Triết Học II - Dùng Cho Học Viên Cao Học (Word) - …saomaidata.org/library/486.TrietHocTap2.docx · Web viewTRIẾT HỌC - TẬP 2. TRIẾT HỌC - TẬP 2. Dùng cho
Post on 05-Feb-2018
232 Views
Preview:
Transcript
TRIẾT HỌC - TẬP 2
TRIẾT HỌC - TẬP 2
Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao họckhông thuộc chuyên ngành triết học
(Tái bản có sửa chữa)
TẬP THỂ TÁC GIẢ:
- PGS - PTS Nguyễn Hữu Vui - PTS Phạm Ngọc Thanh
- PTS Nguyễn Văn Tân - PGS Vũ Ngọc Pha
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện chủ trương đào tạo hệ nghiên cứu sinh và cao học trong
nước, chấp hành Quyết định 1339 QĐ5ĐH ngày 7-7-1992 của Bộ Giáo dục
và đào tạo; năm 1993 Vụ công tác chính trị và học sinh (Bộ Giáo dục và đào
tạo) phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia tổ chức biên soạn và xuất
bản lần đầu bộ giáo trình Triết học (dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao
học không thuộc chuyên ngành triết học).
Bộ giáo trình được biên soạn dựa trên kinh nghiệm của các lớp bồi
dưỡng kiến thức triết học cho nghiên cứu sinh, học viên cao học tại các
trường đại học, viện nghiên cứu trong nước thời gian qua. Nội dung giáo trình
tập trung phục vụ mục tiêu đào tạo sau đại học và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ
giảng dạy và nghiên cứu.
Bộ giáo trình gồm ba tập ứng với ba phần chương trình do Bộ chỉ đạo:
Tập I: Đại cương lịch sử triết học trước Mác.
Tập II: Khái lược lịch sử triết học Mác-Lênin.
Giới thiệu một số tác phẩm chủ yếu của C. Mác, Ph. Ăngghen và V. L.
Lênin.
Tập III: Một số chuyên đề.
Tập thể tác giả gồm các Phó giáo sư, Phó tiến sĩ, cán bộ giảng dạy
giàu kinh nghiệm của các trường đại học và học viện trong nước.
Tái bản bộ giáo trình Triết học lần này, chúng tôi đã làm việc với tinh
thần trách nhiệm và nỗ lực cao, cố gắng khắc phục những khiếm khuyết của
lần xuất bản đầu tiên. Dù vậy, bộ sách còn có thể có những thiếu sót khó
tránh khỏi. Chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến phê bình của đông đảo
bạn đọc.
Tháng 5 – 1995
VỤ CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ VÀ HỌC SINH
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Phần 1. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
I. NHỮNG TIỀN ĐỀ XUẤT HIỆN TRIẾT HỌC MÁC
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết
học. Nhờ đó, giai cấp vô sản và chính đảng của nó có một thế giới quan thực
sự khoa học
Các nhà lý luận tư sản đã quan niệm sai lầm rằng, triết học Mác nói
riêng và chủ nghĩa Mác nói chung ra đời như một biệt phái, như một sự độc
thoại và tự dành cho mình quyền phát ngôn chân lý cuối cùng. Trái lại, sự
xuất hiện triết học Mác là một tất yếu lịch sử, một hiện tượng hợp quy luật. Nó
là kết tinh tất cả những giá trị cao quý của tư duy triết học, văn học, khoa học
của lịch sử nhân loại. Đồng thời, cũng dựa trện những tiền đề cần thiết về mặt
kinh tế, xã hội đạt được ở thời đại đó.
Có thể nói, sự ra đời của triết học Mác vừa là bước ngoặt cách mạng,
là đỉnh cao trong sự phát triển lý luận triết học, vừa là sự tiếp thu, kế thừa
biện chứng những di sản triết học và khoa học của nhân loại. Nói cách khác,
sự hình thành và phát triển triết học Mác không nằm ngoài dòng lịch sử chung
của tư duy khoa học và văn hóa thế giới.
1. Tiền đề kinh tế - xã hội
Những năm 30 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào giai
đoạn phát triển mới. Đặc biệt, vào giữa những năm 40 của thế kỷ XIX,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh và trở thành lực
lượng kinh tế thống trị ở Anh, Pháp và một phần ở Đức. Sự phát triển của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa về mặt công nghiệp đã thể hiện tính hơn hẳn
của nó so với nền sản xuất phong kiến. Nước Anh thời đó đã nổi lên như một
cường quốc công nghiệp. Cuộc cách mạng về công nghiệp ở Pháp được
hoàn thành vào giữa thế kỷ XIX. Nền công nghiệp ở Đức phát triển khá nhanh
(mặc dù còn có sự phụ thuộc nhất định vào Anh và Pháp), ở một số nươc Tây
Âu khác cũng có sự phát triển tương tự.
Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm bộc lộ
những mâu thuẫn bên trong vốn có của nó và biểu hiện về mặt xã hội là các
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống các nhà tư bản. Nhiều phong
trào đấu tranh của công nhân đã mang tính chất của khởi nghĩa vũ trang, ở
Anh có phong trào Hiến chương mang tính chất chính trị và quần chúng rộng
lớn đòi pháp luật của nhà nước phải bảo đảm các quyền lợi của giai cấp công
nhân về tiền lương, giờ làm, V.V.; ở Pháp có cuộc khởi nghĩa cửa công nhân
Liông vào năm 1831; ở Đức có cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt Xilêđi nổ
ra vào năm 1844 - đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Đức.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản phát
triển đã đặt ra một nhu cầu khách quan là phải có một vũ khí lý luận sắc bén
phản ánh được một cách khoa học quá trình vận động cách mạng của giái
cấp công nhân. Sự chuẩn bị về mặt tư tưởng, lý luận cho cuộc cách mạng về
chính trị (cuộc cách mạng giành chính quyền) là một hiện tượng lịch sử khách
quan của mọi xã hội có giai cấp. Trong cuộc đấu tranh chống phong kiến, khi
giai cấp tư sản còn ở buổi bình minh và còn là lực lượng cách mạng của xã
hội thì tình hình cũng diễn ra tương tự như vậy. Để chuẩn bị lật đổ chế độ
phong kiến và phá bỏ hệ tư tưởng của nó mà nền tảng là tôn giáo và thần
học, giai cấp tư sản đã mở đầu bằng những cuộc tấn công về tư tưởng. Điều
đó thể hiện rõ trong các trào lưu văn hóa, triết học diễn ra trong suốt thời kỳ
Phục hưng cho đến thế kỷ XVII, XVIII.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân các nước tư bản Tây Âu
những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức, do đó
càng đòi hỏi cấp thiết phải có một vũ khí lý luận khoa học. Các học thụyết xã
hội chủ nghĩa không tưởng thời đó của Xanh Ximông, Phuriê, Ôoen đã không
phản ánh được lợi ích căn bản của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công
nhân vì sự nghiệp giải phóng giai cấp mình và giải phóng toàn thể quần
chúng lao động bị áp bức, bóc lột.
Mâu thuẫn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng gay
gắt, dẫn tới các phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân các
nước Tây Âu vào những năm 40 của thế kỷ XIX, cũng chứng tỏ rằng vai trò
lịch sử của giai cấp tư sản về cơ bản đã kết thúc. Trước đây, trong quá trình
làm cách mạng lật đổ nền thống trị của giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản đã
từng giương cao ngọn cờ chính nghĩa, bình đẳng, tự do và đã tập hợp được
đông đảo nhân dân (thợ thủ công và nông dân) và cả những lực lượng là tiền
thân của giai cấp vô sản sau này. Nhưng sau khi giai cấp công nhân đã trở
thành lực lượng thù địch số một của giai cấp tư sản thì giai cấp tư sản liền
thỏa hiệp với giai cấp phong kiến quý tộc để đàn áp giai cấp công nhân. Và
như vậy, một số học thuyết tư sản trước đây có những giá trị khoa học nhất
định, như kinh tế chính trị học thì nay bị các lý luận gia tư sản khuôn theo mục
đích chính trị của giai cấp tư sản cầm quyền nên không còn mang tính khách
quan khoa học nữa và sứ mệnh lịch sử sáng tạo lý luận cách mạng đã đặt lên
vai C.Mác và Ph.Ăngghen.
C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập ra lý luận khoa học bằng tất cả thiên tài
của trí tuệ, sự nồng cháy của tình cảm cách mạng cũng như sự phong phú
của hoạt động thực tiễn của các ông.
Triết học Mác ra đời đã phản ánh đúng đắn lịch sử khách quan phong
trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới, cũng như
nguyện vọng và lợi ích chân chính của nó. Với sự ra đời của triết học Mác,
giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó sức mạnh và vũ khí tinh thần của mình.
Giữa triết học Mác và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân có
mối liên hệ hữu cơ. Đúng như C.Mác nói: "Cũng giống như triết học thấy giai
cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản thấy triết học là vũ khí
tinh thần của mình". Triết học Mác ra đời như một học thuyết khoa học đã dẫn
dắt phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đi tới tự phát đến tự giác.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sự ra đời của triết học Mác là một
tất yếu lịch sử, không thể sớm hơn và cũng không thể muộn hơn, vì chính ở
thời điểm lịch sử đó các điều kiện đã được chín muồi.
2. Tiền đề lý luận
Tiền đề kinh tế - xã hội là hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học
Mác. Song đó chỉ là những tiền đề khách quan, chúng chỉ đặt ra các nhu cầu
lịch sử và tạo khả năng cho việc giải quyết các nhu cầu đó. Nhưng nhu cầu
lịch sử tự nó không được thực hiện và khả năng cũng không tự hiện thực
hóa, chúng cần có sự hoạt động của con người, của nhân tố chủ thể. Chủ thể
ở đây không chỉ là quần chúng nhân dân, mà còn là những cá nhân lỗi lạc, có
tầm trí tuệ cao, đủ sức nắm lấy và giải quvết những vấn đề mà tư tưởng tiên
tiến của loài người đặt ra. C.Mác và Ph.Ăngghen, như Lênin nhận xét, là
những cá nhân như thế.
Triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung không phải là một
trào lưu biệt phái, nó không tách rời văn minh chung của nhân loại. Nền văn
minh đó, trực tiếp là những trào lưu tư tưởng và lý luận ở châu Âu thế kỷ XIX:
triết học cổ điển Đức (với các đại biểu: Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh, Hêghen,
Phoiơbắc), kinh tế chính trị học Anh (đại biểu: A.Xmít, Đ.Ricácđô), xã hội chủ
nghĩa không tưởng Pháp (đại biểu: Xanh Ximông, S.Phuriê) và Anh (R.Ôoen)
được C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa và phát triển một cách xuất sắc.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen
và Phoiơbắc đã có ảnh hưởng rất quan trọng về mặt lý luận đến sự hình
thành thế giới quan duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Hai ông đã tiếp thu có phê phán triết học của Hêghen. Công lao của
Hêghen, theo đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen là đã phê phán phương
pháp siêu hình, đối lập nó với phương pháp biện chứng, là diễn đạt những
quy luật và phạm trù của phép biện chứng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng
những tư tưởng cách mạng trong phép biện chứng của Hêghen để luận giải
cho những khát vọng dân chủ - cách mạng của mình.
Đồng thời với việc đánh giá cao công lao của Hêghen trong việc phát
triển phép biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán quyết liệt chủ
nghĩa duy tâm của ông biểu hiện trong học thuyết về "ý niệm tuyệt đối", trong
quan niệm về nhà nước và pháp quyền.
Trên cơ sở đấu tranh, phê phán chủ nghĩa duy tâm, giải phóng phép
biện chứng của Hêghen khỏi tính chất thần bí C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây
dựng phép biện chứng duy vật - hình thức cao nhất của phép biện chứng, đối
lập căn bản với phép biện chứng của Hêghen.
Một đại biểu khác trong triết học cổ điển Đức có ảnh hưởng lớn đến sự
hình thành các quan điểm triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen là Lútvích
Phoiơbắc. Những tư tưởng triết học duy vật và vô thần của ông tạo tiền đề lý
luận quan trọng cho bước chuyển của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa
duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ - cách mạng sang lập
trường cộng sản.
Phoiơbắc đã từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen một cách triệt để,
phê phán mạnh mẽ tôn giáo, bác bỏ quan niệm sai lầm của phái Hêghen trẻ
đã lẫn lộn tự nhiên với ý thức. Ông khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất,
không phụ thuộc vào con người và tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng tạo ra.
Con người cũng là sản phẩm của giới tự nhiên. Thần thánh không sáng tạo ra
con người, mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình tùy
thuộc vào những điều kiện sống nhất định.
Những tư tưởng duy vật trên được Phoiơbắc trình bày chủ yếu trong
tác phẩm triết học Bản chất đạo Cơ đốc.
Tuy chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của triết học Phoiơbắc, nhưng C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tiếp thu triết học đó một cách có phê phán. Hai ông khác
Phoiơbắc ở chỗ không vứt bỏ hoàn toàn triết học của Hêghen (bao gồm cả
phép biện chứng) như Phoiơbắc đã làm. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác và
Ph.Ăngghen là chủ nghĩa duy vật triệt để, còn chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc vẫn chưa thoát khỏi tính chất duy tâm và siêu hình (đặc biệt khi
xem xét lĩnh vực xã hội).
Trong triết học của Phoiơbắc vấn đề thực tiễn xã hội chưa được hiểu
đúng, những quan niệm về đấu tranh chính trị - xã hội còn nhiều sai lầm. Với
tư cách là những nhà duy vật thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gắn chặt
triết học của mình với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản.
Khi phân tích sâu sắc quan điểm duy vật của Phoiơbắc trong các tác
phẩm Luận cương về Phoiơbắc, Hệ tư tưởng Đức, Lútvích Phoiơbắc và sự
cáo chung của triết học cổ điển Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá vai
trò to lớn của Phoiơbắc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo, trong việc làm hình thành thế giới quan duy vật khoa học của hai ông.
Phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, như
C.Mác và Ph.Ăngghen thừa nhận, là một trong những tiền đề lý luận trực tiếp
của triết học Mác - Ăngghen.
Tuy nhiên, sự ra đời triết học Mác còn là kết quả của sự tiếp thụ tinh
hoa tư tưởng triết học của nhân loại.
Một cơ sở nữa không thể thiếu được để tạo ra các quan điểm duy vật
về lịch sử trong triết học Mác và khắc phục tính chất duy tâm trong các quan
niệm về xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác là việc nghiên cứu và cải tạo
kinh tế chính trị học Anh với các đại biểu A.Xmít và D.Ricácđô.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng nghiên cứu có phê phán những tư tưởng
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa không tưởng từ năm 1843. Sự
nghiên cứu đó (đặc biệt về các đại biểu Xanh Ximông, Phuriê, Ôen) đã giúp
cho C.Mác và Ph.Ăngghen hiểu một cách duy vật - biện chứng về đời sống xã
hội, dự báo được sự phát triển tương lai qua hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Ngoài tiền đề kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận, sự ra đời triết học Mác
còn có tiền đề về khoa học tự nhiên.
Nếu sự phát triển của khoa học tự nhiên vào thế kỷ XVII, XVIII căn bản
là của các khoa học cụ thể, khoa học nghiên cứu các bộ phận riêng rẽ của tự
nhiên và do đó làm hình thành phương pháp siêu hình, thì cuối thế kỷ XVIII và
đầu thế kỷ XIX, sự phát triển của khoa học tự nhiên đã chuyển sang một giai
đoạn mới - giai đoạn phát triển khoa học tự nhiên lý luận. Khoa học này đòi
hỏi phải chuyển phương pháp nghiên cứu từ siêu hình, máy móc sang
phương pháp biện chứng, nghĩa là trình bày sự phát triển của tự nhiên như
một quá trình vận động, liên hệ, thống nhất.
Trong sự phát triển của khoa tự nhiên vào đầu thế kỷ XIX, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nói đến ba phát minh lớn có ý nghĩa đối với sự hình thành
triết học duy vật biện chứng là: quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng,
học thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đácuyn. Phát minh thứ nhất cho
phép vạch ra được mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận động khác
nhau của thế giới vật chất. Phát minh thứ hai, chứng minh cho sự thống nhất,
sự phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của thế giới sinh vật.
Phát minh thứ ba - thuyết tiến hóa của Đácuyn giải thích tính chất biện chứng
của sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài trong thế giới tự
nhiên hữu sinh.
Sự hình thành các khoa học tự nhiên mang tính lý luận như vậy đã làm
cho thứ triết học về tự nhiên trước đây có tham vọng đóng vai trò "khoa học
của các khoa học", Như Ph.Ăngghen nhận xét, không còn tồn tại nữa.
Việc ra đời của các khoa học tự nhiên mang tính lý luận, song việc tạo
khả năng chuyển từ phương pháp siêu hình sang phương pháp biện chứng
của nó đã làm nảy sinh khuynh hướng sai lầm trong một số các nhà khoa học
tự nhiên là xem thường triết học và phép biện chứng.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử như một triết học phù hợp với sự phát triển của các
khoa học cụ thể (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội). Đồng thời trở thành
thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học đó.
Như vậy, sự ra đời của triết học Mác không phải là kết quả của sự suy
tư cá nhân (mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen là những thiên tài của lịch sử), mà
là sự suy tư mang tầm vóc đúc kết và khái quát lịch sử thời đại.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN
Quá trình hình thành các quan điểm triết học của C.Mác và Ph.
Ăngghen diễn ra vào khoảng những năm 1842 - 1843 đến những năm 1847 -
1848, còn quá trình phát triển của các quan điểm đó có thể phân làm hai giai
đoạn: 1/ từ 1848 đến 1871 (thời kỳ Công xã Pari) và 2/ từ 1871 đến 1895.
Cần phải phân biệt quá trình hình thành và quá trình phát triển của triết
học Mác. Nói quá trình hình thành, như Lênin diễn đạt sau này, là nói quá
trình "Mác trở thành Mác", nghĩa là giai đoạn từ chủ nghĩa Mác chưa có, nó
đang từng bước được xây dựng theo những nhu cầu đặt ra của lịch sử. Khi
chủ nghĩa Mác đã hình thành thì tiếp đó là quá trình phát triển. Xét về bản
chất triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung, đây là quá trình liên
tục diễn ra trong hoạt động cách mạng và hoạt động lý luận của C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng như trong sự vận dụng và phát triển sau này của các đảng
mácxít đối với chủ nghĩa Mác.
Một số nhà “Mác học tư sản” cố tình không muốn phân biệt hai giai
đoạn nói trên của triết học Mác để dễ dàng phủ nhận giai đoạn phát triển sau
này của nó. Một số người khác tìm cách phủ nhận học thuyết cách mạng của
Mác bằng cách đem đối lập tư tưởng của “Mác trưởng thành” với "Mác thời
trẻ", cho rằng trong giai đoạn phát triển lý luận của mình, Mác đã xa rời những
tư tưởng nhân đạo của giai đoạn trước.
Sự phân biệt hai quá trình trên tuy là cần thiết, song cũng hết sức
tương đối. Chúng phải được trình bày trong mối liên hệ hữu cơ và trong tính
liên tục của sự ra đời và phát triển triết học Mác.
1. Quá trình hình thành triết học Mác
a) Bước đầu hoạt động chính trị - xã hội và khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen
Các Mác (5-5-1818 - 14-3-1883), sinh ra trong một gia đình luật sư, học
tại Trường Trung học Tơrevơ (1830 - 1835), sau đó học luật tại Trường Đại
học Bon (1835 - 1836) và Trường Đại học Tổng hợp Béclin (1836-1841). Tại
Trường Đại học Tổng hợp Béclin, C.Mác đã nghiên cứu triết học và lịch sử.
Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của C. Mác là một quá
trình đầy khó khăn, phức tạp. C. Mác (và cả Ph. Ăngghen) không phải là
người cách mạng và người cộng sản "bẩm sinh". Ông sinh ra trong một gia
đình trí thức tư sản và nền học vấn tư sản đã ảnh hưởng sâu sắc đến ông.
Trước khi làm quen với triết học Hêghen vào năm 1837, thậm chí C.
Mác đã là một tín đồ Kitô ngoan đạo. Trong thời kỳ học trung học, C. Mác đã
có những bài viết ca ngợi Chúa Kitô, coi sự hòa nhập với Chúa như là sự
vượt lên trên những hạn chế của bản thân mình để vươn tới một cuộc sống
thực sự thánh thiện. Tất nhiên niềm tin tôn giáo của C.Mác được hiểu theo
nghĩa là bản tính của con người khao khát hướng tới cái thiện (biểu tượng là
Chúa Kitô).
Năm 1837 C.Mác bắt đầu làm quen với triết học của Hêghen và có ý
thức rút ra từ triết học đó những kết luận có tính chất vô thần và cách mạng.
Cũng thời gian này ông tham gia phái Hêghen trẻ.
Từ năm 1839 đến năm 1841, C.Mác bắt đầu nghiên cứu lịch sử triết
học Hy Lạp Cổ đại, triết học thời Cận đại và viết luận án tiến sĩ về đề tài Sự
khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcơrít và triết học tự nhiên của
Êpiquya.
Trong luận án tiến sĩ, tuy vẫn còn chịu ảnh hưởng những tư tưởng duy
tâm của Hêghen, đề cao không đúng mức vai trò ý thức của con người, coi ý
thức như là động lực của sự phát triển xã hội, song C.Mác cũng đã bộc lộ
những quan điểm trái với Hêghen. Ông đánh giá cao vai trò của Êpiquya
trong việc làm phong phú nguyên tử luận của Đêmôcơrít.
Trong luận án cũng manh nha tư tưởng về phép biện chứng giữa tồn
tại và tư duy.
C.Mác đặc biệt đối lập với Hêghen và phái Hêghen trẻ trong quan niệm
về vai trò của phép biện chứng và triết học nói chung, ông coi nhiệm vụ của
triết học là phục vụ cuộc đấu tranh chính trị, phục vụ sự nghiệp giải phong
những người lao động. Phép biện chứng phải có nhiệm vụ phá bỏ hiện thực
cũ lỗi thời, hạn chế.
Như vậy, ngay từ thời kỳ đầu hoạt động chính trị - xã hội và khoa học,
mặc dù còn chịu ảnh hưởng tư tưởng duy tâm của Hêghen, C.Mác đã thể
hiện rõ khuynh hướng dân chủ cách mạng cũng như những bất đồng nhất
định với phái Hêghen trẻ trong việc giải quyết nhiều vấn đề triết học quan
trọng trong thời kỳ này.
Phriđrích Ăngghen (28-11-1820 — 5-8-1895), sinh ra trong một gia đình
chủ xưởng dệt ở thành phố Bácmen (Đức). Ông chỉ được học hết trung học
và buộc phải nghe cha làm một số công việc của nghề kinh doanh mà đối với
ông là "một việc xấu xa".
Trong khi làm nghề kinh doanh, Ph.Ăngghen đã kiên trì con đường tự
học, nuôi ý chí làm khoa học và hoạt động cách mạng cải biến xã hội. Từ năm
1838 đến năm 1841 ông sống ở Bácmen, vừa làm trong hãng buôn, vừa tự
học. Năm 1839 ông bắt đầu nghiên cứu triết học Đức, đặc biệt là các tác
phẩm của Hêghen. Tháng 3 năm 1839, Ph. Ăngghen đăng bài báo đầu tiên
Những bức thư từ Vêsphali, trong đó bắt đầu thể hiện lập trường dân chủ
cách mạng của mình. Ông phê phán những chủ xưởng sùng đạo và tỏ mối
thiện cảm với công nhân. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, Ph.Ăngghen vẫn chưa
hiểu được bản chất của giai cấp công nhân như một giai cấp cách mạng nhất
trong các giai cấp bị bóc lột của xã hội hiện đại.
Năm 1841, Ph.Ăngghen tới Béclin làm nghĩa vụ quân sự và dự thính
các bài giảng tại Trường Đại học Tổng hợp Béclin. Cũng thời gian này ông
tham gia nhóm Hêghen trẻ, và muốn cùng nhóm này rút ra từ triết học của
Hêghen những kết luận có tính chất vô thần và cách mạng. Cuối năm 1841
ông nghiên cứu tác phẩm nổi tiếng của Phoiơbắc Bản chất đạo Cơ đốc, một
tác phẩm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế giới quan của ông.
Trong hoạt động khoa học thời kỳ 1841 - 1842, Ph. Ăngghen còn viết
nhiều tác phẩm nhằm phê phán các quan điểm phản động của nhà triết học
Đức Sêlinh như: Sêlinh vè Hêghen, Sêlinh và sự linh báo, Sêlinh nhà triết học
nơi Chúa Kitô. Đặc biệt trong tác phẩm Sêlinh và sự linh báo (năm 1842), Ph.
Ăngghen thể hiện như một nhà vô thần, nhà dân chủ cách mạng. Tuy chưa
thoát khỏi lập trường duy tâm, nhưng ông đã thấy được sự mâu thuẫn giữa
tiến bộ và bảo thủ trong triết học của Hêghen; thấy được các nguyên lý triết
học của Phoiơbắc triệt để hơn của Hêghen
Cũng như C.Mác, Ph.Ảngghen coi nhiệm vụ của triết học là phải gắn
với thực tiễn đấu tranh chính trị. Cuối năm 1842, Ph. Ăngghen sang Anh và
bắt đầu nghiên cứu kinh tế chính trị học và phong trào công nhân. Đó là bước
chuẩn bị quan trọng cho sự chuyển biến thế giới quan và lập trường chính trị
của ông.
Tuy nhiên, nhìn chung cho đến giữa năm 1842, C.Mác và Ph.Ăngghen
vẫn đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết các vấn
đề triết học và trong quan điểm chính trị vẫn là những nhà dân chủ các mạng.
b) Sự chuyển biến của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng
Thời kỳ làm việc ở báo Sông Ranh là một mốc quan trọng của sự hình
thành và phát triển tư tưởng của C.Mác như một nhà sáng lập chủ nghĩa cộng
sản khoa học sau này.
Trong hàng loạt bài của C.Mác viết trên báo Sông Ranh (từ cuối năm
1842 đến đầu năm 1843) đã thể hiện rõ bước chuyển của C.Mác từ chủ nghĩa
duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ lập trường dân chủ cách
mạng sang lập trường cộng sản.
Khuynh hướng tư tưởng nổi bật của C.Mác ở thời kỳ báo Sông Ranh là
bảo vệ lợi ích của những người bị áp bức bóc lột, đấu tranh cho dân chủ và
tự do. Khác với các nhà dân chủ cách mạng đương thời, C.Mác muốn đòi
quyền dân chủ thực sự và biện pháp đấu tranh cho quyền dân chủ phải mang
tính chất cách mạng, không thể thỏa hiệp.
Khuynh hướng tư tưởng trên của C.Mác thể hiện rõ trong sự phê phán
của ông đối với chế độ kiểm duyệt trong luật báo chí của nhà nước Phổ.
Trong khi luật đó một mặt yêu cầu các cơ quan kiểm duyệt phải tôn trọng
quyền tự do của nhà báo và của báo chí, mặt khác lại công khai cấm nhà báo
và báo chí viết, đăng các bài phê phán tôn giáo. Trong thời kỳ đó, người ta
không thể đấu tranh trực diện chống nhà nước Phổ, mà cuộc tranh về mặt
chính trị chỉ có thể bằng gián tiếp, hay như C.Mác nói, chỉ có thể khởi đầu
bằng cuộc đấu tranh phê phán tôn giáo - nền tảng tinh thần của chế độ chính
trị Phổ.
Từ tình hình trên, C.Mác thấy rằng việc phê phán tôn giáo một cách
trực tiếp đã mất ý nghĩa, và hơn nữa công việc đó đã được Phoiơbắc tiến
hành từ trước, vì vậy, kết luận của C.Mác lúc này là cuộc đấu tranh phê phán
tôn giáo phải được chuyển thành cuộc đấu tranh phê phán chính trị, phê phán
pháp quyền.
Để tiến hành cuộc đấu tranh về chính trị và pháp quyền chống chế độ
Phổ, C.Mác thấy cần phải đứng hẳn về phía quần chúng lao động, vì họ là đối
tượng bị nhà nước Phổ áp bức bóc lột nặng nề nhất (mặc dù lúc này C.Mác
chưa giác ngộ ý thức giai cấp vô sản). Việc C.Mác bảo vệ quyền lợi của nhân
dân bàng cuộc đấu tranh chính trị phê phán nhà nước, phê phán pháp quyền
Phổ, nhưng lại dựa vào những quy định của luật pháp nhà nước mà tiến hành
cuộc đấu tranh chính trị, chứng tỏ C.Mác chưa thoát khỏi ảnh hưởng của triết
học pháp quyền duy tâm của Hêghen.
Thực tiễn đấu tranh dần dần giúp C.Mác hiểu ra rằng không thể tiến
hành cuộc đấu tranh chính trị giải phóng quần chúng bị áp bức trong khuôn
khổ pháp quyền và nền chính trị của nhà nước Phổ. Thắng lợi của cuộc đấu
tranh ấy phải nằm ở những cơ sở sâu xa hơn, căn bản hơn. Và C.Mác đã tìm
thấy cơ sở ấy ở trong xã hội công dân, tức trong các mối quan hệ kinh tế - xã
hội, trong cơ sở hạ tầng mà trên đó nhà nước và pháp quyền được dựng lên.
Vì vậy biến đổi xã hội công dân, biến đổi các mối quan hệ kinh tế - xã hội là
điều căn bản để biến đổi nhà nước, biến đổi pháp quyền đương thời như là
các công cụ áp bức, bóc lột quần chúng nhân dân.
Điều trên đây đã dẫn C.Mác tới chỗ xem xét lại triết học của Hêghen,
đặc biệt là triết học pháp quyền.
Từ cuối năm 1843 đến năm 1848 đánh dấu bước chuyển của C. Mác
và Ăngghen từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm sang lập trường chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Đánh dấu bước chuyển đó là việc C.Mác viết tác phẩm Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen, Lời nói đầu vào cuối năm 1843. Tác
phẩm chứa đựng nhưng tư tưởng duy vật sâu sắc. Theo C. Mác, nhà nước
và pháp quyền chỉ là bộ phận của kiến trúc thượng tầng phản ánh các mối
quan hệ kinh tế, do đó giải quyết các vấn đề xã hội không nằm trong việc giải
quyết vấn đề nhà nước và pháp quyền, mà nằm trong chính sách “xã hội
công dân” nghĩa là trong các mối quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp. Muốn
thay đổi nhà nước và pháp quyền phải đấu tranh để cải tạo bản thân xã hội
công dân.
Như vậy, sự phê phán của C. Mác đối với triết học pháp quyền của
Hêghen có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình chuyển biến thế giới
quan của C.Mác.
Trong tác phẩm trên, C.Mác cũng đưa ra nhiều tư tưởng quan trọng
khác. Ông đề cao vai trò của sức mạnh cách mạng trong việc biến đổi xã hội,
"Cố nhiên là vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán
của vũ khí; lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất".
Đồng thời C. Mác cũng không xem nhẹ vai trò của vũ khí tinh thần, vũ khí lý
luận trong cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng: "... Lý luận cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng".
Những tư tưởng có tính chất kinh điển về tôn giáo cũng được C.Mác
nêu lên trong tác phẩm của mình, đặc biệt trong đó có luận điểm cho rằng tôn
giáo là sự đền bù - hư ảo cho những thiếu hụt thực tiễn của con người trong
cuộc đấu tranh với tự nhiên, cũng như trong việc giải quyết các mối quan hệ
xã hội. Luận điểm đó tuy ra đời trong thời kỳ C. Mác tiến hành cuộc đấu tranh
chính trị chống nhà nước và pháp quyền Phổ, song nó đúng với tôn giáo
trong mọi thời kỳ lịch sử (trước đây cũng như hiện nay). Vai trò ảnh hưởng
của tôn giáo có thể biến đổi cụ thể trong những giai đoạn khác nhau của sư
phát triển xã hội, nhưng chừng nào và ở đâu còn tôn giáo thì chức năng đền
bù - hư ảo hay an ủi mơ hồ của tôn giáo còn tác động.
Mọi sự chống đối chủ nghĩa Mác về mặt tôn giáo ngày nay đang diễn ra
mạnh mẽ trong các nhà tư tưởng tư sản và những người xét lại hiện đại,
nhưng vẫn không thể bác bỏ được luận điểm khoa học trên đây của C. Mác.
Như vậy, ta thấy thực tiễn hoạt động chính trị - xã hội cũng như hoạt
động lý luận của C. Mác đã làm thay đổi các quan điểm tư tưởng của ông. Từ
chỗ tin theo tôn giáo, C. Mác đã phê phán tôn giáo, rồi chuyển từ phê phán
tôn giáo sang phê phán chính trị và pháp quyền. Điều đó đã giúp C. Mác hiểu
được sự cần thiết, tất yếu phải biến đổi các mối quan hệ kinh tế - xã hội, trên
cơ sở đó C. Mác xây dựng dần các quan điểm triết học của mình.
Thời kỳ 1844-1845.
Từ năm 1844, quan hệ giữa C.Mác và Ph.Ăngghen thật sự trở nên chặt
chẽ trên mọi lĩnh vực hoạt động chính trị xã hội và lý luận. Cũng từ đó trở đi,
tình bạn giữa hai ông đã trở nên vĩ đại nhất, như Lênin nói: vượt tất cả những
chuyện cổ tích cảm động nhất của người xưa nói về tình bạn. Một điều lý thú
là, mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen tiến hành hoạt động chính trị - xã hội cũng
như hoạt động lý luận khoa học trong những điều kiện rất khác nhau, nhưng
những kinh nghiệm tích lũy được và những kết luận khoa học của hai ông lại
hết sức thống nhất. Cuộc gặp gỡ năm 1844 đã góp phần thúc đẩy quá trình
chuyển biến căn bản lập trường chính trị và triết học của C.Mác và Ph.
Ăngghen. Quá trình chuyển biến này đã bị các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc.
Họ cho rằng sau năm 1844, C.Mác đã không còn là C.Mác nữa, ông đã chịu
ảnh hưởng của "một ông Ăngghen ít hiểu biết về khoa học"; rằng cuộc gặp gỡ
năm 1844 là điều bất hạnh đối với C.Mác. Đưa ra các luận điểm xuyên tạc đó,
các nhà Mác học tư sản muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác phát triển, coi năm
1844 là điểm dừng của chủ nghĩa Mác và triết học Mác nói riêng.
Thực tế cho thấy cuộc gặp gỡ giữa C.Mác và Ph.Ăngghen năm 1844
có ý nghĩa quan trọng như thế.
Thời kỳ sống ở Anh từ năm 1842 đến năm 1844 đã ảnh hưởng sâu sắc
đến quan điểm chính trị và triết học của Ph.Ăngghen, tạo ra bước chuyển
hoàn toàn sang lập trường duy vật biện chứng. Lập trường đó thể hiện rõ
trong tác phẩm Bản thảo góp phần phê phán kinh tế - chính trị học (viết cuối
năm 1843, đăng đầu năm 1844 trong Niên giám Pháp-Đức). Đây là tác phẩm
đầu tiên từ lập trường giai cấp vô sản cách mạng và phép biện chứng, Ph.
Ăngghen nghiên cứu chế độ sở hữu tư nhân như là cơ sở của xã hội tư sản,
phê phán kinh tế - chính trị học tư sản cũng như phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Tác phẩm đó có ảnh hưởng lớn đối với C.Mác và được ông coi là
tác phẩm thiên tài V.I.Lênin cũng đánh giá rằng, trong tác phẩm đó
Ph.Ăngghen đã từ quan điểm của chủ nghĩa xã hội xem xét những hiện tượng
cơ bản của nền kinh tế tư bản như là kết quả của chế độ chiếm hữu tư nhân.
Nãm 1844, từ lập trường của chủ nghĩa xã hội, C.Mác nghiên cứu và
phê phán kinh tế - chính trị học Anh. Kết quả của việc nghiên cứu được thể
hiện trong cac tập bản thảo mà sau này được tập hợp lại và lấy tên là Bản
thảo kinh tế-triết học năm 1844.
Sự ra đời tác phẩm này đã đánh dấu bước chuyển quan trọng trong
giai đoạn phát triển triết học Mác. Tác phẩm chủ yếu nghiên cứu các vấn đề
kinh tế của xã hội tư bản như chế độ tư hữu, nguồn gốc của chế độ đó,
những mâu thuẫn giai cấp nảy sinh trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Nhưng các vấn đề kinh tế, đặc biệt vấn đề lao động được C.Mác
nghiên cứu vừa với tính chất của vấn đề kinh tế, vừa với tính chất của vấn đề
triết học. Đó là lý do vì sao tác phẩm được gọi là Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844.
Một vấn đề quan trọng C.Mác nghiên cứu trong tác phẩm này là vấn đề
lao động bị tha hóa. Thông qua việc nghiên cứu sự tha hóa của lao động mà
C.Mác phê phán chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và chế độ tư
bản thời đó nói chung.
Quan điểm của C.Mác về tha hóa không nhưng đối lập với quan điểm
của Hêghen, mà cũng khác căn bản với quan điểm của Phoiơbắc. Hêghen thì
nói tới sự tha hóa của "ý niệm tuyệt đối", còn Phoiơbắc thì nói tới sự tha hóa
của bản chất con người trong tôn giáo. Quan điểm của Hêghen là duy tâm,
còn Phoiơbắc tuy là nhà duy vật, nhưng cũng như Hêghen, ông chỉ đề cập
đến sự tha hóa trong lĩnh vực tinh thần, ý thức, trong kiến trúc thượng tầng.
C.Mác đã nói tới sự tha hóa của hiện tượng cơ bản của đời sống xã hội - hiện
tượng lao động. Sự tha hóa ấy, theo C.Mác, mang bản chất xã hội, nói cách
khác, nó là sự biến dạng của các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa bóc lột và
bị bóc lột.
Từ nghiên cứu sự tha hóa của lao động, C. Mác đi tới quan niệm sâu
sắc về con người, về vai trò của lao động sản xuất đối với sự hình thành và
phát triển con người. Tác phẩm của C.Mác cũng chú ý tới mối quan hệ giữa
lao động bị tha hóa với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, từ đó đi
tới kết luận tất yếu là muốn xóa bỏ tình trạng lao động bị tha hóa càn phải xóa
bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 ra đời trong thời kỳ triết
học Mác đang hình thành, do đó không tránh khỏi những hạn chế. Đối tượng
và phương pháp nghiên cứu của kinh tế - chính trị học và của triết học như là
các bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác chưa được phân định rõ; những hạn
chế của chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc chưa được chỉ ra đầy đủ. Thậm chí đôi
chỗ Mác quá đề cao Phoiơbắc. Một số khái niệm và tư tưởng của các nhà
triết học trước đó như "chủ nghĩa nhân đạo", "chủ nghĩa tự nhiên", "sự trở về
bản chất đích thực của con người", v.v. được C. Mác sử dụng chưa có sự
phát triển. Dó cũng là lý do để các học gia tư sản xuyên tạc chủ nghĩa Mác.
Những hạn chế trên đây được C.Mác khắc phục ngay khi viết tác phẩm
Luận cương vê Phoiơbắc vào năm 1845.
Năm 1844 Ph. Ăngghen sống ở Anh, trong thời gian này ông tiếp xúc
với phong trào công nhân, tìm hiểu đời sống của họ và viết tác phẩm: Tình
cảnh giai cấp công nhân Anh. Tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng quan
trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ sự phân tích sâu sắc tình hình phát
triển công nghiệp ở Anh, Ph.Ăngghen đã làm rõ nguyên nhân ra đời của giai
cấp tư sản, giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó. Ông
chứng minh rằng, nhân tố quyết định các mối quan hệ xã hội, trong đó mối
quan hệ giai cấp là sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Qua phân tích phong trào đấu tranh cách mạng, Ph.Ăngghen đã làm
nổi bật vai trò của giai cấp công nhân là giai cấp không chỉ do bị bóc lột nặng
nề, bị đau khổ, mà còn do địa vị kinh tế xã hội của mình mà có thể tự giải
phóng. Như vậy, có thể nói, Ph.Ăngghen đã bước đầu ý thức được sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là bước chuyển quan trọng của ông từ
lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường xã hội chủ nghĩa.
Cuối năm 1844, C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung tác phẩm Gia đình
thần thánh hay là Phê phán Sự phê phán có tính phê phán. Chống Brunô
Bauơ và đồng bọn (xuất bản mùa xuân năm 1845). Trong tác phẩm, lần đầu
C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày những nguyên lý của triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, vạch rõ ranh giới giữa mình và phái Hêghen trẻ về
quan điểm triết học và chính trị. Hai ông tiếp tục phê phán triết học của
Hêghen, chỉ ra nguồn gốc nhận thức duy tâm và tính chất tư biện của triết học
đó. Đồng thời hai ông đề cập nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch
sử về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. C.Mác và
Ph.Ăngghen phê phán mạnh mẽ quan điểm của phái Hêghen trẻ cho rằng chỉ
có những nhân vật lỗi lạc mới có năng lực phê phán và làm nên lịch sử, còn
quần chúng nhân dân chỉ là khối ý, chỉ có thể bị dẫn dắt, chứ không thể sáng
tạo lịch sử. Hai ông cũng nêu lên những tư tưởng quan trọng về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, về xu hướng phát triển của xã hội đến chủ nghĩa
cộng sản.
Mùa xuân nắm 1845, C.Mác viết tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc.
Đây là tác phẩm rất ngắn, nhưng như Ph.Ăngghen đánh giá, là mầm mống
thiên tài của thế giới quan mới của C.Mác. Tác phẩm đã phê phán những
thiếu sót của chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và qua đó phê phán những thiếu
sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác nói chung. C.Mác và Ph.Ăngghen tuy
vẫn thừa nhận rằng để tiến đến chủ nghĩa duy vật mới - chủ nghĩa duy vật
biện chứng, hai ông đã phải đi qua chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc; rằng chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc có ý nghĩa to lớn trong việc giải phóng tư tưởng,
nó là sự kết hợp, sự kế thừa của nhiều tư tưởng duy vật tư sản tiến bộ Tây
Âu, nhưng sự phê phán nó là điều cần thiết, vì trong nội dung tư tưởng của
nó còn chứa đựng nhiều thiếu sót căn bản.
Trước hết, C.Mác phê phán tính trực quan của chủ nghĩa duy vật
Phoiơbắc, không thấy được vai trò sáng tạo, tính năng động của ý thức như
một hình thức phản ánh đặc biệt của con người.
Một tư tưởng quan trọng mà Mác nêu lên trong tác phẩm là vai trò của
thực tiễn: Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý. Sự
phát hiện vai trò của thực tiễn đối với sự biến đổi xã hội là một yếu tố làm nên
bản chất của bước ngoặt cách mạng trong triết học Mác sau này, làm cho triết
học Mác khác căn bản với triết học của Phoiơbắc và mọi chủ nghĩa duy vật
cũ. Thực tiễn được C.Mác hiểu trước hết là thực tiễn sản xuất, thực tiễn cách
mạng cải tạo xã hội.
Trong tác phẩm của mình C.Mác còn phê phán quan điểm của
Phoiơbắc về con người trừu tượng và khẳng định quan điểm của chủ nghĩa
duy vật khoa học về con người như là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Do
xuất phát từ quan điểm nhân bản chủ nghĩa về con người nên Phoiơbắc, như
C.Mác nhận xét, đã không hiểu đúng được những hiện tượng xã hội khác,
như hiện tượng tôn giáo. Phoiơbắc tuy có quan điểm duy vật cho rằng tôn
giáo là sự tha hóa của bản chất con người, nhưng vì không thấy được con
người mang bản chất xã hội, nên ông đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi đi tìm
con đường khắc phục tôn giáo.
