saomaidata.orgsaomaidata.org/library/579... · Web viewTÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG. TÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH
Post on 01-Feb-2018
257 Views
Preview:
Transcript
TÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG
TÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH TRỊ CHOHỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG
(Tái bản có sửa chữa, bổ sung)
LỜI NHÀ XUẤT BẢNQuán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục lý luận chính trị, tổng kết
thực tiễn việc học tập lý luận chính trị trong nhiều năm qua, Ban Tư tưởng -
Văn hóa Trung ương biên soạn Tài liệu học tập chính trị cho lớp bồi dưỡng
kết nạp Đảng.
Nội dung cuốn sách gồm bốn bài như đã xuất bản trước đây, lần này
được sửa chữa, bổ sung căn cứ theo các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX. Ngoài các tài liệu cần đọc thêm, lần xuất bản này có
thêm Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc tế ca; hướng
dẫn các thủ tục kết nạp người vào Đảng; mẫu đơn xin vào Đảng; mẫu lý lịch
của người xin vào Đảng; mẫu giới thiệu quần chúng ưu tú xin vào Đảng; mẫu
giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng; mẫu tổng hợp ý kiến nhận xét của quần
chúng đối với người xin vào Đảng; mẫu nghị quyết xét đề nghị kết nạp Đảng.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia trân trọng giới thiệu cuốn sách Tài liệu
học tập chính trị cho học viên Lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng (Tái bản có sửa
chữa, bổ sung). Mong bạn đọc đóng góp ý kiến để cuốn sách hoàn thiện hơn.
Tháng 5 năm 2003
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Bài 1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMĐảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập
nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ
thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc.
Hơn bảy thập kỷ qua, Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã giành được những thắng lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự
phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội;
mở ra thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: là cả một pho lịch sử bằng váng. Vì vậy, học tập, nghiên cứu lịch sử
Đảng ta là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi chúng ta.
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI, BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự
chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của các chiến sĩ cách mạng tiền bối, đáp ứng
nhu cầu lịch sử của đất nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, từng bước thiết lập
chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ
máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến giai cấp tư sản
mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực. Sự cấu kết giữa đế quốc
và phong kiến là đặc trưng của chế độ thuộc địa. Đồng thời, chúng thực hiện
chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, chia rẽ dân tộc, tôn
giáo..., làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi
phong trào yêu nước bị đàn áp dã man, mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến
bộ từ bên ngoài vào bị ngăn cấm.
Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát
triển kinh tế độc lập của nước ta, tăng cường vơ vét tài nguyên và bóc lột
nặng nề, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến..., làm cho nhân dân ta, trước
hết là công nhân và nông dân, bị bần cùng hóa, nền kinh tế bị què quặt, lệ
thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng kéo dài.
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích
văn hóa nô dịch, vong bản, sùng Pháp, kìm hãm dân ta trong vòng tối tăm,
dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội
Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc
địa, nửa phong kiến. Chính sách thống trị của Pháp và bọn tay sai đã tạo ra
trong xã hội Việt Nam hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là
giữa nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến - chỗ dựa cho bộ máy thống trị
và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó quan hệ chặt chẽ
với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu.
Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn
phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải
gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách
mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quvết.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đờiTrong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài và gian khổ,
ác liệt, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần
đấu tranh anh dũng, bất khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân
dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930,
hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sĩ phu
và các nhà yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau như
phong trào cần Vương, phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân
do cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và một số người yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản khởi xướng, các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn
Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... Tất cả
các phong trào đấu tranh đó dù vô cùng anh dũng nhưng đều thất bại và bị
thực dân Pháp đàn áp tàn bạo.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh đó
là những người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường cứu nước
đúng đắn phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng
nước ta thời kỳ đó đứng trước cuộc khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước.
3. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ
Chí Minh) rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Trên con đường bôn ba
khắp năm châu, bốn biển, Người vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý
luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ) và
tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một trong
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người đã từng bước rút ra
nhiều bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của
mình.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương đã giải
đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp
Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc,
đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm
lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong
trào cách mạng vô sản thế giới... Từ đây, Người dứt khoát đi theo con đường
cách mạng của Lênin, con đường Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là
bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến
sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế của Người. Sự
kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân
tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong
trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về
Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và
sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) của Người.
Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) trực
tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người
tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, sáng lập và
trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài
cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... để một
mặt tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, mặt khác tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi
đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn
những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm
dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp
công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân, nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi
phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy các tổ chức đảng được thành
lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc
Kỳ.
- Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam
Kỳ.
- Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở
Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu
tranh cách mạng ở Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt
động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức
thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lành đạo. Nguyễn Ái
Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất
có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp
tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội
quần chúng...
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử
như là Đại hội thành lập Đảng Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ
XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc
nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính
trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là
đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài
mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Chủ tịch
Hồ Chí Minh khởi thảo được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách
mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta.
II. NHỮNG THÀNH TỰU VẺ VANG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền - Cách mạng Tháng Tám (1945)
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn,
Đảng ta đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng
lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu
tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng, trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ
hy sinh, Đảng từng bước vận động, giáo dục quần chúng, qua ba cao trào
cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939,1939-1945) như ba cuộc tổng diễn tập
cách mạng, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ
lịch sừ, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta
lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn.
Chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô
lệ của chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát tồn tại
trong gần một thế kỷ.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập tự do, dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào
rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của dân tộc thuộc địa và
nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc”.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã phải đối
mặt với ba thứ giặc hung dữ: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói
hoành hành đã làm cho hơn 2 triệu đồng bào chết đói; trên 95% dân Việt Nam
mù chữ; miền Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng, miền Nam trên 15 vạn quân
Pháp lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà
nước ta còn rất non yếu: vận mệnh của đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ
trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch, chúng ta thực
hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng, giành thời
gian củng cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng
suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã
động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua
muôn vàn khó khăn, nguy hiểm tưởng như không qua được, củng cố, giữ
vững chính quyền đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị
mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Bất chấp nguyện vọng của nhân dân ta và mặc dù chúng ta đã nhân
nhượng, nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần
nữa. Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay go mới, phải đứng
lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã quyết tâm “thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”... Với
đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là
chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt
qua mọi khó khăn giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử (tháng 5-1954) mãi mãi ghi vào lịch
sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ
XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của
hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hoàn
toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên
trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân
hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời
cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ
nghĩa trên thế giới”.
Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý: “...trong điều kiện thế giới ngày
nay, một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên
quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc
lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp
công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại
quân thù và giành tự do, độc lập”.
3. Đảng lãnh dạo tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược - đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng
Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điếm là đất nước tạm chia làm hai
miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Con đường phát triển tất
yếu của cách mạng Việt Nam như Đảng ta xác định là tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng
miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
chống đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một chiến lược khác nhau nhưng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ
vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển cách mạng Việt Nam.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng có tác
dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhân dân cả nước ta tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quyết “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ đã huy
động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ
hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Song, trải qua 21 năm, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến
đấu kiên cường, lại được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên
thế giới, đã lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở
miền Nam. Bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với
thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh, thấy hết lực lượng
mà kẻ địch đã sử dụng, những ý đồ mà chúng đã thực thi, nhớ lại những tình
huống cực kỳ phức tạp mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua, chúng ta càng
thấy rõ tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi dược ghi vào lịch sử dân tộc như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm
chiến tranh giải phóng dân tộc, bao vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị tàn
bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quá của chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, mở
ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
cả nước.
4. Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (từ 1975 đến nay)
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt
Nam có những thuận lợi, song cùng không ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất
là nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu
quả chiến tranh để lại nặng nề. Chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động luôn tìm
mọi cách phá hoại. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã và đang trải
qua nhiều diễn biến phức tạp; chủ nghĩa xã hội thế giới gặp phải những khó
khăn, thử thách lớn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào, đặc biệt từ khi chế độ
xả hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Quá trình đó đã tác động, ảnh
hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng
Việt Nam đã vượt qua những khó khăn trở ngại, thu được những thành tựu
quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước
về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc Tổ
chức xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, nhân dân
ta đã có những cố gắng to lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân. Chúng
ta tập trung sức bắt tay xây dựng nhiều công trình kinh tế trọng điểm: đường
sắt Bắc - Nam, thủy điện Hòa Bình, xi măng Hoàng Thạch, cầu Thăng Long...
Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế - xã hội còn thấp so với yêu cầu kế
hoạch và công sức bỏ ra, nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ
lạm pháp cao quá mức, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng gay gắt.
Với tinh thần nhìn thắng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,, nói rõ sự
thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (12-1986) đã nghiêm
khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được,
phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan,
duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra
bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và nhiệm vụ kinh tế - xã
hội 5 năm 1991 - 1995, cụ thể hóa hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. Sau
10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đất nước ta vượt qua một
giai đoạn thử thách gay go. Trong hoàn cảnh phức tạp, khó khăn, cách mạng
nước ta không những đứng vững mà còn vươn lên đạt những thắng lợi nổi
bật trên nhiều mặt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (22-6 đến 1-7-1996) đã
nhận định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm
1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn
chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị
tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang
thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định
rõ hơn”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp
tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội”. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ từ năm 1996 đến năm 2000 là: “tăng
trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những
vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống
nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho
bước phát triển cao hơn vào thế kỷ sau”.
Năm năm qua (1996 - 2000), bên cạnh những thuận lợi, nước ta gặp
nhiều khó khăn, song toàn Đảng, toàn dân ta ra sức thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, đạt được những thành tựu quan trọng.
Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP tăng bình
quân hàng năm 7%). Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất
lương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%,
một số ngành tăng nhanh: điện, than, khai thác dầu thô, thép cán, xi măng...
Các ngành dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000 đã chặn
được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và
vượt kế hoạch đề ra.
Văn hóa, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Giáo dục - Đào tạo có bước phát triển cả về quy mô và cơ sở vật chất.
Việc chăm sóc sức khỏe nhân dân được đẩy mạnh. Công tác xóa đói, giảm
nghèo trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật được dư luận thế giới đánh
giá cao. Mỗi năm hơn 1,2 triệu lao động có việc làm mới, V.V..
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được
tăng cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng
hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ngày càng được phát
huy.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị
được củng cố. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy;
một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước
hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện.
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc
tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt.
Những thành tựu đạt được trong 5 năm (1996 - 2000) đã tăng cường
sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống của nhân
dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao
vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII cũng còn những yếu kém, khuyết điểm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp.
Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và gay gắt, chậm được giải
quyết. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát
triển. Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, là rất nghiêm trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001) đã chỉ rõ: Thực
tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng
minh tính đúng đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết
tâm xây dựng đất nước Việt nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu
tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ
nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các
nước phát triển trên thế giới.
Chặng đường vẻ vang hơn bảy thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng
suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu kỳ
diệu. Tuy nhiên, Đảng cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm,
khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát hiện ra những sai lầm,
khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời.
Đảng công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm
sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin cậy,
thừa nhận Đảng ta là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy
nhất của cả dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào
có thể lãnh đạo cách mạng.
III. NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi
luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện
bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Đó là:
- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh, nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với
nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Đảng.
- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế...
Những truyền thống đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc
tế trên một tầm cao mới của thời đại, là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo
của Đảng. Đó là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh
phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ đảng viên của Đảng góp phần tạo
nên. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện
tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của
Đảng ta. Ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế
giới, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công
nhân. Vì vậy, trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là
trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thứ thách dù hiểm
nghèo tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách
sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, đưa con thuyền cách
mạng vượt lên.
Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng
đứng vững trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lênin cho rằng: “Chỉ có đảng nào được một
lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến
sĩ tiên phong”. Đảng ta không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn
Việt Nam. Đồng thời, Đảng ta không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết lịch sử và truyền thống của Đảng
không phải chỉ để tự hào về Đảng mà quan trọng hơn là góp phần giữ vững,
kế thừa và phát huy những truyền thống của Đảng, làm cho Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm
đòi hỏi của thời đại mới, đưa ngọn cờ vinh quang của Đảng lên tầm cao mới.
CÂU HỎI THẢO LUẬN1. Trong hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại như thế nào?
2. Phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt
Nam? Những truyền thống đó đang được Đảng ta giữ gìn và phát huy ra sao?
Bài 2. CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. KHÁI NIỆM CƯƠNG LĨNH
1. Chính đảng của giai cấp nào cũng có cương lĩnh chính trị
Trong lịch sử phát triển của loài người, khi xã hội đã phân chia thành
giai cấp, có mâu thuẫn về lợi ích giai cấp là có đấu tranh giai cấp. Đấu tranh
chính trị là hình thức đấu tranh giai cấp cao nhất, vì nó giải quyết vấn đề
quyền lực chính trị thuộc về giai cấp nào. Giai cấp nào giành được quyền lực
chính trị sẽ trở thành giai cấp thống trị về chính trị đối với xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, các đảng chính trị không ra đời cùng với sự ra
đời của các giai cấp. Lịch sử đấu tranh giai cấp đã chứng minh rằng, đấu
tranh giai cấp phát triển đến một trình độ nhất định - trình độ đấu tranh chính
trị - thì các đảng chính trị mới có khả năng ra đời. Đấu tranh chính trị đòi hỏi
giai cấp phải có mục tiêu chính trị rõ rệt, phải có tổ chức chặt chẽ để tập hợp
lực lượng của giai cấp, để huy động lực lượng đồng minh đánh bại kẻ thù
giành thắng lợi. Đảng chính trị về nguyên tắc, là tổ chức cao nhất, chặt chẽ
nhất của giai cấp, kiên quyết nhất trong cuộc đấu tranh đế bảo vệ lợi ích giai
cấp khi chưa giành được quyền lực chính trị cũng như khi đã giành được
quyền lực chính trị.
Trong thời đại ngày nay, chế độ chính trị - xã hội ở mỗi nước có sự
khác nhau, nhưng dưới chế độ chính trị - xã hội nào thì đảng cầm quyền cũng
đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của mỗi nước. Lãnh đạo của Đảng
là lãnh đạo chính trị. Đảng đề ra cương lĩnh chính trị.
2. Cương lĩnh chính trị là gì?Cương lĩnh chính trị là văn kiện lý luận và chính trị cơ bản chỉ rõ mục
tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn
nhất định của một chính đảng hoặc một tổ chức chính trị. Theo V.I.Lênin,
“Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả
những điều mà đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh”.
Theo quan niệm của Đảng ta: Cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày
những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp
cách mạng trong một giai đoạn nhất định.
Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn
Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho lý tưởng
mà Đảng đã chỉ ra.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Hội nghị thành lập Đảng (từ ngày 3 đến ngày 7- 2-1930) đã thông qua
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình
tóm tắt của Đảng, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Những văn kiện đó
hợp thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung của Cương lĩnh tuy rất vắn tắt nhưng đã xác định đúng đắn
những vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Trên cơ sở xác định đúng đắn hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta lúc
đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và mâu thuẫn giữa
nhân dân lao động, trước hết là nông dân với địa chủ phong kiến, Cương lĩnh
xác định phương hướng và nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là:
“Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Nhiệm vụ của giai đoạn đầu là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến” cùng bộ phận phản động tay sai của chúng, “làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập”, thiết lập chính quyền công nông, đem lại mọi
quyền tự do cho nhân dân,...
Về lực lượng lãnh đạo cách mạng, Cương lĩnh chỉ rõ đó là giai cấp vô
sản mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Lực lượng cơ bản của cách
mạng là giai cấp vô sản và đại đa số dân cày. Đồng thời, hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức và trung nông, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ
được, đoàn kết dân tộc trên cơ sở giữ vững lợi ích của công nông; xác định
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, thực hiện chủ
nghĩa quốc tế vô sản; thực hiện triệt để sách lược phân hóa kẻ thù. Phương
pháp cách mạng chủ yếu là dùng bạo lực cách mạng của quần chúng.
