dân vĩ đại. Ngài chọn ông để tuyển lựa cho mình một
dân, từ đó ơn cứu độ được ban cho hết mọi dân. Quả thật, Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa,
từ Abraham đã trở thành một dân tộc đông đảo, một dân bành trướng ngay tại Ai cập, nơi
đất khách quê người, đến nỗi vua Pha-ra-ô phải bắt làm nô lệ để dân khỏi phát triển.
Dân lữ hành của Thiên Chúa đang lầm than ở Ai cập thì Thiên Chúa lại hứa với ông
Môsê: “Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi ách người Ai cập. Ta sẽ chọn các ngươi làm dân của
Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi” (x. Xh 6, 6-7). Thiên Chúa đã giải thoát Israel ra
khỏi ách nô lệ Ai cập và đưa dân về đất hứa. Dân phải mất bốn mươi năm hành trình trong sa
mạc mới vào được đất hứa. Thật thế, dân Israel là một dân lữ hành để tiến vào miền đất hứa.
38 x. Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Cánh chung học, Học viện liên dòng thánh Tôma Tp. HCM, 2004, tr. 234. 39 Huấn từ của đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, Phụng vụ năm B, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 324. Người dịch G.B Lưu Văn Lộc. 40 Đức hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên đường hy vọng, tr. 91; ĐHV, số 254.
19 Lời hứa nay đã được thực hiện trên núi Sinai. Nhờ Giao ước này, Israel chính thức trở thành
Dân Thiên Chúa (x. Lv 26,9-12). Thiên Chúa phán: “Ta coi các ngươi là một vương quốc tư
tế, một dân thánh” (Xh 19,6). Điều này đã được Giáo lý Hội thánh Công giáo trình bày:
“Việc qui tụ dân Thiên Chúa được chuẩn bị xa với ơn goi của Abraham. Thiên Chúa hứa là
ông sẽ trở thành cha của dân tộc vĩ đại. Cuộc chuẩn bị gần bắt đầu bằng việc tuyển chọn
Israel làm dân Thiên Chúa. Được Thiên Chúa tuyển chọn, Israel phải là dấu chỉ cho việc qui
tụ tất cả dân tộc trong tương lai”41. Qua đó cho chúng ta biết được “dân Israel quả thật là
một dân lữ hành trên đường về đất hứa, là hình bóng của Giáo hội”42. Công đồng Vaticano
II quả quyết: “Cũng như dân Israel theo xác thịt, khi đang lữ hành trong sa mạc, đã được gọi
là Giáo hội của Thiên Chúa, dân Israel mới tiến bước trong thời đại này đang tìm về thành
thánh tương lai bất diệt cũng được gọi là Giáo hội Chúa Ki-tô”43. Bởi vì chính Người đã lấy
máu mình chuộc lấy Giáo hội và thành lập Giáo hội.
1.2 Tiến trình Đức Giê-su thành lập Giáo hội
Trước hết, Công đồng Vaticano II khẳng định: “Chúa Giê-su đã khai sinh Hội
thánh bằng việc rao giảng Tin mừng, loan báo nước Thiên Chúa đã hứa trong Kinh thánh
từ ngàn xưa nay được khai sáng”44. Thế nhưng chưa thực sự hình thành Giáo hội, Ngài sẽ
thành lập Giáo hội một cách tuệm tiến, cụ thể nhất là tụ tập và gọi các môn đệ.
Thứ đến, Đức Giêsu thành lập một cộng đoàn có cơ cấu. “Trước hết, Người tuyển
chọn nhóm mười hai với Phê-rô là thủ lãnh. Đại diện cho mười hai chi tộc Israel, nhóm
mười hai là nền tảng của Giêrusalem mới”45. Đức Giêsu triệu tập các môn đệ lại và chọn lấy
mười hai người mà Ngài muốn, rồi gọi là Tông đồ. Mục đích của nhóm mười hai là “để ở với
Ngài và để phái họ đi rao giảng” (Mc 3,14). Điều này có nghĩa là nhóm “mười hai” được phối
hợp với Đức Giêsu và tham dự vào trong công tác của Ngài46. Sau đó, Đức Giêsu còn chọn Phê-
rô làm thủ lãnh nhóm mười hai, với ý định xây dựng Giáo hội: “Này anh Simon, con ông Giona,
anh thật có phúc... Thầy bảo cho anh biết: anh là ‘Phêrô’ nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy...” (x. Mt 16, 13-20). Theo Filipe Gomez giải thích câu Mt
16,18 chỉ hàm ngụ một ý nghĩa này là: Đức Giêsu hứa Ngài sẽ tập hợp một cộng đoàn thuộc về
Ngài. Cộng đoàn ấy có quan hệ đặc biệt với Phêrô, Simon Phêrô nghĩa là “Đá” sẽ có nhiệm vụ
đặc thù trong Giáo hội của Đức Kitô 47. Như thế, Đức Giêsu đã lập một cộng đoàn để cùng chia
sẻ sứ mạng và số phận của Ngài.
41 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 762. 42 x. Lm. Nguyễn Văn Tuyên, Tin mừng về Nước Thiên Chúa, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 212. 43 Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 9. 44 Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 5. 45 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997 số, 765 46 x. Filipe Gome, Giáo hội học- thần học tín lý 1, nxb Antôn và Đuốc sáng, 2002, tr. 84-85. 47 x. Filipe Gome, Giáo hội học - thần học tín lý 1, nxb Antôn và Đuốc sáng, 2002, tr. 72.
20
Kế tiếp, Đức Giê-su hiến thân mình để sinh ra Giáo hội. Trước đó, trong bữa tiệc
ly, Ngài đã hiến dâng mình dưới hình bánh và rượu. Máu ngài đổ ra tạo nên Giao ước mới,
thay thế cho Giao ước cũ trên núi Sinai (x. Lc 22,20). Chính Giao ước tạo nên dân thánh.
Nay từ Giao ước mới sinh ra dân mới của Thiên Chúa là Giáo hội48. Quả thật, “Sự khai
nguyên và phát triển Hội thánh được biểu thị bằng máu và nước trào ra từ cạnh sườn bị đâm
thâu của Đức Giê-su bị đóng đinh. Chính từ cạnh sườn của Đức Ki-tô chịu chết trên thập giá
đã phát sinh bí tích kỳ diệu là toàn thể Hội thánh”49. Nhưng đến đây Giáo hội Chúa chưa
hoạt động công khai, mãi cho đến ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ.
Cuối cùng, đặc biệt rõ nét nhất là Chúa Giê-su đã sai Thánh Thần ngự xuống trong
ngày lễ ngũ tuần. Thánh Thần chẳng những ban cho các Tông đồ chiều ngày phục sinh (Ga
20,22), nhưng còn ban xuống long trọng trên các ông ngày lễ ngũ tuần. Khi Chúa Thánh
Thần ngự xuống, Giáo hội mới phát triển một cách mạnh mẽ. Chúa Thánh Thần tiếp tục
xây dựng Giáo hội, Ngài hướng dẫn và làm cho Giáo hội sống động. Rõ nét nhất nơi cộng
đoàn tiên khởi, họ sống trong tình bác ái, hiệp thông với nhau: “Các tín hữu chuyên cần
nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ
bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42).
Như vậy, Giáo hội đã được chuẩn bị ngay từ lúc khởi đầu lịch sử loài người, và chính
Chúa Giê-su đã thành lập Giáo hội của Người một cách tiệm tiến cho đến khi hoàn tất trên trời.
Từ ngày khai sinh cho tới nay Giáo hội vẫn tiếp tục tập hợp mọi người chia rẽ vì tội lỗi để họ
được hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa. Giáo hội phải trải qua đầy dẫy những khó khăn
thử thách, nhưng liên tiếp vẫn có người gia nhập làm cho Giáo hội mỗi ngày mở rộng hơn.
Ngày nay ta thấy Giáo hội là một tổ chức có cơ chế như mọi xã hội khác, nhưng
Giáo hội còn là một cộng đoàn những người có đức tin cậy mến, luôn hiệp thông với nhau
và với Thiên Chúa, và trở nên dụng cụ để xây dựng mối hiệp thông giữa mọi người với
nhau và với Thiên Chúa50. Vì thế, Giáo hội của Chúa có những đặc tính làm nền tảng để
xây dựng mối hiệp thông để vững bước trên đường lữ hành.
2. Những đặc tính của Giáo hội
Từ thời Công đồng Constantinopoli (381), các tín hữu đã tuyên xưng vào một Giáo hội
duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền51. Đó là bốn đặc tính của Giáo hội để nhận biết
Giáo hội của Chúa Ki-tô. Là ki-tô hữu, chúng ta tin Giáo hội lữ hành của Chúa Ki-tô trên trần
gian là Giáo hội “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”.
48 x. Lm. Nguyễn Văn Tuyên, Tin mừng về Nước Thiên Chúa, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 208- 209. 49 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 766. 50 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giêsu Kitô đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 144-145. 51 Thomas P. Rausch S.J, Đạo Công giáo thiên niên kỷ thứ ba, nxb Tôn giáo, 2010, tr. 111. Bản dịch: Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông.
21
- Duy nhất nghĩa là chỉ có một. Theo lời của thánh Phaolô viết cho tín hữu Ephêsô, chỉ
có một Đức Chúa, một đức tin, một phép rửa. Giáo hội bắt nguồn từ một Thiên Chúa, tuyên
xưng một đức tin, phát sinh từ một phép Rửa tội. Giáo hội là một thân thể, có một đầu là Đức Ki-
tô và được Thánh Thần làm cho sống động. Nhưng duy nhất không có nghĩa là đồng nhất đồng
loạt như nhau. Duy nhất trong tình bác ái (x. Cl 3,14) nhưng đa dạng trong việc tập hợp và tiếp
nhận mọi dân tộc, mọi nền văn hóa, đa dạng trong việc diễn tả niềm tin tùy theo truyền thống của
mọi dân tộc, đa dạng trong viêc lãnh nhận các ân ban và sứ vụ khác nhau do Chúa Thánh Thần,
giống như các chi thể trong cùng một thân thể 52. “Quả vậy, Giáo hội chỉ có một đầu duy nhất,
một Đấng duy nhất lãnh đạo vô hình là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, Đấng mà Chúa Cha
vĩnh cửu lập làm Đầu của toàn thể Giáo hội là thân thể Người; và người kế vị hợp pháp thánh
Phêrô trên tòa Rôma là Đầu hữu hình duy nhất của Giáo hội”53.
- Thánh thiện có nghĩa là hiệp thông với Thiên Chúa và mọi người trong tình bác ái.
Giáo hội được gọi là Thánh thiện vì Giáo hội là nơi ở của sự hiện diện Thiên Chúa, được hiệp
thông với Thiên Chúa, sự thánh thiện của Thiên Chúa được trào tràn cho Giáo hội. Vì thế, Công
đồng Vaticanô II vẫn còn vang vọng nền thần học này, khi đặt nền tảng sự thánh thiện ấy trong
bí tích thánh tẩy: “Những người được thánh tẩy, nhờ tái sinh và sự sức dầu của Chúa Thánh
Thần, được hiến thánh ngôi nhà thiêng liêng và tham dự vào chức tư tế thánh thiện”54. Nhưng
nếu Thiên Chúa đã làm cho Giáo hội trở nên thánh thiện như một dân tộc được thánh hóa, một
“dân thánh của Thiên Chúa”55, thì với tư cách là những cá nhân, họ cũng phải cộng tác với ân
sủng để trở thành thánh thiện (x. 1Cr 1,27; Rm 1, 7).
Giáo hội bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi là Thiên Chúa tình yêu. Giáo hội được Đức
Giê-su cứu độ, được Thánh Thần là Đấng thánh hóa ban cho đầy đủ phương tiên để thánh hóa,
nên Giáo hội là thánh thiện, và có sứ vụ làm cho mọi người nên thánh. Thế nhưng, Công đồng
nhìn nhận rằng sự thánh thiện của Giáo hội là một sự thánh thiện bất toàn. Giáo hội vẫn còn “cần
phải được thanh tẩy”56. Vì vậy, đang khi hành trình trên thế gian, Giáo hội còn bao nhiêu người
tội lỗi, Giáo hội phải giúp họ thánh hóa để cũng thánh hóa nhiều người khác nữa. Giáo hội tuyên
phong một số ki-tô hữu làm thánh để nêu gương và động viên mọi người trở nên thánh57.
- Công giáo, đặc tính này bao gồm nhiều ý nghĩa.
Trước hết toàn diện và toàn bộ. Giáo hội có đầy đủ toàn diện các phương tiện để cứu độ,
như: mặc khải toàn vẹn, các bí tích… và toàn bộ Giáo hội ở bất cứ địa phương nào và trong bất
cứ tình trạng nào cũng đều phải thi hành sứ vụ Đức Giê-su trao phó. Thánh Ignatiô viết: “Đức
52 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giêsu Kitô đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005 tr. 146. 53 Peter Neuner, Giáo hội học qua các tác giả, Đại chủng viện thánh Giuse, tr. 217-218. 54 Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 10. 55 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium) 12. 56 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 8. 57 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giêsu Kitô đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 146.
22 Giám mục ở đâu, thì ở đó phải có dân của ngài, cũng như Chúa Giê-su Ki-tô ở đâu, thì ở đó có
Hội thánh Công giáo” (Smyrma 8, 2). Thánh Ignatiô lập luận rằng cũng như Đức Ki-tô là đầu và
là trung tâm của toàn thể Hội thánh thế nào, thì Đức Giám mục cũng là đầu và trung tâm của
cộng đoàn địa phương như thế58. Công giáo cũng có nghĩa là Giáo hội phải có ở khắp mọi nơi,
mọi thời, và trong mọi hoàn cảnh sống của con người. Giáo hội phải là của mọi người, mọi dân
tộc, mọi nền văn hóa, và phải đối thoại với tất cả các tôn giáo khác. Sau cùng vì là công giáo nên
Giáo hội có sứ vụ đến với muôn dân để truyền giáo cho họ59.
- Tông truyền là gắn bó chặt chẽ với các Tông đồ theo ba nghĩa:
Thứ nhất là Giáo hội được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ không có gì phá nổi (Mt
16, 18), vì các Tông đồ là những chứng nhân về việc phục sinh và Đức Giê-su đã tuyển chọn và
sai đi làm chứng. Công đồng Vaticanô II khẳng định rằng: “Nhờ được Thiên Chúa thiết lập, các
Giám mục, kế vị các Tông đồ với tư cách là các mục tử của Hội thánh”60. Việc tham dự vào
nghi lễ phong chức của các ngài là dấu chỉ cho thấy rằng Đức tân Giám mục và Giáo hội của
ngài luôn hiệp thông với các Giáo hội khác và luôn kế vị Giáo hội của các Tông đồ 61.
Hai là Giáo hội gìn giữ và lưu truyền toàn vẹn kho tàng giáo lý mà các Tông đồ đã nhận
lãnh được từ Đức Giê-su. Quả thật, “các giám mục được nhìn nhận là những người kế vị các
Tông đồ và là những người bảo vệ truyền thống các Tông đồ”62.
Ba là Giáo hội luôn được các Tông đồ dạy dỗ, thánh hóa, và hướng dẫn nhờ những
người kế vị các ngài, đó là tập đoàn các giám mục hiệp nhất với đấng kế vị thánh Phê-rô là đức
giáo hoàng. Các Tông đồ được Đức Giê-su sai đi thế nào thì Giáo hội cũng được sai đi như
vậy63. Sai đi loan báo Tin mừng và lưu truyền đức tin cho những người khác. Bốn đặc tính trên
chứng tỏ Giáo hội là môi trường thiết yếu cho đời sống hiệp thông, vừa là dấu hiệu vừa là dụng
cụ để xây dựng sự hiệp thông trên con đường lữ hành về quê trời.
3. Giáo hội là dân Thiên Chúa đang trên đường lữ hành
Giáo hội là ai? Giáo hội là một dân tộc, là dân của Thiên Chúa. Thật thế, Giáo hội
chính là đoàn dân Thiên Chúa, bắt nguồn tận trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa
Ba Ngôi không muốn cứu độ con người riêng lẻ từng cá nhân nhưng muốn họ hiệp thông
với nhau trong một cộng đồng. Vì thế, Người đã tuyển chọn một dân tộc Israel. Rồi khi
Đức Giê-su đến, Người mời gọi và tập hợp tất cả mọi dân tộc khác nhau nữa để làm thành
một Dân của Thiên Chúa. Bởi vậy, Giáo hội chính là dân mới của Thiên Chúa. Một dân có
thủ lãnh là Đức Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ loài người. Trong đoàn dân này
58 x. Thomas P. Rausch S.J, Đạo Công giáo thiên niên kỷ thứ ba, nxb Tôn giáo, 2010, tr. 123. Bản dịch: Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông. 59 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giêsu Kitô đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 147. 60 Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 20. 61 x. Thomas P. Rausch S.J, Sđd, tr. 128. 62 Thomas P. Rausch S.J, Sđd, tr. 128. 63 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giêsu Kitô đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 147.
23 đều có phẩm giá và bình đẳng căn bản như nhau, có luật là giới răn mới: “yêu thương như
Đức Giê-su đã yêu thương” (Ga 15,12). Mọi kitô hữu đều có nhiệm vụ đem mọi người lại
hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa ở đời này, để đời sau tất cả được hạnh phúc trong
nước Thiên Chúa. Như vậy, cùng đích của dân lữ hành này là nước Thiên Chúa64.
Quả thật, Giáo hội là dân đích thực của Thiên Chúa. Tất cả mọi danh hiệu của Israel từ
nay thuộc về Giáo hội. Tất cả mọi lời hứa của Thiên Chúa dành cho Israel từ nay Giáo hội được
thừa hưởng. Những lời hứa đó được thực hiện cách trọn vẹn hơn. Ngày xưa Thiên Chúa giải
thoát khỏi Ai cập… Ngày nay Ngài giải thoát khỏi chính tội lỗi. Ngày xưa Thiên Chúa nuôi dân
bằng Manna… Ngày nay Ngài nuôi dân bằng chính mình ngài…65. Mặc dầu là dân mới, Giáo
hội chưa thực sự đạt tới mức hoàn hảo, Giáo hội còn đang ở trong trình trạng lữ hành, tha hương.
Còn phải chiến đấu chống lại quỉ thần và thế gian. Con cái còn sa ngã nên Giáo hội luôn luôn
phải sám hối cho con cái mình để đạt tới sự thánh thiện của Thiên Chúa muốn66. Dân Thiên
Chúa ở đây không phải là một dân đã được Thiên Chúa qui tụ về Thiên quốc, nhưng là dân đang
lữ hành ở trần gian. Giáo hội lữ hành là một ý niệm quen thuộc, bao hàm nhiều ý nghĩa súc tích.
Ở đây chỉ trình bày hai ý nghĩa quan trọng: thứ nhất Giáo hội lữ hành, đồng hành với thế giới
nhân loại. Thứ hai Giáo hội lữ hành trên đường về quê trời. Hai ý nghĩa này cũng được linh mục
Nguyễn Hồng Giáo nhấn mạnh: một là Giáo hội bước đi trong thời gian lịch sử là một Giáo hội
vừa thánh thiện vừa tội lỗi và thường xuyên tự canh tân đổi mới. Hai là Giáo hội có mặt trong thế
giới và lịch sử vừa như một thành phần của cộng đồng nhân loại67.
Điểm thứ nhất: Giáo hội đồng hành cùng thế giới nhân loại. Giáo hội biết mình “đồng
tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần thế với thế giới”68. Đức giáo hoàng
Bênêđictô XVI có lần đã nói: Giáo hội là một dân tộc lữ hành. Giáo hội đã được ghi dấu ấn như
thế, dọc suốt thời gian, bởi các biến cố lịch sử có tính quyết định, và bởi những thời đại văn hóa
có tầm vóc quan trọng…. Các Giáo hội địa phương trong Giáo hội hoàn vũ biểu lộ đặc tính lữ
hành ở trần gian thật năng động của mình, và mang lại cho mọi thành viên trong cộng đoàn tín
hữu một kho tàng về các truyền thống tu đức, phụng vụ và Giáo hội, một kho tàng làm nổi bật
lòng nhân từ phổ quát của Thiên Chúa và ý muốn của Người là muốn làm cho mọi người tham
dự vào cuộc sống của Thiên Chúa được kiểm chứng qua dòng lịch sử69. Ngài khuyến kích: “Các
Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và anh chị em tín hữu thân mến, vai trò tương ứng của mỗi
người trong anh chị em, trong công việc phục vụ và trong sứ mệnh giữa lòng Giáo hội là lời đáp
64 x. Lm. Nguyễn Hồng Giáo, Giáo hội lữ hành, Học viện Phanxicô, 2005, tr. 9 65 x. Lm. Nguyễn Văn Tuyên, Tin mừng về Nước Thiên Chúa, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 213. 66 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium) số 8. 67 x. Lm. Nguyễn Hồng Giáo, Giáo hội lữ hành, Học viện Phanxicô, 2005, tr. 6. 68 Công đồng Vaticano II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, số 40. 69 Huấn từ của đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, Phụng vụ năm B, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 325. Người dịch G.B Lưu Văn Lộc.
24 trả không hề mỏi mệt của một dân tộc lữ hành”70. Như thế, Giáo hội lữ hành đang đồng hành với
mọi người, mọi hoàn cảnh trong sinh hoạt hằng ngày của con người để đem họ về hiệp thông với
Giáo hội, với Thiên Chúa. Đó là nhiệm vụ của Giáo hội lữ hành.
Điểm thứ hai: Giáo hội lữ hành đang tiến trong thời gian lịch sử để tiến về quê trời. Bởi
vì, đối với chúng ta, trần gian này chỉ là “ngoại kiều và là lữ khách”, luôn luôn hành trình về quê
trời (x. Dt 11, 13-16). Quê hương đích thực đã được thánh Phaolô xác định: “Quê hương chúng
ta ở trên trời” (Pl 3,20). Giáo lý Hội thánh Công giáo số 769 đã xác quyết điều đó: “Hội thánh
chỉ được hoàn tất trong vinh quang trên trời”, trong ngày Chúa Ki-tô quang lâm. Từ nay
đến đó, “Hội thánh vẫn tiến bước trên đường hành hương, bị thế gian bách hại và được
Thiên Chúa an ủi”. Nơi trần thế, Hội thánh biết mình đang ở chốn lưu đày, xa cách Chúa
và khao khát ngày Vương Quốc đăng quang trọn vẹn, “giờ mà Hội thánh được kết hợp
cùng Vua của mình trong vinh quang” (GH, số 5). Hội thánh sẽ phải trải qua nhiều thử
thách lớn lao trước khi đạt tới vinh quang viên mãn; và nhờ Hội thánh, thế giới cũng được
vinh quang. Chỉ khi đó “mọi người công chính từ A-đam, từ A-ben người công chính, cho
đến người được tuyển chọn cuối cùng, sẽ được qui tụ trong Hội thánh hoàn vũ bên cạnh
Chúa Cha” (GH, số 2)71. Lịch sử đức tin của dân Thiên Chúa giống như một cuộc chạy
tiếp sức trải qua các thế kỷ. Người thứ nhất lãnh lấy cây gậy, tức là lời hứa cứu độ, rồi
chạy hết mình cho tới chỗ đứng của người thứ hai. Người thứ hai lãnh lấy cây gậy, rồi tiếp
tục chạy cho hết cuộc đời mình. Cứ như thế cho đến người cuối cùng. Không ai chiến
thắng cho riêng mình: đó là nét độc đáo và là qui tắc của cuộc chạy tiếp sức. Nhưng tất cả
đều chiến thắng và hưởng phần vinh quang như nhau, khi người chạy cuối cùng về đích.
Chính vì thế mọi người trong dân Thiên Chúa đều được mời gọi “hãy kiên trì chạy trong
cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin”
(Dt 12,2) 72. Thế nhưng, trước khi bước vào Giáo hội khải hoàn thì phải qua một thời gian
thanh luyện gọi là Giáo hội thanh luyện.
II. Giáo Hội Thanh Luyện
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo viết: “Những ai chết trong ơn nghĩa Chúa,
nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù đã chắc chắn được ơn cứu độ muôn đời,
còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết trước khi vào
hưởng niềm vui của Thiên Chúa”73. Ở đó được gọi là Giáo hội thanh luyện hoặc đau khổ.
Chúng ta sẽ tìm hiểu đề tài này theo ba điểm: Kinh thánh, truyền thống Giáo hội và suy tư
thần học. Vậy Kinh thánh có đề cập về Giáo hội thanh luyện không? 70 Huấn từ của đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, Sđd, tr. 327. 71 x. Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 769. 72 x. Noberto, Một dân tộc lữ hành – Dân Thiên Chúa, tr. 166. 73 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1054.
25
1. Nền tảng Kinh thánh
Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước không trực tiếp nói về Giáo hội thanh luyện,
nhưng nói một cách gian tiếp.
1.1. Cựu ước nói một cách gián tiếp về sự thanh luyện
Tiên tri Mika ví Giáo hội thanh luyện như căn nhà tù tối tăm: “Nếu tôi ở trong bóng
tối, Đức Chúa sẽ là ánh sáng cho tôi. Vì tôi đắc tội với Đức Chúa, tôi sẽ phải gánh chịu
cơn giận của Người, tới khi Người biện hộ và bảo vệ tôi. Người sẽ dẫn tôi ra ánh sáng, và
tôi sẽ được thấy đức công chính của Người” (Mk 7,8-9).
Cách riêng, sách thứ 2 Macabê kể lại việc ông Giuđa quyên tiền để xin lễ cầu
nguyện cho những người lính đã chết: “Ông Giu-đa quyên được khoảng hai ngàn quan
tiền, và gửi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý
này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến
binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu
xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ
trong tinh thần đạo đức” (2Mcb 12, 38-45).
Bản văn không nói gì đến một “chỗ” giam giữ những người mắc tội nhẹ chưa
được lên Thiên đàng và không bị sa hỏa ngục. Bản văn chỉ nói đến người đã phạm tội.
Ông Giu-đa Macabê xin dâng hy lễ xá tội cho họ, ngõ hầu niềm hy vọng đó được
thành tựu. Như thế một cách gián tiếp, bản văn chấp nhận rằng có thể áp dụng giá trị
xá giải cho những người đã qua đời. Bản văn không nói sự hiện hữu của “Luyện
ngục”, nhưng khi nêu bật giá trị của lời cầu nguyện cho người đã qua đời, nó đặt cơ
sở đạo lý về việc có thể được xá giải sau khi chết74.
Sách Khôn ngoan nói về Thiên Chúa tinh luyện người công chính như người ta
luyện vàng trong lửa: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực
hình nào động tới được nữa… Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn
chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử. Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được
hưởng ân huệ lớn lao. Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ, và thấy họ xứng đáng với
Người. Người đã tinh luyện họ, như người luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như
của lễ toàn thiêu” (Kn 3,1.4-8). Tiên tri Đanien cũng nói về sự thanh luyện: “nhiều người
sẽ được thanh luyện, tẩy trắng và thử thách bằng lửa” (Đn 12, 10). Qua các đoạn Kinh
thánh vừa trích ở trên cho ta biết được từ thời Cựu ước đã tin nhận có sự thanh luyện. Điều
này cũng được Chúa Giê-su mạc khải nơi Tân ước.
74 x. Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Cánh chung học, Học viện liên dòng thánh Tôma Tp.
HCM, 2004, tr. 333-334.
26
1.2. Tân ước nói về sự thanh luyện cách gián tiếp
Thánh Matthêu ghi lại lời Chúa Giê-su dạy: “Anh hãy mau mau dàn xếp với đối
phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho
quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho
anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu Cuối cùng” (Mt 5,25-26).
Theo lý luận của các nhà chú giải Kinh thánh: “ra khỏi nơi đó” không thể hiểu là ra khỏi
Thiên đàng, vì Thiên đàng không phải là nơi tù ngục. Ai được vào Thiên đàng thì không
bao giờ phải loại ra. “Ra khỏi đó” cũng không thể hiểu là ra khỏi Hỏa ngục, vì đã vào Hỏa
ngục thì đời đời không được ra nữa. Vậy, “ra khỏi đó” chỉ có thể hiểu là ra khỏi Luyện
ngục, nơi linh hồn đã đền tội xong75. Thánh sử Mathêu còn nói tiếp: “Ai nói phạm đến Con
Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn
đời sau” (Mt 12,32). Thánh Gregorio Cả chú giải: “Phải hiểu câu đó như sau: một số tội
có thể được tha thứ trong thời gian tại thế và một số có thể được tha thứ ở đời sau”76. Quả
thực, như đức tin dạy chúng ta biết rằng, nếu một người sau khi chết mà bị luận phạt sa
Hỏa ngục, thì người ấy đời đời bị tiêu diệt, chứ không bao giờ có thể ra khỏi đó được nữa.
Vậy, sau khi chết con người còn được hưởng ơn tha thứ tội lỗi, thì phải hiểu là nhờ vào sự
đền bù của những người đang còn sống trợ giúp, và đương sự đón chịu một thời gian trong
Luyện ngục. Như thế một cách gián tiếp, Chúa Giê-su đã đề cập đến sự hiện hữu của
Luyện ngục77.
Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô còn nói đến lửa thử các việc làm của con người:
“Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô.
Người ta có thể dùng vàng, bạc, đá quý, gỗ, cỏ, rơm mà xây trên nền đó. Nhưng công việc của
mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì
Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người. Công
việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. Còn công việc của ai
bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như
thể băng qua lửa” (1Cr 3,11-15).
Các thánh giáo phụ giải nghĩa “vàng, bạc, đá quí” là những việc lành. “Gỗ, cỏ,
rơm” là những tội nhẹ, những khuyết điểm78. Nếu vật liệu tốt thì công trình sẽ tồn tại và
người thợ sẽ được thưởng; nếu vật liệu xấu thì công trình bị thiêu hủy và người thợ sẽ bị
phạt. Tuy vậy, còn có hạng người thứ ba được cứu nhưng phải băng qua lửa. Đoạn văn này
được sử dụng để nói đến sự phân biệt ba hạng người sau khi chết: những người lành được
75 Lm. Đoàn Quang, CMC, Tìm hiểu Thiên đàng-Luyện ngục, tr. 55-56. 76 Dial. IV, 39; dẫn lại trong Ludwig Ott, Sđd, tr. 459 77 Lm. Nguyễn Hữu Thy, Tử quy hay trên đường về nhà Cha, nxb Trier, 2011, tr. 307. 78 Lm. Đoàn Quang, CMC, Tìm hiểu Thiên đàng-Luyện ngục, tr. 57.
27 lên Thiêng đàng; những người xấu phải xuống Hỏa ngục; hạng người thứ ba được cứu rỗi
nhưng cũng cần được thanh luyện bằng lửa, tức là lửa thanh luyện79.
Như vậy, Kinh thánh Cựu và Tân ước đều gián tiếp nói về Luyện ngục, là nơi thanh
luyện các linh hồn chết trong ân nghĩa Chúa nhưng chưa được thanh sạch hoàn toàn. Nơi
đó được gọi là Giáo hội thanh luyện. Đạo lý này cũng được Giáo hội triển khai thêm.
2. Truyền thống của Giáo hội
Sự tiến triển về đạo lý thanh luyện trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong lịch sử
Giáo hội. Vào thời các giáo phụ, các tín hữu tiếp tục thói quen cầu nguyện cho những
người đã qua đời. Sang thời trung cổ, người ta bắt đầu suy tư về lý do và ý nghĩa của thói
tục đó và dẫn tới đạo lý về sự thanh luyện. Đạo lý này cũng được Giáo hội công bố qua
nhiều bản văn, cách riêng nơi các giáo phụ.
2.1. Các giáo phụ
Trước hết, ta cần ghi nhận tục lệ cầu nguyện cho người chết đã có từ thời các Tông
đồ, vẫn được duy trì trong lịch sử Hội thánh. Chứng tích về tập tục này có thể gặp thấy nơi
các hầm mộ, nghĩa trang, cũng như nơi tác phẩm của các giáo phụ.
Giáo phụ Tertulliano đã bình phẩm tập tục tổ chức những buổi cầu nguyện phụng
vụ nhân ngày giáp năm qua đời. Ngài còn cho biết thêm ngoài các buổi cầu nguyện chung,
người ta còn cầu nguyện riêng tư nữa, chẳng hạn như bà góa kia đã cầu nguyện cho chồng
mình80. Thánh Ephrem khuyến khích các tín hữu cầu nguyện cho các tiên nhân đã lìa trần
vào dịp giỗ 30 ngày, bởi vì lời cầu nguyện của ta giúp ích rất nhiều cho những người qua
đời81. Phải cầu nguyện cho người quá cố, vì khi còn sống họ mắc những lỗi lầm cần được
thanh tẩy. Thánh Augustino đã nói: “Các linh hồn sau khi chết, trước khi được đưa vào
Thiên đàng phải qua lửa luyện tội để chịu những hình phạt tẩy tội của họ”82.
Chính vì thế, thánh Augustino phân biệt hình phạt phải chịu trong trần gian này và
hình phạt phải chịu sau khi chết: “Những kẻ này chỉ chịu những đau khổ thời đoạn cuối
cuộc sống này, những kẻ khác chỉ sau khi chết, còn những kẻ khác nữa vừa phải chịu đời
này và cả sau cái chết, nhưng luôn luôn trước tòa án công thẳng và cuối cùng sẽ đến”83.
Theo thánh Augustino, sự đau khổ của các linh hồn không phải chỉ do sự nóng lòng chờ
đợi được sống lại vào ngày tận thế, nhưng ở chỗ họ phải lãnh hình phạt đền tội sau cuộc
phán xét riêng. Các tín hữu tuy không mắc tội trọng vào lúc chết nhưng còn bám víu vào
những của phù vân hoặc các thú vui khoái lạc thì vẫn cần đến lòng thương xót của Chúa:
79 Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr. 335. 80 x. De monogamia 10: Pl 2,942; dẫn trong lm Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr. 338. 81 Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr. 338. 82 Y Phan CMC tuyển chọn, 1001 danh ngôn các Thánh, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2009, tr. 68. 83 De civ. Dei XXI, 13; dẫn lại trong Ludwig Ott, Sđd, tr. 461.
