Page 1
Đề án kinh tế thương mại
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................1
Chương 1: VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU RAU QUẢ CỦA VIỆT NAM
SANG ĐÀI LOAN............................................................................3
1.1. Đặc điểm của mặt hàng rau quả.........................................................3
1.1.1. Về nguồn hàng.............................................................................3
1.1.2. Về chất lượng của mặt hàng rau quả............................................4
1.1.3. Về vấn đề bảo quản rau quả........................................................6
1.1.4. Nhu cầu về rau quả trên các thị trường.....................................8
1.2. Tầm quan trọng của xuất khẩu rau quả của Việt Nam....................9
1.2.1. Sự cần thiết của xuất khẩu rau quả..............................................9
1.2.2. Vai trò của xuất khẩu rau quả.....................................................10
1.3. Tổng quan về thị trường Đài Loan...................................................12
1.3.1. Khái quát về thị trường sản xuất, xuất khẩu Đài Loan..............13
1.3.1.1. Về Kinh tế...............................................................................13
1.3.1.2. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Đài Loan................18
1.3.2. Các qui định về nhập khẩu của Đài Loan..................................20
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU RAU QUẢ CỦA VIỆT
NAM SANG THỊ TRƯỜNG ĐÀI LOAN..........................................23
2.1. Lợi thế của Việt Nam về sản xuất và xuất khẩu rau quả.............23
2.1.1. Lợi thế về khí hậu.........................................................................23
2.1.2. Lợi thế về nguồn nước.................................................................23
2.1.3 Lợi thế về đất đai...........................................................................25
2.1.4. Những lợi thế khác.......................................................................25
2.2. Tình hình sản xuất rau quả của Việt Nam.......................................27
2.3. Tình hình xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Đài Loan 30
2.3.1. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua....30
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B
Page 2
Đề án kinh tế thương mại
2.3.2. Cơ cấu mặt hàng..........................................................................34
2.2. Những thuận lợi, khó khăn khi rau quả của Việt Nam xuất khẩu
sang Đài Loan...........................................................................................40
2.2.1. Những thuận lợi khi rau quả của Việt Nam xuất khẩu sang Đài Loan.....40
2.4.2. Những khó khăn khi rau quả của Việt Nam đưa đi xuất khẩu. 43
Chương 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU RAU QUẢ
SANG ĐÀI LOAN..........................................................................47
3.1. Phương hướng phát triển mặt hàng rau quả ở nước ta trong
những năm sắp tới.....................................................................................47
3.1.1. Phương hướng phát triển............................................................47
3.1.2. Mục tiêu đề ra...............................................................................48
3.2. Dự báo về thị trường rau quả của thế giới và của Đài Loan trong
thời gian tới................................................................................................50
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu rau quả sang thị
trường Đài Loan........................................................................................52
3.3.1. Giải pháp liên quan đến nguồn hàng..........................................52
3.3.2. Giải pháp liên quan đến thị trường.............................................55
3.3.3. Hoàn thiện công nghệ chế biến và công tác bảo quản dự trữ
hàng hóa..................................................................................................56
3.1. Một số kiến nghị đối với nhà nước.................................................58
3.1.1. Định hướng quy hoạch vùng sản xuất.....................................58
3.4.2. Thị trường.....................................................................................58
3.4.3. Khoa học và công nghệ................................................................58
3.3.4. Đầu tư và tín dụng........................................................................59
3.3.5. Đào tạo cán bộ và huấn luyện kỹ thuật.......................................59
3.3.6. Về vệ sinh an toàn thực phẩm.....................................................60
KẾT LUẬN.......................................................................................................61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................62
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B
Page 3
Đề án kinh tế thương mại
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Diện tích đất canh tác và sản lượng các loại quả của Đài Loan......................18
Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam qua các năm.............................31
Kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả qua các tháng của 2005 so với 2006
(1.000 $)..........................................................................................................32
Kim ngạch xuất khẩu tháng 1/2008.................................................................34
Chủng loại rau quả xuất khẩu trong tháng 12/06............................................35
Chủng loại rau củ xuất khẩu trong tháng 1/2007............................................37
Bảng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Đài Loan..................40
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B
Page 4
Đề án kinh tế thương mại
LỜI MỞ ĐẦU
Sau một năm hội nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã
đạt được nhiều thành công lớn, trong đó không thể không kể tới xuất khẩu rau
quả. Đó là một ngành chiếm tỉ trọng tương đối cao trong kim ngạch xuất khẩu
của nước ta. Đầu thập niên 90 nền kinh tế Việt Nam suy giảm mạnh do mất
thị trường xuất khẩu truyền thống ở các nước khối SEV. Từ năm 95 trở lại
đây xuất khẩu rau quả nước ta đã hồi phục và đạt được bước tăng trưởng đáng
kể. Với các điều kiện, thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loại rau quả nhiệt đới, á
nhiệt đới và cả một số loại rau quả ôn đới. Cộng với thế mạnh là nguồn lao
động dồi dào rau quả của Việt Nam đã vươn tới hơn 50 quốc gia trên thế giới.
Nhằm xúc tiến và phát triển kinh tế thương mại Việt Nam đã bắt tay với nhiều
đối tác một trong số những số đó là Đài Loan.
Từ thập niên 1970 đến nay, Đài Loan lâm vào tình trạng cô lập trên
trường ngoại giao. Thời đó chỉ có chưa tới 30 nước còn duy trì mối quan hệ
với đảo quốc. Những thập niên gần đây nhờ kinh tế phát triển nhanh chóng
Đài Loan trở thành một trong những nước giàu nhất Á châu nên Đài Loan
đứng vào hàng “mãnh hổ kinh tế” ở vùng này. Hiện nay diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) xếp Đài Loan vào hàng thứ 3 về mức tăng trưởng cạnh tranh kinh
tế. Việt Nam và Đài Loan có mối quan hệ từ rất lâu, có nhiều nét tương đồng
và hiểu nhau khá rõ. Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO
các bạn hàng của Việt Nam nhìn nhận Việt Nam là một điểm đầu tư đặc biệt
thu hút. Trong đó các nhà làm luật Đài Loan tiến cử Việt Nam là nơi đầu tư lý
tưởng. Sau chuyến viếng thăm Việt Nam rồi tham dự diễn đàn kinh tế thương
mại Việt Nam - Đài Loan, Việt Nam đã được tiến cử như là một thiên đường
với nhiều khả năng tiềm ẩn. Mối quan hệ hợp tác làm ăn giữa Việt Nam và
Đài Loan ngày càng thêm củng cố. Việt Nam đã xác định rõ các mặt hàng
kinh doanh phù hợp với chức năng, thế mạnh của mình đồng thời phù hợp với
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 1
Page 5
Đề án kinh tế thương mại
nhu cầu từ phía Đài Loan. Rau quả chính là một trong những mặt hàng được
đặc biệt quan tâm, xây dựng kinh doanh với Đài Loan ngay từ đầu. Vì thế mà
em đã chọn đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Đài
Loan”. Mục tiêu tập trung mô tả các đặc điểm, cơ cấu, phân tích những điểm
thuận lợi cũng như khó khăn khi rau quả của Việt Nam xuất khẩu sang Đài
Loan, từ đó tìm ra những giải pháp thích hợp cho sự phát triển của ngành rau
quả trong những năm sắp tới. Kết cấu đề án được chia thành 3 phần như sau:
Chương 1: Vấn đề cơ bản về xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang
Đài Loan
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị
trường Đài Loan
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu rau quả sang Đài
Loan
Em xin cảm ơn trung tâm thư viện trường Đại học Kinh tế quốc dân, các
giảng viên khoa Thương Mại. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Giáo sư
tiến sĩ Hoàng Đức Thân đã giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 2
Page 6
Đề án kinh tế thương mại
Chương 1: VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU RAU QUẢ
CỦA VIỆT NAM SANG ĐÀI LOAN
1.1. Đặc điểm của mặt hàng rau quả
1.1.1. Về nguồn hàng
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa, có tiềm năng về phát triển rau
quả. Với 7 vùng sinh thái khác nhau, tạo điều kiện cho Việt Nam có khả năng
trồng luân canh nhiều loại rau và cây ăn quả phong phú, đa dạng.
Ở Trung du và miền núi phía Bắc có thể trông mận, hồng, đào, chuối, dứa,
vải, nhãn, súp lơ xanh, su hào,... Đồng bằng Sông Hồng thì trồng nhãn, cam,
na, quýt, các loại rau vụ đông: bắp cải, cà rốt,… Các loại rau mùa hè như: rau
đay, dưa chuột, các loại bí, mướp,… Đồng bằng Sông Cửu Long trồng vải,
nhãn, sầu riêng, xoài, dứa,…thanh long, trái bơ, chôm chôm, chuối, mít thì
được trồng chủ yếu ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Hiện nay nhiều vùng qui hoạch trồng rau quả đã được xác lập trong cả
nước. Việc chế biến cũng được đầu tư và nhiều mặt hàng được chế biến bằng
phương pháp cổ truyền như sấy, muối chua, muối mặn,… cũng như những
mặt hàng đồ hộp của Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Với nền
công nghiệp mới, hiện đại hơn trước ngành rau quả đã có nhiều sản phẩm đa
dạng. Chúng ta đã sấy khô và đóng hộp các loại quả (mít, khoai môn, dứa,
chuối, nhãn, vải,…). Nước uống tưới đóng trong lon, chai, hộp giấy hoặc
được đóng vào can lớn, hộp lớn. Các loại sản phẩm muối và nước quả cô đặc
cũng rất được ưa thích.
Với nguồn cung vô cùng đa dạng, phong phú các nhà xuất khẩu của Việt
Nam không khó để thu mua các loại rau quả. Nhưng vấn đề đặt ra là phải xác
định đặc điểm rau quả từng thời vụ để lên kế hoạch thu mua sao cho tốt nhất,
số lượng nhiều nhưng giá mua lại là thấp nhất. Thông thường vào mùa vụ giá
cả các loại thường thấp, chất lượng và mẫu mã đều đạt yêu cầu. Tuy nhiên, có
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 3
Page 7
Đề án kinh tế thương mại
không ít những đơn đặt hàng về các loại rau quả trái vụ, với mặt hàng này khả
năng dự trữ là thấp, khó có thể dự trữ lâu dài với số lượng lớn nên không đủ
khả năng để cung cấp cho Đài Loan. Từ đó cho thấy Việt Nam cần phải xác
định rõ nguồn hàng để cung cấp cùng với nguồn dự trữ của mình. Sau khi
chính thức trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đã mở rộng ngoại giao
và tự hoàn thiện mình hơn nữa. Bên đối tác có nhiều khắt khe nhưng do Việt
Nam có nhiều năm kinh nghiệm đã biết rõ tình trạng này. Nhờ vậy hầu hết
những yêu cầu về hoa quả trái vụ chúng ta đều thực hiện tương đối hiệu quả,
có uy tín với nhiều nước trên thế giới, luôn giữ được bạn hàng truyền thống là
Đài Loan và các thị trường khác như: Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ,…
Tuy nhiên Việt Nam đang cố gắng để phát huy hiệu quả của mặt chuyên môn
này để có thể thành công hơn nữa trong tương lai.
1.1.2. Về chất lượng của mặt hàng rau quả
Hiện nay chất lượng của nhiều loại hoa quả tiêu thụ trong nước hay xuất
khẩu luôn là vấn đề nổi cộm. Chất lượng của rau quả phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như giống, phương pháp canh tác, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận
chuyển,… Trong đó giống rau quả và kỹ thuật trồng trọt là yếu tố quan trọng
hàng đầu để nâng cao năng suất và đặc biệt là chất lượng rau quả. Việt Nam
có nhiều loại giống rau bản địa phong phú. Sự phong phú này đã được khai
thác phát triển một cách triệt để, nhiều giống rau quả hiện nay phù hợp với thị
trường trong nước, người dân đã sử dụng giống có sẵn một cách thuần thục.
Tuy nhiên vẫn chưa có sự đầu tư thích đáng cho phát triển những giống mới
có chất lượng cao hơn, phù hợp với thị trường thị hiếu phức tạp của các thị
trường khác nhau. Đó chính là một trong những điểm yếu cơ bản về khả năng
cạnh tranh của rau quả Việt Nam.
Trên thực tế do tập quan lâu đời của nước ta là vườn cây ăn trái được
trồng bằng hạt do vậy bị thoái hóa, bị lai tạp nhiều. Các giống bị lai tạp không
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 4
Page 8
Đề án kinh tế thương mại
thuần chủng tạo ra khó khăn cơ bản cho sản phẩm như tính không đồng đều,
sự ổn định về chất lượng tiêu chuẩn hóa. Tuy nhiên, bắt đầu từ vài năm gần
đây việc nhập giống tiến bộ, tuyển chọn giống nội địa tốt đã được mọi người
dân quan tâm và thực hiện theo.
Vải thiều là loại cây ăn quả được trồng phổ biến ở các tình phía Bắc nhất
là Bắc Giang, Hưng Yên. Sản lượng cho nhiều thích hợp cho việc tiêu dùng
nội địa nhưng khi chế biến thì quả vải đổi màu sau khi đóng hộp từ 2-3 tháng.
Do đó đòi hỏi ta phải tìm kiếm thị trường xuất khẩu từ trước. Nhãn thì hầu hết
các giống đang được trồng ở miền Nam và miền Bắc cho chất lượng và số
lượng tương đối cao. Một số địa phương như Hưng Yên đã tận dụng nguồn
này để chế biến nhiều sản phẩm thơm ngon, chất lượng đảm bảo đó là long
nhãn được rất nhiều nước trên thế giới ưa chuộng. Tuy nhiên, cùi nhãn mỏng
và hạt nhãn lại lớn, điều này gây ảnh hưởng tới chất lượng long nhãn khi chế
biến. Giống dứa phổ biến ở Việt Nam hiện nay là giống Queen Victoria cho
quả nhỏ năng suất thấp (trên dưới 10 tấn/ha). Nó rất phù hợp cho tiêu dùng
tươi. Giống dứa Cayen năng suất cao hơn đạt 50-60 tấn/ha. Nhiều nước và
quả thích hợp để chế biến đóng hộp thành dứa khoanh hoặc nước dứa ép, sản
phẩm chế biến ra rất thơm ngon được nhiều thị trường đặt mua. Các giống
chuối và cây có múi của Việt Nam cũng chỉ phù hợp với thị trường trong
nước, chứ chưa phù hợp xuất khẩu ra thị trường quốc tế vì kích thước, năng
suất, màu sắc, mùi vị còn chưa phù hợp. Bên cạnh đó nhiều nước trong khu
vực đã bằng cách này hay cách khác lấy giống một số loại hoa quả của Việt
Nam như thanh long, chỉ một vài năm gần đây Việt Nam đã bắt đầu nhập
nhiều giống chất lượng cao của các nước đối với một số cây ăn quả nhiệt đới
như xoài từ Thái Lan, Ôxtraylia, dứa, nhãn từ Trung Quốc và Thái Lan, hồng
từ Đài Loan.
Mặt hàng rau quả mang tính thời vụ điển hình, phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện tự nhiên. Nhất là các loại rau, nếu điều kiện tự nhiên tốt như mưa
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 5
Page 9
Đề án kinh tế thương mại
thuận gió hòa, đất đai màu mỡ. Cho các loại rau đồng đều cả về số lượng lẫn
chất lượng mà giá cả lại rẻ. Nhưng nếu thời tiết bất ổn, kéo theo sự sụt giảm
về chất lượng rất mạnh. Trong khi đó hàng hóa đem đi xuất khẩu có những
đòi hỏi rất khắt khe, bởi đây là mặt hàng ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của
người tiêu dùng nên sẽ được kiểm định chặt chẽ tại quốc gia nhập khẩu. Bất
kì dấu hiệu bất ổn nào cũng gây ra bất lợi cho Việt Nam, hàng hóa sẽ bị đem
trả lại, gây tổn thất về tài chính và uy tín. Các loại rau vụ đông vừa qua do
thời tiết rét đậm rét hại liên tục trong nhiều ngày đã không thể sống và tăng
trưởng như dự tính, chất lượng thu về kém hẳn so với mẫu năm trước. Tuy
nhiên “mùa nào thức ấy” phải có khí hậu se se lạnh thì mới trồng được. Vấn
đề đặt ra là Việt Nam phải luôn cố gắng hết sức để kiểm soát chất lượng sản
phẩm đưa đi xuất khẩu.
Do các nước nhập khẩu luôn bảo hộ cho sản xuất trong nước, cuộc sống
đòi hỏi ngày càng cao của người dân. Vấn đề sức khỏe được đặt lên hàng đầu,
các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm trở nên rất cao. Để chiếm lĩnh trên thị
trường quốc tế và đủ sức để cạnh tranh với các nước khác như: Thái Lan,
Trung Quốc… Việt Nam phải đảm bảo tiêu chuẩn hàm lượng các chất trong
thực phẩm đồng thời đảm bảo các chỉ tiêu về bảo vệ môi trường, giảm thiểu
sai sót.
1.1.3. Về vấn đề bảo quản rau quả
Với đặc tính của rau quả đó là những thực phẩm tươi, việc dự trữ mặt
hàng này trong một thời gian dài không thể không tránh khỏi ít nhiều sẽ làm
giảm đi chất lượng của chúng. Trong khi xuất khẩu luôn đòi hỏi rau quả tươi
mới nhất. Vì thế việc bảo quản rau quả như thế nào để vẫn giữ được chất
lượng là một vấn đề nan giải và cần thiết.
