TÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG TÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG (Tái bản có sửa chữa, bổ sung) LỜI NHÀ XUẤT BẢN Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục lý luận chính trị, tổng kết thực tiễn việc học tập lý luận chính trị trong nhiều năm qua, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương biên soạn Tài liệu học tập chính trị cho lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng. Nội dung cuốn sách gồm bốn bài như đã xuất bản trước đây, lần này được sửa chữa, bổ sung căn cứ theo các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Ngoài các tài liệu cần đọc thêm, lần xuất bản này có thêm Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc tế ca; hướng dẫn các thủ tục kết nạp người vào Đảng; mẫu đơn xin vào Đảng; mẫu lý lịch của người xin vào Đảng; mẫu giới thiệu quần chúng ưu tú xin vào Đảng; mẫu giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng; mẫu tổng hợp ý kiến nhận xét của quần chúng đối với người xin vào Đảng; mẫu nghị quyết xét đề nghị kết nạp Đảng.
151
Embed
saomaidata.orgsaomaidata.org/library/579... · Web viewTÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG. TÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
TÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG
TÀI LIỆU HỌC TẬP CHÍNH TRỊ CHOHỌC VIÊN LỚP BỒI DƯỠNG KẾT NẠP ĐẢNG
(Tái bản có sửa chữa, bổ sung)
LỜI NHÀ XUẤT BẢNQuán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục lý luận chính trị, tổng kết
thực tiễn việc học tập lý luận chính trị trong nhiều năm qua, Ban Tư tưởng -
Văn hóa Trung ương biên soạn Tài liệu học tập chính trị cho lớp bồi dưỡng
kết nạp Đảng.
Nội dung cuốn sách gồm bốn bài như đã xuất bản trước đây, lần này
được sửa chữa, bổ sung căn cứ theo các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX. Ngoài các tài liệu cần đọc thêm, lần xuất bản này có
thêm Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc tế ca; hướng
dẫn các thủ tục kết nạp người vào Đảng; mẫu đơn xin vào Đảng; mẫu lý lịch
của người xin vào Đảng; mẫu giới thiệu quần chúng ưu tú xin vào Đảng; mẫu
giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng; mẫu tổng hợp ý kiến nhận xét của quần
chúng đối với người xin vào Đảng; mẫu nghị quyết xét đề nghị kết nạp Đảng.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia trân trọng giới thiệu cuốn sách Tài liệu
học tập chính trị cho học viên Lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng (Tái bản có sửa
Bài 1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMĐảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập
nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ
thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc.
Hơn bảy thập kỷ qua, Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã giành được những thắng lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự
phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội;
mở ra thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: là cả một pho lịch sử bằng váng. Vì vậy, học tập, nghiên cứu lịch sử
Đảng ta là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi chúng ta.
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI, BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự
chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của các chiến sĩ cách mạng tiền bối, đáp ứng
nhu cầu lịch sử của đất nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, từng bước thiết lập
chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ
máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến giai cấp tư sản
mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực. Sự cấu kết giữa đế quốc
và phong kiến là đặc trưng của chế độ thuộc địa. Đồng thời, chúng thực hiện
chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, chia rẽ dân tộc, tôn
giáo..., làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi
phong trào yêu nước bị đàn áp dã man, mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến
bộ từ bên ngoài vào bị ngăn cấm.
Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát
triển kinh tế độc lập của nước ta, tăng cường vơ vét tài nguyên và bóc lột
nặng nề, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến..., làm cho nhân dân ta, trước
hết là công nhân và nông dân, bị bần cùng hóa, nền kinh tế bị què quặt, lệ
thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng kéo dài.
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích
văn hóa nô dịch, vong bản, sùng Pháp, kìm hãm dân ta trong vòng tối tăm,
dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội
Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc
địa, nửa phong kiến. Chính sách thống trị của Pháp và bọn tay sai đã tạo ra
trong xã hội Việt Nam hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là
giữa nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến - chỗ dựa cho bộ máy thống trị
và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó quan hệ chặt chẽ
với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu.
Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn
phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải
gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách
mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quvết.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đờiTrong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài và gian khổ,
ác liệt, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần
đấu tranh anh dũng, bất khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân
dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930,
hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sĩ phu
và các nhà yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau như
phong trào cần Vương, phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân
do cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và một số người yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản khởi xướng, các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn
Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... Tất cả
các phong trào đấu tranh đó dù vô cùng anh dũng nhưng đều thất bại và bị
thực dân Pháp đàn áp tàn bạo.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh đó
là những người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường cứu nước
đúng đắn phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng
nước ta thời kỳ đó đứng trước cuộc khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước.
3. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ
Chí Minh) rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Trên con đường bôn ba
khắp năm châu, bốn biển, Người vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý
luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ) và
tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một trong
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người đã từng bước rút ra
nhiều bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của
mình.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương đã giải
đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp
Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc,
đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm
lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong
trào cách mạng vô sản thế giới... Từ đây, Người dứt khoát đi theo con đường
cách mạng của Lênin, con đường Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là
bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến
sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế của Người. Sự
kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân
tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong
trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về
Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và
sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) của Người.
Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) trực
tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người
tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, sáng lập và
trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài
cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... để một
mặt tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, mặt khác tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi
đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn
những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm
dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp
công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân, nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi
phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy các tổ chức đảng được thành
lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc
Kỳ.
- Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam
Kỳ.
- Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở
Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu
tranh cách mạng ở Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt
động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức
thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lành đạo. Nguyễn Ái
Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất
có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp
tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội
quần chúng...
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử
như là Đại hội thành lập Đảng Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ
XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc
nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính
trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là
đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài
mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Chủ tịch
Hồ Chí Minh khởi thảo được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách
mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta.
II. NHỮNG THÀNH TỰU VẺ VANG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền - Cách mạng Tháng Tám (1945)
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn,
Đảng ta đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng
lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu
tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng, trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ
hy sinh, Đảng từng bước vận động, giáo dục quần chúng, qua ba cao trào
cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939,1939-1945) như ba cuộc tổng diễn tập
cách mạng, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ
lịch sừ, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta
lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn.
Chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô
lệ của chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát tồn tại
trong gần một thế kỷ.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập tự do, dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào
rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của dân tộc thuộc địa và
nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc”.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã phải đối
mặt với ba thứ giặc hung dữ: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói
hoành hành đã làm cho hơn 2 triệu đồng bào chết đói; trên 95% dân Việt Nam
mù chữ; miền Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng, miền Nam trên 15 vạn quân
Pháp lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà
nước ta còn rất non yếu: vận mệnh của đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ
trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch, chúng ta thực
hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng, giành thời
gian củng cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng
suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã
động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua
muôn vàn khó khăn, nguy hiểm tưởng như không qua được, củng cố, giữ
vững chính quyền đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị
mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Bất chấp nguyện vọng của nhân dân ta và mặc dù chúng ta đã nhân
nhượng, nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần
nữa. Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay go mới, phải đứng
lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã quyết tâm “thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”... Với
đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là
chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt
qua mọi khó khăn giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử (tháng 5-1954) mãi mãi ghi vào lịch
sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ
XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của
hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hoàn
toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên
trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân
hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời
cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ
nghĩa trên thế giới”.
Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý: “...trong điều kiện thế giới ngày
nay, một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên
quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc
lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp
công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại
quân thù và giành tự do, độc lập”.
3. Đảng lãnh dạo tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược - đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng
Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điếm là đất nước tạm chia làm hai
miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Con đường phát triển tất
yếu của cách mạng Việt Nam như Đảng ta xác định là tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng
miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
chống đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một chiến lược khác nhau nhưng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ
vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển cách mạng Việt Nam.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng có tác
dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhân dân cả nước ta tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quyết “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ đã huy
động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ
hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Song, trải qua 21 năm, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến
đấu kiên cường, lại được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên
thế giới, đã lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở
miền Nam. Bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với
thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh, thấy hết lực lượng
mà kẻ địch đã sử dụng, những ý đồ mà chúng đã thực thi, nhớ lại những tình
huống cực kỳ phức tạp mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua, chúng ta càng
thấy rõ tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi dược ghi vào lịch sử dân tộc như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm
chiến tranh giải phóng dân tộc, bao vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị tàn
bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quá của chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, mở
ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
cả nước.
4. Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (từ 1975 đến nay)
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt
Nam có những thuận lợi, song cùng không ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất
là nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu
quả chiến tranh để lại nặng nề. Chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động luôn tìm
mọi cách phá hoại. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã và đang trải
qua nhiều diễn biến phức tạp; chủ nghĩa xã hội thế giới gặp phải những khó
khăn, thử thách lớn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào, đặc biệt từ khi chế độ
xả hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Quá trình đó đã tác động, ảnh
hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng
Việt Nam đã vượt qua những khó khăn trở ngại, thu được những thành tựu
quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước
về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc Tổ
chức xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, nhân dân
ta đã có những cố gắng to lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân. Chúng
ta tập trung sức bắt tay xây dựng nhiều công trình kinh tế trọng điểm: đường
sắt Bắc - Nam, thủy điện Hòa Bình, xi măng Hoàng Thạch, cầu Thăng Long...
Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế - xã hội còn thấp so với yêu cầu kế
hoạch và công sức bỏ ra, nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ
lạm pháp cao quá mức, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng gay gắt.
Với tinh thần nhìn thắng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,, nói rõ sự
thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (12-1986) đã nghiêm
khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được,
phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan,
duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra
bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và nhiệm vụ kinh tế - xã
hội 5 năm 1991 - 1995, cụ thể hóa hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. Sau
10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đất nước ta vượt qua một
giai đoạn thử thách gay go. Trong hoàn cảnh phức tạp, khó khăn, cách mạng
nước ta không những đứng vững mà còn vươn lên đạt những thắng lợi nổi
bật trên nhiều mặt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (22-6 đến 1-7-1996) đã
nhận định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm
1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn
chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị
tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang
thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định
rõ hơn”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp
tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội”. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ từ năm 1996 đến năm 2000 là: “tăng
trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những
vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống
nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho
bước phát triển cao hơn vào thế kỷ sau”.
Năm năm qua (1996 - 2000), bên cạnh những thuận lợi, nước ta gặp
nhiều khó khăn, song toàn Đảng, toàn dân ta ra sức thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, đạt được những thành tựu quan trọng.
Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP tăng bình
quân hàng năm 7%). Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất
lương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%,
một số ngành tăng nhanh: điện, than, khai thác dầu thô, thép cán, xi măng...
Các ngành dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000 đã chặn
được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và
vượt kế hoạch đề ra.
Văn hóa, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Giáo dục - Đào tạo có bước phát triển cả về quy mô và cơ sở vật chất.
Việc chăm sóc sức khỏe nhân dân được đẩy mạnh. Công tác xóa đói, giảm
nghèo trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật được dư luận thế giới đánh
giá cao. Mỗi năm hơn 1,2 triệu lao động có việc làm mới, V.V..
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được
tăng cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng
hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ngày càng được phát
huy.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị
được củng cố. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy;
một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước
hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện.
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc
tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt.
Những thành tựu đạt được trong 5 năm (1996 - 2000) đã tăng cường
sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống của nhân
dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao
vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII cũng còn những yếu kém, khuyết điểm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp.
Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và gay gắt, chậm được giải
quyết. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát
triển. Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, là rất nghiêm trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001) đã chỉ rõ: Thực
tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng
minh tính đúng đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết
tâm xây dựng đất nước Việt nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu
tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ
nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các
nước phát triển trên thế giới.
Chặng đường vẻ vang hơn bảy thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng
suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu kỳ
diệu. Tuy nhiên, Đảng cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm,
khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát hiện ra những sai lầm,
khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời.
Đảng công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm
sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin cậy,
thừa nhận Đảng ta là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy
nhất của cả dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào
có thể lãnh đạo cách mạng.
III. NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi
luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện
bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Đó là:
- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh, nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với
nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Đảng.
- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế...
Những truyền thống đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc
tế trên một tầm cao mới của thời đại, là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo
của Đảng. Đó là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh
phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ đảng viên của Đảng góp phần tạo
nên. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện
tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của
Đảng ta. Ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế
giới, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công
nhân. Vì vậy, trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là
trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thứ thách dù hiểm
nghèo tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách
sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, đưa con thuyền cách
mạng vượt lên.
Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng
đứng vững trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lênin cho rằng: “Chỉ có đảng nào được một
lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến
sĩ tiên phong”. Đảng ta không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn
Việt Nam. Đồng thời, Đảng ta không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết lịch sử và truyền thống của Đảng
không phải chỉ để tự hào về Đảng mà quan trọng hơn là góp phần giữ vững,
kế thừa và phát huy những truyền thống của Đảng, làm cho Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm
đòi hỏi của thời đại mới, đưa ngọn cờ vinh quang của Đảng lên tầm cao mới.
CÂU HỎI THẢO LUẬN1. Trong hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại như thế nào?
2. Phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt
Nam? Những truyền thống đó đang được Đảng ta giữ gìn và phát huy ra sao?