28 họ được cứu rỗi “trải qua lửa”84. Điều này thánh Cypriano cũng viết: “Chờ cho được ơn
tha thứ là một chuyện, còn được hưởng vinh quang là chuyện khác… được thanh luyện
khỏi tội lỗi với những hình phạt lâu dài và bằng lửa là một chuyện, được sá tội do việc tử
đạo là chuyện khác; sau cùng, chờ đợi cho đến ngày chung thẩm của Chúa là một chuyện,
còn được lãnh triều thiên ngay tức khắc là chuyện khác”85. Có lẽ vì lý do đó mà thánh
nhân quan niệm: “Việc thanh luyện tội lỗi qua đau khổ dài hạn và bị giữ lại trong lửa,
khác với việc thanh luyện linh hồn khỏi mọi tội lỗi nhờ qua cuộc tử đạo”86. Như thế, thánh
nhân muốn phân biệt hai cuộc thanh luyện, thanh luyện dài hạn và thanh luyện ngắn (qua
việc tử đạo). Qua đó cho chúng ta thấy rõ các giáo phụ nhìn nhận có một nơi thanh luyện
các linh hồn để xứng đáng được gặp Chúa. Trải qua các công đồng trong lịch sử Giáo hội
cũng xác tín điều đó.
2.2. Huấn quyền của Giáo hội
Theo thời gian, các công đồng của Giáo hội Công giáo đã xác định giáo lý về luyện
ngục. Công đồng Lyon, công đồng Florence và nhất là công đồng Trento trong khóa 6, số
22 và 25 dạy rằng: “Ai dám quả quyết sau khi được ơn thánh sủng, tội lỗi được tha và hình
phạt đời đời được xóa bỏ cho các hối nhân, và không có hình phạt tạm bởi tội ở đời này
cũng như ở trong Luyện ngục trước khi cửa Thiên đàng được mở ra thì kẻ ấy phải vạ tuyệt
thông”87. Công đồng Tridentino đưa ra công thức rõ ràng: “Được Thánh Thần soi sáng và
rút nguồn từ Kinh thánh và truyền thống cổ xưa của các giáo phụ, Giáo hội Công giáo dựa
vào các thánh Công đồng và cuối cùng là phiên họp khoáng đại này, dạy rằng: có một nơi
“thanh luyện” và những linh hồn còn bị giam cầm nơi đó tìm được các trợ lực trong
những lời cầu của các tín hữu, nhất là hy tế bàn thờ làm đẹp lòng Thiên Chúa”88 .
Công đồng Vaticano II trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội cũng tuyên bố: “Cho đến
khi Chúa ngự đến trong uy nghi, có tất cả các thiên thần theo Người, và khi sự chết bị hủy
diệt, mọi vật đều qui phục Người, thì trong số các môn đệ Chúa, có những kẻ còn tiếp tục
cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này và đang được tinh
luyện, và có những kẻ được hiển vinh đang chiêm ngưỡng rõ ràng chính Thiên Chúa duy
nhất trong Ba Ngôi như Ngài hằng có”89. Ở đây, Công đồng nói lên ba trạng thái của Giáo
hội. “Có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này và đang được tinh luyện” thuộc về Giáo hội
Thanh luyện hoặc đau khổ.
84 x. De civitate Dei 21,23: PL 42, 728; dẫn trong Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr. 340. 85 Epitola 55, ad Antonianum, 20,1: PL 3,786; dẫn trong Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr. 339. 86 Ep. 55,20; dẫn lại trong Ludwig Ott, Sđd, tr. 460. 87 Lm. Đoàn Quang, CMC, Tìm hiểu Thiên đàng-Luyện ngục, tr. 57-58. 88 DS 1820; dẫn lại trong Josep Ratzinger- Đức giáo hoàng Biển Đức XVI, Cánh chung luận, sự chết và đời
sống vĩnh cửu, nxb Tôn giáo, 2013, tr. 267. Bản dịch của Lm Nguyễn Văn Trinh. 89 Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 49.
29
Vì thế, Giáo lý Hội thánh Công giáo do Đức giáo hoàng Gioan Phaolo II ban hành
năm 1992 xác định: “Những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh
luyện hoàn toàn, mặc dù chắn chắc được cứu độ đời đời, cũng phải chịu thanh luyện sau
khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc Thiên đàng”90. Hội thánh
gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Dựa vào một số
đoạn Kinh Thánh (x. 1Cr 3,15; 1Pr 1,7), Hội thánh nói về lửa thanh luyện:“Đối với một số
tội nhẹ, phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh luyện. Chúa Giê-su xác nhận: nếu ai
nói phạm đến Chúa Thánh Thần người ấy sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau (Mt
12,31). Qua khẳng định này, chúng ta có thể hiểu là một số tội có thể được tha ở đời này,
nhưng một số tội khác thì phải đợi tới đời sau”91. Giáo hội là mẹ chúng ta đã dạy con cái
mình tin nhận những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta đang còn trải qua cuộc thanh
luyện để được trong sạch, sáng láng vào hưởng dung nhan Chúa muôn đời. Có lẽ mọi người
còn sống trên dương gian cũng ước mong như thế. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ qua việc suy
tư thần học.
3. Suy tư thần học
Trong phần suy tư thần học, chúng ta sẽ đi từ thấp đến cao. Hay nói cách khác suy
tư theo lối bình dân đến các chuyên gia thần học.
3.1. Suy tư thần học theo lối bình dân
Tâm lý con người muốn có một nơi đền tội hơn là luận phạt muôn đời. Theo suy
luận của linh mục Nguyễn Hưng thì phải có Luyện ngục, căn cứ vào sự thánh thiện và sự
công bằng của Thiên Chúa. Sự thánh thiện của Thiên Chúa đòi buộc chỉ có những người
hoàn toàn trong sạch mới được vào Nước trời; sự công bằng của Thiên Chúa đòi hỏi những
thứ hình phạt chưa được thi hành thì phải có nơi để thanh luyện chứ không thể ở trong Hỏa
ngục được. Vì thế, những linh hồn chết tron ân nghĩa Chúa nhưng còn những hình phạt do
tội nhẹ thì các linh hồn ấy phải có một nơi khác để đền bù, nơi đó gọi là Luyện tội92. Suy
nghĩ thực tế trong cuộc sống, theo tâm lý chung khi cha mẹ, ông bà, anh chị em, họ hàng,
bạn hữu, ân nhân qua đời, ai trong chúng ta lại không muốn các ngài được sống trong hạnh
phúc, mát mẻ, an nhan. Nhưng nếu các ngài chưa đáng được vào nơi hạnh phúc Thiên đàng
ấy, nếu các ngài chưa thanh sạch để gặp Chúa thanh sạch vô cùng, nếu các ngài chưa thánh
thiện để vào gặp Chúa thánh thiện vô cùng, tự các ngài sẽ muốn có một thời gian, một nơi để
tẩy luyện, để xứng đáng gặp Chúa. Đàng khác bởi con người yếu đuối lầm lỗi, ta không dám
nghĩ rằng, người thân yêu của ta sẽ được lên Thiên đàng ngay, ta cũng không muốn nghĩ rằng
90 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1030. 91 x. T.Ghê-gô-ri-ô cả, đối thoại 4,39; Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1031. 92 x. Lm. Nguyễn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ, tr. 604.
30 người thân yêu của ta đã làm điều gian ác đến nỗi phải xuống Hỏa ngục, nếu suốt đời đã cố
gắng giữ đạo. Vậy chắc các ngài còn phải đền bù tội lỗi ở một nơi nào đó gọi là Luyện tội93.
Đó mới chỉ là suy nghĩ đạo đức bình thường cũng muốn có một nơi để thanh luyện, còn
suy luận một cách có hệ thống thần học có lẽ cũng theo chiều hướng tâm lý chung đó. Các nhà
thần học đưa ra nhiều ý kiến chung quanh hai điểm là đối tượng và bản chất nơi thanh luyện.
3.2. Suy tư theo các nhà thần học
Theo suy luận các nhà thần học, sự hiện hữu của luyện ngục được căn cứ vào sự
thánh thiện và công bằng của Thiên Chúa. Sự thánh thiện đòi buộc các linh hồn hoàn toàn
thanh sạch mới được đón nhận vào Thiên đàng (Kh 21,27); sự công bằng đòi buộc các hình
phạt cần phải chịu, nhưng mặt khác các linh hồn được kết hợp với Thiên Chúa trong tình
yêu, cũng không được xuống hỏa ngục. Vì thế phải chấp nhận một tình trạng trung gian,
cần để thanh luyện lần cối cùng, nhưng chỉ hạn hẹp vào trong một thời gian94.
Bởi vậy mà thánh Toma Aquinô có quan niệm: các lỗi mọn chưa được tha, cũng y
như khi còn sống trong trần thế, sẽ được thực hiện bằng hành động ăn năn nhờ sự trợ giúp
của ân sủng. Hành động ăn năn, được gợi lên lập tức ngay khi linh hồn xuống luyện ngục,
không gây nên sự đè nén hay giảm bớt hình phạt cho tội lỗi, vì bên kia thế giới, con người
không còn khả năng lập công. Các hình phạt được đền trả trong luyện ngục nhờ vào một
thứ tình nguyện lãnh nhận các đau khổ thanh luyện do Thiên Chúa thiết đặt95.
Khi nói đến sự thanh luyện, thần học công giáo quen nhấn mạnh đến khía cạnh
“đền tội”. Sự “luyện tội” được hiểu như là thanh luyện khỏi những tàn tích của tội lỗi, đó là
các tội nhẹ, khuynh hướng chiều theo tội lỗi, và các hình phạt tạm thời do tội gây ra96. Quả
thật, các linh hồn trong Giáo hội Thanh luyện là những người chết trong ân nghĩa Chúa,
nhưng các ngài khi còn sống đã phạm những tội nhẹ và những hình phạt do tội gây ra mà
chưa đền bù, thì cần phải thanh luyện để xứng đáng hưởng kiến nhan Chúa.
Điều này được Văn kiện của Ủy ban Thần học quốc tế giải thích như sau: “Hội
thánh tuyên xưng rằng bất cứ vết nhơ nào cũng làm ngăn trở việc kết hiệp mật thiết với
Thiên Chúa và với Đức Ki-tô. Điều này được hiểu không những về những vết nhơ làm đổ
vỡ và phá tan tình bạn hữu với Thiên Chúa… nhưng còn về những vết nhơ làm lu mờ tình
bạn hữu ấy và cần được thanh luyện, ngõ hầu cuộc gặp gỡ có thể diễn ra được. Các vết
nhơ này thuộc về những “tội hằng ngày” hay “tội nhẹ”, và những vết tích của tội lỗi… Chỉ
khi nào chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, chúng ta mới có thể được
93 Lm. Đoàn Quang, CMC, Tìm hiểu Thiên đàng-Luyện ngục, tr. 60-61. 94 x. Toma Aquino, Sent. IV d.21 q. 1a.1qc; dẫn lại trong Ludwig Ott, Sđd, tr.461. 95 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 462. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 96 Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr. 346.
31 hiệp thông với Thiên Chúa” (x. Rm 8, 29)97. Để được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa
cần có sự thanh luyện, “đó là một tiến trình nội tại và cần thiết cho việc chuyển đổi con
người, nhờ đó con người có khả năng đón nhận Đức Ki-tô, đón nhận Thiên Chúa, và có khả
năng để hiệp thông trọn vẹn với Communio sanctorum”98. Nghĩa là hiệp thông các thánh.
Trong Giáo hội Thanh luyện, ba nguyên tắc căn bản mà các linh hồn cùng có một
trạng thái như nhau. Các linh hồn ở trong trình trạng ân sủng: gần gũi Thiên Chúa và có sự
sống siêu nhiên. Cùng tận: ơn cứu rỗi được bảo đảm; không thể lập công. Thanh luyện: sự
đền tội liên quan đến đời sống quá khứ của họ99. Nói cách khác, “các linh hồn trạm trú ở
đây chia sẻ cùng một niềm tin nơi Đức Giê-su, con Thiên Chúa, cùng một tình yêu, cùng
một hy vọng. Vì thế khi được thanh luyện chung với nhau trong luyện tội, các linh hồn này
thương mến nhau”100. Vì các linh hồn ở đây được sống trong tình thương của Thiên Chúa.
Nhất là vì lúc này họ hiểu biết Thiên Chúa hơn và không còn bị tách khỏi Thiên Chúa do
những của cải trần gian nữa. Vì thế họ hướng về Thiên Chúa với tất cả sức lực của mình.
Đó là niềm hạnh phúc nơi Giáo hội thanh luyện.
Nhưng trong lúc này các linh hồn vẫn bị giữ lại bởi trở ngại của sự bất toàn của
mình, vẫn bị gạt khỏi phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong Đức Ki-tô phục sinh. Do đó, có
sự xâu xé trong con người họ, có nỗi đau khổ vì sự thanh luyện… đây là nỗi đau khổ được
cảm nhận cách mãnh liệt trong ý thức, một cảm xúc thiêng liêng cao hơn nhiều so với cảm
xúc trong đời hiện tại. Nhưng chính nỗi khổ đau này cũng được các linh hồn chấp nhận và
yêu mến, bởi vì nó chuẩn bị cho họ được hưởng kiến Thiên Chúa trong Đức Ki-tô101.
Chính Giáo hội Thanh luyện “là nơi các linh hồn ở lại để được tẩy rửa hết lỗi lầm,
hầu xứng đáng gặp gỡ và sống đời đời với Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối
thánh thiện, nên linh hồn phải thánh thiện mới có thể chung bàn với Ngài”102. Niềm tin
vào giai đoạn thanh luyện sau khi qua đời đã tiếp tục phát triển. Người ta không còn chú
trọng đến một động lực vật lý (chẳng hạn như lửa) của việc thanh tẩy hoặc hình phạt, cũng
không quan tâm về nơi chốn hay thời gian cụ thể. Ngày nay những suy tư thần học coi
luyện ngục như một tiến trình hiển nhiên sau khi chết, nhờ nó mà người ấy đến với một
hiểu biết hoàn hảo về bản thân và giũ bỏ tất cả sự tự qui hướng về mình. Việc tưởng nhớ
và cầu nguyện cho người quá cố vẫn là một truyền thống quan trọng103. Như thế, Luyện tội
97 Ủy ban Thần học quốc tế, Tài liệu về dấu chỉ, 11 - 1992, tr. 331. 98 Josep Ratzinger- Đức giáo hoàng Biển Đức XVI, Cánh chung luận: sự chết và đời sống vĩnh cửu, nxb Tôn
giáo, 2013, tr. 279. Bản dịch của Lm. Nguyễn Văn Trinh. 99 x. Mầu nhiệm cánh chung, tr. 145 100 Joranthe Nắng Tím, Những người lữ hành hạnh phúc, tập 3, vòng tay đời đời, nxb Tôn giáo, 2012, tr. 61. 101 x. Mầu nhiệm cánh chung, tr. 145-146. 102 Joranthe Nắng Tím, Những người lữ hành hạnh phúc, tập 3, vòng tay đời đời, nxb Tôn giáo, 2012, tr. 61. 103 x. Greg Dues, Những thói quen và truyền thống Công Giáo, 1989, tr. 235.
32 là tình trạng linh hồn được thanh tẩy trước khi diện kiến Thiên Chúa và sống hạnh phúc
đời đời với Ngài. Luyện tội không phải là nơi trừng phạt, vì luyện tội mang niềm hy vọng
được gặp Chúa, mang tình yêu thương đang được thanh luyện, mang niềm vui sẽ được
hưởng nhan Chúa. Vì thế, Luyện tội mang niềm vui sẽ được “biến đổi nên trinh trong, giũ
sạch mọi gian ác”, sẽ được xứng đáng trước tình yêu Thiên Chúa và sẽ mang lại niềm tin
được Thiên Chúa nhân từ ôm chặt vào lòng khoan dung, từ ái104.
Như vậy, qua trình bày của Kinh thánh một cách gián tiếp nói về Luyện ngục, sau
đó được các giáo phụ triển khai đạo lý này, cũng như huấn quyền của Giáo hội làm cho
chúng ta vững tin vào sự hiện hữu của Giáo hội Thanh luyện. Từ đó chúng ta hiệp thông
cầu nguyện cho các ngài sớm được hưởng tôn nhan Chúa, được gia nhập Giáo hội khải
hoàn trên Nước trời, và các ngài sẽ nhớ cầu nguyện cho chúng ta. Chính điều này nói lên
sự hiệp thông các thánh trong Giáo hội.
III. Giáo hội khải hoàn
Trước khi khảo sát đề tài Giáo hội khải hoàn, chúng ta cần làm rõ từ ngữ hay những
cách gọi khác nhau. Như chúng ta thường nghe nói những từ: Thiên quốc, Quê trời, Nước
trời, Nước Thiên Chúa, Thiên đàng hay cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế chúng ta cần tìm hiểu
các từ: Thiên quốc, Quê trời, Thiên đàng xem có ý nghĩa gì và tương quan thế nào?
- Thiên quốc: Thiên là Trời; quốc là nước. Thiên quốc là Nước trời105. “Nước Thiên
Chúa ở đây không chủ yếu ở một nơi, nhưng là một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa.
Vào Nước Thiên Chúa là được thông hiệp sự sống và hạnh phúc với Ngài. Nước Thiên Chúa
còn được người Do Thái gọi là Nước trời”106, mà Nước trời cũng được gọi là quê trời.
- Quê trời: Quê trời chỉ thực tại thiêng liêng, siêu phàm, còn được gọi là Thiên
đàng, là “nơi” Các Thánh được hưởng hạnh phúc trong Thiên Chúa, “nơi” dành riêng cho
những người được Thiên Chúa ân thưởng. “Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là Nhà Cha, nên
là ‘quê hương’ của ta”107. Quê trời là “nơi” vĩnh cửu, diễm phúc mà con người phải hướng
tới trong khi chu toàn trách nhiệm xây dựng và phát triển quê hương trần gian108.
- Giáo hội khải hoàn là những người được Thiên Chúa cứu rỗi từ tạo thiên lập địa
cho đến những người sau cùng được cứu độ. Điều này đã được Giáo hội xác tín: “Chúng
tôi tin rằng đông đảo các linh hồn tụ tập chung quanh Chúa Giê-su và Mẹ Maria trên
104 x. Joranthe Nắng Tím, Sđd, nxb Tôn giáo, 2012, tr. 62. 105 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam- Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin-Tiểu Ban Từ Vững, Từ điển Công
giáo, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 328. 106 Lm. Nguyễn Văn Tuyên, Tin mừng Nước Thiên Chúa, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 19. 107 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 2795. 108 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam- Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin-Tiểu Ban Từ Vững, Từ điển Công giáo,
nxb Tôn giáo, 2011, tr. 279-280.
33 Thiên đàng, họp thành Hội thánh trên trời. Ở đó trong hạnh phúc đời đời, họ được diện
kiến Thiên Chúa”109. Do đó, cũng có thể gọi là Giáo hội trên trời hay Giáo hội khải hoàn.
Như vậy, với đề tài Giáo hội khải hoàn, chúng ta có thể dùng Nước trời, Thiên đàng
hay cuộc sống vĩnh cửu. Các Tin mừng đã nhắc đến 122 lần chữ “Nước Thiên Chúa”,
trong đó có 90 lần từ miệng lưỡi Đức Ki-tô. Quả thật, nhiều người Do thái khi nghe Đức
Ki-tô loan báo Nước trời đã hiểu Nước trời là cuộc sống mai hậu sau khi chết, là một tổ
chức của thế giới bên kia, là Thiên đàng, là những gì sẽ đến sau khi thế giới này qua đi110.
Lần lược chúng ta sẽ tìm hiểu qua các bản văn Kinh thánh, truyền thống của Giáo hội và
sau cùng là suy tư thần học. Kinh Thánh đã nói gì về Nước Thiên Chúa hay Thiên đàng?
1. Nền tảng Kinh thánh
Giáo lý Hội thánh Công giáo nhìn nhận rằng: “Chúng ta không đủ khả năng hiểu
biết và trình bày mầu nhiệm hiệp thông vinh phúc với Thiên Chúa và với tất cả những
người ở trong Đức Ki-tô. Khi nói về mầu nhiệm này, Kinh thánh dùng những hình ảnh như
sự sống, ánh sáng, bình an, tiệc cưới, rượu mới trong Nước trời, Nhà Cha, Thành
Giêrusalem Thiên quốc, Thiên đàng”111. Những hình ảnh đó đã được Kinh thánh Cựu ước
và Tân ước cho ta biết rõ hơn. Trước hết là Cựu ước.
1.1. Cựu ước
Trong giai đoạn đầu của Cựu ước, ta thấy nội dung của những lời Chúa chúc lành
là những của cải đời này: con cái đông đúc, đất đai phì nhiêu, hoa trái dồi dào đó là đối
tượng hạnh phúc cá nhân cũng như của toàn dân112. Nhưng dần dần ta thấy sự tiến triển.
Các vịnh gia cho rằng hạnh phúc đích thực là ở bên Chúa (x. Tv 16,11; 73,23-26), và hy
vọng Thiên Chúa sẽ giải thoát linh hồn khỏi âm ti và được chia sẻ vào sự sống vĩnh cửu
(x.Tv 48,16; 72,26). Ngôn sứ Đaniel xác tín vào việc thân xác sẽ sống lại để được hưởng
sự sống đời đời hay xấu hổ và nghê tởm đời đời (x. Đn 12,2). Vào cuối thời Cựu ước, sách
Khôn ngoan diễn tả hạnh phúc và bình an của linh hồn những người công chính được an
nghỉ trong tay Thiên Chúa và sống vĩnh cửu bên Người (x. Kn 3,1-9; 5,15). Còn các vị tử
đạo thời Macabê kín múc sức mạnh và an ủi trong hy vọng tin rằng người lành sẽ được
Chúa cho chỗi dậy để được hưởng cuộc sống muôn đời (x. 2Mc 6,26; 7,9.29.36). Ngoài ra,
theo lối hình dung bình dân cổ truyền thì trời là nơi Chúa ngự; vì “về với Chúa” có nghĩa
là “được đưa lên trời” như ông Êlia (x. 2V 2,1-11).
Qua các tác giả sách thánh Cựu ước cho ta thấy rõ sự mạc khải của Thiên Chúa về
hạnh phúc Nước trời một cách tiệm tiến; từ lời chúc lành của Chúa là của cải vật chất, con
109 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1053. 110 Joranthe Nắng Tím, Những người lữ hành hạnh phúc, tập 4: Đức Ki-tô là ai để tôi tin, nxb Tôn giáo, 2013, tr. 28. 111 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1027. 112 x. Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr. 210.
34 cái đông đúc. Rồi đến tinh thần: hạnh phúc được ở bên Chúa, được giải thoát khỏi âm ti,
được an nghỉ trong tay Chúa, được Chúa cho chỗi dậy để được sống muôn đời. Như vậy,
nơi Cựu ước đã cho ta biết phần nào về Giáo hội khải hoàn. Điều này sẽ được làm sáng tỏ
nơi Tân ước, chính Chúa Giê-su đã ở nơi Giáo hội khải hoàn đến tỏ cho ta biết.
1.2. Tân ước
Không ai biết được nơi Giáo hội khải hoàn, và cuộc sống đời sau như thế nào. Giáo
hội Công giáo được Chúa Giêsu dạy bảo khi Người giảng đạo, và Người dùng một số môn
đệ viết lại Kinh thánh với sự linh hứng của Chúa Thánh Thần 113, để cho ta biết phần nào
nơi Giáo hội khải hoàn trên Nước trời.
Chúa Giê-su rao giảng Nước trời đã được thánh sử Mathêu thuật lại: “Từ lúc đó,
Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến
gần” (Mt 4,17). Người còn dạy các môn đệ cầu nguyện cùng Cha ở trên Nước trời: “Vậy,
anh em hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời” (x. Mt 6,
9-13). Sau khi ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Mêsia thì Người hứa sẽ trao
cho ông chìa khóa Nước trời: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc,
vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên
trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho
anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như
vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,17-19).
Trong Tin mừng Đức Giê-su sử dụng nhiều hình ảnh để diễn tả hạnh phúc tuyệt đối
của con người là được ở bên Chúa. Theo Tin mừng Nhất lãm, khi rao giảng mầu nhiệm
Nước trời, Đức Giê-su sử dụng nhiều dụ ngôn với những hình ảnh để các thính giả nắm bắt
dễ dàng. Với thương gia, Đức Giê-su ví Nước trời như viên ngọc quí: “Nước Trời giống
như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại,
rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy."Nước Trời lại cũng
giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra
đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt13,44-46).
Với các ngư phủ, Nước trời được ví như mẻ lưới đầy: "Nước Trời lại còn giống như
chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi
ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài” (Mt 13,47-50).
Với các nông dân, Nước trời được ví như người đi gieo giống, hạt cải, mùa gặt dồi
dào: “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình” (x. Mt 13,24-
113 Lm. Đoàn Quang, CMC, Tìm hiểu Thiên đàng-Luyện ngục, tr. 14.
35 30). Đức Giê-su còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: “Nước Trời
cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ
nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất ; nó trở thành
cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được” (Mt 13,31-32; Lc 13,18-19; Mc 4,30-32).
Người trả lời các môn đệ khi họ hỏi về ý nghĩa dụ ngôn: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu
biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà
không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo
bên vệ đường…” (x. Mt 13, 10-23).
Với người làm bánh, nấu rượu: “Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà
kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men” (Mt 13,33; Lc 13,20-21).
Đức Giê-su sử dụng những hình ảnh đó để diễn tả những thực tại vượt quá tầm mức của trí
tuệ con người, giúp cho mọi người hiểu phần nào về Giáo hội khải hoàn trên trời.
Chúa Giê-su diễn tả Nước trời vui vẻ, tưng bừng như hình ảnh dự tiệc: “Từ phương
đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaác, và Giacóp
trong Nước trời” (Mt 8,11). Sau đó Chúa Giê-su kể một dụ ngôn về bữa tiệc trong Nước
trời: Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua
sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không
chịu đến…. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại,
nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24). Chúa Giê-su còn mong
uống rượu với các môn đệ trong Nước trời: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không
còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới
trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26, 29).
Thánh Gioan đã diễn tả vẻ huy hoàng của Giáo hội khải hoàn là “thành Giêrusalem
mới” bằng ngôn ngữ loài người cho ta hiểu phần nào: “Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt
vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa
do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-
en. Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con
Chiên.... Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa
toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi. Ngày nọ qua ngày kia, cửa thành không bao
giờ đóng, vì ở đấy sẽ chẳng có đêm…. chỉ có những người có tên ghi trong Sổ trường sinh
của Con Chiên mới được vào thành. Họ được nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh
Người ghi trên trán họ. Sẽ không có đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng
chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ
hiển trị đến muôn thủa muôn đời” (x. Kh 21,9-22,21).
36
Quả thật, “sách Khải huyền mô tả hạnh phúc của những người lành, nhất là những
vị tử đạo, trong cuộc sống với Thiên Chúa và với con chiên, Đức Ki-tô được tôn vinh;
được giải thoát khỏi mọi sự dữ, được tràn đầy hạnh phúc và vinh quang trong Giêrusalem
Thiên quốc”114. Như vậy, trong Giáo hội hoàn vũ mọi thành phần đều được “nhìn thấy
Chúa”, “ngắm dung nhan Chúa”, “chiêm ngưỡng Chúa”, “chầu Chúa”, được ở cùng Chúa,
được sống với Đức Ki-tô, một cuộc sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Trong Cựu ước, người
đạo đức được mô tả như là “kẻ đi tìm Chúa” (Tv 24,6), tìm kiếm nhan Chúa, với hy vọng
được nhìn thấy dung nhan Ngài. “Ngắm nhìn Chúa” có nghĩa là được vào bệ kiến Chúa,
được gần gũi với Chúa, được chia sẻ tình nghĩa thân mật với Chúa115. Niềm ước mong đó
được thỏa nguyện trong Tân ước, với lời hứa Chúa Giê-su: “Phúc thay ai có tâm hồn trong
sạch vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).
Tư tưởng nhìn thấy Chúa được thánh Gioan và Phao-lô triển khai thêm. Thánh
Gioan viết: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ
như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng
ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3,2).
Đoạn văn này đối chiếu hai giai đoạn: hiện tại và mai sau. Trong hiện tại chúng ta là con
Thiên Chúa rồi. Còn sau này chúng ta sẽ thấy Ngài và nên giống như Ngài. Ở đây thánh
Gioan dùng từ “thấy” ở hiện tại và “nên giống” ở tương lai sau này. Sách Khải huyền diễn
tả hạnh phúc của các thánh trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và Con Chiên, tức là Đức
Ki-tô vinh quang. Mọi đau khổ thể lý đều tan biến (x. Kh 7,9-17; 21,3-7). Còn thánh
Phao-lô lại dùng từ “thấy” và “biết”: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm
gương, mai sau sẽ được giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ biết
hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1Cr 13,12). Trong điều kiện hiện tại, chúng ta chưa biết
Chúa trọn vẹn bởi vì còn vướng nhiều màn che. Nhưng sau này, chúng ta sẽ được nhìn
thấy Chúa nhãn tiền: chính Ngài sẽ tỏ cho chúng ta; chúng ta thông dự vào chính việc
Chúa biết ta, ta được biết Chúa116. Điều này chỉ xuất hiện trong “cuộc sống vĩnh cửu”.
Sự sống vĩnh cửu là gì? Đối với thánh Gioan: “Sự sống đời đời là thế này: họ biết
Cha là Thiên Chúa duy nhất, chân thật, và Đấng mà Cha sai đến là Đức Ki-tô” (Ga, 17,3).
Cái biết ở đây không chỉ là hành vi trí tuệ, nhưng là sự thông dự vào tình nghĩa thắm thiết
giữa Chúa Cha và Chúa Con, như thánh Gioan đã viết ở lời mở đầu của lá thư thứ nhất:
“Điều đã có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt,
điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là sự sống. Quả vậy, sự
114 Mầu nhiệm cánh chung, tr. 155. 115 x. Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Cánh chung học, Học viện liên dòng thánh
Tôma Tp. HCM, 2004, tr. 213-214. 116 Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, 2004, tr. 215.
37 sống đã được tỏ bày, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn
hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi, mà chúng tôi hiệp thông với
Chúa Cha và với Đức Ki-tô, Con của Người” (1Ga 1,1-3). Quả thực, sự sống đời đời được
ban cho ai tin vào Đức Ki-tô, lắng nghe tiếng Người nhờ đó được chia sẻ bản tính của
Người. Mối liên hệ với Đức Ki-tô lại càng nổi bật hơn trong cụm từ “ở với Đức Ki-tô”.
Điều này chúng ta nhận thấy khi Đức Ki-tô hứa với anh trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm
nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên đàng” (Lc 23, 43). Thánh Luca mô tả Thiên đàng hệ
tại ở với Đức Ki-tô. “Ở với” không chỉ có nghĩa ở bên cạnh, mà còn là chia sẻ cùng số
phận. Các tác giả Cựu ước mơ ước hạnh phúc “ở với Thiên Chúa”; còn bây giờ thì người
trộm lành được hứa sẽ được “ở với Đức Ki-tô”117. Trong Giáo hội khải hoàn ở trên trời,
theo sách Khải huyền số người rất đông: “Tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không
tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước
ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế” (x. Kh 7,9-17).
Như vậy, vào Thiên đàng, vào Nước Chúa là ở với Đức Ki-tô.
Tóm lại, Tân ước dùng nhiều hình ảnh và từ ngữ khác nhau để diễn tả hạnh phúc
trong Nước trời, Thiên đàng (Giáo hội khải hoàn). Nhưng chung qui đều hướng về Đức Ki-
tô. Đâu có Đức Ki-tô ở đó có Nước Thiên Chúa. Quan niệm về Giáo hội khải hoàn cũng
được truyền thống của Giáo hội hoàn vũ tin cậy và hướng về.
2. Quan niệm của Giáo hội
Đạo lý của Tân ước về sự sống vĩnh cửu trên Nước trời đã được đào sâu nơi các tác
phẩm của các giáo phụ, và nơi các công thức tuyên xưng đức tin trong truyền thống Giáo hội.
2.1. Các giáo phụ
Các giáo phụ diễn giảng đạo lý không phải qua suy tư trừu tượng nhưng qua các bài
chú giải Kinh thánh trong các buổi cử hành phụng vụ. Các ngài sử dụng nhiều hình ảnh đã
có trong Tin mừng, như: “Thiên đàng, Thiên quốc, ánh sáng, an nghỉ, nơi mát mẻ sáng
láng, bàn tiệc, triều thiên, phần thưởng”118.
Tiếp nối tư tưởng của thánh Gioan và của Phaolô, các giáo phụ tiên khởi luôn nhắc
đến việc “ở lại với Đức Ki-tô” (x. Ga 17,24; Pl 1,23) khi bàn về sự sống vĩnh cửu. Ngay từ
thánh Irênê, các giáo phụ nhấn mạnh rằng sự sống đời đời hệ tại việc nhìn ngắm nhan
Chúa, nghĩa là được thấy Chúa. Dựa theo đoạn văn của thánh Gioan: “Lạy Cha con muốn
rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm
ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con” (Ga 17,24), các giáo
117 Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr. 219-220 118 Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr. 2230.
38 phụ thêm rằng việc nhìn ngắm Chúa kèm theo sự biến đổi nên giống Chúa, được trở nên
con cái Chúa119.
Có lẽ một đặc trưng được khai triển nhiều hơn nơi các giáo phụ so với Tân ước đó
là chiều kích cộng đoàn xã hội. Thánh Cyprianô nói rằng hạnh phúc không phải chỉ là nhìn
ngắm Thiên Chúa mà còn hưởng sự trường sinh bất tử cùng với các người công chính và
các bạn hữu của Chúa (Epistola 58,10). Theo thánh Grêgôriô Cả, trời gồm “cộng đoàn các
phúc nhân”. Thánh Augustinô đã dành một tác phẩm để bàn về “thành đô của Chúa”.