Tóm lại, đây là một Cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn
và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, thể hiện sự kết hợp
nhuần nhuyễn quan điếm giai cấp với quan điểm dân tộc, độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 10 năm 1930 đã
thông qua bản Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu
tiên của Đảng soạn thảo, trong đó có nhiều nội dung quan trọng của Cương
lĩnh đã được luận chứng sâu sắc và có sự phát triển.
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH NĂM 1991
Với thắng lợi lịch sử mùa Xuân năm 1975, cách mạng dân tộc dân chủ
ở nước ta cơ bản đã hoàn thành. Cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đảng ta cần có cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991), trên cơ sở tổng
kết quá trình hơn 60 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1930, phân tích sâu sắc
đặc điểm, hoàn cảnh quốc tế và trong nước, Đảng ta đã đề ra cương lĩnh
mới: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991) với những nội dung cơ bản sau:
1. Năm bài học lớn của cách mạng Việt NamTổng kết thực tiễn hơn 60 năm cách mạng nước ta (1930-1931) cả
trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (bao
gồm 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI đề ra), từ những thành công và khuyết điểm, sai lầm, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng rút ra năm bài học lớn:
Bài học thứ nhất: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, có giá trị trong
cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn
cho thấy, nắm chắc bài học này sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc có quan hệ hữu
cơ với nhau.
Bài học thứ hai: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy, chính nhân dân là người
làm nên thắng lợi lịch sử.
Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và
toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân
chính của nhân dân, đại biểu trung thành với lợi ích của nhân dân. Đảng
không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu,
mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ làm cho sự nghiệp cách mạng bị tốn thất, thậm
chí làm cho cơ đồ bị sụp đổ. Bài học này càng cần thiết trong thời kỳ mới, đòi
hỏi phải được vận dụng sáng tạo.
Bài học thứ ba: Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết; đoàn kết
toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là
truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của nhân dân, được
Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên sức mạnh to lớn
giành thắng lợi.
Bài học thứ tư: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Sức mạnh trong nước, sức mạnh
dân tộc là sức mạnh tổng hợp tạo ra từ truyền thống của dân tộc, của văn hóa
tinh thần là sức mạnh vật chất của dân tộc. Sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời
dại, sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển của lịch sử nhân loại, của
cách mạng khoa học và công nghệ, của lực lượng cách mạng và tiến bộ trên
thế giới,...
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh bên trong là yếu
tố quyết định, nó được nhân lên nếu kết hợp, tận dụng được sức mạnh bên
ngoài.
Bài học thứ năm: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Kiên định sự lãnh đạo của Đảng,
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu cho
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng phải xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết
các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Muốn vậy, cần quán triệt những nội dung cơ
bản sau:
- Nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
- Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức
thực tiễn của Đảng;
- Xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan, đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân;
- Phòng chống có hiệu quả những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối,
bệnh quan liêu và sự thoái hóa biến chất của cán bộ, đảng viên, v.v...
Năm bài học lớn của cách mạng nói trên cũng là năm bài học về sự
lãnh đạo của Đảng, nó vẫn còn giữ nguyên ý nghĩa.
2 Khẳng định con đường xã hội chủ nghĩaTrên cơ sở xác định đúng đắn nội dung, tính chất, đặc điểm của thời
đại ngày nay, những thuận lợi, khó khăn trong nước và những kinh nghiệm đã
tích lũy được, Cương lĩnh một lần nữa khẳng định con đường xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang đi.
a) Hoàn cảnh quốc tếHoàn cảnh quốc tế đang diễn ra sự biến đổi to lớn và sâu sắc với
những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại vừa tạo ra thời cơ phát triển nhanh, vừa tạo ra những
thách thức đối với nước ta và các nước.
- Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng, thậm
chí ở một số nước, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội đã
thay đổi. Các thế lực đế quốc luôn phản kích quyết liệt nhằm xóa bỏ các nước
xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang
diễn ra gay gắt.
- Chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, song bản chất
áp bức, bóc lột và bất công vẫn không thay đổi. Mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân với
giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các trung tâm tư bản,
giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển ngày càng tăng.
- Cuộc đấu tranh của các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát
triển chống nghèo nàn, lạc hậu chống chủ nghĩa thực dân mới, chống sự can
thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân
tộc đang tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức và khó khăn phức tạp.
- Nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách cần phải giải quyết.
- Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu
tranh giai cấp gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội đang đứng trước nhiều
khó khăn, thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co;
song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
b) Những khó khăn, thuận lợi của nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Khó khăn to lớn không dễ khắc phục trong một sớm một chiều là lực
lượng sản xuất rất thấp, nước ta vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, bị chiến
tranh kéo dài, tàn phá gây hậu quả nặng nề, tàn dư thực dân, phong kiến còn
nhiều, các thế lực thù địch tăng cường chống phá,...
- Thuận lợi cơ rất cơ bản: có chính quyền nhân dân, đất nước trong giai
đoạn hòa bình và xây dựng chủ nghĩa xã hội; dân tộc ta anh hùng, có ý chí
vươn lên mạnh mẽ; nhân dân có lòng yêu nước nồng nàn, lao động cần cù,
sáng tạo; có Đảng được tôi luyện, dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; có một số
cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu; có thời cơ do cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ mang lại. Đặc biệt là, công cuộc đổi mới do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng khởi xướng đã đạt được những thành tựu bước
đầu rất quan trọng, tạo thế đi lên, qua đó càng khẳng định con đường của
chúng ta đang đi là đúng. Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn
duy nhất đúng đắn.
Cương lĩnh khẳng định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình
đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự
cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích
hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
3. Quan niệm về chủ nghĩa xã hộiTrong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, việc Đảng ta
nêu lên quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa
xã hội là xã hội bao gồm các đặc trưng chủ yếu sau đây:
Đặc trưng thứ nhất: Nhân dân lao động làm chủ. Đây là đặc trưng cơ
bản khác biệt hoàn toàn về chất so với chủ nghĩa tư bản và các chế độ bóc
lột; nó thể hiện lý tưởng cao đẹp của nhân loại, khát vọng cháy bỏng ngàn đời
của con người.
- Nhân dân làm chủ trên thực tế mọi mặt đời sống xã hội, được bảo
đảm bằng pháp luật, được thực hiện trên cả hai hình thức: làm chủ đại diện
và làm chủ trực tiếp.
- Quá trình thực hiện làm chủ là một quá trình lâu dài, khó khăn, gian
khổ, từ thấp đến cao, phụ thuộc vào kết quả sự phát triển xã hội và phát triển
bản thân con người.
Đặc trưng thứ hai: Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thực hiện công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở kinh tế để
xóa tận gốc việc sinh ra giai cấp đối kháng, xóa tận gốc cơ sở kinh tế của chế
độ người bóc lột người.
Điểm khác về chất giữa kinh tế xã hội chủ nghĩa so với kinh tế tư bản
chủ nghĩa là chế độ sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu: trong chủ nghĩa
tư bản là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa; trong chủ nghĩa xã hội là
chế độ công hữu. Từ đó quy định chế độ tổ chức, quản lý sản xuất, chế độ
phân phối kết quả sản xuất: chủ yếu phân phối theo lao động (trong chủ nghĩa
xã hội) và phân phối theo tư bản (trong chủ nghĩa tư bản).
Đặc trưng thứ ba: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy xã hội phát triển. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn
hóa.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung
cốt lõi của nó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản
sắc dân tộc là những giá trị tinh thần bền vững mà lịch sử hàng ngàn năm của
dân tộc đã hun đúc lên. Đối với dân tộc Việt Nam đó là lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết cộng đồng gắn chặt cá nhân
với gia đình, làng xã, Tổ quốc, là tinh thần ham học tập cầu tiến bộ, là lối sống
giản dị khiêm tốn, là lòng nhân ái thủy chung, trọng nghĩa tình đạo lý.
- Giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Đặc trưng thứ tư: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, khác
biệt so với chủ nghĩa tư bản. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
chủ nghĩa xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội:
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động.
- Con người phát triển toàn diện là con người đạt đến trình độ cao về
trí, đức, thể, mỹ tương xứng với cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Đặc trưng thứ năm: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Đặc trưng thứ sáu: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới.
Hai đặc trưng năm và sáu là kết quả của tình trạng xóa bỏ bóc lột, áp
bức, bất công do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
chủ yếu sinh ra.
Thực tế nhiều nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao hiện nay cho thấy
nạn kỳ thị chủng tộc ngay trong các nước đó và áp bức, bóc lột của các nước
này đối với các nước nghèo, chậm phát triển diễn ra dưới nhiều hình thức,
vừa trắng trợn, vừa tinh vi.
Sáu đặc trưng nói trên gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể
thống nhất, vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần
từng bước. Mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý đều phải chú ý đến cả sáu đặc
trưng, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của mọi cấp, mọi
ngành.
4. Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Những phương hướng cơ bản mà Cương lĩnh chỉ ra vừa mang tính
nguyên tắc, bảo đảm không chệch hướng xã hội chủ nghĩa, vừa quán triệt
tinh thần đổi mới để không ngừng tiến lên vững chắc và không lặp lại sai lầm
cũ.
Một là, “xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
Vấn đề xây dựng Nhà nước được đặt lên hàng đầu, vì vấn đề chính
quyền luôn luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng; nước ta từ một
nước lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, cần biết phát huy ưu thế của chế độ
chính trị, của chính quyền Nhà nước để khắc phục tình trạng yếu kém về trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Phương hướng này chỉ rõ bản chất giai cấp, tính nhân dân của Nhà
nước ta. Chỉ có một Nhà nước như vậy, nhân dân ta mới có công cụ mạnh
mẽ, sắc bén để thực hiện quyền làm chủ của mình, đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Điểm mới ở đây là tầng lớp trí thức cùng với giai cấp công nhân và
nông dân hợp thành liên minh, là cơ sở xã hội của nhà nước, là nền tảng và
chỗ dựa của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ,
vai trò trí thức đã quan trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội - nhất là khi
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động mạnh đến nhịp độ
phát triển của các dân tộc - thì vai trò trí thức càng quan trọng. Song, sẽ phạm
sai lầm nghiêm trọng nếu tuyệt đối hóa vai trò trí thức, hạ thấp vai trò công -
nông.
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần chống lại thứ dân chủ chung
chung, phi giai cấp mà thực chất là để thực hiện dân chủ tư sản nhằm xóa bỏ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân”.
Việc xác định nhiệm vụ trung tâm như trên đáp ứng yêu cầu giải quyết
một phần quan trọng mâu thuẫn cơ bản của nước ta, phù hợp với quy luật
phát triển của xã hội ta hiện nay.
Nói phát triển lực lượng sản xuất rộng hơn, bao quát hơn nói công
nghiệp hóa, vì công nghiệp hóa là phương thức quan trọng nhất để phát triển
lực lượng sản xuất. Đồng thời, nói rõ công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Đây là điểm khác với quan niệm công nghiệp hóa trước đây về xây dựng
công nghiệp nặng.
Ở nước ta, vai trò nông nghiệp rất quan trọng. Vì vậy, phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện là một yêu cầu vừa cơ bản, vừa bức xúc đối với
sự phát triển chung và đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng.
Ba là, “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”.
Phương hướng thứ ba thể hiện sâu sắc hơn, sáng tỏ hơn quan niệm về
xây dựng quan hệ sản xuất trên ba mặt: hình thức sở hữu, cơ chế quản lý và
phân phối phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hiện nay;
khắc phục quan điểm sai lầm duy ý chí trước đây, muốn nhanh chóng xác lập
ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sớm có chế độ công hữu chiếm ưu
thế trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn rất thấp, phủ nhận sản xuất
hàng hóa và kinh tế nhiều thành phần, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp; phân phối bình quân.
Mô hình kinh tế nào dù là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì Nhà nước cũng phải quản lý. Cái
khác căn bản của các nhà nước xã hội chủ nghĩa là mọi quyết định quản lý
của mình chủ yếu phải nhằm mục tiêu xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa
xã hội, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chúng ta chủ trương tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước trong cơ chế thị trường để chủ động phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, hướng nền kinh tế thị
trường phục vụ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, không để tự phát sang quỹ đạo tư
bản chủ nghĩa
Mặt khác, tăng cường vai trò của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
mới từng bước hình thành cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội tức là xây dựng
cơ sở kinh tế để xóa bỏ tận gốc tình trạng phân hóa giai cấp, xóa áp bức, bóc
lột. Đây là một trong những vấn đề cơ bản để đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình phát triển các thành phần kinh tế. Trong kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có những hình thức phân phối, có
cả phân phối theo vốn, phân phối theo phúc lợi nhưng hình thức phân phối
chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Bốn là, “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng
và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến
bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý
của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Cần nhận rõ cách mạng tư tưởng – văn hóa là một quy luật của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và càng cần thiết khi chuyển sang kinh tế thị trường.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với xây dựng nền văn hóa mới và con người mới,
đảm bảo sự phát triển bền vững.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương sáng cho mọi người dân
Việt Nam. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là kết tinh những tinh hoa văn hóa
của dân tộc Việt Nam. Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong phương hướng này đã đặt ra yêu cầu cụ thể về xây và chống
trong đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội ta, nhằm xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới phát triển toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Đây là nhiệm vụ cơ bản của công
tác tư tưởng - văn hóa.
Năm là, “thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp
tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các
lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới”.
Đó là phương hướng nhằm huy động mọi lực lượng của toàn dân tộc,
mọi tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam, tạo môi trường quốc tế
thuận lợi, tranh thủ tối đa sức mạnh của bên ngoài, kết hợp có hiệu quả sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để phát triển nhanh và bền
vững. Đồng thời, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Sáu là, “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các
thành quả cách mạng”.
Hai nhiệm vụ chiến lược trên có vị trí riêng, nhưng có quan hệ thống
nhất với nhau. Xác dịnh đúng từng nhiệm vụ trong mối quan hệ đó, để một
mặt, tập trung sức lực, trí tuệ cho việc xây dựng đất nước, mặt khác, có đủ
khả năng đập tan mọi hoạt động phá hoại, làm thất bại mọi âm mưu và thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đảm bảo cuộc sống hạnh
phúc cho nhân dân.
Đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước lên hàng đầu không phải là coi nhẹ
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bởi vì làm tốt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
là xây dựng cơ sở vật chất và tinh thần, bảo đảm làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, cần kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiệm vụ an ninh,
quốc phòng.
Bảy là, “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.
Cần nhận thức sâu sắc vai trò quyết định hàng đầu của sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Không bao giờ
được chủ quan, cần thường xuyên nhận rõ nguy cơ của Đảng cầm quyền mà
Lênin và Bác Hồ đã cánh báo. Đó là nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị,
sự thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, quan liêu, xa rời quần chúng. Do
đó, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của mình.
Trách nhiệm xây dựng Đảng là của toàn Đảng, toàn dân, của mọi cấp,
mọi ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên. Cần có cơ chế, quy định cụ thể để
nâng cao hiệu quả thiết thực của sự tham gia của nhân dân vào xây dựng
Đảng, cần phòng chống có hiệu quả các nguy cơ sai lầm về đường lối, tệ
quan liêu, sự thoái hóa biến chất của cán bộ, đảng viên.
Theo các phương hướng cơ bản nói trên: “Mục tiêu tổng quát phải đạt
tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh
tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng,
văn hóa phù hợp, làm cho đất nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh”.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
phải qua nhiều chặng đường. “Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua
đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát
triển nhanh ở trạng thái sau”. Sau mười năm đối mới với những thành tựu rất
quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại, đất nước ta
đã kết thúc chặng đường đầu tiên, bước vào chặng đường thứ hai - chặng
đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thực hiện các mục tiêu nói trên, trong Cương lĩnh đã nêu những
định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
phương hướng cơ bản, xây dựng hệ thống chính trị, trong đó nêu bật vai trò
lãnh đạo của Đảng.