Bài 2. CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. KHÁI NIỆM CƯƠNG LĨNH
1. Chính đảng của giai cấp nào cũng có cương lĩnh chính trị
Trong lịch sử phát triển của loài người, khi xã hội đã phân chia thành
giai cấp, có mâu thuẫn về lợi ích giai cấp là có đấu tranh giai cấp. Đấu tranh
chính trị là hình thức đấu tranh giai cấp cao nhất, vì nó giải quyết vấn đề
quyền lực chính trị thuộc về giai cấp nào. Giai cấp nào giành được quyền lực
chính trị sẽ trở thành giai cấp thống trị về chính trị đối với xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, các đảng chính trị không ra đời cùng với sự ra
đời của các giai cấp. Lịch sử đấu tranh giai cấp đã chứng minh rằng, đấu
tranh giai cấp phát triển đến một trình độ nhất định - trình độ đấu tranh chính
trị - thì các đảng chính trị mới có khả năng ra đời. Đấu tranh chính trị đòi hỏi
giai cấp phải có mục tiêu chính trị rõ rệt, phải có tổ chức chặt chẽ để tập hợp
lực lượng của giai cấp, để huy động lực lượng đồng minh đánh bại kẻ thù
giành thắng lợi. Đảng chính trị về nguyên tắc, là tổ chức cao nhất, chặt chẽ
nhất của giai cấp, kiên quyết nhất trong cuộc đấu tranh đế bảo vệ lợi ích giai
cấp khi chưa giành được quyền lực chính trị cũng như khi đã giành được
quyền lực chính trị.
Trong thời đại ngày nay, chế độ chính trị - xã hội ở mỗi nước có sự
khác nhau, nhưng dưới chế độ chính trị - xã hội nào thì đảng cầm quyền cũng
đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của mỗi nước. Lãnh đạo của Đảng
là lãnh đạo chính trị. Đảng đề ra cương lĩnh chính trị.
2. Cương lĩnh chính trị là gì?Cương lĩnh chính trị là văn kiện lý luận và chính trị cơ bản chỉ rõ mục
tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn
nhất định của một chính đảng hoặc một tổ chức chính trị. Theo V.I.Lênin,
“Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả
những điều mà đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh”.
Theo quan niệm của Đảng ta: Cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày
những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp
cách mạng trong một giai đoạn nhất định.
Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn
Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho lý tưởng
mà Đảng đã chỉ ra.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Hội nghị thành lập Đảng (từ ngày 3 đến ngày 7- 2-1930) đã thông qua
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình
tóm tắt của Đảng, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Những văn kiện đó
hợp thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung của Cương lĩnh tuy rất vắn tắt nhưng đã xác định đúng đắn
những vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Trên cơ sở xác định đúng đắn hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta lúc
đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và mâu thuẫn giữa
nhân dân lao động, trước hết là nông dân với địa chủ phong kiến, Cương lĩnh
xác định phương hướng và nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là:
“Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Nhiệm vụ của giai đoạn đầu là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến” cùng bộ phận phản động tay sai của chúng, “làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập”, thiết lập chính quyền công nông, đem lại mọi
quyền tự do cho nhân dân,...
Về lực lượng lãnh đạo cách mạng, Cương lĩnh chỉ rõ đó là giai cấp vô
sản mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Lực lượng cơ bản của cách
mạng là giai cấp vô sản và đại đa số dân cày. Đồng thời, hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức và trung nông, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ
được, đoàn kết dân tộc trên cơ sở giữ vững lợi ích của công nông; xác định
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, thực hiện chủ
nghĩa quốc tế vô sản; thực hiện triệt để sách lược phân hóa kẻ thù. Phương
pháp cách mạng chủ yếu là dùng bạo lực cách mạng của quần chúng.
Tóm lại, đây là một Cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn
và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, thể hiện sự kết hợp
nhuần nhuyễn quan điếm giai cấp với quan điểm dân tộc, độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 10 năm 1930 đã
thông qua bản Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu
tiên của Đảng soạn thảo, trong đó có nhiều nội dung quan trọng của Cương
lĩnh đã được luận chứng sâu sắc và có sự phát triển.
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH NĂM 1991
Với thắng lợi lịch sử mùa Xuân năm 1975, cách mạng dân tộc dân chủ
ở nước ta cơ bản đã hoàn thành. Cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đảng ta cần có cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991), trên cơ sở tổng
kết quá trình hơn 60 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1930, phân tích sâu sắc
đặc điểm, hoàn cảnh quốc tế và trong nước, Đảng ta đã đề ra cương lĩnh
mới: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991) với những nội dung cơ bản sau:
1. Năm bài học lớn của cách mạng Việt NamTổng kết thực tiễn hơn 60 năm cách mạng nước ta (1930-1931) cả
trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (bao
gồm 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI đề ra), từ những thành công và khuyết điểm, sai lầm, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng rút ra năm bài học lớn:
Bài học thứ nhất: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, có giá trị trong
cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn
cho thấy, nắm chắc bài học này sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc có quan hệ hữu
cơ với nhau.
Bài học thứ hai: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy, chính nhân dân là người
làm nên thắng lợi lịch sử.
Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và
toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân
chính của nhân dân, đại biểu trung thành với lợi ích của nhân dân. Đảng
không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu,
mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ làm cho sự nghiệp cách mạng bị tốn thất, thậm
chí làm cho cơ đồ bị sụp đổ. Bài học này càng cần thiết trong thời kỳ mới, đòi
hỏi phải được vận dụng sáng tạo.
Bài học thứ ba: Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết; đoàn kết
toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là
truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của nhân dân, được
Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên sức mạnh to lớn
giành thắng lợi.
Bài học thứ tư: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Sức mạnh trong nước, sức mạnh
dân tộc là sức mạnh tổng hợp tạo ra từ truyền thống của dân tộc, của văn hóa
tinh thần là sức mạnh vật chất của dân tộc. Sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời
dại, sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển của lịch sử nhân loại, của
cách mạng khoa học và công nghệ, của lực lượng cách mạng và tiến bộ trên
thế giới,...
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh bên trong là yếu
tố quyết định, nó được nhân lên nếu kết hợp, tận dụng được sức mạnh bên
ngoài.
Bài học thứ năm: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Kiên định sự lãnh đạo của Đảng,
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu cho
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng phải xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết
các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Muốn vậy, cần quán triệt những nội dung cơ
bản sau:
- Nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
- Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức
thực tiễn của Đảng;
- Xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan, đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân;
- Phòng chống có hiệu quả những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối,
bệnh quan liêu và sự thoái hóa biến chất của cán bộ, đảng viên, v.v...
Năm bài học lớn của cách mạng nói trên cũng là năm bài học về sự
lãnh đạo của Đảng, nó vẫn còn giữ nguyên ý nghĩa.
2 Khẳng định con đường xã hội chủ nghĩaTrên cơ sở xác định đúng đắn nội dung, tính chất, đặc điểm của thời
đại ngày nay, những thuận lợi, khó khăn trong nước và những kinh nghiệm đã
tích lũy được, Cương lĩnh một lần nữa khẳng định con đường xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang đi.
a) Hoàn cảnh quốc tếHoàn cảnh quốc tế đang diễn ra sự biến đổi to lớn và sâu sắc với
những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại vừa tạo ra thời cơ phát triển nhanh, vừa tạo ra những
thách thức đối với nước ta và các nước.
- Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng, thậm
chí ở một số nước, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội đã
thay đổi. Các thế lực đế quốc luôn phản kích quyết liệt nhằm xóa bỏ các nước
xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang
diễn ra gay gắt.
- Chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, song bản chất
áp bức, bóc lột và bất công vẫn không thay đổi. Mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân với
giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các trung tâm tư bản,
giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển ngày càng tăng.
- Cuộc đấu tranh của các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát
triển chống nghèo nàn, lạc hậu chống chủ nghĩa thực dân mới, chống sự can
thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân
tộc đang tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức và khó khăn phức tạp.
- Nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách cần phải giải quyết.
- Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu
tranh giai cấp gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội đang đứng trước nhiều
khó khăn, thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co;
song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
b) Những khó khăn, thuận lợi của nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Khó khăn to lớn không dễ khắc phục trong một sớm một chiều là lực
lượng sản xuất rất thấp, nước ta vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, bị chiến
tranh kéo dài, tàn phá gây hậu quả nặng nề, tàn dư thực dân, phong kiến còn
nhiều, các thế lực thù địch tăng cường chống phá,...
- Thuận lợi cơ rất cơ bản: có chính quyền nhân dân, đất nước trong giai
đoạn hòa bình và xây dựng chủ nghĩa xã hội; dân tộc ta anh hùng, có ý chí
vươn lên mạnh mẽ; nhân dân có lòng yêu nước nồng nàn, lao động cần cù,
sáng tạo; có Đảng được tôi luyện, dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; có một số
cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu; có thời cơ do cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ mang lại. Đặc biệt là, công cuộc đổi mới do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng khởi xướng đã đạt được những thành tựu bước
đầu rất quan trọng, tạo thế đi lên, qua đó càng khẳng định con đường của
chúng ta đang đi là đúng. Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn
duy nhất đúng đắn.
Cương lĩnh khẳng định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình
đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự
cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích
hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
3. Quan niệm về chủ nghĩa xã hộiTrong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, việc Đảng ta
nêu lên quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa
xã hội là xã hội bao gồm các đặc trưng chủ yếu sau đây:
Đặc trưng thứ nhất: Nhân dân lao động làm chủ. Đây là đặc trưng cơ
bản khác biệt hoàn toàn về chất so với chủ nghĩa tư bản và các chế độ bóc
lột; nó thể hiện lý tưởng cao đẹp của nhân loại, khát vọng cháy bỏng ngàn đời
của con người.
- Nhân dân làm chủ trên thực tế mọi mặt đời sống xã hội, được bảo
đảm bằng pháp luật, được thực hiện trên cả hai hình thức: làm chủ đại diện
và làm chủ trực tiếp.
- Quá trình thực hiện làm chủ là một quá trình lâu dài, khó khăn, gian
khổ, từ thấp đến cao, phụ thuộc vào kết quả sự phát triển xã hội và phát triển
bản thân con người.
Đặc trưng thứ hai: Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thực hiện công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở kinh tế để
xóa tận gốc việc sinh ra giai cấp đối kháng, xóa tận gốc cơ sở kinh tế của chế
độ người bóc lột người.
Điểm khác về chất giữa kinh tế xã hội chủ nghĩa so với kinh tế tư bản
chủ nghĩa là chế độ sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu: trong chủ nghĩa
tư bản là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa; trong chủ nghĩa xã hội là
chế độ công hữu. Từ đó quy định chế độ tổ chức, quản lý sản xuất, chế độ
phân phối kết quả sản xuất: chủ yếu phân phối theo lao động (trong chủ nghĩa
xã hội) và phân phối theo tư bản (trong chủ nghĩa tư bản).
Đặc trưng thứ ba: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy xã hội phát triển. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn
hóa.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung
cốt lõi của nó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản
sắc dân tộc là những giá trị tinh thần bền vững mà lịch sử hàng ngàn năm của
dân tộc đã hun đúc lên. Đối với dân tộc Việt Nam đó là lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết cộng đồng gắn chặt cá nhân
với gia đình, làng xã, Tổ quốc, là tinh thần ham học tập cầu tiến bộ, là lối sống
giản dị khiêm tốn, là lòng nhân ái thủy chung, trọng nghĩa tình đạo lý.
- Giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Đặc trưng thứ tư: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, khác
biệt so với chủ nghĩa tư bản. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
chủ nghĩa xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội:
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động.
- Con người phát triển toàn diện là con người đạt đến trình độ cao về
trí, đức, thể, mỹ tương xứng với cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Đặc trưng thứ năm: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Đặc trưng thứ sáu: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới.
Hai đặc trưng năm và sáu là kết quả của tình trạng xóa bỏ bóc lột, áp
bức, bất công do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
chủ yếu sinh ra.
Thực tế nhiều nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao hiện nay cho thấy
nạn kỳ thị chủng tộc ngay trong các nước đó và áp bức, bóc lột của các nước
này đối với các nước nghèo, chậm phát triển diễn ra dưới nhiều hình thức,
vừa trắng trợn, vừa tinh vi.
Sáu đặc trưng nói trên gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể
thống nhất, vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần
từng bước. Mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý đều phải chú ý đến cả sáu đặc
trưng, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của mọi cấp, mọi
ngành.
4. Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Những phương hướng cơ bản mà Cương lĩnh chỉ ra vừa mang tính
nguyên tắc, bảo đảm không chệch hướng xã hội chủ nghĩa, vừa quán triệt
tinh thần đổi mới để không ngừng tiến lên vững chắc và không lặp lại sai lầm
cũ.
Một là, “xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
Vấn đề xây dựng Nhà nước được đặt lên hàng đầu, vì vấn đề chính
quyền luôn luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng; nước ta từ một
nước lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, cần biết phát huy ưu thế của chế độ
chính trị, của chính quyền Nhà nước để khắc phục tình trạng yếu kém về trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Phương hướng này chỉ rõ bản chất giai cấp, tính nhân dân của Nhà
nước ta. Chỉ có một Nhà nước như vậy, nhân dân ta mới có công cụ mạnh
mẽ, sắc bén để thực hiện quyền làm chủ của mình, đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Điểm mới ở đây là tầng lớp trí thức cùng với giai cấp công nhân và
nông dân hợp thành liên minh, là cơ sở xã hội của nhà nước, là nền tảng và
chỗ dựa của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ,
vai trò trí thức đã quan trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội - nhất là khi
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động mạnh đến nhịp độ
phát triển của các dân tộc - thì vai trò trí thức càng quan trọng. Song, sẽ phạm
sai lầm nghiêm trọng nếu tuyệt đối hóa vai trò trí thức, hạ thấp vai trò công -
nông.
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần chống lại thứ dân chủ chung
chung, phi giai cấp mà thực chất là để thực hiện dân chủ tư sản nhằm xóa bỏ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân”.
Việc xác định nhiệm vụ trung tâm như trên đáp ứng yêu cầu giải quyết
một phần quan trọng mâu thuẫn cơ bản của nước ta, phù hợp với quy luật
phát triển của xã hội ta hiện nay.