Theo thánh Bêđa, sự sống vĩnh cửu là niềm vui được chia sẻ với các bạn bè thánh thiện120.
Như vậy, đến các giáo phụ đã xem ở trên Thiên đàng gồm “các cộng đoàn phúc nhân”, mang
chiều kích cộng đoàn xã hội. Do đó, ta có thể gọi Thiên đàng, Nước trời là Giáo hội khải hoàn.
Vì ở đó các ngài sống tràn ngập niềm vui, hạnh phúc bên Chúa. Điều nay chúng ta sẽ thấy rõ
hơn nơi Huấn quyền của Giáo hội.
2.2. Huấn quyền của Giáo hội
Vào thời trung cổ, tuyên ngôn quan trọng nhất của huấn quyền là tông hiến Benedictus
Deus của Đức thánh cha Benedicto XII. Tông hiến này tuyên bố hai điểm quan trọng:
- Linh hồn những người lành sẽ được lên trời, được vào Thiên quốc và Thiên đàng
cùng với Chúa Ki-tô liền sau khi chết (hoặc sau khi đã được thanh luyện), chứ không cần
ngày tận thế.
- Bản chất hạnh phúc Thiên đàng là được thấy bản tính Thiên Chúa: sự chiêm ngắm
này có tính cách trực tiếp. Sự chiêm ngắm này phát sinh hạnh phúc trường tồn, vì thế gọi là
“phúc kiến”: sự thấy mang lại hạnh phúc121.
Sau đó, Sắc lệnh cho người Hy lạp của công đồng Hiệp Nhất ở Plorence (1439)
tuyên bố: “linh hồn các kẻ công chính đã được thanh luyện tinh tuyền “được chiêm ngắm
Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi, như chính Người thực sự, nhưng tùy theo mức độ
khác biệt của công nghiệp mà người này sẽ diện kiến tuyệt hảo hơn với người kia”122. Đặc
biệt, là bản văn của công đồng Vaticano II cũng xác tín thêm.
Công đông Vaticano II trong hiến chế tín lý về Giáo hội số 48 trình bày đạo lý về
sự sống đời đời dựa theo ngôn ngữ Kinh thánh hơn là triết học. Thực tại căn bản là được
nhìn thấy Chúa. Đồng thời công đồng cũng trích các bản văn Tân ước nói đến mối liên hệ
với Đức Ki-tô “ở với Đức Ki-tô” (x. Pl 1,23), “hiện trị với Đức Ki-tô”, “cùng với Người tiến
119 Clemente Alexandria, Str.omata 7,10, 55. Dẫn lại trong Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng,
Cánh chung học, học viện liên dòng thánh Toma Tp. HCM, 2004, tr. 224. 120 x. Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, sđd, tr. 224. 121 Benedicto XII, Tông hiến Benedictus Deus, D 530. 122 D 693, dẫn lại trong Ludwig Ott, Tín lý tập II, người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh, Đại chủng viện
thánh Giu-se -2003, tr. 451.
39 vào hôn lễ”. Qua số 49, công đồng thêm vào chiều kích Hội thánh, khi cộng đoàn các phúc
nhân đạt tới mức độ hoàn tất trong thành đô trên trời123.
Sau công đồng Vaticano II, một tài liệu quan trọng khác là sách Giáo lý Hội thánh
Công giáo. Năm 1992, Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã ban hành sách Giáo lý của Giáo
hội Công giáo, trong đó xác quyết về Thiên đàng và trình trạng hạnh phúc vô biên như sau:
“Những kẻ chết trong ơn nghĩa Chúa và kẻ đã được thanh luyện trọn vẹn, sẽ sống mãi với
Đức Ki-tô. Muôn đời họ sẽ nên giống Thiên Chúa, vì Người thế nào họ sẽ được ‘nhìn thấy
Người như vậy’diện đối diện” (lGa 3,2)124. Giáo lý còn cho chúng ta biết:“Thiên đàng” là
cuộc sống viên mãn vì được hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi,
với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, với các thiên thần và các thánh. Thiên đàng là mục đích tối hậu
và là sự hiện thực các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng hạnh phúc
tuyệt hảo và chung cuộc125. Trên Thiên đàng là được ở với Đức Ki-tô, nhưng người ta vẫn
còn bản sắc của mình: “Lên Thiên đàng” là “được ở với Đức Ki-tô”. Những người được
tuyển chọn “sống trong Người”, nhưng vẫn giữ, hay nói đúng hơn là tìm được căn tính
đích thực của mình, danh xưng riêng của mình126.
Ở trên Thiên đàng hay trong Giáo hội khải hoàn sẽ được nhìn ngắm Chúa, hiệp
thông với Chúa, nhưng thân xác đã ban thêm khả năng vượt trên tình trạng con người tự
nhiên: “Thiên Chúa siêu việt, nên ta chỉ thấy được Người khi chính Người mặc khải mầu
nhiệm cho ta chiêm ngưỡng và khi Người ban cho ta khả năng đó. Việc chiêm ngưỡng
Thiên Chúa trong vinh quang Thiên quốc được Hội thánh gọi là“phúc kiến”127. Điều này
thánh Sypriano cũng nói: “Bạn sẽ được vinh quang và hạnh phúc biết bao: khi bạn được
Thiên Chúa tiếp nhận để thấy Người, được vinh dự hưởng niềm vui cứu độ và ánh sáng
vĩnh cửu cùng Đức Ki-tô, Chúa của bạn... Trên Thiên quốc, bạn được hưởng niềm vui của
sự bất tử cùng với những người công chính và những bạn hữu của Thiên Chúa”128.
Như vậy, Giáo hội đã có những bản văn chính thức trình bày cho con cái biết về
Giáo hội khải hoàn, nơi đó mọi người được sống hiệp thông trọn vẹn với Đức Ki-tô, với
Thiên Chúa Ba Ngôi, cùng toàn thể các thánh được tụ họp từ bốn phương, từ tạo thiên lập
địa cho đến ngày tận thế. Ở đó mọi người sẽ được hạnh phúc viên mãn: “Trên Thiên đàng,
các phúc nhân sống trong trạng thái của thần thiêng, có thú vui hạnh phúc của thần thiêng
cao hơn thú vui thể xác vừa mau qua và gây phiền toái! Sống mãi mãi trong một Nước trời
123 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 48-49. 124 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1023. 125 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1024. 126 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1025. 127 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1028. 128 x. T. Syprianô, thư 56,10,1.
40 công bằng, vui vẻ, yêu thương”129. Đó là những điều xác tín của Giáo hội. Các nhà thần
học cũng dựa vào Kinh thánh và các bản văn của Giáo hội để tiếp tục suy tư thần học về
Giáo hội khải hoàn trên Nước trời
3. Suy tư thần học
Có rất nhiều cách để suy tư về Thiên đàng hay Giáo hội khải hoàn. Các sách giáo lý
và sách tĩnh tâm sẽ cố gắng dùng nhiều hình ảnh để đập vào tâm trí của tín hữu, kích thích
lòng họ khát khao về những sự trên trời. Trái lại, ngôn ngữ thần học muốn chú trọng đến
bản chất hạnh phúc đích thực là “chiêm ngưỡng Chúa”, “ở bên Chúa”. Đây là những tư
trưởng mà các tác giả Kinh thánh đã trình bày, giờ đây các nhà thần học triển khai thêm.
3.1. Khát mong hạnh phúc vĩnh cửu
Với những suy nghĩ tự nhiên chúng ta thường ước mong được sống lâu “trường
sinh”. Ta thường nghe những câu chúc nhau vào dịp đầu năm “trường thọ”. Rồi y khoa cổ
truyền và cận đại đã tìm mọi cách để tìm ra thuốc trường sinh, nhưng cho đến nay trường
sinh mới chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết chứ chưa có trên thị trường. Thế nhưng trường
sinh đâu phải là hạnh phúc. Bởi vì chúng ta thấy các cụ trong các nhà dưỡng lão và trong
nhiều gia đình, nhiều người mong thà chết sớm còn hơn. Như vậy, sự kéo dài năm tháng
chưa đủ mang lại hạnh phúc. Thế thì tìm đâu ra hạnh phúc? Thế nào là hạnh phúc?
Trong bộ tổng luận thần học, để trả lời câu hỏi đâu là hạnh phúc thực sự của đời
người, thánh Tôma đã dành ra 5 vấn đề (questions) với 40 tiết để nói về cứu cánh và hạnh
phúc. Phải chăng hạnh phúc ở chỗ giàu sang? Danh giá? Chức quyền? Phải chăng hạnh
phúc ở chỗ thân xác khỏe mạnh, khoái lạc vật chất? Phải chăng hạnh phúc ở chỗ biết nhiều
hiểu rộng? Ta có thể đoán được, câu trả lời tất nhiên là phủ định, bởi vì tất cả những điều
thiện hảo ở đời này là đều hữu hạn, không bền vững vì thế không mang lại hạnh phúc (ST.
I-II, q.2). Đi xa hơn nữa, thánh Tôma cho thấy rằng hạnh phúc con người chỉ có thể tìm
thấy nơi Thiên Chúa, nơi sự chiêm ngắm Chúa (ST. I-II, q.3). Đó là nói đến phương diện
khách thể, còn xét về phía chủ thể thì sao? Nói cách khác việc chiêm ngắm Thiên Chúa
mang lại gì cho ta xét về linh hồn và thể xác? (ST. I-II, q.4). Câu hỏi Cuối cùng dành cho
vấn đề chiếm hữu hạnh phúc: làm thế nào đạt tới hạnh phúc? (ST. I-II, q.5). Theo nhà hiền
triết, hạnh phúc là phần thưởng của những công việc phúc đức. Thánh Tôma còn nói:
“Công việc của con người thì cần để đến hạnh phúc. Thế nhưng có những trường hợp như
các trẻ em đã được rửa tội, rồi chết chưa có công nghiệp gì cũng được hạnh phúc. Đó là
nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô”130.
129 Lm. Đoàn Quang, CMC, Tìm hiểu Thiên đàng-Luyện ngục, tr. 20. 130 x. Toma Aquino, Tổng luận thần, Phần I-II, q. 1-5, người dịch Joanchim Nguyễn Văn Liêm, Tp. HCM
2003, tr. 363-367.
41
Như vậy, qua suy tư thần học của thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết được hạnh
phúc đích thực của con người là ở nơi Chúa, chỉ có nơi Thiên Chúa con người mới thỏa
mãn khát vọng hạnh phúc. Hạnh phúc theo Ki-tô giáo: sự sống đời đời hệ tại biết Thiên
Chúa, chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa và thông hiệp với Người.
3.2. Chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa
Suy thần học cho đến nay chỉ chú trọng vào việc phân tích “nhìn thấy Chúa” (phúc
kiến). Thần học kinh viện trình bày sự chiêm ngưỡng như là một tác động của tri thức, theo
đó trên Thiên đàng, chúng ta sẽ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa. Chúng ta sẽ “hiểu biết”
Chúa cách trực tiếp, chứ không cần đến hình ảnh, ý niệm nữa. Mặt khác, thần học kinh
viện cũng không quên nhấn mạnh rằng con người cần được Chúa ban “ánh sáng vinh
quang” thì mới có thể nhận biết Thiên Chúa, bởi vì điều này vượt quá khả năng tự nhiên
của lý trí131. Cách thức của sự chiêm ngưỡng này cần thiết là siêu nhiên. Vì thế linh hồn
phải được nâng lên, được thích ứng, bằng một nguyên lý thần linh về hiểu biết và yêu mến:
đó là “ánh sáng vinh quang”. “Trong ánh sáng Người, chúng tôi được thấy ánh sáng” (x.
Tv 35,10). “Ánh sáng vinh quang” này sẽ nâng linh hồn “nhìn ngắm” diện đối diện, nghĩa
là trực tiếp, không còn trung gian, không có lý luận và không có sự tối tăm132. Thế nhưng,
trong ngôn ngữ của Kinh thánh, việc “nhìn ngắm” Chúa không phải chỉ là hành động tri
thức, nhưng bao hàm sự sống thân mật với Thiên Chúa. Sự “hiểu biết Chúa” thu hút toàn
thể con người: cả hiểu biết lẫn yêu mến, nhất là bởi vì Thiên Chúa vừa là Chân lý, vừa là
Thiện toàn133.
Quả thật, mức độ của sự chiêm ngưỡng khác nhau nơi các thánh nhân. Bởi vì “ánh
sáng vinh quang” tương xứng với lòng mến và công trạng của mỗi người, nghĩa là với
“khả năng đón nhận Thiên Chúa” của mình. Sự nhìn ngắm không thể giảm hay mất đi vì
Thiên Chúa luôn luôn vẫn là một. Trong sự chiêm ngưỡng, linh hồn hoàn toàn được hạnh
phúc viên mãn134. Vì thế, mỗi người sẽ “nhìn ngắm Chúa” theo cách thức riêng của mình.
Chính Đức giáo hoàng Biển Đức XVI cũng xác tín điều này: “Vì Thiên đàng được lãnh
nhận theo từng cá nhân của mình; mỗi người sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa theo cách của
mình; mỗi người lãnh nhận tình yêu của tất cả trong sự duy nhất không thể thay thế”135.
Do đó, khi nói “lên trời” là một hình ảnh gợi lên ý nghĩa sự hoàn tất của con người và trạng
131 x. Toma Aquino, Summa Theologiae I, q.12, a.5; Công đồng Vienne, Ds 875; Dẫn trong Lm. Phan Tấn Thành,
nt. Maria Đinh Thị Sáng, Cánh chung học, Học viện Liên dòng thánh Tôma Tp. Hồ Chí Minh, 2004, tr.229. 132 x. Mầu nhiệm cánh chung, tr.. 169. 133 x. Lm. Phan Tấn Thành, nt. Maria Đinh Thị Sáng, Sđd, tr.. 229-230. 134 x. Mầu nhiệm cánh chung, tr.. 169-170. 135 Josep Ratzinger- Đức giáo hoàng Biển Đức XVI, Cánh chung luận: sự chết và đời sống vĩnh cửu, nxb
Tôn giáo, 2013, tr. 285, bản dịch của Lm. Nguyễn Văn Trinh.
42 thái hạnh phúc hoàn toàn trọn vẹn136. Vì “hạnh phúc Thiên đàng là hiệp thông với Đức
Giê-su Ki-tô, với các thiên thần và các thánh, với cha mẹ, anh em họ hàng, bè bạn mà ta đã
biết trong cuộc đời trần thế137.
Như vậy, qua một vài suy tư thần học cho ta biết nơi Giáo hội khải hoàn là một nơi
tràn đầy hạnh phúc, mỗi người được thỏa mãn sự khao khác của mình là được hưởng phúc
chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa. Tuy nhiên sự chiêm ngưỡng đem lại hạnh phúc cho mỗi
người một cách khác nhau.
Để kết thúc phần này, xin trích lại câu chuyển của linh mục Đắc Lộ (Alexander
Rhode) đã ghi lại về một người Việt Nam thoáng thấy Thiêng đàng:
Trong thành phố Phú Yên, có một thầy lang nổi tiếng, ông cũng nổi tiếng là một
giáo dân tốt lành, tên ông là Emmanuel (tên rửa tội). Ông chăm sóc thân xác và linh hồn
giáo dân cũng như lương dân, và ông thường khuyên họ theo đạo thật thờ Chúa Trời đất.
Khi tôi đến được ít lâu thì ông mắc bệnh hiểm nghèo làm cho giáo dân lo lắng sợ
tắt mất một bó đuốc soi sáng cho cả giáo đoàn. Ngày đêm họ ở bên cạnh ông và khóc lóc
như khóc người chết. Một hôm khi giáo dân vây quanh giường ông, ông kiệt sức quá làm
cho người ta tưởng ông đã tắt thở. Sau mấy giờ, ông lại hồi tỉnh, và mọi người rất bỡ ngỡ.
Khi tỉnh lại ông mới nói, đó là cơn ngất trí. Chúa đã cho ông thấy thiêng đàng, nơi có nhiều
sự tuyệt vời ông không thể nào diễn tả được. Ở đó có mấy giáo dân ông quen biết khi còn
sống đã làm gương sáng nhân đức nhưng ông không kể tên riêng ai. Đây không phải là
giấc mơ, vì khi chỗi dậy, ông khỏe mạnh như chưa bao giờ đau yếu, mặc dù trước đây ông
bị bệnh khó sống nổi.
Từ đó ông chán ghét những sự đời. Ông luôn luôn nghĩ tới những vẻ đẹp ông đã
thấy trên trời. Khi sống với họ hàng thân thuộc, ông không nói gì ngoài những niềm hy
vọng cao cả, mắt luôn hướng lên trời và tâm hồn như muốn ngả về lâu đài tuyệt diệu ông
đã được thấy. Ông chẳng còn thiết tha gì ăn uống ngủ nghỉ, và có chăng nữa thì chỉ là bất
đắc dĩ. Ông nóng lòng được về Thiên quốc. Do đó, người ông héo hon dần, và qua đời sau
mấy tháng trong một niềm vui sướng lạ lùng đến nỗi lúc ông sắp chết, người ta thấy nơi
khuôn mặt ông và toàn thân ông tỏ ra một niềm vui thanh thoát như chưa bao giờ thấy nơi
ông”. Và cha Đắc Lộ thêm: “Thật ra những người biết cõi trời quí giá đến thế nào thì
không còn thèm tất cả những gì đẹp đẽ nhất ở cõi đời này”138. Đó là niềm hạnh phúc của
những người trong Giáo hội khải hoàn.
136 Lm. Aug. Hoàng Đức Toàn, Cao đẳng giáo lý Tập 9: Cánh chung học, nxb Tôn giáo, 2010, tr.53. 137 Lm. Aug. Hoàng Đức Toàn, Cao đẳng giáo lý Tập 9: Cánh chung học, nxb Tôn giáo, 2010, tr.55. 138 Lm. Đắc Lộ, Hành trình truyền giáo, bản dịch của Hồng Nhuệ, tr.104-105.
43
Như vậy, Giáo hội khải hoàn là qui tụ những người đã đi đến cùng đích hành trình
dương thế của mình trong tình yêu. Họ là những người chiến thắng, đã vượt qua thử thách,
cám dỗ để chiếm được phần thưởng Nước trời mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những ai
trung tín theo Ngài đến cùng. Trong tình yêu tròn đầy, Giáo hội trên Trời vui mừng, hân
hoan hưởng hạnh phúc được diện đối diện, chiêm ngưỡng Thiên Chúa139.
Tóm lại, chúng ta đã lần lược tìm hiểu Giáo hội lữ hành, Giáo hội thanh luyện và
Giáo hội khải hoàn. Trước hết, Giáo hội lữ hành là Giáo hội chính Chúa Giê-su đã thiết lập
ở trần gian này và đang trên đường tiến về quê trời. Thứ đến là Giáo hội thanh luyện đã
được Kinh Thánh mạc khải, cũng như qua các bản văn của Giáo hội và suy tư thần học,
cho chúng ta biết được, đó là những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được
thanh sạch hoàn toàn, thì cần một thời gian thanh luyện cho tinh tuyền để vào hưởng tôn
nhan Chúa. Cuối cùng, những người đã được cứu độ, cùng với Mẹ Maria, các thiên thần và
các thánh đang diện kiến tôn nhan Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh, đều thuộc về Giáo hội
khải hoàn hay còn gọi là Nước trời. Nói như thế không phải là ba Giáo hội, nhưng sách
Giáo lý Hội thánh Công giáo gọi là ba trạng thái của Giáo hội. Cả ba trạng thái này thực sự
chỉ là một Giáo hội duy nhất trong Đức Ki-tô. Vậy, ba trạng thái của Giáo hội có liên hệ,
hiệp thống với nhau như thế nào? Qua chương ba “Mầu Nhiệm Các Thánh Hiệp Thông” sẽ
cho chúng ta câu trả lời về sự hiệp thông.
139 Jorthe Nắng Tím, Những người lữ hành hạnh phúc, tập 3: Vòng tay đời đời, nxb Tôn giáo 2012, tr.76.
44
Chương III:
Mầu Nhiệm Các Thánh Hiệp Thông
Trong Giáo Hội
Một trong những đặc tính nổi bật của đạo Công giáo đó là mối tương quan giữa
người sống và kẻ chết. Mối tương quan này được diễn tả trong giáo lý là “mầu nhiệm hiệp
thông các thánh”. Nghĩa là tin rằng những người còn ở trong Giáo hội dưới đất cũng có
được một thứ hiệp thông nào đó với tất cả những người đã chết trong Chúa, được hưởng
tôn nhan Chúa trên Thiên đàng và các linh hồn đang còn thanh luyện140. Sự hiệp thông của
các thánh được bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Hay nói cách khác, chính Thiên Chúa
Ba Ngôi là khuôn mẫu cho các thánh hiệp thông với nhau.
I. Ba Ngôi Là Khuôn Mẫu Của Sự Hiệp Thông
Khi nói Thiên Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu cho các thánh hiệp thông, nghĩa là có sự
hiệp thông giữa Ba Ngôi với nhau, và khuôn mẫu đó là sự trao ban tình yêu cho nhau một
cách sung mãn. Giáo hội nhìn vào Ba Ngôi để sống mầu nhiệm hiệp thông. Hay nói cách
khác, sự hiệp thông của Giáo hội bắt nguồn từ Ba Ngôi. Tình yêu giữa Ba Ngôi trào tràn
cho Giáo hội để sống hiệp thông trọn vẹn hơn.
1. Mối hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa
Nhờ Chúa Giê-su mạc khải mà chúng ta biết được rằng Ba Ngôi Thiên Chúa sống hiệp
thông trọn vẹn với nhau trong hạnh phúc sung mãn. Khi Chúa Giê-su xuống thế làm người,
Ngài vẫn là Thiên Chúa, nên Ngài luôn luôn sống hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh
Thần. Chính Tin mừng cho ta biết sự hiệp thông giữa Ba Ngôi với nhau.
Công việc đầu tiên trong Tin mừng cho ta biết về mối hiệp thông giữa Ba Ngôi là
khi sứ thần báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng
Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Hài Nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên
Chúa” (Lc 1,35). Đấng Tối Cao là Chúa Cha trong tác động của Chúa Thánh Thần, lo cho
Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa.
Sau đó, khi Chúa Giê-su chịu phép rửa thì trời mở ra, Thánh Thần như chim bồ câu
đáp xuống trên Người, và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta” (Mt 3, 16-
17). Chúa Cha xác nhận và giới thiệu Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, còn Thánh Thần
140 x. Thomas P. Rausch S.J. Đạo Công giáo thiên niên kỷ thứ ba, nxb Tôn giáo, 2010, tr. 372. Bản dịch: Lm.
Đaminh Nguyễn Đức Thông.
45 đến làm nguyên lý hành động cho Chúa Giê-su141. Khi 72 môn đệ đi truyền giáo rồi trở về
vui mừng và báo cáo kết quả thì Chúa Giê-su được Thánh Thần tác động nên hớn hở vui
mừng thưa vơi Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất…” (Lc 10,21). Kế tiếp là trên núi
Tabo Chúa Cha cũng mặc khải cho các môn đệ của Chúa Giê-su biết: “Này là Con Ta, kẻ
Ta tuyển chọn, hãy nghe lời Người” (Lc 9,5). Tiếng phán đó được củng cố thêm bởi Chúa
Thánh Thần tượng trưng qua đám mây bao phủ tất cả mọi người142.
Cuối cùng, trong bữa tiệc ly Chúa Giê-su hứa với các Tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa
Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga
14,16). Chúa Giê-su xin Chúa Cha ban Đấng bảo trợ là Thần Khí sự thật, nghĩa là ban
Thánh Thần cho các môn đệ. Điều này đã được thực hiện trước khi Chúa Giê-su về trời
truyền cho các môn đệ: “Rửa tội cho muôn dân nhân danh Cha, Con và Thánh Thần” (Mt
28,19), nghĩa là rửa tội nhân danh một Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, để được
hiệp thông với sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa 143. Như vậy, ngoài tất cả những chỉ dẫn
rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, các Tin mừng còn cho chúng ta trải nghiệm mối quan hệ
của Chúa Giê-su với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Quả thật, qua những sự việc và hoạt động diễn tả mối hiệp thông giữa Ba Ngôi,
Đức Giê-su đã mạc khải cho ta biết: “Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Người là Con Một của
Chúa Cha, Người và Chúa Cha là một” (x. Ga 10,30), Người ở trong Chúa Cha và Chúa
Cha ở trong Người (x. Ga, 10,38), nghĩa là Người cùng bản tính với Chúa Cha, Người
cũng là Thiên Chúa, và Người với Chúa Cha là một Thiên Chúa. Người cũng mặc khải
Thánh Thần là Đấng Người sai đến trần gian từ nơi Chúa Cha (x. Ga, 15,26), và cũng là
Đấng mà Chúa Cha sai đi nhân danh Chúa Con (x. Ga 14, 26); Thánh Thần cũng là Thiên
Chúa, và Thánh Thần với Người và với Chúa Cha là một. Mỗi ngôi vị có tương giao khác
nhau với hai ngôi vị kia và có sứ mệnh riêng biệt, như sứ mệnh nhập thể của Chúa Giê-su và
sứ mệnh thánh hóa của Chúa Thánh Thần, nhưng Ba Ngôi không tách rời nhau trong bản
tính cũng như hành động 144. Bởi vì, nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, không có ngôi nào sống cho
riêng mình. Cha không sống cho mình mà sống cho Con và vì Con; Con không sống cho
mình mà sống cho Cha và vì Cha. Thánh Thần là tình yêu của Cha và Con nên cùng một hữu
thể sống cho người khác145. Do đó, Ba Ngôi có một mối hiệp thông sung mãn nhờ sự trao
ban tình yêu.
141 Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô – Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 105. 142 Michel Rondet, S.J. Tường Thuật mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, tr. 24. Bản dịch của Câu lạc bộ dịch
thuật Đại chủng viện Hà Nội, 2008. 143 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô – Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr.106. 144 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô – Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr.106-107. 145 x. Thedule Rey-Mermet, Kinh tin kính, tr. 224-225. Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông biên soạn, 1990.
46
2. Ba Ngôi hiệp thông với nhau nhờ sự trao ban tình yêu
Đối tượng niềm tin của Ki-tô giáo là Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi: Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong Ba Ngôi có sự hiệp thông viên mãn, bởi Thiên
Chúa là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16). Nhưng tình yêu là sự thiện hảo luôn trào tràn. Vạn vật và
chúng ta là kết quả của sự trào tràn tình yêu Thiên Chúa146. Với bản chất là yêu thương,
Thiên Chúa sống mầu nhiệm hiệp thông và yêu thương của Ba Ngôi duy nhất. “Chúa Cha
và Chúa Con yêu thương nhau bằng một tình yêu, mà tình yêu này là Thánh Thần, là một
ngôi vị”147. Chúa Thánh Thần là tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con, mà các nhà thần
bí gọi “nụ hôn gắn kết hai ngôi vị”. Là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, Chúa Thánh
Thần còn là Đấng khai mở tình yêu đó ra cho các tha nhân. Vì Thánh Thần là đối tượng
“cùng được yêu” giữa Chúa Cha và Chúa Con, nên Ngài đã mở tình yêu của hai ngôi ra để
trao ban. Nơi Thánh Thần, Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau mãnh liệt đến nỗi
không thể không tràn ra ngoài, thế nên, Thánh Thần là ân ban tuyệt vời của Chúa Cha và
Chúa Con, là hồng ân có sức sống của tình yêu giữa hai ngôi. Là hồng ân của Thiên Chúa,
Chúa Thánh Thần chính là sự mới mẻ đầy sức sáng tạo của tình yêu trong thế gian148.
Quả thật, Ba Ngôi hiệp thông với nhau trong tình yêu tuyệt vời đến nỗi mỗi Ngôi
vừa yêu và được yêu trọn vẹn trong hiệp thông toàn diện với nhau. Chính tình yêu tuyệt
vời này làm cho Ba Ngôi hạnh phúc sung mãn, và vì hạnh phúc sung mãn nên Thiên Chúa
đã sáng tạo nên con người và vạn vật rất tốt đẹp để chia sẻ hạnh phúc ấy cho họ. Đến khi
con người phạm tội đánh mất hạnh phúc và kéo theo vạn vật vào đường xấu thì cũng chính
vì tình yêu và hạnh phúc sung mãn đó mà Chúa Cha đã sai Chúa Giê-su nhập thể và sai
Thánh Thần đến đem con người và vũ trụ vạn vật trở về hiệp thông với Thiên Chúa và với
nhau để tìm lại hạnh phúc đã đánh mất149. Do vậy, “Giáo hội đã hiểu ra rằng đối với Thiên
Chúa Ba Ngôi tình yêu là căn bản và có tình yêu là mọi sự đều có thể đổi thay”150. Nhờ
tình yêu giữa Ba Ngôi trào tràn nên đã có Giáo hội. Vậy Giáo hội được bắt nguồn từ Ba
Ngôi và hiệp thông theo Ba Ngôi.
3. Giáo hội hiệp thông bắt nguồn từ Ba Ngôi
Công đồng Vaticano II trình bày Giáo hội là cộng đoàn hiệp thông trong Ba Ngôi,
vì Giáo hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa
146 x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt giống chiêm niệm, số 12: Hiệp thông, 2013, tr. 37. 147 Chia sẻ số 75 Nội San Thần Học-Mụ Vụ-Tu Đức Liên tu sĩ Thành phố, Gia đình là cộng đoàn yêu
thương, tháng 09 năm 2014, tr. 55. 148 x. Michel Rondet, S.J. Tường Thuật mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, tr.105. Bản dịch của Câu lạc bộ dịch
thuật Đại chủng viện Hà Nội, 2008. 149 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô – Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 107. 150 Michel Rondet, S.J. Tường Thuật mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, tr. 107. Bản dịch của Câu lạc bộ dịch
thuật Đại chủng viện Hà Nội, 2008.
47 Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần151. Quả thật, mầu nhiệm Giáo hội phát xuất từ mầu
nhiệm Ba Ngôi. Không thể hiểu được bản chất và sứ mệnh của Giáo hội nếu tách rời Giáo
hội ra khỏi Ba Ngôi. Giáo hội bắt nguồn từ Ba Ngôi và có tương quan riêng biệt với từng
ngôi, nhận sứ mệnh từ Ba Ngôi, sống và tồn tại nhờ Ba Ngôi152. Vì trong mức độ tự thông
ban chính mình cho con người như thế, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi vốn hiệp nhất tự
yếu tính và là sự hiệp thông sâu xa của Ba Ngôi Vị trong tình yêu, chỉ có thể tạo ra tình
yêu mà thôi. Cộng đoàn nhân loại mà vốn được thu nhận vào thực tại hiệp nhất giữa Cha,
Con và Thần Khí đó, cái “họa ảnh” diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh đó
là Giáo hội, tức là dân tộc được Thiên Chúa Cha qui tụ qua những sứ vụ của Con và của
Thần Khí, (Giáo hội khai sinh từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi)153. Bởi, Thiên Chúa là
tình yêu và mọi tình yêu đều đến từ Thiên Chúa. Tình yêu chính là nền tảng mà Thiên
Chúa đã ban cho con người để họ có khả năng yêu thương như Ngài. Từ nguồn sung mãn
Ngài là tình yêu được lan tỏa nơi con người, Ngài đưa tình yêu này đến đỉnh cao trọn vẹn
và mời gọi con người sống tình yêu này. Khi sống yêu thương, con người thể hiện bản chất
cốt yếu của mình là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, con người được dựng nên để
sống yêu thương và hiệp thông với nhau154. Chính nhờ sự yêu thương đã tạo nên một Giáo
hội yêu thương như Ba Ngôi.
Giáo hội nảy sinh từ Thiên Chúa, được đặt trong thời gian, do sáng kiến tuyệt diệu
của tình yêu Ba Ngôi. Giáo hội là Giáo hội của Cha, Đấng do lòng rộng rãi và hoạch định
mầu nhiệm của sự khôn ngoan và lòng tốt, đã triệu tập Giáo hội trong Đức Ki-tô. Giáo hội
là Giáo hội của Con, Đấng qua biến cố nhập thể và phục sinh, đã khai mào Nước trời trên
mặt đất, khi thiết lập Giáo hội như là Thân Mình của Ngài. Giáo hội là Giáo hội của Thần
Khí, Đấng ở lại trong Giáo hội và trong tâm hồn của các tín hữu như trong một đền thờ,
luôn làm cho Giáo hội sống động, dẫn đưa Giáo hội trong sự hiệp thông và trong sự phục
vụ, khi tuôn tràn trên Giáo hội những ân huệ của Ngài và trang sức cho Giáo hội được xinh
đẹp bằng những hoa quả của Ngài155. Như vậy, Giáo hội đến từ Cha qua Con trong Thần
Khí. Là công trình của những sứ vụ thần linh, Giáo hội là nơi gặp gỡ giữa trời và đất. Do
đó, Giáo hội không ngừng được tạo ra bởi mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi156.
151 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 4. 152 x. Lm. Nguyễn Văn Tuyên, Tin mừng Nước Thiên Chúa, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 203-204. 153 x. Bruno Forte, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như một lịch sử, nxb Tôn giáo, 1989, tr. 258. Chuyển
ngữ: Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung. 154 x. Chia sẻ số 75 Nội San Thần Học-Mụ Vụ-Tu Đức liên tu sĩ Thành phố, Gia đình là cộng đoàn yêu
thương, tháng 09 năm 2014, tr. 55-56. 155 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium) số 2-4. 156 x. Bruno Forte, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như một lịch sử, nxb Tôn giáo, 1989, tr. 259. Chuyển
ngữ: Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung.