IV. CƯƠNG LĨNH ĐƯỢC CỤ THỂ HÓA VÀ PHÁT TRIỂN TRONG CUỘC SỐNG
1. Cương lĩnh năm 1991 đã được các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) cụ
thể hóa trên các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Vì vậy “con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”.
Kết quả bước đầu thực hiện các nghị quyết nói trên đã đưa nước ta ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ của chặng
đường đầu và chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) phát triển hơn nữa nội dung Cương lĩnh, tiếp tục xác định rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Mười năm thực hiện chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội
(1991-2000) đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng:
Tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng hơn gấp đôi so với năm
1990 (gấp 2,07 lần). Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất
tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay
sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế;
từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua được cơn chấn
động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường do những biến động ở Liên Xô và
Đông Âu gây ra; phá được thế bị bao vây cấm vận; mở rộng được quan hệ
đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; không để bị cuốn sâu vào
cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế ở một số nước châu Á mặc dù hậu quả
của nó đối với nước ta cũng khá nặng nề; tình hình chính trị - xã hội cơ bản
ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của
nước ta đã lớn hơn nhiều so với mười năm trước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “15 năm đổi mới
(1986-2000) đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi
mới do các đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị
lớn, nhất là những bài học chủ yếu sau đây: Một là, trong quá trình đổi mới,
phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn là,
đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
đổi mới”.
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) tiếp tục làm rõ hơn nữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
a) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã phát triển hơn nữa nội dung Cương lĩnh
Một là, khẳng định con đường phát triển: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới
đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày
càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta một
lần nữa khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước lên chủ nghĩa xã hội, định hướng
cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những năm tới. Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội đã chính thức xác định quan
niệm, nguồn gốc của một số nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm lý luận chính trị
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
- Về nguồn gốc: Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại.
- Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
+ Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
+ Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại.
+ Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân.
+ Về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Về phát triển kinh tế và văn hóa không ngừng nâng cao đời sống vật
chất tinh thần của nhân dân.
+ Về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
+ Về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân...
Đại hội khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta”.
Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Ba là, xác định rõ hơn về thời kỳ quá độ và đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ quá độ ở nước ta.
- Con đường đi lên của nước ta là phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các
lĩnh vực cùa đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng năm 1996, đất
nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Trong chặng đường hiện nay còn phải tiếp tục hoàn thành một số nhiệm vụ
của chặng đường trước.
- Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất,
nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu,
tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với
những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các
tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn
kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện
công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục
những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân
tộc; xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân
hạnh phúc.
Bốn là, phát triển hơn nữa về mục tiêu chung.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã ghi: xây dựng một xã hội dân chủ,
văn minh. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đề ra và được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã bổ sung thêm từ “dân chủ”
thành mục tiêu chung là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Năm là, xác định rõ động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Động lực chủ yếu đế phát triển đất nước và sự đoàn kết toàn dân trên
cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, kết hợp hài hòa các
lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng cả nguồn lực của
các thành phần kinh tế của toàn xã hội. Cùng với việc phát huy mọi tiềm năng
và nguồn lực vật chất, phải rất coi trọng phát huy nguồn lực tinh thần, nhất là
lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường và trí sáng tạo của nhân dân ta để phát
triển đất nước.
Sáu là, xác định rõ mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp
trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.
- Về sở hữu, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều
hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sơ hữu tập thể, sở hữu tư nhân), nhiều
thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể; tiểu chủ;
kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể càng trở thành nền tảng vững chắc.
Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
- Về quản lý, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nước. Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng
cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sản xuất, phát huy mặt
tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi
ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
- Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực
hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời
phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh
doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
- Về xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước, V.V..
Những quan điểm chủ yếu trên đây thể hiện bước phát triển quan trọng
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
b) Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã tiếp tục cụ thể hóa đường lối Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
- Về kinh tế: Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
đã ra nghị quyết về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa IX ra ba nghị quyết về kinh tế: về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể; về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích
và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; về đẩy nhanh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010. Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, thứ năm, thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX về kinh tế là bước tiến có ý nghĩa quan trọng trong việc
cụ thể hóa đồng bộ đường lối kinh tế của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra kết luận về
giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ để nhằm tiếp tục chấn hưng sự
nghiệp giáo dục và đào tạo; nhằm phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ,
động lực chủ yếu để phát triển kinh tế.
- Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX ra kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, đẩy mạnh cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng
phí. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra 2 nghị
quyết: về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn; về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong
tình hình mới; Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra kết
luận về công tác tổ chức và cán bộ. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX ra nghị quyết: về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo. Tất cả các nghị quyết trên
nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch,
vững mạnh; nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
CÂU HỎI THẢO LUẬN1. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội như
thế nào?
2. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc cần
nắm vững những phương hướng cơ bản gì?
3. Từ khi ra đời đến nay, Cương lĩnh 1991 đã được cụ thể hóa và phát
triển trong cuộc sống ra sao? (Đi sâu vào những vấn đề Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng nói rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta).
Bài 3. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐIỀU LỆ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU LỆ ĐẢNG
1. Điều lệ Đảng là gì?
Điều lệ Đảng là văn bản xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng, các
nguyên tắc về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức, bộ máy của Đảng, quy
định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và của tổ chức các cấp
của Đảng.
Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thông qua và ban
hành.
2. Đặc điểm của Điều lệ Đảng- Điều lệ Đảng là văn bản pháp lý cơ bản của Đảng nên được viết ngắn
gọn, chặt chẽ, dễ hiểu, hiểu cùng một nghĩa và được chia thành các phần,
chương, điều, điểm để chấp hành thống nhất.
Những vấn đề cụ thể không đưa vào Điều lệ Đảng thì được cơ quan có
thẩm quyền của Đảng là Bộ Chính trị, Ban Bí thư quy định, hoặc các cơ quan
chức năng (như Ban Tổ chức Trung ương, ủy ban Kiềm tra Trung ương...)
hướng dẫn thi hành, bảo đảm cho Điều lệ Đảng được thi hành thống nhất,
nghiêm minh.
- Điều lệ Đảng có giá trị và hiệu lực thi hành trong toàn Đảng. Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền nên một số nội dung của
Điều lệ Đảng được thể hiện trong Hiến pháp, một số bộ luật của Nhà nước và
một số văn kiện cơ bản của các tổ chức chính trị - xã hội. Điều lệ Đảng cũng
dành những chương riêng (chương IX, chương X) để nêu rõ các quy định về
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Điều lệ Đảng có tính ổn định tương đối, tính kế thừa và được phát
triển cùng với quá trình phát triển của cách mạng và của Đảng. Mỗi kỳ Đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng, cùng với việc quyết định đường lối chính trị của
thời kỳ mới, Điều lệ Đảng cũng được Đại hội xem xét bổ sung, sửa đổi cho
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng, Từ Điều lệ đầu tiên (Điều
lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam) được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng ngày 3-2-1930 đến nay, Điều lệ Đảng đã được bổ sung, sửa đồi
nhiều lần.
Điều lệ Đảng hiện hành được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng thông qua ngày 22-4-2001.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐIỀU LỆ ĐẢNG
Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông
qua có phần mở đầu 12 chương, 48 điều.
Nội dung phần mở đầu
Phần mở đầu của Điều lệ Đảng hiện hành đã trình bày và khái quát
những nội dung chủ yếu là:
- Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ
thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc.
- Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
- Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đảng là tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung
dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.
- Vai trò, trách nhiệm của Đảng ta là một đảng cầm quyền trong hệ
thống chính trị và trong mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
- Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa
bình, dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh
đạo cách mạng của Đảng.
Những nội dung trên đã thể hiện một cách đúng đắn và sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ của
Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như Cương lĩnh
chính trị của Đảng đã vạch ra.
Chương I: Đảng viên, có 8 điều.
Đây là chương rất quan trọng của Điều lệ Đảng, đã chỉ rõ những nội
dung sau:
- Khẳng định vị trí, vai trò tiêu chuẩn của người đảng viên.
- Điều kiện được xem xét để kết nạp đảng.
- Nhiệm vụ và quyền của đảng viên.
- Thủ tục kết nạp người vào đảng.
- Phát triển và quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên, điều kiện
được giảm, miễn công tác và sinh hoạt đảng cũng như xóa tên trong danh
sách đảng viên.
Chương II: Nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng, có 6 điều.
- Chương này khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ; những nội dung cơ bản của nguyên tắc đó; hệ
thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính
của Nhà nước.
- Chương này cũng chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy các cấp
trong việc triệu tập đại hội từng cấp khi hết nhiệm kỳ; tiêu chuẩn và số lượng
cấp ủy viên; phê chuẩn cấp ủy và những cơ quan tham mưu giúp cấp ủy mỗi
cấp.
Chương III và IV: Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương và ở
địa phương, có 6 điều.
Hai chương này bao gồm những quy định về đại hội Đảng các cấp, về
bầu cử cơ quan lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp và về nhiệm vụ của các
cơ quan đó.
Chương V: Tổ chức cơ sở đảng, có 4 điều.
- Khẳng định vị trí của tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở.
- Nêu rõ điều kiện thành lập và những nhiệm vụ của tổ chức cơ sở
đảng và của chi bộ; việc bầu đảng ủy viên và chi ủy.
Chương VI: Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công
an nhân dân Việt Nam, có 5 điều.
Tổ chức đảng trong Quân đội và Công an cũng nằm trong hệ thống tổ
chức chung của Đảng. Xuất phát từ vai trò của các lực lượng vũ trang, nên từ
trước đến nay Đảng ta rất coi trọng sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
đối với lực lượng vũ trang và dành hẳn một chương riêng.
Chương VII: Công tác kiểm tra của Đảng và ủy ban kiểm tra các cấp,
có 4 điều.
Chương này chỉ rõ vị trí công tác kiểm tra, nội dung công tác kiểm tra,
nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra các cấp.
Chương VIII: Khen thưởng và kỷ luật, có 7 điều.
- Chương này chỉ rõ mục đích, hình thức và thẩm quyền thi hành khen
thưởng và kỷ luật.
Chương IX và chương X: Đảng lãnh đạo Nhà nước và đoàn thể chính
trị - xã hội (3 điều), Đảng lãnh đạo Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2
điều).
Hai chương này nêu rõ nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng là một đoàn thể nhân
dân, nhưng đặt thành một chương riêng, vì từ trước đến nay Đảng ta luôn
luôn coi trọng sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn thanh niên, đội dự bị tin cậy
của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chương XI: Tài chính của Đảng, có 1 điều.
Chương này chỉ rõ: Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên
đóng, từ ngân sách nhà nước và các khoản thu khác; thực hiện nguyên tắc,
chế độ thu chi, quản lý tài chính... theo những quy định thống nhất của Ban
Chấp hành Trung ương.
Chương XII: Chấp hành Điều lệ Đảng, có 2 điều.
Chương này đòi hỏi mỗi đảng viên và tổ chức của Đảng phải chấp
hành nghiêm chỉnh và kịp thời đấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm Điều lệ
Đảng. Chỉ Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ Đảng.
Một số nội dung cơ bản của Điều lệ Đảng;
1. Bản chất giai cấp công nhân của ĐảngĐâv là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng
Đảng, được quán triệt trong toàn bộ Điều lệ Đảng, chi phối toàn bộ nội dung
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản chất giai cấp
công nhân của mình. Điều lệ Đảng hiện nay chỉ rõ: “Đảng là đội tiền phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Điều đó có nghĩa, Đảng
Cộng sản Việt Nam đứng vững trên lập trường quan điểm của giai cấp công
nhân, quyết tâm phấn đấu thực hiện mục đích của Đảng là xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu đó
bảo đảm lợi ích của giai cấp công nhân đồng thời cũng thống nhất với lợi ích
của nhân dân lao động, của cả dân tộc. Đảng tập hợp, đoàn kết toàn dân tạo
nên sức mạnh tổng hợp thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng.
- Xác định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, Đảng ta xuất phát từ
nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Đó
là giai cấp hình thành, phát triển cùng với đại công nghiệp, đại biểu cho
phương thức sản xuất mới tiến bộ, có tinh thần cách mạng triệt để và tính tổ
chức cao. Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng khoa học và cách mạng, cơ sơ
lý luận tiên tiến hướng dẫn, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là giai cấp bị giai
cấp tư sản bóc lột nặng nề nên có điều kiện liên minh với nông dân và quần
chúng lao động để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới, không có
áp bức bóc lột. Đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Ngày nay, giai cấp công nhân thế giới đang có những biến đổi to lớn về
quy mô, trình độ kiến thức, cơ cấu nghề nghiệp, mức sống... trong nền sản
xuất hiện đại dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Song, bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân vẫn không thay đổi. Đó là một thực tế không thể phủ nhận.
Ở nước ta, giai cấp công nhân tuy số lượng còn nhỏ bé nhưng giai cấp
công nhân Việt Nam và chính Đảng của nó luôn đứng vững trên lập trường
cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại,
nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn nước ta đế đề
ra đường lối cách mạng đúng đắn. Vì vậy, Đảng ta đã giữ vai trò lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử hơn 70 năm qua đã chứng minh điều
đó. Tuy vậy, giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng của mình cũng thấy rõ
những điểm yếu và hạn chế về nhiều mặt. Việc khắc phục những yếu kém,
nhược điểm cũng như việc tăng cường tỷ lệ giai cấp công nhân trong Đảng
sẽ góp phần tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bảo đảm vai
trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đế giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
trong tình hình mới, Điều lệ Đảng và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng chỉ rõ:
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bất kỳ
tình huống nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó.
- Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn cụ thể của nước ta
để đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn; đồng thời bằng
hành động cách mạng biến đường lối, chủ trương đó thành hiện thực sinh
động trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống
lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo thủ; phê phán những luận
điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh. Đồng thời phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa của thời đại để làm giàu kiến thức, giải
quyết thành công những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta,
góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của thế giới.
- Giữ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ
gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức tổ
chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo
quan điểm của giai cấp công nhân.
- Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
- Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc
tế trong sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện trước hết và chủ yếu là
thế giới quan, hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng bao gồm đầy
đủ những nội dung nêu trên.
2. Nhiệm vụ và quyền của đảng viêna) Nhiệm vụNhiệm vụ của mỗi đảng viên thường được điều chỉnh, bổ sung để phù
hợp với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Trong thời kỳ phát triển mới -
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảng viên có bốn
nhiệm vụ được xác định trong Điều 2 - Điều lệ Đảng hiện hành của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
“1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng,
chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng
lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng,
lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của nhân dân: tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội
nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của
Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường
xuyên tự phê bình và phê bình trung thực với Đảng, làm công tác phát triển
đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định”.
Khi thực hiện các nhiệm vụ cần nắm vững nội dung cơ bản sau:
- Nhiệm vụ hàng đầu của người đảng viên hiện nay là phải nói và làm
theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật của
Nhà nước; kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc sau dây:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng
của Đảng ta, dân tộc ta.
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam;
không chấp nhận “đa nguyên, đa đảng”.
+ Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện
khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng.
+ Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân.
Tuy không phải thử thách, rèn luyện như thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền, tiến hành các cuộc kháng chiến trước đây, nhưng hoàn cảnh hiện nay
cũng không kém phần gian khổ, phức tạp. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái
trào, toàn cầu hóa kinh tế tuy là một xu thế khách quan, nhưng có mặt tiêu
cực; kẻ địch đang tấn công quyết liệt bằng nhiều hình thức và thủ đoạn; mặt
tiêu cực của kinh tế thị trường hàng ngày, hàng giờ đang tác động..., người
đảng viên phải rèn luyện, giữ vững niềm tin, lý tưởng, nâng cao phẩm chất, lối
sống tốt đẹp.