Từ mùa thu năm 1845 đến tháng 5 năm 1846, C.Mác và Ph.Ăngghen
viết chung tác phẩm Hệ tư tưởng Đức. Tác phẩm đánh dấu bước tiến mới
của C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Có thể nói tác phẩm này là sự phát triển những tư tưởng cơ bản trong
Luận cương về Phoiơbắc của C.Mác.
Đặc biệt vào năm 1847, C.Mác viết tác phẩm Sự khốn cùng của triết
học và cùng Ph.Ăngghen khởi thảo Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã phê phán tính
chất thỏa hiệp tiểu tư sản của Pruđông muốn dùng phương pháp cải lương,
điều hòa mâu thuân, thỏa hiệp chính trị trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư
bản, xây dựng chế độ xã hội mới.
C.Mác cũng chỉ ra tính chất duy tâm và siêu hình trong việc trình bày
các phạm trù kinh tế học. Các phạm trù đó được Pruđông quan niệm như là
những cái bất di bất dịch và siêu nghiệm. Đồng thời C. Mác khẳng định thế
giới khách quan, trong đó có xã hội con người, luôn vận động và phát triển, vì
vậy các phạm trù khoa học nói chung và phạm trù kinh tế nói riêng với tính
chất là những công cụ nhận thức, phản ánh thế giới khách quan, chúng cũng
không ngừng biến đổi, phát triển, nghĩa là chúng có tính lịch sử.
Trên cơ sở phân tích các mối quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất của xã
hội tư bản, C.Mác đã nêu lên tính tất yếu của cuộc đấu tranh chính trị của giai
cấp công nhân chống giai cấp tư sản, ông chứng minh một cách khoa học sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Cũng trong tác phẩm này, khi phê phán Pruđông trong việc xuyên tạc
phép biện chứng của Hêghen, C.Mác đã nêu ra những tư tưởng của mình về
phép biện chứng duy vật.
Cùng với Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, tác phẩm Sự khốn cùng của
triết học đánh dấu giai đoạn chín muồi của chủ nghĩa Mác và từ đó trở đi (sau
năm 1847, 1848) nó đã trở thành một học thuyết khoa học; một hệ thống các
nguyên lý lý luận phản ánh đúng đắn các quy luật phát triển khách quan của
thế giới hiện thực.
Như vậy, sự hình thành triết học Mác từ năm 1842-1843 đến năm
1847-1848 là một quá trình hợp quy luật khách quan, là nhu cầu tất yếu của
lịch sử, được xây dựng trên những tiền đề kinh tế - xã hội và tư tưởng của
thời đại. Đó cũng là quá trình tự đấu tranh gian khổ của C.Mác và
Ph.Ăngghen để từ bỏ lập trường triết học duy tâm chuyển sang lập trường
triết học duy vật biện chứng và để vượt qua lập trường dân chủ cách mạng,
xây dựng lập trường cộng sản.
Từ năm 1848 đến năm 1857, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục phát triển
những tư tưởng triết học của mình qua hàng loạt tác phẩm như Cách mạng
và phản cách mạng ở Đức (Ph.Ăngghen viết từ tháng mười năm 1851 đến
tháng mười năm 1852), Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850 (C.Mác viết từ
tháng một đến tháng ba năm 1850), Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui
Bônapác (C.Mác viết từ tháng mười hai năm 1851 đến tháng ba 1852).
Tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức của Ph.Ăngghen đã
phân tích sâu sắc nguyên nhân, tính chất và động lực của cách mạng ở Đức
năm 1848-1849. Khả năng phát triển và thái độ của nó đối với giai cấp trung
gian, cũng như đối với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, qua đó
làm phong phú thêm lý luân mácxit về cách mạng. Tác phẩm cũng chỉ ra
nguyên nhân kinh tế sâu xa của mọi cuộc cách mạng là do mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất tiến bộ và quan hệ sản xuất lạc hậu, chứng minh tính quy
luật của cách mạng, vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử
và nhiều vấn đề quan trọng khác.
Trong tác phấm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapác,
C.Mác đã phát triển nhiều nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử
như nguyên lý về đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai
cấp đối kháng, về vai trò tất yếu của chuyên chính vô sản, về thái độ của giai
cấp công nhân đối với nhà nước tư sản trong đấu tranh cách mạng.
Nhiều vấn đề triết học, đặc biệt những vấn đề phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử được C.Mác phát triển trong các tác phẩm
nghiên cứu kinh tế - chính trị, tiêu biểu là bộ Tư Bản (viết từ những năm 40 và
xuất bản tập I năm 1867).
Thời kỳ Công xã Pari (1871), C.Mác viết Nội chiến ở Pháp nhằm tổng
kết kinh nghiệm đấu tranh của Công xã và tiếp tục phát triển những nguyên lý
của chủ nghĩa duy vật lịch sử như về nhà nước và cách mạng, về tính tất yếu
của chuyên chính vô sản V.V..
Năm 1875, C.Mác viết Phê phán Cương lĩnh Gôta, đây là tác phẩm lý
luận quan trọng nhất sau Tuyên ngôn của Đảng cộng sản và bộ Tư bản.
Trong tác phẩm, C.Mác làm sâu sắc và phong phú thêm học thuyết về hình
thái kinh tế - xã hội, phát triển hơn nữa học thuyết mácxít về nhà nước và
cách mạng, và lần đầu trình bày tư tưởng về hai giai đoạn phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Tác phẩm Ông Đuyrinh đảo lộn khoa học (Chống Đuyrinh) của
Ph.Ăngghen được viết vào mùa thu năm 1876 đến giữa năm 1878, là một
trong những tác phẩm quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của triết học
Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung. Tác phẩm gồm ba phần chính:
phần thứ nhất - triết học; phần thứ hai - kinh tế chính trị học; phần thứ ba -
chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong tác phẩm, lần đầu tiên Ph. Ăngghen trình
bày hoàn chỉnh thế giới quan mácxít về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kinh tể chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, và chỉ
ra mối liên hệ hữu cơ giữa ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác.
Cần lưu ý, tuy đây là tác phẩm của Ph.Ăngghen, nhưng như chính ông
đã nói trong Lời tựa viết cho ba lần xuất bản, một phần hết sức lớn của cuốn
sách là do C.Mác đặt cơ sở và phát triển, bản thân C.Mác đã viết chương thứ
X trong phần kinh tế chính trị học (về quyển "Lịch sử phê phán").
Trong khoảng thời gian từ năm 1873 đến năm 1883 Ph.Ăngghen đã
viết tác phẩm triết học nổi tiếng Biện chứng của tự nhiên. Tác phẩm gồm
những bút ký yà những đoạn văn còn dưới dạng bản thảo, chưa hoàn thành,
được xuất bản toàn bộ lần đầu năm 1925 ở Liên Xô.
Tác phẩm được viết nhằm khái quát về mặt triết học những thành tựu
về khoa học tự nhiên đạt được vào giữa thế kỷ XIX nhằm bổ sung và phát
triển phép biện chứng duy vật.
Sau khi C.Mác mất (1883), Ph. Ăngghen một mặt tập trung sức lực và
trí tuệ để chuẩn bị cho việc xuất bản tập ba bộ Tư bản - một việc làm mà sau
này được V.I.Lênin đánh giá như là việc Ph.Ăngghen đã xây dựng cho người
bạn của mình một đài kỷ niệm vĩ đại và trên đó Ph.Ăngghen không ngờ đã
khắc luôn tên tuổi của mình, - mặt khác, tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và hoàn thành các tác phẩm triết học quan trọng
của mình, trong đó đặc biệt có các tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của sở
hữu tư nhân và của nhà nước (1884), Lútvich Phoiơbắc và sự cáo chung của
triết học cổ điển Đức (1886).
Tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà
nước được Ph.Ăngghen viết từ tháng ba đến tháng năm và xuất bản vào
tháng mười năm 1884. Trong tác phẩm, Ph. Ăngghen dựa vào những tài liệu
của Moócgăng để phát triển quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội
nguyên thủy và quá trình chuyển biến từ xã hội không giai cấp sang xã hội có
giai cấp. Ph.Ăngghen chứng minh rằng, sự phát triển của sản xuất vật chất đã
làm cho chế độ công xã nguyên thủy tan rã và hình thành xã hội có giai cấp
dựa trên sự sở hữu tư nhân.
Sự nghiên cứu lịch sử xã hội nguyên thủy đã giúp Ph.Ăngghen khẳng
định thêm luận điểm về đấu tranh giai cấp như là nội dung của lịch sử xã hội
có giai cấp.
Tác phẩm cũng chỉ ra quá trình tiến hóa của các hình thức gia đình, sự
hình thành giai cấp và nhà nước. Đặc biệt, Ph.Ăngghen đã khẳng định quan
điểm duy vật lịch sử về nhà nước như là sản phẩm của sự phân chia xã hội
thành giai cấp.
2. Đặc điểm của quá trình hình thành thế giới quan khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen và thực chất bước ngoặt cách mạng trong triết học do hai ông thực hiện
Sự hình thành thế giới quan duy vật khoa học của C.Mác và
Ph.Ăngghen là một quá trình hợp quy luật, là nhu cầu khách quan của lịch sử,
trước hết là lịch sử phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.
Quá trình đó là sự gắn bó chặt chẽ, không tách rời giữa lập trường
chính trị và quan điểm triết học.
Hoạt động lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen có mối liên hệ hữu cơ với
hoạt động thực tiễn cách mạng, đã tạo cho hai ông bước chuyển từ lập
trường triết học duy tâm sang lập trường triết học duy vật và từ lập trường
chính trị dân chủ cách mạng sang lập trường chính trị cộng sản.
Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của C.Mác và
Ph.Ăngghen vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế
thừa có phê phán di sản lý luận của loài người, vừa là kết quả nghiên cứu,
tiếp thu những thành tựu của khoa học.
Quá trình hình thành triết học Mác cũng không tách rời tình cảm sâu
sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với những người lao động bị áp bức và
phong trào cách mạng của họ. Tình cảm đó là một nhân tố quan trọng không
những cho sự hình thành thế giới quan duy vật khoa học mà cho cả sự hình
thành chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghỉa của hai ông.
Sự hình thành triết học Mác là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tư
tưởng xã hội.
Triết học Mác là thế giới quan của giai cấp công nhân và đảng cách
mạng của nó, là vũ khí tinh thần cải tạo xã hội. Triết học Mác xem thực tiễn
không chỉ có vai trò quyết định đối với sự phát triển của nhận thức, mà còn
đối với sự phát triển xã hội nói chung.
Trong triết học Mác, lý luận liên hệ chặt chẽ với thực tiễn là một nguyên
tắc cơ bản và làm nên sức mạnh cải tạo - xã hội. Mối liên hệ giữa lý luận cách
mạng và thực tiễn cách mạng cũng nói lên tính cân đối của học thuyết Mác.
Trong triết học Mác, tính cách mạng thống nhất hữu cơ với tính khách
quan khoa học. Lịch sử ra đời triết học Mác không những gắn liền với thực
tiễn đấu tranh cách mạng, của giai cấp công nhân, mà còn gắn liền vối sự
phát triển của khoa học. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội tiên tiến nhất
của lịch sử hiện đại, lợi ích của nó phản ánh lợi ích chung của mọi lực lượng
tiến bộ trong xã hội, vì vậy thế giới quan cách mạng của nó - triết học Mác
không thể không phản ánh đúng đắn, khách quan những quy luật phát triển
của lịch sử.
Một biểu hiện quan trọng của bước ngoặt cách mạng trong triết học do
C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện đó là sự ra đời một hình thức cao của chủ
nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức cao của phép
biện chứng là phép biện chứng duy vật. Triết học Mác là sự thống nhất giữa
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.
Triết học Mác là học thuyết duy vật triệt để về tự nhiên, xã hội và con
người. Đặc biệt việc sáng lập chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện quan
trọng nhất của bước ngoặt cách mạng trong triết học do C.Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện.
Triết học Mác ra đời làm biến đổi căn bản tính chất, đối tượng của triết
học và mối quan hệ của nó với các khoa, học cụ thể. Triết học Mác không hòa
tan vào các khoa học cụ thể, cũng không có tham vọng đóng vai trò "khoa học
của mọi khoa học", thay thế các khoa học hoặc tồn tại tách rời chúng, mà nó
là cơ sở phương pháp luận của các khoa học cụ thể.
Triết học Mác có chức năng cơ bản là xóa bỏ nhưng có kế thừa cái cũ
và tạo lập cái mới, luôn gắn liền hữu cơ với thực tiễn cuộc sống, với phong
trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, cũng như với sự phát triển
của khoa học. Vì vậy nó không phải là một học thuyết ngưng đọng, mà trái lại
là một học thuyết sáng tạo, không ngừng được bổ sung, được làm phong phú
thêm bởi chính thực tiễn và cũng phát triển cùng với thực tiễn. Sự hình thành
các quan điểm triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen qua hàng loạt tác phẩm đã
cho thấy đó là một quá trình phát triển liên tục, không ngừng. Sự ra đời của
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848 tuy đánh dấu bước chuyển căn
bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về thế giới quan cũng như về lập trường
chính trị, nhưng triết học Mác không phải dừng tại đó mà sau thời kỳ này hai
ông đã sáng tạo nhiều công trình triết học lớn nhằm tổng kết về mặt lý luận
những kinh nghiệm thực tiễn phong phú cửa phong trào đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, đưa triết học Mác
phát triển lên một đỉnh cao mới. Các nguyên lý triết học của C.Mác và
Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin và các đảng mácxít làm sâu sắc thêm trong
thực tiễn phát triển của thời kỳ lịch sử mới. Cho nên, triết học Mác nổi riêng,
và chủ nghĩa Mác nói chung, như các nhà sáng lập ra nó (C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin) đã nói, không phải là một tín điều, một khuôn mẫu,
một công thức mà là kim chỉ nam cho hành động; triết học Mác dù đạt tới trình
độ phát triển cao như thế nào vẫn chưa phải là đã "xong xuôi" hẳn mà còn
tiếp tục được thực tiễn kiểm nghiệm bổ sung và phát triển.
III. GIAI ĐOẠN LÊNIN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC
Sau C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin (1870 - 1924) đã đưa sự phát
triển của triết học Mác lên một giai đoạn cao mới. Đây là giai đoạn trong tiến
trình liên tục của triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung. Giai
đoạn đó phản ánh khách quan những yêu cầu của thời đại mới.
Học thuyết do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập đã phản ánh được
những quy luật cơ bản của xã hội tư bản. Tuy nhiên, đó là xã hội tư bản phát
triển vào những năm giữa thế kỷ XIX; khi mà mâu thuẫn cơ bản của nó vẫn
chưa bộc lộ sâu sắc. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản chuyển
sang giai đoạn lịch sử mới - giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tức chủ nghĩa tư
bản độc quyền. Cách mạng vô sản tuy vẫn là tất yếu nhưng các quy luật của
nó biểu hiện khác với thời kỳ Mác. Tính trực tiếp và độ chín muồi của cách
mạng vô sản thể hiện rõ ở thời kỳ Lênin. Điều đó đòi hỏi phải có những kết
luận mới bổ sung cho học thuyết Mác về cách mạng. Đầu thế kỷ XX cũng là
thời kỳ có những phát minh lớn mang tính cách mạng trong khoa học tự
nhiên, đặc biệt trong lĩnh vực vật lý học, dẫn tới cuộc khủng hoảng, được
V.I.Lênin gọi là "Cuộc khủng hoảng trong vật lý học". Khái quát thực tiễn phát
triển xã hội và khoa học thời kỳ này, Lênin đã viết một loạt tác phẩm triết học
quan trọng, trong đó có những tác phẩm được các nhà nghiên cứu so sánh
với Chống Đuyrinh hay Biện chứng của tự nhiên của Ph.Ăngghen, đó là các
tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiêm phê phán, Bút ký triết
học v.v..
Thời kỳ Lênin là thời kỳ phát triển mới của những cuộc cách mạng
mang tính nhân dân, vì vậy trong lý luận của mình, Lênin đặc biệt quan tâm
vấn đề vai trò của nhân tố chủ quan, bao gồm sự lãnh đạo của đảng cách
mạng và sự giác ngộ của quần chúng nhân dân.
Những điều trên cho thấy giai đoạn Lênin là không thể tách rời giai
đoạn hình thành, phát triển của triết học Mác. Do đó, điều mà các nhà Mác
học tư sản cho rằng giữa Mác và Lênin có sự đối lập; một người chỉ thuần lý
luận với một người chỉ thuần thực hành; một người tuyệt đối hóa yếu tố kinh
tế với một người duy ý chí là hoàn toàn không có căn cứ.
Giai đoạn phát triển của triết học Lênin được chia lam hai thời kỳ chủ
yếu:
1. Thời kỳ 1893 - 1907. Đó là thời kỳ V.I.Lênin tiến hành cuộc đấu
tranh kiên quyết chống phái dân túy, đặc biệt chống chủ nghĩa duy tâm và
phương pháp siêu hình của nó, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện
chứng…
Từ những năm 80 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác đã được truyền bá
vào nước Nga. Đóng vai trò chính của việc truyền bá này là nhóm Giải phóng
lao động do Plêkhanốp đứng đầu. Nhóm này đã dịch ra tiếng Nga những tác
phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen như: Sự khốn cùng của triết học, Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản, Lútvích Pkoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức, v.v.. Cùng với các tác phẩm dịch, Plêkhanốp đã viết nhiều tác
phẩm chống phái dân túy, đặc biệt là các tác phẩm: Chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh chính trị, Những sự bất đồng giữa chúng ta, Bàn về sự phát triển của
quan điểm nhất nguyên về lịch sử, Khái luận về lịch sử của chủ nghĩa duy vật
v.v.. Như vậy nhóm Giải phóng lao động đã có những đóng góp nhất định
trong cuộc đấu tranh chống phái dân túy tự do chủ nghĩa và truyền bá chủ
nghĩa Mác vào nước Nga.
Tuy nhiên, Plêkhanốp đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong cuộc
đấu tranh chống phái dân túy. Ông đã không xác định được đúng theo quan
điểm mácxít những động lực nào đang thúc đẩy cuộc cách mạng dân chủ tư
sản Nga đến sự phát triển chín muồi. Trong cuộc đấu tranh giai cấp ở xã hội
Nga thời đó, ông đã không thấy rõ vai trò của các giai cấp cách mạng, đặc
biệt không hiểu được giai cấp nông dân là người đồng minh tin cậy của giai
cấp công nhân, thậm chí có thái độ mơ hồ xem giai cấp tư sản tự do chủ
nghĩa như là giai cấp cách mạng. Những sai lầm về nhận thức và sự xa rời
thực tiễn đấu tranh cách mạng sôi động đó của Plêkhanốp đã đưa ông tới chỗ
xa rời lập trường mácxít, chuyển sang lập trường mensêvích, cơ hội chủ
nghĩa.
Lênin đã tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết chống phái dân túy và
trong cuộc đấu tranh đó ông đã phát triển sáng tạo học thuyết Mác nói chung
và triết học Mác nói riêng, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử triết học Mác
- giai đoạn Lênin.
Trong thời kỳ 1893 - 1907 V.I.Lênin đã viết nhiều tác phẩm quan trọng
như: Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người
dân chủ - xã hội ra sao? (1894), Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy và sự
phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó (1894), Chúng ta
từ bỏ di sản nào? (1897), Làm gì? (1902), v.v..
Trong tác phẩm Những “người bạn dân”..., V.I.Lênin đã đấu tranh mạnh
mẽ chống phái dân túy về mặt quan điểm và phương pháp triết học, đặc biệt
phê phán chủ nghĩa duy tâm và phương pháp siêu hình của Mikhailốpxki -
một đại biểu nổi tiếng của phái dân túy đã phủ nhận bản chất cách mạng và
sáng tạo của học thuyết Mác, coi chủ nghĩa Mác là học thuyết siêu hình và
giáo điều, không thừa nhận tính tất yếu khách quan của quá trình truyền bá
chủ nghĩa Mác vào nước Nga. Lênin đã chỉ ra công lao to lớn của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong việc sáng tạo một học tuyết triết học có tính vạch thời đại.
Ông phê phán mưu đồ của phái dân túy muốn xóa nhòa ranh giới giữa phép
biện chứng của C.Mác và phép biện chứng của Hêghen. Phép biện chứng
của C.Mác phản ánh đúng đắn quy luật vận động và phát triển của thế giới
khách quan, nó là vũ khí sắc bén để nhận thức và cải tạo hiện thực, nhất là
hiện thực xã hội. Với sự ra đời của phép biện chứng duy vật và vận dụng nó
vào việc xem xét các hiện tượng xã hội, triết học Mác, như V.I. Lênin chỉ rõ,
đã khắc phục được những thiếu sót căn bản của triết học trước Mác, làm cho
nó trở thành một khoa học đích thực.
Cũng trong tác phẩm này, Lênin còn đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng
của lý luận nhận thức mácxít, như vấn đề chân lý và tiêu chuấn thực tiễn của
chân lý. Ông coi phản ánh đúng đắn, toàn diện hiện thực lịch sử la mhiệm vụ
chân chính của khoa học. Ông viết: "Không bao giờ có một người mácxít nào
đã xây dựng những quan điểm dân chủ - xã hội của mình trên một cơ sở nào
khác ngoài cái cơ sở là sự phù hợp của những quan điểm ấy với hiện thực",
ở một đoạn văn khác, Lênin cũng chỉ rõ: "... những người mácxít chắc chẳn là
chỉ mượn của học thuyết Mác những phương pháp quý báu mà nếu không có
thì không thể hiểu được những quan hệ xã hội, cho nên cái mà họ coi là tiêu
chuẩn để đánh giá những mối quan hệ đó, hoàn toàn không phải là những
công thức trừu tượng và những điều vô lý khác, mà là sự chính xác và sự phù
hợp của sự đánh giá đó với thực tế".
Để bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật của triết học Mác,
Lênin đã đấu tranh kiên quyết chống các quan điểm siêu hình của phái dân
túy trong việc nhận thức các hiện tượng xã hội, phê phán sự nhìn nhận sai
lầm của họ đối với tiến trình lịch sử như không thấy tính chất mâu thuẫn, tính
liên tục và gián đoạn của tiến trình đó.
Đặc biệt, khi phê phán các quan điểm sai lầm của phái dân túy trong
việc nghiên cứu xã hội, Lênin rất quan tâm đến vấn đề quy luật phát triển của
xã hội. Ông đã nghiên cứu vấn đề này thông qua việc phân tích sâu sắc tư
tưởng của C.Mác trong bộ Tư bản về hình thái kinh tế - xã hội cũng như trong
việc phê phán sự xuyên tạc của Mikhailốpxki đối với tư tưởng đó. Lênin nói
rằng, do không thừa nhận tính chất "lắp đi lắp lại" của các hiện tượng xã hội,
nên phái dân túy cũng không thừa nhận quy luật phát triển khách quan của
lịch sử. Còn C.Mác do đã làm nổi bật các mối quan hệ kinh tế, quan hệ sản
xuất trong hàng loạt mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp, coi các quan hệ đó
có vai trò quyết định đối với mọi mối quan hệ xã hội khác nên đã khám phá rạ
tính "lắp đi lắp lại” của các hiện tượng xã hội và đi tới thừa nhận tính khách
quan, hợp quy luật trong sự phát triển của chúng. Lênin còn nhấn mạnh,
chính việc thừa nhận tính "lắp đi lắp lại", thừa nhận những quy luật kinh tế
(vật chất) của sự phát triển xã hội và sự hình thành các quy luật đó không phụ
thuộc vào ý thức con người mà C.Mác đã đi tới xây dựng khái niệm cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử - khái niệm hình thái kinh tế - xã hội và coi sự
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Ngoài ra, Lênin còn đề cập nhiều vấn đề quan trọng khác của chủ
nghĩa duy vật lịch sử như vấn đề vai trò của nhân tố chủ quan trong cách
mạng, vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử, v.v..
Cuộc đấu tranh của Lênin chống phái "chủ nghĩa Mác hợp pháp", "phái
kinh tế" và phái mensêvích trong thời kỳ này cũng có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển triết học Mác, điều đó thể hiện trong tác phẩm Nội dung kinh
tế của chủ nghĩa dân túy và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về
nội dung đó. Đồng thời, Lênin đã phát triển làm phong phú nguyên lý cơ bản
của triết học duy vật biện chứng và mối liên hệ hữu cơ giữa lý luận và thực
tiễn. Khi phê phán cơ sở lý luận của phái "chủ nghĩa Mác hợp pháp" là chủ
nghĩa Cantơ mới tách rời lý luận và thực tiễn, Lênin đã nhấn mạnh một đặc
điểm bản chất của triết học mácxít là mối liên hệ hữu cơ của nó với phong
trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Theo V.I.Lêmn, mối liên hệ
chặt chẽ của triết học Mác với lợi ích của giai cấp vô sản, đã không làm mất
tính khách quan khoa học của nó. Vì để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới, giai cấp vô sản và chính đảng cách mạng của nó cần nhận thức đúng
đắn, khách quan hiện thực lịch sử.
Những nguyên lý quan trọng khác của chủ nghĩa duy vật biện chứng
như nguyên lý về mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan, về tính toàn
diện, tính lịch sử cụ thể trong nhận thức các hiện tượng của thế giới bên
ngoài cũng được Lênin phân tích sâu sắc. Ông phê phán mạnh mẽ phái "chủ
nghĩa Mác hợp pháp" mà đại biểu nổi tiếng là Xtơruvê đã có những quan
điểm phiến diện chủ quan, phi lịch sử về xã hội. Lênin còn chỉ ra rằng, tính
trừu tượng, sự ngụy biện trong việc xem xét xã hội là những đặc điểm của
chủ nghĩa chủ quan tư sản.
V.I.Lênin cũng đem đối lập chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa
khách quan tư sản. Những người theo chủ nghĩa duy vật khoa học không chỉ
thừa nhận tính tất yếu khách quan của tiến trình lịch sử, mà còn thừa nhận sự
tồn tại của những hình thái kinh tế xã hội đó sinh ra, không chỉ thừa nhận sự
thật lịch sử ma còn có quan điểm giai cấp đối với sự thật đó; không chỉ nói
đến xu thế tất yếu của lịch sử mà còn nói tới sự chi phối của nhân tố chủ
quan (của giai cấp) đối với xã hội.
Trong tác phẩm của mình, V.I.Lênin còn phê phán những quan điểm
của xã hội học chủ quan chủ nghĩa về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Những nhà xã hội học này đã không lấy mỗi quan hệ xã hội giữa những cá
nhân con người với nhau làm đối tượng nghiên cứu; họ đã tách con người ra
khỏi hoàn cảnh xã hội cụ thể nên không hiểu được bản chất của tư tưởng con
người.
Trong cuộc đấu tranh chống phái “chủ nghĩa Mác hợp pháp”, V.I.Lênin
đã làm sáng tỏ vai trò của triết học Mác như là cơ sở lý luận khoa học của
toàn bộ học thuyết Mác.
Trong thời kỳ này, V.I.Lênin còn phát triển phong phú nhiều nguyên lý
triết học mácxít, đặc biệt là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử qua
tác phẩm Làm gì?. Lênin đã đấu tranh chống quan điểm siêu hình của phái
kinh tế và phát triển quan điểm mácxít về các hình thức đấu tranh của giai cấp
vô sản trước khi có chính quyền: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị và đấu
tranh tư tưởng và đặc biệt nhấn mạnh quá trình làm hình thành vai trò hệ tư
tưởng của giai cấp vô sản và ý thức tự giác của nó trong cuộc đấu tranh tư
tưởng. Theo Lênin, hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa không hình thành một cách
tự phát, mà nó được đưa vào phong trào công nhân, được giáo dục trong giai
cấp công nhân, vì vậy bảo vệ, phát triển hệ tư tưởng Mác - Lênin, hệ tư
tưởng xã hội chũ nghĩa, truyền bá sâu rộng nó trong giai cấp công nhân và
nhân dân lao động là nhiệm vụ hết sức quan trọng của cuộc đấu tranh tư
tưởng.
Vai trò của cuộc đấu tranh kinh tế và đấu tranh tư tưởng tuy rất quan
trọng vì đấu tranh kinh tế là giai đoạn tập dượt quần chúng chuẩn bị bước tới
hình thức đấu tranh cao, còn đấu tranh tư tưởng và nhằm nâng cao ý thức
giai cấp cho giai cấp công nhân, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh giành chính
quyền, song vai trò quyết định nhất vẫn là cuộc đấu tranh chính trị. Đây là
cuộc đấu tranh gay go nhất, quyết liệt nhất nhằm xóa bỏ chế độ xã hội cũ, xây
dựng chế độ xã hội mới. Tuy nhiên việc sử dụng mỗi hình thức đấu tranh cụ
thể là tùy thuộc vào từng điều kiện lịch sử nhất định, nhưng nhìn chung các
hình thức đấu tranh ấy có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Đầu thế kỷ XX, nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế chính
trị sâu sắc. Nhân dân lao động Nga phải sống một cuộc sống cơ cực. Hàng
chục triệu nông dân trung lưu bị phá sản. Tầng lớp địa chủ Nga đã chiếm
phần lớn ruộng đất của cả nước.
Cuộc xung đột quyền lợi giữa hai đế quốc Nga - Nhật đã dẫn tối cuộc
chiến tranh tàn khốc năm 1904 làm suy yếu cả hai nước Nga và Nhật. Sự thất
bại của đế quốc Nga trong cuộc chiến tranh đã làm trầm trọng thêm cuộc
khủng hoảng trong nước. Đó cũng là những tiền đề kinh tế - xã hội làm bùng
nổ cuộc cách mạng ở Nga. Nhiều cuộc biểu tình, bãi công chống Nga hoàng
nổ ra liên tiếp và bị chính phủ đàn áp, khủng bố dã man, hàng nghìn công
nhân bị chết, cuộc đấu tranh lan ra khấp cả nước. Lúc này Lênin từ nước
ngoài trở về và lãnh đạo phong trào cách mạng. Cuối năm 1905 cuộc cách
mạng đã phát triển tới đỉnh cao, nhưng cũng bị đàn áp đẫm máu. Năm 1906 -
1907 giai cấp công nhân và lao động Nga đã phải chiến đấu trong điều kiện
hoàn toàn không cân sức. Do đó cuộc cách mạng đã thất bại.
Mặc dù thất bại (do giai cấp công nhân Nga không xây dựng được khối
liên minh vững chắc với nông dân; giai cấp tư sản tự do cấu kết với Nga
hoàng; bọn đế quốc bên ngoài giúp chính phủ Nga hoàng: đàn áp cách mạng
v.v..), nhưng cuộc cách mạng 1905-1907 đã để lại nhiều kinh nghiệm thực
tiễn quý báu.
Tác phẩm Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng
dân chủ của Lênin viết năm 1905 đã tổng kết về mặt lý luận những kinh
nghiệm quý báu của cách mạng Nga thời kỳ này. Đồng thời Lênin đã phê
phán quan điểm sai lầm của những người mensêvích muốn áp dụng một
cách máy móc những điều kiện của cách mạng tư sản các nước Tây Âu thế
kỷ trước vào điều kiện của nước Nga đầu thế kỷ XX. Lênin cũng đã chỉ rõ tính
chất và lực lượng của cuộc cách mạng Nga 1905-1907. Về tinh chất đó là
cuộc cách mạng dân chủ tư sản, vì nó còn phải giải quyết nhiệm vụ xóa bỏ
những tàn tích của chế độ phong kiến Nga hoàng. Người lãnh đạo cuộc cách
mạng là giai cấp công nhân. Lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân liên
minh với giai cấp nông dân. Nếu cuộc cách mạng dân chủ tư sản do giai cấp
công nhân lãnh đạo giành được thắng lợi thì nó sẽ tạo điều kiện cho cách
mạng chuyển thẳng lên cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Một vấn đề quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vấn đề vai trò của
nhân tố chủ quan, của quần chúng nhân dân trong cách mạng và trong lịch sử
nói chung cũng được V.I.Lênin nêu ra trong tác phẩm của mình.
2. Thời kỳ từ 1907 đến trước Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga 1917
Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905 - 1907, xã hội Nga bước vào
thời kỳ phức tạp mới. Thế lực phản động hoành hành trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Về mặt tư tưởng, chủ nghĩa Mác bị tiến công từ nhiều phía.
Những nhà triết học đồng thời là những nhà dân chủ cách mạng, tiêu biểu
như Tsécnưsépxki, Bêlinxki, v.v. đã bị kẻ thù tư tưởng bôi nhọ và do đó bôi
nhọ luôn cuộc cách mạng Nga.
Trước tình hình thoái trào của cách mạng và sự khủng bố của lực
lượng phản động, trong hàng ngũ nhưng nhà cách mạng, như V.I.Lênin nhận
xét, "có tình trạng thoái chí, mất tinh thần, phân liệt, chạy dài, từ bỏ lập
trường, nói chuyện dâm bồn". Trong lĩnh vực triết học thì có khuynh hướng
ngả sang chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, ra đời trào lưu "tìm thần" và "tạo thần"
trong giới trí thức. Chủ nghĩa Makhơ trong những năm này được dùng để
chống lại chủ nghĩa duy vật biện chứng, phá hoại tư tưởng cách mạng, tước
bỏ vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản. Những người theo chủ nghĩa Makhơ
ở Nga muốn làm sống lại triết học duy tâm của Béccli và Hium.
Tuy nhiên, sau thời kỳ thoái trào, phong trào cách mạng ở Nga dần đần
được khôi phục. Điều đó có những nguyên nhân khách quan.
Vào mùa thu năm 1914, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Các
nước đế quốc muốn lợi dụng cuộc chiến tranh để xóa bỏ ảnh hưởng của cuộc
cách mạng Nga lần thứ nhất 1905 - 1907 và giải quyết những mâu thuẫn
trong nước. Những thủ lĩnh của Quốc tế II đã ủng hộ cuộc chiến tranh đế
quốc, còn giai cấp tư sản các nước đế quốc thì tìm cách xô đẩy công nhân
nước mình đi chém giết công nhân nước khác nhằm ngăn cản phong trào
cách mạng.
Những người bônsêvích cách mạng đã kịch liệt phản đối chiến tranh đế
quốc và kêu gọi biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng.
Cuộc chiến tranh đế quốc đã ảnh hưởng sâu sắc đến nước Nga lạc
hậu, làm cho nó trở thành khâu yếu trong sợi dây xích đế quốc chủ nghĩa.
Phong trào, cách mạng Nga phát triển, các cuộc đấu tranh của công nhân nổ
ra ở nhiều thành phố; nông dân nổi lên chống địa chủ ở nông thôn; binh lính
phản chiến ngoài mặt trận. Giai cấp tư sản Nga được sự giúp đỡ của đế quốc
Anh, Pháp đã có mưu đồ lập chính phủ mới. Tình thế cách mạng đã xuất hiện
và thời cơ giành thắng lợi của Cuộc cách mạng tháng Hai năm 1917 đã đến.
Với thắng lợi của cách mạng đã ra đời hai chính quyền song song tồn tại:
Xôviết công nông - binh và chính phủ lâm thời. Xôviết công nông - binh đã bị
bọn mensêvích chiếm đa số.
Để xóa bỏ tình trạng hai chính quyền song song tồn tại và thiết lập
chính quyền cách mạng, những người bônsêvích nêu khẩu hiệu: "Toàn bộ
chính quyền về tay các xôviết". Song cuộc đấu tranh của những người công
nhân đã bị quân đội của chính phủ lâm thời đàn áp dã man bằng vũ lực. Giai
đoạn phát triển hòa bình của cách mạng đã chấm dứt, Cuộc cách mạng tháng
Mười năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích đã nổ ra và giành
được thắng lợi.
Hoạt động thực tiễn và lý luận của V.I.Lênin đã gắn liền với thời kỳ cách
mạng sôi động đó. Các tác phẩm triết học quan trọng của ông ra đời trong
thời kỳ này đã trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cách mạng của
nó những vấn đề thế giới quan và phương pháp luận nhằm chỉ đạo hoạt động
thực tiễn và hoạt động nhận thức. Trong đó phải kể đến tác phẩm triết học
chủ yếu Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (viết tháng 10
năm 1908 và xuất bản tháng 5 năm 1909).
Ý nghĩa lịch sử tổng quát của tác phẩm là tiếp tục hoàn thiện và phát
triển triết học Mác, giải đáp những vấn đề quan trọng nhất của triết học đang
đặt ra trước Đảng lúc đó; khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học
tự nhiên; phê phán toàn diện triết học duy tâm tư sản và chủ nghĩa xét lại
trong triết học; tác phẩm của V.I.Lênin là kiểu mẫu về tính đảng vô sản trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù của chủ nghĩa Mác; kiểu mẫu về sự kết hợp giữa
tính cách mạng nồng nhiệt với tính khoa học sâu sắc của triết học Mác. Đây
là tác phẩm kinh điển của giai đoạn Lênin trong quá trình phát triển triết học
Mác.
Từ sau thời kỳ thoái trào của cuộc cách mạng 1905-1907 đến trước và
trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), V.I.Lênin còn viết
nhiều tác phẩm bảo vệ triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung.
Trong đó, các tác phẩm: Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ
nghĩa Mác, số phận lịch sử học thuyết Mác, Các Mác v.v. đã làm nổi bật ý
nghĩa to lớn của triết học Mác đối với việc cải tạo thế giới.
Trong tác phẩm Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành, của chủ nghĩa
Mác (viết năm 1913 nhân kỷ niệm 30 năm ngày C.Mác mất), Lênin đã phân
tích sâu sắc những nguồn gốc lịch sử, bản chất và kết cấu của chủ nghĩa
Mác. Lênin đã chứng minh rằng, học thuyết Mác ra đời là sự kế thừa hợp quy
luật những thành tựu tư tưởng và khoa học của nhân loại thế kỷ XIX, trong đó
trực tiếp là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội
Pháp. Trong phần nói về triết học, khi trình bày những cơ sở của triết học
Mác, Lênin đã nhấn mạnh tính chất duy vật của nó và nhận xét rằng tính duy
vặt đó là sự tổng hợp những cái tinh túy của chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ
XVIII và của chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc. Theo Lênin, cả phép biện chứng
trong triết học cổ điển Đức cũng được triết học Mác tiếp thu một cách sáng
tạo và phát triển làm cho nó trở thành phương pháp lụận khoa học để nhận
thức và cải tạo thế giới. Lênin còn cho rằng, việc C.Mác vận dụng các quan
điểm duy vật vào xem xét, nghiên cứu lĩnh vực xã hội (tức sáng tạo chủ nghĩa
duy vật lịch sử) là một thành tựu vĩ đại của tư duy khoa học.
Trong tác phẩm, Lênin còn phát triển sâu sắc nhiều vấn đề khác của
triết học Mác như vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề vai trò lịch sử của giai cáp
vô sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ trật tự xã hội cũ, sáng tạo xã hội mới.
Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, V.I.Lênin tiếp tục phát
triển phép biện chứng mácxít. Sự phát triển đó được trình bày tập trung trong
tác phẩm Bút ký triết học (viết từ khoảng năm 1914 đến năm 1916).
Đây là tác phẩm triết học lớn được viết vào thời kỳ những mâu thuẫn
của chủ nghĩa tư bản đã trở nên gay gắt cực độ và cuộc khủng hoảng cách
mạng mới đang chín muồi. Vấn đề phép biện chứng là tư tưởng trung tâm
của tác phẩm.
Bút ký triết học của V.I.Lênin không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử
đương thời, mà đối với cả thời đại.
Trong tác phẩm, Lênin phân tích sâu sắc tư tưởng coi phép biện chứng
như là khoa học về sự phát triển. Trong thời kỳ phát triển mới của khoa học
vào đầu thế kỷ XX, vấn đề đặt ra đối với phép biện chứng, theo V.I.Lênin
không phải là thừa nhận hay không thừa nhận phát triển, mà là vấn đề hiểu
thế nào về phát triển.
V.I.Lênin đặc biệt chú ý giải quyết vấn đề trung tâm trong lý luận về
phát triển là vấn đề nguồn gốc và động lực của phát triển. Khi giải quyết vần
đề này, ông đã chỉ ra hai quan điểm đối lập nhau: quan điểm biện chứng,
sống động và quan điểm siêu hình, nghèo nàn, chết cứng. Quan điểm siêu
hình coi phát triển chỉ là tăng lên và giảm đi, là sự lặp lại. Quan điểm biện
chứng coi phát triển là sự thống nhất của các mặt đối lập.
Trong Bút ký triết học, Lênin còn cho ta những mẫu mực tuyệt vời về
sự nghiên cứu các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật; nguyên
tắc về sự thống nhất giữa phép biện chứng, lôgích học và lý luận nhận thức;
những yếu tố cơ bản của phép biện chứng; về nguồn gốc nhận thức của chủ
nghĩa duy tâm V.V.. Đó là những cống hiến vô giá vào kho tàng triết học Mác.
Trong những năm 1914 - 1918, V.I.Lênin không chỉ phát triển mà còn
vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào việc phân tích thời đại lịch sử
mới, phê phán những sai lầm của bọn cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế II, chỉ
ra bản chất của chiến tranh và con đường giải quyễt nó bằng cách mạng vô
sản.
Những vấn đề trên được trình bày trong các tác phẩm: Bàn về khẩu
hiệu Liên bang châu Âu (1915); Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của
chủ nghĩa tư bản (1916); Nhà nước và cách mạng (1917).
Đặc biệt những vấn đề lý luận quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
như vấn đề nhà nước và cách mạng được V.I.Lênin phát triển sâu sắc trong
tác phẩm nổi tiếng Nhà nước và cách mạng. Tác phẩm này được viết vào giai
đoạn của chủ nghĩa đế quốc mà đặc trưng là sự phát triển của bộ máy quân
sự và quan liêu nhằm chống lại cách mạng, hình thành các tổ chức tư bản
độc quyền nhà nước, tăng cường sự can thiệp của nhà nước tư sản đế quốc
vào đời sống kinh tế, xã hội; đàn áp nền dân chủ. Chiến tranh đế quốc 1914 -
1918 làm sâu sắc thêm mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Tất cả cái
đó tạo tiền đề kinh tế, chính trị cho sự bùng nổ cách mạng vô sản, cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Khi những điều kiện cách mạng đã chín muồi, nhiệm vụ giành chính
quyền được đặt ra thì vấn đề thái độ của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với
nhà nước đế quốc, như V.I.Lênin chỉ rõ, không những chỉ có ý nghĩa chính trị
- thực tiễn, mà còn có tính chất nóng hổi nữa. Vấn đề này đã bị các thủ lĩnh
Quốc tế II xuyên tạc. Họ phủ nhận phương pháp giành chính quyền bằng
cách mạng trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc; phủ nhận quan điểm của
chủ nghĩa Mác về bản chất giai cấp của nhà nước. Những người theo chủ
nghĩa vô chính phủ thì chống lại mọi nhà nước nói chung, kể cả nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
Tình hình đó đặt cho V.I.Lênin nhiệm vụ phải tổng kết kinh nghiệm của
thời kỳ lịch sử mới, tiếp tục phát triển học thuyết Mác về nhà nước và cách
mạng trọng điều kiện khách quan của thế giới và nước Nga lúc đó. Nhiệm vụ
đó đã được V.I.Lênin hoàn thành, xuất sắc trong tác phẩm Nhà nước và cách
mạng.
Đây là một tác phẩm có ý nghĩa to lớn về lý luận cũng như thực tiễn.
Không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin lại say sưa nghiên cứu học thuyết Mác
về nhà nước ngay vào đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Mười. Vấn đề
nhà nước là vấn đề mà ở đó sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn hết sức chặt
chẽ. Học thuyết Mác về nhà nước giúp giai cấp vô sản đề ra một cách rõ ràng
những nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; nhìn thấy triển vọng
của cuộc đấu tranh cho một trật tự xã hội mới tốt đẹp. Chính vì vậy, V.I.Lênin
coi việc phê phán những quan điểm cơ hội chủ nghĩa xuyên tạc học thuyết
Mác về nhà nước, bảo vệ và phát triển học thuyết đó bằng việc tổng kết, khái
quát kinh nghiêm cách mạng ở nước Nga cũng như ở các nước trên thế giới
là nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Khi phát triển những luận điểm của Mác và Ăngghen về vấn đề nhà
nước, Lênin đã đặc biệt làm nổi bật nguyên lý quan trọng nhất của triết học
Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung là sự liên hệ hữu cơ giữa lý luận
và thực tiễn.