48
Thật thế, Giáo hội phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi, nên Giáo hội cũng được cấu
trúc theo hình ảnh mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi,
nguồn suối và hình ảnh của Giáo hội, chính là mục đích của Giáo hội. Sinh ra từ Cha, bởi
Con, trong Thần Khí, sự hiệp thông Giáo hội phải quay trở lại với Cha, qua Con, trong
Thần Khí, cho đến ngày mà mọi sự lại cho Cha, ngõ hầu “Thiên Chúa là mọi sự nơi tất cả
mọi người” (1Cr 15,28). Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn gốc và là quê hương
mà dân lữ hành vẫn đang hướng tiến về đó. Thân phận cuối cùng sẽ được hưởng vinh
quang đó, lúc mà sự hiệp thông nhân loại sẽ được ngụp lặn trong thực tại sung mãn vĩnh
hằng là sự sống thần linh, thiết lập nền tảng cho đặc tính cánh chung của Giáo hội lữ hành.
Quả thật, Giáo hội đến từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, hướng về mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi và được cấu trúc theo hình ảnh của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi157.
Do đó, sự hiệp thông trong Giáo hội được Thánh Thần khơi dậy. Sự hiệp thông mà
chúng ta gọi là Giáo hội, không chỉ vươn tới tất cả mọi tín hữu trong một thời gian lịch sử
nào đó, nhưng còn vươn đến mọi thời đại và mọi thế hệ. Nghĩa là, chúng ta thấy mình
đứng trước hai chiều kích của tính phổ quát nơi Giáo hội: phổ quát tính chiều rộng, là
chúng ta hiệp nhất với tất cả tín hữu khắp nơi trên thế giới; và phổ quát theo chiều sâu thời
gian, là tất cả mọi thời đại đều thuộc về chúng ta, kể cả những tín hữu trong quá khứ và
trong tương lai cùng với chúng ta hiệp thông duy nhất và trọn vẹn158. Thế thì điều gì làm
cho các tín hữu liên kết, hiệp thông được với nhau? Điều làm cho các tín hữu liên kết với
nhau là nhờ sự yêu thương, quan tâm đến nhau qua việc cầu nguyện. Cầu nguyện chính là
sợi dây liên kết các chi thể lại với nhau. Vì qua cầu nguyện, mọi người được liên kết với
Thiên Chúa Ba Ngôi, và qua Ba Ngôi sẽ đưa con người đến hiệp thông với nhau, nhất là
nơi Giáo hội lữ hành.
II. Hiệp Thông Giữa Các Thành Phần Trong Giáo Hội Lữ Hành
Các thành phần trong Giáo hội hiệp thông với nhau đã được Kinh thánh dùng hai
hình ảnh sống động là cây nho và cành nho (x. Ga 15), đầu với các chi thể (x. 1Cr 12).
Điều đó muốn nói lên mọi thành phần trong Giáo hội hiệp thông với nhau trong phẩm trật,
trong thân thể và trong tình liên đới với nhau. Trước hết là hiệp thông trong phẩm trật.
1. Hiệp thông trong phẩm trật
Trước công đồng Vaticano II, nói đến tổ chức cơ cấu trong Giáo hội, người ta
thường nghĩ đến hình ảnh một kim tự tháp, ở chóp định là giáo hoàng, dưới là hồng y, tổng
giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, và cái đáy dưới cùng là giáo dân. Hình ảnh này đưa đến
một quan niệm không đúng về nhiệm vụ mỗi thành phần, nhất là giáo dân bị coi là thấp
157 x. Bruno Forte, Sđd, tr. 261-262. 158 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Niềm vui đức tin, Biên soạn Phạm Đình Phước, nxb Hồng Đức, 2013, tr. 71.
49 kém chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời cấp trên. Từ công đồng Vaticano II hình ảnh trên đã
được thay thế bằng hình ảnh có một tâm điểm là Đức Ki-tô, từ tâm điểm có nhiều hình tròn
đồng tâm, một vòng là giáo sĩ gồm các giám mục có đức giáo hoàng đứng đầu, và các cộng
sự viên là linh mục và phó tế; một vòng khác là tu sĩ; vòng rộng lớn hơn là giáo dân159. Các
ki-tô hữu hợp thành dân của Thiên Chúa, thành Thân Thể Đức Ki-tô, tất cả đều bình đẳng
trong phẩm giá và hoạt động, đều cùng phải thi hành một sứ vụ chung của Giáo hội, tùy
theo điều kiện và chức vụ riêng của mình, họ có thể là giáo sĩ, giáo dân hay tu sĩ.
Giáo sĩ gồm các ki-tô hữu đã nhận lãnh bí tích truyền chức thánh để thành người
phục vụ dân Thiên Chúa, nhưng phải phục vụ trong một tập đoàn và phục vụ với tư cách
của Đức Ki-tô là thủ lãnh. Giáo sĩ gồm các giám mục, linh mục và phó tế. Giám mục là
người kế vị các Tông đồ họp thành giám mục đoàn mà đứng đầu là đức giáo hoàng đấng
kế vị thánh Phê-rô, để phục vụ trước hết cho mối hiệp thông của toàn thể Giáo hội, và sau
là làm chủ nhân danh Đức Ki-tô với chức quyền đầy đủ. Giám mục có các cộng sự viên là
linh mục và phó tế. Linh mục được giám mục chia sẻ một số chức quyền để phục vụ trong
linh mục đoàn và luôn hiệp thông với giám mục. Còn phó tế là cộng sự viên của giám mục
và linh mục trong các công tác mục vụ dành cho chức vụ này160. Để nói lên sự hiệp thông,
“Giáo hội đã ủy nhiệm cho những người có chức thánh phải cử hành Các Giờ Kinh Phụng
Vụ…. Quả vậy, Hội thánh ủy nhiệm cho họ đọc Các Giờ Kinh Phụng Vụ, để nhiệm vụ cầu
nguyện của toàn thể cộng đoàn ít là nhờ họ mà bảo đảm chắc chắn liên tục, cũng như cầu
nguyện của Đức Ki-tô được tiếp nối không ngừng trong Hội thánh… Tất cả các vị này đều
chu toàn nhiệm vụ của vị Mục Tử nhân hậu, là Đấng cầu nguyện cho đoàn chiên của mình
được sống và hoàn toàn hiệp nhất với nhau”161. Giáo hội đích danh nêu lên những người
được ủy thác: “Cách riêng đây cũng là bổn phận của tất cả những ai đã được Hội thánh
đặc biệt ủy nhiệm cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, những người đó là các giám mục, các
linh mục có nhiệm vụ phải cầu nguyện cho đoàn chiên của họ cũng như cho toàn thể dân
thánh Chúa; những người đó cũng còn là phó tế và các tu sĩ”162. Họ có nhiệm vụ cầu thay
cả Giáo hội, cách riêng là cầu thay cho giáo dân đang phải lo manh áo, gạo tiền không còn
thời gian để thờ phượng Thiên Chúa.
Giáo dân gồm các ki-tô hữu không lãnh bí tích truyền chức thánh và không phải là
tu sĩ, họ thi hành sứ vụ của toàn dân Thiên Chúa bằng cách dùng chính cuộc sống ở giữa
đời và giữa các việc trần thế mà chỉ mình họ mới có thể thực hiện, như: gia đình, chính trị,
159 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô – Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 236. 160 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô – Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 237. 161 Thánh Bộ Phụng Tự, Văn kiện trình bày và qui định các giờ kinh phụng vụ, 1971, số 28. 162 Thánh Bộ Phụng Tự, Văn kiện trình bày và qui định các giờ kinh phụng vụ, 1971, số 17.
50 kinh tế, họ phải thi hành sứ vụ trong hiệp thông với nhau và với giáo sĩ, tu sĩ163. Giáo dân
hợp với các giáo sĩ với cương vị chức tư tế cộng đồng để cầu nguyện cho các Giám mục,
linh mục và tu sĩ nam nữ trở nên những môn đệ trung tín của Đức Ki-tô.
Tu sĩ gồm các ki-tô hữu là giáo sĩ hay giáo dân cũng sống theo các mối phúc và
các lời khuyên Phúc âm như mọi ki-tô hữu khác nhưng họ buộc mình bằng lời khấn với
Thiên Chúa để sống khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục một cách trọn vẹn vĩnh viễn trong
một thể chế mà Giáo hội đã chấp thuận, nghĩa là một dòng tu hay tu hội. Ngày nay có rất
nhiều các dòng tu và tu hội, có thứ sống trong cộng đoàn lớn (tu viện) hoặc nhỏ, có thứ
sống một mình giữa đời. Đời sống của tu sĩ thể hiện sự hiệp thông với Thiên Chúa và với
mọi người một cách đặc biệt hơn, như dấu chỉ báo trước sự hiệp thông trọn vẹn sau ngày
Cánh chung164. Điều đó được thể hiện các giờ kinh phụng vụ mà các tu sĩ cất lên lời ngợi
ca, tôn thờ Thiên Chúa thay cho Giáo hội, trước hết là để hiệp thông với Thiên Chúa, sau
nữa là cầu nguyện cho Giáo hội, cho những người chưa nhận biết Chúa, nhất là cho các tín
hữu đã ly trần được hưởng tôn nhan Chúa. Vì mọi thành phần trong Giáo hội hợp thành
một thân thể trong Đức Ki-tô.
2. Hiệp thông trong thân thể
Một hình ảnh khác sâu sắc hơn mà chính thánh Phaolô đã nói tới và nay được chú
ý, đó là hình ảnh một thân thể có Đức Ki-tô là Đầu, mọi người ki-tô hữu dù là giáo sĩ, tu sĩ
hay giáo dân đều là chi thể của Thân Thể, mỗi chi thể có nhiệm vụ riêng không ai thay thế
được165. Khi nói đến thân thể, là con người trong thân phận yếu hèn, là dấu hiệu của tính
mỏng dòn nhưng cũng là điều tạo nên vẻ cao cả: vì thân thể là “chỗ” gặp gỡ và kết hiệp.
Quả vậy, thân thể một khi đã được thanh luyện, sẽ tạo khả năng cho con người kết hiệp với
Đức Ki-tô, trong mầu nhiệm của Thần Khí. Chính vì con người là xác phàm, trong cơ thể
và trong linh hồn, nên con người được mời gọi kết hợp với Ngôi Lời đã trở thành xác
phàm. Vì thế tuy là hai, mà chỉ là một166. Chính vì được liên kết với Đức Ki-tô mà các tín
hữu có thể hiệp nhất với nhau. Đức Ki-tô là dây liên kết mọi người nên một và chính Ngài
tạo nên Giáo hội. “Anh em là thân thể của Đức Ki-tô” (1Cr 12,27). “Giáo hội đích thực là
thân thể của Ngài” (Ep 1,23). Và “chúng ta tuy nhiều người nhưng chỉ là một thân thể
trong Đức Ki-tô” (Rm 12,5). Chẳng những Đức Ki-tô liên kết và tạo sự hiệp nhất của Giáo
hội như vừa nói ở trên, nhưng Ngài còn là Đầu của Giáo hội, nghĩa là truyền thông sự
163 Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô – Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 237. 164 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Sđd, tr. 238. 165 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Sđd, tr. 236. 166 x. Christian Curty, Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống, nxb Paris, 1970, tr. 62, người dịch Norberto.
51 sống, điều khiển và hướng dẫn Giáo hội. Cùng một sức sống phát sinh từ đầu lưu thông
cho toàn thân167.
Có thể nói cây nho và thân thể là hai hình ảnh diễn tả chính xác hơn về sự hiệp
thông. Trong thân thể, các chi thể hiệp thông, liên đới với nhau. Không một bộ phận nào
trong thân thể có quyền khước từ sự hiệp thông, phủ nhận tương quan với người khác. Một
chi thể đau, cả thân thể khổ sở. Một phần tử bị tổn thương, toàn thân nhức nhối. Cũng thế,
một bộ phận thành công thì các bộ phận khác hưởng nhờ (x.1Cr 12,12-26). Cũng như cành
nho phải nên một với cây nho và các nhánh, các cành, tự tách khỏi cây, cành nho sẽ khô
héo, úa tàn. Tất cả chúng ta hiệp thông thuộc về Đức Ki-tô, thuộc về một Giáo hội.
Sự hiệp thông đó được thể hiện nơi bí tích thánh thể là điểm hội tụ của mọi nơi
chốn, mọi thời đại lại. Bởi vì, phụng vụ qui tụ chung quanh thân mình Chúa cộng đoàn các
tín hữu, những người đang sống trên trần gian và những người đã từ biệt chúng ta, nên
cũng liên kết đến muôn đời tất cả các biến cố của loài người trong biến cố của Đức Ki-tô.
Chính vì thế mà bí tích thánh thể làm nên một Giáo hội. Ai tham dự vào lễ hy tế trên bàn
thờ trở nên một thân mình với Đức Ki-tô, và trong Đức Ki-tô trở nên một thân mình với tất
cả các tín hữu khác168. Vì các tín hữu có sự bác ái, liên đới với nhau trong tình yêu.
3. Hiệp thông trong liên đới
Trong cuộc trao đổi hỗ tương liên kết các tín hữu với nhau, mỗi người trở nên gần gũi
với người khác, vì có thể tham dự vào những biến cố vui buồn tạo nên dòng đời của mọi
người169, để cầu nguyện, lập công phúc và đền tội cho nhau với một tinh thần liên đới mật thiết.
3.1. Lời cầu nguyện cho nhau
“Các tín hữu đang sống có thể cầu xin, người này cho người khác, các hồng ân
Thiên Chúa nhờ vào lời khẩn cầu”170. Niềm tin vào sức mạnh của lời cầu nguyện cho nhau
đã có từ xa xưa. Trong Cựu ước đã xuất hiện những nhân vật cầu nguyện rất nhiệt tình cho
dân Chúa và cho cá nhân. Abraham đã tha thiết cầu xin cho các kẻ lành ở Sôđôm: “Chẳng
lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao?” (St 18,23). Môsê cầu xin Thiên Chúa
cho dân khi dân thờ bò vàng. Ông Môsê cố làm cho nét mặt Đức Chúa, Thiên Chúa của
ông dịu lại. Ông thưa: “Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài,
dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập?”(Xh 32,11). Các
ngôn sứ được các vua hay dân chúng kêu gọi dâng lên Thiên Chúa để cầu bầu cho họ (x.
3V 13,6; Gr 37,3; 42,2).
167 x. Lm. Nguyễn Văn Tuyên, Tin mừng Nước Thiên Chúa, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 224-225. 168 x. Christian Curty, Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống, nxb Paris, 1970, tr. 59. Người dịch Norberto. 169 x. Christian Curty, Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống, nxb Paris, 1970, tr. 58. Người dịch Norberto. 170 Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr.187. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh.
52
Giáo huấn của Đức Giêsu đòi buộc các môn đệ phải cầu nguyện cho kẻ bắt bớ
mình: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược
đãi anh em” (Mt 5,44). Thánh Phaolô đã thực hiện huấn lệnh đó, khi hứa sẽ cầu nguyện
cho các cộng đoàn mà ngài viết thư (x. Rm 1,9), rồi xin họ cầu nguyện cho mình (x. Rm
15,30) và cho tất cả các thánh (x. Ep 6,18). Rồi ngài mời gọi: “Ai nấy dâng lời cầu xin,
khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả nhữngười cầm
quyền” (1Tm 2,1). Thánh Giacôbê cũng mời gọi kitô hữu: “cầu nguyện cho nhau để được
cứu thoát. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực” (Gc 5,16).
Các tác phẩm cổ Kitô giáo có rất nhiều lời khuyên nhủ và cầu xin, mọi người nhớ
nhau trong kinh nguyện. Thánh Clément thành Rôma đòi buộc người thành Côrintô, cầu
nguyện cho kẻ tội lỗi, để họ được hiền hòa và khiêm tốn (Cor. 56,1). Ngài đưa ra một công
thức cầu nguyện, trong đó luôn nhớ đến tất cả những người đã được tuyển chọn trên khắp
thế giới và những người cần đến ơn cứu độ (Cor. 59). Thánh Ignatiô thành Antiochia viết
trong thư xin cầu nguyện cho mình, để ngài được chia sẻ vào ơn tử đạo, cho Hội thánh mồ
côi ở Syrien, cho những kẻ lạc giáo để họ ăn năn trở lại và cho tất cả mọi người171.
Đức giáo hoàng Piô XII viết trong Thông điệp Mystici Corporis: “Ơn cứu độ của
nhiều người tùy thuộc vào lời khẩn cầu và thực hành sám hối tự nguyện của nhiều chi thể
trong Nhiệm Thể của Đức Giêsu Kitô, mà vì mục đích này họ tự nguyện”172. Theo đúng
thực hành kiên vững của Giáo hội, ngài mời các tín hữu biết cầu nguyện cho nhau: “Mỗi
ngày, các lời van xin kết hiệp của chúng ta dâng lên đến tận trời xanh, xin Thiên Chúa đón
nhận mọi chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô”173. Trong Giáo hội, truyền thống tốt đẹp này
còn được duy trì cho đến ngày nay. Quả thực, trong các giờ kinh phụng vụ, chúng ta còn
cầu nguyện cho Giáo hội, cho toàn thể nhân loại được cứu độ “nhờ Đức Giê-su Ki-tô Chúa
chúng ta”174. Chúng ta thường xin người khác cầu nguyện cho ta. Rồi các giáo dân cũng
xin các giáo sĩ, tu sĩ cầu nguyện cho họ. Cụ thể nơi Đan viện Phước Sơn, nhiều người giáo
dân lấy từng mảnh giấy nhỏ viết lên những ý nguyện, nhu cầu cần thiết để xin các thầy cầu
nguyện cho. Có những người được ơn cũng viết giấy xin tạ ơn cùng với họ. Thật không gì
dễ thương và cảm động bằng một dòng nhắn gửi: “nhớ cầu nguyện cho nhau nhé”! hoặc
“Chúng mình cầu nguyện cho nhau”, hay “đừng quên cầu nguyện cho tôi”. Thật là tốt đẹp
thay những tâm hồn luôn biết cầu nguyện cho người khác và còn hơn thế nữa là nhường
công phúc cho họ.
171 x. Polycarpe, Phil. 12,3; Didachè 10,5; Tertullien, De poenit 10,6. Dẫn trong Ludwig Ott, Sđd, tr.188. 172 Đức giáo hoàng Piô XII, Thông điệp Mystici Corporis, số 47. 173 Đức giáo hoàng Piô XII, Thông điệp Mystici Corporis, số 103. 174 x. Thánh Bộ Phụng Tự, Văn kiện trình bày và qui định các giờ kinh phụng vụ, 1971, số 17.
53
3.2. Nhường công phúc cho người khác
“Các tín hữu trên trái đất có thể, nhờ các việc lành đã được thực hiện trong tình
trạng ân sủng, lập công cách xứng hợp người này cho người khác những ân sủng của
Thiên Chúa”175. Bởi vì, theo ý kiến của đức giáo hoàng Piô XI ở trên, “Ơn cứu độ của
nhiều người tuỳ thuộc vào những việc lành sám hối tự nguyện của các chi thể trong Nhiệm
Thể Chúa Kitô”. Những người này đạt được theo cách thức những ân sủng bên ngoài cũng
như bên trong cần thiết cho phần rỗi, và có thể nhường công phúc cho người khác.
Theo truyền thống Giáo hội sơ khai có một sự xác tín rằng người ta có thể đạt được
từ nơi Thiên Chúa những điều thiện hảo nhất là tinh thần cho anh em của mình, không
những nhờ vào lời cầu nguyện, nhưng còn cả những việc lành đạo đức. Thánh Clément
thành Rôma trình bày một mẫu gương cho dân thành Côrinthô, đó là bà Esther, “bà đã lay
được lòng Thiên Chúa toàn năng bằng chính sự chay tịnh và lòng khiêm nhượng của
mình” (Corinthiens 55,6). Thánh Justinô minh chứng thực hành cổ của Hội thánh, các tín
hữu cùng với các người dự tòng cùng cầu nguyện và chay tịnh, để cầu xin Thiên Chúa tha
thứ tất cả những lỗi lầm đã sa phạm từ trước176. Như thế, chứng tỏ những người còn sống
làm các việc lành phúc đức cũng có thể nhường công phúc cho người khác, nhất là những
người còn sống trong lầm lạc tội lỗi để giúp họ trở về cùng Chúa và có thể đền tội thay cho họ.
3.3. Đền tội thay cho người khác
“Các tín hữu còn sống qua các công việc sám hối được làm trong tình trạng ân
sủng, có thể đền tội người này cho người kia”177. Hiệu qua của việc đền tội là việc tha thứ
các hình phạt tạm. Khả năng đền tội cách đại diện được đặc nền tảng trong sự hiệp nhất
trong Nhiệm Thể Chúa Ki-tô. Như Đức Ki-tô là Đầu, đền tội thay cho mọi chi thể là chúng
ta, thì mỗi chúng ta cũng có thể đền thay cho kẻ khác. Chính dựa trên khả năng và thực tế
về việc đền tội thay mà đưa đến các ân xá178.
Đức giáo hoàng Clément VI tuyên bố trong Sắc Chỉ Năm Thánh Unigenitus Dei
Filius (1343), trong đó lần đầu tiên giáo lý về “kho tàng của Hội thánh” một cách chính
thức được sử dụng, rằng các công nghiệp (đền bù) của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và mọi
người được tuyển chọn, từ người đầu cho đến người công chính cuối cùng, tham gia vào
việc làm gia tăng kho tàng Hội thánh, từ đó mà Hội thánh có thể múc lấy các ân xá (D 552;
740a). Đức giáo hoàng Piô XI, trong Thông điệp Miserentissimus Redemptor (1928) mời
175 Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr.188. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 176 Lm. Nguyễn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ, tr. 369. 177 Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr.188. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 178 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr.189. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh.
54 gọi các tín hữu đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu không những cho các thiếu sót của mình,
nhưng cũng cho cả mọi người khác179.
Quan niệm những người công chính đền thay cho những người tội lỗi đã có trong
Cựu ước. Người công chính mang trên thân mình cơn giận của Thiên Chúa dành cho kẻ tội
lỗi, để xin Thiên Chúa thương đến những kẻ tội lỗi. Như Mô sê tự hiến dâng lên Thiên Chúa
như lễ vật đền tội thay cho dân đã phạm tội (x. Xh 32,32). Ông Gióp dâng lên Thiên Chúa một
của lễ toàn thiêu để đền tội cho con cái của mình (x. G 1,5). Ngôn sứ Isaia báo trước việc Đấng
Messia chịu đau khổ để đền tội cho nhiều người (x. Is 53).
Tân ước nhìn cuộc đau khổ và cái chết của Đức Ki-tô như tiền chuộc, như của lễ
đền tội cho muôn người. Thánh Phaolô cũng dạy rằng các tín hữu có thể đền tội cho nhau:
“Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô
còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội
thánh” (Cl 1,24). “Phần tôi, tôi rất vui mừng… tiêu phí cả sức lực lẫn con người của tôi vì
linh hồn anh em” (2Cr 12,15).
Nơi các Giáo phụ, chúng ta đã thấy quan niệm cái chết tử đạo là phương tiện đền
tội cho kẻ khác. Thánh Ignatiô thành Antiochia viết cho giáo đoàn Ephêsô, ngài muốn hiến
dâng chính mình làm của lễ đền tội cho họ (VIII,1). Thánh Cypriano cũng quả quyết: “các
kẻ tội lỗi có thể tìm được sự che chỡ nơi Thiên Chúa nhờ sự trợ giúp của các thánh tử
đạo” (Ep.19,2; 18,1). Thánh Toma Aquinô đặt nền tảng cho khả năng đền tội thay dựa trên
đoạn thư của thánh Phaolô: “Hãy mang gánh nặng của nhau” (Gl 6,2). Có nghĩa là mang
lấy tội của người khác để xin Chúa tha thứ. Vì “trong mức độ mà hai người kết hợp với
nhau cầu nguyện qua bác ái, người này có thể đền tội cho người kia”180.
Qua đó cho chúng ta thấy được hành động “hiệp thông trong Giáo hội” một cách cụ
thể, sống động và hữu hiệu là cầu nguyện, bác ái với nhau. Các thành phần trong Giáo hội
liên kết với nhau trong cầu nguyện. Các giám mục, linh mục, phó tế cầu nguyện cho giáo
dân. Ngược lại giáo dân lại cầu nguyện cho các vị chủ chăn của mình. Các tu sĩ cầu nguyện
cho hết mọi thành viên trong Giáo hội. Nói một cách khác, các chi thể của Thân Thể gắn
bó với nhau bằng cầu nguyện. Cầu nguyện là giây liên kết để các tín hữu hiệp thông với
Đức Ki-tô và hiệp thông với nhau. Cầu nguyện, ăn chay đền tội, không chỉ giúp các tín hữu
dưới đất hiệp thông với nhau, nhưng còn hiệp thông với các thánh trên Trời bằng cách noi
gương và cầu khẩn các ngài.
179 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 189. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 180 x. Lm. Nguyễn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ, tr. 370-371.
55
III. Giáo Hội Lữ Hành Hiệp Thông Với Giáo Hội Vinh Thắng
Hiệp thông được thể hiện rõ nét trong ngày đại lễ mừng kính các ngài. “Đại lễ kính
toàn thể các thánh nam nữ hôm nay cho ta chiêm ngưỡng đám đông hằng hà sa số những
người đã được Chúa Ki-tô cứu chuộc, đồng thời cũng cho ta thấy trước tương lai chúng ta
đang hướng tới. Nhưng lễ này còn giúp chúng ta ý thức mối dây liên đới giữa ta với các
anh chị em đã đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ được ở bên Thiên Chúa và đang
chuyển cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta”181. Vì thế, chúng ta
có bổn phận kính nhớ và cầu nguyện với các ngài.
1. Sự tôn kính và kêu cầu các thánh
Quả thực, Kinh thánh không nói rõ sự tôn kính và kêu cầu các thánh. Tuy vậy Kinh
thánh cũng đã đặt cơ sở cho giáo lý về sự tôn kính, cầu xin các thánh. Sự tôn kính các
thánh có thể suy diễn từ sự tôn kính các thiên thần, điều này đã hiển nhiên trong Cựu ước:
Giô-suê khi toan tính tiến vào Giêricô, thì gặp thiên thần xưng là “Tướng cơ binh”, ông
liền sấp mình tôn kính (x. Gs 5, 14). Thiên thần Raphael sau khi hoàn thành đem Tôbia con
đi đòi nợ và cưới vợ, khi đã tỏ mình là thiên thần, khiến hai cha con Tôbia phủ phục kính
tôn (x.Tb 12,16). Trong Tân ước: sự tôn kính các thiên thần là vì các ngài được hưởng kiến
trực tiếp tôn nhan Chúa (x. Mt 18, 12). Các thánh cũng được hưởng kiến trực tiếp Chúa,
cho nên các ngài đáng ta tôn kính182.
Theo dòng lịch sử, việc tôn kính các thánh bắt đầu bằng hình thức tôn kính các
thánh Tử đạo. Chứng cứ cổ xưa nhất trong trong hạnh tử đạo của thánh Polycap đã phân
biệt rõ ràng giữa việc tôn thờ Đức Kitô và tôn kính các thánh tử đạo: “Chúng ta tôn thờ
Đức Kitô, chỉ vì Người là Con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta chỉ dâng lên các thánh tử đạo,
những môn đệ và kẻ theo gương Chúa Kitô, tình yêu xứng đáng dành cho họ, vì lý do gắn
bó vô bờ bến của họ với vị Vua và Thầy của mình” (17,3). Lần đầu tiên ngài minh chứng
thói quen cử hành lễ “ngày sinh ra của Đấng tử đạo”, có nghĩa là ngày chết của vị Tử đạo
(18,3)183. Tertullien và Cyprianô cũng nói đến việc cử hành Thánh lễ vào ngày giỗ của các
Đấng tử đạo. Việc kêu cầu các Đấng thánh đã được Hippolit thành Rôma minh chứng:
“Xin hãy nhớ đến tôi, tôi van xin anh em để tôi có được số phận của các kẻ tử đạo như anh
em” (In Dan. II,30). Origène dạy rằng: “Không những vị Thượng tế cao cả (Đức Giêsu
Kitô) mà cả các thiên thần và linh hồn các kẻ đạo đức đã qua đời cùng cầu nguyện với
những kẻ đang cầu nguyện”184.
181 Kinh sách các bài đọc, tập 4, mùa thường niên: tuần XVIII-XXXIV, Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng
Vụ, nxb TPHCM, 1999, tr. 665. 182 x. Lm. Nguyễn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ, tr. 372. 183 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 192. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 184 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 192-193. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh.
56
Sau đó, sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo cũng dạy: “Chúng ta kính nhớ các
thánh trên trời không chỉ vì gương lành các ngài mà thôi, nhưng đúng hơn, để sự hiệp nhất
của toàn thể Hội thánh trong Thánh Thần được thêm bền vững nhờ thực hành đức bác ái
huynh đệ (x. Ep 4,1-6). Thật vậy, cũng như mối hiệp thông giữa các ki-tô hữu còn sống
trên dương thế đưa chúng ta tới gần Chúa Ki-tô hơn, thì sự liên kết với các thánh cũng
hiệp nhất chúng ta với Người là Đầu và là Nguồn ban phát mọi ân sủng và sự sống của
chính Dân Thiên Chúa” (LG 50). “Chúng ta tôn thờ Đức Ki-tô vì Người là Con Thiên
Chúa. Còn chúng ta tôn kính các vị tử đạo vì các ngài là những môn đệ và những người
noi gương Chúa; điều này thật chính đáng, vì các ngài đã hết lòng với Vua và Thầy của
mình; ước gì chúng ta được là bạn đồng hành và đồng môn với các ngài”185.
Như thế, “chúng ta được phép và thật hữu ích, tôn kính các thánh trên trời và van
xin các ngài cầu bầu cho chúng ta”. Việc tôn kính các thánh được xác định là một hành vi
phượng tự, với việc tôn kính hình ảnh các thánh, công đồng Triđentinô tuyên bố: “Chúng
ta tôn kính các thánh qua hình ảnh trình bày các ngài” (D 986). Về việc kêu cầu các thánh
thì các công đồng đều dạy: “Thật sự là tốt và hữu ích, để kêu cầu các Ngài trợ giúp” (D
984; 998). Niềm tin này được tỏ hiện trong việc cử hành mừng các thánh186. Cũng trong
tâm tình đó, đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nói với dân chúng tại quảng trường thánh
Phê-rô: “Chúa nhật hôm nay trùng khớp lễ trọng kính nhớ các Thánh nam nữ, một ngày lễ
mời gọi Giáo hội lữ hành trên trần gian thưởng nếm trước một ngày lễ không bao giờ
chấm dứt của cộng đoàn thiên quốc, và khơi dậy niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu”.
Ngài nói tiếp: “Các bạn thân mến, sự hiệp thông với các thánh thì đẹp đẽ và có sức an ủi
biết bao! Đây là một thực tại mang lại cho toàn bộ cuộc đời của chúng ta một chiều kích
khác. Chúng ta không bao giờ cô đơn! Chúng ta thuộc về một “đoàn người” thiêng liêng
mà trong đó hiện diện của tình liên đới sâu xa: điều thiện của mỗi người đều phục vụ cho
tất cả mọi người, và ngược lại hạnh phúc chung lại tỏa chiếu trên mỗi cá nhân. Trong một
mức độ nào đó, đây là một mầu nhiệm mà chúng ta có thể cảm nghiệm được ngay trên trần
gian này, trong gia đình, qua tình bạn, và đặc biệt là trong cộng đoàn thiêng liêng của
Giáo hội”187. Do đó, chúng ta“Thực sự được phép tôn kính và hữu ích trong việc tôn kính
các di tích của các thánh”188 .
Việc tôn kính các di tích các thánh là một sự tôn kính chính các thánh. Công đồng
Triđentinô tuyên bố: “Thân xác thánh thiện của các vị Tử đạo và các vị thánh khác… phải
185 x. T Pô-li-cáp hạnh thánh tử đạo 17. Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, s 957. 186 Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr.191. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 187 Huấn từ của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Phụng vụ năm B, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 589-590. Người dịch
G.B Lưu Văn Lộc. 188 Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr.194. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh.
57 được các tín hữu tôn kính”. Lý do của việc tôn kính này là thân xác các thánh là chi thể
sống động của Chúa Ki-tô và là Đền thờ của Chúa Thánh Thần; các thân xác này rồi sẽ
được gọi dậy và được hưởng vinh quang và nhờ chúng mà Thiên Chúa sẽ ban loài người
nhiều ơn lành (D 985)189. Thật thế, không chỉ tôn kính thân xác các thánh mà còn qua các
ảnh tượng nữa.
Việc tôn kính ảnh tượng các thánh có liên quan đến sự tôn kính các thánh. Công
đồng chung thứ 7 tại Nicéa (787) đã thừa nhận: “các hình ảnh xứng đáng được tôn kính và
thánh thiện” của Đức Ki-tô, Mẹ Thiên Chúa, các thiên thần và các thánh là việc phụng tự
tôn vinh, chứ không phải là thờ lạy như thờ lạy Chúa190. Như thế, lời tán dương của chúng
ta có ích gì cho các ngài? Thánh Bênađô trả lời: “Các thánh không cần chúng ta tôn vinh,
và lòng tôn kính của chúng ta cũng chẳng thêm gì cho các ngài. Thực ra, chúng ta kính
nhớ các ngài thì ích lợi cho chúng ta chứ không phải cho các ngài. Phần tôi, tôi phải thú
thật là khi tưởng nhớ các ngài, tôi cảm thấy bừng lên trong lòng một khát vọng mãnh liệt”.