Mọi đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn của công cuộc đổi mới hiện nay,
ra sức nắm bắt để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Mặt khác, phải nhận
thức sâu sắc thách thức lớn về bốn nguy cơ lớn đang đe dọa sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục. Mỗi
đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu gương
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng và Nhà nước và các
tiêu cực, tệ nạn trong xã hội. Đảng viên không làm hoặc mượn danh nghĩa
người thân để làm kinh tế tư bản tư nhân; cảnh giác và kiên quyết chống mọi
âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch, trước hết là trong phạm vi chức trách nhiệm vụ cụ thể của mỗi người.
- Đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới với nhiệm vụ trọng
tâm là xây dựng phát triển kinh tế đòi hỏi đảng viên phải nâng cao trình độ
kiến thức và năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực
hiện vai trò tiên phong, gương mẫu. Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên
đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi đảng viên. Lười
học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận thông tin mới, những
hiểu biết mới cũng là biểu hiện của sự thoái hóa. Có nhiều hình thức và
phương pháp học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng
lực hoạt động thực tiễn. Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức
đảng và mỗi đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân lao
động cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị bảo đảm
cho cuộc đấu tranh của nhân dân giành thắng lợi. Và ngược lại, Đảng cần
được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên dễ quan liêu xa rời nhân
dân. Đây là một nguy cơ lớn đối với tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Mọi đảng viên phải thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của
nhân dân phản ánh với Đảng, đồng thời tích cực tuyên truyền vận động nhân
dân và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Mỗi đảng viên phải tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ
đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, chống
lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình
trong sinh hoạt đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ làm cho
Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, tích cực làm công tác phát triển đảng viên
mới.
b) Quyền của đảng viênĐiều 3 - Điều lệ Đảng chỉ rõ đảng viên có những quyền sau:
“1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công
việc của Đảng.
2. Úng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo
quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tô chức đảng và đảng viên ở
mọi cấp trong phạm vi tố chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách
nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tố chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc
thi hành ký luật đối với mình.
Đáng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cứ
và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng”1.
Các quyền của đảng viên nêu trong Điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho
đảng viên thực hiện đầy đủ quyền dân chủ về mặt chính trị trong tố chức và
sinh hoạt đảng. Những quyền đó phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện,
nhất là quyền thảo luận các vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm
thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân
lý”2. Những quy định về quyền của đảng viên tạo điều kiện cho đảng viên và
tổ chức đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
3. Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của ĐảngTập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của
Đảng. Trong quá trình phát triển của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
luôn kiên trì và từng bước cụ thể hóa nguyên tắc này để phù hợp với sự phát
triển của cách mạng Việt Nam qua mỗi giai đoạn. Nhờ vậy, Đảng luôn giữ
vững và phát triển về tồ chức, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, tạo
nên sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng, giữ
vững vai trò lành đạo.
Điều 9 - Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đáng Cộng sản
Việt Nam tố chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nội dung cơ bản của
nguyên tắc đó là:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đáng do bầu cử lập ra, thực hiện tập
thê lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biếu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ơ mỗi cấp là đại hội đại biếu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai
kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi
cấp là Ban Chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiêu sô phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tô
chức...
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ sở đảng tán thành. Trước khi biểu
quyết mỗi thành viên đều được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, được báo cáo lên cấp ủy cấp
trên, đến Đại hội toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của tố chức cơ sở đảng; cấp
ủy có thâm quyền xem xét, nghiên cứu ý kiến đó không phân biệt đối xử.
- Tô chức đáng quyêt định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song không trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách cua Đảng, pháp
luật của Nhà nước và nghị quyết cua cấp trên.
Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cần nhận thức đúng đắn
và thống nhất nội dung của nguyên tắc này; uốn nắn những nhận thức lệch
lạc, đồng thời phải có cơ chế, các quy định, quy chế làm việc cụ thể, đồng bộ,
bảo đảm thực hiện nghiêm minh ở mồi cấp, ở mỗi tổ chức đảng.
Phát huy dân chủ sẽ khơi dậy tính tích cực chủ động, sáng tạo của các
tố chức đảng và đảng viên. Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng sẽ tạo điều kiện
thúc đẩy dân chủ trong các cơ quan nhà nước cũng như toàn xã hội. Khuyên
khích mọi người mạnh dạn suy nghĩ, tìm tòi đóng góp xây dựng nhằm thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này có ý
nghĩa to lớn trong sự phát triển của cách mạng, đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta.
Cần chống quan điếm dân chủ cực đoan, dân chủ phi giai cấp. Dân chú
phải gắn liền với tập trung, phát huy dân chủ đi đôi với việc tăng cường tập
trung kỷ luật của Đảng. Đây là mối quan hệ biện chứng cần được nhận thức,
xử lý đúng đắn trong thực hiện. Nếu tuyệt đối hóa mặt này đi đến hạ thấp
hoặc phủ nhận mặt kia đều làm cho Đảng suy yêu, thậm chí tan rả.
Nhận thức đủng nguyên tắc tập trung dân chu đã khó, việc thực hiện
đung nguyên tắc này càng khó hơn. Điều đó còn phụ thuộc vào trình độ, ý
thức đảng, kinh nghiệm công tác... cua mỗi cán bộ, đáng viên cua Đang. Vì
vậy, trong thực tẻ ờ nơi này, nơi kia, co lúc chưa thực hiện tốt nguyên tắc
này. Đó là nhừng thièu sót cần được thường xuyên phát hiện, phê phán, uốn
nắn. Bởi vì đây cũng chính là kẽ hở mà kẻ thù đang tìm cách khoét sâu, khai
thác, xuyên tạc nhằm hạ thấp đi tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.
4. Khen thưởng và kỷ luật trong Đảnga) Khen thưởng trong Đảng
Điều 34 - Điều ]ệ Đảng quy định “Tố chức đảng và đảng viên có thành
tích được khen thưởng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương”1.
- Hình thức khen thương trong Đảng:
+ Đối với tố chức đảng: biểu dương, tặng giấy khen, bằng khen, tặng
thưởng huân, huy chương và các danh hiệu vinh dự khác của Đảng và Nhà
nước.
+ Đối với đảng viên: biểu dương, tặng giấy khen, bằng khen, Huy hiệu
Đảng 40 năm, 50 năm, 60 năm, 70 năm tuổi Đáng, tặng thưởng huân, huy
chương và các danh hiệu vinh dự khác của Đảng và Nhà nước.
- Thẩm quyền khen thưởng:
+ Chi bộ: biêu dương tô chức đảng và đảng viên trong chi bộ.
+ Đang uy bộ phận: biếu dương tô chức đảng và đảng viên trong đảng
bộ.
+ Đảng ủy cơ sở: quyết định công nhận chi bộ trong sạch, vững mạnh,
biếu dương tổ chức đảng và đảng viên trong đáng bộ.
+ Huyện ủy (và tương đương): quyết định công nhận tổ chức cơ sở
trong sạch, vững mạnh, tặng giấy khen cho tồ chức đảng và đảng viên trong
đảng bộ.
+ Tỉnh ủy (và tương đương): quyết định tặng bằng khen, tặng cờ cho tổ
chức đảng, tặng huy hiệu Đảng 40, 50, 60, 70 năm tuổi Đảng, bằng khen cho
đảng viên trong đảng bộ.
+ Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định các hình thức khen thường đối
với tố chức đảng và đảng viên; xem xét, quyết định và giao cho Nhà nước ra
quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, và các danh hiệu cao quý
khác cho tố chức đảng và đảng viên.
b) Kỷ luật trong Đảng- Vấn đề kỷ luật Đảng và việc thi hành nghiêm kỷ luật Đảng là một nội
dung quan trọng nhằm giữ vững sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động,
bảo đảm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, tăng cường sức chiến đấu của
Đảng.
Kỷ luật Đảng là những quy định bắt buộc mọi đảng viên và tổ chức
đảng phải nghiêm chỉnh chấp hành. Những quy định đó là Cương lĩnh chính
trị của Đảng,
Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng và ky
luật của các đoàn thể quần chúng mà đảng viên tham gia hoạt động.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đường lối, chủ trương, chính sách,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật,
nghị định, chỉ thị, quy định của Nhà nước, chủ trương của đoàn thể. Tổ chức
đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp
luật... Do đó, đảng viên và tổ chức đáng vi phạm Hiến pháp, pháp luật... của
Nhà nước, chủ trương của đoàn thể là vi phạm kỷ luật của Đảng.
Kỷ luật của Đảng bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, từ nguyên
tắc tổ chức cơ bản của Đảng, vừa có tính nghiêm túc, vừa mang tính tự giác.
Nghiêm túc phải trên cơ sở tự giác, tự giác càng cao thì kỷ luật càng nghiêm
túc.
Giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong Đảng là một yếu tố rất quan trọng
bảo đảm cho Đảng tồn tại, hoạt động và phát triển.
Việc thi hành kỷ luật trong Đảng là nhằm giữ vững sự thống nhất ý chí
và hành động, tăng cường sức chiến đấu của Đảng và giáo dục đảng viên.
Song giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong Đảng tuyệt nhiên không phải
thi hành kỷ luật thật nhiều, thật nặng, mà chính là phải thường xuyên nâng
cao giác ngộ chính trị, giác ngộ giai cấp, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý
thức tổ chức kỷ luật cho mọi đảng viên và tổ chức đảng; kịp thời ban hành, bổ
sung, sửa đổi cơ chế, chính sách, quy chế, quy định cho phù hợp, đồng bộ,
thống nhất; duy trì nền nếp tự phê bình và phê bình; kịp thời đề ra những biện
pháp phòng ngừa vi phạm.
- Phương châm thi hành kỷ luật đã được Điều lệ Đảng xác định là
“Công minh, chính xác, kịp thời”.
+ Công minh là bất cứ đảng viên và tổ chức nào, không kể chức vụ cao
hay thấp, tuổi đang nhiều hay ít, tổ chức cấp trên hay cấp dưới nếu vi phạm
đến mức phải thi hành kỷ luật đều phải xem xét, kết luận, xử lý nghiêm túc,
không có ai dược ngoại lệ, không có khu vực cấm.
+ Chính xác là việc thi hành kỷ luật phải đúng người hoặc tổ chức vi
phạm, đúng nội dung, tinh chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân của vi phạm.
Khi xem xét, xử lý kỷ luật phải thẩm tra, xác minh chu đáo, phân biệt rõ bản
chất và hiện tượng, vi phạm thuộc về phẩm chất chính trị, nguyên tắc hay tác
phong sinh hoạt: trách nhiệm chủ yếu thuộc về cá nhân đảng viên hay tập thể.
+ Kịp thời là việc thi hành kỷ luật phải khẩn trương, đúng lúc, không dây
dưa, kéo dài làm giảm hoặc mất tác dụng của việc thi hành kỷ luật.
- Các hình thức kỷ luật của Đảng:
+ Đối với tổ chức đảng có ba hình thức kỷ luật: khiển trách, cảnh cáo,
giải tán.
+ Đối với đảng viên chính thức có bốn hình thức kỷ luật: khiển trách,
cảnh cáo, cách chức, khai trừ ra khỏi Đảng.
+ Đối với đảng viên dự bị có hai hình thức kỷ luật: khiển trách và cảnh
cáo.
Điều lệ Đảng cũng nêu rõ thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên và tổ
chức đảng vi phạm.
Điều lệ Đảng là văn bản pháp lý cơ bản của Đảng; toàn bộ hoạt động
của Đảng cũng như công tác xây dựng Đảng phải được tiến hành trên cơ sở
Điều lệ Đảng.
Tất cả các tổ chức đảng và mọi đảng viên của Đảng phải nghiêm chỉnh
chấp hành Điều lệ Đảng, ai vi phạm tùy theo tính chất, mức độ vi phạm đều bị
xử lý kỷ luật của Đảng.
Chỉ có Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng mới có quyền bổ sung, sửa
đổi Điều lệ Đảng.
Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Điều lệ Đảng là một trong những
điều kiện để xét kết nạp người vào Đảng.
CÂU HỎI THẢO LUẬN1. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở những điểm chủ
yếu nào trong Điều lệ Đảng?
2. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
nội dung cơ bản của nguyên tắc đó được Điều lệ Đảng quy định ra sao?
3. Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên
như thế nào?
Bài 4. PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc.
Đảng viên của Đảng là những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong
đó, suốt đời phấn đấu vì một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Vì vậy, việc kết nạp người vào Đảng phải theo đúng các quy định của
Điều lệ Đảng. Người muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cần
hiểu rõ các điều kiện được xét để kết nạp vào Đảng, tự giác và nỗ lực phấn
đấu, rèn luyện đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết đó.
I. ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC XÉT ĐỂ KẾT NẠP VÀO ĐẢNG
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, tại điểm 2, Điều 1 quy định:
“Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện:
thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng
viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là
người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào
Đảng”.
Quy định trên đây bao gồm ba điều kiện sau:
1. Là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên- Đảng không thể xét tất cả mọi người, mà chỉ xét kết nạp những công
dân Việt Nam.
“Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc
tịch Việt Nam” (Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992,
Điều 49).
Theo quy định này, chỉ những người có quốc tịch Việt Nam mới là công
dân Việt Nam, còn những người không có quốc tịch Việt Nam hoặc đã từ bỏ
quốc tịch Việt Nam thì không được thừa nhận là công dân Việt Nam.
Là công dân Việt Nam được hưởng quyền và phải thực hiện các nghĩa
vụ công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nước ta. Đây là đòi hỏi
về địa vị pháp lý và nhân cách công dân của người xin vào Đảng; trước khi
trở thành đảng viên phải đang là công dân Việt Nam.
- Đảng xét kết nạp những công dân Việt Nam nhưng phải từ mười tám
tuổi trở lên, vì ở độ tuổi đó mới có trình độ năng lực cần thiết, có ý thức trách
nhiệm về mọi suy nghĩ và hành động của mình, có đủ sức để thực hiện nhiệm
vụ và quyền của đảng viên.
- Điều lệ Đảng không quy định tuổi tối đa của người vào Đảng. Vì quy
định như vậy, trong thực tế công tác phát triển đảng viên sẽ nghiêng về tuổi
tác, sức khỏe, không đúng với yêu cầu về sự giác ngộ lý tưởng, phẩm chất
chính trị, kiến thức và năng lực hành động... của người vào Đảng. Song hiện
nay, bình quân tuổi đời của đảng viên khá cao, do đó Đảng ta hết sức quan
tâm phát triển Đảng trong thanh niên để trẻ hóa đội ngũ đảng viên, bảo đảm
sự phát triển và tương lai của Đảng.
2. Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng
Là công dân cho nên đảng viên phải sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật. Nhưng khác với công dân, đảng viên còn ý thức sâu sắc được
trách nhiệm chính trị của mình là làm cách mạng, lãnh đạo và vận động nhân
dân thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Do đó, muốn trở thành đảng viên
phải thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị. Điều lệ Đảng,
tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ
sở đảng.
Đây là đòi hỏi quan trọng nhất đối với người vào Đảng. Nội dung điều
kiện này yêu cầu người muốn được đứng trong đội ngũ của Đảng phải có
quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của
Đảng, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Người vào Đảng phải có trình
độ và sự tin cậy về chính trị. Tiêu chuẩn đảng viên, điểm 1, Điều 1 trong Điều
lệ Đảng quy định: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng
trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho
mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của
Nhà nước; có lao động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có
đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ
chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Tiêu chuẩn nói trên cũng là yêu cầu phấn đấu của những người muốn
gia nhập Đảng.