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin đặt nhiệm vụ cho
những người cách mạng chân chính là phải khôi phục học thuyết khoa học
của C.Mác về nhà nước. Trước tình trạng học thuyết Mác bị xuyên tạc phổ
biến, V.I.Lênin đã trình bày lại những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác về
vai trò lịch sử và ý nghĩa của nhà nước, vấn đề này đã được trình bày trong
tác phẩm triết học nổi tiếng của Ph.Ăngghen, Nguồn gốc của gia đình, của sở
hữu tư nhân và của nhà nước. V.I. Lênin nhấn mạnh: nhà nước là sản phẩm
và biểu hiện mâu thuẫn không thể điều hòa được; sự tồn tại của nhà nước
chứng tỏ những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa. Và khi nêu lên tư
tưởng của C.Mác: nhà nước là cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với
một giai cấp khác. V.I.Lênin đã kết luận rằng, việc giải phóng giai cấp bị áp
bức không thể không xóa bỏ chính quyền nhà nước của giai cấp thống trị
bằng sức mạnh cách mạng, V.I.Lênin cũng làm sáng tỏ quan điểm duy vật
của Ph.Ăngghen về nhà nước như một phạm trù lịch sử, nhà nước trong
những giai đoạn phát triển nhất định của sản xuất xã hội và của mâu thuẫn
giai cấp.
Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp của học thuyết Mác cũng được
V.I.Lênin phân tích trên lập trường duy vật khoa học. Cái chủ yếu của học
thuyết Mác về giai cấp, theo Lênin, là thừa nhận đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản tất yếu dẫn tới thiết lập chính quyền nhà nước của nó.
Khi tổng kết những kinh nghiệm của Công xã Pari, Lênin đã đi đến
khẳng định về thái độ của cách mạng vô sản đối với nhà nước cũ tư sản là
không những chỉ phá bỏ nó mà còn phải biết thay thế nó, nghĩa là phải biết
xây dựng nhà nước mới của giai cấp vô sản như thế nào, phát triển nền dân
chủ của nó ra sao. V.I.Lênin cũng phê phán thái độ của bọn vô chính phủ
muốn xóa bỏ mọi hình thức nhà nước, kể cả nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong tác phẩm này, Lênin cũng phát triển tư tưởng đặc sắc của
Ph.Ăngghen về sự tồn tại tất yếu của nhà nước của giai cấp vô sản, chừng
nào giai cấp vô sản còn cần đến nhà nước không phải vì tự do, mà là để trấn
áp kẻ thù thì nhà nước còn tồn tại và ngày nào có thể nói đến tự do thì nhà
nước sẽ không còn là nhà nước nữa. Đồng thời V.I.Lênin cũng nhấn mạnh
bản chất của nhà nước vô sản là nhà nước của đa số nhân đân lao động, là
nhà nước mà trong đó nhân dân tự mình nắm lấy vận mệnh lịch sử.
Tác phẩm Nhà nước và cách mạng của V.I. Lênin ra đời đã ba phần từ
thế kỷ, song những vấn đề lý luận về nhà nứớc cho tới nay vẫn có giá trị to
lớn, nhất là đối với công cuộc đổi mới, xây dựng một nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay.
Sau Cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin tiếp tục phát triển chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong các tác phẩm Bệnh ấu trĩ "tả khuynh" trong phong trào cộng sản
(1920), Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt. (1921), về chính sách
kinh tế mới (1921), Lênin đã bảo vệ phép biện chứng mácxít, tiến hành đấu
tranh không khoan nhượng chống phép siêu hình, chống chủ nghĩa chiết
trung và thuyết ngụy biện.
Sự phát triển phép biện chứng được Lênin gắn liền với việc nghiên cứu
các vấn đề cách mạng, phong trào công nhân, xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chiến lược và sách lược của Đảng cộng sản v.v..
Riêng tác phẩm Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt...
V.I.Lênin còn đề cập những vấn đề cơ bản của lôgích biện chứng; vạch ra
mối liên hệ nội tại của các sự vật; nguyên nhân phát triển của chúng; đồng
thời, chỉ ra ý nghĩa to lớn của thực tiễn trong quá trình nhận thức. Trong tác
phẩm này, Lênin còn khái quát những nguyên tắc cơ bản của phép biện
chứng duy vật như: nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên
tắc phát triển...
Đặc biệt phải kể đến bài báo nổi tiếng mà Lênin viết năm 1922: Về tác
dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu. Có thể coi đây là di chúc triết học của
V.I.Lênin. Bài báo đã nêu lên những vấn đề về xây dựng, củng cố sự liên
minh giữa các nhà triết học mácxít và các nhà khoa học tự nhiên nhằm tiếp
tục phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, hoàn thiện phương pháp luận
của khoa học tự nhiên. Đồng thời, Lênin cũng chỉ ra sự cần thiết nắm vững có
phê phán và sáng tạo những truyền thống duy vật và biện chứng trước đây,
đặc biệt học thuyết vô thần của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII và phép
biện chứng của Hêghen.
Như vậy, chủ nghĩa Lênin không phải là sự "giải thích" chủ nghĩa Mác
có tính khả thi, mà là sự khái quát kinh nghiệm và thực tiễn đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, là sự phát triển duy nhất
đúng đắn và triệt để chủ nghĩa Mác cách mạng trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa và cách mạng vô sản.
Phần 2. GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM CHỦ YẾU CỦA MÁC - ĂNGGHEN - LÊNIN
A. TÁC PHẨM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN
HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Cuối tháng 8 năm 1844, trên đường từ Anh trở về Đức, Ăngghen đến
thăm Mác ở Pari. Hai ông thường xuyên trao đổi với nhau và Ăngghen kể lại
rằng: "Khi tôi đến thăm Mác vào mùa hè năm 1844 ở Pari, thì thấy rằng chúng
tôi hoàn toàn nhất trí với nhau trong mọi lĩnh vực lý luận, và từ đó trở đi đã bắt
đầu sự cộng tác giữa chúng tôi". Vào thời điểm này, Mác có ý định viết một
tác phẩm nhằm chống lại phái Hêghen trẻ. Mác đề nghị Ăngghen cùng viết
một tập sách chống lại hai anh em Bauơ. Công việc soạn thảo cuốn sách đó
đã hoàn thành vào cuối tháng 11 năm 1844 và được xuất bản cuối tháng 2
năm 1845 với nhan đề Gia đình thần thánh hay là Phê phán Sự phê phán có
tính phê phán. Chống Brunô Bauơ và đòng bọn. Tác phẩm này đánh dấu
bước phát triển mới trên con đường xây dựng những cơ sở lý luận của thế
giới quan vô sản và phân biệt ranh giới giữa Mác, Ăngghen với các nhà triết
học trước Mác cũng như các địch thủ tư tưởng của hai ông thời kỳ đó. Đây là
bước phát triển tiếp theo các quan điểm đã nêu ra trong tác phẩm Bản thảo
kinh tế - triết học năm 1844.
Vào thời gian đó, dưới áp lực của chính phủ Phổ, chính phủ Pháp đã ra
lệnh trục xuất Mác và một số người khác ra khỏi nước Pháp. Đầu tháng 2
năm 1845, Mác đã rời Pari đến Brúcxen. Mác đến Pari là để tìm kiếm một thế
giới quan mới. Tại Pari, ông đã chuyển hẳn sang lập trường của chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Khi đi khỏi Pari, mục đích trước mắt của Mác
là: phải hoàn thành việc luận chứng và đề xuất học thuyết cách mạng mới,
tuyên truyền và phổ biến những tư tưởng đó trong phong trào vô sản.
Trong thời gian ở Brúcxen, Mác đã đề xuất những cơ sở khoa học của
một thế giới quan mới trên lập trường của giai cấp vô sản. Đồng thời, ông đã
tiến hành các hoạt động thực tiễn nhằm thành lập một chính đảng vô sản
cách mạng. Tại đây, Mác đã trình bày quan niệm duy vật về lịch sử trong
Luận cương về Phoiơbắc. Thế giới quan mới - những luận điểm cơ bản được
Mác nêu ra một cách cô đọng trong bản sơ thảo này đã được Mác và
Ăngghen trình bày rõ ràng và chi tiết hơn trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức.
Trong thời kỳ này, những người ủng hộ Mác và Ăngghen vẫn còn là
thiểu số trong phong trào công nhân. Trong khi đó, các phe phái đủ màu sắc
của chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản đang chiếm ưu thế. Nhiệm vụ quan trọng đặt
ra cho Mác và Ăngghen là phải chứng minh một cách khoa học những cơ sở
hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, tuyên truyền hệ tư tưởng đó để tranh thủ
những người vô sản tiên tiến trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xã hội
tiểu tư sản. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải phê phán triệt để những quan điểm duy
tâm của nền triết học Đức và chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản Đức lúc đó; đồng
thời, trình bày một cách chính diện những nguyên lý cơ bản của một thế giới
quan triết học mới và đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học. Đầu
tháng 8 năm 1846, Mác viết: "Tôi thấy rằng, điều hết sức quan trọng là trước
khi tôi trình bày vấn đề một cách chính diện, thì cần phải có một tác phẩm
luận chiến nhằm chống lại nền triết học Đức và chống lại chủ nghĩa xã hội
Đức xuất hiện hồi bấy giờ. Điều đó là cần thiết để chuẩn bị cho công chúng
tiếp thu quan điểm của tôi trong lĩnh vực kinh tế - chính trị, quan điểm này trực
tiếp đối lập với khoa học Đức tồn tại cho đến ngày nay".
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kỳ này ở Tây Âu đã tạo ra
những tiền đề khách quan chín muồi cho việc khái quát lý luận về vai trò lịch
sử của giai cấp vô sản và đề xuất các quan điểm duy vật về lịch sử. Phong
trào công nhân ở Tây Âu nói chung, ở Đức nói riêng đã phát triển mạnh,
nhưng nó chỉ tiếp tục phát triển được khi nó thoát khỏi sự phụ thuộc vào hệ tư
tưởng của các giai cấp khác, tự mình xây dựng được hệ tư tưởng độc lập
trên cơ sở tiếp thu một thế giới quan mới, một học thuyết cách mạng mới.
Điều đó càng thôi thúc Mác và Ăngghen quyết tâm nghiên cứu để đề xuất thế
giới quan mới ấy.
Mùa thu năm 1845, hai ông đã có đề cương cụ thể hơn để viết một tác
phẩm triết học gồm hai tập nhằm phê phán hệ tư tưởng Đức qua những đại
biểu của nó như Phoiơbắc, Bauơ, Stiếcnơ và những người "chủ nghĩa xã hội
chân chính" Đức. Có một nguyên nhân trực tiếp là mùa hè năm 1845,
Phoiơbắc đã viết một bài báo công khai tuyên bố mình là người cộng sản;
đến tháng 9 cùng năm, một loạt tác phẩm cơ bản của những người "chủ
nghĩa xã hội chân chính" đã được công bố; đặc biệt là việc xuất bản tập III tạp
chí Wigand’s Vierteljahrsschrift vào giữa tháng 10 với những bài của Bauơ và
Stiếcnơ nhằm chống lại chủ nghĩa cộng sản.
Hệ tư tưởng Đức được dự kiến như là một tác phẩm tập thể do Mác
chủ biên. Nhưng dự định đó không thành, cuối cùng chỉ có Mác và Ăngghen
cộng tác chặt chẽ với nhau để hoàn thành tác phẩm này, đặc biệt là tập đầu.
Tháng 11 năm 1845 Mác và Ăngghen bắt tay vào viết. Kết cấu của
cuốn sách không phải được hình thành ngay từ đầu mà đã được điều chỉnh
trong quá trình viết. Về cơ bản, tác phẩm được hoàn thành vào tháng 4 năm
1846. Sau đó được hoàn thiện, bổ sung tiếp trong khoảng một năm và kết
thúc bằng bài báo của Ăngghen với nhan đề “Những người chủ nghỉa xã hội
chân chính”. Việc xuất bản tác phẩm này gặp rất nhiều khó khăn. Cuối năm
1846 đầu năm 1847, Mác và Ăngghen không hy vọng gì vào việc xuất bản tác
phẩm nữa và phải tìm cách công bố từng chương riêng rẽ. Đến tháng 8,
tháng 9 năm 1847, mới công bố được một chương của tập hai nói về cuốn
sách của Gruyn - một người "chủ nghĩa xã hội chân chính". Phần lớn các
chương của tác phẩm không được xuất bản lúc sinh thời của Mác và
Ăngghen. Sau này tác phẩm lần đầu tiên được in toàn bộ ở Liên Xô vào năm
1932 (chương II và chương III của tập hai không tìm thấy bản thảo).
Mặc dù tác phẩm này không được xuất bản vào lúc sinh thời của Mác
và Ăngghen, nhưng điều quan trọng là các tác giả đã đạt được mục đích của
mình. Ăngghen viết về điều đó như sau: "Chúng tôi lại càng vui lòng để bản
thảo đó cho sự phê phán gặm nhấm của chuột, nhất là vì mục đích chính của
chúng tôi - tức là, việc làm sáng tỏ vấn đề cho bản thân - đã đạt được rồi".
II. NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức được trình bày trong hai tập. Tập một gồm
Lời nói đầu và ba chương, tập hai gồm năm chương nhưng không tìm thấy
bản thảo của chương II và chương III.
Trong Lời nói đầu (vẫn chưa viết xong), hai ông trình bày một cách tổng
quát quan điểm duy vật về lịch sử cũng như học thuyết về chủ nghĩa cộng sản
của mình. Chương I (Phoiơbắc. Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan
điểm duy tâm.) là chương quan trọng nhất ở đây Mác và Ăngghen đã trình
bày một cách chính diện các quan điểm của mình; chương II (Brunô thần
thánh) phê phán Brunô Bauơ; chương III (Max thần thánh) phê phán Max
Stiếcnơ.
Tập hai phê phán “chủ nghĩa xã hội chân chính” mà nét điển hình của
nó là sự kết hợp giữa triết học Đức (chủ yếu là triết học Hêghen và triết học
Phoiơbắc) với những học thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng (chủ yếu là
chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp). Trong chương đầu của tập hai, các tác
giả phê phán những bài báo của Demmích và Mattel, đại biểu cho triết học
của "chủ nghĩa xã hội chân chính"; trong chương IV phê phán cuốn sách của
Gruyn - đại biểu chủ yếu của "chủ nghĩa xã hội chân chính"; trong chương V
phê phán cuốn sách cúa Cunman - một người "chủ nghĩa xã hội chân chính".
Trong Hệ tư tưởng Đức, cần tập trung nghiên cứu những nội dung chủ
yếu sau đây:
1. Sự phê phán của Mác và Ăngghen đổi với hệ tư tưởng Đức
Trước hết, Mác và Ăngghen tập trung làm sáng tỏ những hạn chế của
triết học Phoiơbắc. Điều này đã được trình bày một cách cô đọng trong Luận
cương về Phoiơbắc. Trong Hệ tư tưởng Đức, các tác giả đã cụ thể hóa và
phân tích một cách chi tiết về những đặc điểm của triết học Phoiơbắc, đặc
biệt là sự liên quan của nó với chủ nghĩa cộng sản. Mác và Ăngghen chỉ rõ
rằng, Phoiơbắc dựa vào khải niệm "con người cộng đồng" để tự tuyên bố
mình là người cộng sản, mà trên thực tế là quy cái hiện tồn thành một phạm
trù đơn giản và do vậy, quan niệm của Phoiơbắc về chủ nghĩa cộng sản
mang tính chất hoàn toàn trừu tượng, phi hiện thực. Tất cả những quan điểm
của Phoiơbắc về quan hệ giữa con người với nhau chỉ nhằm chứng minh
rằng con người luôn cần đến nhau và bao giờ cũng như vậy. Đối với
Phoiơbắc, điều quan trọng là phải xác lập một ý thức đúng đắn về cái hiện có,
trong lúc đó, đối với người cộng sản thực sự, điều quan trọng là lật đổ cái
hiện có ấy.
Mác và Ăngghen đã chỉ ra hạn chế cơ bản của Phoiơbắc trong vấn đề
con người: Phoiơbắc chỉ nói đến "con người trừu tựợng" mà không nói đến
con người thực tiễn lịch sử. Còn đối với người cộng sản - người duy vật thực
tiễn thì vấn đề lại là hành động thực tiễn của con người thực tiễn nhằm thay
đổi một cách thực tiễn cái thế giới hiện có. Cần chú ý rằng, nếu đôi khi ở
Phoiơbắc có những quan điểm tương tự như vậy thì những quan điếm ấy
không bao giờ vượt xa hơn những điều trực giác rời rạc và ảnh hưởng không
đáng kể đến thế giới quan chung của ông.
Mác và Ăngghen cũng chỉ rõ, so với các nhà triết học đương thời, ưu
điểm của Phoiơbắc là ông thừa nhận con người là "đối tượng của cảm giác".
Nhưng ông cũng chỉ dừng lại ở lý luận mà không xem xét con người trong
mối quan hệ xã hội nhất định, trong những điều kiện sinh hoạt nhất định của
họ, trong những điều kiện làm cho họ trở thành những con người đang tồn tại
và hành động thực sự. Ông chỉ biết đến quan hệ con người trong tình yêu và
tình bạn đã được lý tưởng hóa. Và do đó, ông không phê phán những điều
kiện sinh hoạt hiện tại. Mác và Ăngghen nhấn mạnh rằng: Phoiơbắc không
bao giờ hiểu được rằng, thế giới cảm giác được là tổng số những hoạt động
sống và cảm giác được của những cá nhân hợp thành thế giới ấy; đứng trước
hiện trạng của xã hội, ông đành lẩn trốn vào các quan niệm, khái niệm, lý
tưởng hoàn toàn trừu tượng, nghĩa là ông lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm, đúng
ở chỗ mà người duy vật cộng sản chủ nghĩa nhìn thấy cả sự tất yếu lẫn điều
kiện của hoạt động cải tạo thực tiễn của chính con người.
Khi nói đến quan hệ giữa con người với tự nhiên, Phoiơbắc thừa nhận
một cách siêu hình về một giới tự nhiên bất biến mà không hiểu được rằng
con người đã tác động đến giới tự nhiên, tạo nên một giới tự nhiên có tính
chất lịch sử. Mác, Ăngghen đã đưa ra những ví dụ sinh động để chứng minh
tính chất vô căn cứ của các quan niệm của Phoiơbắc trong vấn đề này: "Sự
xác thực cảm giác được" về cây anh đào, cái khoa học tự nhiên "thuần túy",
cái giới tự nhiên có trước lịch sử con người trên mấy hòn đảo san hô mới
hình thành ở châu Úc... ở Phoiơbắc, tự nhiên và lịch sử trở nên tách rời nhau,
không liên hệ với nhau.
Mác và Ăngghen đã nhận xét về chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc một
cách chính xác rằng: "Khi Phoiơbắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận
dụng đến lịch sử; còn khi ông có tính đến lịch sử thì ông không phải là nhà
duy vật. Ở Phoiơbắc, lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau...".
Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác và Ăngghen cũng đã phê phán một cách
sâu sắc những quan điểm duy tâm chủ nghĩa của phái "Hêghen trẻ". Các ông
chỉ rõ rằng: "Phái Hêghen trẻ thì phê phán tất cả mọi cái, bằng cách thay thế
từng cái một bằng những quan niệm tôn giáo hoặc tuyên bố cái đó là có tính
thần học. Phái Hêghen trẻ cũng như phái Hêghen già đều nhất trí tin tưởng
rằng tôn giáo, khái niệm, cái phổ biến, thống trị trong thếi giới hiện có". Phái
Hêghen trẻ vẫn là những kẻ duy tâm chủ nghĩa khi khẳng định cái hiện tồn là
sản phẩm của ý thức, khi họ khoa trương "đảo lộn thế giới" bằng việc đấu
tranh chống lại những câu nói mà tuyệt nhiên không hề chống lại thế giới hiện
thực đang tồn tại. Mác, Ăngghen đã phê phán Bauơ trong tác phẩm Gia đình
thần thánh..., đồng thời, cũng tiếp tục phê phán những vấn đề có liên quan.
Hai ông đã chỉ ra cái mưu toan của Bauơ đặt "tự ý thức tuyệt đối" lên trên cái
"thực thể", coi tư tưởng là cơ sở của thế giới hiện tồn. Hai ông cũng chỉ rõ sự
khác biệt giữa Bauơ với những người cộng sản trong khi giải quyết mối quan
hệ giữa lý luận và thực tiện, giữa nhận thức khoa học với hành động cải tạo
thực tiễn. Khi Bauơ lợi dụng những luận điểm của Phoiơbắc liên quan đến
chủ nghĩa cộng sản, các ông cũng chỉ rõ sai lầm của Phoiơbắc và sự khác
nhau giữa chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc với chủ nghĩa duy vật
thực tiễn của những người cộng sản.
Một đại biểu khác của Phái "Hêghen trẻ" là M.Stiếcnơ, Stiếcnơ tiếp tục
khẳng định rằng để biến đổi thực tiễn, chỉ cần biến đổi ý thức và các khái
niệm của các cá nhân mà thôi. Đập lại cái ảo tưởng về những con đường thủ
tiêu áp bức xã hội đó, Mác, Ăngghen khẳng định rằng:
"... Không thể đập tan được mọi hình thái và sản phẩm của ý thức bằng
sự phê phán tinh thần, bằng việc quy chứng thành "Tự ý thức",... mà chỉ bằng
việc lật đổ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện thực đã sản sinh ra
tất cả những điều nhảm nhí duy tâm đó; rằng không phải sự phê phán, mà
cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học và của mọi
lý luận khác".
Mác và Ăngghen cũng tập trung phê phán Stiếcnơ trong quan niệm về
lịch sử. Những quan điểm này của Stiếcnơ đã trở thành cơ sở tư tưởng cho lý
luận vồ chính phủ sau này khi nó phủ nhận những quy luật khách quan của
sự phát triển xã hội, tuyên truyền chủ nghĩa vị kỷ và thuyết trung tâm. Trong
cuốn sách Nhân vật duy nhất và sở hữu của nó, (1844), Stiếcnơ đã tuyên bố
cái tôi là thực tại duy nhất và toàn thế giới là sở hữu của nó, tất cả mọi cái
đều không tồn tại và chỉ là "bóng ma", mọi cá nhân hành động theo nguyên
tắc "không có gì cao hơn tôi"... Trong tác phẩm của mình, Stiếcnơ cũng dùng
những quan điểm trên vào việc chống chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, Mác và
Ăngghen đã phê phán một cách toàn diện những tư tưởng này của Stiếcnơ.
Hai ông chi rõ rằng: "... thánh Max Stiếcnơ, người không hiểu biết gì về toàn
bộ lịch sử hiện thực thì coi quá trình lịch sử đó là lịch sử của các "hiệp sĩ", của
bọn ăn cướp và của những ma quỷ mà dĩ nhiên là ông ta chỉ có thể thoát khỏi
ảo ảnh của chúng nhờ "không tin vào thần thánh". Quan niệm ấy thật sự có
tính chất tôn giáo". Khi vạch trần thủ đoạn của Stiếcnơ và Bauơ trong việc lợi
dụng quan niệm của Phoiơbắc về người cộng sản để chống lại chủ nghĩa
cộng sản, Mác và Ăngghen chỉ rõ, họ đã “đem quan niệm của Phoiơbắc về
người cộng sản, thay cho người cộng sản thực sự và họ đã làm một phần
như vậy để có thể đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản...”. Đồng thời Mác,
Ăngghen cũng vạch trần thực chất các quan niệm của stiếcnơ về lịch sử, cho
đó cũng chỉ là sự lặp lại quan niệm duy tâm của Hêghen với những trò ảo
thuật khác nhau mà thôi.
Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác, Ăngghen còn tập trung phê phán "chủ
nghĩa xã hội chân chính" đang được phổ biến rộng rãi ở Đức lúc đó. "Chủ
nghĩa xã hội chân chính" phản ánh tâm trạng của giai cấp tiểu tư sản Đức
đang lo sợ trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản và sự phát triển của cuộc
đấu tranh giai cấp. Trong khi kết hợp những mặt yếu của triết học cổ điển
Đức và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, những nhà tư tưởng của "chủ
nghĩa xã hội chân chính" (K.Gruyn, M.Ghetsơ...) đã đồng nhất việc phê phán
chủ nghĩa cộng sản với việc lý tưởng hóa các chế độ tiền tư bản, gieo rắc ảo
tưởng về khả năng phát triển của nước Đức lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chủ
nghĩa tư bản; tuyên truyền khẩu hiệu phi giai cấp về “tình yêu và tình anh em
nói chung”, phủ nhận đấu tranh chính trị và không tham gia phong trào thực
tiễn chống lại chế độ hiện tồn, coi thường cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ.
Khi nước Đức đang ở vào đêm trước của cuộc cách mạng dân chủ tư sản,
những quan điểm của "chủ nghĩa xã hội chân chính" đã có ảnh hưởng xấu
đến phong trào dân chủ và công nhân, vì vậy, trong Hệ tư tưởng Đức, Mác và
Ăngghen đã phê phán sâu sắc phái xã hội chủ nghĩa tiểu tư sản tầm thường
này.
Mác, Ăngghen chỉ rõ: bản chất của "chủ nghĩa xã hội chân chính" là ở
chỗ, nó xa rời cuộc đấu tranh giai cấp và phong trào công nhân, "tách rời các
hệ thống cộng sản chủ nghĩa, cũng như các tác phẩm cộng sản chủ nghĩa
liên quan đến sự phê phán và luận chiến, với phong trào hiện thực". Về mặt
xã hội, "chủ nghĩa xã hội chân chính" là một trào lưu tư tưởng tiểu tư sản
phản ánh phong trào văn học xã hội chủ nghĩa mà nó nảy sinh ở bên ngoài
những lợi ích của một đảng chân chính".
K.Gruyn và những nhà tư tưởng khác của "chủ nghĩa xã hội chân
chính" mưu toan dựa vào những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp. Mác và Ăngghen chỉ rõ rằng, trên thực tế họ đã xuyên tạc nội dung tư
tưởng Xanh Ximông, Phuriê và Cabê. Đồng thời hai ông cũng chỉ ra chỗ
giống nhau giữa Gruyn và Pruđông trong thái độ đối với phép biện chứng
Hêghen.
Nhìn chung, sự phê phán của Mác và Ăngghen đối với hệ tư tưởng
Đức sau Hêghen chứng tỏ rằng toàn bộ hệ tư tưởng này "chỉ lặp lại dưới hình
thức triết học, các quan điểm của thị dân Đức, những lời lẽ huênh hoang của
những người chú giải triết học này chỉ phản ánh sự nghèo nàn của thực tiễn
nước Đức" nhưng tất cả những vấn đề mà nó đề ra đều nảy sinh từ miếng đất
của hệ thống triết học nhất định, hệ thống Hêghen.
Nội dung phê phán của Hệ tư tưởng Đức rất phong phú và rộng lớn.
Nhưng ý nghĩa chung của tác phẩm này lại là ở chỗ hai ông trình bày một
cách chính diện một thế giới quan mới, vô sản, hình thành những cơ sở triết
học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận
chủ nghĩa cộng sản liên quan chặt chẽ với cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản.
2. Quan niệm duy vật về lịch sử
Trong tác phẩm này, Mác và Ăngghen đã vạch rõ nội dung của quan
niệm duy vật về lịch sử của mình, phân biệt thế giới quan mới của mình với
các quan điểm trước đây cũng như cùng thời với các ông. Thực chất của
quan niệm duy vật về lịch sử là ở chỗ thừa nhận vai trò quyết định của sản
xuất vật chất đối với cãc lĩnh vực còn lại của đời sống xã hội. Mác và
Ăngghen viết: "Quan niệm đó về lịch sử phụ thuộc vào khả năng giải thích sự
phát triển của quá trình hiện thực của sản xuất, xuất phát từ chính ngay sự
sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp; vào khả năng hiểu hình thức giao tiếp
của con người, hình thức gắn liền với phương thức sản xuất ấy và do phương
thức ấy sản sinh ra, tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của
nó, - là cơ sở của toàn bộ lịch sử; vào khả năng chỉ ra xã hội Công dân trong
hoạt động của nó với tư cách là nhà nước; vào khả năng giải thích toàn bộ
những sản phẩm lý luận khác nhau và mọi hình thái ý thức, như tôn giáo, triết
học, đạo đức v.v. và theo dõi quá trình phát sinh và phát triển của chung từ
những cơ sở đó; nhờ vậy mà tất nhiên là có thể miêu tả được mọi sự vật
trong toàn bộ (và đo đó cũng có thể xem xét được cả sự tác động qua lại giữa
những mặt khác nhau của sự vật). Quan niệm đó về lịch sử không đi tìm một
phạm trù nào đó trong mỗi thời đại như quan niệm duy tâm về lịch sử đã làm,
mà nó luôn luôn đứng trên miếng đất hiện thực của lịch sử; nó không căn cứ
vào tư tưởng để giải thích thực tiễn; nó giải thích sự hình thành của tư tưởng
căn cứ vào thực tiễn vật chất".
Mác và Ăngghen đã lấy "sản xuất vật chất" làm điềm xuất phát để
nghiên cứu xã hội và lịch sử. Mác cũng đã nêu lên một nguyên lý cho rằng, xã
hội loài người bắt đầu sự tồn tại của mình khi mà con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho đời sống của chính con người; đó
cũng là chỗ phân biệt con người với động vật. Tiền đề đầu tiên của lịch sử
loài người là con người phải sống, do đó phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo... vì vậy, hành động lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt cần thiết để thỏa mãn những nhu cầu nói trên. Sản xuất vật chất
quyết định toàn bộ đời sống xã hội.
Trong tác phẩm này, Mác, Ăngghen không những phát triển toàn diện
luận điểm về vai trò quyết định của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội,
mà lần đầu tiên, hai ông đã nêu lên tính biện chứng của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất (lúc đó các ông gọi là hình thức giao tiếp). Đây là một
phát hiện hết sức quan trọng, nó soi sáng toàn bộ hệ thống các phạm trù của
chủ nghĩa duy vật lịch sử đang hình thành. Phát hiện này của Mác, Ăngghen
có thể tóm tắt như sau: các lực lượng sản xuất quyết định loại hình quan hệ
xã hội - "hình thực giao tiếp". Tới một giai đoạn nhất định trong sự phát triển
của chúng, các lực lượng sản xuất sẽ mâu thuẫn với "hình thức giao tiếp"
hiện tồn. Mâu thuẫn đó được giải quyết bằng cuộc cách mạng xã hội. Thay
cho "hình thức giao tiếp" trước đây đã trở thành xiềng xích, là một "hình thức
giao tiếp" mới, phù hợp với những lực lượng sản xuất phát triển hơn. Về sau
"hình thức giao tiếp" mới này đến lượt nó lại không còn phù hợp với các lực
lượng sản xuất đang phát triển nữa, lại biến thành xiềng xích của những lực
lượng sản xuất này và bằng con đường cách mạng lại thay thế một "hình thức
giao tiếp" kế tiếp theo tiến bộ hơn. Giữa các giai đoạn luôn có một mối liên hệ
kế thừa kế tiếp nhau trong quá trình phát triển xã hội.
Chính Mác và Ăngghen cũng nhận thức rõ ý nghĩa của phát hiện nói
trên và các ông nhấn mạnh rằng: "như vậy, theo quan điểm của chúng tôi, tất
cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực
lượng sản xuất và hình thức giao tiếp". Ngay trong tác phẩm này, Mác và
Ăngghen đã sử dụng phát hiện này để đi sâu thêm vào những vấn đề còn
chưa được giải thích rõ trước đây. Nếu trước đây Mác giải thích rằng các
quan hệ kinh tế quyết định các quan hệ chính trị, pháp quyền... thì giờ đây
các ông đã xác lập được cái cơ cấu quyết định chính ngay cái quan hệ kinh
tế, cái cơ sở sâu xa hơn của quá trình lịch sử: các lực lượng sản xuất quyết
định tất cả những quan hệ giữa người với người, quyết định quá trình phát
triển lịch sử qua các hình thái xã hội khác nhau. Nếu trước đây Mác đã chỉ ra
rằng sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, thì giờ đây ông đã phát
hiện được cơ cấu nội tại của chính cái cơ sở đó, chỉ ra yếu tố quyết định cuối
cùng mà các yếu tố khác phụ thuộc vào nó và trên cơ sở đó có thể giải thích
đúng đắn các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Liên quan đến vấn đề này, Mác và Ăngghen cũng đã phê phán một
cách sâu sắc, toàn diện quan niệm duy tâm về lịch sử, cái quan niệm biến tinh
thần, ý thức thành động lực của lịch sử mà không thèm đếm xỉa đến sản xuất
vật chất. Các ông chỉ ra rằng "cho đến lúc này, mọi quan niệm về lịch sử hoặc
hoàn toàn không biết đến cơ sở hiện thực đó của lịch sử, hoặc chỉ coi đó là
một cái thứ yếu, không có liên hệ gì với tiến trình của lịch sử", chính Hêghen
trong cuốn Triết học lịch sử cũng thú nhận rằng ông “xem xét chỉ riêng sự vận
động đi lên của khái niệm” và trong lịch sử, ông đã trình bày "thần luận chân
chính". Các ông chỉ rõ thêm rằng "triết học của Hêghen về lịch sử là biểu hiện
lôgích cuối cùng, đạt tới mức "thuần túy nhất", của toàn bộ cái khoa viết sử ấy
của người Đức, tức là cái khoa viết sử không nói đến những lợi ích hiện thực,
không hề đả động đến những lợi ích chính trị, mà chỉ nói đến những tư tưởng
thuần túy".
Quan niệm duy vật về lịch sử là cơ sở lý luận chung, cơ sở phương
pháp luận cho một khoa học lịch sử chân chính; lý luận duy vật chủ nghĩa về
xã hội trở thành cơ sở lý luận trực tiếp của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Trong tác phẩm này, Mác và Ăngghen đã sử dụng chúng để luận chứng cho
vấn đề sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, con đường và biện pháp
thực hiện nó. Đồng thời với việc phát triển quan niệm duy vật lịch sử, Mác và
Ăngghen đã hình thành bộ máy phạm trù tương ứng của nó. Trong tác phẩm
này, các ông đưa ra những khái niệm mới như "phương thức sản xuất", “hình
thức giao tiếp”, bổ sung những nội dung mới của chủ nghĩa duy vật lịch sử
cho các khái niệm chung như "sản xuất", "lực lượng sản xuất", "xã hội công
dân", "lịch sử nhân loại"... Bộ máy các phạm trù này trở thành một hệ thống
hoàn chỉnh và vững chắc, phản ánh toàn bộ quá trình thực tiễn của đời sống
hiện thực của nhân loại.
Thực chất của quan điểm duy vật biện chứng đối với quá trình lịch sử là
việc thừa nhận những tính quy luật khách quan của sự phát triển xã hội do
chính hoạt động vật chất của con người tạo nên. Tính chất khách quan của
chúng thể hiện ở chỗ chúng không phụ thuộc vào ý chí chủ quan, vào ý thức
của con người. Nếu như quy luật của tự nhiên hoạt động không cần đến sự
tham dự của con người, thì quy luật xã hội lại chỉ thể hiện trong quá trình hoạt
động của con người. Mác và Ăngghen chỉ rõ: "Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối
tiếp của những thế hệ riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật
liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả các thế hệ trước để
lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục phương thức hoạt động được truyền
lại, nhưng trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác, lại biến
đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi".
Và như vậy, tiến bộ xã hội bắt đầu từ tiến bộ của lực lượng sản xuất,
của sự phát triển phân công lao động. Mác và Ăngghen nhận xét rằng: "Phân
công lao động chỉ trở thành sự phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện
sự phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần". Đồng thời với sự
phân công lao động đó, việc phân phối lao động và sản phẩm lao động cũng
được thực hiện mà thật ra lại không đồng đều cả về số lượng và chất lượng,
vì vậy nó cũng bao hàm sở hữu. Mác và Ăngghen nhấn mạnh rằng "sự phân
công lao động và sở hữu tư nhân là những từ ngữ cùng nghĩa: người ta dùng
từ ngữ thứ nhất để nói về mặt hoạt động và dùng từ ngữ thứ hai để nói về
mặt sản phẩm của hoạt động".
Nếu như trong các tác phẩm trước, Mác và Ăngghen còn chưa phân
biệt chính xác giữa sở hữu tư sản với các loại sở hữu tư nhân khác, thì trong
tác phẩm này các ông đã phân tích kỹ và chỉ ra tính biện chứng của quá trình
thay thế các hình thức sở hữu trong sự phụ thuộc vào trình độ phát triển nhất
định của phân công lao động, Mác và Ăngghen chỉ rõ: "Những giai đoạn phát
triển khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình
thức khác nhau của sở hữu; nói một cách khác là mỗi giai đọạn mới của phân
công lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, căn cứ
vào quan hệ củạ họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao
động". Trên cơ sở này, các ông đã phân chia các hình thức sở hữu trong lịch
sử thành các loại chủ yếu như sau:
a) Hình thức sở hữu bộ lạc phù hợp với giai đoạn chưa phát triển của
sản xuất và phân công lao động.
b) Hình thức sở hữu công xã và sở hữu nhà nước tồn tại trong thời Cổ
đại và ra đời chủ yếu từ sự tập hợp bằng hiệp ước hay bằng chinh phục
nhiều bộ lạc thành một thành thị. Chế độ nô lệ tiếp tục tồn tại. Cùng với sở
hữu công xã là sở hữu tư nhân về bất động sản (tuy vẫn phụ thuộc sở hữu
công xã) gọi là tư hữu công xã. Đó chính là nền tảng xây dựng nên toàn bộ
cơ cấu xã hội. Điều đó lại gắn liền với sự phát triển của phân công lao động.
Thậm chí, về sau đã xuất hiện sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa
công nghiệp và thương nghiệp hàng hải.
c) Hình thức sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp. Điểm xuất phát
của thời kỳ này là chế độ chiếm hữu ruộng đất. Chế độ phong kiến với toàn
bộ cơ cấu xã hội của nó cho thấy sự kém phát triển về lực lượng sản xuất và
phân công lao động. Giai cấp trực tiếp sản xuất là giai cấp nông dân, nông nô.
Cơ cấu đẳng cấp được hình thành vững chắc. Tương ứng với cơ cấu đẳng
cấp này của sở hữu ruộng đất ở thành thị là sở hữu phường hội, tức là tổ
chức phong kiến của thủ công nghiệp. Cần chú ý rằng, mặc dù có sự đối lập
giữa thành thị và nông thôn, có sự đối lập về đẳng cấp xã hội... nhưng nhìn
chung chưa có sự phân công lao động quan trọng nào cả.
d) Hình thức sở hữu tư bản chủ nghĩa. Trong tác phẩm này Mác,
Ăngghen tập trung nghiên cứu hình thức sở hữu này gắn liền với sự hình
thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Các ông chia hình thức sở hữu tư
bản chủ nghĩa làm 3 giai đoạn chủ yếu: 1) đến giữa thế kỷ XVII; 2) từ giữa thế
kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII; 3) từ cuối thế kỷ XVIII trở đi. Hình thức giao tiếp
tư bản chủ nghĩa đã được hình thành từ trong lòng xã hội phong kiến. Sự
phát triển của phân công lao động mà mở đầu là sự phân chia ra lao động vật
chất và lao động tinh thần, đã dẫn đến sự đối lập giữa thương nghiệp và công
nghiệp, đến sự phân công giữa các thành thị, và đến sự xuất hiện các công
trường thủ công rồi chuyển dần sang chể độ công xưởng. Sự hình thành thị
trường thế giới và vấn đề phân công lao động có tính chất quốc tế đã xuất
hiện.
Trong tác phẩm này, lần đầu tiên Mác và Ăngghen đã phân tích sở hữu
tư sản và vạch ra những đặc điểm qua nó. Từ sự phân tích đó, các ông chỉ rõ
vị trí lịch sử của chủ nghĩa tư bản; chỉ rõ tính chất cách mạng của sự thay thế
quan hệ xã hội này bằng quan hệ xã hội khác tiến bộ hơn. Điều quan trọng
hơn là các ông đi đến kết luận về tính tất yếu của sự thủ tiêu chế độ tư hữu
và thiết lập chế độ sở hữu xã hội phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất đang phát triển.
Việc nghiên cứu các hình thái lịch sử trước đó và các giai đoạn phát
triển của sản xuất, làm sáng tỏ vai trò của nó trong sự phát triển các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội đã đưa Mác và Ăngghen tới việc sáng tạo ra
một khái niệm mới hết sức quan trọng là "phương thức sản xuất" mà theo
Mác và Ăngghen "là một hình thức hoạt động nhất định của những cá nhân
ấy, một hình thức nhất định của sự biểu hiện đời sống của họ, một phương
thức sinh sống nhất định của họ. Những cá nhân biểu hiện đời sống của họ
như thế nào thì họ là như thế ấy; do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp
với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách họ sản
xuất".
Khái niệm "phương thức sản xuất" có ý nghĩa phương pháp luận đối
với việc nghiên cứu toàn bộ các giai đoạn phát triển của lịch sử, phân tích
đúng đắn các sự kiện lịch sử và thấy được triển vọng phát triển của xã hội.
Khi chỉ ra quá trình thay thế các phương thức sản xuất trong lịch sử, Mác và
Ăngghen cũng luận chứng cho sự ra đời tất yếu của một phương thức sản
xuất mới với một hình thức giao tiếp mới, một cơ cấu xã hội mới.
Trong tác phẩm này, Mác và Ăngghen đã sử dụng quan niệm duy vật
về lịch sử vào việc giải thích một cách đúng đắn về ý thức xã hội, "... ngay từ
đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chứng nào con
người con tồn tại". Mác, Ăngghen đã chỉ ra rằng, lúc ban đầu, ý thức mới chỉ
là ý thức về hoàn cảnh gần nhất có thể cảm giác được và là ý thức về mối
liên hệ hạn chế với những người khác và vật khác ở bên ngoài cá nhân, đồng
thời cũng là ý thức về giới tự nhiên - một ý thức hoàn toàn động vật về giới tự
nhiên. Cái ý thức có tính chất xã hội lúc này còn là ý thức đàn bầy đơn thuần.
Sau này, cùng với sự phát triển của sản xuất vật chất và hình thức sở hữu, đã
diễn ra sự tách biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Quá trình phát
triển phân công lao động lại làm cho lao động trí óc biến thành một lĩnh vực
đặc biệt chỉ dành cho giai cấp thống trị và dần dần hình thành ảo tưởng cho
rằng ý thức là một lực lượng độc lập với tồn tại, bản thân ý thức là "tự tồn tại".
Nhưng thực chất đó chỉ là "giả ý thức" là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
dùng để duy trì và tăng cường sự thống trị của mình.
Thực ra sự sản xuất ra những ý niệm, những quan niệm và ý thức lúc
đầu gắn liền trực tiếp với hoạt động vật chất và sự giao tiếp vật chất của con
người; những quan niệm, tư duy, sự giao tiếp tinh thần xuất hiện như là sự
biểu thị trực tiếp của những quan hệ vật chất của con người. Chính con người
đã sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, đó là những con người hiện thực,
đang hành động và bị quy định bởi sự phát triển nhất định của những lực
lượng sản xuất và sự giao tiếp thích hợp với nó. "Ý thức không bao giờ có thể
là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức và tồn tại của con người là quá
trình đời sống hiện thực của con người". Mác và Ăngghen còn chỉ rõ: "Ngay
cả những ảo tưởng hình thành trong đầu óc con người cũng là những vật
thăng hoa tất yếu của quá trình đời sống vật chất của họ, một quá trình có thể
xác định được bằng kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề về vật chất" 1
và do đó những hình thái ý thức xã hội sẽ mất ngay cái vẻ độc lập bề ngoài
của nó, bởi vì con người sản sinh ra ý thức, biến đổi ý thức trong quá trình
hoạt động vật chất và biến đổi đời sống vật chất. Do đó "không phải ý thức
quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức".