Nói phát triển lực lượng sản xuất rộng hơn, bao quát hơn nói công
nghiệp hóa, vì công nghiệp hóa là phương thức quan trọng nhất để phát triển
lực lượng sản xuất. Đồng thời, nói rõ công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Đây là điểm khác với quan niệm công nghiệp hóa trước đây về xây dựng
công nghiệp nặng.
Ở nước ta, vai trò nông nghiệp rất quan trọng. Vì vậy, phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện là một yêu cầu vừa cơ bản, vừa bức xúc đối với
sự phát triển chung và đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng.
Ba là, “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”.
Phương hướng thứ ba thể hiện sâu sắc hơn, sáng tỏ hơn quan niệm về
xây dựng quan hệ sản xuất trên ba mặt: hình thức sở hữu, cơ chế quản lý và
phân phối phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hiện nay;
khắc phục quan điểm sai lầm duy ý chí trước đây, muốn nhanh chóng xác lập
ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sớm có chế độ công hữu chiếm ưu
thế trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn rất thấp, phủ nhận sản xuất
hàng hóa và kinh tế nhiều thành phần, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp; phân phối bình quân.
Mô hình kinh tế nào dù là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì Nhà nước cũng phải quản lý. Cái
khác căn bản của các nhà nước xã hội chủ nghĩa là mọi quyết định quản lý
của mình chủ yếu phải nhằm mục tiêu xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa
xã hội, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chúng ta chủ trương tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước trong cơ chế thị trường để chủ động phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, hướng nền kinh tế thị
trường phục vụ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, không để tự phát sang quỹ đạo tư
bản chủ nghĩa
Mặt khác, tăng cường vai trò của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
mới từng bước hình thành cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội tức là xây dựng
cơ sở kinh tế để xóa bỏ tận gốc tình trạng phân hóa giai cấp, xóa áp bức, bóc
lột. Đây là một trong những vấn đề cơ bản để đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình phát triển các thành phần kinh tế. Trong kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có những hình thức phân phối, có
cả phân phối theo vốn, phân phối theo phúc lợi nhưng hình thức phân phối
chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Bốn là, “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng
và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến
bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý
của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Cần nhận rõ cách mạng tư tưởng – văn hóa là một quy luật của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và càng cần thiết khi chuyển sang kinh tế thị trường.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với xây dựng nền văn hóa mới và con người mới,
đảm bảo sự phát triển bền vững.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương sáng cho mọi người dân
Việt Nam. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là kết tinh những tinh hoa văn hóa
của dân tộc Việt Nam. Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong phương hướng này đã đặt ra yêu cầu cụ thể về xây và chống
trong đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội ta, nhằm xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới phát triển toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Đây là nhiệm vụ cơ bản của công
tác tư tưởng - văn hóa.
Năm là, “thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp
tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các
lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới”.
Đó là phương hướng nhằm huy động mọi lực lượng của toàn dân tộc,
mọi tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam, tạo môi trường quốc tế
thuận lợi, tranh thủ tối đa sức mạnh của bên ngoài, kết hợp có hiệu quả sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để phát triển nhanh và bền
vững. Đồng thời, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Sáu là, “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các
thành quả cách mạng”.
Hai nhiệm vụ chiến lược trên có vị trí riêng, nhưng có quan hệ thống
nhất với nhau. Xác dịnh đúng từng nhiệm vụ trong mối quan hệ đó, để một
mặt, tập trung sức lực, trí tuệ cho việc xây dựng đất nước, mặt khác, có đủ
khả năng đập tan mọi hoạt động phá hoại, làm thất bại mọi âm mưu và thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đảm bảo cuộc sống hạnh
phúc cho nhân dân.
Đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước lên hàng đầu không phải là coi nhẹ
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bởi vì làm tốt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
là xây dựng cơ sở vật chất và tinh thần, bảo đảm làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, cần kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiệm vụ an ninh,
quốc phòng.
Bảy là, “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.
Cần nhận thức sâu sắc vai trò quyết định hàng đầu của sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Không bao giờ
được chủ quan, cần thường xuyên nhận rõ nguy cơ của Đảng cầm quyền mà
Lênin và Bác Hồ đã cánh báo. Đó là nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị,
sự thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, quan liêu, xa rời quần chúng. Do
đó, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của mình.
Trách nhiệm xây dựng Đảng là của toàn Đảng, toàn dân, của mọi cấp,
mọi ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên. Cần có cơ chế, quy định cụ thể để
nâng cao hiệu quả thiết thực của sự tham gia của nhân dân vào xây dựng
Đảng, cần phòng chống có hiệu quả các nguy cơ sai lầm về đường lối, tệ
quan liêu, sự thoái hóa biến chất của cán bộ, đảng viên.
Theo các phương hướng cơ bản nói trên: “Mục tiêu tổng quát phải đạt
tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh
tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng,
văn hóa phù hợp, làm cho đất nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh”.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
phải qua nhiều chặng đường. “Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua
đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát
triển nhanh ở trạng thái sau”. Sau mười năm đối mới với những thành tựu rất
quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại, đất nước ta
đã kết thúc chặng đường đầu tiên, bước vào chặng đường thứ hai - chặng
đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thực hiện các mục tiêu nói trên, trong Cương lĩnh đã nêu những
định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
phương hướng cơ bản, xây dựng hệ thống chính trị, trong đó nêu bật vai trò
lãnh đạo của Đảng.
IV. CƯƠNG LĨNH ĐƯỢC CỤ THỂ HÓA VÀ PHÁT TRIỂN TRONG CUỘC SỐNG
1. Cương lĩnh năm 1991 đã được các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) cụ
thể hóa trên các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Vì vậy “con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”.
Kết quả bước đầu thực hiện các nghị quyết nói trên đã đưa nước ta ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ của chặng
đường đầu và chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) phát triển hơn nữa nội dung Cương lĩnh, tiếp tục xác định rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Mười năm thực hiện chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội
(1991-2000) đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng:
Tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng hơn gấp đôi so với năm
1990 (gấp 2,07 lần). Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất
tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay
sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế;
từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua được cơn chấn
động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường do những biến động ở Liên Xô và
Đông Âu gây ra; phá được thế bị bao vây cấm vận; mở rộng được quan hệ
đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; không để bị cuốn sâu vào
cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế ở một số nước châu Á mặc dù hậu quả
của nó đối với nước ta cũng khá nặng nề; tình hình chính trị - xã hội cơ bản
ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của
nước ta đã lớn hơn nhiều so với mười năm trước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “15 năm đổi mới
(1986-2000) đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi
mới do các đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị
lớn, nhất là những bài học chủ yếu sau đây: Một là, trong quá trình đổi mới,
phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn là,
đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
đổi mới”.