Đòi hỏi đối với người vào Đảng không chỉ thừa nhận mà còn phải tự
nguyện thực hiện. Thừa nhận mà không tự nguyện thực hiện thì chưa phải đã
thừa nhận thực sự. Hành động thực tế là thước đo nhận thức tư tưởng và ý
thức phấn đấu của người vào Đảng. Không thể coi là thừa nhận chủ nghĩa xã
hội mà trong việc làm hàng ngày lại luôn luôn chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân
hoặc lợi ích bộ phận, cục bộ. Bởi vì bản chất của chủ nghĩa xã hội là vì lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc; kết hợp hài
hòa lợi ích chung của đất nước và lợi ích cá nhân. Thái độ và việc làm thực tế
không góp phần củng cố, nâng cao vai trò kinh tế nhà nước; coi nhẹ kinh tế
tập thể; thờ ơ trước cuộc sống của những bà con còn nghèo đói, ít được học
hành và chăm sóc sức khỏe... làm sao có thể chứng minh cho sự nhất trí đối
với con đường do Đảng vạch ra. Không thể coi là thừa nhận Điều lệ Đảng,
tiêu chuẩn đảng viên mà lười lao động hoặc không lao động (lao động chân
tay hoặc lao động trí óc), bóc lột lao động của người khác, buông thả bản
thân, không dám đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực ở ngay đơn vị
mình... Không tự giác rèn luyện, không nghiêm túc tham gia sinh hoạt, đặt
mình trong sự quản lý, giáo dục của đơn vị, của đoàn thể ở cơ sở thì không
đảm bảo về ý thức kỷ luật, thật sự thừa nhận hoạt động trong một tổ chức cơ
sở đảng.
Đảng không chỉ căn cứ vào những lời nói, dù đó là những lời nói mạnh
mẽ, mà còn phải căn cứ vào việc làm thực tế hàng ngày đế thấy được người
xin vào Đảng có thật sự vì mục đích, lý tưởng của Đảng mà phấn đấu hay
không? Vào Đảng có tự giác chấp nhận phục tùng tổ chức kỷ luật của Đảng
hay không? Đây là điều kiện được tổ chức đảng đặc biệt quan tâm khi xem
xét để kết nạp người vào Đảng.
3. Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm
Một trong những phẩm chất cơ bản thể hiện bản chất giai cấp công
nhân của Đảng là Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân
dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Đảng phải tỏ ra xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Vì vậy, nhân dân cũng
gắn bó máu thịt với Đảng, coi Đảng là Đảng của mình, tích cực tham gia xây
dựng và bảo vệ Đảng. Người không được nhân dân tín nhiệm thì không thể là
đảng viên.
Muốn được nhân dân tín nhiệm thì phải là người ưu tú, nghiêm chỉnh
chấp hành đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới, nêu
tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức và năng lực sáng tạo trong sản xuất,
công tác, chiến đấu và học tập. Trở thành một con người ưu tú là kết quả
phấn đấu, rèn luyện của một quá trình nhất định. Chỉ có thông qua thực tiễn
mới biết được ai là người ưu tú, vì “lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Thực
tiễn là thước đo chính xác phẩm chất con người, là chỗ dựa tin cậy để nhân
dân lựa chọn, giới thiệu những người xứng đáng vào Đảng. Sự đánh giá
trung thực, khách quan của nhân dân giúp Đảng xem xét, kết nạp đảng viên
một cách đúng đắn.
Ba điều kiện nói trên là những điều kiện cần thiết phải có đối với người
được xét để kết nạp vào Đảng. Đảng không thể kết nạp những người không
có nhân cách, không đủ tư cách công dân, chưa đủ mười tám tuổi. Những
người chưa đủ trình độ giác ngộ giai cấp, giác ngộ chính trị cần thiết, chưa
được nhân dân tín nhiệm không thể được đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Hướng dẫn số 04-HD/TCTW ngày 5-2-2002 của Ban Tổ chức Trung
ương về một số vấn đề cụ thể về thi hành Điều lệ Đảng có hướng dẫn về
trình độ học vấn của người vào Đảng:
Căn cứ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tỉnh ủy, và đảng ủy trực thuộc
Trung ương có thể quy định trình độ học vấn của người vào Đảng, theo
hướng như sau:
a) Người vào Đảng nói chung phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở
(và tương đương) trở lên.
b) Nếu là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, hải đảo mà điều kiện học tập khó khăn, không bảo đảm như quy định tại
điểm a nêu trên thì tỉnh ủy, thành ủy có thể xem xét, giải quyết từng trường
hợp cụ thể.
c) Sau khi được kết nạp vào Đảng, mọi đảng viên phải tiếp tục học tập
nâng cao trình độ học vấn.
Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI chỉ
rõ: “Công tác phát triển đảng viên mới nhằm vào những người lao động giỏi,
có đạo đức và lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng, những người
có lý tưởng cách mạng, tích cực hoạt động trong hệ thống chính trị, có vai trò
nòng cốt trong các đoàn thể nhân dân và các tổ chức tự quản của dân”.
II. PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Căn cứ những điều kiện được xét để kết nạp vào Đảng do Điều lệ
Đảng quy định, cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên?
1. Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn- Đối với người phấn đấu vào Đảng, cần trả lời câu hỏi: Vào Đảng để
làm gì? Vì sao lại vào Đảng?
Có thể có những câu trả lời khác nhau, kể cả hy vọng vào Đảng để đạt
được những mong muốn riêng. Lúc sinh thời, Bác Hồ dạy: “Vì sao chúng ta
vào Đảng? Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không phải!... Chúng ta vào
Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn
nhiệm vụ của người đảng viên”. Bác còn căn dặn nếu sợ không phục vụ được
nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là khoan hãy vào Đảng.
Bởi vì Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo
nhân dân đấu tranh cho độc lập và chu nghĩa xã hội, chứ không phải là nơi để
tìm kiếm tham vọng, địa vị, thu hái lợi lộc.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là niềm tin, lẽ sống, là động lực tinh
thần to lớn của mỗi chúng ta. Suốt đời Bác Hồ chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân được tự do, đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành. Trước đây, vì mục đích lớn lao
đó mà Đảng ta đã chấp nhận hy sinh phấn đấu thì ngày nay, trong điều kiện
Đảng cầm quyền, Đảng ta vẫn như vậy. Bước vào thế kỷ XXI, tranh thủ cơ
hội, vượt qua thách thức, toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục vững bước tiến lên
dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh xây dựng
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa rất lâu dài, gian khổ. Thực chất đó
là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình
thức. Mặt trái của kinh tế thị trường, giao lưu mở cửa, hội nhập quốc tế cùng
với âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang đặt
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước những thách thức mới.
Dù khó khăn, phức tạp thế nào, chúng ta cũng không bao giờ rời xa mục tiêu,
lý tưởng cách mạng của mình. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là quy luật tiến hóa
của lịch sử, là yêu cầu khách quan của dân tộc ta. Động cơ thôi thúc chúng ta
phấn đấu vào Đảng là để được đứng trong một tổ chức tự nguyện của những
người cùng chung một chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Vào Đảng là dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận
hy sinh phấn đấu, quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn đến mục tiêu
chủ nghĩa xã hội. Cái được lớn nhất khi vào Đảng là được phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội. Trước lúc từ biệt chúng ta, Bác Hồ “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục
vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Xây dựng động cơ phấn đấu vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa
quyết định. Đảng chỉ kết nạp những người giác ngộ về mục đích, lý tưởng
cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng ngũ mình những người mang
động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc; càng không để cho các phần tử cơ hội lọt
vào Đảng. Vừa qua, một số người được kết nạp vào Đảng nhưng do động cơ
không đúng đắn, đã không thể chuyển thành đảng viên chính thức, buộc phải
đưa ra khỏi Đảng.
Để xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn, cần hiểu sâu sắc bản chất,
mục đích của Đảng, bằng việc làm hàng ngày của mình góp phần thực hiện
có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra, thường xuyên trau dồi đạo
đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân
thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng.
Xây dựng động cơ vào Đảng chính là trong mỗi lời nói, việc làm đều có
ý thức chính trị rõ ràng, có lợi cho dân, cho Đảng. Ở đâu, lúc nào, làm gì cũng
vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Thật đáng quý biết bao,
ngay cả khi đất nước đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, chúng ta vẫn
thủy chung với Đảng, càng thêm quyết tâm phấn đấu trở thành đảng viên để
góp phần giữ vững chủ nghĩa xã hội, thành quả lịch sứ vĩ đại được tạo nên ở
sự hy sinh to lớn của cả dân tộc. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền,
xây dựng đất nước ta trong hòa bình đi vào kinh tế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế, trước ma lực của đồng tiền
và sự chống phá của các thế lực thù địch, biết bao người trong chúng ta vẫn
nêu cao lý tưởng sống và chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân, tận tụy phục
vụ nhân dân.
2. Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng- Bản lĩnh chính trị thể hiện ở tính kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa
chọn. Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút
niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết của người cách mạng là “giàu sang không
thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
Đồng thời, bản lĩnh đó còn thể hiện o tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ
động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. Bản lĩnh chính trị là nét riêng nổi bật của người
đảng viên. Trong đấu tranh cách mạng, lúc nào đảng viên cũng coi trọng rèn
luyện bản lĩnh chính trị và lúc này, tính kiên định chính trị, lòng trung thành với
lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc đang là
đòi hỏi hàng đầu đối với mọi đảng viên.
Để có bản lĩnh chính trị, chúng ta cần đứng vững trên lập trường của
Đảng, giữ vững niềm tin, ra sức phấn dấu góp phần tích cực vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước khó khăn thử thách
không nao núng tinh thần, không để mất phương hướng chính trị. Trước
những vấn đề cần tỏ thái độ, cần phải có chính kiến rõ ràng, không mập mờ,
“ba phải”.
Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân
trong quá trình hoạt động thực tiễn. Chúng ta cần thường xuyên tự rèn luyện
mình qua thực tế sản xuất, công tác, chiến đấu hàng ngày, nhất là những
hoạt động chính trị - xã hội, vận động quần chúng tiếp tục đồi mới, đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ có trải qua trường học
đấu tranh thực tiễn, chúng ta mới trở nên vững vàng, kiên định.
- Cùng với rèn luyện bản lĩnh chính trị, cần thường xuyên trau dồi đạo
đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng có nội dung hết sức phong phú, nhưng
“Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ
chốt nhất”.
Trong Đảng ta, biết bao đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh
liệt, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng, chí công vô tư. Ngày nay,
đại bộ phận đảng viên vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, được nhân dân quý mến, tin cậy.
Để củng cố và phát triển đạo đức cách mạng, phải đặt lợi ích của Đảng,
của nhân dân lao động lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; tuyệt đối
trung thành với Đảng, với nhân dân. Đạo đức cách mạng hoàn toàn trái
ngược với chủ nghĩa cá nhân, làm việc gì cũng chỉ vun vén lợi ích riêng của
mình trước hết, không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì
mình”. Chủ nghĩa cá nhân gây ra nhiều tác hại, có khi nghiêm trọng. Nó ngăn
trở chúng ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. Xây dựng
đạo đức cách mạng phải đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân.
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Đạo đức cách mạng đòi hỏi chúng ta việc gì có lợi ích cho cách mạng,
cho nhân dân thì khó đến mấy, thậm chí phải hy sinh cả tính mạng cũng làm
bằng được; việc gì có hại cho Đảng, cho dân thì dù nhỏ cũng hết sức tránh.
Lúc này, đạo đức cách mạng là tự nguyện tự giác góp sức đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh,
nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Không thể
có đạo đức cách mạng nếu làm gì cũng tính toán thiệt hơn với Đảng, lúc nào
cũng đòi hỏi hưởng thụ, muốn lựa chọn công tác theo ý thích của cá nhân,
sống cơ hội, thực dụng, coi đồng tiền là tất cả, lợi dụng sơ hở trong cơ chế
chính sách để tham nhũng, làm giàu phi pháp...
Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định vai trò, lợi
ích cá nhân. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở thích riêng, đời sống riêng
của bản thân và gia đình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích
chung của cộng đồng thì được tôn trọng. Không có chế độ nào quý trọng con
người, quan tâm đến lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa
mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.
3. Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giaoĐảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao chứ không chỉ hoàn
thành. Đảng viên phải phấn đấu để trở thành người sản xuất, công tác, chiến
đấu và học tập giỏi. Có như vậy mới xứng đáng với vai trò gương mẫu tiên
phong, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Để trở thành đảng viên, việc gì được giao và đã nhận chúng ta cần
hoàn thành tốt, bảo đảm đạt chất lượng hiệu quả cao. Hoàn thành tốt nhiệm
vụ thể hiện trách nhiệm chính trị đầy đủ trước Đảng và nhân dân.
Điều kiện chủ yếu để hoàn thành tốt nhiệm vụ là mỗi chúng ta phải giàu
nhiệt tình cách mạng và đủ năng lực cần thiết. Trong thời kỳ phát triển mới,
cùng với nhiệt tình, nghị lực, cần đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực, cả
năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn. Cần không ngừng học hỏi, thường
xuyên tiếp nhận những hiểu biết mới để đủ kiến thức giải quyết các vấn đề do
thực tiễn cuộc sống đặt ra. Sự tụt hậu về trí tuệ sẽ không gánh vác nổi những
nhiệm vụ với yêu cầu ngày càng cao. Thực tế hiện nay cho thấy, học vấn
thấp, ít am hiểu khoa học - công nghệ, kiến thức nhiều mặt hạn hẹp... làm cho
kết quả công việc của chúng ta cách xa mong muốn, thậm chí có khi còn phải
trả giá đắt. Học tập phải trở thành chế độ bắt buộc đối với mỗi người. Ai cũng
cần có chương trình, kế hoạch học tập; Vấn đề gì bức xúc với công việc của
mình thì học trước và học thực sự đến nơi đến chốn. Phải học thường xuyên
đê không bị lạc hậu do nguồn tư duy vơi cạn trong khi thực tế đang tiến
nhanh về phía trước. Đối với đảng viên, trước hết phải thực hiện tốt: “chê độ
học tập lý luận chính trị trong Đảng”.
Trong bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay, hơn lúc nào hết, người
đảng viên đòi hỏi phải thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức chính trị, bổ
sung kiến thức mới, tiếp cận được những tri thức của nhân loại, đáp ứng
được với đòi hỏi ngày càng cao hơn của sự nghiệp cách mạng trong giai
đoạn mới của đất nước. Yêu cầu nâng cao trình độ về mọi mặt đối với người
đảng viên cũng là điều kiện, tiền đề để nắm vững và thực hiện tốt chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đấu tranh làm thất bại những
âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đặc biệt trong tình hình
hiện nay, sự biến đổi mau lẹ của tình hình thế giới sau sự kiện 11 - 9, sự kiện
Ápganixtan và sự kiện Mỹ tấn công xâm lược Irắc... Bên cạnh đó, mặc dù
chúng ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng sau hơn hai năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, nhưng trên nhiều
lĩnh vực, kết quả đạt được vẫn chưa vững chắc, còn nhiều nguy cơ và thách
thức phía trước đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực vượt qua. Muốn vậy, người đảng
viên phải không ngừng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, thường xuyên
học tập, trau dồi kiến thức cho bản thân để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng trong giai đoạn mới.
Bên cạnh đó, người đảng viên trong điều kiện mới, cần nâng cao năng
lực thực tiễn, đem hiểu biết tiếp thu được ứng dụng vào thực hành nhiệm vụ,
tạo ra chất lượng, hiệu quả ngày một cao. Làm nghề gì phải giỏi nghề đó, từ
trực tiếp sản xuất, công tác đến lãnh đạo, quản lý. Nói chung tay nghề của
chúng ta hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập. Kỹ năng ứng dụng công nghệ
mới còn nhiều mặt hạn chế. Nhiều việc Đảng và Nhà nước đề ra đúng đắn
vẫn chưa đi vào cuộc sống, chưa trở thành phong trào hành động cách mạng
của đông đảo nhân dân. Không ít việc vẫn “đầu voi, đuôi chuột”, thậm chí
“đánh trống bỏ dùi”, không tổ chức thực hiện nhất quán, kiên quyết và triệt để.
Đảng không thể châm chước, hạ thấp yêu cầu để kết nạp cả những
người lười học tập hoặc học lướt chỉ cốt lấy bằng cấp, làm việc cầm chừng,
không thể hiện được tính gương mẫu, tính tiên phong.
4. Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội
Một trong những truyền thống quý báu của Đảng ta là gắn bó mật thiết
với nhân dân. Đảng viên phải giữ vững và phát huy truyền thống đó, thể hiện
trước hết với quần chúng ở nơi làm việc và nơi cư trú của mình. Phải hòa
mình với quần chúng thành một khối, tin tưởng, am hiểu và lắng nghe ý kiến
của quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước.
Muốn trở thành đảng viên, chúng ta phải gắn bó với tập thể, với nhân
dân, tích cực công tác đoàn thể, công tác xã hội. Gắn bó với đồng nghiệp,
bạn bè trong đơn vị công tác, với bà con xóm giềng, khối phố; trong quan hệ
quý trọng nhau, thông cảm, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Không khi nào tách
mình khỏi tập thể, cộng đồng, sống tách biệt mọi người. Hòa mình với quần
chúng nhưng không hùa theo những suy nghĩ và việc làm tiêu cực, sai trái.
Cần luôn luôn đề cao trách nhiệm vận động mọi người đoàn kết, thực hiện
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra.
Nhiệt tình tham gia sinh hoạt và công tác đoàn thể mà bản thân là đoàn
viên, góp phần phát huy vai trò của từng đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động
đoàn thể tạo cơ sở và tiền đề để chúng ta đi đến với Đảng, ở nơi có tổ chức
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người trong độ tuổi thanh niên
muốn vào Đảng nhất thiết phải là đoàn viên như Điều lệ Đảng đã quy định.
Thử hỏi, một đoàn viên, một hội viên chưa thể hiện được đầy đủ trách nhiệm
với đoàn thể của mình thì làm sao có thể nêu cao trách nhiệm đối với Đảng.
Trước các phong trào và hoạt động diễn ra ở địa bàn nơi cư trú, cần
vận động gia đình sốt sắng tham gia với ý thức một công dân và một thành
viên tích cực của cộng đồng. Mỗi cuộc vận động đều mang ý nghĩa chính trị
nhất định. Người đang phấn đấu vào Đảng không thể có thái độ miễn cưỡng,
thờ ơ, đứng ngoài cuộc.
Trong tình hình hiện nay, chúng ta càng phải chú trọng mở rộng và đẩy
mạnh công tác xã hội, các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Chúng ta cần sẵn
sàng tự nguyện tham gia các hoạt động đó, phát huy đạo lý tốt đẹp của dân
tộc ta “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “thương người như
thể thương thân”.
Nước ta còn nghèo, lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh kéo dài
nhiều chục năm, hiện nay nhiều vấn đề xã hội đang đặt ra vừa to lớn, vừa
bức xúc. Trong mỗi công tác xã hội, chúng ta cần ý thức sâu sắc trách nhiệm
đối với nhân dân mình.
Hoạt động đoàn thể và công tác xã hội là cơ hội tốt giúp chúng ta tiến
bộ, trưởng thành về chính trị, xây dựng sự tín nhiệm với nhân dân để phấn
đấu trở thành đảng viên.
5. Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sởĐể được đứng trong hàng ngũ của Đảng, chúng ta chẳng những tự
giác thừa nhận, tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng mà còn cần tích cực tham gia
xây dựng Đảng.
Hiện nay, hầu hết các đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc
công tác đều có tổ chức đảng. Mỗi chúng ta đều sống và làm việc gắn liền với
một tổ chức cơ sở đảng nhất định. Xây dựng Đảng đối với chúng ta trước hết
và chủ yếu là trực tiếp xây dựng tổ chức đảng ở ngay cơ sở, đơn vị mình.
Đây là việc làm thể hiện ý thức chính trị của chúng ta vì tổ chức đảng vững
mạnh là nhân tố bảo đảm cho cơ sở không ngừng đổi mới và phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ mới đòi hỏi tổ chức đảng tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến dấu ngang tầm tình hình, nhiệm vụ. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng đã xác định xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng là
một trong những công tác xây dựng Đảng quan trọng cần tập trung làm tốt
trong những năm tới. Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế, chúng ta cần
đóng góp ý kiến để chi bộ, đảng bộ đề ra được chủ trương, nhiệm vụ đúng
đắn, sát hợp, bảo đảm cho cơ sở, đơn vị chấp hành tốt đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất,
kinh doanh, công tác, cải thiện đời sống nhân dân và động viên nhân dân làm
tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Khi triển khai thực hiện những chủ trương, nhiệm vụ của đảng bộ, chi
bộ đề ra, tùy theo cương vị của mình, nâng cao tinh thần chủ động, sáng tạo,
nỗ lực phấn đấu đưa vào cuộc sống, tạo ra bước phát triển mới của cơ sở,
đơn vị, nhất là về kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người
lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu
cực. Trong quá trình thực hiện khi nảy sinh vấn đề gì cần kịp thời phản ánh,
báo cáo đế tổ chức đảng xem xét, điều chỉnh hoặc bổ sung.
- Đối với hoạt động của đảng bộ, chi bộ, của cấp ủy, của cán bộ, đảng
viên, chúng ta cần thường xuyên góp ý kiến phê bình để phát huy ưu điểm,
sửa chữa khuyết điểm, không ngừng đổi mới, tiến bộ. Nếu có cán bộ, đảng
viên làm trái chính sách, pháp luật, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa hoa...
làm tổn hại lợi ích của Đảng, của dân thì thẳng thắn đấu tranh, không lảng
tránh, không bao che. Chúng ta cần nêu cao trách nhiệm góp ý kiến phê bình
và giám sát, giúp đỡ cán bộ, đảng viên tiến bộ.
- Lựa chọn, giới thiệu những đảng viên đủ tiêu chuẩn, làm việc có hiệu
quả, được tín nhiệm để tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp ủy. Giới thiệu
những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để chi bộ đảng bộ xét kết nạp.
- Đối với hoạt động của chính quyền và đoàn thể ở cơ sở cũng thường
xuyên góp ý kiến phê bình xây dựng để chính quyền và đoàn thề bảo đảm
trong sạch, vững mạnh, thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
mình. Đó cũng là góp phần xây dựng Đảng, vì chính quyền, đoàn thể mạnh
thì tổ chức đảng mới vững mạnh.
- Trước những việc làm sai trái của các phần tử xấu lợi dụng dân chủ,
xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ những cán bộ, đảng viên trung thực, tích cực; kích
động gây rối nội bộ; nhất là những âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng của
các thế lực thù địch, cần cương quyết đấu tranh để bảo vệ Đảng, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội ở cơ sở, đơn vị.
Trong những năm tới, cần đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, nhưng
Đảng ta cũng yêu cầu phải bảo đảm tiêu chuẩn và chất lượng đảng viên của
thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước - vừa kế thừa, phát huy những phẩm chất tốt đẹp của đảng viên các lớp
trước, vừa phải đáp ứng đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ mới. Do đó, điều kiện
để được xét kết nạp vào Đảng cũng có sự phát triển ngày một cao hơn.
Xác lập được động cơ vào Đảng đúng đắn từ sự giác ngộ sâu sắc về
mục đích lý tưởng của Đảng, mỗi chúng ta tự giác, nỗ lực phấn đấu trong đấu
tranh thực tiễn, nhất định sẽ đạt được nguyện vọng trở thành đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, thành người chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam.
CÂU HỎI ÔN TẬP1. Những người như thế nào thì có thể được xét để kết nạp vào Đảng?
Vì sao “thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sơ đảng là
điều kiện quan trọng nhất đối với người muốn vào Đảng?
2. Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên? Vì sao
vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý
nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên?
TÀI LIỆU CẦN ĐỌCI. CHÁNH CƯƠNG VẮN TẮT CỦA ĐẢNG“Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở
sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về
nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông
dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên
nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và
đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư bản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
A. Về phương diện xã hội thì:a) Dân chúng được tự do tổ chức.
b) Nam nữ bình quyền, V.V..
c) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
B. Về phương diện chính trị:a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
c) Dựng ra Chính phủ công nông binh.
d) Tổ chức ra quân đội công nông.
c. Về pliươnq diện kinh tế:
a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái.
b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.
của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh
quản lý.
c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho
dân cày nghèo.
d) Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo.
e) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp.
f) Thi hành luật ngày làm 8 giờ”.
Hồ Chí Minh: Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.1-2.
II. SÁCH LƯỢC VẮN TẮT CỦA ĐẢNG“1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được
đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh gục bọn đại địa chủ và
phong kiến.
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội,
hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh
niên, Tân Việt, v.v. đế kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng
thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.
5. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp, trong
khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền
và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là
vô sản giai cấp Pháp”.
Sđd, tr. 3
III. CHƯƠNG TRÌNH TÓM TẮT CỦA ĐẢNG“1. Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của
giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng.
2. Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ
địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến.
3. Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản.
4. Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô
sản; Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư bản bậc trung, đánh
đổ các đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến, V.V..
5. Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và
nông dân cho một giai cấp nào khác.
Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết
với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với
quần chúng vô sản Pháp”.
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Sđd, tr. 4
IV. CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
“I. QUÁ TRÌNH CÁCH MẠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM1. Thực hiện Cương lĩnh năm 1930, trong suốt 45 năm, Đảng ta do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành
cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ và giành được những thắng lợi vĩ
đại: làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; đánh
thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng nửa nước,
miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa; kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sau thắng lợi lịch sử mùa Xuân 1975, nhân dân ta tiếp tục nêu cao chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đã đạt những thành tựu
to lớn: thiết lập chính quyền nhân dân ở cả miền Nam, thống nhất nước nhà;
khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh; từng bước xây
dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội;
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan; nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ
ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng
công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu,
bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền
lương. Công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm
trọng.
Tại Đại hội lần thứ VI, Đảng ta tự phê bình và đề ra đường lối đổi mới,
Đại hội VI là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa của nhân dân ta. Công cuộc đổi mới qua hơn bốn năm đã đạt
những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tình hình kinh tế - xã hội có
chuyển biến tích cực, tạo thế đi lên và khẳng định con đường chúng ta đang
đi là đúng. Tuy nhiên khó khăn còn nhiều, đất nước chưa ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
2. Từ thực tiễn cách mạng với những thành công và khuyết điểm, sai lầm, có thế rút ra những bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là
bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ
quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau. Toàn
Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm
nay và các thế hệ mai sau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với
vận mệnh của đất nước.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng,
đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền
thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tổng kết:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!”.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế. Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự
phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và quá
trình quốc tế hóa mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, càng cần phải kết hợp chặt
chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại
để đưa dất nước tiến lên.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài
việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng
sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của
mình để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan. Phải phòng và chống được những nguy cơ lớn: sai lầm về
đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
II. QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA3. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có
những biến đổi to lớn và sâu sắc.Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh
mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và
đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới
nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo
thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt,
nhất là đối với những nước lạc hậu về kinh tế.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ
dựa cho phong trào hòa bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng, do duy trì quá lâu những
khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng
khoa học và công nghệ, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã lâm vào khủng
hoảng trầm trọng, ở một số nước, đảng cộng sản và công nhân không còn
nắm vai trò lãnh đạo; chế độ xã hội đã thay đổi. Các thế lực đế quốc lợi dụng
những sai lầm và khó khăn đó đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt nhằm xóa
bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản đang diễn ra gay gắt.
Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển, nhờ ứng
dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp
quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sơ hữu và chính
sách xã hội. Tuy vậy, chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và
bất công. Mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã
hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân
rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty
xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn giữa
các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng lên.
Chính sự vận động của tất cả những môi trường đó và cuộc đấu tranh của
nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản.
Các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển phải tiến hành
cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp, chống nghèo nàn và lạc hậu, chống
chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức, chống sự can thiệp và xâm lược
của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc.
Nhân dân các nước đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách
có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh, bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng
ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo. Việc giải quyết những vấn đề đó
đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các dân tộc.
Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh
giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước
nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh
co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là
quy luật tiến hóa của lịch sử.
4. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một
xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất
nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những
tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên
tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân
dân ta.
Nhưng chúng ta cũng có những thuận lợi: chính quyền thuộc về nhân
dân, nước nhà đi vào giai đoạn hòa bình xây dựng. Dân tộc ta là một dân tộc
anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt. Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng
nàn, cần cù lao động và sáng tạo. Chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở
vật chất ban đầu. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với
xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ để phát triển.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như
trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm
năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng một xã hội.
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên
thế giới.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ
nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội
kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu
đó, trước hết là các thể lực thù địch chống độc lập dẫn tộc và chủ nghĩa xã
hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm
vững những phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện và
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể
lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái
với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài
người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và
hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân và luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các
thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng
xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc
thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới
toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh
ở chặng sau.
III. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG - AN NINH, ĐỐI NGOẠI
5. Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập
thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế cá thể còn có phạm vi
tương đối lớn, từng bước đi vào cơ sở làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Tư bản tư nhân được kinh doanh trong
những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định. Phát triển
kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến
khích phát triển mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập.
Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức
kinh tế đa dạng. Các tổ chức kinh tế tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh
trong sản xuất và kinh doanh.
Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công
nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và
hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu lên cơ cấu kinh tế
hiện đại, nền kinh tế quốc dân sẽ bao gồm những ngành nghề, nhiều quy mô,
nhiều trình độ công nghệ. Phát triền nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
để ổn định tình hình kinh tế xã hội. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ,
xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước
đi thích hợp, trước hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Thực hiện
chuyên môn hóa và liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Xây dựng
các trung tâm kinh tế của từng vùng, để tạo điều kiện liên kết công nghiệp với
nông nghiệp, thành thị với nông thôn, phát triển giao lưu hàng hóa.
Xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, hình thức
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị
trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động...; thực hiện
giao lưu kinh tế thông suốt cả nước và với thị trường thế giới. Xác định quyền
của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản
lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm cho mọi tư liệu sản xuất đều
có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh của mình. Đổi mới và nâng cao hiệu lực hướng dẫn, kiểm
soát và điều tiết của Nhà nước.
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự phát triển lực
lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ
phát triển của nền kinh tế. Các chiến lược khoa học và công nghệ nhằm mục
tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế
giới. Sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của
đất nước. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật đi đôi với phát triển giáo dục và văn hóa, nâng cao dân trí.
Giáo dục và đào tạo gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển
khoa học, kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới. Nhà nước
có chính sách toàn diện thực hiện giáo dục phổ cập phù hợp với yêu cầu và
khả năng của nền kinh tế, phát triển năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài.
Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc
sách hàng đầu.
6. Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to
lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con
người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo
lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.
Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật
chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa
bệnh và nâng cao thể chất. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện cho mọi
người lao động có việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện lao động. Khuyến
khích tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động. Có chính sách bảo
trợ và điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các
vùng. Cải cách căn bản chế độ tiền lương trong khu vực nhà nước theo
nguyên tắc phân phối theo lao động. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao
động và học tập của người mẹ và của thanh thiếu niên. Chăm sóc giáo dục và
bảo vệ trẻ em. Phải thật sự coi việc giảm tốc độ tăng dân số là một quốc
sách. Thiết lập một hệ thống đồng bộ và đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã
hội. Có chính sách thích đáng đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh
binh, cán bộ lão thành, những người về hưu. Chăm lo đời sống những người
già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Phát triển các công
trình công cộng như trường học, bệnh viện, các công trình văn hóa, thể dục,
thể thao... Khuyến khích và tạo điều kiện để tập thể và nhân dân đầu tư xây
dựng nhà ở. Tuân thủ nghiêm ngặt việc bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng
sinh thái cho thế hệ hiện tại và mai sau.
Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp,
phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Phát huy vai
trò văn học, nghệ thuật trong việc nuôi dưỡng, nâng cao tâm hồn Việt Nam.
Khẳng định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái
thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém.
Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát
triển các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp
thời, chân thực và bổ ích.
Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà
trường, gia đình, từng tập thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo
bồi dưỡng hình thành con người mới. Đó là con người có ý thức làm chủ, ý
thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có
văn hóa và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính.