Từ nguyên lý duy vật chủ nghĩa chung về ý thức, hai ông đã chỉ rõ tính
chất phức tạp, đa dạng của các hình thái ý thức, đặc biệt là triết học, tôn giáo,
hệ tư tưởng... Các ông đã đi vào phân tích những khía cạnh quan trọng nhất
liên quan đến hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Các ông chỉ rõ rằng, tư
tưởng thống trị trong xã hội là tư tưởng của giai cấp thống trị về mặt kinh tế
và chính trị, nói cách khác "giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong
xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị", "những tư tưởng thống trị
không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ
vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện
dưới hình thức tư tưởng”. Từ đó Mác và Ăngghen đã đi đến kết luận rằng,
người ta không thể thủ tiêu các hình thái ý thức, các sản phẩm của ý thức
bằng sự phê phán về tinh thần được, mà chỉ có thể thực hiện được điều đó
bằng cách biến đổi một cách thực tiễn chính ngay các quan hệ xã hội hiện
thực đã sản sinh ra cái ý thức đó, "không phải sự phê phán, mà cách mạng
mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận
khác". Cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ là cuộc cách mạng triệt để
nhất trong việc biến đổi ý thức của con người với tư cách là chủ thể chân
chính sáng tạo ra xã hội mới.
3. Những vấn đề của chủ nghĩa cộng sản
Như trên đã trình bày, quan niệm duy vật về lịch sử cũng đã giúp Mác,
Ăngghen giải thích một cách đúng đắn toàn bộ lịch sử nhân loại nói chung,
các giai đoạn phát triển của xã hội và nhất là giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Theo các ông, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và "hình thức giao tiếp" là
nguyên nhân sâu xa của quá trình phát triển xã hội, và mâu thuẫn đó chỉ có
thể được giải quyết bằng con đường cách mạng; cách mạng là động lực của
lịch sử. Từ vấn đề chung về cách mạng, Mác và Ăngghen đã luận chứng cho
kết luận về tính tất yếu của cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa.
Sự phát triển của các lực lượng sản xuất trong lòng xã hội tư bản chủ
nghĩa tạo ra hai tiền đề cơ bản của cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Một
là, sự phái triển cao của sản xuất không thể tương đương với chế độ tư hữu
và cần phải tổ chức xã hội trên cơ sở cộng sản chủ nghĩa. Hai là, sự hình
thành và phát triển giai cấp vô sản cách mạng, "một giai cấp buộc phải chịu
đựng tất cả gánh nặng của xã hội mà không được hưởng những phúc lợi của
xã hội, bị gạt ra ngoài xã hội và buộc phải đối lập một cách kiên quyết nhất
với tất cả các giai cấp khác, một giai cấp do đa số thành viên của xã hội hợp
thành và là giai cấp sản sinh ra ý thức về tính tất yếu của một cuộc cách
mạng triệt để, ý thức cộng sản chủ nghĩa...".
Trong Hệ tư tưởng Đức, các tác giả đã chứng minh rằng, cùng với sự
phát triển của đại công nghiệp đã xuất hiện sự cần thiết và những tiền đề vật
chất cho việc: thủ tiêu chế độ tư hữu và thực hiện bước chuyển sang một xã
hội không còn giai cấp.
Từ việc xem xét sản xuất, rồi "hình thức giao tiếp", các quan hệ xã hội,
chế độ xã hội, kết cấu giai cấp của xã hội, mối quan hệ giữa cá nhân, giai cấp
và xã hội, các ông chuyển sang nghiên cứu vấn đề nhà nước và pháp quyền.
Trong tác phẩm này, lần đầu tiên các ông đã phân tích một cách khoa học
thực chất của nhà nước nói chung và nhà nước tư sản nói riêng.
Liên quan đến vấn đề nhà nước, cách mạng và chủ nghĩa cộng sản,
Mác và Ăngghen đã trình bày những luận điểm chủ yếu như sau:
a) Sự vận động của sản xuất vật chất trong điều kiện của "hình thức
giao tiếp" đã lỗi thời sẽ làm cho lực lượng sản xuất không thể tiếp tục phát
triển và bị phá hoại; do vậy cuộc cách mạng xã hội tất yếu sẽ nổ ra.
b) Các "hình thức giap tiếp" có đối kháng phản ánh sự thống trị của một
giai cấp này đối với các giai cấp khác. Hình thức chính trị của sự thống trị đó
là nhà nước. Mác và Ăngghen nhấn mạnh: "Vì nhà nước là hình thức mà các
cá nhân thuộc một giai cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ
và là hình thức dưới đó, toàn bộ xã hội công dân của một thời đại được biểu
hiện một cách tập trung, nên mọi thiết chế công cộng đều thông qua Nhà
nước và mang một hình thức chính trị", "do đó mà giai cấp nào muốn nắm
quyền thống trị ngay cả khi quyền thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ
hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung, như trong trường hợp của giai
cấp vô sản - thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền".
c) Cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa về cơ bản khác với tất cả các
cuộc cách mạng xã hội trước đó: nó không chỉ thủ tiêu hình thái sở hữu tư
nhân đã lỗi thời về mặt lịch sử mà là thủ tiêu chế độ tư hữu nói chung, xóa bỏ
lao động làm thuê và sự phân công lao động trước đây thủ tiêu sự thống trị
của mọi giai cấp bằng cách thủ tiêu ngay chính các giai cấp và do đó thủ tiêu
ngay chính nhà nước.
d) Trong sự quá độ lên chủ nghĩa cộng sản (thời kỳ này hai ông chưa
phân biệt hai giai đoạn của hình thái cộng sản chủ nghĩa), sự phát triển tự
phát của sản xuất xã hội sẽ nhường cho việc điều chỉnh, quản lý một cách tự
giác, "Chủ nghĩa cộng sản khác với tất cả các phong trào trước kia ở chỗ nó
đảo lộn cơ sở của mọi quan hệ sản xuất và giao tiếp trước kia và lần đầu tiên
nó coi một cách có ý thức tất cả những tiền đề tự nhiên là những sáng tạo
của những người đã sống trước chúng ta và nó tước bỏ tính chất tự nhiên
của những tiền đề ấy và đặt chúng dưới quyền lực của các cá nhân đã liên
hợp lại".
e) Cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa không chỉ thủ tiêu chế độ tư
hữu và chế độ xã hội hiện tồn, mà còn là công cuộc cải tạo ngay chính bản
thân con người trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng đó. Vì sự nghiệp vĩ
đại đó cũng chỉ thực hiện được thông qua cách mạng mà thôi... Cần phải có
sự biến đổi đông đảo quần chúng; song sự biến đổi này chỉ có thể tiến hành
được bằng một phong trào thực tiễn, bằng cách mạng; dò đó, cuộc cách
mạng ấy phải được làm cho trở thành cần thiết, không những chỉ vì nó là
phương tiện duy nhất để lật đổ giai cấp thống trị, mà còn vì chỉ có cách mạng
mới khiến cho giai cấp đi lật đổ giai cấp khác có thể quét sạch mọi sự thối nát
của chế độ cũ đang bám chặt theo mình và trở thành có năng lực xây đựng
xã hội trên những cơ sở mới".
Khi chỉ ra sự cần thiết phải thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, Mác và
Ăngghen đã luận chứng về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản
- người sẽ lật đổ chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Liên quan đến vấn đề cách mạng, nhà nước và chủ nghĩa cộng sản, trong tác
phẩm này Mác và Ăngghen đã tiến sát đến tư tưởng về chuyên chính vô sản.
Khi đề cập đến lập trường của người cộng sản, Mác và Ăngghen chỉ rõ:
"... thật ra đối với nhà duy vật thực tiễn, tức là đối với người cộng sản, thì tất
cả vấn đề là ở chỗ cách mạng hóa thế giới hiện có, tấn công và thay đổi một
cách thực tiễn trạng thái sự vật mà mình thấy".
Phát triển tư tưởng về sự giải phóng nhận loại được đề xuất từ Bản
thảo kinh tế - triết học năm 1844, trong Hệ tư tưởng Đức các tác giả đã làm rõ
bản chất, điều kiện và phương thức thực hiện sự nghiệp đó. Trước hết, các
ông khẳng định rằng, đó là sự nghiệp cách mạng thực tiễn, thực hiện trong
thế giới hiện thực và bằng những phương tiện hiện thực. Nó nhằm giải phóng
con người hiện thực, được thực hiện bởi con người hiện thực chứ không phải
là con người trừu tượng - phi lịch sử. Và do đó, các ông đã đi đến chỗ phát
hiện ra con người vô sản, giai cấp vô sản với tư cách là một lực lượng xã hội
hiện thực có sứ mệnh lịch sử toàn thế giới nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản và
xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Đối lập với những người xã hội chủ nghĩa không tưởng, kể cả những
người "chủ nghĩa xã hội chân chính" Đức, chủ nghĩa cộng sản là một phong
trào hiện thực mà những tiền đề của nó hiện đang tồn tại trong xã hội. Mác và
Ăngghen tuyên bố: "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một
trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải
khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó
xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của
những tiền đề hiện đang tồn tại".
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa đã không
còn tương hợp với hình thức giao tiếp; chỉ có giải quyết các mâu thuẫn ấy thì
mới có thể tiếp tục phát triển xã hội được. Mặt khác, cũng chính nền sản xuất
ấy đã tạo ra tiền đề cho sự ra đời của một hình thức cộng đồng các cá nhân
trên cơ sở của sở hữu xã hội và sự liên hợp các cá nhân tự do không bị ràng
buộc bởi phân công lao động. Mác và Ăngghen khẳng định: Tổ chức của chủ
nghĩa cộng sản, về thực chất, là có tính chất kinh tế; nó là sự sáng tạo vật
chất ra những điêu kiện cho sự liên hợp ấy; nó biến những điều kiện hiện có
thành những điều kiện của sự liên hợp".
Xuất phát từ đây, khi giải thích những nét chung về đặc điểm của xã hội
cộng sản chủ nghĩa tương lai (các ông tránh không xây dựng một mô hình
giáo điều chi tiết), các tác giả chỉ đề cập những gì như là khuynh hướng tất
nhiên do chính điều kiện hiện thực đương thời đưa lại. Có thể thấy những
điểm chung là: trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất sẽ bị thủ tiêu; sở hữu phục tùng các cá nhân liên hợp lại (tức là toàn xã
hội); việc phân chia xã hội thành các giai cấp không còn nữa, do đó sự thống
trị của một giai cấp này đối với các giai cấp khác không còn nữa và nhà nước
với tư cách là công cụ thống trị sẽ không còn nữa; sự phân công lao động có
tính chất giai cấp sẽ bị thủ tiêu, do đó sự đối lập giữa lao động chân tay và lao
động trí óc, giữa thành thị và nông thôn cũng sẽ bị thủ tiêu; mọi cá nhân sẽ
trở thành người tự do và phát triển toàn diện, con người sẽ làm chủ tất cả
những phương tiện, điều kiện vật chất, chủ động và tự giác điều phối chúng
phục vụ cho con người; xã hội đó có đầy đủ mọi điều kiện để biến đổi con
người thành những con người thực sự với nghĩa hoàn toàn đầy đủ của nó.
Tuy nhiên, trong tác phẩm này, Mác và Ăngghen chưa phân biệt hai
giai đoạn của hình thái cộng sản chủ nghĩa mà phải đến tác phẩm Phê phán
Cương lĩnh Gôta 1875, tư tưởng đó mới được trình bày một cách rõ ràng.
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Hệ tư tưởng Đức là một tác phẩm triết học rất quan trọng của Mác và
Ăngghen, viết trong thời kỳ chủ nghĩa Mác đang được hình thành. Trong tác
phẩm này, những tư tưởng cơ bản của thế giới quan mới đã được trình bày
tương đối hoàn chỉnh, dĩ nhiên là phù hợp với trình độ lúc bấy giờ. Mặc dù
trong tác phẩm này, các ông còn sử dụng hệ thống thuật ngữ cũ, nhưng các
ông đã đưa những nội dung mới vào; mặt khác, các ông cũng đã bổ sung
những thuật ngữ mới của học thuyết cách mạng của giai cấp vô sản. Sự luận
chứng các tư tưởng, các nguyên lý, các phạm trù của quan niệm duy vật về
lịch sử có một ý nghĩa hết sức to lớn cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn,
đó là bước tiến chủ yếu của tác phẩm này.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một phát hiện vĩ đại của Mác và Ăngghen.
Chính Ăngghen đã nhiều lần chỉ rõ rằng, nhờ hai phát hiện vĩ đại của Mác
(quan niệm duy vât về lịch sử và lý luận giá trị thặng dư) mà chủ nghĩa xã hội
đã phát triển từ không tưởng thành khoa học. Phát hiện thứ nhất - quan niệm
duy vật về lịch sử - đã được Mác trình bày trong một loạt tác phẩm, bắt đầu từ
mùa hè năm 1843, khi ông bắt tay vào phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen. Phát hiện đó được hình thành trên những nét lớn vào mùa xuân năm
1845 trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, và lần đầu tiên đã được trình
bày một cách toàn diện, chi tiết trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, cần nhấn
mạnh rằng, phát hiện này là tiền đề có tính chất phương pháp luận cho phát
hiện thứ hai: lý luận giá trị thặng dư.
Phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử là một thành tựu khoa học vĩ
đại, là một bước ngoặt trong các học thuyết về xã hội là điểm chủ yếu tạo nên
cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện Hệ tư tưởng
Đức là tác phẩm đầu tiên thể hiện một cách toàn diện quan niệm đó.
Với việc đề xuất một thế giới quan mới, Mác và Ăngghen đã bước đầu
đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học. Trong tác phẩm này, lần
đầu tiên hai ông nói rõ học thuyết của mình là chủ nghĩa cộng sản - chủ nghĩa
duy vật thực tiễn. Nhưng mặt khác, cần thấy rằng chỉ có đứng trên lập trường
của giai cấp vô sản mới có thể đề xuất được một quan niệm duy vật về lịch
sử như vậy bởi vì theo lôgích của quan niệm này sẽ dẫn đến kết luận về tính
tất yếu của cách mạng cộng sản chủ nghĩa sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa
tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.
Với bút pháp luận chiến tuyệt vời của mình, Mác và Ăngghen lần đầu
tiên đã áp dụng một cách triệt để quan điểm giai cấp trong việc phê phán các
trào lưu tư tưởng phi vô sản, để lại một tác phẩm mẫu mực về sự kết hợp
nhuần nhuyễn tính đảng vô sản và tính khoa học trong công tác lý luận.
Những kết quả lý luận đã đạt được trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức là
cơ sở cho hoạt động khoa học và thực tiễn tiếp theo của Mác và Ăngghen.
Với thành tựu này các ông đã làm sáng tỏ mọi vấn đề cho chính bản thân
mình, đã thanh toán xong "món nợ tinh thần" với Hệ tư tưởng Đức, do đó các
ông vững tin rằng, học thuyết cách mạng đang hình thành đã có cơ sở khoa
học và thực tiễn, sẽ đi vào phong trào vô sản như là vũ khí tinh thần của giai
cấp vô sản trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Chỉ bằng việc các thế lực phản động và mọi kẻ thù của chủ nghĩa Mác
tìm mọi cách để ngăn cản việc xuất bản tác phẩm này, chúng ta cũng có thể
thấy được ảnh hưởng to lớn của các tác phẩm đối với đời sống xã hội. Hệ tư
tưởng Đức không được xuất bản ngay vào thời kỳ đó, nhưng các tư tưởng,
các nguyên lý, các kết luận được Mác và Ăngghen nêu ra trong tác phẩm, đã
được các ông trình bày và phát triển hơn trong các tác phẩm tiếp theo như:
Sự khốn cùng của triết học do Mác viết năm 1847 và Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản do Mác, Ăngghen viết chung, xuất bản năm 1848.
TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Tác phấm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do C.Mác Và Ph.Ăngghen
soạn thảo vào cuối năm 1847 và được xuất bản vào tháng 3 năm 1848. Mục
đích của tác phẩm như C.Mác và Ph.Ăngghẹn đã chỉ rõ: "Hiện nay, đã đến lúc
những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những
quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên ngôn của Đảng
của mình để đáp lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản".
Vào giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã thống trị ở Anh, Pháp và trong một chừng mực quan trọng cả ở
Đức. Ở nhiều nước Tây Âu, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản diễn ra
khá mạnh mẽ. Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay
gắt. Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trở
nên không thể điều hòa được. Những mâu thuẫn giai cấp vốn có của xã hội
tư bản mà trước hết là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,
ngày càng gay gắt.
Ở thời kỳ này, phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai cấp vô
sản ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Phong trào Hiến chương ở Anh, khởi
nghĩa của công nhân Liông ở Pháp, khởi nghĩa của thợ dệt Xilêdi ở Đức... đã
chứng tỏ điều đó. Giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, trung tâm của phong
trào cách mạng chuyển sang nước Đức, trong khi nước này đang phải hoàn
thành cuộc cách mạng tư sản. Giai cấp vô sản Đức tiến hành cuộc đấu tranh
của mình, một mặt, chống lại chế độ phong kiến, mặt khác, chống lại ngay
chính giai cấp tư sản. Nhưng họ lại chưa giác ngộ về địa vị của mình trong
tiến trình lịch sử, chưa thấy con đường và thủ đoạn thực hiện việc giải phóng
bản thân và toàn xã hội. Phong trào vô sản Tây Âu lúc đó còn mang tính chất
tự phát và thiếu tổ chức, chưa có lý luận khoa học dẫn đường. Phong trào vô
sản lúc này chịu ảnh hưởng của các học thuyết xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa không tưởng. Xã hội chủ nghĩa không tưởng đầu thể kỷ XIX với
những đại biểu xuất sắc như Xanh Ximông, Phuriê, Ôoen, mặc dù có những
đóng góp lớn trong việc phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn
không đáp ứng được yêu cầu của phong trào vô sản, không thể hiện được
những lợi ích cơ bản của giai cấp vô sản. Đối vối phong trào vô sản, sự cần
thiết có một học thuyết cách mạng và khoa học trên lập trường vô sản đã trở
nên chín muồi. Và rốt cuộc, giai cấp vô sản đã tìm thấy ở học thuyết Mác vũ
khí tinh thần của mình.
C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm và
chuyển từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường của giai cấp vô
sản, ngày càng tích cực hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế. Hai
ông đã cố gắng đoàn kết những phần tử tiên tiến của phong trào vô sản, tiến
hành cuộc đấu tranh trực tiếp để thành lập đảng vô sản. Mác và Ăngghen
nhận thức sâu sậc rằng, cần phải làm cho giai cấp vô sản trở thành một lực
lượng độc lập trong khi tham gia phong trào dân chủ tư sản, làm cho họ tiến
gần tới việc thực hiện nhưng mục đích cộng sản chủ nghĩa. Nhiệm vụ này chỉ
có thể giải quyết được thông qua việc thành lập đảng vô sản. Các ông hiểu
biết rõ rằng cần phải có một đảng vô sản triệt để cách mạng, thật sự độc lập,
có cơ sở lý luận đúng đắn; chỉ có một đảng như vậy, giai cấp vô sản mới thực
hiện được sứ mệnh lịch sử của mình. Trước hết, theo các ông, cần phải
tuyên truyền một cách rộng rãi những tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, củng cố
mối liên hệ với những công nhân tiên tiến và trí thức cách mạng. Chính vì thế,
đầu năm 1846, Mác và Ăngghen đã thành lập ủy ban thông tin cộng sản Brúc-
xen.
Các ông cũng đã cố gắng thành lập những ủy ban như vậy ở nhiều nơi
khác.
Thông qua Evecbếch, Ủy ban thông tin cộng sản Brúcxen đã liên hệ
thường xuyên với các công xã của Liên đoàn những người chính nghĩa ở
Pari, sau đó Ủy ban thông tin ở Pari được thành lập. Tại Luân Đôn, các nhà
hoạt động của Liên đoàn những người chính nghĩa (Môn, Sáppơ và Bauơ)
cùng lập ra một Ủy ban thông tin cộng sản. Nhưng giữa các ủy ban này không
phải đã có ngay sự hiểu biết đầy đủ về nhau.
Tổ chức Liên minh những người chính nghĩa ra đời từ năm 1836 bao
gồm những người vô sản tiên tiến thuộc nhiều dân tộc. Nhiều người của tổ
chức này chịu ảnh hưởng của những khuynh hướng khác nhau của chủ
nghĩa xã hội không tưởng. Mác đã thấy rõ rằng chủ nghĩa xã hội không tưởng
lúc này là một trở ngại to lớn trong việc đoàn kết các lực lượng vô sản tiên
tiến và việc truyền bá thế giới quan cách mạng trong công nhân, gây ra sự
không thống nhất về tư tưởng trong phong trào công nhân. Trước năm 1847,
khi được mời tham gia Liên minh những người chính nghĩa, Mác và Ăngghen
đều từ chối, mặc dù hai ông vẫn có ý thức theo dõi hoạt động của Liên minh,
tìm cách đưa những quan điểm của thế giới mới vào tổ chức này.
Đến cuối năm 1846, các nhà lãnh đạo Liên minh những người chính
nghĩa thừa nhận rằng chỉ có Mác và Ăngghen mới có khả năng đem lại cho
các tổ chức công nhân một phương hướng đúng đắn. Sau khi họ kêu gọi triệu
tập một đại hội cộng sản quốc tế, họ vấp phải một loạt khó khăn trong việc
khởi thảo Cương lĩnh cho đại hội và họ quyết định nhờ Mác, Ăngghen giúp
đỡ. Đầu năm 1847, Liên minh đã cử Giôdép Môn, một trong những người
lãnh đạo Liên minh, đến Brúcxen gặp Mác và sang Pari gặp Ăngghen để đề
nghị hai ông gia nhập Liên minh, tham gia dự thảo Cương lĩnh và các văn
kiện khác. Mác và Ăngghen thấy rõ rằng họ thực sự sẵn sàng cải tổ lại tổ
chức này nên đã đồng ý gia nhập với hy vọng cải tổ Liên minh thành một
đảng vô sản triệt để theo những nguyên lý của học thuyết cách mạng mới.
Đại hội Liên minh những người chính nghĩa đã họp tại Luân Đôn vào
đầu tháng 6 năm 1847 nhằm cải tổ Liên minh, Mác không đến được, chỉ có
Ăngghen đến dự. Tại Đại hội này, Liên minh đã đổi tên thành Liên đoàn
những người cộng sản. Thực chất, đây là Đại hội sáng lập một tổ chức mới.
Một bản điều lệ mới do Ăngghen dự thảo đã được thông qua. Ăngghen đã
đưa những luận điểm quan trọng có tính chất cương lĩnh vào trong bản điều
lệ, mà điều khoản đầu tiên đã nêu mục đích của Liên đoàn theo tinh thần của
chủ nghĩa cộng sản khoa học: đánh đổ giai cấp tư sản, giành chính quyền về
tay giai cấp vô sản; thủ tiêu xã hội tư sản, xây dựng xã hội mỗi không có giai
cấp và không có chế độ tư hữu. Khẩu hiệu có tính chất tiểu tư sản, siêu giai
cấp "Tất cả mọi người đều là anh em" được thay bằng khẩu hiệu có tính
chiến đấu và cách mạng "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại". Đây là một sự
kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh nhằm thành lập một đảng vô sản.
Liên đoàn những người cộng sản cần phải được củng cố bằng việc
thông qua Cương lĩnh mới, do vậy cần triệu tập Đại hội lần thứ hai. Ban chấp
hành Trung ương yêu cầu Mác phải có mặt tại Đại hội. Mác và Ăngghen nhận
rõ ý nghĩa của Đại hội này mà trong đó sẽ dứt khoát xóa bỏ những trở ngại để
khẳng định những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học và lập trường
của tổ chức vô sản quốc tế. Cả hai ông đều được cử làm đại biểu đi dự Đại
hội.
Trong thời gian chuẩn bị Đại hội, Ban chấp hành Trung ương đã soạn
bản Cương lĩnh dự thảo và gửi cho các chi bộ thảo luận. Bản dự thảo đó
không được tán thành. Ngay cả bản dự thảo "cải tiến" sau đó cũng bị coi là
chưa đạt. Theo sự ủy nhiệm của các thành viên của Liên đoàn ở Pari,
Ăngghen đã viết bản dự thảo khác và đặt tên là Những nguyên lý của chủ
nghĩa cộng sản. Giữ nguyên hình thức vấn đáp của Cương lĩnh dự thảo, về
nội dung, bước đầu Ăngghen đã phác thảo những luận điểm có tính chất
cương lĩnh và sách lược quan trọng nhất của đảng vô sản. Tuy vậy, theo
Ăngghen, đó chỉ là bản cương lĩnh sơ thảo mà thôi, bởi vì nội dung bản
cương lĩnh đòi hỏi phải được xác minh đầy đủ về mặt lịch sử và được trình
bày mạch lạc, thì không thể nhét gọn vào trong những câu hỏi đáp như vậy
được. Ăngghen và Mác đều thống nhất cho rằng, Những nguyên lý của chủ
nghĩa cộng sản là sơ thảo đầu tiên của Cương lĩnh nhưng khi soạn thảo Văn
kiện cương lĩnh thì phải làm cho nó mang hình thức một bản Tuyên ngôn có
tính chiến đấu của đảng vô sản.
Đại hội lần thứ hai của Liên đoàn những người cộng sản họp từ ngày 9-
11 đến ngày 8-12-1847. Trong các phiên họp đã nổ ra các cuộc tranh luận
gay gắt, trong đó Mác và Ăngghen bảo vệ những nguyên lý của chủ nghĩa
cộng sản khoa học. Khi thảo luận Cương lĩnh, những nguyên lý do hai ông
nêu ra đã giành thắng lợi hoàn toàn. Mác và Ăngghen được ủy nhiệm soạn
thảo Cương lĩnh dưới hình thức một bản Tuyên ngôn.
Mác và Ăngghen đã tập trung sức lực, trí tuệ để hoàn thành Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản trong một thời gian rất ngắn. Cuối tháng 1 năm 1848
công việc đã hoàn thành và bản thảo được gửi sang Luân Đôn. Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản được xuất bản lần đầu tiên tại Luân Đôn, ra đời đúng vào
lúc có cuộc cách mạng tháng Hai năm 1848 ở Pháp. Trung tuần tháng 3 năm
1848, Pari nhận được 1.000 bản để phổ biến ở Pháp và Đức. Số bản còn lại
được gửi đi các nước khác. Tháng 4, tháng 5 năm 1848, Tuyên ngôn được in
lại một lần nữa. Ít lâu sau, Tuyên ngôn được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng ở
nhiều nước khác nhau.
Về tên gọi của Tuyên ngôn, Ăngghen đã giải thích lý do không thể gọi
đó là Tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa được vì: năm 1847, người ta thường dùng
từ "xã hội chủ nghĩa" một mặt, để gọi những người theo các hệ thống không
tưởng mà lúc đó các phái này đều đang ngắc ngoải; mặt khác, để gọi những
người xã hội chủ nghĩa tiểu tư sản không dám động đến những cơ sở của
chủ nghĩa tư bản, chữa trị cho chủ nghĩa tư bản bằng những biện pháp vá
víu. Trong cả hai trường hợp, những người này đều nằm ngoài phong trào
công nhân và muốn tìm chỗ dựa ở giai cấp "có văn hóa". Trái lại, bộ phận
công nhân tuyên bố phải cải tạo xã hội tư bản một cách căn bản thì tự mệnh
danh là những người cộng sản. Mặc dù đó mới chỉ là chủ nghĩa cộng sản còn
thô sơ nhưng đã tỏ ra khá mạnh trong giai cấp công nhân. Ăngghen nhấn
mạnh, năm 1847, chủ nghĩa xã hội có nghĩa là một phong trào tư sản, còn
chủ nghĩa cộng sản là một phong trào công nhân; do vậy các ông không do
dự khi chọn tên gọi cộng sản và từ đấy không bao giờ các ông có ý từ bỏ cái
tên gọi đó.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là bản cương lĩnh cách mạng đầu tiên
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là tác phẩm lý luận tổng kết
toàn bộ quá trình hình thành chủ nghĩa Mác, trình bày những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác, thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản.
II. NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
Tuyên ngôn được trình bày làm 4 chương, với nội dung rất phong phú
nhưng rất cô đọng.
Trong các lần tái bản, Mác và Ăngghen viết những Lời tựa có nội dung
lý luận sâu sắc, bổ sung nhiều vấn đề mà trước đó Tuyên ngôn chưa thể đề
cập được.
Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn:
Trong Lời tựa cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883, Ăngghen viết:
"Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của "Tuyên ngôn" là: trong mỗi thời đại lịch sử,
sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất Kinh
tế mà ra, - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư
tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy
tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa
những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị
trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của
họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị
bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng
khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa,
nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi bóc lột, ách
áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp...".
Tư tưởng cơ bản này quán xuyến trong toàn bộ các chương, các phần
của tác phẩm. Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt phân tích từng chương một.
Chương I: Những người tư sản và những người vô sản
Trong chương này, Mác và Ăngghen đã phân tích một cách sâu sắc và
cô đọng quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản; từ
đó các ông đã chỉ rõ: chính sự vận động nội tại, khách quan của xã hội tư bản
sẽ dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của giai cấp tư sản và thắng lợi tất yếu của giai
cấp vô sản; giai cấp vô sản là người có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư
bản và xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Các ông đã khẳng định quy luật đấu tranh giai cấp trong các xã hội có
giai cấp và các cuộc đấu tranh đó bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc cách
mạng xã hội. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai
giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau - giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc
đấu tranh giữa hai giai cấp là động lực chính của sự vận động đi lên của xã
hội. Tất nhiên, nguồn gốc sâu xa của cuộc đấu tranh đó lại nằm trong đời
sống kinh tế. Tất cả những điều đó, những nhà xã hội chủ nghĩa trước Mác
không chỉ ra được và không giải thích được.
Các ông nhấn mạnh rằng, việc xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa đã dẫn
tới sự phát triển chưa từng thấy của lực lượng sản xuất, một sự tiến bộ về
kinh tế và sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, văn hóa. Nhưng tới một giai
đoạn phát triển nhất định, cũng như đã xảy ra với các phương thức sản xuất
trước đây, những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã không còn tương
dung với những lực lượng sản xuất đã lớn mạnh; chúng bất đầu kìm hãm sự
phát triển hơn nữa của các lực lượng sản xuất này. Mác và Ăngghen viết: "Xã
hội tư sản hiện đại, với những quan hệ sản xuất và trao đổi tư sản của nó, với
chế độ sở hữu tư sản, đã tạo ra những tư liệu sản xuất và trao đổi hết sức
mạnh mẽ như thế, thì giờ đây, giống như một tay phù thủy không còn đủ sức
trị những âm binh mà y đã triệu lên... Những lực lượng sản xuất mà xã hội
sản có, không thúc đẩy quan hệ sở hữu tư sản phát triển nữa; trái lại, chúng
đã trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy, cái quan hệ sở hữu lúc đó
đang cản trở sự phát triển của chúng...".
Những cuộc khủng hoảng sản xuất "thừa” theo chu kỳ đã chứng tỏ điều
đó. Khủng hoảng sản xuất "thừa" gây ra những hậu quả tai hại ghê gớm trong
đời sống kinh tế - xã hội. Giai cấp tư sản phải đối phó với nó bằng cách: một
là, cưỡng bức phá hủy một số lớn lực lượng sản xuất; mặt khác, chiếm
những thị trường mới và bóc lột triệt để hơn những thị trường cũ. Nhưng, như
Mác và Ăngghen khẳng định, điều đó dẫn đến chỗ sửa soạn cho những cuộc
khủng hoảng toàn diện hơn và ghê gớm hơn và làm giảm bớt những biện
pháp ngăn ngừa cuộc khủng hoảng ấy.
Mọi sự đối phó điều chỉnh trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đều
không giải quyết triệt để nhưng mâu thuẫn chủ yếu của nó, không làm thay
đổi bản chất của xã hội tư bản và giai cấp tư sản. Bản thân giai cấp tư sản là
sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài và nó cũng đã đóng một vai trò
hết sức cách mạng trong lịch sử. Nhưng sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc
cách mạng tư sản, chúng lại trở thành lực lượng phản động chống lại sự tiến
bộ xã hội.
Giai cấp tư sản làm cho sản xuất mang tính chất xã hội. Nhưng chế độ
tư hữu tư bản chủ nghĩa lại mâu thuẫn không thể điều hòa với tính chất xã hội
của nền sản xuất ấy. Sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi
phải thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đó và đã chuẩn bị những tiền đề
khách quan cho quá trình đó. Mác, Ăngghen chỉ ra rằng, quá trình đó không
diễn ra một cách tự động. Người đào huyệt chôn chế độ tư bản chủ nghĩa là
giai cấp vô sản do chính xã hội tư bản đẻ ra. “Giai cấp tư sản không những đã
rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy,
- những người công nhân hiện đại, những người vô sản”.
Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau. Cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc giai cấp vô sản mới ra đời,
trải qua các giai đoạn từ tự phát đến tự giác. Mác, Ăngghen đã chỉ rõ địa vị
kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản quy định một cách khách quan sứ mệnh
lịch sử của nó. Giai cấp vô sản bao gồm những người lao động làm thuê cho
các nhà tư bản, không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động để kiếm
sống hàng ngày. Họ không những là nô lệ của giai cấp tư sản, của nhà nước
tư sản, mà hàng ngày hàng giờ còn là nô lệ của máy móc, của đốc công và
người chủ công xưởng. Giai cấp vô sản là sản phẩm của chính nền đại cộng
nghiệp, là một bộ phận của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa, đại diện cho
lực lượng sản xuất tiên tiến. Do vậy, chỉ có giai cấp vô sản mới thực sự là giai
cấp cách mạng triệt để nhất trong tiến trình giải phóng lao động, giải phóng
nền sản xuất khỏi sự kìm hãm của quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Mác, Ăngghen viết: "Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai
cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai
cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp,
giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp".
"Những người vô sản chẳng có gì là của mình để bảo vệ cả, họ phải phá hủy
hết thảy những cái gì, từ trước đến nay, vẫn bảo đảm và bảo vệ chế độ tư
hữu".
Mác và Ăngghen cũng chỉ ra rằng, phong trào vô sản có những đặc
điểm mà các phong trào thuộc các thời đại trước không thể có được. Tất cả
các phong trào từ trước đến nay trong lịch sử đều là do thiểu số thực hiện,
hoặc đều mưu lợi cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào của đại đa số
nhân dân lao động vì lợi ích của đa số nhân dân lao động. Nó không nhằm
thay thế chế độ tư hữu này bằng chế độ tư hữu khác mà nhằm xóa bỏ chế độ
tư hữu cùng với những cái gắn liền với chế độ tư hữu. Cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản mang tính chất quốc tế, mặc dù lúc đầu lại mang hình thức
dân tộc vì giai cấp vô sản ở mỗi nước trước hết phải đánh đổ giai cấp tư sản
ở ngay chính nước mình. Cuộc đấu tranh đó cuối cùng sẽ nổ ra thành một
cuộc cách mạng mà trong đó giai cấp vô sản sẽ lật đổ giai cấp tư sản bằng
bạo lực và thiết lập sự thống trị của mình.
Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, giai cấp tư sản ngày càng
bất lực, không có khả năng làm tròn vai trò giai cấp thống trị của mình nữa vì
nó không thể đảm bảo cho người nô lệ của nó ngay cả mức sinh hoạt nô lệ, vì
nó buộc phải nuôi người nô lệ chứ không phải là người nô lệ nuôi nó nữa; xã
hội không thể sống như vậy dưới sự thống trị của giai cấp tư sản được nữa.
Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, sự đoàn kết liên hợp của
công nhân ngày càng tăng lên thay cho sự cô lập và sự cạnh tranh lẫn nhau.
Do đó, chế độ làm thuê không còn điều kiện tồn tại, chủ nghĩa tư bản cũng
mất cơ sở tồn tại và sự sụp đổ của nó là không tránh khỏi.
Từ toàn bộ sự phân tích nói trên, Mác và Ăngghen đi đến kết luận:
"Như vậy là sự phát triển của đại công nghiệp đã phá sập dưới chân của giai
cấp tư sản, chính ngay cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã xây dựng lên
chế độ sản xuất và chiếm hữu của nó. Trước hết, giai cấp tư sản tạo ra
những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và
thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau".
Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản
Trong chương này, Mác và Ăngghen giải thích mối quan hệ giữa đảng
cộng sản và giai cấp vô sản, vạch rõ tính chẩt, nhiệm vụ trước mắt, mục đích
cuối cùng của đảng và những biện pháp cách mạng để thực hiện nhiệm vụ,
mục đích ấy; đồng thời các ông cũng vạch trần những luận điệu xuyên tạc
của giai cấp tư sản đối với những người cộng sản.
Các ông chỉ rõ rằng, đảng cộng sản là một bộ phận không tách rời của
giai cấp vô sản nhưng đồng thời lại là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Mục
đích và lợi ích của đảng cộng sản và giai cấp vô sản là thống nhất; đảng cộng
sản luôn luôn đại biểu cho quyền lợi của toàn thể giai cấp vô sản. Nhưng điều
đó không có nghĩa là đồng nhất đảng cộng sản với giai cấp vô sản. Sự khác
nhau là ở chỗ: về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết
nhất của giai cấp vô sản; về lý luận, những người cộng sản hơn bộ phận còn
lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vô sản.
Mục đích cuối cùng của những người cộng sản là xây dựng chủ nghĩa
cộng sản hoàn toàn với những đặc trưng cơ bản như Mác, Ăngghen đã phác
họa ở cuối chương này. Song "giai đoạn thứ nhất trong cuộc cách mạng công
nhân là giai đoạn giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị, là giai
đoạn giành lấy dân chủ". "Mục đích trước mắt của đảng cộng sản và giai cấp
vô sản là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy
chính quyền". Ở đây, Mác và Ăngghen chưa dùng khái niệm "chuyên chính vô
sản" nhưng thực ra tư tưởng về chuyên chính vô sản đã được thể hiện khá rõ
ràng.
Cuộc cách mạng chính trị của giai cấp vô sản nhằm đánh đổ giai cấp tư
sản và giành lấy chính quyền nhà nước chỉ là bước đầu của tiến trình cách
mạng vô sản. Cuộc cách mạng vô sản không chỉ là cuộc cách mạng chính trị,
mà còn là và thực chất là cuộc cách mạng về kinh tế nhằm xóa bỏ chế độ tư
hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn. Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: "giai cấp vô sản
sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư
bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào
trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành
giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất
lên". Nội dung kinh tế được Mác và Ăngghen hiểu như là nội dung cơ bản
nhất của cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa; vì thế các ông nhấn mạnh
rằng, "những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức
duy nhất là: xóa bỏ chế độ tư hữu”. Dĩ nhiên, cần hiểu điều đó theo nghĩa là
xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với tư cách là biểu hiện cuối cùng và
hoàn bị nhất của chế độ tư hữu nói chung; mở đầu thời đại cộng sản chủ
nghĩa dựa trên chế độ công hữu tư bản chủ nghĩa. Mác và Ăngghen giải thích
rõ rằng, việc xóa bỏ những quan hệ sở hữu đã có từ trước đến nay không
phải là đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản; theo các ông, "đặc trưng của chủ
nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ
chế độ sở hữu tư sản", "chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái quyền
chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền
dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác".
Trong chương này, Mác và Ăngghen đã đáp lại những luận điệu vu
khống của giai cấp tư sản đối với những người cộng sản về một loạt vấn đề
xã hội - chính trị, văn hóa tinh thần. Đồng thời, các ông cũng phác họa những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản trong việc giải quyết các vấn đề
này. Giai cấp tư sản cố gán cho nhưng người cộng sản ý đồ muốn thủ tiêu tự
do cá nhân, văn hóa, pháp luật, triết học, tôn giáo, đạo đức, muốn xóa bỏ gia
đình và tổ quốc... Các tác giả đã chỉ ra thực chất những lời vu không đó là chỉ
nhằm bảo vệ, duy trì lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ sở hữu tư sản
và việc bóc lột lao động làm thuê. Các ông đã vạch trần tội lỗi của giai cấp tư
sản, trách nhiệm của nó đối với thực trạng xã hội và khẳng định lập trường có
tính nguyên tắc của những người cộng sản là xóa bỏ tính chất tư sản cửa các
quan hệ này, thủ tiêu tận gốc rễ những cơ sở nảy sinh ra nó. Các ông khẳng
định: “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với chế
độ sở hữu cổ truyền; không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng trong tiến trình
phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ
truyền”.
Giai cấp tư sản vu cáo những người cộng sản muốn xóa bỏ tổ quốc và
dân tộc. Song vấn đề ở chỗ là trong xã hội tư bản, lợi ích của tổ quốc, của
dân tộc chính là và chủ yếu là lợi ích của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản
cũng hiểu theo nghĩa đó và run sợ trước cuộc cách mạng của giai cấp công
nhân quốc tế. Trong khi chống lại luận điệu vu cáo của giai cấp tư sản, Mác
và Ăngghen đã chỉ rõ mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc,
nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản, tính chất quốc tế của phong trào vô
sản, phạm vi của vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản. Các ông chỉ rõ
rằng, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, tự xây
dựng thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành tộc tuy không hoàn toàn theo
cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu. Các ông tuyên bố: “Hãy xóa bỏ nạn người
bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi
mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự
thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo”.
Ở giai đoạn đầu tiên, sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản
không thể không sử dụng những biện pháp kiên quyết về mọi mặt nhằm cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội cộng sản. Mác và Ăngghen nêu ra mười
biện pháp cụ thể và cho rằng có thể áp dụng ở những nước tư bản chủ nghĩa
phát triển nhất lúc bấy giờ. Đương nhiên, nhiều biện pháp có tính chất phổ
biến song có những biện pháp không thể áp dụng một cách máy móc đối với
mỗi nước cụ thể.
Trong khi nêu ra mười biện pháp cụ thể cho giai đoạn đầu của hình thái
cộng sản chủ nghĩa, đồng thời Mác và Ăngghen cũng phác họa những nét cơ
bản để tiến tới một xã hội cộng sản chủ nghĩa hoàn toàn. Các ông chỉ ra rằng:
"Nếu giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, nhất định
phải tự tổ chức thành giai cấp, nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách
mạng mà trở thành giai cấp thống trị và với tư cách là giai cấp thống trị, nó
dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũng đồng thời với việc tiêu diệt chế độ
sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện của sự đối kháng giai
cấp, nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống
trị của chính ngay giai cấp mình.
Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của
nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Mác và Ăngghen đã dành toàn bộ chương này để phân tích và phê
phán các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa phi
mácxit đang còn ảnh hưởng một cách tiêu cực vào phong trào công nhân lúc
bấy giờ.
Mác và Ăngghen chia các trào lưu tư tưởng này ra làm ba loại lớn: một
là, chủ nghĩa xã hội phản động; hai là, chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa
xã hội tư sản; ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán. Theo Mác và
Ăngghen, chủ nghĩa xã hội phản động gồm ba loại: chủ nghĩa xã hội phong
kiến; chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản; và "chủ nghĩa xã hội chân chính” Đức. Cần
chú ý rằng ở thời kỳ này, Mác và Ăngghen chưa coi chủ nghĩa xã hội tư sản
là phản động mà xem nó như là khuynh hướng bảo thủ về mặt lịch sử (muốn
duy trì chủ nghĩa tư bản chứ không kéo lùi lịch sư như chủ nghĩa xã hội tiểu
tư sản).