Muốn đáp ứng được yêu cầu của thị trường buộc chúng ta phải có một
quá trình chế biến, bảo quản dự trữ thật tốt. Khâu này có thực hiện tốt mới
đảm bảo được chất lượng của sản phẩm. Vì chỉ cần một thời gian ngắn nếu
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 6
Page 10
Đề án kinh tế thương mại
không được bảo quản đúng qui cách, rau quả dễ bị biến chất, không sử dụng
được. Thu mua sản phẩm đồng đều về chất lượng giữa vố số loại sản phẩm
khác nhau là điều rất khó. Vì vậy việc bảo quản gặp nhiều trở ngại, các loại
rau quả được thu thập từ nhiều địa phương, hầu hết là đa chủng loại. Trong
khi công nghệ bảo quản tại Việt Nam còn thấp, công nghệ chế biến còn lạc
hậu, chỉ được sơ chế chứ chưa thực sự được bảo đảm an toàn. Ảnh hưởng đến
các thành phần chất của sản phẩm. Đối với rau quả độ tươi được đánh giá rất
cao, tiếp theo là hương vị, hình dáng, màu sắc của sản phẩm. Tùy theo từng
mặt hàng cụ thể mà chúng ta có những hình thức bảo quản sao cho hợp lý.
Nước ta chủ yếu bảo quản rau quả theo những các sau:
Bảo quản trên điều kiện thường: nghĩa là không bảo quản lạnh hay bất
kỳ cách xử lý nào khác ngoài hệ thống thông gió. Thường được áp dụng cho:
khoai tây, củ cải, cà rốt, cải bắp, chuối buồng…
Bảo quản lạnh: kho lạnh phải đạt tiêu chuẩn trần và sàn nhà đều phải
được cách nhiệt tốt.
Bảo quản bằng điều chỉnh khí quyển: phòng kho phải kín, lạnh hoặc
không lạnh, có hệ thống thông gió và cung cấp oxy, nitơ, cacbonic, với thiết
bị đo nhiệt độ, độ ẩm các khí này một cách tự động. Phương pháp này thường
áp dụng cho táo, lê, xà lách, cải bắp, măng tây,...
Ngoài ra còn bảo quản rau quả tươi bằng hóa chất được phép sử dụng
trong đó có chất chống thối, mốc, chống nảy mầm,…
Riêng đối với rau quả chế biến có thể chia thành các nhóm sau:
Sơ chế.
Đông lạnh: tất cả các loại rau quả đều có thể xắt miếng cho vào bao bì
thích hợp bảo quản đông lạnh trong thời gian dài, vận chuyển đi xa.
Sấy khô: sấy bằng không khí nóng, với các sản phẩm đặc trưng là táo,
chuối, mận, vải,… sấy thăng hoa áp lực cao có thể áp dụng với hầu hết các
loại rau quả.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 7
Page 11
Đề án kinh tế thương mại
Sản phẩm muối: muối mặn, muối chua dùng cho: hành, cà, ngô, dưa
chuột, các loại dưa,…
Bao bì đóng gói bảo quản các loại rau quả cũng rất cần thiết. Nó có tác
dụng bảo vệ rau quả trước tác động của môi trường. Chất liệu đóng gói phù
hợp với tính chất của sản phẩm, hình thức đẹp, gây chú ý trong đó phải chứa
đựng đầy đủ thông tin về sản phẩm: nơi sản xuất, hạn sử dụng, hàm lượng các
chất dinh dưỡng…
1.1.4. Nhu cầu về rau quả trên các thị trường
Nhu cầu về rau quả các loại (ở dạng tươi hoặc đã chế biến) ngày càng giữ
vai trò quan trọng và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của con
người. Rau quả không chỉ có tác dụng dinh dưỡng mà còn cung cấp cho con
người nguôn dược liệu quí giá vì trong rau quả không chỉ có các loại vitamin
A, B, C, E, catoren mà còn một số yếu tố vi lượng khác. Đặc biệt trong rau
quả còn chứa chất xơ giúp cho bộ máy tiêu hóa làm việc tốt hơn. Vì thế mà
bất cứ quốc gia nào trên thế giới hàng năm cũng tiêu thụ một số lượng lớn
thực phẩm là rau quả. Theo số liệu trung tâm thông tin thương mại toàn cầu
thì các nước đứng đầu về xuất khẩu rau là Mêhicô, Trung quốc, Hoa Kỳ, EU,
Canada. Còn về sản xuất quả lớn nhất thế giới là Trung Quốc, EU đứng thứ 2,
đứng thứ 3 là Ấn Độ. Trong đó Trung Quốc có mức tăng trưởng sản lượng
cao nhất. Các nước sản xuất rau quả lớn khác là Braxin, Hoa Kỳ, Mêhicô,
Chilê và Nam Phi có mức tăng trưởng tương đối ổn định.
Nhu cầu của người tiêu dùng có liên quan tới thu nhập quá trình đô thị
hóa, thông tin và giáo dục. Những thông tin và giáo dục về vấn đề sức khỏe
đã ảnh hưởng tới ưu tiên trong tiêu dùng đối với rau quả của người dân. Rất
nhiều chiến dịch khác nhau đã cung cấp cho người dân những thông tin về lợi
ích đối với sức khỏe từ viêc ăn rau quả. Xu hướng tăng cường chế độ ăn kiêng
ở các nước phát triển cũng khuyến khích tiêu thụ nhiều rau quả hơn. Tại các
nước đang phát triển lượng rau tiêu thụ ở thành phố cao hơn ở nông thôn.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 8
Page 12
Đề án kinh tế thương mại
Theo số liệu của tổ chức nông lương quốc tế (FAO) nghiên cứu tại Trung
Quốc lượng tiêu thụ rau trên đầu người hàng năm ở thành thị cao hơn nông
thôn là 40kg. Các nước đang phát triển lại là nước đang trong quá trình đô thị
hóa do vậy đây là các thị trường đầy tiềm năng. Một thay đổi nữa đó là xu
hướng gia tăng nhu cầu đối với các sản phẩm trái vụ. Người tiêu dùng ở nhiều
nước phát triển sẵn sàng trả mức giá rất cao cho các sản phẩm trái vụ. Trong
vòng hai thập kỉ qua thương mại rau quả thế giới có bước phát triển mạnh mẽ.
Theo số liệu của FAO thị phần của rau quả xuất khẩu trong tổng thương mại
hàng nông sản toàn cầu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 11,7%.
Tỉ lệ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất thuộc nhóm các sản phẩm phi truyền
thống như: xoài, khoai tây, cam, nấm, ngô ngọt, bơ... đều tăng ở mức 2 con số
trong suốt những năm vừa qua. Ngược lại cũng trong giai đoạn này tỷ lệ tăng
trưởng xuất khẩu của các phẩm truyền thống (chuối và quả có múi) giảm đi.
Các nước đang phát triển ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong xuất khẩu
rau quả, đặc biệt là rau quả phi truyền thống. Hiện nay các nước đang phát
triển chiếm khoảng 60% thị phần rau quả xuất khẩu trên toàn cầu.
1.2. Tầm quan trọng của xuất khẩu rau quả của Việt Nam
1.2.1. Sự cần thiết của xuất khẩu rau quả
Ngay từ thuở xa xưa con người đã tìm cho mình một loại thức ăn có sẵn
từ thiên nhiên, mang đầy giá trị dinh dưỡng và thực sự hữu ích cho sự phát
triển của cơ thể con người đó chính là rau quả. Cùng với bước tiến của thời
đại rau quả ngày càng khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình
đối với cuộc sống của con người nói chung và đối với sự phát triển của nền
kinh tế nói riêng. Đối với một số đất nước có không có điều kiện sản xuất rau
quả như: Nhật Bản, Nga và một số nước ở châu phi thì việc nhập khẩu rau
quả từ nước khác là không thể tránh khỏi. Trong khi đó nước ta là nước đi lên
từ nông nghiệp, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, thiếu thốn nhưng lại có
rất nhiều điều kiện thuận lợi cho việc trồng các loại rau quả. Vì vậy việc trao
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 9
Page 13
Đề án kinh tế thương mại
đổi, mua bán rau quả với nước ngoài là rất cần thiết. Trong khẩu phần ăn của
con người ngoài calo, chất béo, chất đạm ra còn cần có vitamin, muối khoáng
các axit hữu cơ mà các chất này thì lại có chủ yếu trong rau quả. Theo sự
nghiên cứu của các nhà khoa học thì hàng ngày cơ thể của chúng ta cần
khoảng 1300 – 1500 calo và nhu cầu tiêu dùng rau quả hàng ngày cho một
người là từ 300 – 400 gam (khoảng 9 – 12 kg/người/tháng). Khi đời sống của
người dân ở các nước phát triển ngày càng được nâng cao hơn thì rau quả còn
có tác dụng giúp làm đẹp và giảm cân. Phát triển rau quả không chỉ cung cấp
chất dinh dưỡng cho cơ thể mà nó còn góp phần tạo ra công ăn, việc làm, tăng
thu nhập cho người nông dân, xoá đói giảm nghèo, tăng ngoại tệ cho đất
nước. Rau quả ngày càng chiếm tỉ trọng cao hơn trong cơ cấu kinh tế nông
nghiệp của tất cả các nước trong những thập kỉ qua. Xuất khẩu rau quả không
những nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước mà còn giúp nền
kinh tế nước ta ổn định và bền vững hơn vì nguồn lực được phân bổ hợp lý,
có hiệu quả. Chính điều này sẽ giúp cho những nước đang phát triển như Việt
Nam đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá trên cơ sở ứng dụng khoa học
công nghệ kỹ thuật.
1.2.2. Vai trò của xuất khẩu rau quả
Xuất khẩu rau quả thúc đẩy sản xuất, chuyển dịch cơ cấu, góp phần
thu ngoại tệ: Xuất khẩu rau quả có vai trò rất lớn trong việc phát triển nông
nghiệp nước ta, tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ nâng cao năng lực
sản xuất của các đơn vị xuất khẩu mặt hàng rau quả, nhờ vậy ngành sản xuất
rau quả có thể phát triển ổn định. Nhờ có hoạt động xuất khẩu mà các vùng
trồng cây ăn quả được xây dựng một cách có hệ thống chứ không phát triển
một cách tràn lan. Nhờ có xuất khẩu mà các doanh nghiệp và người nông dân
đã hình thành nên mối quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau. Doanh nghiệp
cung cấp giống cây trồng, hỗ trợ máy móc còn người nông dân sẽ bán sản
phẩm cho doanh nghiệp. Vì vậy mà hiệu quả kinh tế đã được tăng lên đáng
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 10
Page 14
Đề án kinh tế thương mại
kể. Thông qua xuất khẩu sẽ giúp chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình
thành cơ cấu thích ứng với thay đổi, đòi hỏi của thị trường.
Theo đánh giá của các nhà kinh tế và các chuyên gia thì việc sản xuất và
xuất khẩu rau quả cho hiệu quả cao hơn so với các nông sản khác. Trong khi
các loại cây công nghiệp từ năm thứ 8 trở đi sẽ bắt đầu có lãi, thì với cây vải
thiều đến năm thứ 5 đã thu hồi vốn, và từ năm thứ 6 trở đi đã sinh lời. Mỗi
năm trên thế giới nhu cầu tiêu dùng rau quả tăng thêm 3,6%/năm; trong khi
đó cung chỉ tăng 2,8%/năm. Xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng vào việc
tăng thu ngân sách cho nhà nước. Mấy năm gần đây kim ngạch xuất khẩu liên
tục tăng nhanh. Đến năm 2008 nước ta dự kiến sẽ tăng 16,7% đạt 350 triệu
tấn. Với những điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển sản xuất và xuất khẩu
rau quả của Việt Nam thì chúng ta còn rất nhiều cơ hội để gia nhập, cạnh
tranh với thị trường thế giới.
Xuất khẩu rau quả góp phần giải quyết công ăn, việc làm cho người lao
động, cải thiện đời sống người dân.
Với dân số hơn 81 triệu người trong đó hơn 50 triệu người đang ở độ tuổi
lao động, hàng năm lại có thêm 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động.
Việt Nam là một trong những nước có lượng người lao động đông nhất trong
khu vực. Tuy nhiên lao động của chúng còn hạn chế về trình độ, lao động thủ
công là chính. Rau quả không như những mặt hàng có thể sản xuất quanh năm
mà nó có tính thời vụ, những người dân thất nghiệp trong lúc nông nhàn đều
kéo nhau lên thành phố để kiếm việc. Sản xuất mặt hàng rau quả xuất khẩu có
thể thu hút một lượng lớn lao động trong nước kể cả lao động có trình độ cao
và những lao động phổ thông đặc biệt là những lao động ở nông thôn. Sản
lượng xuất khẩu rau quả hàng năm càng cao thì càng tạo ra nhiều việc làm
cho người lao động từ đó cải thiện căn bản đời sống của họ. Những công ty
sản xuất rau quả và các nhà máy chế biến đã thu hút không ít lao động trong
xã hội tạo ra nguồn lao động lành nghề, những cán bộ kỹ thuật chế biến giỏi.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 11
Page 15
Đề án kinh tế thương mại
Hơn nữa nguồn lao động của nước ta rất dồi dào nên chi phí lao động thường
rẻ hơn so với các quốc gia khác từ đó giảm chi phí sản xuất, nâng cao tính
cạnh tranh của mặt hàng rau quả trên thị trường quốc tế.
Xuất khẩu rau quả là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đối ngoại.
Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hơn 120 quốc gia. Một số
mặt hàng có chất lượng cao như: thanh long, sầu riêng, măng cụt, cam, nhãn,
vải... có qui mô ngày càng lớn và được thị trường thế giới ngày một ưa
chuộng. Từ khi được gia nhập WTO Việt Nam được hưởng nhiều chính sách
ưa đãi của tổ chức, được giảm thuế xuất nhập khẩu đối với các nước trong
liên minh. Việt Nam đang dần dần coi thị trường thế giới là hướng quan trọng
nhằm xuất khẩu những gì mà thị trường thế giới cần.
1.3. Tổng quan về thị trường Đài Loan
Cho đến thập niên 1960, Đảo chính của Đài Loan được gọi là Formosa
(các thủy thủ người Bồ Đào Nha gọi nó là Ilha Formosa, nghĩa là "hòn đảo
xinh đẹp"). Lãnh thổ Đài Loan nằm phía Đông Nam Trung Quốc bao gồm 86
đảo, trong đó Đài Loan là đảo lớn nhất và rất nhiều đảo nhỏ khác. Tổng diện
tích lãnh thổ là 360006km2 . Chính đảo Đài Loan giống như hình lá trầu
chiếm 99%. Do kiến tạo địa hình của Đài Loan bị chia thành 2 miền Tây và
Đông. Sông ngòi ở Đài Loan thể hiện 2 đặc điểm khá rõ là ngắn và dốc. Đài
Loan thuộc vùng lãnh thổ nắng lắm mưa nhiều, thường có bão lớn và động
đất. Đài Loan cũng có 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Lượng mưa ở Đài Loan
khá cao, nhiều khi còn kèm theo cả gió mạnh, bão lụt đã gây ảnh hưởng khá
nhiều đến sản xuất nông nghiệp. Hơn thế Đài Loan lại là nơi thường xảy ra
động đất, tuy không gây thiệt hại nghiêm trọng tới người và của nhưng nó đã
gây thất thoát mùa màng. Có thể nói mặc dù thiên nhiên ít ưu đãi nhưnng bù
lại Đài Loan lại nhiều khoáng sản, vị thế địa hình thổ nhưỡng và thời tiết
không hoàn toàn thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Nhưng Đài Loan lại đi
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 12
Page 16
Đề án kinh tế thương mại
lên bằng nông nghiệp. Sản phẩm nông lâm, ngư nghiệp của Đài Loan cũng rất
phong phú và đa dạng.
1.3.1. Khái quát về thị trường sản xuất, xuất khẩu Đài Loan
1.3.1.1. Về Kinh tế
Đài Loan là nước có nền kinh tế tư bản phát triển năng động. Tốc độ tăng
GDP thực tế trung bình đạt mức 8% trong suốt 3 thập kỷ qua. Tỷ lệ lạm phát
và thất nghiệp thấp; thặng dư thương mại tương đối ổn định, dự trữ nước
ngoài cao thứ 3 thế giới. Ngành nông nghiệp đóng góp 6% cho GDP; giảm so
với tỷ lệ 35% năm 1952, công nghiệp 35,8% và dịch vụ: 58,2%. Những ngành
tập trung nhiều lao động truyền thống đã dần chuyển ra nước ngoài và thay
thế bằng những ngành sản xuất có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao. Đài Loan
vẫn là đối tác đầu tư chính của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; Thái Lan;
Indonesia; Phiplippines; Malaysia; và Việt Nam.
Trải qua gần 5 thập kỷ hình thành và phát triển, Đài Loan đang chuyển
mình từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một cường quốc kinh tế và dẫn
đầu trong lĩnh vực sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Tuy nhiên với chính
sách hướng về xuất khẩu mà Đài Loan đang áp dụng hiện nay đã khiến cho
nền kinh tế nước này chịu ảnh hướng khá lớn từ những biến động từ bên
ngoài. Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 của Đài Loan đạt mức
27.572 USD ngang với thu nhập trung bình của liên minh Châu Âu. Ngoại
thương được coi là động lực giúp cho Đài Loan đạt mục tiêu tăng trưởng kinh
tế trong suốt 40 năm qua. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của nước này đã
chuyển từ sản phẩm nông nghiệp truyền thống sang các sản phẩm công
nghiệp (hiện nay chiếm 98%). Điện tử là ngành xuất khẩu chủ đạo của Đài
Loan đồng thời đây là ngành hàng nhận được các khoản đầu tư lớn, chủ yếu
từ Hoa Kỳ. Dệt may cũng là ngành xuất khẩu chủ đạo của nước này.
Kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan năm 2005 là 189.4 tỷ USD. Trong đó,
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực bao gồm: sản phẩm máy tính và thiết bị điện
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 13
Page 17
Đề án kinh tế thương mại
tử, khoáng sản, dệt may, nhựa, các sản phẩm cao su và hoá chất. Các đối tác
xuất khẩu chính là Trung Quốc (chiếm 21.6%), Mỹ (16.22%), Hồng Kông
(15.1%), Nhật Bản (7.7%) (thống kê năm 2005). Kim ngạch nhập khẩu năm
2005 là 181.6 tỷ USD giá f.o.b. Các mặt hàng chủ yếu mà Đài Loan phải nhập
khẩu bao gồm máy móc và thiết bị điện 44.5%, khoáng sản và công cụ chính
xác (thống kê năm 2002). Các mặt hàng này được nhập từ một số thị trường
chính như: Nhật Bản (chiếm 25.3%), Mỹ (11.6%), Trung Quốc (11%), Nam
Triều Tiên (7.3%) và Ả rập Saudi (4.1%) (thống kê năm 2005).