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là
môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các
chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận,
tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người. Đơn vị
sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường xây dựng phong
cách lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, là nơi thể
hiện tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người mới
và nền văn hóa mới.
Chính sách xã hội tác động trực tiếp đến việc hình thành một cộng
đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có
nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước
Việt Nam giàu mạnh. Phát triển giai cấp công nhân về số lượng và chất lượng
để xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Xây dựng giai cấp nông dân về mọi mặt đề xứng đáng là một lực lượng
cơ bản trong việc xây dựng nông thôn mới, góp phần đắc lực và sự nghiệp
công nghiệp hóa. Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ
trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Đặc biệt coi trọng
việc xây dựng một đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có
tài, những nhà quản lý giỏi và các nhà khoa học, kỹ thuật có trình độ cao.
Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư
khác vì sự nghiệp “ích nước lợi nhà”. Động viên sự cống hiến của đồng bào
Việt Nam ở nước ngoài góp phần tích cực xây dựng quê hương xứ sở.
Thực hiện bình đẳng nam nữ về mọi mặt.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc,
tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến
bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Tôn trọng lợi ích truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng
của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và
chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế xã hội phải phù hợp với đặc thù của
các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng. Chống mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời chống
việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân.
7. Nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân,
làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động
phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước. Không ngừng nâng cao giác
ngộ và cảnh giác chính trị của nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc
phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong điều
kiện mới, với những lực lượng nòng cốt tinh nhuệ.
Sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của quốc
phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc
phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc
phòng - an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Từng bước xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho các lực
lượng vũ trang, trong đó có công an nhân dân được trang bị kỹ thuật ngày
càng hiện đại.
Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân với số quân thường trực
thích hợp theo hướng cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ,
với lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu
cao. Phát triển đường lối và nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân trong
hoàn cảnh mới.
Xây dựng lực lượng công an nhân dân thật sự là một lực lượng vũ
trang chính quy từng bước hiện đại, tinh nhuệ. Ngăn chặn, trừng trị kịp thời
mọi hành động phá hoại của bọn phản cách mạng và tội phạm khác bảo vệ
vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn tốt trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi, tính mạng và tài sản của nhân dân. Kết
hợp lực lượng chuyên trách, nửa chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật
với phong trào quần chúng. Kết hợp biện pháp phòng ngừa, giáo dục là cơ
bản với trấn áp, trừng trị các loại tội phạm.
Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, quân sự,
văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ cho các lực lượng vũ trang, cho đội
ngũ sĩ quan và hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Bảo đảm đời sống vật chất, tinh
thần của cán bộ và chiến sĩ phù hợp với tính chất hoạt động của quân đội
nhân dân và công an nhân dân.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an nhân
dân.
8. Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp
phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt
chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại
hòa bình.
Không ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền
thống với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước anh em trên bán đảo Đông
Dương.
Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một ủng hộ các đảng cộng
sản và công nhân, các phong trào cách mạng trong cuộc đấu tranh vì những
mục tiêu chung của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng thiết lập và
mở rộng quan hệ với các đảng và các lực lượng đấu tranh chống các thế lực
hiếu chiến, xâm lược, áp bức bóc lột các nước chậm tiến, vì hòa bình thế giới
và tiến bộ xã hội. Tham gia tích cực các tổ chức quốc tế và phong trào Không
liên kết vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển.
Phát triển quan hệ với các nước Đông - Nam Á, tích cực góp phần xây
dựng khu vực này thành khu vực hòa bình và hợp tác.
Phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau với các nước
đang phát triển.
Mở rộng quan hệ hợp tác cùng có lợi với các nước phát triển.
IV. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG9. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong
giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công
bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xă hội thông qua hoạt động của nhà nước do
nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ
luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo
đảm.
Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và
quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm.
10. Tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay
mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật
pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ
thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan
luật pháp đế thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của nhà nước.
Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn
trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có
cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời
bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó.
11. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã
hội, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân,
thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân
dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và các tầng lớp xã hội, các dân tộc,
các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt
trận. Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và
thống nhất hành động giữa các thành viên theo chương trình hành động
chung.
Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác
định, vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích
thiết thực; vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên;
vừa tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Đảng tôn trụng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tích cực, sáng tạo và
chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà
nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động
có hiệu quả.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về
chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục,
vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực và phẩm chất vào hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không
làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ
thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, hoạt dộng trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tư chỉnh đốn, ra sức
nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết
thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt
đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức
chiến đấu cao. Đảng quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân.
* * *
Cương lĩnh này là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng
cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Thực hiện
thắng lợi Cương lĩnh này, nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh.
Đảng kêu gọi tất cả những người cộng sản, toàn thể đồng bào ở trong
nước và ở nước ngoài mang hết tinh thần và nghị lực phấn đấu thực hiện
thắng lợi cương lĩnh”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.3 - 22.
V. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NÓI VỀ ĐẢNG“Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui,
hòa bình, hạnh phúc”.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.l, tr.461.
“Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để
dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết
những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối,
phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với
tình hình nước ta.”
Sđd, t.8, tr.494.
“TƯ CÁCH CỦA ĐẢNG CHÂN CHÍNH CÁCH MẠNG1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm
tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng.
2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng
thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết
thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương.
4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và
chỉ thị đó có đúng hay không.
5. Phải luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của
Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước
và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.
6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt
chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được
dân chúng mà cũng không học được dân chúng.
Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý
kiến của dân chúng.
7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại
phải khéo léo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát.
Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các
cách thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài
của dân chúng.
8. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê
bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và
để dạy bảo cán bộ và đảng viên.
9. Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái,
đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài.
11. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới.
Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí.
Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với
Đảng
12. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của
mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ
hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng
Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào”.
Sđd, t.5, tr. 249 - 250.
“NGƯỜI ĐẢNG VIÊN ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM PHẢI THẾ NÀO?Thế nào mới xứng đáng là người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam?
Tuyên ngôn của Đảng đã trả lời rõ câu ấy:
Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao
động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mệnh nhất. Nó gồm những
người kiên quyết phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự lao động,
những người chí công vô tư, làm gương mẫu trong công cuộc kháng chiến
kiến quốc.
Như thế là rõ.
Ai mà không như thế, thì không xứng đáng là người đảng viên Đảng
Lao động Việt Nam.
Làm gương mẫu thế nào?
Nói chung, thì người đảng viên ở bất kỳ đâu, bất kỳ làm việc gì, bất kỳ
địa vị nào và hoàn cảnh nào, cũng phải luôn luôn:
- Đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
- Phải ra sức tham gia công việc kháng chiến.
- Phải gần gũi dân chúng, thương yêu giúp đỡ dân chúng, tổ chức và
lãnh đạo dân chúng.
- Phải giữ vững đạo đức cách mệnh là chí công vô tư.
Nói riêng từng người, thì đảng viên quân nhân:
- Phải luôn luôn giữ gìn kỷ luật, và quý trọng, tiết kiệm của công.
- Phải ra sức học tập chính trị và quân sự.
- Phải thương yêu anh em trong đội và dân chúng.
- Phải thi đua giết giặc lập công.
Đảng viên công nhân:
- Phải cố gắng học tập chính trị, văn hóa và trau dồi kỹ thuật.
- Phải thi đua tiết kiệm nguyên liệu, tăng năng suất.
- Phải giúp anh em cùng tiến bộ.
Đảng viên nông dân:
- Phải cố học tập chính trị và văn hóa.
- Phải ra sức hoạt động trong nông hội và ở địa phương mình.
- Phải thi đua tăng gia sản xuất, làm cho quân và dân ta no cơm ấm áo.
Đảng viên trí thức:
- Phải gần gũi, học tập và giúp đỡ quần chúng công nông. Phải “công
nông hóa”.
- Phải cố thực hiện và giúp đỡ anh em thực hiện Cần, Kiệm, Liêm,
Chính.
Nói tóm lại: người đảng viên - dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay
thấp - ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng.
Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để
giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và
vui lòng thi hành. Mà muốn cho quần chúng hăng hái thi hành, thì người đảng
viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt chước, làm theo.
Mà muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình, thì người
đảng viên, từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở, phải thế nào cho dân tin,
dân phục, dân yêu. Thế là làm cho dân tin Đảng, phục Đảng, yêu Đảng và
làm theo chính sách của Đảng và của Chính phủ.
Đảng viên nào không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chưa xứng
đáng là một người đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam.
Vì vậy, mỗi đảng viên phải luôn luôn cố gắng”.
C.B.
Sđd, t.6, tr. 188 - 190.
“Vì sao chúng ta vào Đảng? Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không
phải!...
Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên...”
Sđd, t.12, tr. 91.
“TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ
phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành
lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái
đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta.
Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình là cách tất nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng
hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế
xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và
rất cần thiết”.
Sđd, tr.510.
"... Việc cần phái làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi
đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao
phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù
công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Sđd, t.503.
“Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì
tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập
khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành.
Các mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng
đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”.
Sđd, t.4, tr.152.
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”
Sđd, t.5, tr.698.
“Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản”
mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước.
Đồng chí ta nhiều người đã làm được nhưng vẫn còn những người hủ hóa.
Đảng có trách nhiệm gột rửa cho các đồng chí đó”.
Sđd, tr.552.
“Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin
quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và
việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu,
đoàn kết quần chúng chặt chẽ chung quanh Đảng, tổ chức, tuyên truyền và
động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của
Đảng”.
Sđd, t.9, tr.290.
“Chúng ta, tất cả đảng viên, đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và
ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó
là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là
tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp,
của nhân dân.”
Sđd, tr.293.
HƯỚNG DẪN CÁC THỦ TỤC KẾT NẠP NGƯỜI VÀO ĐẢNGCác thủ tục kết nạp người vào Đảng đã được quy định rõ tại Điều 4 -
Điều lệ Đảng.
Cản cứ vào Điều lệ Đảng, Ban Tổ chức Trung ương Đảng đã hướng
dẫn một số thủ tục hoặc một số công việc cụ thể như sau:
1. Người vào Đảng phải làm đơn xin vào Đảng (Mẫu 1).
2. Người vào Đảng phải khai trung thực lý lịch của mình và lý lịch đó
phải được đảng ủy cơ sở thẩm tra kỹ (Mẫu 2).
3. Đảng viên chính thức giới thiệu người vào Đảng (Mẫu 3).
4. Nghị quyết của Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh ở cơ sở giới thiệu đoàn viên thanh niên vào Đảng (Mẫu 4).
5. Ý kiến nhận xét của tổ chức đoàn thể đối với người xin vào Đảng
(Mẫu 5).
6. Nghị quyết của chi bộ xét, đề nghị kết nạp đảng viên của chi bộ (Mẫu
6).
7. Nghị quyết của cấp ủy cơ sở đảng đề nghị kết nạp đảng viên (Mẫu
8).
8. Quyêt định của cấp ủy có thẩm quyền chuẩn y kết nạp đảng viên
(Mẫu 9b).
1. Đơn xin vào Đẳng (mẫu 1 – KNĐ):
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ngày... tháng... năm...
ĐƠN XIN VÀO ĐẢNGKính gửi:… Chi ủy: …
Đảng ủy: …
Tên tôi là: … Sinh ngày... tháng... năm...
Nơi sinh: …
Dân tộc: … Tôn giáo: … Nghề nghiệp: …
Trình độ học vấn: …
Quê quán: …
Nơi ở hiện nay: …
Đơn vị công tác: …
Chức vụ chính quyền, đoàn thể: …
Vào Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ngày... tháng... năm
Tại: …
Được chi bộ xét là cảm tình Đảng ngày... tháng... năm... tại: …
Qua nghiên cứu Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam; được sự giáo dục,
bồi dưỡng của chi bộ và của Đoàn (nếu có) tôi đã nhận thức được: …
Tôi nguyện trung thành với lý tưởng và mục tiêu cách mạng của Đảng,
phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xứng đáng là đảng viên của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người làm đơn(Ký và ghi rõ họ, tên)
2. Lý lịch của người sinh vào Đảng (mẫu 2 – KNĐ):
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMLÝ LỊCH CỦA NGƯỜI XIN VÀO ĐẢNG
Họ và tên đang dùng: …
Họ và tên khai sinh: …
Quê quán: …
Số lý lịch: …
- Kích thước: 20,5 X 14,5cm.
- Bìa: Làm bằng giấy trắng loại 150g trên 1m2.
- Ruột: Làm bằng giấy trắng (Bãi Bằng loại 1).
- Nội dung trong lý lịch của người xin vào Đảng (gồm 28 trang) cụ thể
như sau:
* Trang 1: Sơ lược lý lịch;
* Trang 2-8: Lịch sử bản thân và những công tác đã qua;
* Trang 9: Đặc điểm lịch sử;
* Trang 10: Những lớp đào tạo, bồi dưỡng đã qua và đi nước ngoài;
* Trang 11: Khen thưởng và kỷ luật;
* Trang 12-20: Hoàn cảnh gia đình;
* Trang 21: Tự nhận xét và cam đoan;
* Trang 22: Nhận xét của chi ủy và chứng nhận của cấp ủy cơ sở;
* Trang 23 - 28: Chứng nhận của cấp ủy hoặc tổ chức có thẩm quyền
nơi đến thẩm tra lý lịch của người vào Đảng.
- Viết lý lịch người xin vào Đảng: …
1. Họ tên đang dùng:
2. Nam, nữ: Là nam thì gạch chữ “nữ”, là nữ thì gạch chữ “nam”.
3. Họ và tên khai sinh: Khai đúng trong giấy khai sinh.
4. Bí danh: Khai bí danh đã dùng.
5. Ngày, tháng, năm sinh: Khai đúng trong giấy khai sinh.
6. Nơi sinh: Khai rõ địa danh nơi sinh: thôn, xã, huyện, tỉnh, thành phố;
số nhà, đường phố, phường, thị xã, quận, thành phố theo tên hiện dùng của
hệ thống hành chính nhà nước.
7. Quê quán: Khai quê quán của bản thân và gia đình (Khai rõ địa danh
như mục 6).
8. Nơi ở hiện nay: Khai nơi ở thường trú theo hộ khẩu hoặc nơi ở
thường xuyên của bản thân (khai rõ địa danh như mục 6).
9. Dân tộc: Khai rõ: Kinh, Thái, Tày, Nùng, Mường... (nếu là con lai
người nước ngoài thi ghi rõ quốc tịch, dân tộc của bố, mẹ).
10. Tôn giáo: Nếu trước khi vào Đảng theo tôn giáo nào thì khai rõ (ví
dụ: Công giáo, Phật giáo, Cao đài, Hòa Hảo...), nếu không theo đạo nào thì
ghi chữ “không”.
11. Thành phần xã hội hoặc nghề nghiệp của bản thân: Khai rõ nghề
nghiệp của bản thân hiện nay như: công nhân, nông dân, công chức, viên
chức, nhân viên, thợ thủ công, học sinh, sinh viên, bộ đội, nhà văn, nhà báo,
chủ doanh nghiệp...
12. Trình độ hiện nay:
- Giáo dục phổ thông: Khai rõ đã học xong lớp mấy hệ 10 hay 12 năm,
phổ thông hay bổ túc văn hóa, (ví dụ: 8/12 phổ thông, 9/10 bổ túc văn hóa)
- Chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ: Tốt nghiệp bằng cấp gì? Học chính
quy hay tại chức, thuộc chuyên ngành nào? Học hàm, học vị, bậc thợ gì?
- Lý luận chính trị: Tốt nghiệp chương trình sơ cấp, trung cấp, cao cấp,
hệ chính quy, tại chức hay mở rộng.
- Ngoại ngữ: Có bằng tốt nghiệp trình độ A, B, C ngoại ngữ gì? hoặc
biết thông thạo ngoại ngữ gì?