Trước hết, Mác và Ăngghen đã vạch trần tính chất phản động của chủ
nghia xã hội phong kiến. Tính chất phản động đó thể hiện ở chỗ nó buộc tội
giai cấp tư sản đã làm nảy sinh một giai cấp vô sản cách mạng, làm cho giai
cấp vô sản phát triển. Do vậy, trong đời sống chính trị, chúng tham gia tích
cực vào các biện pháp bạo lực chống lại giai cấp công nhân. Mác và Ăngghen
còn chỉ rõ rằng: "Chẳng khác gì thầy tu và chúa phong kiến luôn luôn tay nắm
tay cùng đi với nhau, chủ nghĩa xã hội thầy tu cũng đi sát cánh với chủ nghĩa
xã hội phong kiến".
Tính chất phản động của chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản bộc lộ ở chỗ nó
muốn duy trì chế độ sản xuất nhỏ và chế độ sở hữu nhỏ, muốn quay về với
chế độ phường hội trong công nghiệp và chế độ gia trưởng trong nông
nghiệp.
Tính chất phản động của "chủ nghĩa xã hội chân chính" Đức là ở chỗ
nó phủ nhận cuộc đấu tranh vì lợi ích của giai cấp vô sản; nó chỉ triết lý suông
về con người trừu tượng, lấy những lời lẽ ba hoa, sáo rỗng thay cho sự vận
động hiện thực của xã hội. Nó trực tiếp đại biểu cho một lợi ích phản động, lợi
ích của giai cấp tiểu tư sản, trở thành vũ khí trong tay chế độ chuyên chế
chống lại giai cấp tư sản, chống lại tự do và bình đẳng tự sản, những cái mà
chính cuộc cách mạng dân chủ tư sản đang chín muồi ở Đức cần thực hiện.
Chúng phản đối, đấu tranh cách mạng và tuyên bố đứng trên tất cả mọi cuộc
đấu tranh giai cấp.
Chủ nghĩa xã hội tư sản hay chủ nghĩa xã hội bảo thủ luôn tìm mọi cách
duy trì chủ nghĩa tư bản, bào chữa cho giai cấp tư sản, chứng minh tính hợp
lý của trật tự xã hội hiện có và do vậy, không cần đến đấu tranh cách mạng,
không cần phải thay thế xã hội này bằng xã hội khác. Theo họ, chỉ cần thay
đổi những điều kiện sinh hoạt vật chất, cải thiện về kinh tế, chữa chạy một số
thói hư tật xấu trong xã hội là có thể tạo ra được một xã hội mà trong đó giai
cấp tư sản, nhà nước tư sản sẽ thích hợp với lợi ích của giai cấp công nhân.
Mác và Ăngghen đã nhận xét một cách mỉa mai rằng "vì chủ nghĩa xã hội tư
sản nằm gọn trong lời khẳng định này; sở dĩ những người tư sản là những
người tư sản, đó là vì lợi ích của giai cấp công nhân".
Mác và Ăngghen đã phân tích, đánh giá một cách sâu sắc và đúng đắn
các trào lưu xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán cuối thế kỷ XVIII - đầu
thế kỷ XIX. Những trào lưu này đã phê phán rất sâu sắc chế độ xã hội tư sản
vùng lên đấu tranh, đã dự kiến một cách thiên tài về nhiều điểm trong mô hình
xã hội tương lai... Mác và Ăngghen đánh giá rất cao công lao của Xanh
Ximông, Phuriê, Ôoen và thừa nhận rằng các học thuyết xã hội này trở thành
một trong những nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
Nhưng những học thuyết này vẫn có những hạn chế lịch sử: đầu thế kỷ
XIX, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển đầy đủ, mâu thuẫn cơ bản giữa xã hội
tư bản với phương thức sản xuất tư bản chưa thật sự gay gắt và chín muồi,
phong trào công nhân còn chưa thoát khỏi tính tự phát… Chính vì vậy, các
học thuyết xã hội này vẫn không chỉ ra được quy luật vận động khách quan
của xã hội tư sản, không thấy được vai trò lịch sử của giai cấp công nhân,
không thấy được những biện pháp hiện thực để cải tạo xã hội tư sản thành xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Các nhà không tưởng - phê phán này vẫn hy vọng ở
tài ba của cá nhân, ở một khoa học xã hội tuyệt vời, ở một công cuộc cải cách
văn hóa giáo dục nào đó... trong việc biến đổi thực tiễn xã hội.
Ý nghĩa của chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán tỷ lệ nghịch với
sự phát triển lịch sử. Đấu tranh giai cấp càng gay gắt, càng trở nên xác định
thì mọi ảo tưởng vượt lên trên cụộc đấu tranh giai cấp đều mất hết; căn cứ
thực tiễn và lý luận. Nếu như những người sáng lập ra các học thuyết này, về
nhiều điểm là cách mạng, thì học trò của họ, trong khi vẫn giữ nguyên mọi lý
luận này đã không đếm xỉa đến những biến đổi lịch sử, lại trở thành những
người cải lương và dần dần rơi vào hàng ngũ những người xã hội chủ nghĩa
phản động hay bảo thủ.
Chương IV: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập
Trong chương này, Mác và Ăngghen đã trình bày một cách rõ ràng lập
trường chiến lược và sách lược của Đảng cộng sản. Đó là lập trường cách
mạng không ngừng, là tinh thần cách mạng triệt để, là sách lược liên minh với
các đảng dân chủ trong cuộc đấu tranh nhằm thực hiện sự tiến bộ xã hội.
Mác và Ăngghen chỉ rõ: "Những người cộng sản chiến đấu cho những
lợi ích và những mục đích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng
thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của
phong trào".
Các ông đã chỉ ra những ví dụ cụ thể ở Pháp, Thụy Sĩ, Ba Lan, Đức,
nơi mà các đảng dân chủ có những hoạt động mang tính chất dân chủ và do
vậy Đảng cộng sản liên minh với họ trong các hoạt động. Những đồng thời
Đảng cộng sản vẫn dành cho mình quyền phê phán những mặt tiêu cực của
phong trào, vẫn phải nhận rõ tính chất hạn chế của sách lược đó trong chừng
mực nhằm chống lại các thế lực phản động, vì tiến bộ xã hội.
Trong khi liên hợp với các đảng dân chủ vì mục đích chung trước mắt,
Đảng cộng sản luôn giữ vững tính độc lập về tư tưởng, chính trị và mục đích
chiến lược. Khi nói về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở Đức lúc đó, trong
điều kiện của cuộc cách mạng dân chủ tư sản đang chín muồi, Mác và
Ăngghen nhấn mạnh rằng: “Nhưng không giờ phút nào, Đảng cộng sản lại
quên gây cho công nhân một ý thức sáng suốt và rõ rệt về sự đối kháng kịch
liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì có bao nhiêu
điều kiện chính trị và xã hội do chế độ tư sản tạo ra, công nhân Đức biết đổi
thành bấy nhiêu vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để ngay sau khi tiêu diệt
xong những giai cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh chống lại
chính ngay giai cấp tư sản”.
Đồng thời các ông cũng nhấn mạnh thêm rằng: "Những người cộng sản
chú ý nhiều nhất đến nước Đức, vì nước Đức hiện đương ở vào đêm hôm
trước của một cuộc cách mạng tư sản, vì nước Đức sẽ hoàn thành cuộc cách
mạng ấy trong những điều kiện tiên tiến hơn của nền văn minh châu Âu và
với giai cấp vô sản vô cùng phát triển hơn so với nước Anh trong thế kỷ XVII
và nước Pháp trong thế kỷ XVIII, và do đấy, cách mạng tư sản Đức chỉ có thể
là màn đầu trực tiếp cho một cuộc cách mạng vô sản".
Đây là tư tưởng về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản thành
cách mạng vô sản mà sau này được Lênin phát triển một cách đầy đủ hơn.
Trong điều kiện lịch sử lúc đó, những người cộng sản ủng hộ tất cả các
phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện có và phấn đấu
cho sự đoàn kết và liên hợp với các đảng dân chủ ở tất cả các nước.
Nhưng không vì thế mà những người cộng sản lại giấu giếm ý kiến và
dự định của mình. "Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể
đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có. Mặc
cho giai cấp thống trị run sợ khi nghĩ đến một cuộc cách mạng cộng sản chủ
nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết,
ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng ấy, họ giành
được cả một thế giới cho mình.
Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”
Khẩu hiệu chiến đấu của những người cộng sản kết thúc bản Tuyển
ngôn của Đảng cộng sản, khẳng định niềm tin sắt đá vào thắng lợi tương lai
của giai cấp vô sản quốc tế và chủ nghĩa cộng sản.
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản có ý nghĩa lịch sử vô cùng
lớn lao. Đó là một văn kiện có tính chất cương lĩnh (cả về lý luận và thực tiễn)
đầu tiên của đảng cộng sản, soi sáng cho giai cấp công nhân tất cả các nước
con đường đấu tranh thoát khỏi ách nô lệ tư bản chủ nghĩa, tiến tới một xã hội
cộng sản chủ nghĩa văn minh và tốt đẹp hơn. Năm 1888, Ăngghen đã chỉ rõ
rằng: Tuyên ngôn "là tác phẩm phổ biến hơn cả, có tính chất quốc tế hơn cả
trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh chung của hàng
triệu công nhân từ Xibia đến Caliphoócnia". V.I.Lênin viết về Tuyên ngôn như
sau: "Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách: tinh thần của nó, đến
bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang
chiến đấu của thế giới văn minh".
Tác phẩm Tuyên ngôn đánh dấu sự hoàn thành quá trình hình thành
chủ nghĩa Mác trên tất cả các bộ phận cấu thành của nó. Trong tác phẩm này,
những cơ sở của chủ nghĩa Mác lần đầu tiên được trình bày một cách hệ
thống và hoàn chỉnh,
Nhận xét về nội dung của Tuyên ngôn, Lênin viết: “Tác phẩm này trình
bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy
vật triệt để - chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội -
phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về
sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng - trong lịch sử
toàn thế giới - của giai cấp vô sản, tức giai cấp sáng tạo ra một xã hội mới, xã
hội cộng sản".
Từ khi ra đời, Tuyên ngôn đã có một ảnh hưởng to lớn đến phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Ăngghen đã viết, “lịch sử của "Tuyên ngôn"
đã phản ánh được đến một mức độ nào đó lịch sử phong trào công nhân hiện
đại từ 1848 đến nay”, rằng “Tuyên ngôn" đã trở thành một chỉ số nói lên sự
phát triển của đại công nghiệp trên lục địa châu Âu. Đại công nghiệp càng tiến
triển trong một nước nào đó thì công nhân nước đó càng có xu hướng muốn
thấy rõ địa vị của mình với tính cách là giai cấp công nhân, so với các giai cấp
hữu sản; phong trào xã hội chủ nghĩa càng lan rộng trong công nhân thì
“Tuyên ngồn” càng được người ta đòi hỏi nhiều thêm”.
Tuyên ngôn đã, đang và sẽ là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành
động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản "nhằm thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Lịch sử phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế chứng thực nhận định của Ăngghen cho
rằng, bất cứ một đảng công nhân nào, hễ đi chệch cương lĩnh sách lược đó
trong hoạt động của mình thì đều phải trả ngay một giá đắt. Nhưng điều đó
không có nghĩa là sao chép máy móc các nguyên lý của Tuyên ngôn bất chấp
những biến đổi lịch sử đã diễn ra. Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử, người ta
không thể sửa đổi được, điều đó Ăngghen đã thừa nhận. Đồng thời ông cũng
chỉ rõ rằng, mặc dù hoàn cảnh lịch sử đã có nhiều thay đổi, nhưng xét về đại
thể những nguyên lý tổng quát được trình bày trong Tuyên ngôn vẫn còn
hoàn toàn đúng; ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại, cương lĩnh
này có một số điểm đã cũ... Năm 1872, các ông còn nhấn mạnh rằng, chính
ngay Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ rằng, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào,
việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương
thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu
ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng
phải viết khác đi. Kinh nghiệm Công xã Pari về chuyên chính vô sản, sự xuất
hiện những văn phẩm xã bội chủ nghĩa mới, sự xuất hiện các đảng dân chủ
mới... chưa được đề cập đến trong Tuyên ngôn.
Trong thời đại ngày nay, các thế lực phản động quốc tế đang dùng mọi
thủ đoạn để tấn công vào chủ nghĩa Mác. Lợi dụng cuộc khủng hoảng của
chủ nghĩa xã hội thế giới hiện nay, chúng ra sức phủ nhận tính đúng đắn của
các nguyên lý mácxít mà phần lớn đã được trình bày ở trong Tuyên ngôn.
Hơn lúc nào hết, Tuyên ngôn lại trở thành tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt
những người mácxít chân chính và những kẻ giả danh mácxít.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1929-1930, Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản đã được các chiến sĩ cộng sản nghiên cứu và phổ biến cho nhau.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn trung thành với
chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, với những nguyên lý của Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản nói riêng. Những thắng lợi lịch sử của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chứng tỏ rằng, Đảng ta luôn
luôn vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin,
của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản vào điều kiện cụ thể của nước ta.
B. TÁC PHẨM CỦA PH.ĂNGGHEN CHỐNG ĐUYRINH
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA CÁC TÁC PHẨM
Chống Đuyrinh hay Ông O.Đuyrinh đảo lộn khoa học là tác phẩm nổi
tiếng của Ăngghen. Công trình bút chiến chống lại Đuyrinh - nhà tư tưởng tiểu
tư sản Đức. Nội dung của tác phẩm bao gồm cả ba bộ phận cấu thành của
chủ nghĩa Mác: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
kinh tế chính trị học và lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học. Trong tác
phẩm chống Đuyrinh, Ăngghen đã trình bày những vấn đề quan trọng nhất
của triết học, của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. “Đó là một cuốn sách
có nội dung đặc biệt phong phú và bổ ích”. Việc viết tác phẩm này là một đòi
hỏi tất yếu không chỉ về mặt lý luận, mà con về mặt chính trị. Thực tế là, vào
năm 1875, Đuyrinh đã viết một loạt bài công kích gay gắt chủ nghĩa Mác.
Những quan điểm triết học của Đuyrinh là sự trộn lẫn một cách chiết trung cả
chủ nghĩa duy vật tầm thường, cả chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa duy
tâm. Điều rất nguy hiểm là sự công kích chủ nghĩa Mác mà Đuyrinh thực hiện
lại được một số thành viên của Đảng xã hội - dân chủ Đức vừa mới thành lập
đồng tình ủng hộ. Thậm chí có những người đã chuẩn bị truyền bá học thuyết
ấy. Trước tình hình đó, một sổ người bạn của Ăngghen đề nghị ông tiến hành
phê phán học thuyết của Đuyrinh trên tờ Volkssaat (Tiến lên). Để ngăn chặn
khuynh hướng chia rẽ trong Đảng và bảo vệ chủ nghĩa Mác, Ăngghen đã
nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Ặngghen phê phán tất cả các lĩnh
vực mà Đuyrinh đã đặt ra, đồng thời trình bày và phát triển những quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác. Như vậy, do nhu cầu tất yếu của phong trào cộng
sản, một tác phẩm dưới hình thức bút chiến và bách khoa về nội dung đã ra
đời.
Ăngghen bắt đầu công trình này vào giữa năm 1876. Mác đã đọc bản
thảo này và viết chương X của phần II. Từ năm 1877 đến năm 1878, tác
phẩm được công bố dưới hàng loạt bài báo trên tờ Tiến lên. Năm 1878, cuốn
sách được xuất bản toàn bộ, nhưng ngay sau đó bị cấm lưu hành.
II. NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
Ngoài phần Lời nói đầu, tương ứng với ba bộ phận cấu thành của chủ
nghĩa Mác, cuốn sách gồm ba phần: triết học; kinh tế chính trị học; chủ nghĩa
xã hội khoa học.
Trong Lời mở đầu, Ăngghen đã tóm tắt sự phát triển của triết học và chỉ
ra tính tất yếu của sự hình thành chủ nghĩa Mác, ông đã chứng minh tính quy
luật của quá trình thay thế các thời kỳ cơ bản của lịch sử triết học: phép biện
chứng tự phát thời Cổ đại - phép siêu hình thế kỷ XVH, XVIII - phép hiện
chứng: duy tâm của triết học cổ điển Đức - phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác. Ăngghen cũng chỉ ra rằng, chính sự mở rộng chủ nghĩa duy vật
để tìm hiểu lịch sử xã hội đã tạo ra cơ sở khoa học cho sự nghiên cứu
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và nghiên cứu học thuyết về giá trị
thặng dư. Hai phát minh vĩ đại của Mác (học thuyết về giá trị thăng dư và chủ
nghĩa, duy vật lịch sử) đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa
học. Ngoài ra ở phần này, Ăngghen cũng cho rằng sự phát triển của khoa học
tự nhiên và thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp là điều kiện của sự phát
triển triết học (chương 1).
Trong phần thứ nhất: Ăngghen trình bày những vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng. Trước hết, Ăngghen giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng: ý thức là
chức năng của bộ não con người và bản thân con người cũng là sản phẩm
của giới tự nhiên; các quy luật của tư duy và các quy luật của giới tự nhiên là
phù hợp với nhau; tư duy là sự phản ánh tồn tại; cơ sở hiện thực của các tiền
đề toán học và các khái niệm toán học (chương 3). Ăngghen xem xét một loạt
vấn đề về lý luận nhận thức như tính vô hạn của khả năng nhận thức và quá
trình nhận thức; sự thống nhất biện chứng giữa chân lý tuyệt đối và chân lý
tương đối (chương 3 và chương 9), tính thống nhất vật chất của thế giới
(chướng 4), tính vô cùng vô tận của thế giới trong không gian và thời gian.
Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của tồn tại (chương 5).
Ăngghen chỉ ra sự thống nhất giữa vật chất và vận động, vận động là phương
thức tồn tại của vật chất, nên vận động cũng như vật chất không bị tiêu diệt
và không do ai sáng tạo ra (chương 6); những hình thức vận động cơ bản của
vật chất (chương 6 và chương 7). Ăngghen phân loại khoa học thành ba
nhóm chính: khoa học về tự nhiên vô cơ, khoa học về các cơ thể sống và
khoa học về lịch sử. Ngoài ra, Ăngghen còn chỉ ra hai khoa học đặc biệt
nghiên cứu tư duy con người - lôgích hình thức và lôgích biện chứng, ông coi
sự tương quan giữa lỗgích hình thức và lôgích biện chứng tương tự như sự
tương quan giữa toán học sơ cấp và toán học cao cấp (chương 9). Phép biện
chứng - theo Ăngghen, không chỉ là khoa học về tư duy, mà là khoa học về
các quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và
tư duy (chương 13). Ăngghen nghiên cứu các quy luật cơ bản của phép biện
chứng: quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất và quy luật phủ định của phủ
định (chương 12 và chương 13). Trên cơ sở phép biện chứng duy vật,
Ăngghen xem xét một loạt vấn đề khác nhau của khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội như ý nghĩa thế giới quan của giả thuyết về sự hình thành Thái
dương hệ của Cantơ (chương 1 và chương 6); thuyết tiến hóa của Đácuyn
(chương 7); vai trò của thuyết tế bào và vấn đề bản chất sự sống (chương 8);
tính giai cấp của đạo đức (chương 9); vấn đề bình đẳng xã hội (chương 10);
mối quan hệ giữa tự do và tất yếu (chương 11).
Trong phần thứ hai: Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về đối tượng của
kinh tế chính trị học (chương 1); bóc trần quan điểm duy tâm coi bạo lực là
yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội; xem xét vai trò quyết định của kinh
tế đối với sự phát triển của quân đội và chính quyền; chỉ ra hai con đường
hình thành giai cấp. Ăngghen còn bàn đến vấn đề tiền đề kinh tế của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và vai trò cách mạng của bạo lực như là phương thức
để thay thế xã hội cũ bằng xã hội mới (các chương 2,3,4). Ăngghen chỉ ra
quan điểm mácxít về giá trị, về lao động giản đơn và lao động phức tạp, về tư
bản và giá trị thặng dư, về địa tô v.v. (từ chương 5 đến chương 9). Cuối cùng,
Mác trình bày một số vấn đề về lịch sử kinh tế chính trị học (chương 10).
Trong phần thứ ba: Ăngghen đã tóm tắt lịch sử và lý luận về chủ nghĩa
xã hội khoa học, đồng thời chỉ ra rằng chủ nghĩa xã hội khoa học là sự biểu
hiện về lý luận của phong trào vô sản. Ăngghen cũng phác họa những đặc
trưng cơ bản của chủ nghĩa cộng sản tương lai. Đứng trên quan điểm duy vật
về lịch sử, Ăngghen đã bóc trần mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là:
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã được xã hội hóa cao với quan hệ sản
xuất vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Con đường để giải
quyết các mâu thuẫn này, theo Ảngghen, chỉ bằng cách mạng vô sản. Bằng
bạo lực cách mạng, giai cấp vô sản giành chính quyền về tay mình, xóa bỏ
quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển cao,
chủ nghĩa xã hội từng bước xóa bỏ các mâu thuẫn xã hội khác nhau như mâu
thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn
v.v.. Sự phân biệt giai cấp trong xã hội biến mất. Cùng với điều đó, nhà nước
và tôn giáo cũng tự tiêu vong. Con người thực sự làm chủ tự nhiên và xã hội.
Nhân loại nhảy vọt từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do.
Như vậy, sau khi chỉ ra thực chất bước ngoặt trong lịch sử triết học do
Mác và Ăngghen thực hiện, Ăngghen đã gắn liền thế giới quan mácxít với
kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Khi nghiên cứu tác phẩm này, cần tập trung vào một số nội dung chủ
yếu sau:
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Trong phần triết học, khi chỉ ra những luận điểm cơ bản của thế giới
quan mácxít, Ăngghen đặc biệt chú ý đến đặc trưng biện chứng của triết học
Mác, chỉ ra sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật siêu hình.
Khi phê phán những luận điểm duy tâm của Đuyrinh cho rằng "Những
nguyên lý rút ra từ tư duy, chứ không phải từ thế giới bên ngoài, đến những
nguyên lý hình thức phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và loài người, do
đó, giới tự nhiên và loại người phải phù hợp với chúng". Ăngghen cho đây là
quan điểm hoàn toàn duy tâm, vì Đuyrinh "đặt lộn ngược sự vật và cấu tạo
thế giới hiện thực từ tư duy, từ những đồ thức, từ những phương án hay
những phạm trù tồn tại vĩnh cửu ở đâu đó trước khi có thế giới, hoàn toàn
theo kiểu của… một Hêghen nào đó". Trái lại, theo Ăngghen "đồ thức về vũ
trụ được rút ra - không phải từ bộ óc, mà chỉ nhờ bộ óc từ thế giới hiện thực".
Cùng với việc phê phán những sai lầm của Đuyrinh, Ăngghen đã tiếp
tục phát triển truyền thống duy vật trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học: vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất, giữa tư duy và tồn tại v.v..
Theo Ăngghen, những quy luật của tư duy và những quy luật của tự nhiên là
phù hợp với nhau. Ý thức và tư duy "là sản vật của bộ óc con người và bản
thân con người lại là một sản vật của thế giới tự nhiên.
Ăngghen đã mở rộng nguyên lý tư duy là sự phản ánh, tồn tại vào lĩnh
vực toán học. Khi bác bỏ quan điểm của Đuyrinh coi trọng toán học thuần túy,
lý tính chỉ đụng chạm đến những sản vật mà bản thân nó đã sáng tạo ra,
Ăngghen chỉ ra rằng: "Đối tượng của toán học thuần túy là những hình thức
không gian và những quan hệ số lượng của thế giới hiện thực, tức là một chất
liệu rất hiện thực. Việc chất liệu này xuất hiện dưới một hình thức hết sức
trừu tượng, việc đó chỉ có thể che đậy một cách yếu ớt nguồn gốc của nó từ
thế giới bên ngoài. Nhưng có thể nghiên cứu những hình thức và quan hệ ấy
trong trạng thái thuần túy của chúng thì phải hoàn toàn tách chúng ra khỏi nội
dung của chúng, gạt nội dung ấy ra coi như là một cái gì không quan trọng".
Ngoài ra, Ăngghen còn nhấn mạnh rằng chính thực tiễn là cơ sở thực sự của
sự phát triển khoa học, trong đó có toán học.
Ăngghen phê phán quan điểm siêu hình của Đuyrinh quy vận động
thành lực cơ giới và coi đó là hình thức cơ bản của vận động. Nếu như vậy,
Ăngghen cho rằng: "trước sau, chúng ta vẫn không biết lực cơ giới nằm ở
đâu trong cái trạng thái vũ trụ ấy và làm sao mà có thể chuyển được từ bất
động tuyệt đối sang vận động mà không cần đến một cái đẩy từ bên ngoài,
nghĩa là không cần đến thượng đế".
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, không có
vật chất đứng im, vận động cũng như vật chất không thể sáng tạo ra và cũng
không bị triệt tiêu đi, Ăngghen đã phân loại các hình thức vận động cơ bản
của vật chất và chỉ ra sự liên hệ giữa chúng: "Vận động trong không gian vũ
trụ, vận động cơ học của những khối nhỏ hơn trên từng thiên thể, rung động
phân tử dưới hình thức nhiệt, hay dưới hình thức dòng điện hoặc dòng từ,
phân giải hóa học và hóa hợp hóa học, đời sống hữu cơ - mỗi một nguyên tử
vật chất riêng biệt trong vũ trụ trong mỗi lúc nhất định, đều nằm dưới hình
thức này hình thức kia của những hình thức vận động ấy hoặc nằm dưới
nhiều hình thức cùng một lúc".
Trên cơ sở giải quyết một cách duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của
triết học Ăngghen cũng bàn đến nguyên lý về sự thống nhất của thế giới.
Ăngghen phê phán khi Đuyrinh có ý định biến tính duy nhất của tồn tại thành
tính thống nhất của tồn tại. Ăngghen viết: “Tính thống nhất của thế giới không
phải ở sự tồn tại của nó, mặc du tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó,
vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn
tại đã”, tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính
vật chất này được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ
làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học
và khoa học tự nhiên.
Cùng với việc coi vận động như là thuộc tính cố hữu của vật chất,
Ăngghen cũng đề cập đến không gian và thời gian, coi không gian và thời
gian gắn liền với vật chất vận động và cũng vô cùng, vô tận như vật chất vận
động. Ăngghen chỉ ra rằng: "cái vĩnh viễn trong thời gian, cái vô tận trong
không gian... là ở chỗ, ở đây không có điểm tận cùng về một phía nào cả, cả
ở đằng trước lẫn đằng sau, cả ở trên lẫn ở dưới, cả ở bên phải lẫn bên trái".
2. Một số vấn đề về phép biện chứng
Như đã nói ở trên, phép biện chứng là vấn đề trung tâm của phần Triết
học. Để chống lại Đuyrinh, Ăngghen đã chú ý đến phân tích vấn đề phép biện
chứng và áp dụng nó vào tất cả các lĩnh vực của triết học, trong đó có chủ
nghĩa duy vât lịch sử và những vấn đề triết học của khoa học tự nhiên. Trước
hết, Ăngghen coi phép biện chứng là hình thức cao nhất của tư duy khoa học
và không chỉ ra sự đối lập giữa nó với phép siêu hình. Ăngghen viết: "Đối với
nhà siêu hình học, thì những sự vật và phản ánh của chúng vào tư duy, tức là
những khái niệm, đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định,
cứng đờ, vĩnh viễn, phải được xem xét cái này sau cái kia, cái này độc lập với
cái kia".
Thế giới quan siêu hình được Ăngghen coi là điều không tránh khỏi và
sự ra đời của nó là hợp quy luật đối với một giai đoạn nhất định trong lịch sử
phát triển của nhận thức khoa học - giai đoạn nghiên cứu những chi tiết của
bức tranh toàn bộ về giới tự nhiên. "Muốn nhận thức được những chi tiết ấy,
chúng ta buộc phải tách chúng ra khỏi mối liên hệ tự nhiên hay lịch sử của
chúng, và phải nghiên cứu riêng từng chi tiết một theo đặc tính của chúng,
theo nguyên nhân và kết quả riêng của chúng, v.v.. (...) - tất cả những cái đó
đã là những điều kiện cơ bản cho những tiến bộ khổng lồ... Nhưng, phương
pháp nghiên cứu ấy đồng thời cũng truyền lại cho chúng ta một thói quen là
xem xét những vật thể tự nhiên và quá trình tự nhiên trong trạng thái biệt lập
của chúng, ở bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, và do đó không xem xét
chúng trong trạng thái vận động mà xem xét trong trạng thái tĩnh, không coi
chung về cơ bản là biến đổi, mà coi chúng là vĩnh viễn không biến đổi, không
xem xét chúng trong trạng thái sống mà xem xét chúng trong trạng thái chết".
Khi xem xét sự phát triển của thế giới quan biện chứng trong lịch sử tư
tưởng triết học, Ăngghen cũng đối lập phép biện chứng mácxít với phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Ăngghen khẳng định: "Có thể nói rằng hầu như
chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi
triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và
về lịch sử". Phép biện chứng duy vật được Ăngghen coi là sự tổng kết toàn
bộ quá trình phát triển của triết học và khoa học tự nhiên, đồng thời là sự khái
quát các quy luật khách quan của giới tự nhiên và xã hội. Khi bàn đến tính
khách quan của các quy luật biện chứng, Ăngghen chỉ ra rằng, "không thể là
đưa những quy luật biện chứng từ bên ngoài vào giới tự nhiên, mà là phát
hiện ra chúng trong giới tự nhiên và rút chúng ra từ giới tự nhiên". Và
Ăngghen coi phép biện chứng không chỉ là khoa học về tư duy, mà là "khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vân động và sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy".
Khái quát toàn bô lịch sử phát triển của triết học, khoa học tự nhiên,
khoa học lịch sử và khoa học kinh tế, trong tác phẩm này, Ăngghen chỉ ra các
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập; quy luật chuyển hóa từ những biến đổi về lượng
thành những biến đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định.
Mỗi một quy luật này phản ánh những mặt riêng lẻ của quá trình phát triển
duy nhất trong thế giới hiện thực xung quanh chúng ta.
Khi xem xét quy luật mâu thuẫn, để chỉ ra tính khách quan, tính phổ
biến của mâu thuẫn, Ăngghen đã minh họa bằng nhiều ví dụ trong những lĩnh
vực khác nhau của sự nhận thức giới tự nhiên như cơ học, toán học, sinh vật
học v.v.. Ăngghen còn coi vận động cũng có đặc trưng mâu thuẫn - thường
xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, mà điều đó với thế giới
quan siêu hình, Đuyrinh không thể hiểu nổi. Mân thuẫn biện chứng trong vận
động thể hiện trong sự đối lập và chuyển hóa giữa vận động và đứng im.
Ăngghen viết: "Theo quan điểm biện chứng, khả năng biểu hiện vận động
bằng cái đối lập với nó, tức thể tĩnh, hoàn toàn không phải là một điều gì khó
khăn cả. Theo quan điểm biện chứng, tất cả sự đối lập ấy, như chúng ta đã
thấy, đều chỉ là tương đối; không có thể tĩnh tuyệt đối, sự thăng bằng vô điều
kiện. Vận động cá biệt thì có xu hướng thăng bằng, song vận động toàn thể
thì lại loại trừ sự thăng bằng".
Khi bàn đến cái vô tận trong không gian và thời gian, Ăngghen chỉ ra
mâu thuẫn đặc trưng của cái vô tận. "Cái vô tận là một mâu thuẫn, và nó chứa
đầy những mâu thuẫn. Cái vô tận chỉ gồm những đại lượng có hạn cộng
thành cũng đã là một mâu thuẫn rồi... Chính vì cái vô tận là một mâu thuẫn
nên nó là một quá trình vô tận, diễn ra vô tận trong thời gian và trong không
gian".
Nếu như vận động cơ giới đã là một mâu thuẫn, thì các hình thức cao
khác của vận động tất yếu cũng phải chứa mâu thuẫn. Cho nên khi coi mâu
thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của thế giới các
sự vật, Ăngghen viết: “Sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân
các sự vật và các quá trình, không ngừng tự nảy sinh rà và tự giải quyết; và
khi mâu thuẫn ấy chấm dứt thì sự sống cũng không còn nữa và cái chết xảy
đến”.
Khi thừa nhận mâu thuẫn là phổ biến trong hiện thực khách quan thì tất
yếu trong tư duy không tránh khỏi mâu thuẫn. Ăngghen chỉ ra mâu thuẫn
trong tư duy đó là mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô hạn ở bên trong con
người với năng lực thực tế của con người “bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên
ngoài và đang nhận thức một cách hạn chế”. Mâu thuẫn trên sẽ được giải
quyết trong sự nối tiếp nhau vô tận của các thế hệ.
Trên cơ sở phân tích quy luật phát triển bằng còn đường đấu tranh
giữa các mật đối lập, Ăngghen xem xét mối tương quan giữa lôgích hình thức
và lôgích biện chứng, Ăngghen viết: "Chừng nào chúng ta xem xét các sự vật
như là tĩnh và không có sinh khí, mỗi cái đều tách riêng, cái này bên cạnh cái
kia và cái này nối tiếp cái kia thì chắc chắn là chúng ta không gặp phải một
mâu thuẫn nào trong các sự vật ấy cả.... Trong giới hạn của sự xem xét thuộc
loại này thì chúng ta cũng giải quyết được bằng phương pháp tư duy thông
thường, phương pháp siêu hình". Nhưng khi xem xét các sự vật trong sự vận
động và phát triển, thì chúng ta sẽ gặp phải mâu thuẫn. Lúc này, phản ánh và
giải quyết mâu thuẫn đó chỉ có thể bằng tư duy biện chứng, lôgích biện
chứng. Ăngghen coi sự tương quan giữa lôgích hình thức và lôgích biện
chứng tương tự như tương quan giữa toán học về cái đại lượng không đổi và
toán học về các đại lượng biến đổi.
Tương tự như quy luật mâu thuẫn, quy luật chuyển hóa từ những biến
đổi về lượng thành những biến đổi về chất và ngược lại cũng có tính khách
quan và phổ biến. Bằng các ví dụ trong các lĩnh vực khoa học khác nhau và
thực tiễn xã hội; Ăngghen chỉ ra bản chất của quy luật lượng-chất là ở chỗ
trong thế giới hiện thực sự thay đổi về chất là kết quả của những sự thay đổi
về lượng. Quá trình chuyển hóa từ chất này sang chất khác là sự đứt đoạn
trong liên tục, là sự nhảy vọt về chất. Song, đồng thời với quá trình trên, cũng
diễn ra quá trình ngược lại, chuyển hóa từ sự biến đổi về chất thành sự biến
đổi về lượng. Ăngghen viết: "Sự thay đổi về lượng làm thay đổi chất của các
sự vật cũng như sự thay đổi về chất làm cho lượng của sự vật thay đổi".
Về quy luật thứ ba của pbép biện chứng - quy luật phủ định của phủ
định, Ăngghen cũng rất chú ý chỉ ra tính khách quan và phổ biến của nó trong
tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Chính quy luật phủ định của phủ định đã
chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển - sau mỗi lần phủ định của phủ định sự
vật ngày càng hoàn thiện hơn. Bản chất của quy luật phủ định của phủ định,
theo Ăngghen, là ở chỗ cái mới dường như trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở
cao hơn. Với ví dụ về sự phát triển của hạt lúa mì, Ăngghen minh họa sự tác
động của quy luật này trong lĩnh vực thế giới hữu cơ, cũng như trong các
ngành hóa học, địa chất học, toán học, triết học, và cả lịch sử xã hội nữa - sự
thay thế các chế độ sở hữu từ chế độ công hữu sang chế độ tư hữu (chế độ
tư hữu phủ định chế độ công hữu) và cuối cùng lại trở về chế độ công hữu
nhưng trên cơ sở cao hơn (phủ định của phủ định). Cuối cùng, Ăngghen kết
luận: "Vậy phù định cái phủ định là gì? Là một quy luật phát triển cực kỳ phổ
biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và một ý nghĩa cực kỳ to lớn,
của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy; một quy luật, như ta đã thấy, có giá trị
trong giới động vật và thực vật, trong địa chất học, toán học, lịch sử, triết học".
Ăngghen cũng chỉ ra sự khác nhau cơ bản giữa phủ định biện chứng và phủ
định siêu hình. “Phủ định trong phép biện chứng không phải chỉ có nghĩa là
nói: không, hoặc giả tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự
vật ấy theo một cách não đó”... mà phủ định biện chứng là sự phủ định gắn
liền với sự phát triển, là sự kế thừa lịch sử của cái mới đối với cái cũ.
Nói tóm lại, ba quy luật trên là ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Chúng tác động trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
3. Một số vấn đề về lý luận nhận thức
Trong tác phẩm này, Ăngghen rất chú ý áp dụng phép biện chứng vào
lý luận về nhận thức. Bác bỏ quan điểm siêu hình của Đuyrinh coi nhận thức
như là sự nhận biết các chân lý tối cao, tuyệt đối, Ăngghen cho rằng tư duy
cũng chịu sự tác động của các quy luật biện chứng, vì đó là sự phản ánh giới
tự nhiên phát triển vĩnh viễn với vô vàn các mối liên hệ đa dạng. Hơn nữa, tư
duy là thuộc tính của bộ não con người, nên nó mang tính lịch sử xã hội, phụ
thuộc vào trình độ phát triển cụ thể của loài người. Và bản thân tư duy, chúng
ta cũng nhận thấy sự mâu thuẫn - "tư duy của con người vừa là tối cao vừa là
không tối cao, và khả năng nhận thức của con người vừa là vô hạn vừa, là có
hạn. Tối cao và vô hạn - xét theo bẩm tính, sứ mệnh, khả năng và mục đích
lịch sử cuối cùng; không tối cao và có hạn - xét theo sự thực hiện cá biệt và
thực tế trong mỗi một thời điểm nhất định". Mâu thuẫn này, theo Ăngghen, chỉ
có thể giải quyết được bằng quá trình tiến lên vô tận của các thế hệ loài
người.
Trên cơ sở đó, Ăngghen phân tích phép biện chứng giữa chân lý và sai
lầm, chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Về vấn đề biện chứng giữa chân
lý và sai lầm, Ăngghen viết: "Chân lý và sai lầm, cũng giống như tất cả những
tính quy định của tư duy đang vận động trong những mặt đối lập hoàn toàn,
chỉ có giá trị tuyệt đối trong một phạm vi cực kỳ hạn chế". Bằng nhiều ví dụ
trong khoa học tự nhiên và lịch sử, Ăngghen bác bỏ luận điểm của Đuyrinh về
những chân lý bất biến và tuyệt đỉnh cuối cùng, ông nhấn mạnh đến đặc trưng
tương đối của nhận thức. "Còn kẻ nào đem vận dụng tiêu chuẩn của một
chân lý thật sự, bất biến, tuyệt đỉnh cuối cùng, vào những tri thức do chính
bản chất của chúng mà hoặc vẫn phải mang tính chất tương đối đối với một
chuỗi dài những thế hệ và phải được hoàn thiện dần từng mảnh một, hoặc
thậm chí - như trong thiên thể học, địa chất học, lịch sử nhân loại - phải mãi
mãi là thiếu sót và không hoàn thiện chỉ vì một lý do là thiếu tài liệu lịch sử, -
thì kẻ đó chỉ chứng tỏ sự ngu dốt và thiếu hiểu biết của bản thân". Như vậy,
theo ý kiến của Ăngghen, nhận thức của con người là vô hạn theo bản tính
của nó, nhưng lại có hạn trong mỗi một giai đoạn lịch sử và đối với mỗi con
người cụ thể.
Còn về "cái chân lý vĩnh cửu", mà được Đuyrinh coi việc phát hiện ra
chúng là nhiệm vụ chính của nhận thức, thì Ăngghen cho đó chỉ là những
chân lý của sự kiện và là điều nhạt nhẽo, nhàm tai thuộc loại tồi nhất, ví dụ
như các luận điểm: "nói chung không có lao động thì người ta không thể sống
được", "người ta cho đến nay thường chia ra thành kẻ thống trị và kẻ bị thống
trị", "Napôlêông chết ngày 5 tháng 5 năm 1821". Trong thực tế, các khoa học
khác nhau, các chân lý vĩnh cửu không phải là mục đích chính của nhận thức
và cũng không thể làm được điều đó. Ăngghen viết: "Nếu nhân loại đạt tới
chỗ chỉ vận dụng toàn những chân lý vĩnh cửu, những kết quả của tư duy có
giá trị tối cao và có quyền tuyệt đối nắm chân lý, thì điều đó có nghĩa là nhân
loại đã tới một điểm mà tính vô tận của thế giới tri thức đã cùng kiệt xét về
mặt hiện thực cũng như về mặt tiềm năng, và như thế là đã thực hiện được
cái điều thần kỳ nổi tiếng là đếm được sự hằng hà vô số".
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Dưới hình thức bút chiến, Chống Đuyrinh là một tác phẩm tổng kết toàn
diện sự phát triển của chủ nghĩa Mác.
Trong tác phẩm này, lần đầu tiên Ăngghen trình bày một cách hoàn
chỉnh thế giới quan mácxít: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, khoa kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Ông chỉ ra mối
liên hệ không thể tách rời và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa, ba bộ phận cấu
thành chủ nghĩa Mác.
Với tác phẩm của mình, Ăngghen trực tiếp tham gia vào các cuộc tranh
luận trong phong trào công nhân Đức xung quanh các vấn đề cơ bản về thế
giới quan và chính trị. Tác phẩm Chống Đuyrinh đã góp một phần quyết định
vào thắng lợi của chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân.
BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Cùng với tác phẩm Chống Đuyrinh (1878), tác phẩm Biện chứng của tự
nhiên (1873-1886) được viết sau Công xã Pari. Sự thất bại của Công xã Pari
đánh dấu một thời kỳ đi xuống tạm thời của phong trào đầu tranh của giai cấp
vô sản, nhưng cũng đem lại những kinh nghiệm quý báu cho giai cấp vô sản.
Sự thất bại của Công xã Pari còn là cơ sở thực tiễn xã hội giúp cho Mác và
Ăngghen khái quát và phát triển lý luận của mình.
Trong những năm 70 của thế kỷ XIX, những vấn đề triết học của khoa
học tự nhiên bắt đầu trở thành trung tâm chú ý của các nhà sáng lập ra chủ
nghĩa Mác. Có thể nhận thấy những lý do sau đây làm cho Mác và Ăngghen
tăng cường nghiên cứu các vấn đề triết học của khoa học tự nhiên:
Thứ nhất, sự phát triển của triết học Mác đòi hỏi phải xem xét toàn diện
mọi cơ sở của nó, trong đó có khoa học tự nhiên.
Thứ hai, thời kỳ này có hàng loạt các phát minh khoa học lớn, tạo ra
bước ngoặt trong sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải đánh giá ý
nghĩa triết học của chúng.
Thứ ba, thời kỳ này cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra gay gắt trong lĩnh
vực khoa học tự nhiên. Đa số các nhà khoa học tự nhiên còn bị "cầm tù" bởi
thế giới quan siêu hình và rất xa lạ với phép biện chứng. Cần phải khắc phục
trở ngại đó trên con đường phát triển của nhận thức khoa học.
Cuối cùng, cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm đủ mọi màu sắc
trong khoa học tự nhiên thời kỳ này có ý nghĩa to lớn để bảo vệ những
nguyên lý triết học cơ bản của chủ nghĩa Mác. Ngoài các khuynh hướng mê
tín dị đoan như thuật gọi hồn của Valátxơ, Cơrúccơ, các khuynh hướng bất
khả tri luận như chủ nghĩa Cantơ mới ở Đức, chủ nghĩa Hium ở Anh khá phát
triển. Hơn nữa, trong ý thức của các nhà khoa học tự nhiên, bất khả tri luận
còn liên kết chặt chẽ với chủ nghĩa cơ giới máy móc như ở nhà vật lý học
Hemhôn, nhà sinh học Hếcken v.v..
