XÂY DỰNG BẢN ĐỒ CÁC LOÀI THÚ MÓNG GUỐC Preliminary report for Darwin Initiative Project 17-008 (Cambridge University - WWF) MsC. Lương Văn Đức - Quang Binh University 1 Lí do nghiên cứu Trung Trường Sơn được đánh giá là nơi giao thoa của các dòng thực vật phân bố Nam Trung Hoa và hệ thực vật Malaixia với địa hình chia cắt mạnh, lại chịu ảnh hưởng của hệ khí hậu lục địa phía Tây và vùng duyên hải phía Đông nên lưu trữ giá trị đa dạng sinh học cao. Ở đây bên cạnh các loài thú móng guốc đã phát hiện ở các địa điểm khác còn có 3 loài thú lớn đặc hữu là Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Muntiacus vuquangensis) và Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis) (Hoang Ngoc Khanh, 2004). Trong đó, khu vực Thừa Thiên Huế và Quảng Nam là nơi có nhiều ghi nhận nhất về Sao la, tập trung chủ yếu ở các huyện Nam Đông, A Lưới, Hương Thuỷ, Hương Trà của tỉnh Thừa Thiên Huế và xã A Nông, B’Halêê, A Vương, Tà Lu, Sông Kôn của Quảng Nam. Tuy nhiên, các loài này đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vì thế cần có các hành động bảo tồn khẩn cấp (Van Ngoc Thinh et al., 2006). Trong khi đó, các nỗ lực trong thiết kế bảo tồn, đặc biệt là các loài thú móng guốc đặc hữu lại đang gặp một số trở ngại như khó khăn trong lập bản đồ phân bố loài để phục vụ quy hoạch KBT vì các loài này khó bắt gặp, mật độ quần thể còn lại rất thấp, thông tin hiện có còn hạn chế. Do đó, cần phải nghiên cứu hiện trạng, phạm vi phân bố của các loài này. Trong các nỗ lực để thực hiện nghiên cứu về sự phân bố các loài thú móng guốc, phương pháp lập bản đồ cộng đồng đã được xây dựng và ứng dụng trong việc sử dụng kiến thức bản địa của người dân (thợ săn). Trong đó, bên cạnh khu vực phân bố của các loài thì việc xác định khu vực hay đi cũng là một nguồn thông tin quan trọng để đánh giá mức độ hiểu biết, độ tin cậy của kiến thức người dân. Người dân sẽ có sự hiểu biết tốt hơn ở những khu vực hoạt động quen thuộc của họ hơn là những khu vực họ ít hoặc không đi. Bản đồ phân bố loài 1 Mob: 01663 871 696. Email: [email protected]
11
Embed
XÂY DỰNG BẢN ĐỒ CÁC LOÀI THÚ MÓNG GUỐC - … · · 2013-02-01XÂY DỰNG BẢN ĐỒ CÁC LOÀI THÚ ... Mang lớn (Muntiacus vuquangensis) và Mang Trường Sơn
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
XÂY DỰNG BẢN ĐỒ CÁC LOÀI THÚ MÓNG GUỐC Preliminary report for Darwin Initiative Project 17-008 (Cambridge University - WWF)
MsC. Lương Văn Đức - Quang Binh University1
Lí do nghiên cứu Trung Trường Sơn được đánh giá là nơi giao thoa của các dòng thực vật phân bố Nam Trung
Hoa và hệ thực vật Malaixia với địa hình chia cắt mạnh, lại chịu ảnh hưởng của hệ khí hậu lục
địa phía Tây và vùng duyên hải phía Đông nên lưu trữ giá trị đa dạng sinh học cao. Ở đây bên
cạnh các loài thú móng guốc đã phát hiện ở các địa điểm khác còn có 3 loài thú lớn đặc hữu
là Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Muntiacus vuquangensis) và Mang Trường
Sơn (Muntiacus truongsonensis) (Hoang Ngoc Khanh, 2004). Trong đó, khu vực Thừa Thiên
Huế và Quảng Nam là nơi có nhiều ghi nhận nhất về Sao la, tập trung chủ yếu ở các huyện
Nam Đông, A Lưới, Hương Thuỷ, Hương Trà của tỉnh Thừa Thiên Huế và xã A Nông, B’Halêê,
A Vương, Tà Lu, Sông Kôn của Quảng Nam. Tuy nhiên, các loài này đang đối mặt với nguy cơ
tuyệt chủng vì thế cần có các hành động bảo tồn khẩn cấp (Van Ngoc Thinh et al., 2006).
Trong khi đó, các nỗ lực trong thiết kế bảo tồn, đặc biệt là các loài thú móng guốc đặc hữu lại
đang gặp một số trở ngại như khó khăn trong lập bản đồ phân bố loài để phục vụ quy hoạch
KBT vì các loài này khó bắt gặp, mật độ quần thể còn lại rất thấp, thông tin hiện có còn hạn
chế. Do đó, cần phải nghiên cứu hiện trạng, phạm vi phân bố của các loài này.
Trong các nỗ lực để thực hiện nghiên cứu về sự phân bố các loài thú móng guốc, phương
pháp lập bản đồ cộng đồng đã được xây dựng và ứng dụng trong việc sử dụng kiến thức bản
địa của người dân (thợ săn). Trong đó, bên cạnh khu vực phân bố của các loài thì việc xác
định khu vực hay đi cũng là một nguồn thông tin quan trọng để đánh giá mức độ hiểu biết,
độ tin cậy của kiến thức người dân. Người dân sẽ có sự hiểu biết tốt hơn ở những khu vực
hoạt động quen thuộc của họ hơn là những khu vực họ ít hoặc không đi. Bản đồ phân bố loài