Mặc dù đất nông nghiệp chỉ chiếm ¼ diện tích đất của Đài Loan nhưng
gần như tất cả diện tích đất này là dành để trồng trọt, một số khu đất có thể
trồng từ 2 đến 3 vụ mỗi năm. Tuy vậy, tốc độ tăng sản lượng nông nghiệp của
nước này thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng sản xuất hàng công
nghiệp. Hiện ngành nông nghiệp của Đài Loan chỉ đóng góp một tỷ lệ khá
khiêm tốn 2,69% cho GDP. Các vụ mùa chính của Đài Loan gồm gạo, mía
đường, hoa quả và rau. Sản lượng gạo của nước này chủ yếu phục vụ cho nhu
cầu trong nước và đang phải nhập khẩu một lượng lớn ngũ cốc từ Mỹ. Các
mặt hàng nông sản xuất khẩu của Đài Loan có thể kể đến như: rau đóng hộp,
rau đông lạnh và các sản phẩm ngũ cốc, thuỷ sản. Các sản phẩm nông sản
chính được nuôi trồng ở Đài Loan gồm: ngô, rau, hoa quả, chim, bò, sữ, cá...
- Đài Loan vẫn có quan hệ không chính thức với hơn 140 nước, có 126
văn phòng tại nước ngoài và vẫn là thành viên của 11 tổ chức quốc tế mang
tính chính phủ và 752 tổ chức quốc tế phi chính phủ.
- Ngày 11/11/2001 Đài Loan vẫn được kết nạp vào WTO, trở thành thành
viên thứ 144 của WTO. Sau khi gia nhập WTO, một trong những mục tiêu mà
Đài Loan nỗ lực để đạt được là trở thành thành viên của tổ chức Hàng không
Dân dụng quốc tế và tổ chức y tế thế giới.
- Đài Loan một mặt dựa vào thực lực kinh tế của mình, tích cực hoạt động
đối ngoại theo phương châm linh hoạt mềm dẻo nhằm tranh thủ công đồng
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 14
Page 18
Đề án kinh tế thương mại
quốc tế nhìn nhận Đài Loan như là “một thực thể chính trị”, mặt khác Đài
Loan tăng cường hoạt động tại các tổ chức kinh tế quốc tế (như APEC,
OECD, WTO…) nhằm khẳng định thực lực kinh tế, nâng cao vai trò và vị trí
của Đài Loan trên trường quốc tế.
- Các nước phương Tây, nhất là Mỹ, Nhật, Tây Âu tuy không còn quan hệ
chính thức về mặt ngoại giao với Đài Loan, nhưng vẫn duy trì và đẩy mạnh
quan hệ không chính thức với Đài Loan về mặt kinh tế, văn hoá và quân sự
dưới nhiều hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Mỹ, Nhật vẫn là thị trường quan
trọng đối với Đài Loan. Kim ngạch mậu dịch Đài Loan - Mỹ năm 1993 đạt
trên 40 tỷ USD, chiếm 25% tổng kim ngạch mậu dịch của Đài Loan, trong đó
Đài Loan xuất siêu 9 tỷ (so với 12 tỷ năm 1992). Kim ngạch mậu dịch Đài
Loan - Nhật năm 1993 là 36 tỷ USD (Đài Loan nhập siêu 14 tỷ). Kim ngạch
mậu dịch giữa Đài Loan và Tây Âu năm 1993 là 26,4 tỷ, chiếm 26,4% tổng
kim ngạch mậu dịch của Đài Loan. Trong quan hệ với các nước phương tây,
Đài Loan đã tranh thủ được vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật và công nghệ cao
của Mỹ, Nhật, Tây Âu.
Hoạt động sản xuất tại Đài Loan:
* Về rau: Hầu hết rau sản xuất ở Đài Loan chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu
thụ trong nước. Năm 2002, có khoảng 179.500 hecta đất canh tác được sử
dụng trong việc trồng rau chủ yếu tập trung tại các tỉnh Vân Lâm, Trương
Hoa, Đài Nam và Chiayi. Sản lượng rau đạt khoảng 3.462.000 tấn với năng
suất trung bình khoảng 19.300 kg/ha. Một số loại rau được trồng chủ yếu ở
Đài Loan bao gồm: măng tre, nấm, các loại rau ăn lá, bắp cải, dưa đỏ, đậu
tương. Hiện ở Đài Loan có khoảng 100 loại rau khác nhau. Các loại hành, bắp
cải tàu, mù tạt và tỏi phù hợp với vùng khí hậu mát mẻ ở miền bắc Đài Loan,
còn ở miền nam chủ yếu trồng các loại như cà chua, súp lơ, măng tre và các
loại đậu. Các loại rau tươi được nhập khẩu nhiều nhất là súp lơ xanh, súp lơ
trắng, bắp cải và bắp cải tàu. Đài Loan chủ yếu nhập các loại rau từ Hoa kỳ,
Trung Quốc và Việt Nam.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 15
Page 19
Đề án kinh tế thương mại
Thị trường nhập khẩu rau quả của Đài Loan gồm: Mỹ, Nhật Bản, các
nước Tây Âu… Các loại rau chính Đài Loan xuất sang Nhật bao gồm: Hành,
tỏi tây, súp lơ, cải bắp, cà rốt. Ngoài ra, Đài Loan còn tiến hành xuất khẩu các
chế phẩm từ rau quả sang thị trường các nước, tuy nhiên, kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng này trong năm 2005 của Đài Loan đã giảm 11,723% so với
năm 2004 và đạt 2.975.950 USD.
Hiện nay, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp ở Đài Loan lớn hơn
nhiều so với diện tích đất canh tác (có 936.000 nông dân nhưng chỉ có
871.000 hecta đất canh tác). Những tập quán cây trồng chủ yếu ở đây là: mía
đường, gạo và giống cây ăn quả có múi. Đài Loan cũng là nước sản xuất được
dứa và chuối. Ở Đài Loan, diện tích đất canh tác bao gồm đất trồng trọt và đất
chuyên canh đạt 870000 hecta.
* Về quả : Đài Loan hiện đang trồng hơn 30 loại cây ăn quả khác nhau.
Trong đó các giống cây như táo, lê, đào chủ yếu trồng ở các vùng cao còn
cam, quýt, chuối, dứa, vải, nhãn, xoài, đu đủ, hồng, sơn trà, ổi lại được trồng
phổ biến ở các vùng đồng bằng và các vùng đất không bằng phẳng hoặc có
địa hình dốc. Năm 2002, sản lượng quả của Đài Loan đạt 2,69 triệu tấn với
tổng diện tích đất canh tác là 221.775 ha. Ngành sản xuất rau quả Đài Loan
phải chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các loại rau quả nhập khẩu kể từ khi
thuế nhập khẩu đối với các loại rau quả được giảm hoặc miễn hoàn toàn. Để
cạnh tranh được, nông dân Đài Loan đã áp dụng các công nghệ tiên tiến trong
chăm sóc cây trồng nhằm hiện đại hoá các hoạt động sản xuất và tiêu thụ.
Ngành sản xuất trái cây của Đài Loan đã trở thành một ngành công nghiệp
phát triển và mang lại lợi nhuận cao. Các vườn cây ăn quả cũng được đa dạng
hoá thành các khu du lịch sinh thái nhà vườn.
Chuối là sản phẩm nông nghiệp quan trọng của nhiều nước nhiệt đới và
cận nhiệt đới. Ở Đài Loan, việc trồng chuối cho mục đích thương mại thường
phân tán ở các hộ nông dân hoặc trên các trang trại nhỏ. Sản phẩm chủ yếu
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 16
Page 20
Đề án kinh tế thương mại
phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Thị trường chính nhập
khẩu chuối của Đài Loan là Nhật Bản. Mùa thu hoạch chuối ở đây thường vào
khoảng từ tháng 3 đến tháng 5.
Một giống cây trồng khác cũng mang lại năng suất cao ở Đài Loan đó là
cam quýt. Trồng cam quýt ở nước này bắt đầu từ đầu thế kỷ 17. Một số giống
cây có múi như cam Ponkan, Tankan, Liucheng, bưởi Wentan, Hailikan là do
người nhập cư từ Đại Lục Trung Quốc mang vào Đài Loan. Suốt thời gian
Nhật chiếm đóng, khoảng 6.000 ha diện tích đất nông nghiệp ở Đài Loan
được dành để trồng cam quýt, với sản lượng hàng năm đạt gần 40.000 tấn.
Khoảng ¼ sản lượng cam quýt thu hoạch được dành để xuất khẩu. Thị trường
nhập khẩu chính các loại hoa quả này của Đài Loan là Trung Quốc Đại Lục,
Nhật và Hàn Quốc. Trong thế chiến thứ 2, xuất khẩu cam quýt của Đài Loan
bị ngưng lại và nhiều vườn cam được chuyển sang trồng các vụ mùa khác.
Năm 1945, khi Đài Loan nằm dưới quyền quản lý của Trung Quốc, diện tích
trồng cam quýt là 4000 ha, sản lượng hàng năm đạt trên 20.000 tấn. Trong
giai đoạn từ năm 1945 tới 1990, diện tích trồng cam tăng chậm. Nguyên nhân
là do chi phí các nguyên liệu đầu vào để sản xuất cam quýt tăng cao, nguy cơ
phá hoại của nhiều loại sâu bệnh và thiên tai, sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các
nước sản xuất cam quýt lớn trong khu vực và trên thế giới, tất cả những yếu tố
đó đã khiến người nông dân thu hẹp diện tích trồng cam quýt. Sau năm 1990,
diện tích trồng tiếp tục giảm, vào năm 1995 ở Đài Loan có khoảng 10.500 ha
cam Ponkan, 8.000 ha cam Liucheng, 6,700 ha bưởi Wentan và 5,900 ha
Tankan, tổng sản lượng đạt khoảng 472.409 tấn.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 17
Page 21
Đề án kinh tế thương mại
Diện tích đất canh tác và sản lượng các loại quả của Đài Loan
Loại Diện tích đất canh tác
(ha)
Sản lượng (tấn)
Ponkan 10.409 139.868
Liucheng cam 8.025 117.198
Wentan pummelo 6.715 73.734
Tankan 5.819 62.156
Chanh 1.023 12.081
Bưởi chùm 1000 15.361
Các loại quả khác 4.639 56.411
Tổng 37.690 472.409
(Theo hồ sơ thị trường Đài Loan)
Ghi chú:
Ponkan: là một loại quýt da mỏng, gần như không có hạt, khi chín có màu
vàng xanh.
Tankan: là một giống lai từ quýt và cam, nhỏ hơn trái Ponkan và mùa thu
hoạch vào khoảng tháng 2.
Liucheng cam: là một loại cam có vị ngọt, mọng nước, rất khó bóc vỏ do
vậy người ta thường cắt thành từng lát mỏng để ăn.
Wentan:là một loại bưởi có eo, khi chín có màu vàng xanh hơi ngả sang xám.
1.3.1.2. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Đài Loan
- Kể từ khi Việt nam tiến hành cải cách và mở cửa, Thương gia Đài Loan
đến Việt nam đầu tư nhiều như quy hoạch xây dựng khu đô thị Nam Sài gòn,
Khu chế xuất Tân Thuận, nhà máy điện Hiệp Phước, Nhà máy của Vedan, xe
máy Chinfon, Xi măng Chinfon, thức ăn gia súc, liên doanh Việt Nam Đài
đường. Các tập đoàn công ty xí nghiệp lớn của Đài Loan đã đầu tư vào Việt
Nam như: Formosa, Mậu Khai TW, Thép Đài Loan, Tập đoàn Trường Vinh,
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 18
Page 22
Đề án kinh tế thương mại
Chinfon, Vedan, Đài Đường, Công ty dầu khí Đài Loan, Tập đoàn thức ăn chăn
nuôi Thống nhất và đến ngàn xí nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực sản xuất
giầy, may mặc, thực phẩm chế biến đã đầu tư vào Việt Nam. Nhiều Ngân hàng
lớn của Đài Loan đã được phép mở chi nhánh tại Việt Nam như Ngân hàng Đệ
Nhất, China Trust, ChinFon nhằm phục vụ thương nhân Đài Loan đầu tư và
kinh doanh tại Việt Nam. Formosa là một tập đoàn hoá dầu hàng đầu của Đài
Loan đã thuê 300 ha đất đầu tư vào Nhơn Trạch Đồng Nai, vốn đầu tư giai
đoạn đầu 260 triệu USD, nay đã tăng lên 480 triệu USD nếu lấp đầy khu công
nghiệp vốn đầu tư lên 2,6 tỷ USD và chắc chắn sẽ kéo theo nhiều doanh nghiệp
Đài Loan sử dụng nguyên liệu của tập đoàn này đầu tư vào Việt Nam.
* Kim ngạch mậu dịch hai bên:
Năm 2002 kim ngạch mậu dịch hai chiều Việt Nam Đài Loan đạt 3,49 tỷ
USD, tăng 18,5% so với năm 2001, Việt Nam nhập siêu 1,7248 tỷ USD. Đài
Loan là đối tác thương mại thứ 4 của Việt Nam xếp sau Nhật, Xingapo và
Trung Quốc. Năm 2003 kim ngạch mậu dịch hai chiều Việt nam Đài Loan đạt
3,665 tỷ USD. Việt Nam xuất: 749 triệu USD và nhập: 2,916 tỷ USD Việt
Nam nhập siêu: 2,167tỷ USD. Hai tháng đầu năm 2004, kim ngach xuất nhập
khẩu đạt gần 500 triệu USD. Việt Nam nhập siêu gần 300 triệu USD. Tăng
trưởng xuất nhập khẩu hai chiều tăng bình quân 10- 15%/năm.
Hàng Việt Nam xuất khẩu chủ yếu ở dạng nguyên liệu sơ chế, gồm hàng
nông sản, lâm sản, khoáng sản, thuỷ hải sản, hàng công nghiệp. Hàng nhập
khẩu từ Đài Loan chủ yếu là vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị.
Việt Nam nhập siêu từ Đài Loan ngày càng lớn, nguyên nhân chính là do
các nhà đầu tư Đài Loan đưa máy móc và nguyên liệu vào Việt nam để sản
xuất, Đài Loan dùng hạn ngạch để quản lý một số mặt hàng như nông sản và
thực phẩm chế biến của Việt nam không cho vào thị trường Đài Loan như
gạo, rượu, dừa…
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 19
Page 23
Đề án kinh tế thương mại
* Đầu tư trực tiếp:
Tính từ năm 1988 đến tháng 5/2004, Thương gia Đài Loan đầu tư vào
Việt Nam 1137 dự án (đứng đầu về số dự án), tổng vốn đầu tư đăng ký đạt
6,396 tỷ USD (đứng thứ hai về vốn sau Xingapore). Nếu tính đầu tư của Đài
Loan thông qua nước thứ ba thì đầu tư của Đài Loan vào Việt nam đứng thứ
nhất. Có thể nói Đài Loan đã đầu tư vào hầu hết các ngành kinh tế quan trọng
của Việt nam. Lĩnh vực công nghiệp nhẹ 365 dự án, tổng vốn: 2,262 tỷ USD
= 36 %. Công nghiệp nặng: 346 dự án, tổng vốn 1,306 tỷ USD = 21%, Văn
phòng cho thuê: 10 dự án = 769 triệu USD, Xây dựng 57 dự án, tổng vốn: 618
triệu USD. Đáng chú ý là Đài Loan đã đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp 222
dự án với tổng vốn 613 triệu USD.
Các dự án đầu tư của Đài Loan phân bố tại 43 tỉnh thành phố trong cả
nước và đầu tư tập trung vào các tỉnh phía nam như Hồ Chí Minh: 304 dự án,
vốn đầu tư: 1,6 tỷ USD. Đồng Nai: 213 dự án, vốn đầu tư: 2,032 tỷ USD.
Bình Dương: 329 dự án vốn đầu tư 1,111 tỷ USD, Long An: 44 Dự án vốn
đầu tư: 313 triệu USD. Đầu tư của Đài Loan tại Việt Nam sử dụng khoảng
100.000 lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp. Nhìn chung các dự
án đầu tư của Đài Loan hoạt động tương đối tốt. Quy mô vốn đầu tư trung
bình gần 6 triệu USD/một dự án, đầu tư vào một số địa phương có cơ sở hạ
tầng khá hơn. Tỷ lệ giải ngân cao so với tỷ lệ giải ngân trung bình.
1.3.2. Các qui định về nhập khẩu của Đài Loan
Hàng hoá nhập khẩu vào Đài Loan tuân theo Luật Ngoại thương: Hệ
thống thuế nhập khẩu của Đài Loan dựa trên hệ HS, bao gồm 10.228 mặt
hàng, trong đó 9.958 mặt hàng được phép nhập khẩu (hơn 97%). Trong đó có
9.679 mặt hàng (khoảng 94%) có thể nhập khẩu không cần giấy phép. Đơn
xin cấp phép của 549 mặt hàng là do Bộ Ngoại thương (BOFT) cấp. 143 mặt
hàng còn lại phải có thêm một số thủ tục khác như của ngân hàng trước khi
được BOFT chấp thuận.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 20
Page 24
Đề án kinh tế thương mại
Chính sách nông nghiệp của Đài Loan dựa vào 2 nguyên tắc cơ bản, phân
bổ công bằng của cải và sử dụng tối ưu đất đai. Bốn mục tiêu của các chính
sách là: (1) bảo đảm an ninh lương thực bằng việc sử dụng đất đai tối ưu; (2)
cải thiện điều kiện sống và phúc lợi nông thôn; (3) tăng thu nhập cho nông
dân và giảm khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị; (4) đẩy
mạnh việc bảo tồn tự nhiên và duy trì đất chăn nuôi trồng trọt. Xét riêng cho
mặt hàng rau hoa quả, hiện nay một số chính sách liên quan đến mặt hàng này
được đề cập cụ thể dưới đây:
a, Chính sách thuế và phi thuế.