Như vậy, nhiệm vụ của cuộc đấu tranh chống lại những tư tưởng thù
địch đòi hỏi chủ nghĩa Mác phải tiến hành cả trong lĩnh vực khoa học tự
nhiên. Hơn nữa, cũng phải thấy rằng, các thành tựu của khoa học tự nhiên
thời kỳ này là những khẳng định cho các quan điểm duy vật biện chứng về
giới tự nhiên và đòi hỏi các nhà khoa học tự nhiên cần phải nắm vững những
quan điểm duy vật biện chứng một cách có ý thức. Đó chính là mục đích của
cuốn Biện chứng của tự nhiên.
Những tư tưởng triết học trong khoa học tự nhiên của chủ nghĩa Mác
đã có từ những năm 50 của thế kỷ XIX, nhưng đến năm 1870 mới được
Ăngghen nghiên cứu một cách hệ thống. Từ năm 1873 Ăngghen tiến hành thu
thập các tài liệu, viết các bài báo riêng lẻ cho tác phẩm biện chứng của tự
nhiên và đạt được một số kết quả nhất định. Song, do những lý do khách
quan nên tác phẩm chưa hoàn thành. Từ tháng 5-1876 đến tháng 5-1878,
theo đề nghị của Mác, Ăngghen dừng lại để viết tác phẩm Chống Đuyrinh. Từ
tháng 5-1878, Ăngghen lại tiếp tục viết Biện chứng của tự nhiên. Ngày 24-3-
1883, Mác mất, Ăngghen lại dừng công trình này để chuyển sang hoàn thành
nốt tập II và tâp III của bộ Tư bản mà Mác viết còn dang dở. Năm 1925, 30
năm sau khi Ăngghen qua đời, lần đầu tiên tác phẩm Biện chứng của tự nhiên
được xuất bản ở Liên Xô.
Mặc dù tác phẩm chưa hoàn thành, nhưng Biện chứng, của tự nhiên đã
là một tác phẩm có giá trị của chủ nghĩa Mác.
II. NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm gồm bốn phần:
Những sơ thảo đề cương; Các chương; Bút ký và đoạn ngắn; Tên và
mục lục của các xấp bản thảo.
Phần Các chương và phần Bút ký và đoạn ngắn chứa đựng toàn bộ tư
tưởng của tác phẩm.
Khi nghiên cứu tác phẩm này, cần tập trung vào một số nội dung chủ
yếu sau.
1. Tư tưởng về tính thống nhất vật chất của thế giới. Học thuyết về vận động và các hình thức vận động cơ bản của vật chất
Cũng như trong các tác phẩm Chống Đuyrinh, Lútvích Phoiơbắc và sự
cáo chung của triết học cổ điền Đức, trong tác phẩm Biện chứng của tự
nhiên, Ăngghen nghiên cứu một cách toàn diện vai trò của các khoa học tự
nhiên trong việc chứng minh cho nguyên lý và sự thống nhất vật chất của thế
giới. Ăngghen đã chỉ ra rằng, trong thời kỳ này sự xuất hiện hàng loạt phát
minh vĩ đại của khoa học tự nhiên đã hình thành nên quan điểm tổng quát về
giới tự nhiên như là cái toàn vẹn. Sự thống nhất của giới tự nhiên không phải
là sự đồng nhất tuyệt đối, mà là sự thống nhất của những cái đa dạng, khác
biệt về chất lượng. Ăngghen đã chỉ ra cơ sở của những cái khác biệt ấy như
sau: "Tất cả những sự khác nhau về chất trong giới tự nhiên đều dựa hoặc là
trên thành phần hóa học khác nhau, hoặc là trên những số lượng hay hình
thức vận động (năng lượng) khác nhau, hoặc như trong hầu hết mọi trường
hợp, đều dựa trên cả hai cái đó". Sự khác biệt về chất giữa các hợp chất hóa
học được quy định bởi số lượng và các nhóm nguyên tử của các nguyên tố
tham gia vào hợp chất; sự khác biệt giữa các trạng thái: khí, lỏng, rắn của vật
thể là do số lượng của nó; sự khác biệt về chất giữa thể vô cơ và sự sống là
ở các hình thức vận động tương ứng v.v.. Trong tất cả các trường hợp ấy,
Ăngghen chú ý nhiều đến sự khác biệt cơ bản giữa các dạng vật chất cụ thể
trong thế giới vật chất. Sự khác biệt của các dạng vật chất cụ thể là do các
hình thức vận động của chúng quy định. Quan điểm siêu hình không thể nhận
thấy điều ấy, nên đã quy sự đa dạng chất lượng của các hình thức vận động
của vật chất vào hình thức vận động cơ giới, Ăngghen viết: "Các nhà khoa
học tự nhiên cho rằng vận động là đồng nhất với vận động cơ giới, với sự
thay đổi vị trí, và họ cho rằng đó là một điều dĩ nhiên" . Ông cho đó là một hạn
chế do lịch sử của nhận thức khoa học thế kỷ XVIII quy định và ông cũng
nhắc lại quan điểm duy vật biện chứng về vân động: "Vận động, đem ứng
dụng vào vật chất, thì có nghĩa là sự biển hóa nói chung". Trên cơ sở thừa
nhận vận động là thuộc tính chung của vật chất, là sự biến đổi nói chung,
Ăngghen chỉ ra các hình thức vận động cơ bản, tương ứng với các dạng cụ
thể của vật chất như: vận động cơ giới của các khối lượng trên địa cầu, của
các thiên thể; vận động vật lý - của các phân tử; vận động hóa học - của các
nguyên tử. Ăngghen cũng tiên đoán ra sự vận động của các hạt vật chất nhỏ
hơn nguyên tử - những hạt ête, mà theo quan điểm hiện đại đó là trường điện
tử.
Ngoài các hình thức vận động cơ bản đặc trưng cho giới vô cơ, Ăngghen
cũng đề cập đến hình thức vận động sinh vật với vật mang tương ứng - phân
tử anbumin.
Khỉ righĩên cứu các hình thức vận động cơ bản của vật chất, Ăngghen
rất chú ý đến sự khác biệt giữa chúng, trong đó hình thức vận động cơ giới là
đơn giản nhất, còn hình thức vận động sinh vật và hình thức vận động xã hội
là cao nhất, là phức tạp nhất. Điều đó thể hiện ở tư tưởng của Ăngghen về sự
phân ngành của khoa học tự nhiên, Ăngghen viết: “Đương nhiên, nghiên cứu
bản chất của sự vận động phải bất đầu từ những hình thức thấp nhất, đơn
giản nhất của sự vận động ấy và phải học tập để hiểu được những hình thức
ấy rồi mới có thể đạt tới một kết quả nào đấy trong việc giải thích những hình
thức cao và phức tạp hơn. Như vậy, chúng ta thấy rằng trong sự phát triển
lịch sử của khoa học tự nhiên, lý luận về sự thay đổi vị trí đơn giản, cơ học
của các thiên thể và các khối lượng trên địa cầu đã được nghiên cứu trước
tiên; sau đó là lý luận về sự vận động của các phân tử, tức vật lý học, và ngay
sau đó... là khoa học về sự vận động của các nguyên tử, tức hóa học. Chỉ khi
nào các ngành tri thức khác nhau ấy về những hình thái vận động thống trị
trong thế giới vô sinh đã phát triển tới một mức cao, thì người ta mới có thể
giải thích một cách có hiệu quả những hiện tượng của vận động biểu hiện quá
trình sự sống”.
Khi nhấn mạnh đến sự khác biệt của các hình thức vận động cơ bản
của vật chất, Ăngghen cũng chỉ ra sự chuyển hóa giữa chúng. Ăngghen đã
dựa trên quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng để giải thích sự chuyển
hóa của các hình thức vận động. "Vận động cơ giới của các khối lượng
chuyển hóa thành nhiệt, thành điện, thành từ; nhiệt và điện chuyển hóa thành
phân giải hóa học; và ngược lại, quá trình hóa hợp hóa học lại sinh ra nhiệt và
điện và thông qua điện mà sinh ra từ; cuối cùng nhiệt và điện lại sinh ra vận
động cơ giới của các khối lượng. Và sự chuyển hóa đó diễn ra như sau: một
số lượng nhất định của một hình thức vận động bao giờ cũng tượng ứng với
một lượng chính xác nhất định của một hình thức vận động khác", Khi coi
năng lượng là thước đo của vận động, Ăngghen đã bổ sung thêm một cách
đo nữa, ngoài cách đo của Đềcác về "số lượng của vận động". Số lượng của
vận động theo Đềcác (E=mv) được bảo toàn trong vận động cơ học, trong đó
không có sự chuyển hóa sang hình thức vận động khác. Nhưng khi chuyển
sang hình thức vận động khác, thì theo Ăngghen số lượng của vận động
không phải bằng mv nữa, mà bằng mv2/2. Cho nên Ăngghen giải thích năng
lượng là độ đo của vận động bằng mv2/2, khi hình thức vận động này chuyển
hóa sang hình thức vận động khác. Ăngghen khẳng định: "Như thế là chúng
ta thấy rằng vận động cơ giới chắc chắn là có hai cách đo... Nếu một sự vận
động cơ giới sẵn có được truyền đi mà vẫn giữ nguyên trạng thái là vận động
cơ giới thì nó sẽ truyền đi theo như công thức khối lượng nhân với tốc độ.
Nhưng nếu vận động cơ giới đó được truyền đi mà không còn giữ hình thức
là vận động cơ giới nói…, tóm lại nó lại chuyển hóa thành một hình thức vận
động khác, thì số lượng của hình thức vận động mới ấy sẽ tỷ lệ với tích của
khối lượng được chuyển động trước kia nhân với bình phương của vận tốc.
Như vậy, để đo vận động không thể chỉ chú ý đến số lượng, mà phải chú ý
đến cả chất lượng của nó.
Trên cơ sở về sự khác biệt về vật chất của các hình thức vận động cơ
bản của vật chất, Ăngghen phê phán quan điểm siêu hình quy các hình thức
vận động cao vào các hình thức thấp, quy sự khác nhau về chất lượng vào
sự khác nhau về số lượng. Quan điểm này, theo Ăngghen, không tránh khỏi
dẫn đến quan niệm cơ giới về vật chất. Ăngghen viết: "Nếu tất cả những sự
khác nhau và những sự biến đổi về chất lượng đều có thể quy thành những
sự khác nhau và sự biến đổi về số lượng, thành một sự thay đổi cơ giới về vị
trí thì tất nhiên chúng ta sẽ đi đến một nguyên lý cho rằng vật chất là gồm
những hạt nhỏ đồng nhất".
Ăngghen cũng phê phán sự lạm dụng phạm trù lực để giải thích các
quá trình vật lý, hóa học và sự sống. Ông coi đây là “một câu trống rỗng”.
Trên cơ sở tư tưởng về sự chuyển hóa các hình thức vận động cơ bản,
Ăngghen đã phê phán thuyết “chết nhiệt” của Cơlauđiuxơ. Vào những năm 60
của thế kỷ XIX Cơlauđiuxơ đã đưa ra nguyên lý thứ hai của nhiệt động lực
học - quy luật tăng entrôpi trong những quá trình không thuận nghịch. Thực
chất của nguyên lý này là, những hình thức khác của năng lượng biến thành
nhiệt - năng lượng của sự vận động vô trật tự của các hạt nhỏ bé, dễ dàng
hơn so với quá trình thuận nghịch. Rõ ràng rằng nhiên liệu cháy trong động
cơ không thể chuyển hoàn toàn thành vận động cơ giới hay là điện. Nhiệt
lượng dễ dàng chuyển từ vật thể nóng hơn sang vật thể nóng ít hơn và
Cơlauđiuxơ đã kết luận: Quá trình chung của sự phát triển thế giới sẽ làm
tăng lượng nhiệt phân tán trong không gian vũ trụ và điều đó sẽ làm các vì
sao nguội lạnh đi dẫn đến "sự chết nhiệt của vũ trụ". Nhiệt lượng sẽ được cân
bằng trong không gian vũ trụ và điều đó sẽ làm cho các hình thức cao của thế
giới vật chất, trước hết là sự sống sẽ không tồn tại đươc. Như vậy,
Cơlauđiuxơ đã coi vũ trụ là một hệ thống có hạn.
Phê phán Cơlauđiuxơ, Ăngghen đã chỉ ra quan điểm siêu hình về sự
kết thúc của vũ trụ, quan điểm đó sẽ dẫn đến chủ nghĩa duy tâm, Ăngghen
viết: "Trước hết, cái đồng hồ vũ trụ phải được lên giây, rồi sau đó nó sẽ chạy,
cho tới khi nó đạt đến trạng thái cân bằng; và từ lúc này trở đi, chỉ có phép
mầu mới có thể làm cho nó thoát khỏi trạng thái đó và chạy lại được. Năng
lượng hao phí để lên giây nó đã mất đi, ít nhất là về mặt chất lượng và nó chỉ
có thể được khôi phục bằng một cái đẩy từ bên ngoài", và Ăngghen coi đây là
điều vô lý. Và "thuyết chết nhiệt của vũ trụ" là hoàn toàn mâu thuẫn với định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Ăngghen tin tưởng rằng, sau này
khoa học sẽ tìm ra phương pháp để nhiệt đã bức xạ ra sẽ được tập trung lại
và hoạt động trở lại. Ăngghen viết, “nhiệt năng tỏa ra trong không gian tất
nhiên phải có khả năng chuyển hóa thành một hình thức vận động khác, -
chuyển hóa bằng cách nào, điều đó các nhà khoa học tự nhiên sau này sẽ có
nhiệm vụ xác định - dưới hình thức vận động mới ấy, nó lại có thể tập trung
lại và hoạt động trở lại được”.
Nếu như, khi xem xét sự khác biệt về chất của các hình thức vận động
cơ bản của vật chất, Ăngghen chỉ ra sự phân ngành của các khoa học, thì khi:
xem xét sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức vận động, Ăngghen đã
chỉ ra quá trình liên ngành của các khoa học. Ví dụ: khi xem xét các lĩnh vực
giáp ranh giữa vật lý học và hóa học, Ăngghen đã viết: "Ở điểm tiếp xúc giữa
khoa học phân tử và khoa học nguyên tử, cả hai ngành đều tuyên bố rằng
mình không có thẩm quyền, nhưng chính đó là nơi người ta phải chờ đợi
những thành quả to lớn nhất".
Như vậy, dựa trên phát minh định luật bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng và các phát minh khác, Ăngghen đã chứng minh luận điểm về giới tự
nhiên là cái toàn vẹn phân hóa. Đây là bức tranh khoa học về thế giới vật chất
và theo Ăngghen tiên đoán, bức tranh đó, cùng với sự phát triển của nhận
thức, khoa học sẽ thay đổi và hoàn thiện hơn.
2. Tư tưởng của Ăngghen về sự phát triển của giới tự nhiên, nguồn gốc sự sống, con người và ý thức
Đây là một trong những tư tưởng quan trọng nhất của tác phẩm Biện
chứng của tự nhiên. Trong tác phẩm này, Ăngghen đã chống lại quan điểm
siêu hình bất di, bất dịch của giới tự nhiên. Trên cơ sở “những phát minh vĩ
đại trong thời kỳ này như: giả thuyết về sự hình thành và phát triển của trái
đất và hệ mặt trời của Cantơ (1775); thuyết tiến hóa địa chất của Lâyen; định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lương của Mâyơ, Giulơ, Côndinh (1842);
học thuyết về tế bào của Svan và Slâyđen; học thuyết tiến hóa của Đácuyn
(1859), Ăngghen đã chỉ ra tính vô căn cứ của quan điểm siêu hình về giới tự
nhiên và cho rằng, các phát minh khoa học trên đã chỉ rõ quá trình biện chứng
của giới tự nhiên. Ăngghen đã phác họa ra bức tranh tiến hóa của thế giới vật
chất bắt đầu từ tư tưởng về sự phát triển của hệ mặt trời và vũ trụ. Ăngghen
viết: "Chính từ những đám hơi cháy trắng cuồn cuộn... mà từ đó hằng hà sa
số mặt trời và hệ thống mặt trời... đã phát triển thành, do co bóp lại và nguội
dần đi. Dĩ nhiên là sự phát triển ấy không phải đã diễn ra ở chỗ nào cũng theo
cùng một tốc độ như nhau". Thời gian này, theo Ăngghen, hình thức vận động
nhiệt chiếm ưu thế. Cùng với sự nguội đi, thì hình thức vận động vật lý bắt
đầu phát huy tác dụng. Kế tiếp là quá trình phân hóa các nguyên tố và hóa
hợp các nguyên tố ấy - hình thức vận động vật lý chuyển hóa sang hình thức
vận động hóa học. Và trong điều kiện nhất định thể anbumin hình thành - hình
thức vận động hóa học chuyển hóa thành hình thức vận động sinh vật. Từ thể
anbumin hình thành nên tế bào và trên tế bào đầu tiên ấy xuất hiện thực vật
và động vật. Các loại thực vật và động vật tiếp tục phát triển "để rồi sau cùng
đi đến cái hình thái mà trong đó hệ thống thần kinh đạt tối trình độ phái triển
đầy đủ nhất, tức là hình thức các loài có xương sống, và cuối cùng loài này lại
phát triển đến hình thức một loài có xương sống mà trong đó giới tự nhiên đạt
tới trình độ tự nhận thức được mình: đó là con người"1 - hình thức vận động
sinh vật chuyển hóa thành hình thức vận động xã hội. Từ thời Ăngghen đến
nay, mặc dù bức tranh chung về sự phát triển của giới tự nhiên đã được khoa
học tự nhiên làm rõ hơn về chi tiết, song về cơ bản bức tranh tiến hóa tổng
hợp ấy của Ăngghen vẫn được bảo toàn.
Ngoài quan điểm chung về quá trình tiến hóa của giới tự nhiên,
Ăngghen còn dành nhiều chú ý đến vấn đề nguồn gốc sự sống, nguồn gốc
loài người. Khi nghiên cứu vấn đề nguồn gốc Sự sống, Ăngghen nhấn mạnh
đến điều kiện trái đất và nguồn gốc hóa học của quá trình hình thành sự sống:
do hóa học sáng tạo ra được anbumin, nên quá trình hóa học sẽ vượt khỏi
khuôn khổ của nó..., tức là nó bước vào một lĩnh vực có nội dung phong phú
hơn - lĩnh vực của sự sống hữu cơ.
Ăngghen chống lại quan điểm duy tâm tôn giáo đã phủ định sự khác
nhau về chất giữa sự sống và không sống nhằm chứng minh vai trò của
Thượng đế sáng tạo ra sự sống. Đồng thời Ăngghen cũng phê phán thuyết tự
sinh. Ông cho rằng, thật là điên rồ nều tưởng rằng đã dùng một ít nước thối
mà có thể bắt buộc giới tự nhiên, trong 24 tiếng đồng hồ, phải làm một công
việc mà nó đã phải mất hàng triệu năm mới hoàn thành được". Ông đã sử
dụng phát minh mới nhất của Paxtơ để bác bỏ quan điểm ở trên và khẳng
định nguồn gốc hóa học của quá trình hình thành sự sống trên trái đất.
Ngoài ra, Ăngghen cũng phê phán thuyết du nhập sự sống từ không
gian vũ trụ của Libic, Hemhôn. Theo Ăngghen, ngoài không gian vũ trụ không
thể có các điều kiện cần thiết cho thể anbumin tồn tại và hoạt động. Ăngghen
cũng bày tỏ hy vọng rằng, hóa học hữu cơ có thể tổng hợp được chất
anbumin và từ đó tạo nên các tế bào và cơ thể (hy vọng đó dựa trên cơ sở
thực tế là năm 1828 người ta đã tổng hợp được chất hữu cơ là urê). Bản chất
của sự sống, theo Ăngghen, "là phương thức tồn tại của các thể anbumin mà
yếu tố quan trọng của nó là sự trao đổi thường xuyên chất với tự nhiên bên
ngoài bao quanh nó". Lời tiên đoán đó của Ăngghen đến nay chưa trở thành
hiện thực, mặc dù khoa học hiện đại đã tổng hợp được nhiều loại prôtít phức
tạp như: ADN, ARN v.v.. nên vấn đề bản chất của sự sống và việc tổng hợp
nhân tạo sự sống vẫn còn là vấn đề tương lai của nhận thức khoa học.
Ngoài vấn đề nguồn gốc và bản chất sự sống, Ăngghen còn đem lại
một đóng góp to lớn cho kho tàng tri thức của nhân loại - những tư tưởng về
nguồn gốc loài người. Đácuyn trong tác phẩm Nguồn gốc loài người đã chỉ ra
khởi nguyên sinh vật của con người, song, Đácuyn và học trò của ông không
thấy được vai trò quyết định của lao động trong quá trình biến vượn thành
người và do đó không thấy được sự khác biệt cơ bản giữa động vật và con
người. Ăngghen đã tiến xa hơn Đácuyn, khi khẳng định vai trò của lao động
trong việc biến vượn thành người. Ăngghen viết: "Các nhà kinh tế chính trị
khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải… Nhưng lao động
còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa. Lao động là điều kiện cơ bản
đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế... chúng ta phải nói: lao
động đã sáng tạo ra bản thân con người".
Vai trò quyết định của lao động đối với quá trình biến vượn thành người
thể hiện ở những điều sau đây:
Thứ nhất, lao động đã làm cho bàn tay con người hoàn thiện hơn. Do
lao động, bàn tay con người mềm mại hơn, khéo léo hơn so với các loài vượn
khác. Bàn tay không chỉ là "khí quan dùng để lao động, mà còn là sản phẩm
của lao động nữa". Bàn tay phát triển làm tăng thêm khả năng của con người
sử dụng các đối tượng vật chất để tác động vào giới tự nhiên, dưới hình thức
được sơ chế và cuối cùng chế tạo ra các công cụ lao động.
Thứ hai, lao động đã làm tăng thêm của cải, các sản phẩm giàu chất
dinh dưỡng. Các sản phẩm giàu chất dinh dưỡng lại được chế biến qua lửa,
làm cho bộ não phái triển hơn. Bộ não phát triển sẽ kéo theo các giác quan và
khả năng nhận thức của nó phát triển. Điều đó lại làm tăng thêm sự phát triển
của ý thức.
Cuối cùng, lao động cũng còn là nguồn gốc dẫn đến việc hình thành
ngôn ngữ, thiếu ngôn ngữ thì không thể có ý thức ở con người. Theo
Ăngghen, trong quá trình lao động, dù là dưới hình thái sơ khai nhưng đã là
lao động của cộng đồng, thi nảy sinh nhu cầu phải trao đổi kinh nghiệm, hợp
tác giúp đỡ nhau. Nhu cầu này phát triển đến mức phải nói với nhau một cái
gì đấy, từ đó ngôn ngữ hình thành và phát triển. Ăngghen coi lao động và
ngôn ngữ "là hai sức kích thích chủ yếu" làm cho bộ óc con vượn phát triển
thành bộ óc người, làm cho phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý thức
ở con người. Ăngghen còn coi lao động là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt
động vật với con người. Lao động đó là quá trình có tính xã hội và có tính
mục đích, là quá trình con người bằng công cụ lao động tác động hiến đổi giới
tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Còn loài vật chỉ lợi dụng giới tự
nhiên và do nhu cầu bản năng tự nhiên mà thôi. Như vậy, lao động, theo
Ăngghen đóng vai trò quyết định trong việc hình thành con người, và là điều
kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Kết luận này có được chính là
nhờ sự áp dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu vấn đề nguồn gốc
loài người.
3. Phép biện chứng duy vật và sự áp dụng nó vào toán học và lịch sử khoa học tự nhỉên
Trong tác phẩm này, Ăngghen đã làm rõ cơ sở khoa học tự nhiên của
phép biện chứng duy vật và vai trò của phép biện chứng duy vật đối với sự
phát triển của khoa học tự nhiên. Trước hết, xuất phát từ cách giải quyết duy
vật biện chứng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, Ăngghen đã đưa ra định
nghĩa về biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Theo Ăngghen,
"Biện chứng gọi là khách quan, thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn
biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự
chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt
đối lập, tức là những mặt thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và
sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia,
hoặc lên những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên".
Chính mối liên hệ trên đã quy định tính khách quan trong nghiên cứu
khoa học, vì thế Ăngghen đã đòi hỏi "toàn bộ lĩnh vực khoa học, trong tự
nhiên cũng như trong lịch sử, phải xuất phát từ những sự thật đã có... cho
nên trong khoa học lý luận về tự nhiên, chúng ta không thể cấu tạo ra những
mối liên hệ để ghép chúng vào sự thực mà phải từ các sự thực đó phát hiện
ra các mối liên hệ ấy". Bằng tư tưởng về sự thống nhất giữa biện chứng
khách quan và biện chứng chủ quan, Ăngghen cũng chỉ ra rằng: khoa học tự
nhiên cần phải thoát khỏi sự "cầm tù" của phương pháp tư duy siêu hình và
trở về với phép biện chứng một cách tự giác. Có hai phương pháp tư duy
biện chứng đã có trong lịch sử tư tưởng triết học trước đó mà khoa học tự
nhiên có thể đề cập đến, đó là phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại và
phép biện chứng của Hêghen. Song phép biện chứng của Hêghen lại rất hạn
chế, vì Hêghen đã coi "những phạm trù là nhưng cái đã có sẵn, còn biện
chứng của thế giới hiện thực chỉ là ảnh phản chiếu của những phạm trù ấy
mà thôi". Cho nên muốn thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình một cách
triệt để, các nhà khoa học phải nghiên cứu và vận dụng phép biện chứng duy
vật. Và điều đó thể hiện rất rõ qua sự phê phán của Ăngghen đối với các nhà
khoa học tự nhiên như Valatxơ, Cơrúcxơ. Họ đã sa vào chủ nghĩa duy linh
thần bí. Ăngghen viết: "Trong thực tế, khinh miệt phép biện chứng thì không
thể không bị trừng phạt... nó đưa một số người thực nghiệm chủ nghĩa tầm
thường nhất sa vào chỗ dị đoan ngu xuẩn nhất, sa vào thần linh học cận đại".
Trên cơ sở các phát minh của khoa học tự nhiên, Ăngghen cũng dành
nhiều trang bàn về các quy luật của phép biện chứng duy vật và muốn chứng
minh rằng các quy luật này không phải là sản phẩm tư biện của các nhà triết
học, mà là các quy luật thật sự của giới tự nhiên, ví dụ: Ăngghen đã xem xét
quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại
trong cơ học, vật lý học, hóa học và coi hằng số vật lý là những điểm nút, ở
đó lượng đổi thành chất. Ăngghen coi hóa học là khoa học của sự biến đổi về
chất của vật thể sinh ra do sự thay đổi thành phần số lượng. Cũng tương tự
như vậy, Ăngghen đã xem xét quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập trong các lĩnh vực trên, ví dụ: Ăngghen coi hút và đẩy là hai mặt đối
lập thống nhất với nhau.
Ngoài ra, Ăngghen còn xem xét hàng loạt cặp phạm trù khác của phép
biện chứng duy vật dựa trên các thành tựu của khoa học tự nhiên như đồng
nhất - khác biệt; ngẫu nhiên - tất nhiên; nguyên nhân - kết quả; nội dung -
hình thức v.v.. Những cặp phạm trù này, được Ăngghen coi là những mặt đối
lập, liên hệ tác động và chuyển hóa qua lại.
Cùng với vấn đề về phép biện chứng, Ăngghen cũng đề cập đến vấn
đề lôgích học và chống lại sự đối lập lôgích hình thức với lôgích biện chứng.
Theo Ăngghen, trong lôgích biện chứng các khái niệm và các phán đoán có
sự liên hệ phụ thuộc, chuyển hóa và phát triển. Ăngghen cũng chống lại sự
đối lập giữa phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch của Hếc-ken:
"Điều vô nghĩa của Hếcken: quy nạp chống lại diễn dịch. Làm như thể quy
nạp không = suy lý; vậy thì quy nạp cũng là một thể diễn dịch. Cái đó bắt
nguồn từ sự phân cực... Suy lý bị phân cực thành quy nạp và diễn dịch" 1 và
ông khẳng định rằng: “Quy nạp và diễn dịch phải đi đôi với nhau một cách tất
nhiên như tổng hợp và phân tích”2, Ăngghen cũng chống lại Nêghêli về luận
điểm "Chúng ta chỉ có thể nhận thức được cái hữu hạn" và cho rằng luận
điểm trên cần phải được bổ sung: "Về căn bản, chúng ta chỉ có thể nhận thức
được cái vô hạn... trong tư duy, chúng ta nâng cái đơn nhất từ tính đơn nhất
đến tính đặc thù và từ tính đặc thù lên tính phổ biến... xác định cái vô hạn
trong cái hữu hạn, cái vĩnh viễn trong cái tạm thời" . Nhận thức vật chất và vận
động cũng thế, không thể bằng con đường của Nêghêli mà phải bằng con
đường trừu tượng hóa đi từ cái cụ thể lên cái trừu tượng trong tư duy.
Ăngghen viết: "Vật chất, với tính cách là vật chất, là một sáng tạo thuần túy
của tư duy và là một điều trừu tượng thuần túy. Chúng ta bỏ qua những sự
khác nhau về chất của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách là
những vật tồn tại hữu hình, vào khái niệm vật chất. Do đó, khác với những vật
chất nhất định và đang tồn tại, vật chất, với tính cách là vật chất, không có sự
tồn tại cảm tính".
Ăngghen cũng chú ý đến toán học và lịch sử khoa học tự nhiên trong
việc chứng minh phép biện chứng duy vật. Trước hết, Ăngghen chỉ ra sự
khác biệt về đối tượng của toán học và đối tượng của các khoa học tự nhiên.
Nếu như đối tượng của khoa học tự nhiên là các hình thức và các dạng khác
nhau của thế giới vật chất, thì đối tượng của toán học là các hình thức không
gian và quan hệ số lượng của thế giới vật chất. Nhưng không gian và số
lượng lại là thuộc tính chung của thế giới vật chất, nên toán học có vai trò
trong nhận thức khoa học, biến khoa học tự nhiên thành các khoa học chính
xác. Song, theo Ăngghen, mức độ ứng dụng của toán học vào các khóa học
tự nhiên có khác nhau "ứng dụng của toán học thì tuyệt đối trong cơ học của
các vật thể rắn; gần đúng trong cơ học chất khí; khó hơn trong cơ học chất
lỏng; - dưới dạng ý đồ và tương đối trong vật lý học, - trong hóa học thì là
những phương trình bậc nhất đơn giản nhất; - trong sinh vật học = 0". Mặc dù
hiện nay tư tưởng trên không đúng về chi tiết, vì toán học đã xâm nhập mạnh
mẽ vào khoa học sinh vật và một vài lĩnh vực của khoa học xã hội, nhưng tư
tưởng chung về mức độ áp dụng có khác nhau trong các khoa học khác nhau
vẫn đúng.
Ăngghen cũng phê phán các nhà toán bọc do chịu ảnh hưởng của quan
điểm siêu hình, nên không thấy được đặc trưng biện chứng của phép tính vi
phân. Ăngghen coi các phép vi phân là sự phản ánh biện chứng của hiện
thực và cho rằng toán học cao cấp (mặc dù là sản phẩm của sáng tạo thuần
túy của tư duy) cũng như toán học sơ cấp đều có nguyên hình trong thế giới
hiện thực. Ví dụ, trong quan hệ với vật thể thông thường, các phân tử,
nguyên tử là những đại lượng vô cùng nhỏ và Ăngghen kết luận: "Cái vô hạn
toán học đã được rút từ trong thực tế ra, dù là được rút ra một cách không tự
giác, vì thế cho nên giải thích được nó thì chỉ có thực tế chứ không phải bản
thân nó".
Trong tác phẩm này, Ăngghen cũng dành nhiều trang nghiên cứu sự
phát triển của khoa học tự nhiên bắt đầu tư thời đại Phục hưng và chỉ ra rằng
sự phát triển của thực tiễn xã hội, trước hết là sản xuất vật chất, là động lực
cơ bản của khoa học tự nhiên và làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa
giới tự nhiên và triết học. Theo Ăngghen, nếu như triết học phát triển dựa trên
thực tiễn xã hội và khái quát các thành tựu khoa học tự nhiên, thì khoa học tự
nhiên cũng chịu ảnh hưởng của thế giới quan và phương pháp luận của triết
học. Trên cơ sở quan điểm như thế, Ăngghen đã xem xét sự tác động qua lại
giữa chủ nghĩa duy vật siêu hình với tình trạng của khoa hoc tự nhiên thế kỷ
XVII, XVIII và khẳng định rằng: "sự nhận thức về sự phát triển lịch sử của tư
duy con người... là một điều tất yếu đối với lý luận khoa học tự nhiên, thì
chính là vì sự nhận thức ấy là một tiêu chuẩn để đánh giá những lý luận mà
bản thân khoa học ấy phải xây dựng". Muốn từ bỏ phương pháp tư duy siêu
hình, trở ngại của nhận thức khoa học, các nhà khoa học tự nhiên phải tìm
hiểu hơn nữa triết học biện chứng dưới những hình thức cơ bản của nó như
phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại; phép biện chứng của Hêghen và
phép biện chứng duy vật - hình thức cao nhất do Mác và Ăngghen sáng tạo
ra.
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm Biện chứng của tự nhiên là kết quả của một công trình
nghiên cứu trong nhiều năm về các môn khoa học tự nhiên. Trong tác phẩm
này, Ăngghen khái quát về mặt triết hoc những thành tựu khoa học tự nhiên
của thời ông. Ông chứng minh rằng, phép biện chứng duy vật và những quy
luật cơ bản phổ biến của nó cũng là cơ sở lý luận và phương pháp nhận thức
của các ngành khoa học tự nhiên và chứng minh cho giá trị phổ biến của
phép biện chứng duy vật.
Những tư tưởng cơ bản về biện chứng của tự nhiên còn được thể hiện
trong các tác phẩm khác như Chống Đuyrinh, Lútvích Phoiơbắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức và được Lênin phát triển hơn nữa trong tác
phẩm nổi tiếng Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
LÚTVÍCH PHOIƠBẮC VÀ SỰ CÁO CHUNG CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Cùng với những tác phẩm như: Biện chứng của tự nhiên, Chống
Đuyrinh, tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức ra đời vào thời kỳ sau Công xã Pari (1871). Đây là thời kỳ trì trệ của
phong trào công nhân. Lúc này, chủ nghĩa cơ hội phát triển mạnh và lũng
đoạn trong phong trào công nhân. Hơn nữa, hoảng sợ trước phong trào đấu
tranh của giai cấp vô sản, trong hệ tư tưởng tư sản đã nảy sinh một số
khuynh hướng triết học, xã hội học phản động, ví dụ như học thuyết duy tâm
của Sôpenhauơ, Hátman, chủ nghĩa Cantơ mới; chủ nghĩa Hium mới v.v..
Trước tình hình đó, đòi hỏi các nhà kinh điển phải tập trung tất cả hoạt động
lý luận và chính trị, để chống lại chủ nghĩa cơ hội với mọi biến tướng của nó;
chống lại hệ tư tưởng tư sản để bảo vệ và phát triển những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác. Cùng với tác phẩm Chống Đuyrinh, tác phẩm Lútvích
Phoiơbắc... ra đời nhằm thực hiện mục đích ấy và nhằm thực hiện ý định đã
có từ lâu của Mác và Ăngghen là đề xuất các quan điểm đối lập với những
quan điểm tư tưởng của triết học cổ điển Đức. Ba năm sau khi Mác qua đời,
Ăngghen cho rằng cần phải trình bày quan điểm của hai ông về chủ nghĩa duy
tâm của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc và chỉ rõ bước ngoặt cách
mạng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.
Việc đánh giá toàn diện triết học cổ điển Đức (tập trung vào Hêghen
Phoiơbắc) được Ăngghen coi là một món nợ danh dự phải trả.
Trong tác phấm Lútvích Phoiơbắc... (1886), Ăngghen dành nhiều cho
vấn đề lịch sử triết học. Ông đã nghiên cứu hàng loạt những vấn đề cơ bản
của lịch sử triết học, trong đó nổi bật là vấn đề đối tượng nghiên cứu của lịch
sử triết học; phương pháp luận mácxít về lịch sử triết học; động lực phát triển
của tư tưởng triết học v.v..
II. NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm gồm Lời tựa và 4 phần:
Trong Lời tựa viết năm 1888, Ăngghen trình bày lý do của việc viết tác
phẩm này.
Phần I: Ăngghen đánh giá lại triết học của Hêghen. Ông coi triết học
Hêghen là đỉnh cao của triết học cổ điển Đức và là một trong những nguồn
gốc lý luận của triết học Mác. Trong khi đánh giá vai trò to lớn của phép biện
chứng trong triết học Hêghen, Ăngghen đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản trong triết
học này là mâu thuẫn giữa phương pháp biện chứng và hệ thống duy tâm
siêu hình.
Phần II: Trên cơ sở phân tích vấn đề cơ bản của triết học, Ăngghen đã
chỉ ra đối tượng của lịch sử triết học mácxít là nghiên cứu cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, chỉ ra sự phụ thuộc của tư
tưởng triết học vào thực tiễn xã hội và nhận thức khoa học tự nhiên. Đồng
thời, ông cũng chỉ ra những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác, kể cả
Phoiơbắc.
Phần III: Ăngghen tập trung phê phán tính chất không triệt để của triết
học Phoiơbắc, thể hiện ở quan điểm duy tâm về văn đề tôn giáo và đạo đức,
đồng thời ông cũng chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó.
Phần IV: Tác phẩm đề cập một cách khái quát và hệ thống những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đồng thời ông khẳng định rằng sự ra đời của triết học Mác là một bước ngoặt
trong sự phát triển của lịch sử triết học.
Như vậy, qua kết cấu tác phẩm, Ăngghen cũng muốn chỉ ra rằng, triết
học Mác có tiền đề lý luận là triết học của Hêghen và triết học của Phoiơbắc,
trong đó chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là khâu trung gian giữa triết học của
Hêghen và triết học Mác. Do kế thừa những giá trị triết học trước đó và do
khái quát thực tiễn xã hội và luận chứng khoa học, triết học Mác là hình thức
phát triển cao của lịch sử triết học.
Trong tác phẩm này cần nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm này, Ăngghen đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vấn đề
cơ bản của triết học, từ đó đi đến xác định một cách khoa học đối tượng
nghiên cứu của lịch sử triết học và quy luật phát triển của triết học. Khái quát
lịch sử triết học, Ăngglien viết: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt
là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại".
Theo Ăngghen, vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại, giữa tinh thần
với tự nhiên cũng giống như bất cứ tôn giáo nào, có gốc rễ trong các quan
niệm thiển cận và ngu dốt của thời kỳ mông muội, thời kỳ mà con người
không thể giải thích được bản chất của giấc mơ, nên đã có quan niệm về
quan hệ của linh hồn với thể xác. Đây chính là cơ sở nhận thức luận của vấn
đề cơ bản của triết học.
Ăngghen cũng chỉ ra hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học. Chính
việc giải quyết mặt thứ nhất – giữa tư duy và tồn tại, tinh thần và tự nhiên cái
nào có trước, cái nào có sau, đã phân các nhà triết học thành hai phe đối lập:
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Mặt thứ hai, đó là "tư duy của chúng ta có thể nhận thức được thế giới
hiện thực không?... vấn đề đó được gọi là vấn đề tính đồng nhất giữa tư duy
và tồn tại”. Khi khái quát lịch sử triết học, Ăngghen thấy rằng đa số các nhà
triết học thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới. Song
còn một số nhà triết học khác như Hium và Cantơ lại phủ nhận khả năng
nhận thức thế giới của con người. Ăngghen phê phán khuynh hướng bất khả
tri luận đó và của cả phái Cantơ mới, phái Hium mới, ông viết: "Sự bác bỏ
một cách hết sức đanh thép ý ngông triết học ấy, cũng như tất cả những triết
học khác là thực tiễn, tức thực nghiệm và công nghiệp" . Ăngghen đã đưa ra
những phát minh khoa học để bác bỏ bất khả tri luận và cho rằng khi người ta
nhận thức được "vật tự nó" và áp dụng một cách có hiệu quả thì "vật tự nó"
sẽ chuyển thành vật cho ta.
Trên cơ sở của việc phân tích vấn đề cơ bản của triết học, Ăngghen
xác định đối tượng nghiên cứu của lịch sử triết học là cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm diễn ra xoay quanh vấn đề cơ bản của triết học.
Ăngghen cũng phê phán quan điểm duy tâm coi lịch sử triết học như là
lịch sử phát triển của tư tưởng độc lập và tách rời khối lịch sử phát triển kinh
tế, xã hội; là sản phẩm của tư duy thuần túy của nhà triết học. Trái lại,
Ăngghen chỉ ra rằng: "cái thúc đẩy các nhà triết học tiến lên, hoàn toàn không
phải chỉ là sức mạnh của tư duy thuần túy như họ tưởng tượng. Cái thật ra đã
thúc đẩy họ tiến lên thì chủ yếu là bước tiến mạnh mẽ, ngày càng nhanh
chóng và ngày càng mãnh liệt của khoa học tự nhiên và của công nghiệp".
Như vậy, Ăngghen đã nhấn mạnh đến vai trò của khoa học và công nghiệp
trong sự phát triển của tư tưởng triết học. Khi khẳng định nội dung của triết
học chịu sự quyết định của quá trình phát triển các quan hệ kinh tế - xã hội,
Ăngghen cũng coi triết học là một trong những phương tiện quan trọng trong
cuộc đấu tranh tư tưởng của các giai cấp trong xã hội.
2. Đánh giá triết học Hêghen
Khi cho rằng Phoiơbắc bắt đầu từ triết học của Hêghen, sau đó đoạn
tuyệt với nó, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật, Ăngghen đã đánh giá
một cách khoa, học triết học Hêghen. Trước hết, Ăngghen đã chỉ ra mâu
thuẫn cơ bản của triết học Hêghen, đó chính là mâu thuẫn giữa phép biện
chứng với hệ thống triết học. phép biện chứng là hạt nhân hợp lý, là mặt tiến
bộ của triết học Hêghen, thì ngược lại, hệ thống triết học của Hêghen lại duy
tâm, siêu hình. Chính yêu cầu của hệ thống đã dẫn Hêghen đến việc thừa
nhận điểm cuối cùng trong nhận thức triết học và thực tiễn lịch sử. Ăngghen
viết: "Tuyên bố rằng toàn bộ nội dung giáo điều của hệ thống Hêghen đều là
chân lý tuyệt đối, vậy là trái với phương pháp biện chứng của ông ta, phương
pháp đã phá bỏ mọi cái có tính chất giáo điều. Như thế nghĩa là mặt cách
mạng của học thuyết Hêghen đã bị đè bẹp bởi sự trưởng thành quá khổ của
mặt bảo thủ của nó. Và điều mà đúng với nhận thức triết học thì cũng lại đúng
với cả thực tiễn lịch sử nữa”. Theo Ăngghen, đặc điểm đó của triết học
Hêghen phản ánh sự thỏa hiệp của giai cấp tư sản Đức nhỏ bé, yếu hèn vế
kinh tế và chính trị không đủ sức làm cuộc cách mạng tư sản như cuộc cách
mạng tư sản Pháp (1789), mà chỉ mong muốn có những cải cách ôn hòa của
giai cấp thống trị. Song, Ăngghen cũng chỉ ra đóng góp to lớn của Hêghen
trong sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại như sau: "Nhưng tất cả
những điều đó không ngăn trở hệ thống Hêghen bao trùm một lĩnh vực hết
sức rộng hơn lĩnh vực của bất hệ thống nào trước kia, và phát triển trong lĩnh
vực đó; một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc
nhiên. Hiện tượng học về tinh thần lôgích học, triết học tự nhiên, triết học tinh
thần, triết học này lại được nghiên cứu theo các bộ mộn lịch sử riêng biệt của
nó; triết học lịch sử, triết học pháp quyền, triết học tôn giáo, lịch sử triết học,
mỹ học v.v.. – trong tất cả các lĩnh vực lịcch sử khác nhau ấy, Hêghen cố
gắng phát hiện ra và chứng minh sự tồn tại của sợi chỉ xuyên suốt, tức là của
sự phát triển và vì Hêghen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn
là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực, ông xuất
hiện ra là một người vạch thời đại".