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) tiếp tục làm rõ hơn nữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
a) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã phát triển hơn nữa nội dung Cương lĩnh
Một là, khẳng định con đường phát triển: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới
đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày
càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta một
lần nữa khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước lên chủ nghĩa xã hội, định hướng
cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những năm tới. Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội đã chính thức xác định quan
niệm, nguồn gốc của một số nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm lý luận chính trị
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
- Về nguồn gốc: Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại.
- Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
+ Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
+ Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại.
+ Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân.
+ Về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Về phát triển kinh tế và văn hóa không ngừng nâng cao đời sống vật
chất tinh thần của nhân dân.
+ Về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
+ Về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân...
Đại hội khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta”.
Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Ba là, xác định rõ hơn về thời kỳ quá độ và đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ quá độ ở nước ta.
- Con đường đi lên của nước ta là phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các
lĩnh vực cùa đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng năm 1996, đất
nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Trong chặng đường hiện nay còn phải tiếp tục hoàn thành một số nhiệm vụ
của chặng đường trước.
- Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất,
nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu,
tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với
những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các
tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn
kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện
công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục
những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân
tộc; xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân
hạnh phúc.
Bốn là, phát triển hơn nữa về mục tiêu chung.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã ghi: xây dựng một xã hội dân chủ,
văn minh. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đề ra và được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã bổ sung thêm từ “dân chủ”
thành mục tiêu chung là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Năm là, xác định rõ động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Động lực chủ yếu đế phát triển đất nước và sự đoàn kết toàn dân trên
cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, kết hợp hài hòa các
lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng cả nguồn lực của
các thành phần kinh tế của toàn xã hội. Cùng với việc phát huy mọi tiềm năng
và nguồn lực vật chất, phải rất coi trọng phát huy nguồn lực tinh thần, nhất là
lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường và trí sáng tạo của nhân dân ta để phát
triển đất nước.
Sáu là, xác định rõ mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp
trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.
- Về sở hữu, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều
hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sơ hữu tập thể, sở hữu tư nhân), nhiều
thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể; tiểu chủ;
kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể càng trở thành nền tảng vững chắc.
Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
- Về quản lý, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nước. Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng
cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sản xuất, phát huy mặt
tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi
ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
- Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực
hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời
phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh
doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
- Về xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước, V.V..
Những quan điểm chủ yếu trên đây thể hiện bước phát triển quan trọng
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
b) Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã tiếp tục cụ thể hóa đường lối Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
- Về kinh tế: Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
đã ra nghị quyết về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa IX ra ba nghị quyết về kinh tế: về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể; về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích
và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; về đẩy nhanh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010. Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, thứ năm, thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX về kinh tế là bước tiến có ý nghĩa quan trọng trong việc
cụ thể hóa đồng bộ đường lối kinh tế của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra kết luận về
giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ để nhằm tiếp tục chấn hưng sự
nghiệp giáo dục và đào tạo; nhằm phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ,
động lực chủ yếu để phát triển kinh tế.
- Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX ra kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, đẩy mạnh cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng
phí. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra 2 nghị
quyết: về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn; về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong
tình hình mới; Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra kết
luận về công tác tổ chức và cán bộ. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX ra nghị quyết: về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo. Tất cả các nghị quyết trên
nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch,
vững mạnh; nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
CÂU HỎI THẢO LUẬN1. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội như
thế nào?
2. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc cần
nắm vững những phương hướng cơ bản gì?
3. Từ khi ra đời đến nay, Cương lĩnh 1991 đã được cụ thể hóa và phát
triển trong cuộc sống ra sao? (Đi sâu vào những vấn đề Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng nói rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta).
Bài 3. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐIỀU LỆ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU LỆ ĐẢNG
1. Điều lệ Đảng là gì?
Điều lệ Đảng là văn bản xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng, các
nguyên tắc về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức, bộ máy của Đảng, quy
định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và của tổ chức các cấp
của Đảng.
Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thông qua và ban
hành.
2. Đặc điểm của Điều lệ Đảng- Điều lệ Đảng là văn bản pháp lý cơ bản của Đảng nên được viết ngắn
gọn, chặt chẽ, dễ hiểu, hiểu cùng một nghĩa và được chia thành các phần,
chương, điều, điểm để chấp hành thống nhất.
Những vấn đề cụ thể không đưa vào Điều lệ Đảng thì được cơ quan có
thẩm quyền của Đảng là Bộ Chính trị, Ban Bí thư quy định, hoặc các cơ quan
chức năng (như Ban Tổ chức Trung ương, ủy ban Kiềm tra Trung ương...)
hướng dẫn thi hành, bảo đảm cho Điều lệ Đảng được thi hành thống nhất,
nghiêm minh.
- Điều lệ Đảng có giá trị và hiệu lực thi hành trong toàn Đảng. Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền nên một số nội dung của
Điều lệ Đảng được thể hiện trong Hiến pháp, một số bộ luật của Nhà nước và
một số văn kiện cơ bản của các tổ chức chính trị - xã hội. Điều lệ Đảng cũng
dành những chương riêng (chương IX, chương X) để nêu rõ các quy định về
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Điều lệ Đảng có tính ổn định tương đối, tính kế thừa và được phát
triển cùng với quá trình phát triển của cách mạng và của Đảng. Mỗi kỳ Đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng, cùng với việc quyết định đường lối chính trị của
thời kỳ mới, Điều lệ Đảng cũng được Đại hội xem xét bổ sung, sửa đổi cho
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng, Từ Điều lệ đầu tiên (Điều
lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam) được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng ngày 3-2-1930 đến nay, Điều lệ Đảng đã được bổ sung, sửa đồi
nhiều lần.
Điều lệ Đảng hiện hành được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng thông qua ngày 22-4-2001.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐIỀU LỆ ĐẢNG
Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông
qua có phần mở đầu 12 chương, 48 điều.
Nội dung phần mở đầu
Phần mở đầu của Điều lệ Đảng hiện hành đã trình bày và khái quát
những nội dung chủ yếu là:
- Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ
thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc.
- Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
- Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đảng là tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung
dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.
- Vai trò, trách nhiệm của Đảng ta là một đảng cầm quyền trong hệ
thống chính trị và trong mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
- Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa
bình, dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh
đạo cách mạng của Đảng.
Những nội dung trên đã thể hiện một cách đúng đắn và sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ của
Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như Cương lĩnh
chính trị của Đảng đã vạch ra.
Chương I: Đảng viên, có 8 điều.
Đây là chương rất quan trọng của Điều lệ Đảng, đã chỉ rõ những nội
dung sau:
- Khẳng định vị trí, vai trò tiêu chuẩn của người đảng viên.
- Điều kiện được xem xét để kết nạp đảng.
- Nhiệm vụ và quyền của đảng viên.
- Thủ tục kết nạp người vào đảng.
- Phát triển và quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên, điều kiện
được giảm, miễn công tác và sinh hoạt đảng cũng như xóa tên trong danh
sách đảng viên.