Sau khi gia nhập WTO, Đài Loan đã thực hiện mở cửa thị trường nông
sản theo các cam kết WTO. Do việc cấm nhập khẩu không phù hợp với các
nguyên tắc của WTO về không phân biệt đối xử nên 18 loại sản phẩm nông
nghiệp bị cấm trước đây sẽ được nhập khẩu mà không có các hạn chế phi
thuế, trong đó có các sản phẩm rau quả như: quả mâm xôi, vải, cam, chanh và
các loại cam chanh, bưởi, nho, đào, mận, táo, các loại quýt tươi, khoai tây, đu
đủ. Mức thuế áp dụng cho các sản phẩm này dao động từ 20 đến 40%.
Các loại rau quả như lê, tỏi củ, hạt trầu không, đậu adzuki, nấm khô, bưởi,
nho khô và quả nho, dừa non, chuối, dứa, xoài, hồng, hoa ly khô được nhập
khẩu theo chế độ hạn ngạch thuế quan. Hạn ngạch nhập khẩu sẽ chiếm từ 4
đến 8% lượng tiêu thụ trong nước hoặc cao hơn và mức thuế sẽ bằng 50%
mức hiện tại. Ngoài ra khối lượng hàng nhập khẩu sẽ không bị hạn chế đối
với số hàng nhập vượt quá hạn ngạch tuy nhiên sẽ phải chịu mức thuế cao
hơn so với các loại hiện có trong hạn ngạch tùy theo sự chênh lệch về giá sàn
giữa thị trường trong nước và nước ngoài và tuỳ vào kết quả đàm phán song
phương với các quốc gia liên quan.
Về chính sách phi thuế, Đài Loan áp dụng chủ yếu là hạn ngạch và các
loại giấy phép. Đài Loan thực hiện chính sách phân biệt trong nhập khẩu, chỉ
nhập khẩu từ một số nước nhất định. Ví dụ như táo và cam chỉ nhập từ Hoa
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 21
Page 25
Đề án kinh tế thương mại
Kỳ và New Zealand, dừa nhập từ Malaysia và Philippines. Việt Nam chưa
được ưu tiên trong việc chỉ định thị trường nhập khẩu nên nhiều mặt hàng
Việt Nam không xuất khẩu được sang Đài Loan. Điểm khó trong chính sách
phi thuế của Đài Loan là các biện pháp hạn chế chỉ được quy định một cách
chung chung mà không chi tiết hoá cho từng mặt hàng cụ thể như nhiều nước
khác dẫn đến sự không minh bạch khi áp dụng.
Từ 2004, Bộ Tài chính Đài Loan đã ra thông báo giảm thuế suất thuế nhập
khẩu một số sản phẩm rau quả như súp lơ, cải bắp, cải trắng, su hào, cải
xanh... từ 20% xuống còn 10%. Những nước được hưởng mức thuế này bao
gồm các nước thành viên WTO và các nước có đãi ngộ tối huệ quốc, trong đó
có Việt Nam.
b, An toàn thực phẩm và vệ sinh dịch tễ:
Cục tiêu chuẩn đo lường và kiểm dịch Đài Loan bắt đầu áp dụng các tiêu
chuẩn mới quy định về dư lượng thuốc bảo vệ thực phẩm trong các sản phẩm
rau quả từ tháng 6/1999.Ngoài một số loại thuốc trừ sâu được cho phép với
mức dư lượng quy định, các loại thuốc trừ sâu khác không được phép tồn tại
trong rau quả nhập khẩu. Các loại rau quả xuất khẩu không đáp ứng được các
tiêu chuẩn trên sẽ không được phép đưa vào Đài Loan.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 22
Page 26
Đề án kinh tế thương mại
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU RAU QUẢ
CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG ĐÀI LOAN
2.1. Lợi thế của Việt Nam về sản xuất và xuất khẩu rau quả
2.1.1. Lợi thế về khí hậu
Đặc trưng của khí hậu nước ta là khí hậu gió mùa, nhiều nắng, nhiều mưa,
độ ẩm trung bình tương đối cao. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới ở Miền Nam
có 2 mùa (mùa mưa ở giữa tháng 5 đến giữa tháng 9 và mùa khô từ giữa
tháng 10 đến giữa tháng 3) và khí hậu gió mùa ở Miền Bắc với 4 mùa rõ rệt
(mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa đông). Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu
Việt Nam được điều hòa một phần bởi các dòng biển mang nhiều yếu tố khí
hậu biển. Độ ẩm tương đối trung bình là 84%/năm. Hàng năm lượng mưa từ
1200 đến 3000mm và nhiệt độ từ 5C đến 37C. Chính vì Việt Nam nằm trong
vành đai khí hâụ nhiệt đới gió mùa ẩm nên khí hậu là một điều kiện hết sức
thuận lợi để trồng nhiều loại cây rau, cây ăn quả có giá trị cao. Khí hậu ở mỗi
vùng, mỗi miền là khác nhau đã hình thành các vùng sinh thái nông nghiệp
khác nhau. Khí hậu ba miền phân biệt rõ ràng: mùa đông lạnh ở Miền Bắc có
khả năng cung cấp các loại rau quả ôn đới cho thị trường nhiệt đới như
Singapore, Malaysia, Philippine... Khí hậu kiểu Tây Nam Á ở Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long thì lại tập trung các loại quả có
nguồn gốc nhiệt đới. So với các quốc gia như Mỹ, Nga , EU, Nhật Bản ... thì
Việt Nam có lợi thế hơn nhiều. Với điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi Việt
Nam có thể sản xuất và cung cấp rau quả tươi xanh quanh năm, tận dụng mùa
vụ mà nguồn cung cấp nội địa của các nước do hạn chế về thời tiết để xuất
khẩu sang thì chắc chắn sẽ thành công.
2.1.2. Lợi thế về nguồn nước
Việt Nam nằm ở trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm, mưa
nhiều, nhiệt lượng trung bình cao, độ ẩm trung bình lớn là một thuận lợi đáng
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 23
Page 27
Đề án kinh tế thương mại
kể cho ta phát triển nền nông nghiệp đa canh quanh năm với nhiều loại nông
sản phong phú: từ cây lương thực đến cây công nghiệp, cây ăn quả, rau,
đậu… lượng mưa trung bình hàng năm trên phần lớn bề mặt lãnh thổ cả nước
từ 1,5m đến 3,0m nước tạo nên nguồn nước mặt và nước ngầm dồi dào với hệ
thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc đủ cung cấp nước cho công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt dân cư, tạo nên màu xanh quanh năm
bao trùm lên cả nước. Với độ ẩm trung bình khá cao tơi 85%. Mưa nhiệt đới
không chỉ có tác dụng điều hòa khí hậu mà còn cung cấp cho đất lượng nước
và lượng đạm vô cơ rất lớn. Đây là điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng, điều
kiện tốt để tiến hành xen canh, gối vụ, tăng nhanh vòng quay ruộng đất và
thâm canh năng suất.
Nước là một dạng tài nguyên đặc biệt: vừa hữu hạn (nước ngầm) vừa vô
hạn (nước trên mặt đất). Trong thiên nhiên nước luôn hoạt động và vì vậy sự
phân bố nước để có những dao động rõ rệt theo lãnh thổ mùa và qua các năm.
Toàn bộ các nguồn nước ngọt lưu chuyển trên lãnh thổ nước ta rất to lớn.
Nguồn nước ngọt dồi dào đủ đảm bảo cho việc phát triển ngành trồng trọt đặc
biệt là các loại rau quả. Sông ngòi nước ta vừa nhiều vừa kết hợp với nhau tạo
thành những mạng lưới thủy văn dày đặc. Với nhiều sông đào và kênh
mương. Do đó việc cung cấp nước cho nông nghiệp là khá dễ dàng. Việc sản
xuất rau quả cũng thuận lợi hơn rất nhiều.
Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc (2.360 con sông dài trên
10km), chảy theo hai hướng chính là tây bắc - đông nam và vòng cung. Hai
sông lớn nhất là sông Hồng và sông Mê Công tạo nên 2 vùng đồng bằng rộng
lớn và phì nhiêu. Hệ thống các sông suối hàng năm được bổ sung tới 310 tỷ
mét khối nước. Chế độ nước của sông ngòi chia thành mùa lũ và mùa cạn.
Mùa lũ chiếm tới 70 - 80% lượng nước cả năm và thường gây ra lũ lụt. Tuy
nhiên chúng ta đã phần nào ngăn chặn tác hại của thiên nhiên, ngành rau quả
nước ta đạt được nhiều thành công hơn so với các quốc gia khác.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 24
Page 28
Đề án kinh tế thương mại
2.1.3 Lợi thế về đất đai
Toàn bộ quĩ đất đai của Việt Nam là 33,1 triệu ha. Trong đó đất có khả
năng nông nghiệp là 10,5 triệu ha chiếm gần 1/3, đất nông nghiệp Việt Nam
chiếm một tỷ lệ lớn trên diện tích cả nước. Có nhiều loại thổ nhưỡng có giá trị
kinh tế cao thích hợp cho việc phát triển các loại cây ăn quả. Đồng bằng châu
thổ có đất phù sa chiếm trên 6 triệu ha (trong đó nam bộ chiếm ½) là cơ sở
cho các vùng cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày trù phú. Hiện nay
trên lãnh thổ nước ta có 27 loại cây ăn quả được trồng trên diện tích lớn. trong
đó chuối, dứa, cam, xoài, đã chiếm 57% tổng diện tích trái cây cả nước với
chất lượng và khối lượng lớn. Theo quy hoạch từ nay đến năm 2010 diện tích
có khả năng trồng rau quả nước ta là 1,55 triệu ha. Trong tất cả các tài nguyên
thì đất chiếm vị trí quan trọng nhất. Ngành nông nghiệp của nước ta sở dĩ phát
triển hơn các nước khác vì diện tích đất trong nông nghiệp màu mỡ và đa
dạng. Mỗi loại đất khác nhau cho các giống cây trồng phát triển khác nhau.
Nhiều vùng chuyên sản xuất cây ăn quả với khối lượng lớn, hương vị thơm
ngon mà chỉ có vùng đất đó mới có như bưởi ở Đoan Hùng, mơ, mận ở Tây
Bắc, xoài cát Hòa Lộc, nhãn ở Hưng Yên, thanh long ở Bình Thuận, vải thiều
ở Bắc Giang…
Xét về vị thế tự nhiên Việt Nam là một quốc gia có những cơ sở thuận lợi
để phát triển nông nghiệp nhằm vào mục tiêu xuất khẩu. Đó là lợi thế so sánh
với nhiều quốc gia khác.
2.1.4. Những lợi thế khác
- Lợi thế về vị trí địa lý:
Việt Nam là quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái
Bình Dương. Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 4550km tiếp
giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, Lào và Campuchia ở Tây. Phía Đông giáp
với biển Đông, Việt Nam có ba mặt Đông, Nam, và Tây Nam trông ra biển
với bờ biển dài 3260km từ Móng Cái ở phía Bắc đến Hà Tiên ở phía Tây
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 25
Page 29
Đề án kinh tế thương mại
Nam. Phần biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và
Đông Nam có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Từ xưa
Việt Nam đã được coi là trung tâm giao thông của Đông Nam Á, là cửa ngõ
rất thuận tiện để buôn bán giao lưu với bên ngoài. Đó là điều kiện hết sức
thuận lợi để hàng hoá của Việt Nam kể cả rau quả tươi tới được các thị
trường lớn bằng những phương thức vận tải phong phú như: đường sông,
đường biển. Chi phí vừa rẻ lại vừa nhanh mà không bị tình trạng ách tắc
giao thông như sử dụng đường bộ.
- Lợi thế về giống cây trồng:
Nước ta có thể trồng nhiều loại rau quả quanh năm. Mùa nào thức nấy.
Riêng với cây ăn quả ta đã trồng được trên 130 loại cây: nhóm có nguồn gốc
nhiệt đới (chuối, dứa, xoài, đu đủ...), nhóm có nguồn gốc ôn đới (lê, đào, mơ,
mận....), nhóm có nguồn gốc á nhiệt đới (nhãn, vải, cam, hồng...) với chất
lượng và hương vị thơm ngon. Còn nghề trồng rau nước ta đã có từ lâu đời,
nhân dân đã có kinh nghiệm canh tác rau kể cả rau trái vụ. Bên cạnh những
giống rau quả hiện có để đa dạng hơn nữa các mặt hàng xuất khẩu nhà nước
khuyến khích người dân gieo trồng giống rau và các loại cây ăn quả mới có
năng suất cao và chất lượng tốt.
- Lợi thế về nguồn lực:
Với số dân hơn 81 triệu người, trong đó lao động trong ngành nông
nghiệp chiếm 80% dân số lao động. Nước ta là nước có dân số trẻ với khoảng
50% dân số đang ở độ tuổi lao động có sức khẻo tốt. Giá nhân công ở Việt
Nam thuộc loại rẻ nhất trên thế giới. Sản xuất xuất khẩu rau quả có lợi thế
hơn vì đã giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Trình độ người nông dân đã được nâng cao một cách
rõ rệt. Người nông dân đang từng bước áp dụng tiến bộ của khoa học công
nghệ kỹ thuật. Các phương thức canh tác mới nhờ đó mà năng suất cao hơn.
Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ quản lý, nghiên cứu khoa học công nghệ về chế
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 26
Page 30
Đề án kinh tế thương mại
biến rau quả và lai tạo giống cây trồng ngày càng nhiều và trình độ ngày càng
chuyên nghiệp. Họ vừa tìm tòi, nghiên cứu sáng tạo vừa trực tiếp hướng dẫn
bà con nông dân kỹ thuật mới.
2.2. Tình hình sản xuất rau quả của Việt Nam
Phát huy lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng ở một nước nhiệt đới, các tỉnh tại
Việt Nam đã hình thành các vùng nguyên liệu trái cây khá tập trung phục vụ
cho chế biến công nghiệp và tiêu dùng. Đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu
Long có diện tích trồng cây ăn trái lớn nhất, chiếm khoảng 36,5% diện tích cả
nước. Tổng lượng giống cây ăn trái các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long sản
xuất bình quân trong vài năm gần đây vsào khoảng 26 đến 27 triệu cây/năm.
Số lượng giống cây ăn trái này được lưu thông khắp cả nước kể cả sang một
số nước láng giềng.
Diện tích cây ăn quả cả nước trong thời gian qua tăng khá nhanh, năm
2005 đạt 766,9 ngàn ha (so với năm 1999 tăng thêm ngàn ha, tốc độ tăng bình
quân là 8,5%/năm), cho sản lượng 6,5 triệu tấn (trong đó chuối có sản lượng
lớn nhất với khoảng 1,4 triệu tấn, tiếp đến cây có múi: 800 ngàn tấn, nhãn:
590 ngàn tấn). Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích cây ăn quả lớn
nhất (262,1 ngàn ha), sản lượng đạt 2,93 triệu tấn (chiếm 35,1% về diện tích
và 46,1% về sản lượng).
Do đa dạng về sinh thái nên chủng loại cây ăn quả của nước ta rất đa
dạng, có tới trên 30 loại cây ăn quả khác nhau, thuộc 3 nhóm là: cây ăn quả
nhiệt đới (chuối, dứa, xoài…), á nhiệt đới (cam, quýt, vải, nhãn…) và ôn đới
(mận, lê…). Một trong các nhóm cây ăn quả lớn nhất và phát triển mạnh nhất
là nhãn, vải và chôm chôm. Diện tích của các loại cây này chiếm 26% tổng
diện tích cây ăn quả. Tiếp theo đó là chuối, chiếm khoảng 19%. Trên địa bàn
cả nước, bước đầu đã hình thành các vùng trồng cây ăn quả khá tập trung, cho
sản lượng hàng hoá lớn. Một số vùng cây ăn quả tập trung điển hình như sau:
+ Vải thiều: vùng vải tập trung lớn nhất cả nước là Bắc Giang (chủ yếu ở
3 huyện Lục Ngạn Lục Nam và Lạng Giang), có diện tích 35,1 ngàn ha, sản
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 27
Page 31
Đề án kinh tế thương mại
lượng đạt 120,1 ngàn tấn. Tiếp theo là Hải Dương (tập trung ở hai huyện
Thanh Hà và Chí Linh) với diện tích 14 ngàn ha, sản lượng 36,4 ngàn tấn.
+ Cam sành: được trồng tập trung ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, với diện
tích 28,7 ngàn ha, cho sản lượng trên 200 ngàn tấn. Địa phương có sản lượng
lớn nhất là tỉnh Vĩnh Long: năm 2005 cho sản lượng trên 47 ngàn tấn. Tiếp
theo là các tỉnh Bến Tre (45 ngàn tấn) và Tiền Giang (42 ngàn tấn). Trên vùng
Trung du miền núi phía Bắc, cây cam sành cùng được trồng khá tập trung ở
tỉnh Hà Giang, tuy nhiên, sản lượng mới đạt gần 20 ngàn tấn.
+ Chôm chôm: cây chôm chôm được trồng nhiều ở miền Đông nam bộ,
với diện tích 14,2 ngàn ha, sản lượng xấp xỉ 100 ngàn tấn (chiếm 40% diện
tích và 61,54% sản lượng chôm chôm cả nước). Địa phương có diện tích
chôm chôm tập trung lớn nhất là Đồng Nai (11,4 ngàn ha), tiếp theo đó là Bến
Tre (4,2 ngàn ha).