Chính mâu thuẫn cơ bản trên của triết học Hêghen đã nảy sinh ra
những trường phái khác nhau. Phái Hêghen già gồm Hêsen, G.Hinríchxơ,
G.Háplơ, H.Vâyxơ, L.Phíchteem v.v. là phải bảo thủ bám lấy hệ thống của
triết học Hêghen. Ngược lại phái Hêghen trẻ gồm Stơrauxơ, anh em nhà
Bauơ, v.v. lại bám lấy phương pháp biện chứng của triết học Hêghen. Cuộc
đấu tranh của hai phái này xoay quanh hai vấn đề tôn giáo và chính trị. Mặc
dù là phái cấp tiến, nhưng phái Hêghen trẻ vẫn chua thoát khỏi mâu thuẫn cố
hữu của triết học Hêghen, vì phái Hêghen trẻ đề cao vai trò của "tự ý thức",
coi "tự ý thức" có vai trò to lớn đối với hiện thực. Và theo Ăngghen: "Đông đảo
những người kiên quyết nhất trường phái Hêghen trẻ bị những tất yếu thực
tiễn của cuộc đấu tranh của họ chống lại tôn giáo hiện có, kéo trở về chủ
nghĩa duy vật Anh - Pháp". Một trong đại diện của phái Hêghen trẻ, theo
Ăngghen, đó chính là Phoiơbắc với tác phẩm Bản chất dạo đạo cơ đốc, giải
quyết được mâu thuẫn trên và phục hồi chủ nghĩa duy vật.
3. Đánh giá chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc
Ăngghen đã đánh giá cao vai trò của Phoiơbắc trong cuộc đấu tranh
chống lại chủ nghĩa duy tâm, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật.
Ăngghen coi tác phẩm Bản chất đạo Cơ đốc "có tác dụng giải phóng và đưa
một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua", tư tưởng duy vật
của Phoiơbắc có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan triết học của Mác và
Ăngghen lúc bấy giờ và "là khâu trung gian" giữa triết học của Hêghen và triết
học của hai ông.
Khi chỉ ra vai trò to lớn đó của Phoiơbắc trong cuộc đấu tranh chống lại
chủ nghĩa duy tâm, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật, Ăngghen cũng
khẳng định rằng Phoiơbắc chưa vượt khỏi những hạn chế lịch sử của chủ
nghĩa duy vật thế kỷ XVIII. Ăngghen đã chỉ ra ba hạn chế lớn như sau: 1) Chủ
nghĩa duy vật của thế kỷ đó chủ yếu có tính chất máy móc; 2) Chủ nghĩa duy
vật đó có đặc trưng siêu hình, có nghĩa là không biện chứng, và cuối cùng 3)
Chủ nghĩa duy vật đó không triệt để, duy tâm trong cách hiểu về các hiện
tượng xã hội.
Trong quan hệ với triết học của Hêghen, Ăngghen cho rằng, Phoiơbắc
có công lao phê phán chủ nghĩa Hêghen, song thiếu sót lớn của Phoiơbắc
trong vấn đề này là không biết kế thừa hạt nhân hợp lý của triết học Hêghen
là phép biện chứng. “Phoiơbắc đã đập tan hệ thống Hêghen và chỉ đơn giản
gạt nó ra một bên thôi. Song chỉ tuyên bố một triết học nào đó là sai lầm thì
chưa có nghĩa là thắng được nó”. Ăngghen cũng đòi hỏi "phải tiêu diệt hình
thức của nó bằng phê bình, nhưng cứu lấy nội dung mới mà nó đã đạt được”.
Vượt xa Phoiơbắc, trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật, Mác đã phê phán
chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, nhưng kế thừa hạt nhân hợp lý của triết học
Hêghen là phép biện chứng, cải tạo nó và biến nó thành phép biện chứng duy
vật, biến chủ nghĩa duy vật thành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
Khi chỉ ra những hạn chể của triết học Phoiơbắc, Ăngghen cũng vạch
ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó: "Đó là lỗi tại những điều kiện
thảm hại ở Đức hồi đó, những điều kiện đã khiến cho những ghế giáo sư triết
học đều do bọn chiết trung chủ nghĩa chuyển giết rệp chiếm đoạt hết, còn
Phoiơbắc, người vượt tất cả những bọn đó một trời một vực, lại buộc phải
nông dân hóa và rầu rĩ trong một làng nhỏ. Nếu như Phoiơbắc vẫn không tiếp
thu được quan điểm lịch sử về tự nhiên... và đã trút bỏ được tất cả cái gì là
phiến diện trong chủ nghĩa duy vật Pháp, thì đó không phải là lỗi tại ông".
Chính trong điều kiện xã hội và điều kiện sống như thế, nên chủ nghĩa duy vật
của Phoiơbắc là không biện chứng và về xã hội cũng không thoát khỏi chủ
nghĩa duy tâm cổ truyền. Ăngghen đã trích lời của Phoiơbắc như sau: "Đi lùi
lại đằng sau tôi hoàn toàn nhất trí với các nhà duy vật chủ nghĩa, nhưng khi
tiến lên phía trước, tôi không nhất trí với họ". Cho nên, Phoiơbắc là nhà duy
vật ở nửa dưới, còn nữa trên ông lại là duy tâm. Ông phê phán chủ nghĩa duy
tâm coi nó là tư biện, trừu tượng, nhưng sang địa hạt lịch sử ông xem xét con
người, xã hội cũng trừu tượng không kém. Ở phần III, Ăngghen tập trung làm
rõ quan điểm duy tâm của Phoiơbắc trong các vấn đề tôn giáo và đạo đức.
Về vấn đề tôn giáo, Ăngghen cho rằng, Phoiơbắc không đặt ra vấn đề
xóa bỏ tôn giáo, mà muốn hoàn thiện nó. Triết học cũng phải hòa vào tôn
giáo. Ông còn coi các thời đại loài người chỉ khác nhau ở sự thay đổi về
phương diện tôn giáo. Tôn giáo theo ông là ở mối quan hệ thương yêu giữa
người với người và tình yêu nam nữ là hình thức cao nhất. Từ khi có loài
người, mặc dù có những quy định của nhà nước về hôn nhân, song tình yêu
và tình bạn là không thay đổi. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc,
theo Ăngghen là ở chỗ ông coi mối quan hệ thuần túy giữa người với người là
tôn giáo, Ăngghen viết: “Chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc là ở chỗ ông ta xét
các mối quan hệ giữa người và người, dựa trên cảm tính đối với nhau...
Không phải chỉ đơn giản đúng y như bản thân chúng là như vậy... Đối với ông
ta, điều chủ yếu không phải ở chỗ những quan hệ thuần túy giữa người với
người tồn tại, mà là ở chỗ những quan hệ ấy phải được coi là một thứ tôn
giáo mới, chân chính”. Phoiơbắc muốn xây dựng một thứ tôn giáo không cần
Thượng đế và Ăngghen coi đó cũng như "Thuật luyện kim cũng không cần
đến viên đá tạo vàng của nó". Ăngghen cũng phê phán luận điểm sai lầm của
Phoiơbắc coi các thời đại của loài người chỉ khác nhau bởi những thay đổi về
phương diện tôn giáo.
Trong vấn đề đạo đức, theo Ăngghen, Phoiơbắc hoàn toàn duy tâm khi
coi lòng mong muốn hạnh phúc là bẩm sinh của con người, do đó nó phải là
cơ sở của đạo đức. Và để thực hiện lòng mong muốn hạnh phúc đó,
Phoiơbắc đòi hỏi phải có sự tự hạn chế hợp lý bản thân mình và tình yêu giữa
người với người lại trở thành những quy tắc cơ bản của đạo đức. Bằng sự
bóc lột giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp và sự bất bình đẳng xã hội,
Ăngghen phê phán quan điểm về đạo đức của Phoiơbắc, "nó được gọt giũa
cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà
không bao giờ nó có thể đem áp dụng được ở đâu cả, cả đối với thế giới hiện
thực" và Ăngghen cho rằng: trong thực tế mỗi giai cấp và ngay cả mỗi nghề
nghiệp đều có đạo đức riêng của mình và đều vi phạm đạo đức ấy. Như vậy,
quan niệm về đạo đức của Phoiơbắc vẫn chưa thoát khỏi sự trừu tượng, vì
ông hiểu con người một cách trừu tượng phi lịch sử, không thấy con người là
sản phẩm của xã hội, của lịch sử và con người là chủ thể của hoạt động. Điều
đó biểu hiện trong nhận xét rất chính xác của Ăngghen rằng, Phoiơbắc "bám
hết sức chặt lấy giới tự nhiên và con người; song đối với ông, cả tự nhiên lẫn
con người vẫn chỉ là những danh từ mà thôi. Ông không biết nói với chúng ta
một cái gì chính xác về tự nhiên hiện thực, cũng như về con người hiện thực".
Trên cơ sở phê phán một cách khoa học triết học của Hêghen và triết
học của Phoiơbắc, Ăngghen, đã chỉ ra cho chúng ta thực chất cuộc cách
mạng trong lịch sử triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.
4. Thực chất cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do Mác - Ăngghen thực hiện
Trước hết, Ăngghen đã chỉ ra sự hình thành chủ nghĩa duy vật biện
chứng là kết quả của quá trình cải tạo căn bản phép biện chứng của Hêghen
và khắc phục tính phiến diện, không triệt để của chủ nghĩa duy vật nhân bản
của Phoiơbắc.
Phép biện chứng duy vật đã kế thừa tất cả yếu tố tiến bộ của các hình
thức trước đó của nó, trong đó trực tiếp là phép biện chứng của Hêghen.
Nhưng phép biện chứng của chủ nghĩa Mác hoàn toàn đối lập với phép biện
chứng của Hêghen. Ăngghen viết: "Ở Hêghen, sự phát triển biện chứng biểu
hiện trong giới tự nhiên và trong lịch sử... chỉ là sự sao chép lại sự tự vận
động của ý niệm, một sự tự vận động diễn ra vĩnh viễn, không biết ở đâu,
nhưng dù sao cũng độc lập đối với mọi bộ óc đang tư duy của con người. Sự
xuyên tạc có tính chất tư tưởng hệ ấy là cái cần phải gạt bỏ. Chúng tôi lại xem
xét một lần nữa một cách duy vật rằng những ý niệm trong đầu óc của chúng
ta, coi đó là những phản ánh của sự vật hiện thực, chứ không xem xét những
sự vật hiện thực, coi đó là những phản ánh của giai đoạn này hay giai đoạn
khác của ý niệm...". Trên cơ sở đó, Ăngghen nhắc lại định nghĩa kinh điển về
phép biện chứng duy vật và chỉ ra tính thứ nhất của biện chửng khách quan
và tính thứ hai của biện chứng chủ quan - biện chứng của ý niệm chỉ là sự
phản ánh vào ý thức sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực, cho nên
quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen bằng cách "đặt đầu
lên trên hay nói đúng hơn, từ chỗ trước kia nó đứng bằng đầu, bây giờ người
ta đặt nó đứng bằng chân".
Ăngghen nhắc lại cơ sở khoa học tự nhiên dẫn đến sự cáo chung của
phép siêu hình và sự hình thành phép biện chứng duy vật. Chính việc phát
triển của khoa học từ khoa học sưu tập "về những vật chất bất biến" sang
khoa học hệ thống hóa, khoa học về quá trình dẫn đến làm sụp đổ phương
pháp tư duy siêu hình và khẳng định phương pháp tư duy biện chứng,
Ăngghen cũng đánh giá một lần nữa ba phát minh vĩ đại của thời đó là phát
minh ra tế bào, phát minh ra định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng và
thuyết tiến hóa của Đácuyn. Ông cho rằng, nhờ ba phát minh vĩ đại đó khoa
học tự nhiên "có thể chứng minh những nét lớn của mối liên hệ giữa các quá
trình của tự nhiên không những trong các lĩnh vực riêng biệt, mà cả mối liên
hệ giữa các lĩnh vực riêng biệt ấy nói chung và có thể trình bày một bức tranh
bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên".
Về sự hình thành các quan điểm duy vật lịch sử cũng tương tự,
Ăngghen coi "cái đã đúng với giới tự nhiên mà do đó chúng ta coi là một quá
trình phát triển lịch sử, thì cũng đúng với tất cả các bộ môn của lịch sử xã hội
và cũng đúng, với toàn bộ các khoa học nghiên cứu những cái thuộc về con
người (và thuộc về thần thánh)". Theo Ăngghen, phải loại bỏ những mối liên
hệ nhân tạo, và phải tìm ra những mối liên hệ hiện thực, nhất là phải phát
hiện ra các quy luật chung chi phối sự phát triển của lịch sử. Đấy chính là
nhiệm vụ của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ăngghen phân biệt sự khác nhau giữa quy luật lịch sử - đối tượng
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch sử với các quy luật tự nhiên - đối
tượng nhận thức của các khoa học tự nhiên. Trong giới tự nhiên, các quy luật
diễn ra tự động, bên ngoài ý thức của con người trái lại các quy luật xã hội
diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người. Nhưng cũng giống với
các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội cũng bị chi phối bởi vô số những ngẫu
nhiên. Thông qua vô số ngẫu nhiên đó, chúng ta phát hiện ra quy luật nội tại
bị che giấu.
Ăngghen cũng chỉ ra đặc trưng của các quy luật xã hội. Ông cho rằng:
"Con người làm ra lịch sử của mình... bằng cách là mỗi người theo đuổi
những mục đích riêng, mong muốn một cách có ý thức, và chính kết quả
chung của vô số những ý muốn tác động theo nhiều hướng khác nhau đó và
của những ảnh hưởng muôn vẻ của những ý muốn đó vào thế giới bên ngoài
đã tạo nên lịch sử".
Tiếp theo, Ăngghen xem xét đến một vấn đề rất quan trọng của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đó là vấn đề động lực của lịch sử. Theo Ăngghen, chủ
nghĩa duy vật cũ không bao giờ đặt vấn đề đó ra cả và vì vậy quan điểm của
họ về lịch sử, "về bản chất, là quan điểm thực dụng chủ nghĩa; nó đánh giá
mọi cái theo động cơ của hành động". Ăngghen đã phê phán quan điểm trên
và cho rằng: "Chủ nghĩa duy vật cũ không trung thành với bản thân mình, vì
nó coi những động lực lý tưởng tác động trong lĩnh vực lịch sử là những
nguyên nhân cuối cùng, chứ không nghiên cứu xem cái gì ẩn sau những động
lực đó và những động lực của những động lực đó là những gì".
Hêghen cũng có công lao đặt ra vấn đề này, song, theo Ăngghen -
Hêghen lại không tìm động lực đó ở trong bản thân lịch sử mà lại "du nhập
những động lực đó từ ngoài, từ hệ tư tưởng triết học, vào trong lịch sử".
Đối lập với quan điểm của chủ nghĩa duy vật cũ, và chủ nghĩa duy tâm
của Hêghen, Ăngghen cho rằng để xác định động lực thực tế cuối cùng của
lịch sử thì không thể nghiên cứu những động cơ của các cá nhân, mà phải
nghiên cứu "những động cơ của những người đã lay chuyển những quần
chúng đông đảo, những dân tộc trọn vẹn; rồi đến những giai cấp trọn vẹn
trong mỗi một dân tộc; những động cơ đã đẩy họ... đến chỗ tiến hành những
hành động lâu dài đưa đến những biến đổi lịch sử vĩ đại", Và Ăngghen đã chỉ
ra rằng, động lực của toàn bộ lịch sử hiện đại chính là cuộc đấu tranh giữa ba
giai cấp lớn và những xung đột về quyền lợi của họ - giai cấp địa chủ quý tộc,
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Để tìm ra động lực của động lực, Ăngghen đi sâu vào xem xét nguồn
gốc của giai cấp và đấu tranh giai cấp, ông chỉ ra rằng, nguồn gốc của giai
cấp và kết cấu giai cấp xã hội là do nguyên nhân thuần túy kinh tế quy định và
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp chiếm hữu ruộng đất và giai cấp tư sản,
cũng như cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, thì trước
hết, vấn đề là ở những lợi ích kinh tế. Chính mâu thuẫn trong kinh tế phản
ánh qua mâu thuẫn giữa các giai cấp, Ăngghen viết: "Những lực lượng sản
xuất, do giai cấp tư sản đại biểu, nổi dậy chống lại chế độ sản xuất do bọn
chiếm hữu ruộng đất phong kiến và bọn trùm phường hội đại biểu, ngày nay
đại công nghiệp cũng lại đã đi đến chỗ xung đột với chế độ sản xuất tư sản là
chế độ đã thay thế chế độ sản xuất phong kiến" . Mâu thuẫn đó tất yếu sẽ dẫn
đến phải phá gông xiềng cho lực lượng sản xuất bằng cách thay đổi phương
thức sản xuất.
Từ những phân tích trên, Ăngghen đi đến kết luận: “Tất cả các cuộc
đấu tranh chính trị đều là đấu tranh giai cấp, và tất cả các cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp, dù hình thức chính trị tất yếu của chúng là thế nào đi nữa - vì
bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị - xét đến
cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”.
Với phương pháp như trên, Ăngghen tiếp tục xem xét mối quan hệ với
cơ sở kinh tế của một số yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước và
pháp luật, chính trị và hệ tư tưởng chính trị, triết học và tôn giáo. Khi xem xét
mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội công dân, Ăngghen khẳng định nhà
nước là yếu tố tùy thuộc, "còn xã hội công dân, tức là lĩnh vực của những
quan hệ kinh tế, là yếu tố quyết định".
Nếu như nhà nước và công pháp là do các quan hệ kinh tế quyết định
thì tư pháp cũng thế, vì tư pháp, theo Ăngghen, về thực chất, chỉ xác nhận
những quan hệ kinh tế hiện có và "những quy tắc của pháp luật tư bản chỉ là
sự biểu hiện - dưới một hình thức pháp lý - của những điều kiện sinh hoạt
kinh tế của xã hội".
Về vấn đề chính trị và hệ tư tưởng chính trị cũng vậy, nhưng dường
như trong thực tế ý thức về mối liên hệ giữa chính trị và hệ chính trị với cơ sở
kinh tế bị mờ dần đi và thậm chí có thể hoàn toàn biến mất. Còn những hệ tư
tưởng cao hơn, xa hơn cơ sở kinh tế như triết học và tôn giáo, thì do những
khâu trung gian mà mối liên hệ đó bị lãng quên. Song dù sao, theo Ăngghen,
"mối quan hệ đó vẫn tồn tại" và những tư tưởng triết học từ thế kỷ XV trở đi
qua triết học Pháp, triết học Anh và đến triết học của Hêghen đều phản ánh
sự phát triển của giai cấp tư sản.
Về tôn giáo, Ăngghen cho rằng tôn giáo là hình thái ý thức xã hội xa đời
sống vật chất hơn cả và hình như nó xa lạ với đời sống vật chất. Nhưng thực
ra xét đến cùng, tôn giáo cũng như các hình thái ý thức xã hội khác đều gắn
liền với những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Để làm rõ luận
điểm ấy, Ăngghen chỉ ra sự phát triển của tôn giáo có nguồn gốc ban đầu
nguyên thủy của nó "từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thủy của
con người về bản chất của chính họ và về giới tự nhiên bên ngoài xung
quanh họ”. Khi xem xét tôn giáo phát triển từ tôn giáo dân tộc thành tôn giáo
thế giới, đạo Cơ đốc phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong
kiến, sự ra đời của giai cấp tư sản gắn liền với cải cách tôn giáo, đạo Tin lành
ra đời đối lập với đạo Thiên chúa phong kiến, Ăngghen đi đến kết luận: "Tôn
giáo, một khi đã hình thành, luôn luôn chứa đựng một chất liệu truyền thống,
cũng như trong tất cả các lĩnh vực tư tưởng, truyền thống là một lực lượng
bảo thủ lớn. Song những sự biến đổi xảy ra trong chất liệu đó, đều nảy sinh ra
từ những quan hệ giai cấp, do đó từ những quan hệ kinh tế giữa những người
gây ra những sự biến đổi ấy".
Cuối cùng, Ăngghen khái quát lại và đưa ra một nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản định hướng cho việc nghiên cứu giới tự nhiên và lịch sử:
"Bằng chứng phải được rút ra từ bản thân lịch sử... Bây giờ thì bất cứ ở đâu,
vấn đề không còn là tưởng tượng ra những mối liên hệ từ trong đầu óc, mà là
phát hiện ra chúng từ những sự thực".
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức
là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác. Ở đây,
Ăngghen trình bày một cách có hệ thống những cơ sở của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Ông đánh giá có phê phán nguồn gốc triết học
của chủ nghĩa cộng sản khoa học, đặc biệt là phương pháp biện chứng của
Hêghen và chủ nghĩa duy vật trong triết học của Phoiơbắc. Ông chứng minh
rằng, với khoa triết học mácxít, cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen
cũng như chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc đều sẽ được khắc phục
và bị xóa bỏ.
Với tác phẩm này, Ăngghen đã góp phần cống hiến vô giá vào việc đưa
chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào công nhân quốc tế. Tác phẩm đã
góp phần quyết định vào việc trang bị cho giai cấp công nhân ý thức rằng giai
cấp công nhân, thế giới quan khoa học và đảng cách mạng của giai cấp là
một thể thống nhất không thể tách rời. Tác phẩm là cơ sở lý luận tuyệt vời
cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại triết học tư sản.
C. TÁC PHẨM CỦA V.I.LÊNIN
CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của
Lênin được viết trong khoảng thời gian từ tháng hai đến tháng mười năm
1908 và được in thành sách vào tháng năm năm 1909.
Lênin đã viết tác phẩm này trong hoàn cảnh nước Nga sau thất bại của
cuộc cách mạng dân chủ tư sản năm 1905 - 1907; chínhphủ chuyên chế Nga
hoàng thiết lập chế độ khủng bố tàn bạo của cảnh sát. Cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX khoa học tự nhiên, đặc biệt là vật lý học đã có những biến đổi sâu
sắc, do đó nhiều khái niệm cũ của khoa học tự nhiên bị bác bỏ, đồng thời các
quan điểm máy móc siêu hình về hình thức cơ bản của vật chất và vận động
cũng bị bác bỏ. Nhiều nhà khoa học tự nhiên đã "trượt” từ chủ nghĩa duy vật
máy móc, siêu hình đến chủ nghĩa tương đối, hoài nghi, rồi đến chủ nghĩa duy
tâm.
Về tình hình tư tưởng, như Lênin đã nhận xét: có tình trạng thoái chí,
mất tinh thần, phân liệt, xuất hiện xu hướng ngả về triết học duy tâm, phục hồi
tư tưởng thần bí tôn giáo, "tìm thần" và "tạo thần" trong giới trí thức, kể cả
một sổ đảng viên Bônsêvích.
Chủ nghía duy tâm, tiêu biểu là của Makhơ và Avênariút đã lợi dụng
những thành tựu mới của khoa học tự nhiên để chống lại chủ nghĩa duy vât
biện chứng làm sống lại chủ nghĩa duy tâm của Béccli và Hium.
II. NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
Tính đến lần xuất bản thứ nhất (5-1909), ngoài phần Lời tựa, phần
Thay lời mở đầu và phần Kết luận, tác phẩm gồm 6 chương với 39 mục (tiết).
Trong Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất, Lênin đã chỉ rõ, vào năm
đó nhiều người giả danh học giả, đã viết nhiều tác phẩm, thực chất là tấn
công vào chủ nghĩa Mác trước hết là vào chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đó là
tập luận văn nhan đề Khái niệm về triết học mácxít của bảy tác giả; Chủ nghĩa
duy vật và thuyết thực tại phê phán của Iuskêvích; Phép biện chứng dưới ánh
sáng của nhận thức luận hiện đại của Bécman; Những cơ cấu triết học của
chủ nghĩa Mác của Valentinốp.
Từ đó, Lênin đặt cho mình nhiệm vụ: "Tìm xem những kẻ đã đưa ra,
dưới chiêu bài chủ nghĩa Mác, những cái vô cùng hỗn độn, hồ đồ và phản
động, đã lầm đường lạc lối ở chỗ nào".
Trong phần Thay lời mở đầu với tiêu đề Vào năm 1908, một số người
"mácxít" và vào năm 1710, một số nhà duy tâm đã bác bỏ chủ nghĩa duy vật
như thế nào, Lênin đã nêu lên tình hình năm 1908 những nhà triết học ở Nga
theo phái Makhơ đã ra sức bác bỏ chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng họ
lại giả bộ làm như đứng trên quan điểm thực chứng luận "tối tân" và "hiện
đại", trên quan điểm khoa học tự nhiên, v.v..
Lênin đã vạch rõ tính chất sai lầm của những luận cứ mà phái Makhơ
đưa ra để chống chủ nghĩa duy vật. Phái này cho rằng, những nhà duy vật
thừa nhận vật chất tồn tại khách quan ngoài ý thức con người, như vậy, họ đã
rơi vào chủ nghĩa thần bì, vì họ đã thừa nhận có một cái gì đó ở bên kia, ở
ngoài giới hạn của nhận thức. Phái này còn cho rằng khi những người duy vật
giải thích vật chất tác động lên cơ quan cảm giác thì gây nên cảm giác thì như
vậy là đã lấy cái hư vô, cái "chưa biết được” làm cơ sở. Lênin chỉ rõ những
luận cứ mà phái Makhơ nêu ra để chống lại chủ nghĩa duy vật biện chứng
hoàn toàn không có gì mới mà đó chỉ là sự vay mượn của Béccli đã trình bày
trong tác phẩm Bàn về những nguyền lý về nhận thức của con người, xuất
bản năm 1710, mà nội dung chủ yếu là nhằm chứng minh vật chất là chỉ tổng
hợp của cảm giác.
Chương 1: Lênin phê phán và bác bỏ quan niệm của phái Makhơ cho
rằng, cảm giác (hay "yếu tố" nói theo thuật ngữ của phái Makhơ) là cái có
trước vật chất. Đồng thời, Lênin chỉ rõ toàn bộ lịch sử khoa học tự nhiên đều
chứng thực tính chính xác của nguyên lý của chủ nghĩa duy vật: vật chất là
cái có trước, ý thức và cảm giác là cái có sau.
Trong chương này, Lênin đã phát triển thêm một bước tư tưởng của
Ăngghen về vật chất hữu cơ phát sinh từ vật chất vô cơ.
Chương II: Lênin phê phán thuyết "bất khả tri" của Cantơ. Theo Cantơ,
con người chỉ nhận thức được hiện tượng mà không thể biết về "vật tự nó".
Quan niệm của Cantơ đối lập với học thuyết của Mác về tính có thể nhận
thức thế giới, về chân lý khách quan, về thực tiễn được coi là tiêu chuẩn của
chân lý.
Lênin phê phán phái Makhơ lấy cớ bác bỏ thuyết "bất khả tri” tức thuyết
không thể biết, để phủ nhận sự tồn tại của "vật tự nó", phủ nhận thế giới hiện
thực, và để khẳng định chỉ có cảm giác mới tồn tại trực tiếp, và thế giới bên
ngoài là một hỗn hợp của những cảm giác. Đồng thời Lênin nêu ra 3 kết luận
cơ bản của nhận thức hiện mácxít.
Cũng trong chương này, Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Chương III: Lênin phê phán phái Makhơ xuất phát từ tiền đề duy tâm
chủ quan coi vật chất chẳng qua chỉ là sự liên hệ nhất định giữa các "yếu tố"
(cảm giác), từ đó phát sinh các tiền đề khác: tính tất yếu, tính nhân quả, tính
quy luật... Tất cả được gọi là những phạm trù chủ quan do ý thức, lý tính,
lôgích mà ra, không phải do thế giới bên ngoài; còn không gian và thời gian
cũng chỉ là những hệ thống sắp đặt có trật tự của hàng loạt cảm giác.
Chủ nghĩa duy vật do thừa nhận sự tồn tại khách quan của sự vật, của
tự nhiên, nên có những nguyên lý về tính khách quan của mối quan hệ nhân
quả, của các quy luật của thế giới vật chất, về không gian và thời gian là
những hình thức khách quan của vật chất.
Chương IV: Lênin nghiên cứu chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán qua sự
phát triển lịch sử và những mối liên hệ của nó với những khuynh hướng triết
học khác.
Lênin phê phán các biến dạng của chủ nghĩa Makhơ như: thuyết kinh
nghiệm ký hiệu, thuyết kinh nghiệm nhất nguyên, thuyết nội tại v.v..
Lênin khẳng định quan điểm của chủ nghĩa duy vật về thế giới vật chất
tồn tại từ lâu trước khi có con người và tồn tại một cách độc lập với ý thức
con người; ý thức là đặc tính của vật chất có tổ chức cao - bộ óc người, là cơ
năng của bộ óc người.
Chương V: Lênin nói về cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên; phê
phán chủ nghĩa duy tâm vật lý; vạch ra nguyên nhân của cuộc "khủng hoảng
vật lý", và vạch ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng này.
Lênin khái quát những phát hiện mới trong vật lý học; phê phán chủ
nghĩa Makhơ đã lợi dụng những thành tựu đó để chổng lại chủ nghĩa duy vật;
làm giàu thêm lý luận nhận thức mácxít về chân lý khách quan, về tính tuyệt
đối và tính tương đối của chân lý; quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Chương VI: Lênin đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của Makhơ trên lĩnh
vực xã hội; phát triển và làm giàu thêm quan điểm của Mác và Ăngghen về
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cũng trong chương này, Lênin nêu lên tính đảng trong triết hoc và phê
phán các triết gia tư sản muốn đứng “lên trên” các đảng phái triết học.
Phần kết luận
Lênin đã phê phán tính chất sai lầm phản tiến bộ của chủ nghĩa Makhơ;
vạch ra mối liên hệ của chủ nghĩa Makhơ với chủ nghĩa duy tâm "vật lý" trong
khoa học tự nhiên.
Khi nghiên cứu tác phẩm này, cần tập trung vào một số nội dung chủ
yếu sau:
1. V.I.Lênin giải quyết vấn đề cơ bản của triết bọc trên lập trường duy vật mácxít
Chủ nghĩa Makhơ (hay chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán) xuất hiện vào
những năm 70 của thế kỷ XIX ở Đức và Áo. Sự ra đời và phát triển của nó
nhằm chống lại chủ nghĩa Mác. Đó là lý luận triết học duy tâm chủ quan, mà
đại biểu là Avênariút (Đức) và Enxtơ Makhơ (Áo).
Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa Mác xuất hiện vào những năm 40 của
thế kỷ XIX. Ngay sau khi ra đời, nó đã được giai cấp vô sản tiếp nhận như là
thế giới quan khoa học của mình. Phép biện chứng duy vật là linh hồn sống
của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác không những là lý luận duy vật khoa học
của sự tiến bộ xã hội, mà còn là lý luận khoa học dựa trên sự khái quát những
thành tựu của khoa học tự nhiên.
Để chống lại chủ nghĩa Mác, triết học duy tâm chủ quan của Makhơ và
Avênariút lấy chủ nghĩa Cantơ làm vũ khí nhưng đã tước bỏ "làm sạch"
những yếu tố duy vật trong triết học của Cantơ là thừa nhận "vật tự nó", để đi
đến chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa "bất khả tri" của Béccli và
Hium.
Chống lại thế giới quan khoa học và chủ nghĩa duy vật, bọn Makhơ
lảng tránh vấn đề cơ bản của triết học, lảng tránh sự phân chia các nhà triết
học thành hai phái đối lập nhau - chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Nhưng họ lại luôn luôn tìm cách che giấu chủ nghĩa duy tâm chủ quan của
mình. Nếu Béccli gọi các sự vật là tổng hợp của các cảm giác thì bọn Makhơ
đưa ra học thuyết về "các yếu tố của thế giới", gọi sự vật là "tổ hợp của các
yếu tố”. Nhưng cái gọi là "yếu tố" thực chất cũng là kinh nghiệm, là cảm giác
mà thôi.
Theo Makhơ, nhận thức của con người không xuất phát từ sự tồn tại
khách quan của các sự vật, mà xuất phát từ cái gọi là "tài liệu trực tiếp", nghĩa
là từ những cảm giác về âm thanh, mầu sắc, mùi vị v.v.. Nhưng Makhơ không
gọi những cái đó là cảm giác, mà lại gọi là "những yếu tố của kinh nghiệm
chúng ta". "Những yếu tố" theo Makhơ là những viên gạch đầu tiên làm cơ sở
cho toàn bộ thế giới tâm lý và vật lý. Và theo Makhơ, cái thuật ngữ mới này
đã khắc phục được sự tranh cãi lâu nay giữa các nhà duy vật và các nhà duy
tâm, vì theo Makhơ, các "yếu tố" không phải là vật chất, cũng không phải là
tinh thần; không phải là vật lý, cũng không phải là tâm lý, mà là "cái trung
gian". Những người theo chủ nghĩa Makhơ ở Nga đã nắm lấy học thuyết "yếu
tố" để hết lời ca ngợi nó. Họ coi đó là "phát minh vĩ đại”, là cơ sở để thống
nhất chủ nghĩa Makhơ với chủ nghĩa Mác.
Lênin đã phê phán chủ nghĩa Makhơ muốn xóa nhòa tính đảng trong
triết học Mác, muốn đứng trên cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
nhưng thực chất thì họ là những người duy tâm chủ quan. Họ chỉ nhắc lại
những quan điểm cũ của Béccli. Cái gọi là thuật ngữ mới chẳng qua chỉ là lợi
dụng những thành tựu mới của khoa học để che đậy chủ nghĩa duy tâm.
Lênin đã coi lý thuyết về "yếu tố trung gian" là sai lầm chủ yếu của chủ nghĩa
Makhơ và những người theo chủ nghĩa Makhơ.
Lênin viết: "Thật là trẻ con nếu nghĩ rằng bịa ra một từ mới, là có thể
tránh được những trào lưu triết học cơ bản,... triết học của các ngài chỉ là chủ
nghĩa duy tâm để uổng công che đậy sự trần trụi của chủ nghĩa duy ngã của
mình bằng một thuật ngữ "khách quan" hơn. Hoặc giả "yếu tố" không phải là
cảm giác, và như vậy từ "mới" của các ngài tuyệt đối không có một chút ý
nghĩa gì cả, và các ngài, chỉ làm ồn lên vô ích mà thôi".
Cũng như Makhơ, Avênariút đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường duy tâm chủ quan. Ông ta nói rằng, không có chủ thể thì
không có khách thể; không có cái gì lại không tồn tại cùng với sự suy nghĩ,
cùng với ý thức cả. Ông ta đã coi thường một sự thật là giới tự nhiên đã có
trước con người, tồn tại khách quan ngoài ý thức của con người.
Những người theo chủ nghĩa Makhơ muốn che đậy chủ nghĩa duy tâm
của mình bằng cách coi là những người theo "chủ nghĩa thực tại ngây thơ".
Nhưng Lênin đã vạch rõ: "Thuyết thực tại ngây thơ" của bất cứ một người
lành mạnh nào, không qua nhà thương điên hay không qua trường học của
những nhà triết học duy tâm, là ở chỗ thừa nhận sự tồn tại của vật; của hoàn
cảnh, của thế giới không phụ thuộc vào cảm giác của chúng ta, vào ý thức
của chúng ta, vào cái Tôi của chúng ta và vào con người nói chung".
Xuất phát từ quan niệm sự vật là phức hợp của những thuộc tính (chất
lượng) đã được gắn liền với cảm giác và được gọi là "các yếu tố", Makhơ đã
đặt cho khoa học nhiệm vụ cơ bản không phải là nghiên cứu hiện thực khách
quan, mà là nghiên cứu "phức hợp các yếu tố", nghĩa là nghiên cứu phức hợp
cảm giác, vì cái vật lý và cái tâm lý đã hòa lẫn vào nhau trong cái gọi là "các
yếu tố", và do đó, nếu đi tìm cải hiện thực ở bên ngoài kinh nghiệm, bên ngoài
phức hợp cảm giác là siêu hình. Makhơ viết về nhiệm vụ của khoa học như
sau:
Nhiệm vụ của khoa học chỉ có thể là: "1. Nghiên cứu những quy luật về
mối liên hệ giữa các biểu tượng (tâm lý học); 2. Tìm ra những quy luật về mối
liên hệ giữa các cảm giác (vật lý học); 3. Giải thích những quy luật về mối liên
hệ giữa cảm giác và biểu tượng (tâm lý vật lý học)".
Phủ nhận thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác, Makhơ coi nhiệm
vụ của khoa học chỉ là nghiên cứu, mô tả những tri thức có tính chất kinh
nghiệm - đó là thực chất của chủ nghĩa thực chứng Makhơ; và điều đó thể
hiện tính đảng duy tâm của triết học Makhơ.
Lênin chỉ rõ, triết học bao giờ cũng mang tính đảng và tính đảng đó thể
hiện ở chỗ triết học phục vụ cho lợi ích của giai cấp nào, cho chính trị của giai
cấp nào và thuộc về trường phái triết học nào - duy vật hay duy tâm; hết thảy
những người theo phái Makhơ đã có tham vọng "muốn "vượt lên trên" chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, muốn khắc phục sự đối lập "cũ kỹ" ấy,
nhưng kỳ thật, thì cả đám người đó cứ mỗi lúc một sa vào chủ nghĩa duy tâm
và kiên quyết tiến hành đến cùng một cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy
vật".
Lênin cho rằng, triết học hiện đại cũng như triết học hai nghìn năm
trước đây đều có tính đảng. Chủ nghĩa Mác đòi hỏi một nguyên tác tính đảng
công khai, rõ ràng và triệt để của triết học. Lênin viết: "Về mặt triết học, Mác
và Ăngghen, thủy chung là những người có tính đảng".
Vạch trần sự thỏa hiệp, đầu hàng của những người theo phái Makhơ ở
Nga, Lênin viết: "Điều bất hạnh của những người theo phái Makhơ ở Nga là
muốn điều hòa” học thuyết Makhơ với chủ nghĩa Mác... Các mưu toan đó loại
của họ để phát triển và bổ sung chủ nghĩa Mác đều dựa trên những phương
pháp cực kỳ ngây thơ". Lênin còn chỉ rõ, dù những người theo chủ nghĩa
Makhơ dùng những lời lẽ có vẻ khoa học, viện dẫn ra cả "nhận thức luận hiện
đại", "triết học tối tân", "triết học của khoa học tự nhiên hiện đại", "triết học của
khoa học tự nhiên thế kỷ XX", v.v. thì họ vẫn không che giấu được thực chất
của mình là những kẻ bảo vệ chủ nghĩa tín ngưỡng. Lênin viết: "Dựa vào tất
cả những học thuyết dường như là tối tân đó, những kẻ phá hoại chủ nghĩa
duy vật biện chứng ở nước ta đã không chút ngại ngùng đi đến chỗ thừa
nhận ngay thuyết tín ngưỡng... nhưng khi cần phải tỏ rõ thái độ của họ đối với
Mác và Ăngghen thì họ lại mất hết cả dũng khí, mất hết cả sự tôn trọng đối
với niềm tin của bản thân họ. Trên thực tế, như thế là hoàn toàn rời bỏ chủ
nghĩa duy vật biện chứng, tức chủ nghĩa Mác".
2. Lênin phê phán nhận thức luận của chủ nghĩa Makhơ và phát triển nhận thức luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a) Những nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức khoa học – vấn đề chân lý
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán,
Lênin đã bảo vệ và phát triển lý luận nhận thức mácxít. Lênin coi lý luận nhận
thức là một vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
mácxít và chủ nghĩa duy tâm.
Lênin nhận xét rằng, điều kiện lịch sử của thời đại Mác và Ăngghen đòi
hỏi các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác phải phát triển chủ nghĩa duy vật triết học
lên đỉnh cao, nghĩa là phải mở rộng chủ nghĩa duy vật triết học vào lĩnh vực
phát triển xã hội. Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng những thành
tựu của vật lý học và khoa học tự nhiên để mở rộng những thành tựu đó vào
lĩnh vực các vấn đề lý luận nhận thức. Họ ra sức chứng minh rằng, thế giới là
không thể nhận thức được, sự nhận thức của con người là hết sức hạn chế,
nhằm mục đích hạ thấp vai trò của khoa học, mở đường cho tín ngưỡng. Bọn
theo chủ nghĩa Makhơ "đã đặc biệt chú trọng làm giả mạo nhận thức luận một
cách tinh vi, bằng cách bắt chước chủ nghĩa duy vật, bằng cách dùng thuật
ngữ... tựa hồ như là duy vật để che đậy chủ nghĩa duy tâm", đã giải thích một
cách duy tâm các thành tựu vật lý học; các vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại
và tư duy về tính có thể nhận thức được của thế giới; tính biện chứng của
quá trình nhận thức, nhằm chống lại chủ nghĩa duy vật. Tất cả những điều đó
làm cho vấn đề lý luận nhận thức trở thành vấn đề nóng bỏng trong cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Trong khi phê phán những người theo chủ nghĩa Makhơ ở Nga, Lênin
đã phát triển những luận điểm cơ bản về lý luận nhận thức của chủ nghỉa duy
vật biện chứng như: nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan; các hình
thức phản ánh; tính khách quan và tính tương đối của chân lý; vai trò của
thực tiễn như là cơ sở của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý.
Lênin đã đưa ra 3 kết luận cơ bản của nhận thức luận mácxít:
1. Sự vật tồn tại một cách khách quan và độc lập với ý thức của chúng
ta.
2. Giữa hiện tượng và "vật tự nó" không có một sự khác biệt có tính
nguyên tắc nào cả.
3. Sự nhận thức hiện thực phát triển từ chỗ chưa biết đến chỗ biết, từ
nhận thức chưa đầy đủ, chưa chính xác đến nhận thức đầy đủ và chính xác
hơn.
Về vấn đề chân lý khách quan, chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối,
Lênin chỉ rõ, chân lý là sự phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, không phụ
thuộc vào ý thức con người, chân lý là khách quan. Đồng thời, chân lý là quá
trình lịch sử vận động từ chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Bởi vì
nhận thức của con người ở mỗi giai đoạn phát triển lịch sử phụ thuộc vào
trình độ phát triển của thực tiễn xã hội. Sự phát triển của thực tiễn sẽ mở
rộng, làm sâu sắc và chính xác những quan niệm của con người về thế giới.
Vì vậy, chân lý do khoa học phát hiện ở những giai đoạn nhất định là không
thể đầy đủ. Đó là những chân lý tương đối. Chân lý là tương đối còn vì nó
luôn luôn là cụ thể, luôn luôn được bổ sung bằng những nội dung lịch sử xác
định, đúng đắn trong những điều kiện xác định. Kết quả là sự biến đổi của
những điều kiện lịch sử sẽ dẫn tới sự biến đổi chân lý, và cái gì là chân lý
trong những điều kiện lịch sử này sẽ có thể không là chân lý trong những điều
kiện khác.
Lênin nói, triết học Mác thừa nhận mỗi chân lý tương đồi là một giai
đoạn trong sự nhận thức chân lý tuyệt đối. Mỗi phát minh của khoa học chứa
đựng những yếu tố chân lý tuyệt đối. Tổng số chân lý tương đối tạo thành
chân lý tuyệt đối. Sự vận động của nhận thức con người luôn luôn đi từ chân
lý tương đối đến chân lý tuyệt đối.