Thánh nhân còn xác tín thêm: “Thật vậy, việc kính nhớ các thánh hoặc khơi lên hoặc thôi
thúc mãnh liệt hơn trong ta niềm khát vọng đầu tiên này: đó là mong hợp đoàn với các
ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn hữu với các thánh, được liên kết
với chư vị tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với bậc Tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo,
với cộng đoàn các vị tuyên xưng đức tin, với đoàn trinh nữ. Tóm lại, chúng ta được hân
hoan sum họp trong mối dây hiệp thông với toàn thể các thánh”191. Quả thực, công đồng
Vatican II đã tóm gọn lại cho chúng ta: “Các thánh được tôn kính trong Giáo hội và các di
hài đích thực cũng như hình ảnh của các ngài vẫn được sùng kính. Thực vậy, những lễ
kính các thánh nói lên những việc lạ lùng của Chúa Ki-tô nơi các tôi tớ Người và phô bày
những gương sáng thích hợp cho các tín hữu bắt chước”192. Như thế, Giáo hội muốn con
cái mình kính nhớ các thánh để thôi thúc sự kết hợp, bắt chước đời sống các ngài để xin
các ngài cầu bầu trước tòa Chúa cho anh em đang còn chiến đấu trên cuộc lữ hành trần
gian. Cụ thể mỗi tín hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội đều chọn cho mình một tên thánh.
Với mục đích trước hết là noi gương bắt chước các ngài, sau nữa là xin các ngài bầu cử
cho mình suốt cả hành trình của đời người. Hơn thế nữa, mỗi người đều được Thiên Chúa
ban cho một thiên thần bản mệnh để gìn giữ, đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường
lữ thứ trần gian này. Vậy, các thánh cầu bầu cho Giáo hội lữ hành như thế nào?
189 Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr.194. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 190 x. Lm. Nguyễn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ, tr.175. 191 Kinh sách các bài đọc, tập 4, mùa thường niên: tuần XVIII-XXXIV, Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng
Vụ, nxb TPHCM, 1999, tr. 667. 192 Công đồng Vaticano II, Hiến chế về phụng vụ thánh, số 111.
58
2. Các thánh chuyển cầu ơn Chúa xuống cho Giáo hội lữ hành
Giáo hội xác tín vào lời cầu bầu của các thánh: “Vì được gắn bó mật thiết hơn với
Đức Ki-tô, các thánh trên trời góp phần làm cho Hội thánh thêm thánh thiện... Các ngài
không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha, bằng cách dâng các công trạng đã lập
được khi còn ở dưới thế nhờ Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là
Chúa Giê-su Ki-tô... Do đó, trong tình huynh đệ, các ngài lo lắng giúp đỡ chúng ta rất
nhiều vì chúng ta yếu hèn” (LG 49). Như lời thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su quả quyết:
“Tôi sẽ sống ở trên trời để làm lợi ích cho dưới đất”193. Chính vì thế, người tín hữu nâng
tâm hồn lên Đức Trinh Nữ Maria, các thiên thần và toàn thể các thánh trên trời, hướng lên
các ngài để “ngắm nhìn đời sống những người đã trung thành bước theo Chúa Ki-tô và
khám phá ra một lý do mới thúc đẩy chúng ta tìm kiếm Thành thánh tương lai” (LG, 50).
Đồng thời xin các ngài cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta194. Vì trong cầu nguyện, phụng tự,
các thánh luôn luôn dâng lời cầu bầu để chúng ta tiếp tục sống cuộc sống đạo hạnh của các
người dương thế195.
Cũng trong tâm tình đó, công đồng Vaticano II đã nói lên sự hiệp thông giữa Giáo
hội lữ hành với Giáo hội trên trời: Đối với các Tông đồ và những vị Tử đạo của Chúa Ki-
tô, là những chứng nhân cao cả đã đổ máu vì đức tin và đức ái, Giáo hội luôn tin rằng các
ngài liên kết mật thiết với ta hơn trong Chúa Ki-tô: với lòng yêu mến đặc biệt, Giáo hội tôn
kính các ngài cùng với Đức Trinh Nữ Maria và các thánh Thiên Thần, và sốt sắng cầu xin
các ngài trợ giúp và cầu bầu cho. Sau đó không bao lâu, Giáo hội còn tôn kính những
người đã nhiệt tình noi gương đức khiết trinh và khó nghèo của Chúa Ki-tô; sau cùng có
những người vì đã thực hành cách phi thường các nhân đức Ki-tô giáo và được Chúa ban
nhiều ân sủng, nên được các tín hữu thành tâm tôn kính và noi theo. Chính vì các ngài đã
thành khẩn van nài, cầu nguyện và trợ lực, giúp đỡ, mà Thiên Chúa ban nhiều ơn lành, nhờ
Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta196. “Vậy chúng ta hãy hết lòng bền chí khát khao vinh
quang ấy. Và để chúng ta có quyền hy vọng đạt tới vinh quang ấy, có quyền hướng tới
hạnh phúc lớn lao chừng ấy, chúng ta cũng phải hết sức ước ao các thánh cầu nguyện cho,
ngõ hầu những gì tự sức chúng ta không xin được, thì nhờ lời chuyển cầu của các ngài,
Chúa sẽ ban cho chúng ta”197. Lời cầu bầu của các thánh trên trời trong Giáo hội khải
hoàn cho chúng ta là những người còn sống, đang dong ruổi trên mọi nẻo đường trần gian
193 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 956. 194 x. Giáo lý Hội thánh Công giáo, biên soạn cho người Việt Nam, nxb Thuận Hóa, 1996, tr. 176. 195 x. Lm. Frederick M. Jelly, O.P biên soạn, Tôn sùng Đức Mẹ Maria trong Thánh truyền Công giáo, nxb
New Orleans, 2001, tr. 216. Chuyển ngữ: Gioan Baotixita Dũng Lạc Hồng Ân. 196 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 50. 197 Kinh sách các bài đọc, tập 4, mùa thường niên tuần XVIII-XXXIV, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng
Vụ, nxb TPHCM, 1999, tr. 669.
59 rất cần cho đời sống và phần rỗi chúng ta. Như trong phụng vụ lời nguyện của ngày lễ
mừng kính các thánh, Giáo hội cầu nguyện cho con cái mình: “Lạy Thiên Chúa toàn năng
hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các
thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng
nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong”198. Như thế,
chúng ta có thể nói Mẹ Maria và các thánh luôn cầu bầu cho chúng ta. Cách riêng Mẹ
Maria là người cầu bầu trước tòa Chúa cho chúng ta nhiều hơn cả. Vì Mẹ là Đấng trung
gian giúp chúng ta hiệp thông với nhau.
3. Đức Maria trung gian của hiệp thông
Vai trò của Mẹ Maria trong việc cầu bầu cho chúng ta. Hay nói cách khác Mẹ
Maria là trung gian nối kết chúng ta được hiệp thông với Chúa Giê-su con của Mẹ, để
chúng ta được hiệp thông với nhau. Quả thật, “vai trò cầu thay nguyện giúp và làm trung
gian của Mẹ bao phủ mỗi người chúng ta. Đây là nghĩa vụ Mẹ Maria làm Mẹ nhân loại
trong mầu nhiệm các thánh hiệp thông”199. Thế nhưng “vai trò làm Mẹ của Đức Maria đối
với loài người, không làm lu mờ hay giảm bớt vai trò trung gian duy nhất của Đức Ki-tô
chút nào, trái lại còn làm sáng tỏ mãnh lực của trung gian ấy”200. Bởi vì, trên bình diện ân
sủng, Đức Maria thật là Mẹ chúng ta. Như công đồng Vaticano II đã xác tín: “Trong nhiệm
cục ân sủng, Mẹ Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ khi ngài tin tưởng ưng thuận
trong ngày truyền tin - sự ưng thuận mà Ngài đã không ngần ngại vững vàng bên thập giá
- cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn. Thực vậy, sau khi
về trời, vai trò của Người trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Người luôn luôn tiếp
tục cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ được ơn phần rỗi đời đời. Với tình Mẹ
hiền, Người săn sóc những anh em của Con Mẹ đang lữ hành trên dương thế, và đang gặp
bao nguy hiểm, thử thách, cho tới khi họ đạt tới hạnh phúc Quê Trời. Vì vậy, trong Giáo
hội, Mẹ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng sư, vị Bảo trợ, Đấng Phù Hộ và
Đấng Trung Gian”201. Mặc dù Thiên Chúa đã ban tặng Mẹ Maria ơn huệ được làm trung
gian cầu bầu cho tất cả nhân loại, xin được mọi ơn cần thiết. Nhưng Mẹ phải hoàn toàn tùy
thuộc vào sự trung gian của Con Mẹ là Đấng Trung Gian duy nhất. Và sự trung gian của
Mẹ không bao giờ vượt trên trung gian của Chúa Ki-tô. Mẹ Maria là một thành viên tuyệt
vời cao trọng nhất của Giáo hội. Mẹ thuộc về cộng đồng các thánh hiệp thông, được mời
gọi chia sẻ cuộc sống của Chúa Ki-tô với tất cả mọi người khác. Với tình yêu thương
198 Sách lễ Rôma, Lời nguyện nhập lễ các thánh, tr. 721. 199 Lm. Frederick M. Jelly, O.P biên soạn, Tôn sùng Đức Mẹ Maria trong Thánh truyền Công giáo, nxb New
Orleans, 2001, tr. 224. Chuyển ngữ: Gioan Baotixita Dũng Lạc Hồng Ân. 200 Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 60. 201 Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 62.
60 chúng ta, Mẹ Maria chăm sóc lo lắng cho phần rỗi của mỗi người, không phải thi đua với
Con Mẹ, nhưng làm trung gian cầu bầu và giúp đỡ chúng ta trước mặt Chúa Con để xin
mọi ơn huệ cho chúng ta202.
Như vậy, Mẹ Maria cầu bầu và làm trung gian không phải vì Thiên Chúa quá xa
vời cao trọng không thể gặp được, nhưng Mẹ giúp chúng ta hiểu rõ Thiên Chúa Ba Ngôi
hiện diện trong và qua Chúa Ki-tô. Mẹ chuẩn bị để các tín hữu đến với Chúa Ki-tô mà gặp
Chúa và nghe lời Chúa. Vì thế, Giáo hội khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát
huy lòng sùng kính Đức Trinh Nữ nhất là trong phụng vụ một lòng sùng kính không dựa
trên tình cảm hay tính dễ tin, “nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật… thúc đẩy chúng
ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta”203. Bởi vì, Mẹ
Maria chẳng có sứ mệnh nào khác hơn là dẫn đưa chúng ta tới Đức Giê-su Ki-tô con của
Mẹ204. Thật vậy, giờ đây trên Thiên đàng, Mẹ Maria giữ chức vụ “cầu thay nguyện giúp”
hay làm người bầu cử cho nhân loại trước tòa Chúa Giê-su. Vì thế, sự đồng hiển trị với
Chúa Giê-su có nghĩa là Mẹ càng dấn thân hơn trong việc bênh vực chở che cho con cái
loài người trước tòa Đức Ki-tô, như xưa kia khi còn sống Mẹ đã làm ở tiệc cưới Cana và
ngày nay ở trên trời, như chúng ta từng nhận ra được qua các lần Mẹ hiện ra trên mặt đất
này, đặc biệt nhất là trong lần hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Fatima vào năm 1917205. Mẹ
luôn có mặt để soi sáng, hướng dẫn, nâng đỡ Giáo hội những khi phải chiến đấu với kẻ thù
bên ngoài, hoặc những lúc nội bộ xâu xé thì Mẹ giúp Giáo hội chiến thắng mọi thù địch.
Nhờ cộng tác với Chúa Giê-su, Mẹ hoạt động nơi tâm hồn trên lãnh vực cá nhân cũng như
tập thể. Thế nên Mẹ Maria làm mọi sự cho mọi người không những vì Mẹ được tín nhiệm
và được quyền bầu cử, mà hơn thế nữa vì Con Chí Thánh đã ban cho Mẹ uy thế và quyền
hành động206. Hình ảnh đó diễn tả sự gần gũi giữa Mẹ Maria với toàn thể nhân loại, Mẹ
luôn quan tâm yêu mến các con cái Mẹ đang dong duổi dưới trần gian để đưa hết mọi
người về hợp hoan với Mẹ và các thánh trên Thiên đàng để thở lạy, chiêm ngưỡng dung
nhan Thiên Chúa. Chính Mẹ Maria giúp cho ba trạng thái của Giáo hội được gần gũi, hiệp
thông với nhau.
IV. Ba Trạng Thái Của Giáo Hội Hiệp Thông Với Nhau
Sách Giáo lý của Giáo hội đã nói lên sự hiệp thông giữa ba trạng thái trong Giáo
hội: “Cho tới khi Chúa ngự đến trong sự uy nghi, có tất cả thiên thần theo Người, và khi sự
202 x. Lm. Frederick M. Jelly, O.P biên soạn, Tôn sùng Đức Mẹ Maria trong Thánh truyền Công giáo, nxb
New Orleans, 2001, tr. 226. Chuyển ngữ: Gioan Baotixita Dũng Lạc Hồng Ân. 203 Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium), số 67. 204 Giáo lý Hội thánh Công giáo, biên soạn cho người Việt Nam, nxb Thuận Hóa, 1996, tr.181. 205 Lm. Nguyễn Hữu Thy, Tử quy hay trên đường về nhà Cha, nxb Trier, 2011, tr. 128. 206 x. P. Colin C.ssR, Mẹ Maria với các dòng tu, tr. 125.
61 chết bị hủy diệt, mọi vật đều qui phục Người, thì trong số các môn đệ, có những kẻ đang
tiếp tục cuộc lữ hành trên trần thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống đời này và đang
được thanh luyện, và có những kẻ được hiển vinh, đang chiêm ngưỡng trong ánh sáng
chan hòa chính Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi” (LG 49). Nhưng hết thảy mọi người
chúng ta, tùy mức độ và cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng một tình mến
Chúa yêu người, cùng hát lên một bài ca chúc tụng vinh quang Thiên Chúa chúng ta. Vì tất
cả những ai thuộc về Chúa Ki-tô và sở hữu Thánh Thần Người, đều họp thành một Hội
thánh duy nhất và liên kết với nhau trong Đức Ki-tô” (LG 24)207. Vậy, chúng ta là những
người đang còn lữ hành có thể làm được gì cho người quá cố đang còn thanh luyện?
1. Giáo hội lữ hành hiệp thông với Giáo hội thanh luyện
Việc đầu tiên, bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể làm cho người quá cố là cầu
nguyện cho họ. Các nghi lễ sau cùng cho người quá cố là tiêu biểu sự cầu khẩn mãnh liệt
này208. Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính
nhất của Giáo hội. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên
Chúa trên Thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy
vọng phục sinh, và cùng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết
trong lòng tin của họ”209. Bởi vậy, “Các tín hữu còn sống có thể cứu giúp các linh hồn
trong luyện ngục bằng các lời cầu khẩn của mình”. Người ta hiểu từ “lời cầu khẩn” không
những là các lời khẩn cầu, van xin, mà cả việc đền tội, bố thí và các việc lành đạo đức
khác, nhất là thánh lễ. Công đồng chung thứ 2 tại Lyon (1274) và công đồng Florence
(1439) đã nhất trí tuyên bố: “Để giảm bớt các đau đớn cho các linh hồn nơi luyện ngục, các
lời cầu khẩn của các tín hữu đang sống, nhất là thánh lễ, lời cầu nguyện, bố thí và các việc
đạo đức khác mà người tín hữu, theo như thiết đặt của Hội thánh, có thói quen dâng lên
người này cho người khác” (D 464, 693). Công đồng Triđentinô dạy rằng: “có một luyện
ngục và các linh hồn nơi đó có thể được cứu giúp bằng các lời khẩn cầu của các tín hữu,
nhất là thánh lễ nơi bàn thờ”210.
Từ thời người Do thái giáo đã có sự xác tín rằng người ta có thể trợ giúp những kẻ
đã qua đời còn vướng mắc tội lỗi bằng lời cầu nguyện và lễ vật đền tội. Bởi vì, lời cầu
nguyện và lễ vật có hiệu năng thanh tẩy tội lỗi. “Lời dạy này cũng căn cứ trên tập quán
cầu nguyện cho những người quá cố mà Kinh thánh đã nói: vì thế ông Giu-đa Macabê
“xin dâng lễ đền tội cho những người chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2Mcb
207 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 954. 208 Nguyễn Ước giới thiệu và biên soạn, Giáo lý mới Thời đại mới, nxb Tôn giáo, 2005, tr. 780. 209 Kinh sách các bài đọc, tập 4, mùa thường niên: tuần XVIII-XXXIV, Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng
Vụ, nxb TPHCM, 1999, tr. 669. 210 Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 196-197. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh.
62 12,46). Ngay từ đầu, Hội thánh vẫn kính nhớ người quá cố và cầu nguyện cho họ, đặc biệt
trong thánh lễ để một khi được thanh luyện họ có thể hưởng nhan Thánh Chúa. Hội thánh
khuyên chúng ta bố thí, làm việc hãm mình và nhường các ân xá cho những người đã qua
đời”211. Truyền thống Giáo hội, các giáo phụ đã để lại nhiều bằng chứng kể lại việc các
kitô hữu có thói quen tốt cầu nguyện cho người quá cố. Tertullien minh chứng rằng ngoài
việc cầu nguyện cho người quá cố, còn có việc dâng lễ vật trong thánh lễ vào ngày giỗ.
Thánh Cyrille thành Giêrusalem trong khi nói về thánh lễ, cũng nhắc đến sự kiện, sau
truyền phép cũng có những lời cầu cho kẻ đã qua đời. Ngài cho hiệu quả của lời này là việc
giao hòa người qua đời với Thiên Chúa (Cat. Myst. 5,9t). Gioan Kim Khẩu và thánh
Augustinô đều làm chứng rằng việc bố thí cũng giúp ích cho kẻ đã qua đời212. Mọi hình
thức trợ giúp như đã kể ở trên: cầu nguyện, thánh lễ, bố thí, những công phúc, ân xá…
dâng lên Thiên Chúa có giá trị như những việc đền thay những hình phạt tạm do tội lỗi đã
phạm mà các linh hồn quá cố phải chịu thanh luyện: có thể đền hết, hay một phần của hình
phạt đó213. Giáo hội đã khẳng định sự hiệp thông với các tín hữu đã qua đời: “Nhận biết sự
hiệp thông này trong lòng toàn Nhiệm Thể Chúa Giê-su Ki-tô, ngay từ buổi đầu của Ki-tô
giáo, Hội thánh lữ hành hết lòng kính mến, tưởng nhớ những người đã chết và dâng lời
cầu cho họ, “vì cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý
tưởng lành thánh” (x. 2Mcb 12,45; LG 50). Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta không chỉ
giúp họ mà còn làm cho lời họ chuyển cầu cho chúng ta hiệu quả hơn”214. Thánh
Bônaventura mời gọi: “Hỡi linh hồn các tín hữu, anh chị em có muốn minh chứng đức ái
chân thật dành cho những thân nhân quá cố của anh chị em không? Anh chị em có muốn
gởi đến cho họ sự trợ giúp quí báu nhất và chiếc chìa khóa vàng để vào Thiên đàng
không? Anh chị em hãy hiệp lễ thường xuyên để chỉ cho các linh hồn ấy”215. Thánh Toma
Aquino cũng nói: “Không có hy sinh nào giải cứu linh hồn luyện ngục bằng hy sinh của
thánh lễ misa”216. Vì thánh lễ là của lễ Đức Ki-tô dâng lên Chúa Cha để cầu nguyện, ngợi
khen, tạ ơn Thiên Chúa.
Có thể nói, cầu nguyện cho nhau trong Giáo hội là lời cầu của những người còn
sống nài xin ơn thanh luyện cho người đã qua đời, là của lễ hy sinh của Giáo hội lữ hành
kêu cầu ơn tha thứ cho Giáo hội thanh luyện, là đời sống hy tế của người còn sống dâng
thay cho người thân đã ly trần. Nhờ sự hiệp thông trong Giáo hội, người chết được hưởng
211 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1032. 212 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 198. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 213 x. Lm. Nguyễn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ, tr. 377. 214 Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 958. 215 Y Phan, CMC tuyển chọn, 1001 danh ngôn các thánh, nxb Tôn giáo - Hà Nội, 2009, tr. 67. 216 Y Phan, CMC tuyển chọn, 1001 danh ngôn các thánh, nxb Tôn giáo - Hà Nội, 2009, tr. 68.
63 ơn ích của lời cầu từ trái tim và đời sống của những người đang sống. Thiên Chúa yêu
thích sự chia sẻ bác ái, việc làm yêu thương này, nên sẽ rút ngắn thời gian thanh luyện cho
các linh hồn còn đang phải chờ đợi trong luyện tội. Lời kinh, của lễ, đời hy sinh của người
đang sống là cơ may cho những linh hồn trong luyện tội được sớm vào Nước hằng sống,
vinh hiển217. Những đau khổ, những việc bác ái, bố thí mà các tín hữu “dâng lên” sẽ được
Thiên Chúa đón nhận. Điều này giống một kinh nguyện mà Thiên Chúa chấp nhận để áp
dụng cho các linh hồn nơi luyện ngục218. Chính vì thế mà đức giáo hoàng Biển Đức XVI
đã nói với dân chúng: “Ngày mai chúng ta sẽ tưởng nhớ tất cả các tín hữu đã qua đời. Tôi
mời gọi anh chị em sống ngày lễ các đẳng linh hồn theo tinh thần thực sự của Ki-tô giáo,
nghĩa là trong ánh sáng mầu nhiệm phục sinh. Đức Ki-tô đã chết và sống lại, và mở ra cho
chúng ta con đường đi về nha Cha, là Vương quốc sự sống và bình an. Ai đi theo Đức Giê-
su trên cuộc đời này, thì sẽ được Người đón tiếp ở đời sau nơi Người đến trước chúng ta.
Do đó, khi đi viếng nghĩa trang, chúng ta hãy nhớ rằng trong mồ, chỉ có di hài nhưng
người thân yêu của chúng ta đang nằm yên nghỉ chờ ngày sống lại sau cùng. Linh hồn của
họ như sách Thánh đã nói- đã ở “trong bàn tay Thiên Chúa” (Kn 3,1). Như thế, cách thế
thích hợp và hữu hiệu nhất để tưởng nhớ họ là cầu nguyện cho họ và dâng lên Chúa
những việc làm đức tin, đức cậy, đức mến. Khi kết hiệp với hy lễ Thánh thể, chúng ta có
thể cầu nguyện cho họ được ơn cứu độ muôn đời, và trải nghiệm được sự hiệp thông sâu
xa nhất, trong niềm mong đợi được cùng nhau tái ngộ để vui hưởng ngàn đời Tình yêu đã
sáng tạo và cứu chuộc chúng ta”219. Cùng với tình liên đới hiệp thông, chúng ta có bổn
phận cầu nguyện cho các người quá cố. Vì mọi người quá cố đều tham dự vào sự hiệp
thông của nhân loại, mọi việc thiện từ các Tông đồ, các vị tử đạo và các thánh cho đến
người bé nhỏ nhất trong các tín hữu, lúc này sống động trong Thiên Chúa. Vì thế, Giáo hội
công nhận rằng họ liên kết với chúng ta bằng cách nào đó220. Như chúng ta đã nói ở
chương thứ nhất là hiệp thông trong ân sủng và cùng chia sẻ những của cải thiêng liêng
trong kho tàng Giáo hội. Cũng trong mối hiệp thông ấy, ngay từ buổi đầu của Ki-tô giáo.
Giáo hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã qua đời. Lời
cầu nguyện ấy không những giúp đỡ người đã chết được giải thoát khỏi tội lỗi, mà chính
chúng ta cũng được hưởng nhờ lời chuyển cầu của các ngài221.
217 x. Jorathe Nắng Tím, Những người lữ hành hạnh phúc, tập 3: Vòng tay đời đời, nxb Tôn giáo, 2012, tr. 89. 218 x. Mầu nhiệm cánh chung, tr. 149. 219 Huấn từ của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Phụng vụ năm B, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 589. Người dịch G.B Lưu Văn Lộc. 220 x. Nguyễn Ước giới thiệu và biên soạn, Giáo lý mới Thời đại mới, nxb Tôn giáo 2005, tr. 778. 221 Giáo lý Hội thánh Công giáo, biên soạn cho người Việt Nam, nxb Thuận Hóa 1996, tr. 176-177.
64
2. Giáo hội Thanh luyện hiệp thông với Giáo hội Lữ hành
Khi Giáo hội lữ hành cầu nguyện cho các linh hồn đang còn thanh luyện thì ngược
lại “các linh hồn nơi luyện ngục cũng có thể cầu bầu cho các chi thể khác trong Nhiệm
Thể”222. Chúng ta là những người đang lữ hành cũng được các ngài cầu bầu cho. Vì các
linh hồn nơi luyện ngục cũng là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô, chúng ta phải công
nhận việc họ có thể cầu bầu cho các linh hồn khác hay cho người trên trần thế223. Các công
đồng địa phương như Vienne (1858) và Utrecht (1865) dạy rằng các linh hồn nơi luyện
ngục giúp chúng ta qua lời cầu bầu của họ224. Đức Lêo XIII vẫn cầu nguyện cùng các linh
hồn nơi luyện ngục. Đức Piô X, trong cuốn giáo lý của ngài quả quyết các linh hồn có thể
cầu nguyện cho ta225. Với một niềm xác tín đó, thánh Anphongsô quả quyết rằng: “Các
linh hồn, mặc dù không có công trạng gì đáng thưởng, nhưng họ có thể cầu nguyện rất đắc
lực cho chúng ta. Họ không thể bầu cử cho mình, nhưng Thiên Chúa là Đấng tốt lành, các
linh hồn có thể van xin Chúa cho chúng ta rất nhiều ơn đặc biệt để giúp chúng ta tránh
khỏi tay quỷ, bệnh hoạn hoặc hiểm nguy trong mọi vấn đề”226. Theo thánh Gioan Maria
Vianây: “Các linh hồn ở luyện ngục có thân thế chừng nào đối với Trái Tim nhân lành của
Chúa, nếu chúng ta biết đã nhận bao nhiêu ơn lành do các linh hồn cầu bầu, ta sẽ không
quên cầu bầu cho các ngài”227. Quả thật, mỗi người chúng đều có kinh nghiệm khi cầu
nguyện với ông bà tổ tiên, anh chị em, bạn bè thân yêu đã qua đời rất có hiệu lực. Chính
bản thân người viết đã có được cảm nghiệm này. Khi gia đình báo tin cho biết người em bị
tai nạn giao thông chấn thương sọ não đang còn trong cơn nguy kịch khó qua khỏi, tôi liền
xin cộng đoàn dâng thánh lễ cầu nguyện cho người em được tai qua nạn khỏi. Còn riêng
bản thân thì cầu nguyện với ông bà tổ tiên, nhất là với người em trong gia đình đã qua đời
khi còn nhỏ, cầu cùng Chúa cho người em đang trong cơn ngặt nghèo được mau bình phục.
Chính nhờ lời cầu bầu của ông bà tổ tiên và của mọi người, mà Thiên Chúa đã thương
nhận lời cứu chữa người em được tai qua nạn khỏi. Chỉ có một tuần lễ là em được xuất
viện. Mọi người ở chung trong phòng đều lấy làm lạ sự bình phục của người bệnh nhân
này. Cho đến nay em được khỏe mạnh bình thường. Thật thế, niềm tin vào sự chuyển cầu
của tổ tiên cho người còn sống trong gia đình đã ăn rễ sâu vào tâm khảm người Việt. Tuy
thế người công giáo lại có vẻ ít quan tâm điều đó. Họ chỉ cầu cho các tổ tiên mà lại ít cầu
xin các ngài cầu bầu cho mình. Thật vậy, không có một nền thần học nào lại nói rằng tổ
222 Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 200. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 223 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 200. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 224 x. Lm. Nguyễn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ, tr. 379. 225 x. Mầu nhiệm cánh chung, tr. 150. 226 Y Phan, CMC tuyển chọn, 1001 danh ngôn các thánh, nxb tôn giáo- Hà Nội, 2009, tr. 68-69. 227 Y Phan, CMC tuyển chọn, 1001 danh ngôn các thánh, nxb tôn giáo - Hà Nội, 2009, tr. 70.
65 tiên không thể chuyển cầu cho con cháu, cho dù các ngài còn đang ở luyện ngục, vì các
ngài cũng được Chúa yêu thương. Hơn nữa, biết đâu trong số các tổ tiên có thể là những vị
thánh, mặc dù không được tuyên phong228. Chính kinh nguyện và lời chuyển cầu của tổ
tiên cho những người còn sống biểu lộ sự gần gũi của các ngài với Thiên Chúa. Chúng ta
được mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, gia đình an vui và vượt qua những khó khăn trong cuộc
sống… đều được coi là nhờ sự chuyển cầu của tổ tiên với Thiên Chúa cho những người
còn sống. Vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi sự229. Do đó, tổ tiên
chúng ta là một phần trong mầu nhiệm hiệp thông. Sự vô hình của các ngài phản chiếu mầu
nhiệm hiệp thông giữa người sống và kẻ chết230.
Qua đó cho chúng ta biết được các linh hồn đang còn thanh luyện cũng giúp ích
cho chúng ta rất nhiều. Tuy các linh hồn ấy không thể cầu nguyện cách hữu hiệu y như các
thánh trên trời được, nhưng hơn chúng ta, vì lòng mến Thiên Chúa của họ lớn lao hơn.
Chính vì vậy mà lời cầu nguyện của các linh hồn rất có hiệu lực cho chúng ta, và các linh
hồn cũng được chúng ta cầu nguyện. Nhất là các thánh ở trên trời hằng cầu bầu cho các
linh hồn được mau hoàn tất sự thanh luyện.
3. Các thánh trên trời cầu bầu cho các linh hồn ở luyện tội
“Các thánh trên trời có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục bằng lời cầu bầu
của họ”231. Trong phụng vụ cử hành cho người quá cố, Giáo hội cầu xin Thiên Chúa: “nhờ
lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria trọn đời đồng trinh và của các thánh”, cho các kẻ
qua đời được đến nơi diễm phúc. Lời cầu xin của các thánh cũng chỉ có giá trị cầu bầu cho
các linh hồn ở luyện ngục, chứ không thể đền tội thay hay nhường công phúc cho các linh
hồn ở luyện ngục, như chúng ta còn ở trần gian được232. Trong truyền thống cổ, trên các
bia mộ của người ki-tô hữu người ta thường khắc ghi những hàng chữ “linh hồn người quá
cố được gửi cho các thánh tử đạo”. Và để đảm bảo cho lời cầu của các vị này, các ki-tô
hữu khao khát được chôn cất gần mồ của các thánh tử đạo233. Với mục đích để các thánh
cầu bầu cho linh hồn người quá cố sớm được hưởng tôn nhan Chúa như các ngài. Bởi vì,
các thánh trên Thiên đàng đã được hiệp thông mật thiết với Chúa Giê-su, cho nên cũng yêu
mến các linh hồn như Chúa yêu mến. Tình yêu mà các thánh trên Thiên đàng dành cho các
linh hồn trong luyện ngục và các linh hồn trên dương gian không phải là một tình yêu thụ
động. Chúng ta có thể gọi là tình yêu “khao khát”, tích cực. Các thánh giúp đỡ các linh
228 x. Đặng Thanh Minh, Tôn kính tổ tiên trong Thiên Chúa giáo, Tòa TGM Huế, 1999, tr. 29-31. 229 x. Lm. Giu-se Nguyễn Văn Chữ, Thánh Phaolô và sứ vụ truyền giáo, nxb Tôn giáo, 2009, tr. 232. 230 x. Lm. Giu-se Nguyễn Văn Chữ, Thánh Phaolô và sứ vụ truyền giáo, nxb Tôn giáo, 2009, tr. 232. 231 Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 199. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 232 x. Lm. Nguyễn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ, tr. 378. 233 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr.199. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh.
66 hồn. Và nếu lời cầu nguyện của người lành trên dương thế có sức mạnh trước mặt Chúa,
thì không thể nào đo lường được sức mạnh những lời cầu nguyện của các thánh dành cho
các linh hồn. Các ngài là những anh hùng của Thiên Chúa, những người bạn thắm thiết và
thân cận của Ngài234. Vì vậy, các thánh hằng nhớ cầu nguyện cho các bạn hữu đang còn
phải chịu thanh luyện sớm được đông số đoàn tụ với các ngài trên quê trời.
Cách riêng, nơi thánh nữ Têrêsa hoàn toàn qui về Các Thánh Cùng Thông Công.
Như chúng ta đã thấy, chị rất ý thức về mối tương quan bền chặt với các bạn hữu là các
Thiên thần và các Thánh. Chị cũng rất tận tụy cầu nguyện, đau khổ và cầu bầu cho những
người có nhu cầu trên dương thế. Nhưng nhãn giới của chị không chỉ về phía Giáo hội vinh
quang và Giáo hội chiến đấu, mà còn hết lòng với Giáo hội đau khổ. Nhiều người trong
thời chị, ngay cả trong cộng đoàn của chị, luôn bận tâm đến chuyện tích lũy các ân xá và
các việc lành hầu rút ngắn ngày giờ chịu giam giữ nơi luyện ngục235. Hơn thế nữa, các
thánh cầu bầu cùng Chúa cho các linh hồn ở luyện ngục được thể hiện rõ nét nơi Đức
Maria. Vậy, Mẹ Maria đã làm gì để cứu các linh hồn đang còn thanh luyện?
4. Đức Maria an ủi và giải thoát các linh hồn ở luyện tội
Mẹ Maria không chỉ cầu nguyện cho những người đang còn hành trình dương gian,
nhưng Mẹ còn quan tâm đến an ủi những linh hồn đang còn phải ưu sầu trong luyện tội.
Nơi luyện tội, các linh hồn phải đau thương vò xé, mà không thể tự tương trở nhau được.
Nên Mẹ tình thương đã quan tâm cứu trợ họ cách riêng. Như thánh Bênađô đã viết: “Đức
Thánh Nữ Trinh hiển trị nơi luyện ngục”236. Bởi vì, các linh hồn chịu giam cầm trong khổ
não, tôi tớ Mẹ Maria, thường được Mẹ nguồn an ủi đến viếng thăm. Chính Mẹ Maria đã
phán với thánh nữ Brigita: “Mẹ là Mẹ của tất cả các linh hồn đang đau khổ trong luyện
ngục. Nhờ lời từ ái Mẹ cầu xin, bằng cách này hay cách khác, những khổ hình các con Mẹ
chịu trong nơi đó vì tội đã phạm khi còn sống đã được tỉnh giảm, từng giờ từng phút”.