13. Ngày và nơi kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ nhất
(nếu có). Khai rõ ngày, tháng, năm và nơi kết nạp vào Đảng (chi bộ, đảng bộ
cơ sở, huyện, tỉnh và cơ quan Trung ương).
14. Ngày và nơi công nhận chính thức lần thứ nhất (nếu có). Viết như
mục
13. Lý do ngừng sinh hoạt đảng: vì kỷ luật hay vì lý do khách quan.
15. Người giới thiệu vào Đảng lần thứ nhất (nếu có). Khai rõ họ tên,
chức vụ, địa chỉ của từng người giới thiệu mình vào Đảng.
16. Lịch sử bản thân: Tóm tắt quá khứ từ thời niên thiếu cho đến khi
tham gia hoạt động xã hội.
17. Những công tác, chức vụ đã qua: Khai đầy đủ, rõ ràng, liên tục, từ
khi tham gia hoạt động xã hội đến nay, từng thời gian làm việc gì? ở đâu? giữ
chức vụ gì về Đảng, chính quyền, trong lực lượng vũ trang, các đoàn thể, các
tổ chức văn hóa, giáo dục, khoa học, xã hội... (ghi cả thời gian nhập ngũ, xuất
ngũ, tái ngũ; đi học; đi chữa bệnh; đi nghỉ mát, tham quan nước ngoài; bị bắt,
bị tù, đứt liên lạc hoặc không hoạt động nếu có...).
18. Đặc điểm lịch sử: Khai rõ đã vào Đảng mấy lần, có bị bắt, bị tù
không?
19. Những lớp đào tạo, bồi dưỡng đã qua: Đã học những lớp lý luận
chính trị hay khoa học kỹ thuật nghiệp vụ gì? theo chương trình gì? cấp nào
mở? tên trường, thời gian học? học chính quy hay tại chức?
20. Đi nước ngoài: Khai rõ thời gian từ tháng, năm nào đến tháng, năm
nào, đi nước nào? (chỉ ghi các trường hợp đi học tập, lao động hợp tác, công
tác dài hạn).
21. Khen thưởng: Khai rõ tháng năm, hình thức được khen thưởng, cấp
nào quyết định; khai rõ các danh hiệu được Nhà nước phong tặng: Anh hùng
lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà
giáo ưu tú...
22. Kỷ luật: Khai rõ tháng năm, lý do sai phạm, hình thức kỷ luật (khai
rõ kỷ luật Đảng, chính quyền, đoàn thể từ cảnh cáo trở lên). Cấp nào quyết
định?
23. Hoàn cảnh gia đình: Khai rõ những người chủ yếu trong gia đình
như:
- Cha, mẹ đẻ (hoặc người nuôi dưỡng từ nhỏ), cha mẹ vợ (hoặc cha
mẹ chồng), vợ (hoặc chồng). Khai rõ: họ và tên, năm sinh, chỗ ở, nghề
nghiệp hiện nay, hoàn cảnh kinh tế, thái độ chính trị của từng người:
+ Về hoàn cảnh kinh tế từng người nói trên: khai rõ thành phần giai cấp
trước Cách mạng Tháng Tám 1945, trong cải cách ruộng đất và hiện nay (nếu
có sự thay đổi thành phần giai cấp cần nói rõ lý do) và nguồn thu nhập, mức
sống hiện nay?
+ Về thái độ chính trị của từng người nói trên: khai rõ đã tham gia tổ
chức cách mạng, làm công tác gì, giữ chức vụ gì? tham gia hoạt động và giữ
chức vụ gì trong tổ chức chính quyền, đoàn thể, đảng nào... của đế quốc
hoặc chế độ cũ; hiện nay, những người đó làm gì? ở đâu? nếu đã chết thì nói
rõ lý do chết, năm nào? tại đâu?
- Anh chị em ruột của bản thân, của vợ (hoặc chồng); các con: chỉ khai
rõ họ tên, năm sinh (tuồi), chỗ ở, nghề nghiệp, công tác hiện nay.
- Đối với ông, bà nội ngoại, chú bác cô dì cậu ruột: chỉ khai những
người có đặc điếm lịch sử chính trị, có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đối với bản
thân (Ví dụ: là cán bộ lão thành cách mạng, gia đình có công với nước, anh
hùng dũng sĩ... hoặc có tội ác, bị cách mạng xử trí).
24. Tự nhận xét: Viết những ưu, khuyết điểm chính của bản thân, sự tín
nhiệm của quần chúng và đảng viên ở đơn vị công tác đối với bản thân như
thế nào?
25. Cam đoan và ký tên: Viết rõ ngày, tháng, năm, ký tên, ghi rõ họ tên.
26. Nhận xét của chi ủy chi bộ: cần nêu rõ bản lý lịch đã khai đúng sự
thật chưa? Không đúng ở điểm nào? có vi phạm tiêu chuẩn lịch sử chính trị
không? quan điểm, lập trường, chính trị của người vào Đảng, năng lực công
tác, phẩm chất chính trị, quan hệ quần chúng... của người vào Đảng thế nào?
27. Chứng nhận của cấp ủy cơ sở: Sau khi thẩm tra, kết luận thì viết rõ:
“chứng nhận lý lịch chính trị của đồng chí... khai tại đảng bộ (hoặc chi bộ) cơ
sở... là đúng sự thật” hay chưa rõ, Viết rõ ngày, tháng, năm, chức vụ, ký tên
và đóng dấu của cấp ủy cơ sở. Trường hợp cấp ủy cơ sở không có con dấu,
thì cấp ủy cấp trên trực tiếp xác nhận chữ ký, ghi rõ chức vụ, ký tên, đóng
dấu.
28. Chứng nhận của cấp ủy, tổ chức đảng... nơi đến thẩm tra lý lịch
người vào Đảng.
- Chứng nhận của Ban Thường vụ hoặc của Ban Chấp hành đảng bộ
cơ sở nơi đến thẩm tra:
Ghi những nội dung cần thiết về lý lịch của người xin vào Đảng mà tập
thế cấp ủy đã thống nhất, đồng chí thay mặt cấp ủy ký tên đóng dấu của cấp
ủy.
- Chứng nhận của cơ quan tổ chức hoặc của cấp ủy cấp trên cơ sở
(nếu có).
Ghi những nội dung cần thiết về lý lịch của người xin vào Đảng, đồng
chí đại diện cấp ủy hoặc của ban tổ chức ký tên.
3. Giấy giới thiệu người ưu tú vào Đảng (mẫu 3 – KNĐ):
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMngày... tháng... năm...
GIẤY GIỚI THIỆUNgười ưu tú vào Đảng
Kính gửi: … Chi bộ: …
Tên tôi là: … Sinh ngày … tháng … năm …
Vào Đảng ngày … tháng … năm …, Chính thức ngày … tháng …
năm…
Chức vụ hiện nay trong Đảng: … chính quyền …, đoàn thể …
Quê quán: …
Đang sinh hoạt tại chi bộ: …
Được chi bộ phân công (ngày... tháng... năm...) giáo dục, giúp đỡ...
phấn đấu vào Đảng; nay xin báo cáo chi bộ những vấn đề chủ yếu về người
phấn đấu vào Đảng như sau: …
- Về lý lịch:
Những đặc điểm chính cần lưu ý: …
- Những ưu, khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính trị; đạo đức, lối sống; năng lực công tác; quan hệ
quần chúng) …
Đối chiếu tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp đảng viên, tôi giới thiệu với
chi bộ xem xét, đề nghị kết nạp... vào Đảng.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Đảng về sự giới thiệu của mình.
ĐẢNG VIÊN GIỚI THIỆU
(Ký và ghi rõ họ tên)
4. Nghị quyết giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng (mẫu 4 – KNĐ):BAN CHẤP HÀNH ĐOÀN
Số: … - NQ/
ĐOÀN T.N.C.S. HỒ CHI MINH
ngày... tháng... năm
NGHỊ QUYẾTGiới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng Cộng sản Việt Nam
Kính gửi: Chi ủy …
Đảng ủy …
- Căn cứ điểm 1, Điều 4, Chương I, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
về thủ tục, quyền hạn của Ban chấp hành đoàn cơ sơ giới thiệu đoàn viên ưu
tú vào Đảng.
- Xét nghị quyết của chi đoàn …
- Ban … TNCS Hồ Chí Minh … họp ngày … tháng … năm … nhận
thấy:
Đoàn viên … có:
Những ưu, khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính trị; đạp đức, lối sống; năng lực công tác; quan hệ
quần chúng) …
Đối chiếu với tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp đảng viên, chúng tôi giới
thiệu và đề nghị chi bộ, đảng ủy xem xét, kết nạp đoàn viên … vào Đảng, với
sự tán thành của … đồng chí (đạt...%) so với tổng số ủy viên Ban chấp hành;
số không tán thành … đồng chí, với lý do...
Chúng tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những nội dung giới thiệu
như trên và sẽ tiếp tục giáo dục, bồi dưỡng đoàn viên … trở thành đảng viên
chính thức của Đảng.
T/M
(Ký tên, đóng dấu)
5. Tổng hợp ý kiến của tổ chức đoàn thể (mẫu 5 – KNĐ):ĐẢNG BỘ …
CHI ỦY …
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
…, ngày... tháng... năm...
Ý KIẾN NHẬN XÉTCủa tổ chức đoàn thể đối với người xin vào Đảng
Căn cứ ý kiến nhận xét của ban chấp hành đoàn thể nơi công tác và chi
ủy nơi cư trú đối với … xin vào Đảng.
- Tên các tổ chức đoàn thể nơi công tác: … tổng số có: … đồng chí.
- Tên chi ủy nơi cư trú: … có: … đồng chí.
Chi ủy chi bộ tổng hợp các ý kiến nhận xét đó như sau:
Những ưu, khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính trị; đạo đức, lối sống; năng lực công tác; quan hệ
quần chúng) …
Số đồng chí trong Ban chấp hành đoàn thể nơi công tác và chi ủy nơi
cư trú tán thành kết nạp... vào Đảng là … đồng chí, trong tổng số … đồng chí
được hỏi ý kiến (đạt...%).
Số không tán thành … đồng chí (....%) với lý do …
T/M CHI ỦY Bí thư
(Ký, ghi rõ họ tên)
6. Nghị quyết xét, đề nghị kết nạp Đảng viên của chi bộ (mẫu 6 – KNĐ):ĐẢNG BỘ …
CHI BỘ …
Số: …-NQ/CB
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
… ngày... tháng... năm...
NGHỊ QUYẾTĐề nghị kết nạp đảng viên
Căn cứ Điều 4, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam;
Ngày... tháng... năm chi bộ …
đã họp để xét, đề nghị kết nạp … vào Đảng.
Tổng số đảng viên của chi bộ: đ/v chính thức: … đ/c, dự bị: … đ/c
Có mặt: … đ/v chính thức:... đ/c, dự bị: … đ/c
Vắng mặt: … đ/v chính thức:... đ/c, dự bị: … đ/c
Chủ trì hội nghị:… Chức vụ …
Thư ký hội nghị: …
Sau khi nghe báo cáo và thảo luận, chi bộ thống nhất kết luận về …
như sau: …
Về lý lịch: …
Những ưu, khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính trị; đạo đức, lối sống; năng lực công tác; quan hệ
quần chúng) …
Đối chiếu với Quy định của Điều lệ Đảng về tiêu chuẩn và điều kiện kết
nạp đảng viên, số đảng viên chính thức tán thành việc kết nạp... vào Đảng...
đ/c (đạt %) so với tổng số đảng viên chính thức, số đảng viên chính thức
không tán thành … đ/c với lý do …
Chi bộ báo cáo đảng ủy … xét, đề nghị kết nạp … vào Đảng Cộng sản
Việt Nam.
T/M CHI BỘ
Bí thư
(Ký, ghi rõ họ và tên)
Nơi nhận:
- Đảng ủy …
(để báo cáo)
- Lưu chi bộ …
8. Nghị quyết xét, đề nghị kết nạp Đảng viên của đảng ủy cơ sở (mẫu 8 – KNĐ):ĐẢNG Bộ …
ĐẢNG ỦY …
Số: …-BC/ĐU
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
… ngày... tháng... năm...
NGHỊ QUYẾTĐề nghị kết nạp đảng viên
Căn cứ Điều 4, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam;
Ngày... tháng... năm đảng ủy đã họp để xét, đề nghị kết nạp … vào
Đảng.
Tổng số đảng ủy viên … đ/c, có mặt … đ/c, vắng mặt: … đ/c
Lý do vắng mặt: …
Chủ trì hội nghị: … Chức vụ …
Thư ký hội nghị: …
Sau khi nghe báo cáo và thảo luận, đảng ủy thống nhất kết luận về: …
như sau: …
Về lý lịch: …
Những ưu, khuyết điểm chính:
(Về phẩm chất chính trị; đạo đức, lối sống, năng lực công tác; quan hệ
quần chúng) …
Đối chiếu với Quy định của Điều lệ Đảng về tiêu chuẩn và điều kiện kết
nạp đảng viên, đảng ủy … đề nghị Ban Thường vụ … xét, Quyết định kết nạp
… vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Số đ/c tán thành … (đạt … %) so với tổng số cấp ủy viên. Số không tán
thành … đ/c, với lý do...
T/M ĐẢNG ỦY
Bí thư
(Kỷ, ghi rõ họ và tên)
Nơi nhận:
Ban Thường vụ: …
(để báo cáo)
Lưu Văn phòng đảng ủy.
9. Quyết định kết nạp đảng viên của đảng ủy cơ sở được ủy quyền nền hoa văn (mẫu 9b – KNĐ):
ĐẢNG BỘ …
ĐẢNG ỦY …
Số: … -BC/ĐU
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
… ngày... tháng... năm...
QUYẾT ĐỊNHKết nạp đảng viên
- Căn cứ Điều 4, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Căn cứ Quyết định số QĐ/TV ngày... tháng... năm … của … ủy quyền
cho đảng ủy được quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên.
- Xét đơn xin vào Đảng của …
- Căn cứ Nghị quyết số … NQ/CB ngày... tháng... năm... của …
Chi bộ … về việc
đề nghị kết nạp … vào Đảng.
BAN CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNHĐiều 1: Kết nạp đồng chí …
Sinh ngày … tháng … năm …
Quê quán: …
Vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều 2: Chi bộ... chịu trách nhiệm tổ chức lễ kết nạp đồng chí … vào
Đảng theo đúng thủ tục đã quy định.
Điều 3: Văn phòng đảng ủy, chi bộ … và đồng chí có tên trên chịu trách
nhiệm thi hành quyết định này.
T/M ĐẢNG ỦY
Nơi nhận:
- Ban Thường vụ …
… (để báo cáo).
- Như điều 3.
- Lưu hồ sơ đảng viên
Chi bộ tổ chức lễ kết nạp
Ngày... tháng... năm...
MỤC LỤCLời Nhà xuất bản
Bài 1: Khái quát lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Bài 2: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
Bài 3: Một số nội dung cơ bản của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
Bài 4: Phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Tài liệu cần đọc
Hướng dẫn các thủ tục kết nạp người vào Đảng
---//---
TÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH TRỊ CHOHỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG
(Tái bản có sửa chữa, bổ sung)
BAN TƯ TƯỞNG - VĂN HÓA TRUNG ƯƠNG
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HÀ NỘI
Chịu trách nhiệm xuất bản:
TRỊNH THÚC HUỲNH
Biên tập:
HOÀNG VĂN TUỆ - ĐINH KIM OANH - HỒ DIỆU THÚY
Vẽ bìa, trình bày:
PHÙNG MINH TRANG
Sửa bản in:
PHẠM VĂN THÔNG
In 5.000 cuốn, khổ 13 x 19cm, tại Xí nghiệp in số 3, 391 Trần Hưng Đạo -
Quận 1 - TP. Hồ Chí Minh. Giấy phép xuất bản số: 46A-472/CXB-QLXB, cấp
ngày 5/5/2003. In xong và nộp lưu chiểu tháng 8 năm 2003.
top related