Lênin đã phê phán những quan điểm duy tâm chủ quan của chủ nghĩa
thực dụng về tiêu chuẩn của chân lý và chỉ rõ: tiêu chuẩn khách quan của
chân lý là thực tiễn của con người mà nội dung của nó không phụ thuộc vào
con người.
b) Lênin phê phán "thuyết tượng trưng". Vai trò của thực tiễn trong nhận thức
"Thuyết tượng trưng" mà đại biểu là Hemhôntxơ chỉ là một hình thức
biến dạng của thuyết "bất khả tri", thuyết này coi cảm giác và biểu tượng của
con người không phải là sự phản ánh các sự vật khách quan, mà chỉ là
những ký hiệu, là những tượng trưng, tượng hình mà thôi.
Lênin chỉ ra rằng, nếu xem cảm giác không phải là hình ảnh của sự vật,
mà chỉ là ký hiệu, hay là tượng trưng không có gì giống với sự vật thì có
nghĩa là nghi ngờ sự tồn tại của sự vật, bởi vì cái tượng trưng chỉ là cái có thể
biểu thị những đối tượng hư cấu.
Lênin cũng phê phán Plêkhanốp đã từ bỏ lý luận phản ánh để đi theo
thuyết "bất khả tri" của Hemhôntxơ. Vì Plêkhanốp đã khẳng định rằng, cảm
giác của chúng ta chỉ là những tượng hình, và những tượng hình này không
giống với những sự kiện thực mà chúng thông tin cho chúng ta.
Lênin chỉ ra sự khác nhau giữa hai khái niệm “hình ảnh” và "tượng
trưng": Tất nhiên hình ảnh không hoàn toàn phù hợp với sự vật, nhưng hình
ảnh (sự phản ánh) là hiện thực khách quan của sự vật mà nó phản ánh; còn
tượng trưng thì không thể như vậy. Cảm giác của chúng ta, theo Lênin, không
phải là những "ký hiệu" có điều kiện, mà là sự chụp lại sự vật tồn tại một cách
khách quan.
Phát triển luận điểm của Mác về con người cần phải chứng minh tính
chân lý ở trong thực tiễn, nghĩa là phải chứng minh tính hiện thực, sức mạnh
của tư duy của mình, Lênin đã nhận xét rằng: "Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức".
Lênin nhấn mạnh, bản thân thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý cũng
vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Lênin viết: "Dĩ nhiên không nên
quên rằng tiêu chuẩn thực tiễn, xét về thực chất, không bao giờ có thể xác
nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người,
dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa. Tiêu chuẩn đó cũng khá "không xác
định" để không cho phép các hiểu biết của con người trở thành một cái "tuyệt
đối"; đồng thời nó cũng khá xác định để có thể tiến hành đấu tranh quyết liệt
chống tất cả các thứ chủ nghĩa duy tâm và bất khả tri".
Phân tích một cách sâu sắc học thuyết của Mác về vấn đề vai trò của
thực tiễn là cơ sở của quá trình nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý, Lênin đã
coi lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một thành tựu vĩ
đại của loài người. Lênin viết: "... đi theo con đường mà lý luận của Mác vạch
ra thì chúng ta ngày càng đi gần chân lý khách quan (tuy không bao giờ có
thể nắm hết được); nếu đi theo bất cứ con đường nào khác, chúng ta chỉ có
thể đi đến sự lẫn lộn và dối trá".
c) Sự phân tích của Lênin về "cuộc cách mạng mới nhất trong khoa học tự nhiên" và phát triển lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những phát minh mới trong lĩnh vực vật
lý học đã mở đầu "cuộc cách mạng mới trong khoa học tự nhiên", đòi hỏi phải
thay đổi những kết luận cũ của vật lý về kết cấu của vật chất, và đòi hỏi phải
thay đổi bức tranh cũ của cơ học về thế giới bằng bức tranh mới của điện từ
học. Một số nhà vật lý đã rút ra những kết luận duy tâm và bất khả tri do họ
không hiểu biết về lý luận nhận thức duy vật. Lênin viết: "Vật lý học mới sở dĩ
đi trệch sang phía chủ nghĩa duy tâm, chủ yếu là vì các nhà vật lý học không
hiểu được phép biện chứng".
Từ những phát hiện của vật lý học trong thời kỳ đó (nguyên tử có cấu
tạo phức tạp, có thể phân chia được, có thể phá hủy và chuyển hóa. Nguyên
tử được cấu tạo bởi những phần vật chất rất nhỏ, vận động nhanh - điện tử
và các hạt khác), các nhà duy tâm đã rút ra kết luận sai lầm về vật chất "biến
mất". Kết quả là sự nghi ngờ của những nhà vật lý học đã dẫn đến cuộc
khủng hoảng. Lênin nhận xét: "Thực chất của cuộc khủng hoảng của vật lý
học hiện đại là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ
bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay thế
chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri, "Vật chất
đã tiêu tan", - người ta có thể dùng câu nói đó để diễn đạt cái khó khăn cơ
bản và điển hình đối với nhiều vấn đề riêng biệt, khó khăn đã gây ra cuộc
khủng hoảng ấy".
Lênin đã chỉ ra sự tồn tại đồng thời của hai khuynh hướng vừa bài trừ,
vừa liên hệ với nhau trong khoa học - khuynh hướng phản tiến bộ và khuynh
hướng tiến bộ. Khuynh hướng tiến bộ thể hiện ở sự thay đổi căn bản và
nhanh chóng của những khái niệm trong khoa học tự nhiên. Khuynh hướng
này là do sự tiến bộ của khoa học tạo nên, thực tế mới đòi hỏi phải biến đổi
những lý thuyết vật lý cũ, phải áp dụng những sự giải thích mới có tính chất
duy vật biện chứng đối với các hiện tượng, phải thay chủ nghĩa duy vật siêu
hình bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nhưng nhiều nhà vật lý học đã
không biết xem xét những phát minh mới theo quan điểm duy vật biện chứng,
mà theo quan điểm siêu hình, do đó không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa duy
tâm. Đó chính là nguyên nhân dẫn tới khuynh hướng phản tiến bộ trong khoa
học vật lý.
Khuynh hướng phản tiến bộ trong triết học và trong vật lý học thể hiện
ở chỗ, các nhà triết học duy tâm đó ra sức lợi dụng những thành tựu mới nhất
của khoa học để biện hộ cho quan điểm duy tâm chủ quan về thế giới. Tình
hình này có nguyên nhân của nó là các phát minh trong vật lý học đụng chạm
đến nhiều vấn đề lý luận, nhiều vấn đề triết học trong khoa học tự nhiên.
Nhiều nhà bác học, do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm, đã nói rằng: những
quan niệm cũ của vật lý đã bị phá sản, vì vậy trong thế giới không có chân lý
khách quan; mọi tri thức của chúng ta chỉ là chủ quan, tùy tiện, có điều kiện;
những phát minh mới của khoa học hình như đã xua đuổi mọi quy luật, mọi
mối quan hệ nhân quả ra khỏi thế giới khách quan, ra khỏi thế giới vĩ mô. Bởi
vì nguyên tử có thể bị phá hủy, khối lượng vật thể có thể biến đổi. Cho nên,
theo các nhà duy tâm, không có một nguyên tử nào, không có một vật chất
nào là hiện thực khách quan cả; khái niệm vật chất chỉ là dấu hiệu của cảm
giác chúng ta.
Những phát minh về những hiện tượng mới, những quy luật mới trong
tự nhiên đã bị các nhà triết học duy tâm như Makhơ, Avênariút, Ôxtơvandơ
v.v. lợi dụng để khôi phục chủ nghĩa duy tâm trong lĩnh vực khoa học, để
tuyên truyền "chủ nghĩa duy tâm vật lý", để đấu tranh chống chủ nghĩa duy
vật, chống triết học mácxít. Những người theo chủ nghĩa Makhơ ở Nga như
Bôgđanốp, Badarốp, Valentinốp v.v. đã đi theo các nhà duy tâm phản tiến bộ
chống chủ nghĩa Mác, giải thích một cách duy tâm các phát minh trong vật lý.
Lênin đã chỉ ra con đường để các nhà khoa học thoát khỏi cuộc khủng
hoảng vật lý là phải thay chủ nghĩa duy vật siêu hình bằng chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Lênin nhấn mạnh, sự phân nhỏ của nguyên tử, sự biến đổi của
mọi hình thức vật chất và sự vận động của nó là điều không định tính đúng
đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Mọi giới hạn trong tự nhiên đều chỉ là
tương đối, có điều kiện, đều vận động; cũng giống như thế giới khách quan,
tri thức của chúng ta về nó luôn biến đổi, phát triển. Vật chất không biến mất
và không bao giờ biến mất. Lênin đã nêu ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất
của chủ nghĩa duy vật biện chứng: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng đề
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác". Và "do đó, nếu nói rằng khái niệm này có thể "cũ đi", như thế
tức là bập bẹ như trẻ con, tức là nhai lại một cách không suy nghĩ những lý lẽ
của triết học phản động đang thịnh hành".
Lênin nhấn mạnh rằng, những phát hiện của con người về những bí
mật của giới tự nhiên đã làm tăng thêm sự hiểu biết của con người về giới tự
nhiên, nhưng điều đó không có nghĩa là giới tự nhiên là sản phẩm của trí tuệ
con người như những nhà triết học duy tâm và những người theo chủ nghĩa
Makhơ thường khẳng định. Sự phát triển của khoa học tự nhiên không chứng
tỏ vật chất biến mất, mà chỉ chứng tỏ cái giới hạn nhận thức của con người
về vật chất mà thôi, vì nhận thức của chúng ta luôn luôn phát triển sâu sắc
thêm, nhận thức của chúng ta về những thuộc tính của vật chất là tương đối
và biến đổi.
Sự phát triển của khoa học đã chứng minh tính đúng đắn quan điểm
của Lênin về lý luận nhận thức.
3. Lênin phát triển những quan điểm triết học về xã hội của Mác
a) Lênin nhận xét về bản chất các quan điểm xã hội của Makhơ và những người theo Makhơ
Makhơ và những người theo chủ nghĩa Makhơ ra sức mở rộng các
quan điểm duy tâm chủ quan vào lĩnh vực đời sống xã hội nhằm chống lại chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Lênin viết: "Nếu về mặt nhận thức luận, Makhơ và
Avênariút đã không phát triển chủ nghĩa duy tâm mà lại đem chồng chất thêm
vào những sai lầm duy tâm cũ, một mớ thuật ngữ huênh hoang điên rồ ("yếu
tố", sự "phối hợp về nguyên tắc", "khảm nhập", v.v.), thì về mặt xã hội học
cũng vậy, chủ nghĩa, kinh nghiệm phê phán, dù có thành thật tán thành những
kết luận của chủ nghĩa Mác đi nữa, cũng chỉ đi đến chỗ xuyên tạc chủ nghĩa
duy vật lịch sử bằng những lời nói rỗng tuếch và huênh hoang về sinh học và
về duy năng luận".
Lênin phê phán những người theo phái Makhơ ở Nga. Những người
này chia thành 2 phe: một phe là địch thủ triệt để của chủ nghĩa duy vật biện
chứng mà đại biểu là ông V.Tsécnốp và những người cộng tác của tờ "Của
cải nước Nga"; một phe khác lại muốn là người mácxít nhưng lại ra sức làm
cho bạn đọc của họ tin rằng chủ nghĩa Makhơ có thể dung hòa được với chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Mác và Ăngghen.
Lênin phân tích sự dung hòa chủ nghĩa duy vật lịch sử với chủ nghĩa
Makhơ về thực chất là thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm .
Với cái gọi là tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác, Bôgđanốp đã xuyên tạc chủ
nghĩa duy vật lịch sử và có quan điểm duy tâm đối với vấn đề mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, đồng nhất tồn tại xã hội với ý thức xã hội,
phủ nhận luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò quyết định
của phương thức sản xuất đối với sự phát triển xã hội, về ý thức xã hội là sự
phản ánh của tồn tại xã hội. Lênin nói rằng, sai lầm của Bôgđanốp ở đây là
phủ nhận các quan hệ vật chất xã hội khách quan và những quy luật phát
triển của các mối quan hệ đó, đó là những cái không phụ thuộc ý thức con
người và quyết định ý thức con người. Tư tưởng đó của Bôgđanốp hoàn toàn
không có chút gì giống với chủ nghĩa Mác cả.
Sự tồn tại của thực tại khách quan (vật chất) là không phụ thuộc vào ý
thức, cảm giác, kinh nghiệm v.v.. của loài người; chủ nghĩa duy vật lịch sử
thừa nhận rằng tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của loài
người. Lênin nhấn mạnh: "Trong cái triết học ấy của chủ nghĩa Mác, đúc bằng
một khối thép duy nhất, người ta không thể dứt bỏ một tiền đề cơ bản nào,
một phần chủ yếu nào, mà không xa rời chân lý khách quan, không rơi vào sự
dối trá...". Lênin còn kịch liệt phê phán Bôgđanốp xuyên tạc chủ nghĩa duy vật
lịch sử bằng cách dùng quy luật sinh học để giải thích các hiện tượng của đời
sống xã hội thay cho quy luật đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng, làm
cho giai cấp công nhân không hiểu được các quy luật phát triển xã hội, từ đó
mà không làm được cách mạng giải phóng giai cấp mình, giải phóng quần
chúng bị áp bức bóc lột.
b) Lênin đấu tranh chống chủ nghĩa tín ngưỡng và những kẻ bảo vệ chủ nghĩa duy tâm
Tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của
Lênin có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
triết học và thần học.
Lênin chứng minh rằng, chủ nghĩa duy vật đối lập với chủ nghĩa duy
tâm, xa lạ với thần học; nó hoàn toàn giống như khoa học tự nhiên thừa nhận
tính khách quan của thế giới vật chất, rằng vật chất là không phụ thuộc vào ý
thức con người, tồn tại ngoài ý thức con người; con người cùng với ý thức
của nó là một bộ phận của thế giới, là sản phẩm cao của sự phát triển của vật
chất.
Chống lại phái Makhơ, Lênin chỉ rõ: "1) Thế giới vật lý tồn tại không lệ
thuộc vào ý thức con người và đã tồn tại từ lâu trước khi có con người, và
trước mọi kinh nghiệm của con người; 2) coi tâm lý, ý thức v.v. là sản phẩm
tối cao của vật chất (nghĩa là của cái vật lý), là chức năng của khối vật chất
đặc biệt phức tạp gọi là bộ óc người".
Lênin đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, đồng thời chỉ ra
cơ sở toàn diện của tính vật chất và tính quy luật của thế giới. Lênin bác bỏ
quan niệm sai lầm của những người theo chủ nghĩa Makhơ về "sự lạc hậu",
về "tính đã cũ" của những khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật. Lênin đã
khẳng định một cách tin tưởng rằng, tất cả sự phát triển tiếp tục của khoa học
tự nhiên và của cuộc đấu tranh giai cấp đã chứng minh hùng hồn sức mạnh
của chủ nghĩa duy vật mácxít.
Lênin đã chỉ rõ, tất cả những người theo chủ nghĩa duy tâm, từ Platông
đến những người theo chủ nghĩa Makhơ ngày nay, chủ nghĩa Cantơ mới,
thực chứng mới, Tômát mới, hiện sinh, v.v., đều ra sức tấn công vào khái
niệm vật chất. Vì vậy, để bảo vệ chủ nghĩa duy vật, Lênin đã đưa ra định
nghĩa kinh điển về vật chất.
Lênin cũng đã chống lại những nhà duy vật siêu hình đã đồng nhất khái
niệm vật chất với những trạng thái vật lý xác định (như với nguyên tử, với
khối lượng, v.v.). Lênin nhấn mạnh “"đặc tính" duy nhất của vật chất - mà chủ
nghĩa duy vật triết học là gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc
tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức của
chúng ta”.
Khái niệm triết học của Lênin về vật chất có một ý nghĩa quan trọng đối
với nhận thức khoa học, nghĩa là cái gì gắn với quan niệm của chúng ta về
cấu tạo của vật thể thì chúng có thể thay đổi theo sự phát triển của tri thức
khoa học. Bởi vì, những tri thức này ngày càng đi sâu vào bản chất của các
sự vật và hiện tượng của giới tự nhiên. Nhưng sự thay đổi các quan niệm về
cấu tạo vật chất không hề bác bỏ được tính khách quan của tồn tại vật chất.
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán là tác phẩm triết
học chủ yếu của V.I.Lênin. Trong tác phẩm này, Lênin đã tiếp tục phát triển
triết học mácxít, đã giải đáp các vấn đề cơ bản của triết học càng được đặt ra
trước đảng lúc đó, đã khái quát trên phương diện triết học những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên. Lênin đã phê phán toàn diện triết học duy
tâm tư sản phản động và chủ nghĩa xét lại trong triết học. Đây là một tác
phẩm kiểu mẫu về tính đảng bônsêvích trong cuộc đấu tranh chống những kẻ
thù của chủ nghĩa Mác, tính đảng ấy đã kết hợp một cách hữu cơ tinh thần
cách mạng nồng nhiệt với tính khoa học sâu sắc.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán là một tác phẩm
kinh điển của giai đoạn lêninít trong quá trình phát triển tư tưởng triết học
mácxít.
BÚT KÝ TRIẾT HỌC
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Cùng với một íoạt tác phẩm khác như Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột
cùng của chủ nghĩa tư bản; Nhà nước và cách mạng v.v., tác phẩm Bút ký
triết học được viết trong thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhằm phát
triển hơn nữa phép biện chứng duy vật, áp dụng phép biện chứng để phân
tích, khái quát những kinh nghiệm xã hội trong thời kỳ mới và chống lại chủ
nghĩa tiến hóa tầm thường, chủ nghĩa chiết trung và thuyết ngụy biện của
những kẻ cơ hội trong Quốc tế II. Sự ra đời của tác phẩm Bút ký triết học là
một đòi hỏi tất yếu của lịch sử, khi các nhà lý luận của Quốc tế II mưu toan
phủ nhận cả hệ thống triết học Mác và họ muốn kết học thuyết kinh tế của
Mác với chủ nghĩa Cantơ, chủ nghĩa thực chứng, thậm chí với cả duy năng
luận.
Tác phẩm Bút ký triết học là cái mốc quan trọng đánh dấu bước phát
triển mới của triết học Mác. Đây cũng là sự tiếp tục phát triển những luận
điểm trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghỉa kinh nghiệm phê phán.
Song, ở hai tác phẩm này có sự khác biệt. Nếu như trong tác phẩm Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lênin chú ý đến những
vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật khoa học, nhấn mạnh đến mặt duy vật
của nó, thì trong tác phẩm Bút ký triết học, Lênin chú ý nhiều đến phép biện
chứng.
Những tư tưởng cơ bản trong tác phẩm Bút ký triết học là cơ sở
phương pháp luận để Lênin nghiên cứu hàng loạt vấn đề khác trong kinh tế
và chính trị thời đại đế quốc chủ nghĩa, thể hiện qua một số bài báo như Sự
phá sản của Quốc tế II, Bệnh ấu trí “tả” khuynh trong phong trào cộng sản
(1920), Lại bàn về công đoàn... (1921). Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật
chiến đấu (1922), v.v..
Bút ký triết học bao gồm những đoạn trích dài (được Lênin tiến hành từ
năm 1914 đến năm 1916) về những tác phẩm triết học tiêu biểu của Mác,
Ăngghen, Hêghen, Phoiơbắc, Arixtốt, Látxan v.v.. Bên cạnh phần ghi tóm tắt
nội dung cơ bản của các tác phẩm đó, Lênin có ghi những nhận xét, những
phê phán, những khái quát và kết luận triết học rất quan trọng. Bài viết Về vấn
đề phép biện chứng của tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trong đó
Lênin đã trình bày khái quát sâu sắc và ngắn gọn phép biện chứng duy vật.
Mặc dù còn dưới dạng chưa hoàn thành, nhưng những tư tưởng cơ
bản của Bút ký triết học thực sự là kho tàng lý luận triết học có giá trị to lớn.
II. NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
Bút ký triết học được chia làm ba phần:
Phần I: Gồm chín bản tóm tắt các tác phẩm triết học của Mác,
Ăngghen, Phoiơbắc, Hêghen, Látxan, Arixtốt v.v.. Trong đó có hai đoạn trích
sơ thảo rất quan trọng là Dàn mục của phép biện chứng (lôgích của Hêghen)
và Về vấn đề phép biện chứng.
Phần II: Gồm những ghi chú về các sách, các bài báo và các bài phê
bình từ năm 1903 đến năm 1916.
Phần III: Gồm những ý kiến và bút tích ghi trong các sách từ năm 1908
đến năm 1911.
Trong tác phẩm này cần tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu
sau:
1. Tư tưởng của Lênin về phép biện chứng là khoa học về sự phát triển
Vấn đề phép biện chứng như khoa học về sự phát triển là một nội dung
cơ bản của tác phẩm. Sở dĩ Lênin chú ý đến vấn đề này là do sức ép về các
thành tựu của khoa học tự nhiên đã buộc những người bảo thủ nhất trong
triết học siêu hình thừa nhận sự phát triển, song họ lại hiểu không đúng về sự
phát triển. Lênin viết: "ở thế kỷ XX (và ngay hồi cuối thế kỷ XIX), "mọi người
đồng ý" với "nguyên tắc về sự phát triển". - Nhưng sự "đồng ý" nông cạn,
thiếu suy nghĩ, ngẫu nhiên, phi-li-xtanh ấy là một loại đồng ý mà người ta
dùng để bóp nghẹt và tầm thường hóa chân lý". Cho nên, theo Lênin, lúc này,
vấn đề không còn là thừa nhận hay không thừa nhận nguyên tắc về sự phát
triển, mà là hiểu sự phát triển như thế nào. Khi coi phép biện chứng là học
thuyết toàn diện nhất về sự phát triển, Lênin đã hiểu sự phát triển "không phải
là một sự lớn lên, một sự tăng thêm (respective một sự giảm bớt) etc, đơn
giản, phổ biến và vĩnh viễn. - Đã như vậy thì một là phải hiểu một cách chính
xác hơn sự tiến hóa là sự sinh ra và sự hủy diệt của mọi vật, là những sự
chuyển hóa lẫn nhau,- Và hai là, nếu tất cả đều phát triển, thì cái đó có áp
dụng cho những khái niệm và những phạm trù chung nhất của tư duy
không?... Nếu có, thì tức là có phép biện chứng của những khái niệm và phép
biện chứng của nhận thức".
Lênin chỉ ra hai quan niệm đối lập nhau về sự phát triển: quan niệm
biện chứng và quan niệm siêu hình. Thực chất của sự khác biệt giữa hai quan
niệm này là ở cách giải thích khác nhau về vấn đề nguồn gốc, động lực của
sự phát triển. "Hai quan niệm cơ bản... về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát
triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự phát triển coi như là
sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái thống nhất thành
những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt đối
lập ấy).
Với quan niệm thứ nhất về sự vận động, sự tự vận động, động lực của
nó, nguồn gốc của nó, động cơ của nó khi nằm trong bóng tối (hay là người ta
đem nguồn gốc ấy đặt ra bên ngoài,- Thượng đế, chủ thể etc.). Với quan
niệm thứ hai, sự lưu ý chủ yếu lại hướng chính vào sự nhận thức nguồn gốc
của "tự" vận động". Và Lênin đánh giá quan niệm thứ nhất là chết cứng,
nghèo nàn, còn quan niệm thứ hai là sinh động, vì nó cho ta chìa khóa của sự
"tự vận động" của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới "cho ta chìa
khóa của những "bước nhảy vọt", của sự "gián đoạn của tính tiệm tiến", của
sự "chuyển hóa thành mặt đối lập", của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra
cái mới".
Lênin nhấn mạnh ý nghĩa quyết định của quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập với sự phát triển là ở chỗ nó chỉ ra nguồn gốc,
động lực của sự phát triển. Lênin viết: "Phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa
các mặt đối lập".
Khi coi quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hạt
nhân của phép biện chứng, Lênin chỉ ra tính tất yếu của việc phân tích các
mâu thuẫn trong bản chất của đối tượng. Lênin viết: “Theo nghĩa đen, phép
biện chứng là sự nghiên cứu mâu thuẫn trong ngay bản chất của các đối
tượng”. Ở một trích đoạn khác, Lênin coi nguyên tắc "phân đôi của cái thống
nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó... là thực chất... của
phép biện chứng".
Vì mâu thuẫn quy định quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng,
cho nên trong quá trình nhận thức các sự vật, hiện tượng ấy, tất yếu phải xem
xét các giai đoạn phát triển của mâu thuẫn từ sự khai triển mâu thuẫn đến giải
quyết mâu thuẫn (hay là sự chuyển hóa các mặt đối lập). Trong tác phẩm này,
Lênin chú ý xem xét vấn đề chuyển hóa giữa các mặt đối lập, Lênin viết:
"Phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào
mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất, trong những điều kiện nào
chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau”. Hoặc khi trình bày 16
yếu tố của phép biện chứng, Lênin không chỉ chú ý đến sự thống nhất, sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập (yếu tố 4, 5, 6) mà còn nhấn mạnh đến sự chuyển
hóa giữa chúng). Không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối lập, mà còn
là những chuyền hóa của mỗi quy định, chất, đặc trưng, mặt, thuộc tính sang
mỗi cái khác".
Cùng với những tư tưởng về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập, Lênin còn bàn đến quy luật chuyển hóa những biến đổi về lượng
thành những biến đổi về chất và ngược lại và quy luật phủ định của phủ định.
Trong 16 yếu tố của phép biện chứng, Lênin coi yếu tố cuối cùng là sự
chuyển hóa lượng thành chất và ngược lại. Còn trong bản tóm tắt Kkoa học
lôgích, Lênin đã bút ký và nhận xét những tư tưởng quý giá của Hêghen về
các phạm trù như lượng, chất và độ. Lênin coi bước nhảy vọt, sự đứt đoạn
trong tính liên tục là nhưng đặc trưng của sự chuyển hóa giữa chất và lượng.
Trên cơ sở sự chuyển hóa lẫn nhau giữa chất và lượng, Lênin xem xét một
số phạm trù như hữu hạn, vô hạn giới hạn v.v..
Khi xem xét quy luật phủ định của phủ định, Lênin đã chỉ ra thực chất
của quy luật này là ở "sự lặp lại ở giai đoạn cao, của một số đặc trưng, đặc
tính etc. của giai đoạn thấp và sự quay trở lại dường như với cái cũ (phủ định
của phủ định)". Nếu như quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, quy luật chuyển hóa những
biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất chỉ ra cách thức của sự phát
triển, thì quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát
triển và chỉ ra cho chúng ta thấy tính kế thừa, tính lặp lại và tiến bộ của sự
phát triển.
Ngoài ra, khi bàn về quy luật phủ định của phủ định, Lênin cũng đối lập
phủ định biện chứng với phủ định siêu hình, chỉ ra đặc trưng của phủ định
biện chứng. Lênin viết: Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ
định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự,
cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện
chứng... - không, mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng
khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định, tức là không có một sự
do dự nào, không có một sự chiết trung nào”.
Ngoài ra, khi nghiên cứu những quy luật cơ bản và các phạm trù của
phép biện chứng, Lênin đòi hỏi phải gắn liền việc xem xét chúng với những
vấn đề khác như chính trị, kinh tế, với việc giải quyết những nhiệm vụ thực
tiễn. Lênin coi bộ Tư bản của Mác là mẫu mực của việc áp dụng phép biện
chứng vào nghiên cứu một xã hội cụ thể - xã hội tư bản chủ nghĩa. Mác bắt
đầu bằng sự phân tích "tế bào" của xã hội tư bản - trao đổi hàng hóa, ở đó đã
có mầm mống của tất cả mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Mác tiếp tục
nghiên cứu sự phát triển của các mâu thuẫn ấy trong tất cả mọi lĩnh vực của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và tiên đoán một cách khoa học sự cáo chung
của xã hội tư bản.
2. Những tư tưởng của Lênin về sự áp dụng phép biện chứng lý luận nhận thức và lôgích học
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần chỉ ra rằng: phép biện chứng không
chỉ là khoa học về các quy luật chung nhất của tư duy, mà cần phải hiểu một
cách bao quát hơn là khoa học về các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Những tư tưởng này của Mác và Ăngghen đã được Lênin phát
triển một cách toàn diện. Trong Dàn mục của phép biện chúng (lôgích của
Hêghen), khi khái quát phương pháp của Mác, Lênin đã phác họa ra luận
điểm về sự đồng nhất giữa phép biện chứng với nhận thức luận và lôgích
học. Lênin viết: "Mác không để lại cho chúng ta "Lỗgích học" (với chữ L. viết
hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lôgích của "tư bản", và cần phải tận dụng
đầy đủ nhất lôgích đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu.
Trong "tư bản", Mác áp dụng lôgích, phép biện chứng và lý luận nhận thức
(không cần ba từ: đó là cùng một cái duy nhất) của chủ nghĩa duy vật".
Trong ba yếu tố này, nếu như phép biện chứng là khoa học về những
quy luật chung nhất của bất kỳ sự vận động và phát triển nào, trong đó có cả
nhận thức, thì lý luận về nhận thức lại là khoa học về mối quan hệ của ý thức
với thế giới xung quanh, về sự nhận thức thế giới của con người. Theo quan
điểm của triết học Mác, đặc trưng biện chứng vốn có của đối tượng nhận thức
quy định đặc trưng biện chứng của quá trình nhận thức, vì thế biện chứng là
bản tính vốn có của mọi sự nhận thức con người. Do đó, lý luận nhận thức
muốn thật sự trở thành khoa học thì phải dựa trên cơ sở phép biện chứng
duy vật. Ngược lại, phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết toàn
diện nhất về sự phát triển thì cũng phải bao hàm trong nó lý luận nhận thức.
Lênin khẳng định "phép biện chứng chỉnh lý lý luận nhận thức (của Hêghen)
và của chủ nghĩa Mác".
Khi nghiên cứu lý luận nhận thức, Lênin đã chỉ ra ba yếu tố cơ bản của
quá trình nhận thức: “1) Giới tự nhiên; 2) nhận thức của con người, bằng bộ
óc của người (với tư cách là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên đó và 3)
hình thức sự phản ánh giới tự nhiên vào trong nhận thức của con người; hình
thức này chính là những khái niệm, những quy luật, những phạm trù etc".
Chính Lôgích học nghiên cứu các hình thức này và việc phân tích tư duy một
cách lôgích lại làm nổi bật các nội dung của phép biện chứng. Cho nên, ở đây
lý luận nhận thức bao hàm pháp biện chứng và lôgích học. Khác với lý luận
nhận thức là bàn về trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và sự thống nhất
giữa chúng, lôgích học là khoa học nghiên cứu những hình thức của tư duy
như khái niệm, phán đoán sự suy lý. Lôgích học bao gồm lôgích hình thức và
lôgích biện chứng. Lôgích hình thức đã được hình thành từ thời Cổ đại, nó
xem xét các khái niệm trong trạng thái bất động, chết cứng. Song cũng phải
thấy rằng trong một giới hạn nào đó, lôgích hình thức là có lợi như khi các đối
tượng và hiện tượng phản ánh trong các khái niệm ở trạng thái ổn định, bền
vững tương đối. Song, khi chúng ta nghiên cứu sâu sắc hơn nữa giới tự
nhiên và xã hội, chỉ ra sự liên hệ tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau của
các mặt, các thuộc tính, các quá trình, chỉ ra sự vận động và phát triển qua sự
nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, thì lôgích hình thức mất tác
dụng và tất yếu phải thay thế nó bằng lôgích biện chứng. Lúc này, xuất phát
từ đặc trưng biện chứng của các quá trình trong thế giới hiện thực, tư duy của
chúng ta phải diễn ra một cách tương ứng. Điều đó có nghĩa là trong tư duy
của chúng ta, các khái niệm, phán đoán, suy lý v.v., "phải được mài sắc, gọt
giũa, mềm dẻo, năng động, tương đối liên hệ với nhau, thống nhất trong
những đối lập". Như vậy, phép biện chứng như là khoa học về tư duy, đồng
nhất với lôgích biện chứng còn lôgich lại là học thuyết về nhận thức, là lý luận
nhận thức.
Nói tóm lại, phép biện chứng, nhận thức luận và lôgích học là đồng
nhất với nhau, song nói một cách chính xác hơn là sự đồng nhất bao hàm
khác biệt.
Khi tóm tắt Khoa học lôgích, Lênin đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen và cho rằng, không thể áp đụng nguyên xi lôgích của Hêghen, vì
"Hêghen là chủ nghĩa duy vật lộn đầu xuống dưới (theo Ảnggheh) - nghĩa là
phần lớn, tôi loại bỏ Thượng đế, tuyệt đối; ý niệm thuần túy etc.", và Lênin có
tìm ra “cái hạt chân lý sâu sắc trong cái vỏ thần bí của chủ nghĩa Hêghen”.
Khi phê phán tiền đề duy tâm trong lôgích học của Hêghen, Lênin cho rằng
không phải biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật mà
“biện chứng của sự vât sản sinh ra biện chứng của ý niệm”.
Hơn nữa, Lênin đã chỉ ra rằng để tránh sai lầm duy tâm cũng cần phải
áp dụng phép biện chứng duy vật vào lý luận về nhận thức và lôgích học. Khi
xem xét quá trình phức tạp của nhận thức, Lênin đã chỉ rõ con đường mà tư
duy đã tiến từ các sự vật cụ thể được phản ánh trực tiếp qua các giác quan,
qua các hình thức như cảm giác, tri giác, biểu tượng đến các khái niệm trừu
tượng, khái quát những mối liên hệ bản chất của các sự vật đó và là sự phản
ánh gián tiếp các sự vật đó một cách "sâu sắc hơn, chính xác hơn, đầy đủ
hơn". Nhận thức bản chất đó một cách biện chứng chính là sự triển khai của
toàn bộ "những vòng khâu" của hiện thực, nó không dừng lại ở những cái
trừu tượng, mà lại đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể trong tư duy với tính
cách là "sự thống nhất cái nhiều vẻ" (Mác). Lênin viết: “Ý nghĩa của cái chung
là có tính chất mâu thuẫn: nó là chết cứng, là không thuần khiết, là không
hoàn toàn etc, etc., nhưng chỉ nó mới là một giai đoạn trên con đường đi tới
nhận thức cái cụ thể, bởi vì chúng ta không bao giờ có thể nhận thức được
cái cụ thể một cách hoàn toàn. Một tổng số vô hạn những khái niệm chung,
những quy luật etc. đem lại cái cụ thể trong tính toàn thể của nó”.
Trong tác phẩm này, Lênin đã gắn liền lý luận nhận thức với thực tiễn,
coi thực tiễn là một vòng khâu trong quá trình nhận thức của con người. Lênin
viết: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự
nhận thức thực tại khách quan”. Trong quan hệ giữa lý luận và thực tiễn,
Lênin nhấn mạnh đến vai trò quyết định của thực tiễn, theo Lênin, "Thực tiễn
cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến,
mà cả của tính hiện thực trực tiếp". Chỉ trên cơ sở xác định đúng đắn vai trò
của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn của nhận thức, thì
chúng ta mới hiểu được không chỉ sự phát triển lịch sử của tri thức phản ánh
hiện thực khách quan, mà còn cả các hình thức lôgích của tư duy nữa. Lênin
viết: "Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần đươc in vào ý
thức của con người bằng những hình tượng lôgích". Ngoài ra, Lênin còn coi
những phạm trù lôgích là giai đoạn lịch sử mà con người tách ra khỏi giới tự
nhiên bằng sự nhận thức giới tự nhiên và chinh phục nó. "Con người bản
năng, người man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên. Người có ý thức tự
tách khỏi giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi
đó... chúng là những đỉểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững
được màng lưới".
Ngoài ra, Lênin còn xem xét một loạt các phạm trù của phép biện
chứng duy vật như vật chất và ý thức, bản chất và hiện tượng, hình thức và
nội dung, nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực, tất nhiên và ngẫu
nhiên, v.v., chỉ ra cơ sở khách quan, phân tích nội dung và vai trò của chúng
trong quá trình nhận thức. Ví dụ Lênin đòi hỏi phải chỉ ra ý nghĩa nền tảng của
phạm trù vật chất và đi sâu hơn nữa trong việc nghiên cứu vấn đề đó. Lênin
viết: "Một mặt, cần phải từ nhận thức về vật chất đi sâu vào nhận thức (khái
niệm) về thực thể, để tìm thấy những nguyên nhân của hiện tượng. Mặt khác,
nhận thức hiện thực về nguyên nhân là sự đi sâu thêm của nhận thức từ bề
mặt các hiện tượng đến thực thể". Lênin cũng nhấn mạnh đến tính tích cực
của ý thức, thể hiện qua hoạt động biến đổi giới tự nhiên và xã hội của con
người, ở việc sáng tạo ra văn hóa trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy
luật khách quan. “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách
quan mà còn tạo ra thế giới khách quan”.
Luận điểm của Lênin về lý luận phép biện chứng là sự tổng kết khái
quát toàn bộ lịch sử nhận thức, trong đo có lịch sử phát triển của con người,
lịch sử ngôn ngữ lịch sử triết học và lịch sử các khoa học cụ thể. Lênin chỉ ra
rằng: "Sự phát triển của triết học trong lịch sử "phải phù hợp" (??) với sự phát
triển của triết học lôgích". Lôgích "là sự tổng kết, tổng số, kết luận của lịch sử
nhận thức thế giới".
3. Chủ nghĩa duy vật chiến đấu trong tác phẩm
Khi nghiên cứu phép biện chứng, Lênin tiếp tục đường lối của chủ
nghĩa duy vật chiến đấu, một biểu hiện của nguyên tắc tính đảng trong triết
học. Khi phê phán chủ nghĩa duy tâm, Lênin đã chỉ ra nguồn gốc nhận thức
luận và nguồn gốc xã hội của nó. Luận điểm có ý nghĩa phương pháp luận,
định hướng cho chúng ta khi nghiên cứu và phê phán các học thuyết của chủ
nghĩa duy tâm. Tránh phương hướng bác bỏ nó một cách thuần túy, không
chỉ ra được nguyên nhân nhận thức luận và nguyên nhân xã hội của những
thế giới quan siêu hình đó. Lênin viết: "Theo quan điểm của một chủ nghĩa
duy vật thô lỗ, đơn giản, siêu hình, thì chủ nghĩa duy tâm triết học chỉ là một
sự ngu xuẩn. Trái lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì
chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi phồng, bơm to)
phiến diện, thái quá, của một trong những đặc trưng, của một trong những
mặt, của một trong những khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối,
tách rời khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa".
Nhận thức của con người, theo Lênin, không phải là đường thẳng, mà
là đường cong đi gần vô hạn đến một loạt vòng tròn xoáy ốc. Cho nên "bất cứ
đoạn nào, khúc nào, mảnh nào của đường cong ấy cũng có thể chuyển hóa
(chuyển hóa một cách phiến diện) thành một đường thẳng độc lập, đầy đủ,
đường thẳng này... sẽ dẫn đến vũng bùn, đến chủ nghĩa thầy tu".
Cùng với vấn đề nguồn gốc nhận thức luận, Lênin còn chỉ ra nguồn gốc
xã hội của chủ nghĩa duy tâm ở chỗ những sai lầm về lý luận được lợi ích giai
cấp của giai cấp thống trị củng cố lại. Trên cơ sở phương pháp luận như thế,
Lênin đã xem xét, phê phán chủ nghĩa duy tâm của Platôn, Cantơ, Hêghen, ví
dụ, khi nói về chủ nghĩa duy tâm nguyên thủy (Platôn), Lênin cho rằng: "Chủ
nghĩa duy tâm nguyên thủy: cái chung (khái niệm, ý niệm) là một tồn tại cá
biệt. Điều đó hình như kỳ lạ, vô lý một cách quái dị (nói đúng hơn: một cách
ấu trĩ). Nhưng chủ nghĩa duy tâm hiện đại, Cantơ, Hêghen, ý niệm về Thượng
đế, chẳng phải là cũng cùng một loại đấy sao".
Ngoài ra, Lênin đã phê phán một số người đã lợi dụng tính mềm dẻo,
linh hoạt của các khái niệm một cách chiết trung, ngụy biện để chống lại chủ
nghĩa Mác. Theo Lênin, họ có thừa nhận tính mềm dẻo, năng động, chuyển
hóa qua lại giữa các khái niệm, song lại hiểu điều đó một cách chủ quan, chứ
không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan. Như vậy, có sự đối lập giữa
cách giải quyết duy vật và cách giải quyết duy tâm về vấn đề mối quan hệ
giữa các khái niệm đối với hiện thực. Lênin cho rằng: "tính linh hoạt đó áp
dụng một cách chủ quan bằng chủ nghĩa chiết trung và ngụy biện. Tính linh
hoạt áp dụng một cách khách quan, nghĩa là phản ánh tính toàn diện của quá
trình vật chất và sự thống nhất của quá trình đó, thì đó là phép biện chứng, là
sự phản ánh chính xác sự phát triển vĩnh viễn của thế giới".
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Bút ký triết học là tác phẩm chứa đựng rất nhiều tư tưởng và những ý
kiến hết sức quan trọng về nhiều vấn đề khác nhau của triết học. Chủ đề
trung tâm của Bút ký triết học là phép biện chứng. Lênin đã đưa ra một định
nghĩa sâu sắc về phép biện chứng, làm sáng tỏ về mọi mặt bản chất của nó,
các yếu tố của nó, nêu lên các cơ sở của cách quan niệm mácxít về lôgích và
các phạm trù của nó, đã đưa ra đặc trưng của quá trình biện chứng của nhận
thức, học thuyết về những mâu thuẫn với tính cách là hạt nhân của phép biện
chứng. Cái có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển trết học là luận điểm của
Lênin về tính thống nhất giữa phép biện chứng, lôgích và lý luận nhận thức.
Bút ký triết học là một kiểu mẫu về cách phát triển có sáng tạo phép biện
chứng duy vật và đề ra một cương lĩnh để tiếp tục nghiên cứu trong lĩnh vực
triết học mácxít.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Phần I: KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
I. Những tiền đề xuất hiện triết học Mác
II. Quá trình hình thành và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng
của C.Mác và Ph.Ănggben
III. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác
Phần II: GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM CHỦ YẾU CỦA MÁC -ĂNGGHEN - LÊNIN
A- Tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen
- Hệ tư tưởng Đức
- Tuyên ngôn của Đảng cộng sản
B- Tác phẩm của Ph.Ăngghen
- Chống Đuyrinh
- Biện chứng của tự nhiên
- Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức
C- Tác phẩm của V.I.Lênin
- Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
- Bút ký triết học
---//---
TRIẾT HỌC
Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao họckhông thuộc chuyên ngành triết học
(Tái bản có sửa chữa)
TẬP II
TẬP THỂ TÁC GIẢ:
- PGS - PTS Nguyễn Hữu Vui
- PTS Phạm Ngọc Thanh
- PTS Nguyễn Văn Tân
- PGS Vũ Ngọc Pha
TẬP THỂ CHỦ BIÊN:
- PGS - PTS Nguyễn Hữu Vui
- PGS Vũ Ngọc Pha
- PGS - PTS Nguyễn Ngọc Long
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Chịu trách nhiệm xuất bản: Giáo sư TRẦN NHÂM
Biên tập: NGUYỄN MẠC
Sửa bản in:
BAN BIÊN TẬP SÁCH GIÁO KHOA VÀ SÁCH THAM KHẢO
Vẽ bìa và trình bày: CAO QUÝ
In 1.200 cuốn, khổ 13 x 19cm, tại Nxb Chính trị quốc gia. Số XB: 90/CTQG. In
xong và nộp lưu chiểu tháng 6-1996.
top related