Tình thương còn thúc đẩy Mẹ thân hành đến luyện ngục để viếng thăm, an ủi các linh hồn.
Như lời thánh Vinh Sơn Phêriê đã nói: “Từ tâm của Mẹ Maria đối với các linh hồn ở luyện
ngục thật cao cả. Nhờ Mẹ, các linh hồn ấy đã tìm được ủi an”237.
Nhưng không phải chỉ có an ủi và thuyên giảm khổ hình trong luyện ngục, Mẹ còn
cầu bầu để bẻ tan xiềng xích đang trói buộc họ và giải thoát họ. Cha Gerson quả quyết:
“Ngày Mẹ được mông triệu lên trời, không còn một linh hồn nào phải giam cầm ở lại luyện
234 x. Francis Fernandez, Đối thoại với Thiên Chúa, những bài suy niệm hằng ngày Mùa chay-Phục sinh, tr. 543. 235 x. Christopher O’ Donnell OCarm, Tình yêu trong trái tim Giáo hội - sứ mạng của thánh nữ Têrêsa Lisieux, tr.
220. 236 Thánh Anphong, Vinh quang Đức Maria, nxb Tôn giáo, 2006, tr. 279. Người dịch Phạm Duy Lễ. 237 Thánh Anphong, Vinh quang Đức Maria, nxb Tôn giáo, 2006, tr. 281. Người dịch Phạm Duy Lễ.
67 ngục”238. Cha Nôvarinh cũng tán thành ý kiến đó, ngài viết: “Theo nhiều tác giả cẩn trọng,
thì khi sắp về trời, Mẹ Maria xin Chua Giê-su ơn được đem theo vào thiên đàng vinh hiển
hết các linh hồn khi đó đang bị giam cầm trong luyện ngục”239. Cha Gerson lại nói thêm:
“Từ ngày đó, Mẹ Maria được đặc quyền giải thoát các tôi tớ Mẹ khỏi nơi đày ải đau
thương luyện tội”240. Thánh Bênađô cũng xác nhận quan điểm này: “Rất Thánh Đồng
Trinh Maria sẽ cầu xin và áp dụng công trạng của Mẹ để giải cứu khỏi luyện ngục hết
những linh hồn nào Mẹ muốn, và nhất là các tôi trung của Mẹ”241 . Cùng theo chiều hướng
này, cha Nôvarinh viết: “Tôi không thấy phải khó khăn gì khi tin rằng các linh hồn luyện
ngục, nhờ công đức Mẹ Maria, không những thấy khổ hình mình chịu được dịu bớt, mà lại
được thu ngắn lại. Tôi tin chắc rằng, nhờ Thánh Nữ Đồng Trinh cầu bầu, ngày giải thoát
của các linh hồn ấy đã đi trước giờ định rất nhiều”242. Bởi vì Mẹ Maria là nữ Vương của
những linh hồn đang bị lửa thanh luyện, khi tiện dịp Mẹ đến thăm viếng, an ủi, giải thoát,
vì Mẹ có quyền hoặc xóa miễn hình phạt243. Như thế, Mẹ Maria rất gần gũi với các linh
hồn đang còn thanh luyện. Mẹ luôn khát khao đưa các linh hồn đó mau về hợp đoàn bên
Mẹ để chiêm ngưỡng Thiên Chúa.
Nói tóm lại, Thiên Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu cho sự hiệp thông trong Giáo hội.
Bởi vì, Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp thông với nhau một cách mật thiết đến nỗi một ngôi
không sống cho riêng mình, mà sống cho và vì ngôi khác nhờ sự trao ban tình yêu. Mầu
nhiệm các thánh hiệp thông cũng được bắt nguồn từ Ba Ngôi và noi theo sự hiệp thông
giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Sự riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành các
thành phần trong Giáo hội hiệp thông với nhau trong ân sủng. Thật thế, “sự hiệp nhất giữa
những người còn sống trên dương thế với các anh em đã yên nghỉ trong an bình Chúa Ki-
tô không hề bị gián đoạn. Hội thánh xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn được tăng
cường nhờ việc thông truyền cho nhau những của cải thiêng liêng”244, để xây dựng một
Giáo hội duy nhất trong Chúa Giê-su Ki-tô. Tất cả các chi thể đều hiệp thông với nhau
trong Chúa theo cách thức khác nhau. Dù đang sống trong Giáo hội lữ hành với anh chị em
hay với các linh hồn trong Giáo hội thanh luyện hoặc các thánh trong Giáo hội khải hoàn,
sự hiệp thông đó không hề bị gián đoạn. Vì tất cả chúng ta đều ở trong và thuộc về Chúa
Ki-tô, đồng thời cùng lãnh nhận Thánh Thần của Ngài. Từ đó hợp thành một Giáo hội hiệp
238 Sđd, tr. 282. 239 Sđd, tr. 282. 240 Sđd, tr. 282. 241 Sđd, tr. 282. 242 Sđd tr. 282. 243 x. P. Colin C.ssR, Đức Maria với dòng tu, tr. 125. Dịch giả Đồng Tiến. 244 x. LG 49. Giáo Lý Hội thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 955.
68 thông, Giáo hội hiệp nhất qui tụ trong Chúa Ki-tô245. Thật vậy, sự hiệp nhất ấy không
những Giáo hội sống trên hành trình trần gian dưới tên gọi “Giáo hội lữ hành” mà còn nối
dài sự sống hiệp nhất ấy trên trời cao với “Giáo hội khải hoàn” và xuống sâu trong luyện
tội với “Giáo hội thanh luyện”. Tuy ba nhưng chỉ là một Giáo hội vì chung một sức sống là
Đức Ki-tô, chung một ân sủng từ thập giá, chung một niềm hy vọng nơi Đức Ki-tô phục
sinh. Các thành phần của cả ba đều được cứu chuộc bởi Đức Ki-tô, cùng đi trên một hành
trình, cùng chịu thanh luyện và cùng được hưởng sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.
Cả ba thành phần của Giáo hội sẽ hợp thành một cộng đoàn duy nhất do Thánh Thần liên
kết nên một và cùng chung hưởng mọi kho tàng thiêng liêng. Đến ngày sau hết, Đức Ki-tô
sẽ thu họp cả ba thành phần đưa về Chúa Cha. Lúc đó sự hiệp thông trong Thiên Chúa mới
trở nên hoàn hảo.
Thế nhưng, trong cuộc hành trình trần gian chúng ta còn phân biệt ba trạng thái của
Giáo hội. Những ki-tô hữu còn sống trên cuộc đời này thuộc Giáo hội lữ hành sống hiệp
thông với nhau. Cách riêng các đan sĩ sống mầu nhiệm các thánh hiệp thông một cách mật
thiết. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ trong chương kế tiếp.
Đan sĩ sống mầu nhiệm các thánh hiệp thông được thể hiện suốt cả ngày sống.
Trước hết là các bí tích, sau đó là phụng vụ các giờ kinh, cuối cùng là qua lao động và các
việc đạo đức khác. Theo Hiến chế về Phụng vụ Thánh thì Phụng vụ bao gồm Thánh lễ, các
bí tích, các giờ kinh phụng vụ, các á bí tích và các cử hành phụng tự khác được Giáo hội
địa phương phê chuẩn. Bên cạnh đó cũng khá quan trọng là qua việc lao động hằng ngày,
các đan sĩ tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa và kéo dài giờ thần vụ ra suốt
cả ngày sống để hiệp thông với Thiên Chúa, với nhân loại và với vũ trụ thiên nhiên này.
Do đó, qua lao động và phụng vụ đan sĩ thể hiện sự hiệp thông trong Giáo hội. Cách riêng
phụng vụ đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của các đan sĩ. Vì qua phụng vụ các
đan sĩ đại diện Giáo hội ca ngợi Thiên Chúa không ngừng. Qua phụng vụ, Thiên Chúa
được tôn vinh và con người được thánh hóa. Các đan sĩ thể hiện sống mầu nhiệm các thánh
hiệp thông một cách cụ thể nơi phụng vụ, mà cao điểm là các bí tích, nhất là bí tích Thánh
Thể và Thánh lễ.
I. Hiệp Thông Qua Các bí tích Và Thánh Lễ
Các bí tích được gọi là hiệp thông. Bởi vì, qua các bí tích con người được hiệp
thông với Thiên Chúa và hiệp thông giữa “các thánh” với nhau. Mối dây hiệp thông được
thể hiện nơi thánh lễ và các bí tích.
1. Hiệp thông qua các bí tích
Bí tích là hành động của Đức Giê-su và Giáo hội, để diễn tả và xây dựng mối hiệp
thông giữa con người với Thiên Chúa, với mọi người mọi vật. Vì “các bí tích có mục đích
thánh hóa con người, xây dựng thân thể Chúa Ki-tô và sau cùng là thờ phượng Thiên
Chúa”246. Nghĩa là bí tích để cứu độ, để chuẩn bị cho hạnh phúc mai sau trên trời. Giáo
hội đã xác định có bảy bí tích để thánh hóa các tình huống quan trọng trong cuộc đời ki-tô
hữu. Các bí tích được chia làm ba loại: các bí tích khai tâm vào đời sống hiệp thông, phục
hồi sự sống hiệp thông và phục vụ đời sống hiệp thông. Tất cả đều qui hướng về sự hiệp
thông mà bí tích Thánh Thể là chủ chốt.
- Những bí tích khai tâm vào đời sống hiệp thông: đó là bí tích Rửa tội, Thêm sức
và Thánh thể, làm cho con người được hiệp thông với Thiên Chúa, mỗi ngày được thêm
gia tăng sự hiệp thông ấy. Giáo lý Giáo hội viết rõ: “Ba bí tích: Thánh tẩy, Thêm sức và
Thánh thể là những bí tích khai tâm đặt nền tảng cho toàn thể đời sống ki-tô hữu. “Nhờ ân
246 Công đồng Vaticano II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh: Sacrosanctum Concilium, số 59.
70 sủng của Đức Ki-tô, con người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa. Tương tự như việc
sinh ra, lớn lên và bảo tồn trong đời sống tự nhiên, người tín hữu được tái sinh trong đời
sống mới nhờ bí tích Thánh tẩy, được củng cố nhờ bí tích Thêm sức, và nhận lấy bánh ban
sự sống đời đời trong bí tích Thánh thể. Như vậy, nhờ các bí tích khai tâm Ki-tô giáo, họ
được hiệp thông sâu xa hơn vào đời sống thần linh và ngày càng tiến tới đức mến hoàn
hảo”247. Quả thật, “bí tích Thánh tẩy là nền tảng của toàn bộ đời sống ki-tô hữu, là cửa
ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích Thánh tẩy, chúng ta được
giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, trở thành chi thể của Đức Ki-tô,
được tháp nhập vào Hội thánh và tham dự sứ mạng của Hội thánh. “Bí tích Thánh tẩy là
bí tích tái sinh chúng ta nhờ nước và trong Lời Chúa”248.
Cũng như sự sống tự nhiên của thân xác ngày càng lớn lên, thì sự sống thần linh
của người ki-tô hữu do phép Thanh tẩy cũng cần lớn lên đạt tới mức trưởng thành. Bí tích
Thêm sức được coi là bí tích trưởng thành của đời sống ki-tô hữu. Bí tích Thêm sức cũng
cố và hoàn tất những hiệu quả của bí tích Thánh tẩy. Cả hai bí tích này biệt lập với nhau,
nhưng bổ túc cho nhau, và cùng với bí tích Thánh thể làm nên bộ ba hoàn thành hành trình
gia nhập Ki-tô giáo249. Thật thế, bí tích Thánh thể hoàn tất việc khai tâm vào Ki-tô giáo.
Ki-tô hữu được tham gia với Đức Giê-su vào trong lễ Tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa, đồng
thời được hiệp thông mật thiết với Đức Giê-su. “Khi cử hành bí tích Thánh thể, chúng ta
được kết hợp với phụng vụ trên trời để tạ ơn, ca ngợi Thiên Chúa và tiền tham dự vào đời
sống vĩnh cửu”250.
Ba bí tích gia nhập vào đời sống hiệp thông này, đã làm cho ki-tô hữu được hiệp
thông với Thiên Chúa và Giáo hội. Có nghĩa là hiệp thông với ba trạng thái của Giáo hội.
Vì tất cả đều lãnh nhận một phép rửa, một thần khí, cùng ăn một tấm bánh. Quả thật, để trở
thành đan sĩ đích thực, thì đương sự phải lãnh ba bí tích gia nhập vào đời sống hiệp thông
của Giáo hội. Do đó, đan sĩ sống mầu nhiệm hiệp thông này một các cụ thể khi tham dự
vào bí tích Thánh thể mỗi ngày để hợp với Đức Ki-tô, Mẹ Maria và các thánh trên trời
chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa, ngõ hầu mưu ích cho các linh hồn đang còn thanh luyện
sớm được hợp hoan với Chúa trên Thiên đàng. Thế nhưng trong cuộc đời của các đan sĩ nói
riêng và các ki-tô hữu nói chung, có những lúc yếu đuối phạm những lỗi lầm, làm cho sự
hiệp thông không còn trọn vẹn. Chính vì thế cần đến các bí tích phục hồi sự sống hiệp thông.
- Những bí tích phục hồi sự hiệp thông: đó là bí tích Hòa giải và Xức dầu bệnh
nhân. Trong cuộc hành trình trên trần gian tiến về Nước Thiên Chúa, sự sống phần hồn và
247 Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1212. 248 Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1213. 249 x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, biên soạn cho người Việt Nam, nxb Thuận Hóa, 1996, tr. 234. 250 Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, nxb Tôn giáo, 1997, số 1326.
71 phần xác của người ki-tô hữu luôn bị đe dọa, có những lúc sa cơ lỡ bước, nên Đức Giê-su
dùng bí tích Sám hối Hòa giải và bí tích Xức dầu bệnh nhân để giúp ta chiến thắng sự dữ,
loại trừ tội lỗi và chữa lành bệnh tật, để phục hồi đời sống hiệp thông.
Sau khi được Rửa tội, nếu người “ki-tô hữu” (đan sĩ) sa ngã trong tội trọng làm mất
đi sự hiệp thông với Thiên Chúa và Giáo hội, thì bí tích Sám hối Hòa giải giúp ta trở về
hiệp thông lại với Thiên Chúa và Giáo hội251. Quả thật, trong cuộc đời của người đan sĩ
đang hành trình tiến về Nhà Cha còn gặp nhiều sóng gió, chông gai. Có những lúc sa
đường lạc lối không còn hiệp thông với Thiên Chúa và Giáo hội, thì bí tích Hòa giải giúp
cho đan sĩ hiệp thông lại với Thiên Chúa và Giáo hội. Do đó, Hiến pháp Hội dòng mời gọi:
“Nhiệm tích giải tội không những thanh luyện tâm hồn, nhưng còn ban thêm sức mạnh tiến
bước trên đường trọn lành. Tu sĩ năng lãnh nhiệm tích này”252. Hơn nữa, “nếu tinh thần
thống hối phải thấm nhuần đời sống ki-tô hữu, thì đó phải là nét nổi bật của đời đan sĩ. Vì
nhận biết sự thánh thiện tuyệt vời của Thiên Chúa, và ý thức sự xấu xa của tội lỗi, sự yếu
đuối của nhân loại sa ngã, nên người đan sĩ luôn có lòng thống hối, không những cho bản
thân mà còn cho cả mọi người trong tình liên đới nhân loại. Tinh thần thống hối phát sinh
từ lòng kính sợ Chúa và đức khiêm nhường thẳm sâu, sẽ dẫn đưa tới niềm hy vọng cứu rỗi
và sau cùng tới tột đỉnh của Đức Ái. Bí tích giải tội, một phương dược mà đan sĩ cần sử
dụng, chỉ đem lại hiệu quả thực sự, nếu tâm hồn thấm nhuần tinh thần thống hối”253. Như
vậy, “đan sĩ luôn có lòng thống hối, không những cho bản thân mà còn cho cả mọi người
trong tình liên đới nhân loại”. Sám hối “cho cả mọi người” là bao hàm cho cả người sống
cũng như những người đã qua đời đang còn phải thanh luyện. Điều này thể hiện “tới tột
đỉnh của Đức Ái”. Nghĩa là sống mầu nhiệm các thánh hiệp thông trong Giáo hội. Thế
nhưng có những lúc đan sĩ yếu sức vì những căn bệnh làm suy giảm tinh thần, thì sẽ được
gia tăng sức mạnh khi lãnh bí tích Xức dầu bệnh nhân.
Bí tích này ban ơn riêng của Chúa Thánh Thần giúp cho bệnh nhân hiệp thông với
đau khổ của Đức Giê-su để mưu ích cho mình và cho Giáo hội, được an ủi và can đảm chịu
mọi đau đớn thử thách, được tha các tội đã phạm254. Đồng thời nhờ sự hiệp thông những
của cải thiêng liêng trong Giáo hội mà ta được sức mạnh để vững bước trên đường về quê
trời. Cụ thể hơn qua các bí tích phục vụ đời sống hiệp thông.
- Những bí tích phục vụ đời sống hiệp thông là bí tích Truyền chức thánh và Hôn phối.
Đức Giê-su là vị tư tế độc nhất đã hiến tế mình trên thập giá để thực hiện việc cứu
độ toàn thể nhân loại và vũ trụ. Người muốn hiến tế ấy tồn tại trên trần gian nên đã ban cho
251 x. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô – Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2005, tr. 254. 252 Hiến pháp và Tuyên ngôn Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 124, tr. 109. 253 Hiến pháp và Tuyên ngôn Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 9, tr. 151. 254 x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 1532.
72 Giáo hội cử hành. Vì thế, toàn thể các tín hữu và các đan sĩ trong Giáo hội đều thông phần
vào chức tư tế duy nhất của Chúa Ki-tô, vì Người đã “làm cho họ thành một vương quốc,
thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa” (Kh 5,10). Nghĩa là mọi người trong Giáo
hội đều tham dự vào chức tư tế của Đức Giê-su một cách chung để cử hành dâng lên Chúa
Cha. Nhưng ngay giữa cộng đoàn dân Chúa được bí tích Thánh Tẩy thánh hiến, để lãnh
nhận chức tư tế chung, Thiên Chúa còn tuyển chọn một số người lãnh nhận chức tư tế thừa
tác, được thánh hiến nhờ một bí tích riêng là bí tích Truyền chức thánh255. “Chức tư tế
chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về
cấp bậc mà còn về yếu tính, song cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự
vào chức tư tế duy nhất của Chúa Ki-tô theo cách thức riêng của mình”256. Chức tư tế thừa tác
nhằm phục vụ cộng đoàn dân Chúa, để các tín hữu phát huy ân sủng của bí tích Thánh tẩy.
Như thế, các đan sĩ cho dù là linh mục hay không linh mục cũng tham dự vào chức
tư tế của Đức Ki-tô một cách mật thiết và hiệu quả, khi hằng ngày tích cực hiệp với Hy lễ
Tạ ơn của Đức Ki-tô để dâng lên của lễ chính mình, của Giáo hội và cả nhân loại, nhất là
những người đã ly trần cho Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ đón nhận lễ vật và thánh hóa, làm
cho mọi người được hiệp thông mật thiết với nhau.
Sau cùng, “nhờ sức thiêng liêng của bí tích Hôn phối, các đôi vợ chồng Ki-tô giáo
biểu hiện và tham dự vào mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Đức Ki-tô và
Giáo hội (x. Ep 5,32); họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón
nhận và giáo dục con cái nên thánh”257. Quả thật, nếu “các đôi vợ chồng Ki-tô giáo biểu
hiện và tham dự vào mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Đức Ki-tô và Giáo
hội”, thì các đan sĩ hiệp thông với Giáo hội chính là Hiền thê của Đức Ki-tô, đã chính thức
kết ước với Đức Ki-tô là Phu quân của Giáo hội. Đây là hình ảnh nói lên sự hiệp thông sâu
xa, nhưng đặc biệt hơn là nơi bí tích Thánh thể được thể hiện qua Hy lễ Tạ ơn của Đức Ki-tô.
2. Hiệp thông qua Thánh lễ
Thánh Phaxicô Salêsiô đã quả quyết: “Thánh lễ là một việc đạo đức cao nhất, là
trung tâm qui tụ mọi sinh hoạt Ki-tô Giáo”258. Thánh lễ gồm hai phần: phụng vụ lời Chúa
và phụng vụ Thánh thể, cả hai đều liên kết với nhau tạo nên một Phụng tự duy nhất259.
- Thánh lễ với mục đích là ca ngợi và tạ ơn.
Khi cử hành Thánh lễ, cả cộng đoàn hợp với linh mục đại diện Đức Ki-tô để dâng
lên Chúa Cha của lễ chúc tụng ngợi khen và cảm tạ. Không chỉ cộng đồng Giáo hội lữ
255 x. Giáo lý Hội thánh Công giáo, biên soạn cho người Việt Nam, nxb Thuận Hóa 1996, tr. 277. 256 Công Đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội: Lumen Gentium, số 10. 257 Công Đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội: Lumen Gentium, số 11. 258 Hương Việt, Tìm hiểu và sống Thánh lễ, nxb. Tôn giáo, 2001, tr. 3. 259 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh: Sacrosanctum Concilium, số 56.
73 hành ca ngợi Thiên Chúa, mà còn hợp với các thánh trên trời và các linh hồn đang còn
thanh luyện cùng dâng lời ca chúc tụng Thiên Chúa. “Bởi vậy, khi cử hành lễ hy tế tạ ơn,
chúng ta kết hiệp mật thiết với việc thờ phượng của Giáo hội trên trời, vì hiệp cùng Giáo
hội, chúng ta kính nhớ trước hết Đức Maria vinh hiển, trọn đời Đồng Trinh, sau là thánh
Giuse, các thánh Tông đồ và Tử đạo cùng toàn thể các thánh”260. “Toàn thể các thánh” có
nghĩa là mọi thành phần trong Giáo hội phổ quát đều ngợi khen Thiên Chúa. Như lời cuối
của Kinh Tiền Tụng được đọc trong Thánh lễ: “Vì thế, cùng với các Thiên Thần và Tổng
lãnh Thiên thần, các Bệ thần và Quản thần, cùng toàn thể đạo binh thiên quốc chúng ta
không ngừng hát bài ca chúng tụng vinh quang Chúa rằng: Thánh! Thánh! Thánh! Chúa
là Thiên Chúa các đạo binh. Trời đất đầy vinh quang Chúa. Hoan hô Chúa trên các tầng
trời. Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Hoan hô Chúa trên các Tầng trời”261.
Thật thế, Thánh lễ luôn là lời chúc tụng Thiên Chúa và không ngừng tôn vinh Ngài như lời
linh mục thường hay đọc: “Chính nhờ Đức Ki-tô cùng với Đức Ki-tô, và trong Đức Ki-tô,
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, mọi vinh quang danh dự đều thuộc về Cha, là Thiên Chúa
toàn năng, đến muôn thủa muôn đời”262. Trong Thánh lễ chính Đức Ki-tô thay thế chúng
ta dâng lên Thiên Chúa việc thờ phượng. Hay nói đúng hơn, mọi thành phần trong Giáo
hội là chi thể kết hợp với Đức Ki-tô là Đầu để làm việc thờ phượng Thiên Chúa. Thật vậy,
trên bàn thờ cũng như trên thập giá, Đức Ki-tô dâng lên Thiên Chúa tâm tình thờ lạy, tạ ơn
và yêu mến vượt trên các thiên thần, các thánh và cả Mẹ Maria nữa. Chính thánh
Anphongsô đã viết điều này: “Tất cả sự tôn vinh của các thiên thần bằng lời ca ngợi, của
loài người bằng những nhân đức đem so sánh với thánh lễ mà thôi thì cũng chẳng nghĩa lý
gì cả, bởi chưng, những tôn vinh ấy chỉ là thụ tạo. Còn trong thánh lễ, sự tôn vinh của Đức
Ki-tô là sự tôn vinh của Thiên Chúa nên có được một giá trị vô song”263. Bởi đó mà cha
Biển Đức Thuận sáng lập Hội dòng Xi-tô Thánh gia Việt Nam xác quyết cho các đan sĩ
rằng: “Đọc kinh hát lễ thay cho cả Hội thánh thờ phượng ca ngợi Chúa, cũng như lính
canh hằng canh thức luôn. Thế gian thường lo tìm bạc tìm tiền, lo vui chơi ngủ nghỉ, chúng
ta như lính phải canh thức luôn mà cầu nguyện thay mặt Hội thánh”264. Quả thật, thánh lễ
là phận vụ chính yếu nhất mà đan sĩ cử hành. Đan sĩ múc lấy sức sống từ thánh lễ. Nơi
thánh lễ, đan sĩ thực hiện việc thờ phượng tuyệt hảo nhất. Hiến pháp của Hội dòng ghi
nhận:“Thánh lễ là trung tâm qui tụ mọi hoạt động của đời đan tu. Vì thế , khi tham dự
thánh lễ và hiệp lễ, đan sĩ liên kết việc tận hiến bản thân với Hy Lễ nhiệm mầu của Chúa
260 Công Đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội: Lumen Gentium, số 50. 261 Sách lễ Rô-ma: Kinh tiền tụng mùa vọng I, tr. 22. 262 Hương Việt, Tìm hiểu và sống Thánh lễ, nxb Tôn giáo, 2001, tr. 13. 263 Hương Việt, Tìm hiểu và sống Thánh lễ, nxb Tôn giáo, 2001, tr. 10. 264 Di Ngôn cha Biển Đức Thuận (1880-1933) Sáng Lập Hội Dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 139.
74 Ki-tô, để dưới tác động của Chúa Thánh Thần, tôn vinh Thiên Chúa Cha, đồng thời thể
hiện sự hiệp nhất huynh đệ. Hằng ngày mọi người phải tham dự thánh lễ cộng đoàn. Các
linh mục dâng lễ theo ý chỉ của đan viện”265. Thánh lễ là trung tâm đời sống cộng đoàn, vì
thế toàn thể anh em trong đan viện mỗi ngày họp nhau cử nhành thánh lễ. Mà trọng tâm
của thánh lễ đó là Thánh thể, vì chính nơi Chúa Ki-tô hiện thân làm giá chuộc muôn người.
Hẳn nhiên không một cộng đoàn ki-tô hữu nào xây dựng nếu không đặt nền tảng và trọng
tâm vào việc Thánh thể. Thánh thể là nguồn mạch và là sức mạnh cho chúng ta thi hành sứ
vụ266. Đồng thời phụng vụ Thánh thể là hiện tại hóa sự chết, sự sống lại và lên trời vinh
hiển của Đức Ki-tô. Nhờ đó, Ngài đã tiêu diệt tử thần và ban cho con người sự sống mới
trong Đức Ki-tô. Từ đó ân sủng tuôn đổ trên con người, thánh hóa con người và Thiên
Chúa được tôn vinh nơi con người. Khi đan sĩ đón nhận Mình và Máu Đức Ki-tô làm của
ăn thiêng liêng nuôi sống tâm hồn, đó là lúc đan sĩ kết hợp với Đức Ki-tô qua bí tích Thánh
thể, sống mối tình hiệp thông với Thiên Chúa một cách mật thiết nhất 267. Nhờ tham dự
thánh lễ hằng ngày mà “họ trở nên một phượng tự đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách sống ơn
gọi của mình, khởi điểm từ sự tập hợp Phụng vụ, chính bí tích Thánh thể dẫn đưa chúng ta
vào trong thực tại hằng ngày để mọi sự được thực hiện vì vinh quang Thiên Chúa”268.
Như vậy, khi tham dự thánh lễ, mỗi thành phần trong Giáo hội hiệp với Chúa Giê-
su hiến dâng cuộc đời mình làm của lễ sống động để dâng lên lời chúc tụng ngợi khen, cảm
tạ Thiên Chúa là Chúa tể trời đất, đồng thời xin Chúa thứ tha những lỗi lầm của mình cũng
như bao người khác, nhất là cho những người đã qua đời. Thật thế, “hy tế thánh lễ không
những là hy tế ca ngợi và tạ ơn, nhưng còn là hy tế đền tội và cầu khẩn”269.
- Hy tế Thánh lễ là đền tội và cầu khẩn cho người sống và kẻ chết.
Chứng cứ Thánh kinh nói về việc đền tội của Hy tế Thánh lễ được dựa trên đoạn:
“Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao ước, đổ ra cho muôn
người được tha tội” (Mt 26,28). Quả thật, Hy tế của Đức Ki-tô không như các tư tế khác:
“mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền tội cho
dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ” (Dt 7,27). Do đó,
linh mục được đặt lên là “để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5,1). Như thế, hy
tế Thánh lễ tác tạo việc tha thứ tội lỗi và các hình phạt tội lỗi; như hy tế khẩn cầu hy tế
Thánh lễ tác tạo hồng ân siêu nhiên và tự nhiên. Như công đồng Tridentinô công khai
tuyên bố, Hy tế đền tội của bí tích Thánh thể được dâng tiến không những để cầu cho
265 Hiến pháp và Tuyên ngôn Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 119-120. 266 x. Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, Tông huấn Thượng Hội đồng Giám mục (Sacramentum Caritatis), số 85. 267 x. Hội Dòng Xi-Tô Thánh Gia, Hạt giống chiêm niệm, số 15: Niềm vui Phúc Âm, 2014, tr. 49-50. 268 Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, Tông huấn Thượng Hội đồng Giám mục (Sacramentum Caritatis), số 79. 269 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 318. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh.
75 người đang sống, nhưng còn để cầu cho các linh hồn khốn khổ trong luyện ngục theo như
truyền thống của các Tông Đồ (D. 940, 950)270.
Chính vì thế, kinh nguyện Thánh thể trước hết là cầu nguyện cho những người còn
sống thuộc Giáo hội lữ hành: “Chúng con dâng lên để cầu nguyện cho Hội thánh của Cha,
xin ban bình an, giữ gìn, hợp nhất, và cai quản Hội thánh Công giáo khắp hoàn cầu: đồng
thời cũng cầu cho tôi tớ Chúa là đức giáo hoàng…, các đức giám mục…xin nhớ đến những
tôi tớ Chúa… và mọi người đang sum họp nơi đây, mà Chúa biết rõ lòng tin kính và sùng
mộ. Chúng con dâng thay hoặc chính họ dâng lên Chúa hy lễ ca tụng này cầu cho mình và cho
mọi người thân thuộc: hầu linh hồn được cứu chuộc, thân xác được an lành mạnh khỏe như lòng
mong ước. Như vậy, họ được tôn vinh Chúa là Thiên Chúa thật hằng hữu và hằng sống”.
Sau cùng là tưởng nhớ đến những người đã qua đời thuộc Giáo hội thanh luyện:
“Lạy Chúa xin nhớ đến những tôi tớ Chúa là (linh hồn T…) được ghi dấu đức tin đã ra đi
trước chúng con và đang nghỉ giấc bình an. Lạy Chúa, chúng con xin Chúa thương ban
cho các tín hữu ấy, và tất cả mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và thân
bằng quyến thuộc chúng con đã an nghỉ trong Đức Ki-tô được vào nơi hạnh phúc sáng
láng và bình an”271. Việc cầu nguyện cho các bậc tổ tiên đã được các giáo phụ lưu truyền
lại. Tertulian minh chứng phong tục cử hành Hy tế Thánh lễ vào ngày giỗ cho người quá
cố để cầu nguyện cho họ. Cyrillo thành Giêrusalem xem Hy tế Thánh lễ là “lễ vật giao
hòa” và ghi chú: “Chúng ta tiến dâng Đức Kitô bị sát tế vì tội lỗi chúng ta. Nhờ đó chúng
ta giao hòa họ và chúng ta với Thiên Chúa nhân từ” (Cat. myst. 5,10)272.
Trong thế kỷ thứ VII, các đan sĩ bắt đầu dâng lễ Misa vào hôm sau lễ Ngũ Tuần để
cầu cho những thành viên trong cộng đoàn họ đã qua đời. Năm 998, đan viện Biển Đức ở
Cluay khởi sự cử hành thánh lễ vào ngày 2 tháng 11 tưởng nhớ đến mọi người trong đan
viện đã khuất. Việc làm này lan sang các đan viện khác, sau cùng đến các giáo xứ và cha
xứ dâng lễ cầu cho người trong xứ đã qua đời. Vào thế kỷ XVIII, Rô-ma đã đặt lễ này vào
lịch phụng vụ của Giáo hội hoàn cầu. Khắp Giáo hội cùng một ngày cử hành lễ cầu cho
những con cái Giáo hội đã qua đời, như mầu nhiệm các thánh thông công được kính nhớ
vào những ngày liên tiếp nhau, các thánh khải hoàn trên trời vào ngày mùng 1 tháng 11,
còn các linh hồn nơi luyện ngục ngày mùng 2 tháng 11273.
Nối tiếp truyền thống tốt đẹp của các đan sĩ thủa xưa cũng như của Giáo hội, vào
ngày mùng 2 tháng 11 cả cộng đoàn đan viện hiệp dâng ba Thánh lễ để cầu nguyện cho các
270 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 319-320. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 271
Sách lễ Rô-ma, Kinh tiền tụng 1. 272 x. Ludwig Ott, Tín lý tập II, Đại chủng viện thánh Giu-se, 2003, tr. 320. Người dịch: Lm. Nguyễn Văn Trinh. 273 x. Greg Dues, Những thói quen và truyền thống Công giáo, 1989, tr. 236.