Chương II: Nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng, có 6 điều.
- Chương này khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ; những nội dung cơ bản của nguyên tắc đó; hệ
thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính
của Nhà nước.
- Chương này cũng chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy các cấp
trong việc triệu tập đại hội từng cấp khi hết nhiệm kỳ; tiêu chuẩn và số lượng
cấp ủy viên; phê chuẩn cấp ủy và những cơ quan tham mưu giúp cấp ủy mỗi
cấp.
Chương III và IV: Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương và ở
địa phương, có 6 điều.
Hai chương này bao gồm những quy định về đại hội Đảng các cấp, về
bầu cử cơ quan lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp và về nhiệm vụ của các
cơ quan đó.
Chương V: Tổ chức cơ sở đảng, có 4 điều.
- Khẳng định vị trí của tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở.
- Nêu rõ điều kiện thành lập và những nhiệm vụ của tổ chức cơ sở
đảng và của chi bộ; việc bầu đảng ủy viên và chi ủy.
Chương VI: Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công
an nhân dân Việt Nam, có 5 điều.
Tổ chức đảng trong Quân đội và Công an cũng nằm trong hệ thống tổ
chức chung của Đảng. Xuất phát từ vai trò của các lực lượng vũ trang, nên từ
trước đến nay Đảng ta rất coi trọng sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
đối với lực lượng vũ trang và dành hẳn một chương riêng.
Chương VII: Công tác kiểm tra của Đảng và ủy ban kiểm tra các cấp,
có 4 điều.
Chương này chỉ rõ vị trí công tác kiểm tra, nội dung công tác kiểm tra,
nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra các cấp.
Chương VIII: Khen thưởng và kỷ luật, có 7 điều.
- Chương này chỉ rõ mục đích, hình thức và thẩm quyền thi hành khen
thưởng và kỷ luật.
Chương IX và chương X: Đảng lãnh đạo Nhà nước và đoàn thể chính
trị - xã hội (3 điều), Đảng lãnh đạo Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2
điều).
Hai chương này nêu rõ nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng là một đoàn thể nhân
dân, nhưng đặt thành một chương riêng, vì từ trước đến nay Đảng ta luôn
luôn coi trọng sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn thanh niên, đội dự bị tin cậy
của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chương XI: Tài chính của Đảng, có 1 điều.
Chương này chỉ rõ: Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên
đóng, từ ngân sách nhà nước và các khoản thu khác; thực hiện nguyên tắc,
chế độ thu chi, quản lý tài chính... theo những quy định thống nhất của Ban
Chấp hành Trung ương.
Chương XII: Chấp hành Điều lệ Đảng, có 2 điều.
Chương này đòi hỏi mỗi đảng viên và tổ chức của Đảng phải chấp
hành nghiêm chỉnh và kịp thời đấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm Điều lệ
Đảng. Chỉ Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ Đảng.
Một số nội dung cơ bản của Điều lệ Đảng;
1. Bản chất giai cấp công nhân của ĐảngĐâv là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng
Đảng, được quán triệt trong toàn bộ Điều lệ Đảng, chi phối toàn bộ nội dung
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản chất giai cấp
công nhân của mình. Điều lệ Đảng hiện nay chỉ rõ: “Đảng là đội tiền phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Điều đó có nghĩa, Đảng
Cộng sản Việt Nam đứng vững trên lập trường quan điểm của giai cấp công
nhân, quyết tâm phấn đấu thực hiện mục đích của Đảng là xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu đó
bảo đảm lợi ích của giai cấp công nhân đồng thời cũng thống nhất với lợi ích
của nhân dân lao động, của cả dân tộc. Đảng tập hợp, đoàn kết toàn dân tạo
nên sức mạnh tổng hợp thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng.
- Xác định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, Đảng ta xuất phát từ
nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Đó
là giai cấp hình thành, phát triển cùng với đại công nghiệp, đại biểu cho
phương thức sản xuất mới tiến bộ, có tinh thần cách mạng triệt để và tính tổ
chức cao. Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng khoa học và cách mạng, cơ sơ
lý luận tiên tiến hướng dẫn, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là giai cấp bị giai
cấp tư sản bóc lột nặng nề nên có điều kiện liên minh với nông dân và quần
chúng lao động để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới, không có
áp bức bóc lột. Đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Ngày nay, giai cấp công nhân thế giới đang có những biến đổi to lớn về
quy mô, trình độ kiến thức, cơ cấu nghề nghiệp, mức sống... trong nền sản
xuất hiện đại dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Song, bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân vẫn không thay đổi. Đó là một thực tế không thể phủ nhận.
Ở nước ta, giai cấp công nhân tuy số lượng còn nhỏ bé nhưng giai cấp
công nhân Việt Nam và chính Đảng của nó luôn đứng vững trên lập trường
cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại,
nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn nước ta đế đề
ra đường lối cách mạng đúng đắn. Vì vậy, Đảng ta đã giữ vai trò lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử hơn 70 năm qua đã chứng minh điều
đó. Tuy vậy, giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng của mình cũng thấy rõ
những điểm yếu và hạn chế về nhiều mặt. Việc khắc phục những yếu kém,
nhược điểm cũng như việc tăng cường tỷ lệ giai cấp công nhân trong Đảng
sẽ góp phần tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bảo đảm vai
trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đế giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
trong tình hình mới, Điều lệ Đảng và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng chỉ rõ:
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bất kỳ
tình huống nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó.
- Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn cụ thể của nước ta
để đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn; đồng thời bằng
hành động cách mạng biến đường lối, chủ trương đó thành hiện thực sinh
động trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống
lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo thủ; phê phán những luận
điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh. Đồng thời phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa của thời đại để làm giàu kiến thức, giải
quyết thành công những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta,
góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của thế giới.
- Giữ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ
gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức tổ
chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo
quan điểm của giai cấp công nhân.
- Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
- Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc
tế trong sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện trước hết và chủ yếu là
thế giới quan, hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng bao gồm đầy
đủ những nội dung nêu trên.
2. Nhiệm vụ và quyền của đảng viêna) Nhiệm vụNhiệm vụ của mỗi đảng viên thường được điều chỉnh, bổ sung để phù
hợp với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Trong thời kỳ phát triển mới -
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảng viên có bốn
nhiệm vụ được xác định trong Điều 2 - Điều lệ Đảng hiện hành của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
“1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng,
chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng
lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng,
lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của nhân dân: tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội
nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của
Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường
xuyên tự phê bình và phê bình trung thực với Đảng, làm công tác phát triển
đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định”.
Khi thực hiện các nhiệm vụ cần nắm vững nội dung cơ bản sau:
- Nhiệm vụ hàng đầu của người đảng viên hiện nay là phải nói và làm
theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật của
Nhà nước; kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc sau dây:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng
của Đảng ta, dân tộc ta.
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam;
không chấp nhận “đa nguyên, đa đảng”.
+ Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện
khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng.
+ Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân.