+ Thanh long: được trồng tập trung chủ yếu ở Bình Thuận (diện tích
khoảng 5 ngàn ha, sản lượng gần 90 ngàn tấn, chiếm 70 % diện tích và 78,6%
về sản lượng thanh long cả nước). Tiếp theo là Tiền Giang, có 2 ngàn ha.
Thanh long là loại trái cây có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất so với các loại
quả khác.
+ Bưởi: Việt Nam có nhiều giống bưởi ngon, được người tiêu dùng đánh
giá cao như bưởi Năm roi, Da xanh, Phúc Trạch, Thanh Trà, Diễn, Đoan
Hùng… Tuy nhiên, chỉ có bưởi Năm Roi là có sản lượng mang ý nghĩa hàng
hoá lớn. Tổng diện tích bưởi Năm Roi là 9,2 ngàn ha, phân bố chính ở tỉnh
Vĩnh Long (diện tích 4,5 ngàn ha cho sản lượng 31,3 ngàn tấn, chiếm 48,6%
về diện tích và 54,3% về sản lượng bưởi Năm Roi cả nước); trong đó tập
trung ở huyện Bình Minh: 3,4 ngàn ha đạt sản lượng gần 30 ngàn tấn, tiếp
theo là tỉnh Hậu Giang (1,3 ngàn ha).
+ Xoài: cũng là loại cây trồng có tỷ trọng diện tích lớn của Việt Nam.
Hiện có nhiều giống xoài đang được trồng ở nước ta, giống có chất lượng cao
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 28
Page 32
Đề án kinh tế thương mại
và được trồng tập trung là giống xoài cát Hoà Lộc. Xoài cát Hoà Lộc được
phân bố chính dọc theo sông Tiền (cách cầu Mỹ Thuận khoảng 20-25 km) với
diện tích 4,4 ngàn ha đạt sản lượng 22,6 ngàn tấn. Diện tích xoài Hoà Lộc tập
trung chủ yếu ở tỉnh Tiền Giang (diện tích 1,6 ngàn ha, sản lượng 10,1 ngàn
tấn), tiếp theo là tỉnh Đồng Tháp (873 ha, sản lượng 4,3 ngàn tấn).
+ Măng cụt: là loại trái cây nhiệt đới rất ngon và bổ. Măng cụt phân bố ở
2 vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, trong đó trồng chủ yếu
ở Đồng Bằng Sông Cửu Long với tổng diện tích khoảng 4,9 ngàn ha, cho sản
lượng khoảng 4,5 ngàn tấn. Tỉnh Bến Tre là nơi có diện tích tập trung lớn
nhất: 4,2 ngàn ha (chiếm 76,8% diện tích cả nước). Tuy măng cụt là sản phẩm
rất được giá trên thị trường nhưng việc mở rộng diện tích loại cây này hiện
nay đang gặp nhiều trở ngại do thời gian kiến thiết cơ bản dài (5-6 năm), là
cây thân gỗ lớn, chiếm nhiều diện tích đất và chỉ thích hợp với đất mầu ở các
cù lao.
+ Dứa: đây là một trong 3 loại cây ăn quả chủ đạo được khuyến khích đầu
tư phát triển trong thời gian vừa qua nhằm phục vụ xuất khẩu. Các giống
được sử dụng chính bao gồm giống Queen và Cayene; trong đó giống Cayene
là loại có năng suất cao, thích hợp để chế biến (nước quả cô đặc, nước dứa tự
nhiên…). Các địa phương có diện tích dứa tập trung lớn là Tiền Giang (3,7
ngàn ha), Kiên Giang (3,3 ngàn ha); Nghệ An (3,1 ngàn ha), Ninh Bình (3,0
ngàn ha) và Quảng Nam (2,7 ngàn ha).
Ngoài ra, còn có một số loại cây ăn quả khác cũng có khả năng xuất khẩu
tươi là: Sầu riêng cơm vàng hạt lép, Vú sữa Lò rèn, Nhãn xuồng cơm vàng...
Tuy nhiên, những loại này có diện tích và sản lượng còn rất khiêm tốn (ví dụ
diện tích của Nhãn xuồng cơm vàng mới chỉ có 200 ha, tập trung ở Bà Rịa-
Vũng Tàu), không đủ tiêu thụ trong nước và giá bán trong nước thậm chí còn
cao hơn giá xuất khẩu.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 29
Page 33
Đề án kinh tế thương mại
Về chủng loại các trái cây có lợi thế cạnh tranh, Bộ Nông nghiệp và
PTNT xác định 11 loại trái cây có lợi thế cạnh tranh, bao gồm: Thanh long,
vú sữa, Măng cụt, cây có múi (Bưởi, Cam sành), xoài, sầu riêng, dứa, vải,
nhãn, dừa và đu đủ.
Theo đề án qui hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 mới nhất của Thủ tướng Chính
phủ thì trong đó, đối với cây ăn quả Chính phủ định hướng: Trong những năm
tới mở rộng diện tích 11 loại cây ăn quả có lợi thế; riêng đối với nhãn, vải chỉ
trồng mới bằng các giống rải vụ, chất lượng cao và cải tạo vườn tạp. Diện tích
cây ăn quả đến năm 2010 đạt 1 triệu ha, tầm nhìn năm 2020 khoảng 1,3 triệu
ha. Bố trí chủ yếu ở Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng Sông Cửu Long,
Đông nam bộ, Đồng bằng Sông Hồng và một số vùng khác có đủ điều kiện.
Rà soát chương trình phát triển rau quả đến 2010 và qui hoạch 11 loại cây ăn
quả chủ lực xuất khẩu (bao gồm: cam sành, bưởi Năm Roi, bưởi da xanh, xoài
cát Hoà Lộc, sầu riêng, măng cụt, thanh long, vú sữa lò rèn, vải, nhãn xuồng
cơm vàng và dứa.
2.3. Tình hình xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị
trường Đài Loan
2.3.1. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua
Kim ngạch xuất khẩu rau quả của nước ta đã trải qua các thời kỳ: thời kỳ
trước 1990 đến 1994: kim ngạch xuất khẩu liên tục bị sụt giảm từ 52,3 triệu
Rúp-USD năm 1990 xuống còn 33,2 triệu năm 1991; 32,3 triệu năm 1992;
23,6 triệu năm 1993 và 20,8 triệu năm 1994. Có 3 nguyên nhân chủ yếu làm
cho kim ngạch xuất khẩu rau quả bị sụt giảm. Một là: thị trường xuất khẩu
chủ yếu của rau quả Việt Nam là Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu nay bị
hụt hẫng sau khi nước này thay đổi chế độ. Hai là: Việt Nam còn đang bị bao
vây, cấm vận nên xuất khẩu của Việt Nam nói chung và xuất khẩu rau quả nói
riêng sang các thị trường mới còn rất hạn chế. Ba là: Việt Nam còn đang tập
trung vào việc giải quyết an ninh lương thực ở trong nước và xuất khẩu gạo,
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 30
Page 34
Đề án kinh tế thương mại
bước đầu phát triển nông nghiệp toàn diện để khắc phục thiếu hụt các nông
sản ngoài lương thực, chưa có điều kiện đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu rau
quả. Thời kỳ 1995-1998, xuất khẩu rau quả đã tăng khá, đạt đỉnh cao nhất so
với trước đó vào năm 1996. Tuy nhiên, lại bị sụt giảm vào hai năm 1997-
1998. Thời kỳ 1998- 2001: kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng nhanh và tăng
liên tục đạt đỉnh cao nhất vào năm 2001. Nguyên nhân chính do thị trường
xuất khẩu chủ yếu là Trung Quốc đã gia tăng mạnh, một số thị trường khác
cũng tăng lên. Thời kỳ 2001- 2003: kim ngach xuất khẩu rau bị sụt giảm
mạnh, chủ yếu do xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc bị sụt giảm. Từ năm
2004 đến nay kim ngạch xuất khẩu rau quả đã có dấu hiệu phục hồi, tháng 11
năm 2005 đã đạt 210 triệu USD, tăng 31,9% so với cùng kỳ, cao gần gấp rưõi
tốc độ chung, ước cả năm đạt 230 triệu USD.
Theo dự đoán của tổ chức lương thực thế giới ( FAO), nhu cầu tiêu thụ
rau quả trên thế giới tăng bình quân 3,6% / năm, trong khi cung vẫn chưa đủ
cầu và chỉ tăng 2,8% / năm. Điều đó chứng tỏ thị trường xuất khẩu rau quả
của Việt Nam đã giảm mạnh. Nếu năm 2001 có 42 nước và vùng lãnh thổ, thì
năm 2004 chỉ còn 39 nước và năm 2005 chỉ còn 36 nước. Như vậy, với những
thay đổi về chất xuất khẩu rau quả của Việt Nam vẫn còn rất nhiều cơ hội.
Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam qua các năm
Năm kim ngạch xuất khẩu(triệu USD)
2000 213,1
2001 344,3
2002 221,2
2003 151,5
2004 178,8
2005 243
2006 259
2007 300
2008 (dự kiến) 350
(theo thông tin thương mại)
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 31
Page 35
Đề án kinh tế thương mại
Năm 2006, rau quả của nước ta xuất khẩu đạt 259 triệu USD, tăng 10,02%
so với năm 2005 và tăng gần 45% so với năm 2004. Nhật Bản, Đài Loan, Trung
Quốc, Nga và Mỹ là năm thị trường xuất khẩu hàng rau quả lớn nhất của nước
ta. Trong số đó, tốc độ tăng trưởng thị trường Nga tăng 23,8% và Mỹ có tốc độ
tăng trưởng tăng 39,8% so với năm 2005. Theo số liệu Hải quan, trong tháng
12/2006, xuất khẩu hàng rau quả của nước ta đạt 20,95 triệu USD, giảm hơn 9%
so với tháng 11/2006 và giảm trên 3% so với năm 2005. Như vậy, trong năm
2006, kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả của nước ta đạt 259,08 triệu USD, tăng
10,02% so với năm 2005 và tăng 44,86% so với năm 2004. Trong 2 tháng đầu
năm 2007, xuất khẩu hàng rau quả của nước ta sang các thị trường châu Á đang
tăng rất mạnh, và nguồn cung trong nước cũng dồi dào hơn.
Kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả qua các tháng của 2005 so với
2006 (1.000 $)
(theo hồ sơ thị trường Đài Loan)
Trong tháng 12/2006, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu hàng rau quả
lớn nhất của nước ta với kim ngạch đạt 2,36 triệu USD, tăng trên 7% so với
tháng 11/2006 nhưng vẫn giảm tới trên 40% so với cùng kỳ năm 2005. Xuất
khẩu hàng rau quả của nước ta sang nhiều thị trường như: Nga, Singgapore,
Đức, Pháp, Malaixia, Anh… tăng rất mạnh đặc biệt xuất sang thị trường Thái
Lan tăng tới gần 180%. Bên cạnh đó thì xuất khẩu sang: Đức, Pháp, Australia,
Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Hà Lan giảm đi so với tháng 11/2006.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 32
Page 36
Đề án kinh tế thương mại
Trong những năm gần đây, Đài Loan luôn là một trong những thị trường
xuất khẩu rau quả lớn của Việt Nam. Đây là một thị trường nhiều tiềm năng
với thị hiếu tương đối đa dạng và không đòi hỏi quá cao về chất lượng. Việt
Nam đứng vị trí thứ 5 trong số các nước và khu vực xuất khẩu rau vào Đài
Loan (sau Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản), mỗi năm đạt khoảng trên
10 triệu USD rau và đứng thứ 8 về xuất khẩu quả vào Đài Loan (sau Mỹ, Chi
Lê, Nhật Bản, New Zealand, Thái lan, Trung Quốc, Hàn Quốc), đạt trên 13
triệu USD. Hàng rau, quả Việt Nam xuất vào Đài Loan có tăng song còn
manh mún. Đặc biệt, có những lô hàng chất lượng kém như: khoai sọ còn
dính đất.., gây lo ngại cho nhà nhập khẩu. Nhìn chung, lượng hàng Việt Nam
xuất vào thị trường này vẫn còn rất hạn chế, chưa tương xứng với nhu cầu của
thị trường nước bạn và năng lực của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê chính thức từ Tổng cục Hải quan trong 04 tháng
đầu năm 2007 kim ngạch xuất khẩu rau quả theo đường chính kim ngạch
nước ta đạt trên 88 triệu USD. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu có xu hướng
tăng dần vào những tháng 5 và 6. Hoạt động xuất khẩu hàng rau quả của nước
ta trong 04 tháng đầu năm 2007 đã được tiến hành sang khoảng 70 thị trường
khác nhau. Trong đó các thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn và ổn định là:
Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Nga với tỷ lệ lần lượt chiếm 20%; 9,6%;
8,8% và 8,4% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của nước ta.
Đài Loan là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nước ta trong 04 tháng đầu năm
2007. Đây là một thị trường không khó tính và các hoạt động xuất khẩu lại
thuận lợi hơn nhiều so với các thị trường khác. Đáng chú ý, trong tháng 3 Đài
Loan là thị trường xuất khẩu có kim ngạch chiếm trên 30% tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng rau quả của cả nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả
cả nước trong tháng 1/2008 đạt 27.877.491 USD, giảm 23% so với tháng
12/2007 do đợt rét đậm rét hại kéo dài nhưng tăng 12,3% so với cùng kỳ năm
ngoái. Phần lớn mặt hàng rau quả nước ta được xuất khẩu chủ yếu vào các
nước như: Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên bang Nga…
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 33
Page 37
Đề án kinh tế thương mại
Kim ngạch xuất khẩu tháng 1/2008
Tên nước Kim ngạch xuất khẩu tháng 1/2008 (USD)
Anh 372.357Bỉ 256.331
Braxin 431.855Tiểu Vương quốc Ả Rập thống
nhất591.104
Canada 410.173Đài Loan 2.441.813
CHLB Đức 513.217Hà Lan 1.210.363
Hàn Quốc 1.109.942Hồng Kông 949.214Indonesia 228.748Malaysia 486.054
Mỹ 1.623.500Liên Bang Nga 2.702.723
Nhật Bản 2.299.991Ôxtrâylia 227.930
Pháp 630.478CH Séc 317.926
Singapore 1.213.974Thái Lan 1.910.462
Trung Quốc 3.484.504Ucraina 224.184
Tổng 23.636.843(theo rauhoaqua.com.vn)
2.3.2. Cơ cấu mặt hàng
Trong tháng 12/2006, mặc dù xuất khẩu thanh long giảm tới trên 28% so
với tháng 11/2006, nhưng đây vẫn là chủng loại rau quả xuất khẩu có kim
ngạch lớn nhất của nước ta. Trong khi đó, xuất khẩu nấm và dừa giảm nhẹ so
với tháng 11/2006. Đến tháng 12/2006, xuất khẩu nhiều chủng loại như dưa
chuột, cơm dừa, bó xôi, madacimia, cà tím, thạch dừa, chôm chôm, cà chua…
lại tăng rất mạnh so với tháng 11/2006. Đầu năm 2007, do nhu cầu tiêu dùng
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 34
Page 38
Đề án kinh tế thương mại
vào dịp tết Nguyên Đán tăng cao tại nhiều thị trường châu Á nên xuất khẩu
nhiều chủng loại rau quả của nước ta sang những thị trường này đang tăng
khá mạnh.
Chủng loại rau quả xuất khẩu trong tháng 12/06
Chủng loại Thị trường xuất khẩu chínhTrị giá
(1.000 USD)So T11/06 (%)
Thanh longThái Lan, Đài Loan, Hồng Kông,
Hà Lan, Singapo, Trung Quốc 2.846 -28,67
NấmMỹ, Italia, Nhật Bản, Anh, Pháp,
Đài Loan 1.987 -4,96
Dưa chuộtNga, Nhật Bản, Đài Loan, Mông
Cổ, Đức, Ukraina 1.667 40,02
Khoai
Nhật Bản, Hồng Kông,
Singapore, Malaysia, Đài Loan,
Thái Lan 1.000 4,80
ớtSingapore, Nhật Bản, Đài Loan,
Malaysia, Hàn Quốc, Canađa 490 -12,26
NgôMỹ, Trung Quốc, Ôxtrâylia, Đài
Loan 402 27,27
MacadamiaMỹ, Trung Quốc, Ôxtrâylia, Đài
Loan 315 178,43
Thạch dừa
Đài Loan, Trung Quốc, Nhật
Bản, Singapore, Bănglađet,
Malaysia 234 69,34
Gấc Mỹ, Bỉ 223 1,10
Chôm chôm Trung Quốc, Hàn Quốc, Canađa 129 87,59
Cà chua Nga, Nhật Bản, Pháp, Singapo 128 455,11
Nhãn Trung Quốc, Đài Loan 114 -32,35
Măng Đài Loan, Nhật Bản, CH Séc 106 -32,47
(Theo rauhoaqua.com.vn)
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 35
Page 39
Đề án kinh tế thương mại
Trong 10 ngày đầu tháng 1/2007, tình hình xuất khẩu rau quả của Việt
Nam diễn ra tương đối thuận lợi với kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 5,5 triệu
USD, tăng gần gấp đôi so với cùng kì tháng 12/2006, trong đó xuất khẩu sắn
chiếm 71%. Trong thời gian này các lọai: sắn, dưa chuột, khoai, bó xôi, nấm
rơm, đậu phộng, ngô… là những chủng loại rau củ xuất khẩu chính của Việt
Nam. Đáng chú ý, xuất khẩu sắn với sản phẩm chính là sắn lát khô đã tăng
đột biến nhanh, đạt kim ngạch 3,9 triệu USD, tăng mạnh so với kim ngạch chỉ
đạt 1.290 USD trong 10 ngày đầu tháng 12/2006. Nguyên nhân khiến xuất
khẩu sắn tăng mạnh là do 2 thị trường lớn Trung Quốc và Hàn Quốc tiếp tục
nhập khẩu sắn của Việt Nam sau 2 tháng 11 và 12/2006 tạm ngừng nhập khẩu
mặt hàng này. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu sắn sang Trung Quốc đạt 3,2 triệu
USD, chiếm 82% lượng sắn xuất khẩu của Việt Nam. Giá xuất khẩu sắn sang
thị trường này đạt mức 120 USD/tấn (FOB, Cảng Qui Nhơn). Xuất khẩu sang
Hàn Quốc đạt 699 nghìn USD với đơn giá 117 USD/tấn (FOB, Cảng Qui
Nhơn).