76 đẳng linh hồn. Hằng năm trong đan viện còn có những ngày cầu hồn trọng thể như sau:
ngày 18/09: cầu cho anh em Toàn Dòng đã qua đời. Ngày 14/11: cầu cho các anh chị em
giữ Luật Thánh Biển Đức đã qua đời. Rằm tháng Bảy Âm Lịch: cộng đoàn dâng Thánh lễ
trọng thể cầu cho các Đẳng Linh Hồn. Mỗi tháng, Dòng Xi-tô dành một ngày cầu cho các
linh hồn, quen gọi là Nguyệt vụ cầu hồn274. Hiến pháp Hội dòng Xi-tô còn qui định rõ về
những nghĩa vụ đối với anh em qua đời, để nói lên sự hiệp thông giữa anh em với nhau:
“mỗi linh mục trong cộng đoàn dâng ba lễ, anh em không linh mục hiệp dâng ba lễ”275, và
“một tu sĩ hay nữ tu trong Hội dòng qua đời mỗi nhà dâng một lễ”276. “Trong ba năm liền, đến
ngày giỗ, cộng đoàn dâng một thánh lễ cầu cho linh hồn người anh em đã qua đời”277. Cách
riêng, đối với “Viện phụ tại chức hay mãn nhiệm qua đời, ngoại trừ những nghĩa vụ đối với
một anh em, đến giỗ ba mươi và một trăm ngày, cộng đoàn phải dâng một lễ cho ngài”278.
Đồng thời để nói lên sự hiệp thông giữa đan viện với các gia đình của anh em trong
cộng đoàn với nhau: “đối với ông bà, cha mẹ của một anh em qua đời, cộng đoàn dâng
một lễ trọng cho mỗi trường hợp. Anh chị em qua đời, nhà dòng dâng một thánh lễ. Các vị
ân nhân hay thân nhân qua đời, viện phụ tùy trường hợp chỉ định dâng lễ hay làm việc
lành khác xứng hợp với công đức và lòng biết ơn”279. Nhưng sự hiệp thông của các đan sĩ
không dừng lại ở đó mà còn đi xa, rộng hơn nữa đó sự hiệp thông giữa các cộng đoàn trong
Hội dòng, Toàn dòng và trong Giáo hội địa phương cũng như Giáo hội hoàn vũ nữa: “Viện phụ
nhà mẹ, Viện phụ Hội trưởng, Tổng phụ Xi-tô, Đức Giám mục sở tại, Đức Khâm Sứ Tòa Thánh
và Đức Giáo Hoàng qua đời, cộng đoàn hát một thánh lễ trọng thể cầu cho các ngài”280.
Qua đó cho chúng ta thấy được rằng, bản Hiến pháp của Hội dòng Xi-tô quan tâm
đặc biệt đối với những người quá cố, đã dành đến mười một số để qui định những nghĩa vụ
của mỗi đan sĩ và đan viện phải có đối với người quá cố thân yêu. Do đó, đan sĩ hằng ngày
hiệp dâng thánh lễ để cầu nguyện cho những người đã qua đời đang còn thanh luyện sớm
được hưởng tôn nhan Chúa. Thật vậy, đời sống huynh đệ của cộng đoàn các đan sĩ được
thể hiện cách cụ thể nhất nơi thánh lễ. Vì khi cử hành Thánh thể, cộng đoàn cần ý thức
rằng, hy tế của Đức Giê-su là cho mọi người, và vì thế Thánh thể thúc đẩy chúng ta phải
trở nên “Bánh được bẻ ra”, hầu mưu ích cho mọi người281. Phụng vụ Thánh lễ là để tôn
vinh ca tụng, ngợi khen Thiên Chúa, là của lễ đền tội. Phụng vụ giờ kinh cũng không ngoài
mục đích đó. 274 x.Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 288-289. 275 Hiến pháp và Tuyên ngôn Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 165. 276 Sđd, số 171. 277 Sđd, số 166. 278 Sđd, số 170. 279 Sđd, số 172. 280 Sđd, số 170. 281 x. Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, Tông huấn thượng Hội đồng Giám mục (Sacramentum Caritatis), số 88.
77
II. Hiệp Thông Qua Giờ Kinh Phụng Vụ
Mục đích của giờ kinh phụng vụ không gì khác hơn là để tôn vinh Thiên Chúa,
mưu ích cho bản thân, cho Giáo hội (Lữ hành, Thanh luyện) và cho toàn thể nhân loại. Qua
giờ kinh phụng vụ, Giáo hội lữ hành hiệp thông với Giáo hội khải hoàn đồng thanh ca ngợi
Thiên Chúa.
1. Hợp với các thánh trên trời ca ngợi Thiên Chúa
Để cất lên lời ngợi ca Thiên Chúa, chúng ta cần đến Chúa Thánh Thần vì “chúng ta
là những kẻ yếu hèn không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu
thay nguyện giúp bằng những tiếng rên xiết khôn tả” (Rm 8, 26). Chúa Thánh Thần sẽ
giúp chúng ta dùng những lời tốt đẹp để dâng lời ca tụng Thiên Chúa. Hơn thế nữa, còn có
Đức Giê-su chỉ cho chúng ta lời ca tụng hoàn hảo và đẹp lòng Chúa. Đức Giê-su Ki-tô con
một Chúa Cha, khi xuống trần gian đã mang theo bản thánh ca được hát muôn đời trên
Thiên quốc. Chính Người kết hợp toàn thể cộng đoàn nhân loại và liên kết họ với Người để
cùng hát bản thánh ca này282. Vì Giáo hội là chi thể, kết hợp với Đức Ki-tô là Đầu để
không ngừng tiến dâng lên Chúa Cha lời ca chúc tụng tạ ơn. Quả thật, “theo truyền thống
xa xưa của Ki-tô giáo, kinh nhật tụng được lập ra để thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời
ngợi khen Thiên Chúa. Vì khi bài ca ngợi khen tuyệt diệu đó được chu toàn đúng nghi
thức… thì đó thực là tiếng của chính Hiền Thê nói với Phu Quân mình, và hơn thế nữa,
còn là lời cầu của nguyện của Chúa Ki-tô và thân thể Người dâng lên Thiên Chúa Cha”283.
Do đó, tất cả những ai thi hành nhiệm vụ này, đều chu toàn Thần vụ của Hội thánh, đồng
thời được thông phần vinh dự lớn lao của Hội thánh là Hiền Thê của Đức Ki-tô, và khi
dâng lời ca tụng Thiên Chúa, họ nhân danh Hội thánh là Mẹ mà đứng trước ngai tòa Thiên
Chúa284. Giáo hội đã ủy thác việc này cho các đan sĩ nam nữ và các tu sĩ khác có bổn phận
phải cử hành toàn Kinh Nhật Tụng đại diện cho Giáo hội cầu nguyện không ngừng285.
Qua giờ kinh phụng vụ, chúng ta không chỉ kết hợp với Chúa Ki-tô nhưng còn hợp
với Mẹ Maria, các thánh trên trời đồng thanh ca ngợi Thiên Chúa. Công đồng Vaticano II
đã minh định: “Phụng vụ trần gian là nơi chúng ta tham dự bằng cảm nếm trước phụng vụ
trên trời, được cử hành trong thành đô Giêrusalem, nơi chúng ta là những lữ khách đang
tiến về, ở đó Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa như một thừa tác viên của cung
thánh, của nhà tạm đích thực; phụng vụ trần gian là nơi chúng ta hợp cùng toàn thể đạo
binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa: trong khi kính nhớ các Thánh, chúng ta
hy vọng được thông phần và đoàn tụ với các Ngài; chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Thế là
282 Công đồng Vaticano II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh: Sacrosanctum Concilium, số 83. 283 Công đồng Vaticano II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh: Sacrosanctum Concilium, số 84. 284 x. Thánh Bộ Phụng Tự, Văn kiện trình bày và qui định các giờ kinh phụng vụ, 1971, số 15. 285 x. Công đồng Vaticano II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh: Sacrosanctum Concilium, số 96.
78 Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cho đến khi chính Người là sự sống chúng ta sẽ xuất hiện
và chúng ta cũng sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang”286. Trong hiến chế về Giáo hội
công đồng còn xác tín: “Sự hiệp nhất của chúng ta với Giáo hội trên trời được thực hiện
cách hết sức cao cả, đặc biệt trong phụng vụ; ở đó chúng ta cùng lớn tiếng ngợi khen
Thiên Chúa uy linh và tất cả mọi người thuộc mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia
được cứu chuộc trong máu Chúa Ki-tô (x. Kh 5,9), hợp nhau trong Giáo hội duy nhất,
đồng thanh chúc tụng một Thiên Chúa Ba Ngôi”287. Có thể nói “thánh vịnh là lời ca của
các thiên thần, là hương thiêng liêng của các đạo binh Thiên quốc”288.
Chính thánh Biển Đức cũng mời gọi các đan sĩ của mình hòa hợp với các Thiên
thần hát thánh vịnh để ca ngợi Thiên Chúa: “Chúng ta tin Thiên Chúa hiện diện khắp nơi
và mắt người hằng nhìn xem người lành kẻ dữ khắp chốn. Nhưng chúng ta càng xác tín
điều này hơn khi tham dự Thần Vụ. Vì thế, chúng ta hãy nhớ lời ngôn sứ rằng: “Anh em
hãy phụng thờ Chúa với lòng kính sợ”. Lại rằng: “Hãy ca vịnh cho thật khéo”. Và “trước
mặt thiên thần, con ca vịnh Chúa”. Vậy chúng ta hãy xem mình phải có thái độ nào trước
nhan Thiên Chúa và các thiên thần. Chúng ta hãy hát Thần Vụ thế nào cho tâm trí hòa hợp
với lời ca”289. Thánh Biển Đức muốn các đan sĩ của mình phải có tâm tình khi hát thánh
vịnh là “tâm trí hòa hợp với lời ca”. Có nghĩa là hòa hợp với các thiên thần để ca ngợi
Chúa. Như thế, thánh Biển Đức đã nói lên sự hiệp thông giữa các đan sĩ với các thiên thần
để ca ngợi Thiên Chúa. Sau đó cha Biển Đức Thuận sáng lập dòng Xi-tô Việt Nam cũng
mời gọi các đan sĩ: “Phận vụ thầy dòng của chúng ta, không phải hoạt động bên ngoài,
nhưng là việc dâng lên Thiên Chúa bài ca chúc tụng liên lỉ. Phước của chúng ta, là trở nên
một “loài chim”, hót lên lời ca ngợi Chúa, theo gương Đức Mẹ, là “con chim hót hay hơn
cả”. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta được noi gương Mẹ, mỗi ngày nên giống Đức Mẹ hơn”290.
Do đó, đan sĩ cử hành giờ kinh phụng vụ để chúc tụng, ngợi khen cảm tạ, sám hối và cầu
xin, Thiên Chúa sẽ đoái thương lắng nghe thứ tha những lỗi lầm và ban ơn thánh hóa. Lời
khẩn nguyện không chỉ mang lại lợi ích cho đan sĩ nhưng còn cho cả thế giới nữa. Vì đan
sĩ cử hành phụng vụ để chuyển cầu muôn ơn lành xuống cho nhân loại.
2. Chuyển cầu muôn ơn lành xuống cho nhân loại
Như đã trình bày ở trên, đan sĩ cự hành giờ kinh phụng vụ để ca ngợi Thiên Chúa,
đồng thời xin ơn thánh hóa bản thân và cả nhân loại. Điều này Văn kiện trình bày và qui
định các giờ kinh phụng vụ đã viết: “Nhưng ngoài việc ca ngợi Chúa, Hội thánh còn thu
286 Công đồng Vaticano II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh: Sacrosanctum Concilium, số 8. 287 Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội: Lumen Gentium, số 50. 288 A.M. Roguet O.P, Khơi nguồn Thánh lễ, tr. 23, dịch giả: Mai Thanh Tuyền. 289 Tu Luật Cha Thánh Biển Đức, chương 19, tr. 64. 290 Di Ngôn, số 128.
79 nhận vào phụng vụ những lời kêu van nguyện ước của mọi người Ki-tô hữu và hơn nữa
còn dâng lên Chúa Ki-tô và nhờ Chúa Ki-tô dâng lên Chúa Cha những lời chuyển cầu cho
toàn thể nhân loại được cứu độ”291. Thật thế, đan sĩ luôn mang trong tim mình, trong lời
kinh của mình những khát vọng của thế giới. Bởi vì, “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo
lắng của con người ngày nay nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui
mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô”292, tức là của các đan sĩ.
Điều đó cho biết rằng, các đan sĩ là những môn đệ của Đức Ki-tô có liên hệ mật thiết với
loài người và lịch sử nhân loại. Do vậy, khi cử hành giờ kinh phụng vụ, đan sĩ ca ngợi
Thiên Chúa, đồng thời cầu nguyện cho thế giới được thêm nhiều người nhận biết Thiên
Chúa, ngõ hầu được hưởng ơn cứu độ293. Để thấy rõ điều đó, xin được trích dẫn lời cầu của
một giờ kinh phụng vụ mà các đan sĩ cử hành để cầu nguyện cho mọi nhu cầu trong Giáo
hội cũng như toàn thể nhân loại:
- “Chúa là Đấng nhân từ, luôn phù giúp và chở che dân Người đã chọn, để họ
được hạnh phúc. Chúng ta hãy cảm tạ Người và kêu lên:* Lạy Chúa, chúng con một lòng
trông cậy Chúa.
- Chúng con cầu xin cho Đức Giáo hoàng ... và (các) Đức Giám mục giáo phận
chúng con, * xin dùng sức mạnh của Chúa mà bảo vệ và thánh hoá các Ngài.
- Xin cho những người bệnh tật cảm thấy mình được thông phần vào cuộc thương
khó của Đức Kitô, * và luôn luôn được Người an ủi.
- Biết bao kẻ chịu thiệt thòi do nạn kỳ thị chủng tộc, màu da, giai cấp, ngôn ngữ
hoặc tôn giáo, * xin cho mọi người biết tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của họ.
- Xin cho các đan sĩ hằng biết chuyên tâm cầu nguyện và hoan hỉ hy sinh, * để khẩn
cầu Chúa tuôn đổ tình thương xuống trên mọi người.
- Xin Chúa thương đến các anh (chị) em chúng con vắng mặt, những người làm ơn
cho chúng con, những người xin chúng con cầu nguyện, * và xin Chúa ban cho các tín hữu
đã ly trần được hưởng Tôn Nhan Chúa muôn đời”294 .
Như vậy, đan sĩ mang tất cả tâm tình cũng như nhu cầu của Giáo hội khi cầu cho
“đức giáo hoàng, đức giám mục”, và của thế giới ngang qua “những người đang phải đau
khổ vì bệnh tật, những người chịu thiệt thòi do nạn kỳ thị chủng tộc, màu da, giai cấp,
ngôn ngữ hoặc tôn giáo”, để cầu nguyện cho họ. Vì chính lời cầu nguyện là mối dây hiệp
thông nối kết mọi người lại gần nhau, đồng thời đưa họ kết hợp với Thiên Chúa là nguồn
291 Thánh Bộ Phụng Tự, Văn kiện trình bày và qui định các giờ kinh phụng vụ, 1971, số 17. 292 Công đồng Vaticano II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay: Gaudium et Spes, số 1. 293 x. Hội Dòng Xi-Tô Thánh Gia, Hạt giống chiêm niệm, số 15: Niềm vui Phúc Âm, 2014, tr. 49. 294 Hội Dòng Xi-Tô Thánh Gia, Các giờ kinh Phụng vụ, Mùa thường niên: Lời cầu của Kinh chiều Chúa
Nhật I, tuần II.
80 phát sinh sự hiệp thông. Vì qua việc cử hành phụng vụ, đan sĩ không chỉ cầu nguyện cho
mọi nhu cầu của Giáo hội và của thế giới nhưng còn cầu nguyện, chuyển cầu muôn ơn lành
của Chúa xuống cho các linh hồn đang còn thanh luyện.
3. Chuyển cầu cho các linh hồn đang còn thanh luyện
Trong giờ kinh phụng vụ, các đan sĩ kết hợp với các thánh trên trời để cất lên lời ca
ngợi Thiên Chúa, đồng thời không quên đến những anh chị em đang còn thanh luyện.
“Cũng trong tinh thần đó chính chúng ta cũng cầu nguyện cho những linh hồn đang còn ở
nơi luyện tội”295. Đó là một bổn phận, đồng thời cũng nói lên tình liên đới hiệp thông đối
với những người đã ra đi trước chúng ta đang còn ở trong tình trạng thanh luyện. Hơn nữa,
họ là những người thân yêu, ông bà tổ tiên, các cha anh, bạn bè của chúng ta. Nói một cách
khác mật thiết hơn, họ là những chi thể như chúng ta trong thân mình của Giáo hội, có Đức
Ki-tô là Đầu. Các linh hồn đang còn thanh luyện cũng là những chi thể của chúng ta, nên ta
cần nhiệt thành cầu nguyện hơn nữa để cho các chi thể đó được trở nên tinh tuyền.
Vì thế, trong các giờ thần vụ trong ngày, các đan sĩ luôn nhớ cầu nguyện cho những
người quá cố sớm được hưởng tôn nhan Chúa. Cụ thể, lời cầu sau cùng của các giờ kinh
phụng vụ Hội Dòng luôn có câu: “Xin cho các tín hữu đã ly trần được hưởng tôn nhan Chúa
muôn đời”296. Trước khi đọc kinh Tối, cả cộng đoàn cùng hát thánh vịnh 129: “tiếng kêu từ
vực thẳm” để cầu nguyện cho các linh hồn.
Sau đó chủ sự đọc: “Lạy Chúa, xin cứu các linh hồn”.
Cộng đoàn đáp: “Khỏi hình khổ luyện ngục”.
Chủ sự đọc lời nguyện: “Lạy Chúa là Đấng rất mực khoan dung, hằng thiết tha cho
mọi người được ơn cứu độ, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria và toàn thể các
thánh, xin cho thân bằng quyến thuộc và ân nhân chúng con đã lìa thế được chung hưởng
hạnh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con”297. Qua đó cho
chúng ta thấy được các đan sĩ thể hiện tình hiệp thông với các linh hồn đang còn thanh
luyện một cách đặc biệt. Qua các giờ kinh phụng vụ, đan sĩ muốn liên kết các linh hồn để
đến gần Chúa hơn. Do đó, theo truyền thống tốt đẹp của Toàn dòng Xi-tô, mỗi năm dành
một tháng từ ngày 17 tháng 9 đến ngày 17 tháng 10 để cầu nguyện cho những người đã
qua đời được hưởng hạnh phúc muôn đời298, và ngày 14 tháng 11 là ngày cả Toàn Dòng cử
hành phụng vụ trọng thể để cầu nguyện cho các anh chị em giữ luật Thánh Biển Đức đã ly
trần mau được hưởng tôn nhan Chúa299.
295 Lm Aug. Hoàng Đức Toàn, Cao đẳng giáo lý, tập 6: Giáo hội học, nxb Tôn giáo, 2009, tr.114. 296 Các giờ kinh phụng vụ, Mùa thường niên, tr. 36; và câu cuối của lời cầu giờ kinh sáng, kinh chiều. 297 Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 290. 298 Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 290. 299 x. Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 288.
81
Qua đó cho chúng ta thấy được rằng, cuộc đời đan sĩ cử hành phụng vụ để tôn thờ
Thiên Chúa, đồng thời cầu nguyện cho cả nhân loại này, người sống cũng như kẻ chết
được muôn ơn lành của Chúa. Chính qua phụng vụ giờ kinh, các bí tích mà đan sĩ thể hiện
sự hiệp thông với các thánh và các linh hồn ở luyện tội hơn. Không chỉ hiệp thông qua
phụng vụ mà còn hiệp thông qua lao tác hằng ngày nữa, vì lao tác là kéo dài phụng vụ suốt
cả ngày sống của đan sĩ.
III. Hiệp Thông Qua Lao Động Và Các Việc Đạo Đức Khác
Thần vụ có một địa vị quan trọng trong đời sống của đan sĩ, nhưng thần vụ không
thể là cùng đích, cũng không phải là tác vụ độc chiếm trong đời sống đan tu. Thật vậy, cả
bộ Tu luật đều muốn đan sĩ phải miệt mài đọc sách và lao tác. Việc lao tác cần phải liên kết
với lời kinh phụng vụ và lời nguyện thầm lặng: “cầu nguyện và lao động”. Tất cả truyền
thống đan tu đều minh chứng cho ta thấy rằng nơi nào mà hai phương thế cầu nguyện và
lao động được tôn trọng hơn hết, thì nơi ấy trổ sinh dồi dào những đan sĩ thánh thiện
nhất300. Do đó, đời sống đan tu bao gồm cả cầu nguyện và lao động hằng ngày. Đan sĩ cầu
nguyện trong lao động là làm việc luôn kết hợp với Chúa, với các thánh để cộng tác vào
chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, nhằm thánh hóa bản thân và cứu giúp các linh hồn.
Đan sĩ còn làm những việc đạo đức khác nữa để cầu nguyện cho các linh hồn.
1. Hiệp thông qua lao động
Lao động của các đan sĩ bao gồm cả chân tay và tri thức. Các đan sĩ thời thánh Biển
Đức lao động chân tay đã giúp cho xã hội phát triển về kinh tế cũng như văn hóa. Đối với
thánh Biển Đức, trau dồi kiến thức cũng là một việc lao động. Chính vì thế mà trong Tu
luật chương 48 khi bàn về lao động, cha thánh nói cả việc đọc sách. Điều đó chứng tỏ cha
thánh xem việc đọc sách cũng là việc lao động. Khi nói về đọc sách, nghĩa là suy niệm
Kinh thánh và các bản văn truyền thống để trực tiếp chuẩn bị đi và đưa đến cầu nguyện301.
Nhu cầu càng tăng thêm khi các đan sĩ sau này phần lớn đều là linh mục, nên có nhiều đòi
hỏi về tri thức hơn. Lần hồi họ sinh ra ngại lao động chân tay, và thế là các đan sĩ nhanh
chóng thay thế các nghề tay chân bằng những việc liên quan đến nhu cầu trí tuệ của họ,
cách riêng bằng việc chép các bản văn quý, vì thời đó người ta chưa in được sách. Song
song việc đó, các đan sĩ linh mục, vì phải đọc thần vụ chung, nên hầu như dành hết thì giờ
còn lại để làm việc sách vở. Từ thế kỷ VII đến XV, các đan sĩ thuộc dòng thánh Denis trở
thành những sử gia chính thức của các vua nước Pháp302, cho đến mức người ta gọi những
công trình tri thức ‘là công việc của đan sĩ Biển Đức’. Những thành quả lao động từ chân
300 x. Dom Columba Marmion, Chúa Ki-tô lý tưởng đan sĩ, tr. 127. Chuyển ngữ: Châu Sơn. 301x. Dom Claude J. Nesmy, Thánh Biển Đức và đời sống đan tu, tr. 133. Nữ Biển Đức chuyển ngữ. 302x. Dom Claude J. Nesmy, Thánh Biển Đức và đời sống đan tu, tr. 131-132. Nữ Biển Đức chuyển ngữ.
82 tay hay tri thức không có mục đích gì khác là làm việc theo gương Chúa Giê-su, các thánh
để ca ngợi Thiên Chúa và cộng tác vào công trình sáng tạo, ngõ hầu mưu ích cho toàn thể
nhân loại và các linh hồn đang còn thanh luyện.
1.1. Đan sĩ lao động theo gương Chúa Giê-su, các Tổ phụ và các thánh
Chúng ta có thể nói được rằng các đan sĩ theo gương Chúa Giê-su, các Tổ phụ và
các thánh lao động để cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa và mưu ích cho
mọi người. Bởi vì, lao tác là một phần chính yếu của việc thờ phượng mà con người phải
dành cho Thiên Chúa. Vì con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, cho nên
con người cũng bắt chước Đấng tác tạo nên mình. “Khi tạo dựng nên con người, Thiên
Chúa cho con người được cộng tác với Ngài vào trong công cuộc sáng tạo, đó là niềm vui
và vinh dự. Chúa đặt con người vào vườn địa đàng để chăm sóc và vui hưởng, cho làm chủ
mọi loài trong đó. Điều hành và phục vụ: phục vụ cho cỏ cây hoa lá, phục vụ cho cảnh trí
thiên nhiên đá đất, suối ao hồ sông biển, phục vụ cho động vật trên không, trên đất dưới
nước”303. Như thế, ngay cả trước khi con người sa ngã, Thiên Chúa đã muốn Adam làm
việc, bởi vì lao động là huy động những khả năng và nghị lực của con người, làm cho con
người vui thích thành bài ca chúc tụng, một điệu nhạc từ toàn thể con người dâng lên Thiên
Chúa304. Sau khi nguyên Tổ sa ngã, Thiên Chúa lại tái công bố cho loài người luật lao
động, nhưng luật này từ đây đối với Adam phải trả giá bằng mồ hôi trán (x. St 3,19).
Lao động góp phần quan trọng, nên Chúa Giê-su khi nhập thể làm người cũng noi
gương Chúa Cha làm việc, Người phán: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng
làm việc” (Ga 5, 17). Vì thế, Người đã dành trọn 30 năm cho công việc lao động chân tay:
anh thợ mộc, con của “Bác Phó Mộc Giuse” (x. Mt 13,55; Mc 6,3). Thánh Biển Đức đã
nhận thấy sự quan trọng của việc lao động, cho nên đối với ngài lao động chiếm một vị trí
khá đặc biệt trong đời sống đan tu. Thánh nhân đã dành một chương 48 để bàn về việc lao
động, ngài nói: “Ở nhưng là thù địch của linh hồn, thế nên anh em phải có giờ làm việc
chân tay, giờ đọc sách… Chỉ khi nào ta sống bằng thành quả lao động của mình như các
tổ phụ và như các Tông đồ, khi ấy ta mới thật là đan sĩ”305. Thánh Biển Đức chia giờ lao
động và đọc sách quân bình nhau để giúp cho đan sĩ có một cuộc sống thật hài hòa nhằm
thánh hóa bản thân.
Trong ý hướng này, cha Biển Đức Thuận sáng lập dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam
nhắn nhủ con cái mình: “Việc xác là cũng là việc của Chúa Giê-su đã lấy làm cần, chính
Người đã tra tay làm việc nặng nề khó nhọc lâu năm ở Nazareth. Lại các thánh xưa nay
303 Giuse Phanxicô, Thánh Bêđíctô và linh đạo, tr. 51. 304 Dom Columba Marmion, Chúa Ki-tô lý tưởng đan sĩ, tr. 128. Chuyển ngữ: Châu Sơn. 305 Tu Luật Cha Thánh Biển Đức, chương 48.
83 cũng đã làm việc xác để mà nuôi mình. Vậy, chúng ta đã hiểu, việc xác là điều có ích, giúp
chúng ta cả phần hồn lẫn phần xác”306. Thật thế, “theo gương Thánh gia và các Tổ phụ,
anh em chuyên cần lao động để tham gia chương trình sáng tạo và cứu chuộc, thánh hóa
bản thân, đem lại thế quân bình cho đời đan tu, đồng thời nuôi mình và góp phần xây dựng
xã hội cũng như công cuộc truyền giáo”307.
Các đan sĩ không lao động một mình, nhưng cùng làm việc với Chúa Giê-su và các
thánh. Bởi vậy, trước khi đi lao động, các đan sĩ tập trung lại nơi Bề trên chỉ định, hát bài
tôn thờ Thánh Thể hoặc một bài thánh ca kèm theo những lời cầu: “Lạy Thánh Tâm Chúa
Giê-su… cầu cho chúng con. Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành… Lạy Cha Thánh Giu-se… Lạy
các Thánh Thiên Thần… Lạy các thánh Tổ Phụ Dòng chúng con… Lạy các thánh Tử Đạo
Việt Nam… Lạy Thánh Phanxicô Xaviê… Lạy Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu… Lạy
Thánh…” (kính nhớ trong ngày)308. Đan sĩ kêu cầu các thánh là để làm việc luôn có các
ngài đồng hành. Chính vì thế, “giữa và cuối buổi làm việc, niên trưởng ra hiệu cho anh em
ngừng việc, hướng về nhà nguyện hát một bài hoặc đọc kinh nào thích hợp”309. Như vậy,
giờ lao động các đan sĩ kéo dài giờ thần vụ vào những công việc thường nhật, để hiệp với
các thánh ca ngợi Thiên Chúa đã sáng tạo nên trái đất, và cho con người cộng tác vào
chương trình tạo dựng của Đấng Tạo Hóa. Bởi thế, lao động gắn liền với thiên chức làm
người. Lao động giúp hòa mình với thiên nhiên và trách nhiệm cùng với xã hội làm chủ
thiên nhiên. Chính lao động làm cho con người hiệp thông với Thiên Chúa, với mọi người,
mọi vật. Để qua lao động, đan sĩ còn đền tội cho mình và các linh hồn đang còn thanh
luyện, giúp ích cho người khác nữa.
1.2. Đan sĩ lao động để đền tội, giúp ích cho các linh hồn
Đan sĩ lao động hằng ngày còn để đền tội và có thể giúp đỡ người khác trong công
cuộc truyền giáo và cầu nguyện cho các linh hồn đang còn thanh luyện.
Trước hết, đan sĩ lao động vất vả đổ mồ hôi trán, là kết hợp với sự đau khổ của Đức
Ki-tô trên thập giá để đền tội của mình và của nhân loại. Chính trong Tu Luật Cha Thánh
Biển Đức không nói gì về áo nhặm, áo gai, hay đánh tội phạt xác, nhưng ngài đã dành
nhiều chương đề cập đến lao động: “Lao động là một việc đền tội đích thực và hễ ai giũ bỏ
lao động thì không thể nào tấn tới trong đường tận hiệp với Thiên Chúa”310.
Cha Biển Đức Thuận mời gọi các đan sĩ: “Ở nhà dòng này phải làm việc xác, ai
theo sức nấy. Việc xác là việc đền tội, và cũng là việc các thánh đã làm. Sự ăn chay cũng
306 Di Ngôn, số 139. 307 Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 216. 308 Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 221. 309 x.Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 223. 310 x. Dom Columba Marmion, Chúa Ki-tô lý tưởng đan sĩ, tr. 129. Chuyển ngữ: Châu Sơn.
84 là việc đền tội, mà cũng không bằng việc xác”311. Ngài còn mời gọi con cái: “Theo gương
Chúa Cứu Thế, các tu sĩ lao động như những người nghèo. Sống cuộc sống trong cảnh
nghèo để đền tội, để tỏa hương thơm của Chúa Kitô…”312. Như thế, lao động là phương
thế hãm mình, nhằm giúp cho đan sĩ đền tội và quân bình trong đời sống đan tu. Với tinh
thần đó, Hiến Pháp và Tuyên Ngôn của Hội dòng Xitô Thánh Gia quả quyết: “Lao động là
một trong các yếu tố đời đan tu, là một hình thức thực thi đức khó nghèo và phương thế
phục vụ anh em. Bởi vậy, đan sĩ tận tâm chu toàn mọi công việc bề trên giao phó với tinh
thần sáng tạo, với lòng khiêm tốn, trong giới hạn đức vâng phục”313. Như vậy, lao động là
để đền tội mình và người khác, đồng thời nói lên một tinh thần hiệp thông với bề trên, với
anh em, trong cộng đoàn cũng như những người sống chung quanh.
Thứ đến, nhìn dưới khía cảnh vật chất, các đan sĩ lao động không chỉ nhằm mưu
sinh, nhưng còn “để có khả năng dùng phần dư mà giúp đỡ những người đang hoạt động
cho phần rỗi của những người chưa nhận biết Chúa”314. Vì các đan sĩ không đi hoạt động
truyền giáo ở ngoài, nhưng qua thành quả lao động có thể giúp đỡ những người đang hoạt
động truyền giáo, với một tinh thần hiệp thông liên đới với nhau. Điều này nói lên sự hiệp
thông trong bác ái qua việc chia sẻ của cải vật chất cho tha nhân.
Cuối cùng, qua lao động vất vả, đan sĩ hòa mình vào những đau khổ của các linh
hồn đang còn thanh luyện, kết hợp với sự đau khổ của Đức Ki-tô trên thập giá để đền tội
thay cho họ, ngõ hầu xin Thiên Chúa nhân từ thứ tha và đưa các linh hồn mau về hưởng
ánh sáng ngàn thu bên Chúa. Như vậy, các đan sĩ lao động trong vất vả là cầu nguyện cho
các linh hồn đang còn thanh luyện, nhờ đó chúng ta sẽ được hiệp thông với các ngài và với
Thiên Chúa. Chúng ta còn có thể giúp đỡ các linh hồn đang còn thanh luyện ngang qua các
việc đạo đức khác nữa.
2. Những việc đạo đức khác
Đan sĩ sống mầu nhiệm các thánh hiệp thông được thể hiện qua các việc đạo đức
khác như đi đàng thánh giá, viếng nghĩa trang, ăn chay hãm mình, chầu Thánh Thể, lần hạt
mân côi và dùng lời nguyện tắt: “lạy Chúa Giê-su, con yêu mến Chúa, xin cứu các linh
hồn” để cầu nguyện cho những người quá cố. Ở đây xin được trình bày hai việc đạo đức là
viếng nghĩa trang và đi đàng Thánh giá.
2.1. Đi đàng Thánh giá
Đi đàng thánh giá là một việc đạo đức bình dân đã có từ thời xa xưa được lưu
truyền trong Giáo hội qua bao thế hệ. Đi đàng thánh giá là để suy niệm các chặng đường 311 Di Ngôn Cha Biển Đức Thuận sáng lập Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 39. 312 Di Ngôn Cha Biển Đức Thuận sáng lập Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 106. 313 Tuyên ngôn, số 11. 314 Di Ngôn Cha Biển Đức Thuận sáng lập Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 106.