Tuy không phải thử thách, rèn luyện như thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền, tiến hành các cuộc kháng chiến trước đây, nhưng hoàn cảnh hiện nay
cũng không kém phần gian khổ, phức tạp. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái
trào, toàn cầu hóa kinh tế tuy là một xu thế khách quan, nhưng có mặt tiêu
cực; kẻ địch đang tấn công quyết liệt bằng nhiều hình thức và thủ đoạn; mặt
tiêu cực của kinh tế thị trường hàng ngày, hàng giờ đang tác động..., người
đảng viên phải rèn luyện, giữ vững niềm tin, lý tưởng, nâng cao phẩm chất, lối
sống tốt đẹp.
Mọi đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn của công cuộc đổi mới hiện nay,
ra sức nắm bắt để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Mặt khác, phải nhận
thức sâu sắc thách thức lớn về bốn nguy cơ lớn đang đe dọa sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục. Mỗi
đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu gương
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng và Nhà nước và các
tiêu cực, tệ nạn trong xã hội. Đảng viên không làm hoặc mượn danh nghĩa
người thân để làm kinh tế tư bản tư nhân; cảnh giác và kiên quyết chống mọi
âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch, trước hết là trong phạm vi chức trách nhiệm vụ cụ thể của mỗi người.
- Đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới với nhiệm vụ trọng
tâm là xây dựng phát triển kinh tế đòi hỏi đảng viên phải nâng cao trình độ
kiến thức và năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực
hiện vai trò tiên phong, gương mẫu. Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên
đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi đảng viên. Lười
học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận thông tin mới, những
hiểu biết mới cũng là biểu hiện của sự thoái hóa. Có nhiều hình thức và
phương pháp học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng
lực hoạt động thực tiễn. Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức
đảng và mỗi đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân lao
động cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị bảo đảm
cho cuộc đấu tranh của nhân dân giành thắng lợi. Và ngược lại, Đảng cần
được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên dễ quan liêu xa rời nhân
dân. Đây là một nguy cơ lớn đối với tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Mọi đảng viên phải thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của
nhân dân phản ánh với Đảng, đồng thời tích cực tuyên truyền vận động nhân
dân và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Mỗi đảng viên phải tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ
đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, chống
lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình
trong sinh hoạt đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ làm cho
Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, tích cực làm công tác phát triển đảng viên
mới.
b) Quyền của đảng viênĐiều 3 - Điều lệ Đảng chỉ rõ đảng viên có những quyền sau:
“1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công
việc của Đảng.
2. Úng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo
quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tô chức đảng và đảng viên ở
mọi cấp trong phạm vi tố chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách
nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tố chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc
thi hành ký luật đối với mình.
Đáng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cứ
và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng”1.
Các quyền của đảng viên nêu trong Điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho
đảng viên thực hiện đầy đủ quyền dân chủ về mặt chính trị trong tố chức và
sinh hoạt đảng. Những quyền đó phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện,
nhất là quyền thảo luận các vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm
thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân
lý”2. Những quy định về quyền của đảng viên tạo điều kiện cho đảng viên và
tổ chức đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
3. Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của ĐảngTập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của
Đảng. Trong quá trình phát triển của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
luôn kiên trì và từng bước cụ thể hóa nguyên tắc này để phù hợp với sự phát
triển của cách mạng Việt Nam qua mỗi giai đoạn. Nhờ vậy, Đảng luôn giữ
vững và phát triển về tồ chức, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, tạo
nên sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng, giữ
vững vai trò lành đạo.
Điều 9 - Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đáng Cộng sản
Việt Nam tố chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nội dung cơ bản của
nguyên tắc đó là:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đáng do bầu cử lập ra, thực hiện tập
thê lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biếu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ơ mỗi cấp là đại hội đại biếu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai
kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi
cấp là Ban Chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiêu sô phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tô
chức...
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ sở đảng tán thành. Trước khi biểu
quyết mỗi thành viên đều được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, được báo cáo lên cấp ủy cấp
trên, đến Đại hội toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của tố chức cơ sở đảng; cấp
ủy có thâm quyền xem xét, nghiên cứu ý kiến đó không phân biệt đối xử.
- Tô chức đáng quyêt định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song không trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách cua Đảng, pháp
luật của Nhà nước và nghị quyết cua cấp trên.
Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cần nhận thức đúng đắn
và thống nhất nội dung của nguyên tắc này; uốn nắn những nhận thức lệch
lạc, đồng thời phải có cơ chế, các quy định, quy chế làm việc cụ thể, đồng bộ,
bảo đảm thực hiện nghiêm minh ở mồi cấp, ở mỗi tổ chức đảng.
Phát huy dân chủ sẽ khơi dậy tính tích cực chủ động, sáng tạo của các
tố chức đảng và đảng viên. Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng sẽ tạo điều kiện
thúc đẩy dân chủ trong các cơ quan nhà nước cũng như toàn xã hội. Khuyên
khích mọi người mạnh dạn suy nghĩ, tìm tòi đóng góp xây dựng nhằm thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này có ý
nghĩa to lớn trong sự phát triển của cách mạng, đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta.
Cần chống quan điếm dân chủ cực đoan, dân chủ phi giai cấp. Dân chú
phải gắn liền với tập trung, phát huy dân chủ đi đôi với việc tăng cường tập
trung kỷ luật của Đảng. Đây là mối quan hệ biện chứng cần được nhận thức,
xử lý đúng đắn trong thực hiện. Nếu tuyệt đối hóa mặt này đi đến hạ thấp
hoặc phủ nhận mặt kia đều làm cho Đảng suy yêu, thậm chí tan rả.
Nhận thức đủng nguyên tắc tập trung dân chu đã khó, việc thực hiện
đung nguyên tắc này càng khó hơn. Điều đó còn phụ thuộc vào trình độ, ý
thức đảng, kinh nghiệm công tác... cua mỗi cán bộ, đáng viên cua Đang. Vì
vậy, trong thực tẻ ờ nơi này, nơi kia, co lúc chưa thực hiện tốt nguyên tắc
này. Đó là nhừng thièu sót cần được thường xuyên phát hiện, phê phán, uốn
nắn. Bởi vì đây cũng chính là kẽ hở mà kẻ thù đang tìm cách khoét sâu, khai
thác, xuyên tạc nhằm hạ thấp đi tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.
4. Khen thưởng và kỷ luật trong Đảnga) Khen thưởng trong Đảng
Điều 34 - Điều ]ệ Đảng quy định “Tố chức đảng và đảng viên có thành
tích được khen thưởng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương”1.
- Hình thức khen thương trong Đảng:
+ Đối với tố chức đảng: biểu dương, tặng giấy khen, bằng khen, tặng
thưởng huân, huy chương và các danh hiệu vinh dự khác của Đảng và Nhà
nước.
+ Đối với đảng viên: biểu dương, tặng giấy khen, bằng khen, Huy hiệu