Kim ngạch xuất khẩu khoai các loại đạt 330,8 nghìn USD, tăng 66,2% so
với tháng 12/2006, đưa khoai trở thành chủng loại rau củ đạt kim ngạch xuất
khẩu cao thứ hai của Việt Nam trong thời gian này. Các thị trường xuất khẩu
chính của mặt hàng này là Nga, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore với kim
ngạch lần lượt đạt 196,4 nghìn USD; 59 nghìn USD; 25,6 nghìn USD và 15,5
nghìn USD. Trong đó, giá xuất khẩu khoai sang thị trường Singapore đạt cao
nhất với 720 USD/tấn (FOB, ICD - Phước Long). Ngoài ra, kim ngạch xuất
khẩu một số chủng loại rau củ khác cũng đạt mức cao trong thời gian này
như: Rau bó xôi với 158 nghìn USD, tăng 47,3% so với 10 ngày đầu tháng
12/2006; gừng 52 nghìn USD, tăng 822,4%; bí đỏ 43 nghìn USD, tăng 16,4%;
cà chua 27,3 nghìn USD, tăng 27,3%.
Trong đó, xuất khẩu nấm rơm - chủng loại rau củ xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam trong nhiều tháng liên tiếp có mức giảm mạnh nhất. 10 ngày đầu
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 36
Page 40
Đề án kinh tế thương mại
tháng 1/2007, kim ngạch xuất khẩu nấm rơm chỉ đạt 119 nghìn USD, giảm tới
81,5% so với cùng thời điểm tháng 12/2006. Thị trường đạt kim ngạch xuất
khẩu nấm rơm cao nhất của nước ta trong thời gian này là Italia với 85 nghìn
USD, giảm 32% so với 10 ngày đầu tháng 12/2006. Dự báo xuất khẩu nấm
rơm trong những tuần kế tiếp sẽ tăng cao do nguồn hàng được tập trung để
xuất sang Mỹ - thị trường xuất khẩu nấm rơm quen thuộc và lớn nhất của Việt
Nam và đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của các thị trường Châu Á. Xuất khẩu dưa
chuột, ngô, đậu phộng cũng giảm lần lượt 15%; 33% và 58% so với cùng thời
điểm tháng 12/2006.
Chủng loại rau củ xuất khẩu trong tháng 1/2007
Chủng loại Thị trường Trị giá (USD)Sắn Hàn Quốc, Trung Quốc 3.894.200
KhoaiHồng Kông, Malaisia, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Singapore, TháI Lan, Thuỵ Điển 330.832
Dưa chuột Đài Loan, Nga, Nhật Bản, Panama 303.329Bó xôi Nhật Bản, Singapore 158.665Nấm rơm Hồng Kông, Italia, Nhật Bản 119.271
Đậu phộngĐài Loan, Campuchia, Canada, Nga, Singapore 95.596
NgôĐài Loan, Colombia, Hà Lan, Mỹ, Thuỵ Điển 8.097
Rau các loại Hồng Kông, Mỹ, Nhật Bản, Pháp 72.344Bắp cải Đài Loan, Panama 68.335Gừng Đài Loan, Anh, Nhật Bản, Panama 52.100Măng Đài Loan, Panama 46.983
ỚtĐài Loan, Malaisia, Panama, Ukraina, Singapore 94.937
Cải thảo Đài Loan, Hàn Quốc, Panama 13.328Củ cải Đài Loan 6.150Súp lơ Đài Loan, Panama 4.755
(Theo rauhoaqua.com.vn)
Các sản phẩm xuất khẩu nước ta khá phong phú đa dạng, xấp xỉ 90 mặt
hàng khác nhau. Tuy nhiên các mặt hàng được xuất nhiều là các sản phẩm
nước ta có lợi thế cạnh tranh cao như: dừa, thanh long, nấm… Từ cuối năm
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 37
Page 41
Đề án kinh tế thương mại
2006 đến nay kim ngạch xuất khẩu dừa của nước ta luôn đạt ở mức cao.
Riêng hai tháng 03 và 04 /07 kim ngạch của mặt hàng này đã đạt gần 80 triệu
USD, chiếm 14 % tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của nước ta trong thời
gian này. Được biết nước ta là quốc gia có diện tích trồng dừa lớn trong khu
vực với chất lượng dừa tốt và đặc biệt là sản phẩm chế biến cơm dừa chất
lượng cao được thị trường thế giới ưa chuộng. Hơn nữa so với những năm
trước nhu cầu về dừa khô bóc vỏ, cơm dừa của các nước Trung Quốc, Thái
Lan, Đài Loan, Hồng Kông tăng cao. Thanh long và nấm là hai mặt hàng vẫn
luôn đứng ở vị trí đầu về kim ngạch xuất khẩu. Trong 04 tháng đầu năm 2007
kim ngạch xuất khẩu của nấm luôn đạt mức trên 1,2 triệu USD. Theo số liệu
thống kê chính thức của Tổng cục hải quan, kim ngạch xuất khẩu thanh long
cả nước theo đường chính ngạch trong 6 tháng đầu năm 2007 đạt xấp xỉ 17
triệu USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của 03 tháng đầu năm đạt trên 10
triệu USD. Mặc dù đang là thời gian thu hoạch rộ thanh long nhưng kim
ngạch xuất khẩu của 03 tháng 4, 5 và 6 có xu hướng sụt giảm. Kim ngạch
xuất khẩu trong 3 tháng này chỉ đạt trên 6 triệu USD, giảm 40 % so với 3
tháng đầu năm 2007.
Theo tìm hiểu ban đầu nguyên nhân xuất khẩu thanh long của nước ta
giảm sút là do tại các nhà vườn Tiền Giang thanh long mắc bệnh năng suất
gần như mất trắng. Hơn nữa, do thời gian qua thời tiết nắng nóng cao độ nên
việc thu hái, bảo quản cũng gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều lô hàng xuất khẩu
khi đưa đến cảng biển, cửa khẩu lại phải trả về do nắng nóng nên thanh long
bị hư hoặc giảm chất lượng không xuất khẩu được.
Thị trường xuất khẩu thanh long của nước ta vẫn được duy trì ở mức trên
dưới 20 thị trường khác nhau. Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông và Thái
Lan vẫn là những thị trường xuất khẩu chính cho loại mặt hàng nhiều ưu thế
này. Hiện nay, ở nước ta tỉnh Bình Thuận là tỉnh có diện tích sản lượng thanh
long lớn nhất cả nước. Để nâng cao khả năng cung cấp thanh long ( cả về số
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 38
Page 42
Đề án kinh tế thương mại
lượng lẫn chất lượng) vừa qua tỉnh đã đưa ra kế hoạch phát triển cụ thể đối
với loại cây ăn trái này. Hi vọng với chính sách mở rộng diện tích chuyên
canh gắn với nâng cao chất lượng trái thanh long Việt Nam sẽ là đóng góp
quan trọng cho xuất khẩu rau quả nói chung.
Đài Loan là một thị trường tiềm năng, thị hiếu tương đối đa dạng và
không đòi hỏi cao về chất lượng. Đây cũng là thị trường trung gian cho rất
nhiều loại sản phẩm của Việt Nam xuất sang các thị trường châu Âu, châu Mỹ
và Đông Á. Tuy nhiên, Đài Loan không phải là một thị trường dễ xâm nhập
do vùng lãnh thổ nước này chủ yếu duy trì các tập quán thị trường trong nước
và buôn bán với các bạn hàng đã có mối quan hệ lâu đời. Trong số các loại
quả nhập khẩu vào Đài Loan thì táo và lê là những sản phẩm được nhập nhiều
nhất, nước này chủ yếu nhập khẩu hoa quả từ Hoa Kỳ. Loại rau tươi mà Đài
Loan nhập khẩu nhiều nhất là súp lơ xanh, súp lơ trắng, bắp cải và bắp cải tàu.
Thị trường nhập khẩu rau quả chủ yếu của Đài Loan là Hoa Kỳ, Trung Quốc
và Việt Nam. Hiện nay, Đài Loan là thị trường nhập khẩu mặt hàng rau hoa
quả tương đối lớn của Việt Nam. Đài Loan hàng năm nhập khẩu rau từ 130-
145 triệu USD và nhập khẩu quả từ 400- 420 triệu USD.
Các mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất sang Đài Loan gồm: bắp cải,
dưa chuột, cà chua, nấm, chuối, thanh long, vải và xoài, ngoài ra có các loại
gia vị như: hạt tiêu, gừng, ớt, giềng, nghệ, tỏi. Năm 1999, Đài Loan nhập
khẩu 11,9 triệu USD rau, quả từ Việt Nam, chiếm 11,3% tổng kim ngạch xuất
khẩu rau, quả của nước ta. Trong 6 tháng đầu năm 2004, xuất khẩu rau quả
của Việt Nam sang Đài Loan ước đạt 9 triệu USD, giảm gần 25% so với cùng
kỳ năm 2003. Hiện Đài Loan là thị trường nhập khẩu rau quả lớn thứ 2 của
Việt Nam với kim ngạch chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau
quả của Việt Nam.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 39
Page 43
Đề án kinh tế thương mại
Bảng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Đài Loan
(1000 USD)
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
KNXK rau
quả
10492
2213100
32997
2
20115
6
15247
0
17884
0 235482
Đài Loan 11895 20841 23319 20897 2158419554
4 26868
(Theo hồ sơ thị trường Đài Loan)
Theo số liệu thống kê chính thức từ Tổng cục Hải quan kim ngạch xuất
khẩu rau của nước ta sang thị trường Đài Loan trong tháng 06/07 đạt trên 1,6
triệu USD, tăng 33% so với tháng 05. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu rau bắp
cải và rau cải thảo tăng đột biến. Trong tháng 06/07 kim ngạch xuất khẩu hai
loại rau bắp cải và rau cải thảo sang thị trường Đài Loan đạt xấp xỉ 800 nghìn
USD, tăng trên 90% so với tháng trước. Xét về lượng rau xuất khẩu trong
tháng 06 tăng rất mạnh so với tháng 05, tuy nhiên đơn giá xuất khẩu trung
bình vẫn giữ ở mức ổn định. Ví dụ như: giá rau bắp cải xuất khẩu dao động từ
0,10 đến 0,17 USD/kg và rau cải thảo cũng ở mức từ 0,12 đến 0,16 USD/kg.
Ngòai ra, hai loại rau này còn được xuất sang thị trường Nhật Bản tuy nhiên
lượng xuất khẩu còn hạn chế.
2.2. Những thuận lợi, khó khăn khi rau quả của Việt Nam xuất
khẩu sang Đài Loan
2.2.1. Những thuận lợi khi rau quả của Việt Nam xuất khẩu sang Đài Loan
Rau quả xuất khẩu từ Việt Nam chủ yếu vận chuyển bằng hai con đường
là hàng không và đường biển. Hiện nay, rau quả của Việt Nam xuất khẩu chủ
yếu đến các nước và vùng lãnh thổ Đông Nam Á như: Đài Loan, Trung Quốc,
Thái Lan, Malaysia, Hồng Kông, Singapore... và một số nước châu Âu như:
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 40
Page 44
Đề án kinh tế thương mại
Pháp, Đức, Hà Lan, Anh... Những thị trường này đều đánh giá cao chất lượng
cũng như tiềm năng của rau quả Việt Nam. Những mặt hàng đang xuất khẩu
mạnh: thanh long, dứa tươi, cam, vải thiều, nhãn, suplơ trắng, súp lơ xanh,
khoai tây, ớt... Hầu hết sản phẩm xuất khẩu là rau quả tươi, chưa qua chế
biến. Những rau quả nhiệt đới, trái vụ đang là thế mạnh của Việt Nam và Thái
Lan khi xuất sang thị trường Trung Quốc. Giá xuất khẩu thường thấp hơn thị
trường bán lẻ trong nước, vì xuất với số lượng nhiều, và sản phẩm phải bảo
quản lâu nên giảm chất lượng, chẳng hạn thời điểm hiện tại: ớt tươi có giá
FOB 0,6 USD/kg (giá trong nước là 12.000 đồng/kg); thanh long FOB 0,37
USD/kg (giá trong nước tại chợ Long Biên 8.000đồng/kg).
Thứ nhất: Việt Nam là một nước có tiềm năng về phát triển rau quả. Với
khí hậu nhiệt đới và ôn đới cùng 7 vùng sinh thái khác nhau, Việt Nam có khả
năng trồng luân canh nhiều loại rau và cây ăn quả phong phú, đa dạng. Ở
trung du và miền núi phía Bắc có thể trồng hồng, đào, chuối, dứa, vải, đậu
côve, súp lơ xanh, su hào, khoai tây… Đồng Bằng Sông Hồng có thể trồng
nhãn, cam, quýt, na, chuối và các loại rau vụ đông (bắp cải, cà chua, cà rốt…)
và các loại rau mùa hè (bí xanh, rau muống, dưa chuột…). Ở Đồng Bằng
Sông Cửu Long có thể trồng vải, nhãn, xoài, sầu riêng, măng cụt, cam, quýt,
dứa… Miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên trồng dứa, chuối, mít, chôm
chôm, thanh long, bơ… Với những thuận lợi trên rau quả Việt Nam đã đáp
ứng phần nào nhu cầu tiêu dùng đa dạng của người dân Đài Loan.
Thứ hai: Rau quả của Việt Nam xuất sang Đài Loan vẫn bảo đảm được độ
tươi mới và hàm lượng chất dinh dưỡng cao. Đó là lý do khoảng cách vận
chuyển từ Việt Nam sang Đài Loan ngắn, giao thông vận tải giữa hai nước
cũng dễ dàng. Với hệ thống giao thông đường sắt, đường sông, đường hàng
không dày đặc… có thể tiến hành nhiều cách để vận chuyển trao đổi hàng
hóa. Vì thế mà hai bên có nhiều khu buôn bán tự do hơn.
Thứ ba: Việt Nam đã bắt tay vào xây dựng nhiều vùng chuyên canh sản
xuất rau quả xuất khẩu tạo nên nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định lâu dài.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 41
Page 45
Đề án kinh tế thương mại
Thêm vào đó Chính phủ và các doanh nghiệp của Việt Nam đang tiến hành
đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu. Bắt dầu từ lúc chọn giống đến khi sản xuất,
thu hoạch, chế biến, bảo quản cả về chất lượng lẫn số lượng để có thể xuất
khẩu sang Đài Loan với chất lượng tốt nhất; giúp rau quả Việt Nam có thị
phần ngày càng lớn trên thị trường Đài Loan.
Thứ tư: Cả Việt Nam và Đài Loan đều là hai thị trường tiềm năng chưa
được khai thác hết. Việc buôn bán giữa hai bên sẽ còn lớn mạnh hơn trước rất
nhiều. Thờ gian gần đây tiềm lực hai nước đều được đánh giá cao trên thị
trường thế giới về khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và khả năng cung
cầu đều rất lớn, tăng cường không ngừng. Đặc biệt thị trường Đài Loan là một
điểm thu hút mới, các nhà đầu tư đã nhận thấy rằng sự năng động, nhạy bén
và đầy tiềm năng khiến Đài Loan trở thành điểm đến của nền kinh tế thế giới
và cũng là mối lo cho các nước cường quốc khác. Đài Loan là thị trường mà
chúng ta có thể xuất khẩu một lượng lớn hàng hóa trong đó có hàng rau quả.
Thứ năm: Việt Nam đã tận dụng sự ưu đãi thuế, thuế nhập khẩu rau quả
của Việt Nam vào Đài Loan là rất thấp. Bộ Thương Mại trích nguồn tin bộ
Tài Chính Đài Loan cho biết, Bộ này vừa quyết định giảm thuế suất thuế nhập
khẩu từ 20% xuống 10% với thành viên của WTO và các nước có đãi ngộ tối
huệ quốc trong đó có Việt Nam. Những sản phẩm rau quả được giảm thuế là
súplơ, cải bắp, cải trắng, su hào… Việc Đài Loan giảm thuế nhập khẩu rau
quả là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu vào thị
trường này. Đây cũng là một trong những ưu thế hơn các đối thủ cạnh tranh
khác khi xuất khẩu rau quả sang Đài Loan.
Thứ sáu: Với xu hướng toàn cầu hóa và mới đây Việt Nam đã trở thành
thành viên của WTO, Việt Nam đã trở thành điểm thu hút mới trên thị trường
thế giới. Việt Nam muốn hợp tác và bắt tay làm bạn với các nước nhằm thu
hút đầu tư để phát triển đất nước còn. Đài Loan muốn vào Việt Nam để kiếm
tìm nguồn lợi lớn. Điều này đã giúp Viêt Nam và Đài Loan xích lại gần nhau
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 42
Page 46
Đề án kinh tế thương mại
hơn, cùng nhau tiếp tục phát triển. Nhất là Đài Loan tiến hành mở cửa nền
kinh tế thì cả hai bên đều có một động lực hết sức tích cực, hai bên càng vững
vàng tin tưởng nhau hơn.
Thứ bẩy: Đời sống người dân ngày càng được cải thiện, nhất là một đất
nước vô cùng phát triển như Đài Loan thì nhu cầu về rau quả là tất yếu. Đối
với thực phẩm người dân Đài Loan rất quan tâm tới an toàn vệ sinh thực
phẩm, xuất xứ sản phẩm, đặc biệt quan tâm đến chất lượng của sản phẩm.
Ngày nay với xu hướng của người tiêu dùng hoa quả là nguồn bổ sung các
loại vitamin có lợi cho cơ thể con người. Là đất nước có nền kinh tế phát
triển, Đài Loan được coi là “ mãnh hổ về kinh tế” trong khu vực. Do đó, đây
là một thị trường đầy hấp dẫn đối với Việt Nam.