85 cuộc thương khó của Chúa Giê-su đã trải qua để cứu chuộc nhân loại. Khi suy niệm đường
thánh giá, người đan sĩ hòa mình vào các chặng đường mà Chúa Giê-su đã trải qua để cứu
chuộc nhân loại. Các đan sĩ hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su để xin Thiên
Chúa ban muôn phúc lành xuống cho nhân loại. Chính vì thế mà cha Biển Đức Thuận đã
viết: “mỗi ngày có một thầy chầu Mình Thánh Chúa một giờ, đi đàng thánh giá một lần,
cầu nguyện cho kẻ ngoại”315. Đan sĩ đi đàng thánh giá với ý nguyện cầu cho những người
chưa tin Chúa được đón nhận mạc khải Tin mừng của Thiên Chúa và phụng sự Người. Điều
này nói lên sự hiệp thông chiều ngang giữa mọi người đang còn sống trên trần gian này.
Hơn thế nữa, khi đan sĩ suy niệm đàng thánh giá của Chúa Giê-su còn thể hiện sự
hiệp thông giữa các tín hữu còn sống trên trần gian với những người đã qua đời. Bởi vì
cuối chẳng đường thánh giá, Chúa Giê-su đã hứa với anh trộm lành: “Tôi bảo thật anh,
hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23, 43). Theo kinh Tin Kính mà
chúng ta tuyên xưng: “Người xuống ngục tổ tông” đem các linh hồn về Thiên đàng hợp
hoan bên Chúa. Với niềm xác tín này mà các tín hữu thường đi đàng thánh giá để cầu
nguyên cho những người quá cố.
Cũng hoà với niềm tin đó, Hiến pháp Hội dòng Xi-tô qui định nghĩa vụ của các đan
sĩ đối với một người anh em trong đan viện mới qua đời: “mọi người đi đàng thánh giá ba
lần, dành ân xá cho người quá cố”316. Còn đối với Hội dòng: “mỗi tu sĩ hay nữ tu trong
Hội dòng qua đời… anh em đi đàng thánh giá một lần cho người quá cố”317. Nghĩa vụ này
trước hết là nói lên sự hiệp thông giữa người còn sống và những người đã qua đời, đối với
anh em trong cộng đoàn. Sau nữa là diễn tả sự hiệp thông trong Hội dòng với nhau. Chính
nhờ mối dây hiệp thông này sẽ giúp linh hồn người quá cố mau được giải thoát khỏi hình
khổ thanh luyện để sớm được hưởng tôn nhan Chúa. Nếu như chỉ dừng lại ở đây thì sự
hiệp thông này đang còn giới hạn, bởi mới dừng lại ở nơi đan viện và Hội dòng mình mà
thôi. Nhưng các đan sĩ còn thể hiện sự hiệp thông một cách sâu xa hơn nữa là cầu nguyện
cho các đẳng linh hồn.
Quả thật, ngoài tháng cầu hồn của Giáo hội, theo truyền thống Xi-tô hằng năm kể
từ ngày 17/9 đến ngày 17/10 là tháng cầu hồn trọng thể trong dòng Xi-tô. Nghĩa vụ mọi
thành viên phải làm trong tháng cầu hồn của Toàn Dòng là: mỗi linh mục dâng ba thánh lễ,
anh chị em hiệp dâng ba thánh lễ, mọi người ngắm đàng thánh giá ba lần318.
Như vậy, truyền thống của các đan sĩ rất quan tâm đặc biệt đối với các linh hồn
trong Giáo hội Thanh luyện, cho nên Hội dòng đã qui định những nghĩa vụ cơ bản đối với
315 Di Ngôn, số 78. 316 Hiến pháp Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 156. 317 Hiến pháp Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 171; x. Thói lệ, số 280. 318 Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 290.
86 mọi thành viên trong đan viện phải thực hiện cho người quá cố. Đó là việc bổn phận của
một đan sĩ đối với Giáo hội Thanh luyện. Còn sự sốt mến và lòng yêu thương các linh hồn,
đan sĩ cũng có thể làm gia tăng thêm các việc đạo đức khác, như ăn chay hãm mình hay
viếng nhà thờ hoặc nghĩa trang để lãnh những ân xá nhường cho các linh hồn đang còn
thanh luyện.
2.2. Viếng nghĩa trang
Giáo hội đã dành một tháng 11 để cầu nguyện cho các đẳng linh hồn sớm được
hưởng tôn nhan Chúa. Bởi vì “trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, người sống và kẻ chết
liên kết với nhau trong mối tương quan siêu nhiên nhưng thực tế; mối tương quan này đậm
đà hơn mối tương quan máu mủ. Về phương diện đức tin, việc tôn kính tổ tiên được thực
hiện bằng những nghi lễ bên ngoài diễn tả mối tương quan hỗ tương giữa người sống và kẻ
chết”319. Chúng ta có thể xác quyết rằng một trong các thông lệ cổ xưa để tỏ lòng kính trọng
người quá cố là đi viếng và chăm sóc phần mộ. Ngày mùng 2 tháng 11 là lễ Các Đẳng Linh
Hồn và được dành cả tháng 11 để kính nhớ cầu nguyện, viếng mộ những người thân320.
Có thể nói viếng nghĩa trang là một Truyền Thống tốt đẹp trong Giáo hội, bắt
nguồn từ viếng nhà thờ. Theo truyền thống trước đây, vào ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn
mùng 2 tháng 11, các giáo dân đi viếng nhà thờ đọc sáu kinh Lạy Cha, sáu kinh Kính
Mừng và sáu kinh Sáng Danh cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha. Làm như thế, họ sẽ được
một ân xá và nhường cho một linh hồn trong luyện ngục, vậy là giải thoát được một linh
hồn. Thế rồi những giáo dân này rời khỏi nhà thờ một lúc, sau đó trở lại và làm y như lúc
nãy lần nữa để xin ơn phúc cho một linh hồn khác321.
Ngày nay chúng ta còn giữ hình thức cổ truyền xưa, nhưng đã được biến đổi cho
hợp thời là đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Tin Kính hợp với ý của đức giáo hoàng, và
với điều kiện xưng tội rước lễ sẽ nhận được một ơn đại xá dành cho các linh hồn. Ngày nay
nhiều giáo xứ còn giữ hình thức sau khi đọc một kinh Lạy Cha và kinh Tin Kính thì đi ra
nhà thờ, rồi lại trở vào đọc tiếp là đang nối tiếp truyền thống cổ xưa, nhưng thời trước là
rời khỏi nhà thờ sau đó mới trở lại viếng lần thứ hai.
Từ truyền thống viếng nhà thờ đã nối tiếp qua viếng nghĩa trang, là nơi an nghỉ của
các “thánh” đã qua thế giới vô hình. Vì thế, Mẹ Giáo hội đã mở ân xá từ ngày mồng 1-8
tháng 11, ai viếng nghĩa trang đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Tin Kính hiệp theo ý Đức
Giáo hoàng và xưng tội rước lễ sẽ lãnh được một ơn đại xá dành cho các linh hồn đang còn
thanh luyện. Còn những ngày khác thì lãnh một ơn tiểu xá. Khi đọc kinh Tin Kính là chúng
319 Lm. Giu-se Nguyễn Văn Chữ, Thánh Phao-lô sứ vụ truyền giáo, nxb Tôn giáo, 2009, tr. 231. 320 x. Greg Dues, Những thói quen và Truyền thống Công Giáo, 1989, tr. 241. 321 x. Greg Dues, Những thói quen và Truyền thống Công Giáo, 1989, tr. 231.
87 ta diễn tả niềm tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, tin vào mầu nhiệm các thánh hiệp
thông (thông công), hiệp thông qua bí tích và qua các ân sủng, với một lòng bác ái yêu
thương đối với các linh hồn đang còn chịu thanh luyện. Còn khi nguyện kinh “Lạy Cha
chúng con” là cả vũ trụ trên trời và dưới đất hợp lời cầu khẩn lên Thiên Chúa là Cha. Khi
chúng ta nguyện kinh Lạy Cha là lúc chúng ta kết hợp với Chúa Giê-su, với các thánh trên
trời và các linh hồn đang còn thanh luyện dâng lên lời ca tụng, cảm tạ, ngợi khen Chúa. Có
lẽ lời kinh Lạy Cha và kinh Tin Kính nói lên sự hiệp thông một cách sâu xa, cho nên Mẹ
Giáo hội đã chọn hai lời kinh này để đọc khi đi viếng nhà thờ và nghĩa trang, hầu lãnh ân
sủng góp vào kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, giúp ích cho bản thân và các đẳng linh hồn.
Quả thật, viếng nghĩa trang là một nghĩa cử tốt đẹp của người còn sống tưởng nhớ
những người đã qua đời, đồng thời cũng là cách đền đáp những điều mà ta còn mắc nợ các
ngài, và nói lên lòng biết ơn đối với những người đã có công sinh thành hay giúp đỡ chúng
ta về nhiều khía cạnh khác nhau.
Điều này đã được các đan sĩ hưởng ứng hơn ai hết. Theo truyền thống cổ xưa của
dòng Xi-tô, khi một người anh em trong đan viện qua đời được chôn cất ở hai hành lang
trên đường vào nhà nguyện, để khi đi qua mộ, các đan sĩ cầu nguyện cho các linh hồn đó.
Nối tiếp truyền thống tốt đẹp này, ngày nay các đan sĩ qua đời được chôn cất ở bên cạnh
nguyện đường của đan viện để tiện dịp cầu nguyện cho các ngài. Quả thật, các đan sĩ mỗi
ngày luôn ý thức viếng nghĩa trang để cầu nguyện cho các linh hồn. Cụ thể nơi đan viện
Phước Sơn, sau giờ kinh sách, các anh em thường dừng lại nghĩa trang bên cạnh nhà thờ để
cầu nguyện cho các cha anh đã qua đời được hưởng những ơn lành của Chúa. Điều này đã
trở thành một thói quen tốt lành nơi các đan sĩ. Cách riêng đến ngày lễ giỗ của một người
anh em, cả cộng đoàn tụ họp nơi nghĩa trang đọc chung một kinh Lạy Cha và một kinh Tin
Kính để cầu nguyện cho người qua cố đó. Việc làm này chỉ thực hiện điều mà Thói lệ của
Hội dòng mời gọi: “hằng năm đến ngày lễ giỗ, nếu có thể, cộng đoàn viếng mộ và cầu
nguyện cho người anh em đó”322.
Như vậy, các đan sĩ hằng luôn nhớ cầu nguyện cho các đẳng linh hồn sớm được
hưởng kiến Thiên Chúa trong uy linh. Điều đó cũng nói lên các đan sĩ đang sống mầu
nhiệm các thánh hiệp thông mỗi ngày. Bởi vì, khi các đan sĩ viếng nghĩa trang đọc các lời
kinh không chỉ đọc một mình mà còn hợp với Chúa Giê-su, Mẹ Maria và các thánh trên
Thiên đàng để ca ngợi Thiên Chúa và xin Thiên Chúa ban ân xá cho các linh hồn nơi Giáo
hội Thanh luyện sớm được đoàn tụ thành một dân thánh trên Nước Trời. Lúc đó chỉ còn
một Giáo hội duy nhất trong Đức Ki-tô.
322 Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, số 282.
88
Kết luận
Để kết luật đề tài: “Mầu Nhiệm Các Thánh Hiệp Thông Trong Giáo Hội”, xin
mượn lời của đức nguyên giáo hoàng Biển Đức XVI đã nói với toàn thể tín hữu tại quảng
trường thánh Phêrô: “Các bạn thân mến, sự hiệp thông với các thánh thì đẹp đẽ và có sức
an ủi biết bao! Đây là một thực tại mang lại cho toàn bộ cuộc đời của chúng ta một chiều
kích khác. Chúng ta không bao giờ cô đơn! Chúng ta thuộc về một “đoàn người” thiêng
liêng mà trong đó hiện diện của tình liên đới sâu xa: điều thiện của mỗi người đều phục vụ
cho tất cả mọi người, và ngược lại hạnh phúc chung lại tỏa chiếu trên mỗi cá nhân. Trong
một mức độ nào đó, đây là một mầu nhiệm mà chúng ta có thể cảm nghiệm được ngay trên
trần gian này, trong gia đình, qua tình bạn, và đặc biệt là trong cộng đoàn thiêng liêng
của Giáo hội”323. Quả thật, đức nguyên giáo hoàng đã cảm nghiệm “sự hiệp thông với các
thánh thì đẹp đẽ và có sức an ủi biết bao”. “Đẹp đẽ”, bởi vì hạn từ “các thánh” ở đây
không chỉ các thánh ở trên Thiên đàng, mà còn tất cả các tín hữu còn sống ở đời này hay
đã qua đời đang còn thanh luyện đều được gọi là thánh. Thật vậy, đây mới đúng ý nghĩa
của Kinh Thánh. Từ thời Cựu ước dân Israel được gọi là thánh vì đã được tách biệt, dành
riêng cho Thiên Chúa. Đến thời Tân ước, thánh Phaolô cũng gọi các giáo đoàn là “dân
thánh” (x. Rm 1,7; 1Cr 1,2; 2Cr 1,1; Ep 1,1). Bởi vậy, các thánh ở đây phải hiểu là các ki-
tô hữu. “Và có sức an ủi biết bao”, vì các thánh hiệp thông với nhau như một thân thể,
không ai bị lẻ loi, cô đơn một mình. Hiệp thông mang hai ý nghĩa chặt chẽ với nhau: hiệp
thông trong sự thánh và hiệp thông giữa những người thánh. Hiệp thông trong sự thánh là
thông công, chia sẻ, trao hiến cho nhau những của cải thiêng liêng để thể hiện tình yêu hiệp
thông. Của cải thiêng liêng là kho tàn đức tin, là các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể, là
các đặc sủng của Chúa Thánh Thần ban để phục vụ vì ích chung, là của cải tiền bạc để chia
sẻ cho người nghèo, là tình bác ái chia sẻ vui buồn cho nhau. Hiệp thông giữa những người
thánh có nghĩa là các ki-tô hữu ở trong ba tình trạng: Giáo hội Lữ hành, Giáo hội thanh
luyện và Giáo hội khải hoàn luôn hiệp thông với nhau.
Giáo hội lữ hành: là một dân đang lữ hành trên đường tiến về quê trời. Giáo hội bắt
đầu từ khi Thiên Chúa tạo dựng con người, và được thể hiện nơi tổ phụ Abraham khi được
Thiên Chúa chọn, cho đến những người sau cùng hiện diện trên trần gian này. Giáo hội lữ
hành chính Chúa Giê-su đã thiết lập ở thế gian. Giáo hội này có những đặc tính duy nhất,
thánh thiện, công giáo và tông truyền. Giáo hội thanh luyện: là những người đã trải qua
323 Huấn từ của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Phụng vụ năm B, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 589-590. G.B Lưu Văn
Lộc dịch.
89 cuộc lữ hành ở trần gian và đang gần tới đích. Đó là những người chết trong ân nghĩa
Chúa, nhưng chưa được thanh sạch hoàn toàn, nên còn phải chịu thanh luyện một thời gian
để đạt sự thánh thiện cần thiết trước khi bước vào Thiên đàng. Nền tảng Kinh thánh Cựu
ước và Tân ước nói một cách gián tiếp về sự hiện hữu của Giáo hội thanh luyện. Qua việc
ông Giuđa Macabe quyên tiền để xin dâng lễ cho những người lính đã tử trận (2Mcb
12,38-45). Đạo lý này cũng được các giáo phụ và bản văn của Huấn quyền Giáo hội triển
khai thêm. Chính Công đồng Tridentino quả quyết: “Được Thánh Thần soi sáng và rút
nguồn từ Kinh thánh và truyền thống cổ xưa của các giáo phụ, Giáo hội Công giáo dựa
vào các thánh công đồng và cuối cùng là phiên họp khoán đại này, dạy rằng: có một nơi
“thanh luyện” và những linh hồn còn bị giam cầm nơi đó tìm được các trợ lực trong
những lời cầu của các tín hữu, nhất là hy tế bàn thờ làm đẹp lòng Thiên Chúa 324. Sau đó
suy tư thần học cũng chứng minh cho ta biết sự hiện hữu của Giáo hội thanh luyện, để từ
đó chúng ta hiệp thông cầu nguyện cho các ngài sớm được về tới đích điểm là Quê trời.
Giáo hội Khải hoàn: là những người đã đi tới đích điểm của cuộc hành trình, và đang được
“hưởng kiến” nhan Chúa trên Thiên đàng. Chúa Giê-su đã hiện hữu ở đó đến mạc khải qua
Kinh Thánh cho chúng ta biết một cách rõ ràng. Chính Chúa Giê-su đã hứa với anh trộm
lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23,43). Sau
đó huấn quyền và suy tư thần học cũng đã nói lên sự hiện hữu của Giáo hội khải hoàn. Nơi
đó, những người đã được cứu độ đang hưởng tôn nhan Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh,
cùng với Mẹ Maria, các thiên thần và các thánh. Quả vậy, khi phân chia như thế không
phải là ba Giáo hội, nhưng chỉ là một Giáo hội duy nhất trong Đức Ki-tô, được thể hiện ra
ba trạng thái và luôn hiệp thông với nhau.
Ba trạng thái của Giáo hội luôn hiệp thông với nhau về nhiều mặt. Hiệp thông theo
kiểu mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi, được thể hiện qua việc trao ban tình yêu trào tràn cho
Giáo hội. Quả thật, các ki-tô hữu được hưởng hạnh phúc trên quê trời chuyển cầu, trao ban
tình yêu cho các ki-tô hữu còn ở trần gian hoặc đang còn thanh luyện; các ngài cũng nêu
gương sống hiệp thông cho ki-tô hữu còn đang sống noi theo. Các ki-tô hữu đang ở dưới
đất hướng về các tín hữu ở trên trời để cầu nguyện và nêu gương các ngài; đồng thời cũng
luôn nhớ đến các ki-tô hữu đang trong tình trạng thanh luyện để cầu nguyện giúp họ sớm
về Thiên đàng. Các ki-tô hữu đã qua đời còn đang được thanh luyện thì đón nhận sự
chuyển cầu và công phúc của các ki-tô hữu khác dành cho mình. Sự thông công cho nhau
những của cải thánh làm cho các ki-tô hữu hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa.
324 DS 1820; dẫn lại trong Josep Ratzinger-Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, Cánh chung luận, sự chết và đời
sống vĩnh cửu, nxb Tôn giáo, 2013, tr. 267, bản dịch của Lm. Nguyễn Văn Trinh.
90
Các đan sĩ phải trở nên chứng tá và dụng cụ xây dựng mối hiệp thông giữa con
người với Thiên Chúa và với nhân loại. Trước hết là qua các bí tích, bởi vì các bí tích được
gọi là hiệp thông, hiệp thông với Thiên Chúa và với Gáo hội. Khi đan sĩ lãnh bí tích Thanh
tẩy, Thêm sức và Thánh thể, là những bí tích khai tâm dẫn vào đời sống hiệp thông của
Giáo hội. Cao điểm của sự hiệp thông là bí tích Thánh thể và Thánh lễ. Hằng ngày đan sĩ
tích cực hiệp với Chúa Ki-tô qua vị linh mục, cùng với triều thần Thiên quốc dâng lên
Thiên Chúa hy lễ tạ ơn, ngợi khen và đền tội để cầu nguyện cho Giáo hội, cho thế giới và
cho các linh hồn đang còn thanh luyện. Thứ đến, sau phụng vụ các bí tích và Thánh lễ là
phụng vụ các Giờ kinh. Các đan sĩ nguyện kinh “mỗi ngày bảy lượt” (x.Tv 119,164) đại
diện Giáo hội và nhân loại để hợp với ca đoàn Thiên quốc không ngừng ngợi khen, tạ ơn
Thiên Chúa, đồng thời xin Chúa thánh hóa toàn thể nhân loại. Cuối cùng, phụng Thánh lễ
và Giờ kinh được kéo dài ra qua công việc lao động hằng ngày. Dù lao động chân tay hay
tri thức các đan sĩ luôn theo gương Chúa Giê-su, Mẹ Maria và toàn thể các thánh để cộng
tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, và sống mối tình hiệp thông với các thánh.
Quả thật, đan sĩ lao động trước hết là để nuôi sống mình; thứ đến là kết hợp với đau khổ
của Chúa Giê-su trên Thánh giá để đền tội mình và tội lỗi của toàn thể nhân loại; sau nữa
là để giúp đỡ tha nhân; và cuối cùng là dâng những lao công vất vả, hòa với đau khổ của
các linh hồn đang còn phải chịu, để xin Thiên Chúa đưa các linh hồn sớm được hưởng tôn
nhan Chúa. Cách riêng qua các việc đạo đức như đi đàng Thánh giá và viếng Nghĩa trang
để được hưởng những ân xá dành cho các Đẳng linh hồn.
Như thế, có thể nói “Mầu Nhiệm Các Thánh Hiệp Thông Trong Giáo Hội” là một
đề tài cổ xưa, đã có từ thời Giáo hội sơ khai, nhưng cho đến nay cũng còn có giá trị. Do đó,
có thể nói đề tài này vừa cũ lại vừa mới. “Cũ” vì đã có từ thời các Tông đồ và được lưu
truyền trải qua bao thể hệ cho đến ngày hôm nay. “Mới” vì đề tài mang nhiều ý nghĩa, nội
dung phong phú, có thể áp dụng vào cuộc sống cho mọi thời đại. Nhờ sống mầu nhiệm
hiệp thông mà chúng ta có thể vượt qua những bế tắc, thất vọng trong cuộc sống trước
những mất mát của người thân. Những người qua cố luôn sống mãi nơi cõi lòng chúng ta,
và không ngừng chuyển cầu cho con cháu. Thế nhưng bản thân khi viết đề tài này cũng còn
những hạn chế. Có lẽ vì nhiều người nghĩ đây là một đề tài cổ xưa, nên ít người nghiên
cứu, và nếu có viết thì các tác giả cũng không đào sâu, chỉ là những bài viết nhỏ đi kèm
theo chủ đề của tác phẩm. Chính vì thế, khi tìm hiểu đề tài người viết bị giới hạn về nguồn tài
liệu gốc và cổ xưa. Đồng thời với vốn ngoại ngữ còn hạn hẹp, nên người viết chỉ tham khảo
được những bản dịch, do đó chưa đào sâu và đi vào chi tiết cụ thể của từng vấn đề được.
Qua nghiên cứu đề tài này, người viết thiết nghĩ rằng đây là một chủ đề khá quan
trọng, có thể giúp ích cho chúng ta trong nhiều lãnh vực đức tin cũng như tình cảm. Thật
91 vậy, khi ta sống mầu nhiệm các thánh hiệp thông sẽ cảm nhận được sự gần gũi với các bậc
tổ tiên, những người thân yêu trong gia đình, và bạn bè thân nhân, các ngài luôn ở bên ta
trong mối tình liên đới hiệp thông.
Do đó, ước mong của người viết trước hết là có nhiều độc giả, cách riêng là các ki-
tô hữu tích cực sống “mầu nhiệm các thánh hiệp thông” mỗi ngày, để được kết hợp với
Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh. Đồng thời làm cho con người thời đại tin rằng dù còn sống
hay đã qua đời thì tất cả đều đang sống trong Đức Ki-tô, và có sự chuyển thông của cải
thiêng liêng cho nhau một cách hỗ tương giữa người sống và người chết có một tương
quan mật thiết không hề bị chia cắt. Cuối cùng là mong ước có những độc giả đi sau sẽ
nghiên cứu đề tài thật sâu rộng hơn, để mưu ích cho nhiều người khác.
Cách riêng người viết mong ước tất cả tu sĩ và các đan sĩ tích cực sống mầu nhiệm
các thánh hiệp thông. Điều này đức giáo hoàng Phanxicô nói với các nam nữ tu sĩ, cũng
như tất cả các người thánh hiến khác, được kêu gọi trở thành “các chuyên viên hiệp
thông”. Những kẻ làm chứng và kiến tạo “dự án hiệp thông” là chóp đỉnh của lịch sử loài
người theo ý định của Thiên Chúa”325. Hãy “làm cho Giáo hội nên ngôi nhà và trường học
dạy sự hiệp thông”326. Để thực hiện điều đó, đức giáo hoàng Phanxicô mời gọi: “Tiên vàn
sự hiệp thông được thực hành ngay tại cộng đoàn trong dòng. Những lời chỉ trích, đàm
tiếu, ghen tương, tị hiềm, đố kỵ không được phép cư ngụ ở trong nhà của anh chị em.
Chính “huyền nhiệm sống chung” làm cho cuộc đời trở nên một cuộc “lữ hành thánh
thiện”327. Ngoài ra đức giáo hoàng còn ước mong gia tăng sự hiệp thông giữa các phần tử
giữa các dòng: “Sự hiệp thông và gặp gỡ giữa các đặc sủng và ơn gọi khác nhau là một
con đường hy vọng”328. Cuối cùng ngài mời gọi “hãy theo đuổi một sự hợp lực với các ơn
gọi trong Giáo hội, khởi đầu từ các linh mục và giáo dân, ngõ hầu “tăng gia linh đạo hiệp
thông trước tiên ở trong nội bộ, rồi đến trong cộng đoàn Giáo hội và đi xa hơn nữa”329, là
hiệp thông với các Giáo hội khác và thế giới. Đặc biệt là hiệp thông với Giáo hội thanh
luyện và Giáo hội khải hoàn.
325 Tông thư của đức thánh cha Phanxicô gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến,
ngày 21-11-2014, phần I, số 2. 326 Sđd, phần II, số 3. 327 Sđd, phần II, số 3. 328 Sđd, phần II, số 3. 329 Sđd, phần II, số 3.
92
SÁCH THAM KHẢO 1. Kinh Thánh Trọn Bộ, Nhóm Phiên Dịch CGKPV, nxb Tp. HCM, 2011. 2. Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Giáo hội – Lumen Gentium, Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam-ủy ban giáo lý đức tin chuyển ngữ, nxb Tôn Giáo, 2012. 3. Sách lễ Rô-ma, nxb Vatican, 1983. Ủy Ban Phụng Tự trực thuộc HĐGMVN chuyển
ngữ, 1992. 4. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - ủy ban giáo lý
đức tin chuyển ngữ, nxb Tôn Giáo,2008. 5. Điển ngữ thần học Thánh Kinh, Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh Pio
X Đà lạt- Việt Nam chuyển ngữ, 1973. 6. Giáo lý Hội thánh Công giáo, biên soạn cho người Việt Nam, nxb Thuận Hóa, 1996. 7. Toma Aquino, Tổng luận thần học về hạnh phúc con người, Phần I-II, vấn đề 1-5,
người dịch Joanchim Nguyễn Văn Liêm, Tp. HCM 2003. 8. Thánh Anphong, Vinh quang Đức Maria, nxb Tôn giáo, 2006. Người dịch Phạm Duy
Lễ. 9. Tu luật Thánh Biển Đức. 10. Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, Tông huấn Thượng Hội đồng Giám mục. 11. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Niềm vui đức tin, Biên soạn Phạm Đình Phước, nxb
Hồng Đức, 2013. 12. Josep Ratzinger- Đức giáo hoàng Biển Đức XVI, Cánh chung luận, sự chết và đời
sống vĩnh cửu, nxb Tôn giáo, 2013. 13. Huấn từ của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Phụng vụ năm B, người dịch G.B Lưu Văn
Lộc, nxb Tôn giáo, 2011. 14. Bruno Forte, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như một lịch sử, chuyển ngữ: Lm. Phêrô
Nguyễn Thiên Cung, nxb Tôn giáo, 1989. 15. P. Colin C.ssR, Đức Maria với dòng tu. Dịch giả Đồng. 16. Christopher O’ Donnell OCarm, Tình yêu trong trái tim Giáo hội-sứ mạng của thánh
nữ Têrêsa Lisieux. 17. Dom Columba Marmion, Chúa Ki-tô lý tưởng đan sĩ. Chuyển ngữ: Châu Sơn. 18. Dom Claude J. Nesmy, Thánh Biển Đức và đời sống đan tu. Nữ Biển Đức chuyển ngữ. 19. Christian Curty, Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống, nxb Paris, 1970. 20. Lm Giu-se Nguyễn Văn Chữ, Thánh Phao-lô sứ vụ truyền giáo, nxb Tôn giáo, 2009. 21. Lm. Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Giê-su Ki-tô Đường hạnh phúc, nxb Tôn giáo Hà Nội,
2005. 22. Lm Đắc Lộ, Hành trình truyền giáo, bản dịch của Hồng Nhuệ. 23. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam- Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin-Tiểu Ban Từ Vững, Từ
điển Công giáo, nxb Tôn giáo, 2011. 24. Greg Dues, Những thói quen và truyền thống Công giáo, 1989. 25. Lm Nguyễn Hồng Giáo, Giáo hội lữ hành, Học viện Phanxicô -2005. 26. Lm Nguyễn Hưng, Tín lý thần học đại cương, lưu hành nội bộ. 27. Jorathe Nắng Tím, Tôi tin, nxb Tôn Giáo, 2013. 28. Jorathe Nắng Tím, Những người lữ hành hạnh phúc, tập 3: Đức Kitô tiếng gọi cuộc
đời, nxb Tôn Giáo, 2012. 29. Joranthe Nắng Tím, Những người lữ hành hạnh phúc, tập 4: Đức Ki-tô là ai để tôi tin,
nxb Tôn giáo, 2013. 30. Kinh sách các bài đọc, tập 4, Nhóm phiên dịch CGKPV, nxb Tp. HCM, 1999. 31. Ludwig OTT, Tín lý, Tập II. Lm. Nguyễn Văn Trinh chuyển ngữ, Đại chủng viện
thánh Giuse- 2003. 32. Chia sẻ số 28 Nội san Liên Tu sĩ Tp. HCM, Các thánh thông công, sự hiệp thông
trong Hội thánh và trong cộng đoàn tu trì, tháng 11-2000.
93 33. Chia sẻ số 75 Nội San Thần Học-Mụ Vụ-Tu Đức Liên tu sĩ Thành phố, Gia đình là
cộng đoàn yêu thương, tháng 09 năm 2014. 34. Mầu nhiệm cánh chung. 35. Đặng Thanh Minh, Tôn kính tổ tiên trong Thiên Chúa giáo, Tòa TGM Huế, 1999. 36. Peter Neuner, Giáo hội học qua các tác giả, Đại chủng viện thánh Giuse. 37. Noberto, Một dân tộc lữ hành – Dân Thiên Chúa. 38. Đức giáo hoàng Piô XII, Thông điệp Mystici Corporis. 39. Tông thư của đức thánh cha Phanxicô gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp năm đời
sống thánh hiến, ngày 21-11-2015. 40. Thánh Bộ Phụng Tự, Văn kiện trình bày và qui định các giờ kinh phụng vụ,1971. 41. Giuse Phanxicô, Thánh Bêđíctô và linh đạo. 42. Lm.Frederick M.Jelly, biên soạn, Tôn sùng Đức Mẹ Maria trong Thánh truyền Công giáo,
nxb New Orleans, 2001. Chuyển ngữ: Gioan Baotixita Dũng Lạc Hồng Ân. 43. Felipe Gomez, Giáo hội học, tâp 1 và 2, nxb Antôn và Đuốc Sáng, 2002. 44. Francis Fernandez, Đối thoại với Thiên Chúa, những bài suy niệm hằng ngày Mùa
chay - Phục sinh. 45. Lm. Đoàn Quang, CMC, Tìm hiểu Thiên đàng-Luyện ngục. 46. A.M. Roguet O.P, Khơi nguồn Thánh lễ. Dịch giả: Mai Thanh Tuyền. 47. Michel Rondent, SJ, Tường thuật mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Câu lạc bộ dịch
thuật Đại chủng viện Hà Nội chuyển ngữ, nxb Tôn Giáo, 2008. 48. Thedule Rey-Mermet. Kinh tin kính, Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông chuyển ngữ, 1990. 49. Thomas P.Rausch S.J. Đạo Công giáo thiên niên kỷ thứ ba, nxb Tôn giáo, 2010. Bản
dịch: Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông. 50. Peter M.J. Stravinskas, Lời kinh cổ xưa, thế giới hiện đại, cuốn sách về Đức Maria,
nxb Tôn Giáo, 2010. 51. John R. Sachs. Nhân học Ki-tô giáo, nxb Minnesota, 1991. Chuyển ngữ Duy Khánh. 52. Di Ngôn cha Biển Đức Thuận (1880-1933) Sáng Lập Hội Dòng Xi-tô Thánh Gia Việt
Nam. 53. Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên đường hy vọng. 54. Lm. Phan Tấn Thành, Nt. Maria Đinh Thị Sáng, Cánh chung học- Học viện liên dòng
thánh Toma Tp. HCM, 2004. 55. Lm. Phan Tấn Thành, Hiểu để sống đức tin, Tập 1, Học viện Đa Minh, 2009. 56. Lm. Aug. Hoàng Đức Toàn, Giáo hội học, nxb Tôn giáo, 2009. 57. Lm. Aug. Hoàng Đức Toàn, Cánh chung học, nxb Tôn giáo, 2010. 58. Lm. Nguyễn Văn Tuyên, Tin mừng nước Thiên Chúa, nxb Tôn Giáo, 2011. 59. Lm. Nguyễn Hữu Thy, Tử quy hay trên đường về nhà Cha, nxb Trier, 2011. 60. Nguyễn Ước giới thiệu và biên soạn, Giáo lý mới Thời đại mới, nxb Tôn giáo, 2005. 61. Hương Việt, Tìm hiểu và sống Thánh lễ, nxb Tôn giáo, 2001. 62. Hội dòng Xitô Thánh Gia, Hạt giống chiêm niêm- nội sang linh đạo Đan tu, số 8:
Trong lòng Giáo hội, 2010. 63. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Hạt giống chiêm niệm, số 12: Hiệp thông, 2013. 64. Hội Dòng Xi-Tô Thánh Gia, Hạt giống chiêm niệm, số 15: Niềm vui Phúc Âm, 2014. 65. Hiến pháp và Tuyên ngôn Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam. 66. Thói lệ Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam. 67. Các giờ Kinh Phụng vụ mùa thường niên Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam. 68. Y Phan CMC tuyển chọn, 1001 danh ngôn các Thánh, nxb Tôn giáo Hà Nội, 2009. 69. x.http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/GiaoAnK