2.4.2. Những khó khăn khi rau quả của Việt Nam đưa đi xuất khẩu
Rau quả là mặt hàng lợi thế của nước ta, vừa đa dạng vừa phong phú
chủng loại. Tuy nhiên, khi gia nhập WTO mặt hàng này sẽ gặp nhiều sức cản
lớn do thiếu nguồn nguyên liệu chế biến nên chất lượng hàng hoá thấp, việc
tiêu thụ sản phẩm rau quả thường bị động bán giá thấp… Theo Tổng giám
đốc Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam, thách thức lớn nhất của ngành
rau quả khi vào WTO là giá và chất lượng sản phẩm. Các sản phẩm rau quả
của ta đều cao hơn các nước trong khu vực. Ví dụ, giá sầu riêng của Thái Lan
1 USD/kg, trong khi đó của nước ta 2 USD/kg. Các hoa quả khác như xoài,
thanh long… chi phí sản xuất của ta rất cao, gấp 2-3 lần so với Thái Lan. Có
hai đối thủ lớn mà Việt Nam khó cạnh tranh là Thái Lan và Trung Quốc, bởi
họ có nhiều rau quả, chất lượng tốt, giá thành hạ. Nếu không có giải pháp tích
cực hơn thì hoa quả Việt Nam “thua ngay trên sân nhà”. Thay vì lựa chọn rau
quả của ta Đài Loan sẽ chọn nhập khẩu từ Thái Lan hay Trung Quốc.
Do tập quán sản xuất quy mô nhỏ, thiếu nguồn nguyên liệu chế biến nên
chất lượng hàng hoá thấp và không đồng đều, đặc biệt việc quản lý dư lượng
thuốc Bảo vệ thực vật rất kém. Trong khi thế giới đang tiến tới sản xuất rau
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 43
Page 47
Đề án kinh tế thương mại
quả sạch, rau quả hữu cơ, yêu cầu khắt khe vệ sinh an toàn thực phẩm. Tham
gia WTO, Việt Nam mở cửa thị trường, trong đó có thị trường rau quả. Trước
hết là cam kết giảm thuế nhập khẩu nông sản, bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông
sản, cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, cho phép thành lập doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài tham gia dịch vụ phân phối hàng hoá, trong đó có mặt
hàng nông sản và rau quả.
Mặt khác, do thiếu những thông tin, không có sự phối hợp giữa các
doanh nghiệp và chủ trang trại nên việc tiêu thụ sản phẩm rau quả thường bị
động bán giá thấp. Rau quả của Việt Nam chất lượng tốt, nhưng mẫu mã sản
phẩm và bao bì còn kém thẩm mỹ. Bưởi của Trung Quốc, Thái Lan không
ngon bằng bưởi của nước ta, nhưng khi bưởi Trung Quốc xuất hiện tại châu
Âu thì bưởi của ta không bán được, vì giá của họ thấp hơn 10 - 20 %, mẫu mã
của họ đẹp hơn chúng ta rất nhiều nhờ khâu xử lý đánh bóng. Nhiều sản phẩm
của Thái Lan như xoài, chôm chôm, chuối, cam... tuy khi ăn thì chất lượng
không ngon mẫu mã rất đẹp, để tươi rất lâu còn rau quả của Việt Nam lại rất
nhanh hỏng. Mặt khác, các nước trong khu vực luôn cập nhật và đưa vào canh
tác những giống mới lạ, chất lượng tốt, năng suất cao, như: dứa MD2, thanh
long ruột đỏ, chôm chôm râu dài xanh, xoài ngọt... trong khi ở ta rất chậm
nhận thức vấn đề này. Vì thế tuy chúng ta có nhiều ưu thế hơn họ nhưng để
thâm nhập vào thị trường Đài Loan thì chúng ta cần nghiên cứu để đưa ra
những chính sách thiết thực nhằm tháo gỡ các khó khăn về chi phí vận chuyển
hàng hoá, cũng như việc xúc tiến thương mại. Đồng thời thúc đẩy các vùng
nguyên liêụ tập trung và chuyên canh để sản xuất theo phương thức sản xuất
hàng hoá, chất lượng đồng đều, sản lượng thu hoạch lớn, có như vậy mới đáp
ứng được nhu cầu khách hàng. Các nhà khoa học cần chú trọng hơn nữa trong
việc nghiên cứu công nghệ bảo quản, chế biến hàng hoá, làm sao đạt mục
tiêu: chi phí thấp, đơn giản, nhưng vẫn bảo lưu được chất lượng sản phẩm
trong thời gian dài, đủ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển và tiêu thụ. Các doanh
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 44
Page 48
Đề án kinh tế thương mại
nghiệp xuất khẩu rau quả nên liên kết với nhau để tạo nguồn sản lượng lớn,
tạo thành chuỗi sản phẩm để cung cấp cho thị trường, xây dựng những khu
chế xuất tập trung...
Xuất khẩu rau quả của ta đang gặp phải những vấn đề khó cần giải quyết:
Một là: chi phí vận chuyển của ta luôn cao gấp 1,5 lần đối với hàng không
và từ 200-500 USD/công lạnh 40 ft. Thời gian vận chuyển là vấn đề vô cùng
quan trọng đối với rau quả tươi, thế nhưng so với hàng hoá của các nước khác
trong khu vực, chúng ta mất nhiều thời gian vận chuyển hơn, thường kéo dài
thêm 6-10 giờ (khi vận chuyển bằng đường hàng không) và 5-6 ngày (khi vận
chuyển bằng đường biển). Tuy Đài loan cũng nằm trong khu vực Châu Á
nhưng vận chuyển không nhanh cũng sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm.
Hai là: công nghệ bảo quản của ta còn thô sơ và trình độ thấp hơn nhiều so
với các nước trong khu vực, chủ yếu áp dụng phương pháp làm lạnh trước khi
xuất hàng. Vải thiều Thái Lan bảo quản được 45 ngày, trong khi Việt Nam chỉ
bảo quản được 15-20 ngày. Với nhãn, Thái Lan bảo quản được 50 ngày,
chúng ta mới chỉ bảo quản được 20 ngày... Rất nhiều sản phẩm: khoai lang,
chôm chôm, chuối, gừng, dứa tươi, măng cụt... vì chưa có phương pháp bảo
quản phù hợp nên nhiều khi chưa đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn vệ sinh vệ
sinh thực phẩm do Đài Loan đưa ra và cũng chưa thể vươn tới nhiều thị
trường lớn như: Châu Âu, Châu Mỹ, Trung Đông và một số thị trường.
Ba là: do khâu canh tác và sản xuất còn manh mún, sản lượng thấp, nhà
xưởng đóng gói nhỏ lẻ, thu gom hàng hoá không dễ dàng. Trong khi đối tác
Đài Loan thường đặt hàng với số lượng lớn, nên rất khó đáp ứng được nhu
cầu của họ. Vì không gom đủ số lượng rau quả, nên chúng ta đã nhiều lần
phải từ chối những đơn đặt hàng lớn từ phía đối tác. Chất lượng rau quả của
chúng ta còn thấp, chưa đáp ứng được các yêu về chất lượng an toàn vệ sinh.
Bốn là: Khả năng thâm nhập vào thị trường Đài Loan còn rất hạn chế do
chưa có nhiều mặt hàng chủ lực, chất lượng chưa đồng đều, số lượng không
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 45
Page 49
Đề án kinh tế thương mại
tập trung, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật. Các sản phẩm đang xuất khẩu chưa
đủ mạnh để cạnh tranh với các thị trường khác. Do ngành rau quả phụ thuộc
rất nhiều vào điều kiện tự nhiên nên hạn hán, lũ lụt cũng làm ảnh hưởng đến
năng suất và chất lượng.
Năm là: năng lực, trình độ cũng như việc tổ chức quản lý công tác nghiên
cứu khoa học, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu công nghệ cao chưa đáp ứng
được nhu cầu. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các tổ chức nghiên cứu KH&CN
còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ và sử dụng kém hiệu quả, thiếu các cán bộ
có trình độ chuyên môn cao đã ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả của công
tác nghiên cứu. Việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất chưa tạo ra
bước đột phá để tăng nhanh năng suất, chất lượng và hiệu quả nhằm phục vụ
quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Sáu là: Các chính sách hỗ trợ cho xuất khẩu rau quả ở nước ta vẫn chưa
thật đầy đủ và các doanh nghiệp chưa biết cách phối hợp lẫn nhau. Việc
đưa sản phẩm đi xuất khẩu vẫn còn gặp nhiều khó khăn về thuế xuất khẩu,
không giống một số nước khác như Nhật Bản và Đài Loan có hẳn một
đường lối nhằm phát triển và chính sách xuất nhập khẩu của họ vô cùng
chặt chẽ. Việt Nam cũng nên có một bộ luật ban hành riêng cho từng ngành
trong đó có rau quả.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 46
Page 50
Đề án kinh tế thương mại
Chương 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
RAU QUẢ SANG ĐÀI LOAN
3.1. Phương hướng phát triển mặt hàng rau quả ở nước ta
trong những năm sắp tới
3.1.1. Phương hướng phát triển
- Phát triển rau, quả nhằm khai thác lợi thế về điều kiện khí hậu, sinh
thái đa dạng (nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới) của các vùng, để sản xuất thực
phẩm có giá trị dinh dưỡng đa sinh tố cho người, góp phần giải quyết việc
làm, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, tạo cảnh quan môi trường.
- Phát triển rau, quả đồng thời phải gắn với nhu cầu của thị trường, có
khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước, thị trường các nước trong khu
vực và trên thế giới, cả trước mắt và lâu dài. Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của người tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu.
- Phát triển rau, quả đối với tất cả các vùng trong cả nước, trong đó cần
quan tâm phát triển ở một số vùng có điều kiện sinh thái đặc biệt như: đồng
bằng sông Cửu Long, Lâm Đồng, đồng bằng sông Hồng, miền núi phía Bắc,
kết hợp cải tạo vườn tạp, thâm canh vườn cây hiện có với trồng mới theo
hướng: vừa phát triển rộng rãi trong dân, vừa phát triển các vùng sản xuất
chuyên canh cây chủ lực, được thâm canh, từng bước hiện đại hoá, sử dụng
công nghệ truyền thống và công nghệ sạch để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức
khoẻ và đời sống nhân dân, nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu.
- Tập trung và phát triển những loại cây ăn quả có lợi thế cạnh tranh
cao, trong đó có một số loại cây chủ lực phục vụ xuất khẩu như: chuối, dứa,
nhãn, thanh long, xoài, bưởi, vải, vú sữa...
- Gắn sản xuất với thị trường, đẩy mạnh sản xuất và chế biến các sản
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 47
Page 51
Đề án kinh tế thương mại
phẩm có giá trị gia tăng cao nhằm cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế
giới. Trong thời gian tới, đối với rau quả chúng ta cần phải chú trọng đến thị
trường Châu Á-Thái Bình Dương, trong đó đặc biệt là Trung Quốc, Đài Loan,
Hàn Quốc và Nhật, còn đối với hồ tiêu cần chú trọng đến thị trường Châu Âu.
- Sản xuất rau quả phải dựa trên cơ sở áp dụng công nghệ cao, trước hết
phải thực hiện quy trình sản xuất theo hướng thực hành, bảo đảm an toàn vệ
sinh thực phẩm, cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu ngay tại thị trường trong
nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Trong thời kỳ 2010 - 2020, ngoài đáp ứng nhu
cầu nội địa, kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả Việt Nam phấn đấu đạt 1,2 tỷ
USD/năm.
3.1.2. Mục tiêu đề ra
- Nhanh chóng thoả mãn nhu cầu đời sống nhân dân về rau, quả (thông
thường và cao cấp), trong đó đẩy mạnh sản xuất, chế biến nước quả với giá rẻ
để từng bước thay thế nước uống có cồn (bia, rượu) hiện nay.
- Tạo thêm việc làm cho khoảng 5 triệu người lao động trong cả nước.
- Kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010 đạt 1,0 tỷ đô la Mỹ/năm.
* Về diện tích, sản lượng:
Diện tích cây ăn quả tính đến năm 2010 đạt 1 triệu ha, đến năm 2020
khoảng 1,3 triệu ha; diện tích rau đến năm 2010 đạt 700 ngàn ha, đến năm
2020 khoảng 750 ngàn ha; giữ quy mô diện tích hồ tiêu đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020 là 50 ngàn ha); trong đó, đến năm 2010:
- Cây ăn quả: diện tích: 1,0 triệu ha.
sản lượng: 10 triệu tấn.
Trong đó diện tích cây ăn quả chủ lực xuất khẩu khoảng 255 ngàn ha.
- Rau: diện tích: 700 ngàn ha.
sản lượng: 14 triệu tấn.
Trong đó: rau an toàn và rau công nghệ cao khoảng 100 ngàn ha.
- Hồ tiêu: diện tích: 50 ngàn ha.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 48
Page 52
Đề án kinh tế thương mại
sản lượng: 120 ngàn tấn.
* Về kim ngạch xuất khẩu:
Việt Nam phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân
giai đoạn 2006-2010 là 23-25%/năm. Phấn đấu đến năm 2010 tổng kim ngạch
xuất khẩu rau quả các loại đạt đạt 760 triệu USD/năm, đến năm 2020 đạt 1,2
tỷ USD/năm. Trong đó, đến năm 2010:
- Rau (200 ngàn tấn): 155 triệu USD
- Quả (430 ngàn tấn): 295 triệu USD
- Hồ tiêu (120 ngàn tấn): 250 triệu USD
Mặc dù Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu rau, quả nhiệt đới, và nhu cầu
nhập khẩu mặt hàng này trên thế giới hầu như không bị hạn chế dù yêu cầu về
vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng cao hơn trước, song xuất khẩu của ta
vẫn còn những yếu điểm như: sản xuất phân tán, năng suất thấp, chưa giải
quyết dứt điểm được khâu tạo giống, thu hoạch, bảo quản và chế biến rau quả
xuất khẩu cũng như khâu kiểm dịch và công nhận lẫn nhau giữa ta và các thị
trường nhập khẩu.
Về thị trường xuất khẩu, ngoài thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc, trong thời gian tới chúng ta cần hướng tới các thị trường khác
để đa dạng hoá tránh lệ thuộc trong xuất khẩu như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên
Bang Nga, EU… Các thị trường mục tiêu được lựa chọn dựa trên cơ sở sau
đây:
Trung Quốc: nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng 680 triệu
USD/năm, xuất khẩu của Việt Nam năm 2005 vào Trung Quốc chiếm 5,1%
kim ngạch nhập khẩu của nước này, phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ này lên
khoảng 15% (đạt kim ngạch trên 100 triệu USD).
Đài Loan: nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng 270 triệu
USD/năm, xuất khẩu của Việt Nam năm 2005 vào Đài Loan chiếm 9,3% kim
ngạch nhập khẩu của nước này, phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ này lên trên
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 49
Page 53
Đề án kinh tế thương mại
18% (đạt kim ngạch trên 50 triệu USD).
Nhật Bản: nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng gần 6 tỷ
USD/năm, xuất khẩu của Việt Nam năm 2005 vào Nhật Bản chỉ chiếm 0,5%
kim ngạch nhập khẩu của nước này, phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ này lên 2%
(đạt kim ngạch trên 120 triệu USD).
3.2. Dự báo về thị trường rau quả của thế giới và của Đài Loan
trong thời gian tới
Theo dự báo của Tổ chức Nông – lương thế giới (FAO), nhu cầu tiêu thụ
rau quả trên thị trường thế giới hàng năm tăng khoảng 3,6%, trong khi đó thì
khả năng tăng trưởng sản xuất chỉ là 2,6% nên trên thế giới đối mặt hàng rau
quả vẫn luôn ở tình trạng cung không đủ cầu, dễ tiêu thụ và giá cả luôn trong
tình trạng tăng. Những nước có nền công nghiệp phát triển thì nhu cầu nhập
khẩu rau lại càng tăng, đời sống càng được nâng cao thì nhu cầu đối với các
loại rau quả tươi lại càng tăng. Có thể khẳng định rằng thị trường thế giới đối
với rau quả là rất có triển vọng.
Thông thường, xuất khẩu các loại nông sản chế biến được coi là có lợi
hơn cho quốc gia so với nông sản chưa qua chế biến vì nó làm tăng giá trị gia
tăng của sản phẩm và lợi nhuận xuất khẩu. Tuy nhiên, về phương diện này, thị
trường rau qủa khá khác biệt so với nhiều loại nông sản khác.
Rau: Theo dự báo của Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), do tác động của
các yếu tố như sự thay đổi cơ cấu dân số, thị hiếu tiêu dùng và thu nhập dân
cư… tiêu thụ nhiều loại rau sẽ tăng mạnh trong giai đoạn 2000-2010, đặc biệt
là các loại rau ăn lá. Theo USDA, nếu như nhu cầu tiêu thụ rau diếp và các
loại rau xanh khác sẽ tăng khoảng 22-23% thì tiêu thụ khoai tây và các loại
rau củ khác sẽ chỉ tăng khoảng 7-8%. Giá rau tươi các loại sẽ tiếp tục tăng
cùng với tốc độ tăng nhu cầu tiêu thụ nhưng giá rau chế biến sẽ chỉ tăng nhẹ,
thậm chí giá khoai tây có thể sẽ giảm nhẹ so với giai đoạn 2000-2004.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 50
Page 54
Đề án kinh tế thương mại
Nhu cầu nhập khẩu rau dự báo sẽ tăng khoảng 1,8%/năm. Các nước phát
triển như Pháp, Đức, Canada, Mỹ … vẫn là những nước nhập khẩu rau chủ
yếu. Trong khi các nước đang phát triển, đặc biệt là Trung Quốc, Thái Lan và
các nước Nam bán cầu vẫn đóng vai trò chính cung cấp các loại rau tươi trái
vụ.
Quả nhiệt đới: Nhu cầu về quả nhiệt đới sẽ tăng trưởng nhanh trong giai
đoạn dự báo với tốc độ tăng trưởng 8%. Nhập khẩu toàn cầu sẽ đạt 4,3 triệu
tấn năm 2010, trong đó 87% (3,8 triệu tấn) được nhập khẩu là nhu cầu nhập
khẩu của các nước phát triển. Hai khu vực EU và Hoa Kỳ chiếm 70% tổng
nhập khẩu quả nhiệt đới toàn cầu. EU vẫn là khu vực nhập khẩu quả nhiệt đới
lớn nhất thế giới với Pháp là thị trường tiêu thụ chính và Hà Lan là thị trường
trung chuyển lớn nhất châu Âu. Ngoài Hoa Kỳ và EU, Nhật Bản, Canada và
Hồng Kông cũng là những thị trường nhập khẩu quả nhiệt đới lớn.
Quả có múi: Sản xuất tăng nhanh trong khi nhu cầu tăng trưởng chậm đã
gây sức ép lên giá cả các loại quả có múi tươi cũng như chế biến, làm giảm
các diện tích trồng mới trong thời gian qua. Vì vậy, tốc độ tăng sản lượng vẫn
sẽ ở mức thấp trong thời gian tới. Sao Paolo của Brazil và Florida của Mỹ vẫn
là những khu vực cung cấp quả có múi lớn nhất thế giới.
Chuối: Nhập khẩu chuối toàn cầu dự báo sẽ đạt 14,3 triệu tấn năm 2010,
thấp hơn 4% so với tổng lượng xuất khẩu chuối do những hao hụt trong quá
trình vận chuyển. Nhập khẩu chuối vào các nước đang phát triển và đang
chuyển đổi sẽ tăng mạnh hơn ở các nước phát triển, đưa tỉ trọng của các nước
này trong tổng lượng nhập khẩu toàn cầu từ 25% hiện nay lên gần 50% vào
năm 2010.
Nhập khẩu chuối của các nước phát triển dự báo sẽ tăng 1-2%/năm trong
những năm tới, trong đó Canada và Hoa Kỳ đóng góp tới 80% mức tăng
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 51
Page 55
Đề án kinh tế thương mại
trưởng nhập khẩu này tuy EU vẫn là khu vực nhập khẩu chuối chủ yếu.
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu rau quả sang
thị trường Đài Loan
3.3.1. Giải pháp liên quan đến nguồn hàng
Giống cây ăn trái của Việt Nam mới chỉ dừng ở mức độ khai thác các
giống đã có sẵn chứ chưa đầu tư thích đáng cho việc phát triển cũng như bảo
quản những giống mới có chất lượng cao, phù hợp thị hiếu của các thị trường
khác nhau. Hầu hết các cơ sở giống đều thiếu hẳn vườn cây đầu dòng hoặc
không có vườn cung cấp mắt ghép được nhân từ cây đầu dòng được xác nhận.
Đối với giống cây có múi sạch bệnh được sản xuất trong nhà lưới mỗi năm
cũng chỉ khoảng 500.000 cây/năm trong khi đó nhu cầu cần đến 4 đến 5 triệu
cây giống mỗi năm và giá bán lại cao (12.000đ đến 15.000đ/cây), do đó nhà
vườn khó mua được giống tốt.
Về phát triển giống cây trồng: Đối với phát triển kinh tế nông nghiệp nói
chung, ngành hàng rau quả nói riêng, một trong những hướng tác động chủ
yếu của khoa học và công nghệ là ứng dụng công nghệ sinh học trong phát
triển các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và sức chống
chịu bệnh cao, không thoái hoá, không làm tổn hại đến đa dạng sinh học...
Đứng trước yêu cầu cấp thiết nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả
sản xuất nông nghiệp đồng thời tăng thu nhập cho nông. Các doanh nghiệp
cần đặt mục tiêu đến năm 2010: Nâng tỷ lệ sử dụng giống tiến bộ kỹ thuật
trong sản xuất lên trên 70% để phục vụ xuất khẩu, thay thế nhập khẩu nông
sản. Nâng cao năng lực chọn tạo giống, áp dụng công nghệ sản xuất giống để
tạo ra nhiều giống mới có đặc tính tốt, năng suất và chất lượng cao. Khuyến
khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào nghiên cứu, chọn tạo, sản xuất giống
nhằm hoàn thiện hệ thống sản xuất và cung ứng giống theo hướng hiện đại
hóa và phù hợp với kinh tế thị trường.
Để thực hiện mục tiêu đưa sản lượng trái cây lên 9 triệu tấn và kim ngạch
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 52
Page 56
Đề án kinh tế thương mại
xuất khẩu đạt 350 triệu USD vào năm 2010, thì phải quy hoạch vùng sản xuất
cây ăn trái tập trung an toàn theo hướng GAP (sản xuất nông nghiệp tốt) và
ứng dụng công nghệ sau thu hoạch tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường trong và ngoài nước; xây dựng
thương hiệu trên cơ sở đảm bảo chất lượng, khối lượng và uy tín về bao bì,
nhãn hiệu, dịch vụ giao hàng; xây dựng chiến lược phát triển thị trường trong
nước làm cơ sở cho xuất khẩu; đồng thời tăng cường quảng bá trái cây Việt
Nam và xúc tiến thương mại.
Phát triển cây ăn quả theo hướng xây dựng các vùng sản xuất tập trung
chuyên canh (qui mô phải đạt trên 1.000ha), tạo ra khối lượng sản xuất đủ
lớn, có chất lượng cao, đồng đều đáp ứng được yêu cầu của thị trường, trên cơ
sở phát huy lợi thế và tiềm năng của từng loại cây trồng ở từng vùng. Tập
trung phát triển 11 loại cây ăn quả có lợi thế cạnh tranh, trong đó có một số
loại cây chủ lực phục vụ xuất khẩu như: Cam sành, Thanh long, Xoài cát Hoà
Lộc, Bưởi Năm Roi, Vải, Vú sữa và Măng cụt. Mỗi tỉnh cần chọn từ 1 đến 2
hoặc 3 cây ăn quả có hội đủ các điều kiện phát triển sản xuất thành sản phẩm
hàng hoá chủ lực có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong bối cảnh hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới.
+ Cam sành: dự kiến quy hoạch phát triển cây cam sành tại vùng ĐBSCL
đến năm 2010 là 31 ngàn ha, đạt sản lượng 277,2 ngàn tấn; tập trung tại các
tỉnh Vĩnh Long (chủ yếu ở huyện Tam Bình và Trà Ôn), Bến tre (tập trung
chính ở huyện Chợ Lách, Mỏ Cày và Châu Thành), Tiền Giang (chủ yếu ở
huyện Cái Bè và Cai Lậy), Hậu Giang và Cần Thơ.
+ Thanh Long: Quy hoạch phát triển thanh long tại 3 tỉnh vùng Đông nam
bộ và ĐBSCL là Bình Thuận, Tiền Giang và Long An. Dự kiến đến năm 2010
diện tích Thanh long ở 2 vùng này đạt 14,3 ngàn ha, cho sản lượng 236,5
ngàn tấn. Ngoài giống Thanh long vỏ đỏ ruột trắng hiện nay, cần chú ý phát
triển các giống mới như vỏ đỏ ruột đỏ; vỏ đỏ ruột tím và vỏ vàng ruột trắng
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 53
Page 57
Đề án kinh tế thương mại
nhằm đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng.
+ Bưởi Năm roi: Quy hoạch phát triển bưởi Năm roi đến 2010 là 15 ngàn
ha, đạt sản lượng 121,5 ngàn tấn; chủ yếu tại các tỉnh Vĩnh Long (tập trung
chính ở huyện Bình Minh và Trà Ôn) và tỉnh Hậu Giang (chủ yếu ở huyện
Châu Thành).
+ Xoài cát Hoà Lộc: Dự kiến đến 2010 có 9,0 ngàn ha xoài cát Hoà Lộc, cho
sản lượng xấp xỉ 40 ngàn tấn. Tập trung ở hai tỉnh Tiền Giang (trong đó chủ yếu
ở huyện Cái Bè) và tỉnh Đồng Tháp (tập trung chính ở huyện Cao Lãnh).
+ Sầu riêng: Quy hoạch vùng sầu riêng chủ lực tập trung tại vùng Đông
nam bộ, trong đó chủ yếu ở tỉnh Đồng Nai (tập trung chính tại các huyện Cẩm
Mỹ, Thị xã Long Khánh, Xuân Lộc…) và tỉnh Tây Ninh (chủ yếu tại các
huyện Hoà Thành, Tân Châu và Tân Biên). Ngoài ra, cũng có thể phát triển
tại một số tỉnh tại vùng ĐBSCL như Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long…Các
giống sầu riêng chất lượng cao như DONA, Chín Hoá, Ri 6 cần được chú
trọng phát triển. Dự kiến đến năm 2010 tổng diện tích sầu riêng cả nước đạt
gần 16 ngàn ha, cho sản lượng xấp xỉ 52 ngàn tấn.
+ Măng cụt: Dự kiến quy hoạch đến 2010 phát triển cây măng cụt tại một
số tỉnh vùng ĐBSCL và Đông nam bộ, đạt diện tích 11,3 ngàn ha, cho sản
lượng 24 ngàn tấn; Trong đó Bến Tre là tỉnh có diện tích măng cụt lớn nhất
(tập trung ở các huyện Chợ Lách, Châu Thành); Tiếp theo là Vĩnh Long (tập
trung ở huyện Vũng Liêm); Trà Vinh và Bình Dương (tại các huyện Thuận
An, Bến Cát và Dầu Tiếng).
+ Vải thiều: Hai vùng trồng vải tập trung sẽ là Thanh Hà - Hải Dương và
Lục Ngạn Bắc Giang. Dự kiến quy hoạch đến năm 2010 diện tích vải cả nước
đạt 90 ngàn ha, cho sản lượng 315 ngàn tấn; trong đó Bắc Giang đạt 36 ngàn
ha, cho sản lượng 177,5 ngàn tấn và vùng Hải Dương: 14,1 ngàn ha, đạt sản
lượng 70 ngàn tấn.
+ Về rau: cần xây dựng các trung tâm sản xuất giống rau. Chú trọng
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 54
Page 58
Đề án kinh tế thương mại
nghiên cứu cải tạo những giống rau có chất lượng tốt, cho năng suất cao. Chủ
động trong việc tự sản xuất những loại rau đã có sẵn để hạ giá thành. Trong
thời gian tới cần chú trọng đến những giống rau nhập từ nước ngoài về. Qui
hoạch các vùng chuyên sản xuất rau, một số nhà máy chế biến đặt tại những
vùng nguyên liệu. Về cơ cấu giống, cần chú ý phát triển các giống chín sớm
và chín muộn để nhằm hạn chế tác động của thị trường khi tập trung thu
hoạch lúc chính vụ, dẫn đến cung vượt quá cầu.
3.3.2. Giải pháp liên quan đến thị trường
Công tác dự báo thị trường, tổ chức thu thập và xử lý thông tin đã có
những tiến bộ đáng kể nhưng còn rời rạc, chậm về thời gian, thiếu hệ thống từ
cơ sở vật chất đến phương thức tổ chức, nghèo nàn về nội dung, chưa thực sự
trở thành một công cụ mạnh để chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất. Do thiếu thông
tin về thị trường nên người sản xuất rất lúng túng trong việc quyết định đầu tư
nên trồng cây gì? qui mô ra sao? để có hiệu quả. Thị trường chưa thực sự
hướng dẫn sản xuất, chưa có tác động tích cực đổi mới cơ cấu sản xuất hướng
theo nhu cầu của thị trường. Công tác tổ chức dự báo thị trường, thu thập xử
lý thông tin chậm về thời gian, mức độ, tin cậy không cao, trên thực tế chưa
trở thành công cụ mạnh hướng dẫn sản xuất.
Tầm vĩ mô, hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây
dựng và phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng các quan hệ
song phương và đa phương, tạo điều kiện xuất khẩu rau quả còn rất hạn chế,
thiếu chủ động. Hoạt động nghiên cứu tiếp thị thuộc các tổ chức kinh tế,
chuyên môn chậm phát triển, còn bị xem nhẹ, chưa tương xứng với yêu cầu
phát triển ngành rau quả nói chung, đẩy mạnh xuất khẩu rau quả nói riêng. Sự
yếu kém trong việc xác định hệ thống thị trường xuất khẩu chủ lực và những
mặt hàng rau quả xuất khẩu trọng điểm là một trong những nguyên nhân hạn
chế quá trình phát triển sản xuất - lưu thông - xuất khẩu rau quả.
Để sản xuất đạt hiệu quả cao cần đầu tư vào những lĩnh vực thị trường
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 55
Page 59
Đề án kinh tế thương mại
thực sự có nhu cầu. Người sản xuất đòi hỏi phải có nhu cầu thường xuyên về
thông tin thị trường tiêu thụ để có quyết định đầu tư sản xuất hợp lý. Tuy vậy,
người sản xuất không thể tự giải quyết vấn đề này cho mình, mà đòi hỏi có sự
hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp. Thị trường Đài
Loan rất đa dạng và năng động, có nhiều biến động trong tiêu dùng, vì vậy khi
thâm nhập vào thị trường Đài Loan nên có sự nghiên cứu kỹ lưỡng. Trước hết
chúng ta cần có một đội ngũ tiến hành nghiên cứu ngay trên đất nước Đài
Loan để nâng cao hiểu biết về các yêu cầu của thị trường, tập quán tiêu dùng,
Để hoạt động có hiệu quả hơn nữa cần chú trọng các thông tin về cung, cầu,
giá cả, khả năng cạnh tranh đối với những nhóm mặt hàng. Ngoài thị trường
này chúng ta cũng cần tập trung vào để mở rộng mối quan hệ với nhiều thị
trường khác nữa. Xây dựng các văn phòng đại diện ngay tại nước mà mình
xuất khẩu là điều nên thực hiện bởi vì đây chính là kí kết các hợp đồng cần
thiết cũng như nhận phản hồi từ khách hàng. Sau khi thu thập các thông tin
cần thiết và những dự báo cụ thể chúng ta sẽ dễ dàng đưa ra các chiến lược
kinh doanh phù hợp.
3.3.3. Hoàn thiện công nghệ chế biến và công tác bảo quản dự trữ
hàng hóa
Tại các nhà máy chế biến rau quả hiện nay của Việt Nam, các dây chuyền
hầu như đã rất cũ kĩ và lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới. Mà các yêu
cầu về chất lượng cũng như số lượng nhập khẩu ngày càng đòi hỏi cao hơn.
Nếu không đáp ứng được thì khả năng cạnh tranh của chúng ta sẽ bị giảm trên
thị trường thế gới. Việc nâng cấp các nhà máy chế biến, đổi mới trang thiết bị,
mở rộng qui mô sản xuất là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra trong thời gian
tới. Nếu không đủ điều kiện mua mới các thiết bị thì chúng ta sẽ nâng cấp các
thiết bị hiện có giúp cho việc chế biến rau quả nhanh chóng và tốt hơn.
Trên cơ sở quy hoạch vùng chuyên canh tập trung, vùng đã có sản phẩm
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 56
Page 60
Đề án kinh tế thương mại
phải được đầu tư cơ sở chế biến phù hợp giữa công suất chế biến với nguồn
nguyên liệu. Việc nhập khẩu thiết bị chế biến phải đảm bảo yêu cầu về công
nghệ tiên tiến và hiện đại phù hợp với yêu cầu của thị trường tiêu thụ, hạ giá
thành, nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng.
Hoàn thành đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến nước quả, đồ hộp ở
một số vùng, nghiên cứu đầu tư chế biến nước quả đối với một số quả đặc sản
có hương vị riêng của Việt Nam.
Trước mắt ở một số tỉnh đã trồng dứa như: Kiên Giang, Tiền Giang, Hà
Tĩnh, Ninh Bình (Đồng Giao), Bắc Giang và một số địa phương khác cần sớm
hoàn thành việc đầu tư xây dựng nhà máy chế biến mới hoặc đầu tư cải tạo,
đổi mới thiết bị đối với nhà máy hiện có để tiêu thụ hết dứa cho người trồng
dứa nhưng phải đảm bảo có thị trường tiêu thụ.
Rau quả là mặt hàng đòi hỏi rất cao trong việc bảo quản bởi vì nếu bảo
quản không tốt sẽ dẫn đến việc giảm chất lượng. Thời tiết và độ ẩm ảnh
hưởng không nhỏ tới việc bảo quản chất lượng, để giải quyết tốt vấn đề này
chúng ta cần lưu ý những điều sau:
- Nâng cao hệ thống công nghệ bảo quản khi vận chuyển: các công nghệ
về làm lạnh, công nghệ giữ độ ẩm, máy sấy hàng...Sử dụng các hệ thống vận
chuyển sao cho đến nơi giao hàng một cách nhanh nhất.
- Xây dựng hệ thống thu mua ngay tại gần với nơi sản xuất để tiết kiệm
được thời gian đưa về các nhà máy chế biến.
- Hiện nay đã có những phương pháp bảo quản sau khi thu hoạch mà ta
có thể áp dụng như: sử dụng công nghệ đông lạnh nhanh (IQF), sử dụng các
chế phẩm sinh học Inturina, các thiết bị lên men, ly tâm tách nước...
- Nhanh chóng áp dụng và thực hiện quy trình sản xuất bằng công nghệ
sạch (dùng phân vi sinh, thuốc vi sinh bảo vệ thực vật...). Công nghệ tưới tiêu,
công nghệ bảo quản, chế biến tiên tiến, hiện đại để trong thời gian ngắn công
nghệ sản xuất, bảo quản, chế biến rau quả của Việt Nam sánh kịp các nước
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 57
Page 61
Đề án kinh tế thương mại
trong khu vực.
3.4. Một số kiến nghị đối với nhà nước
3.4.4. Định hướng quy hoạch vùng sản xuất
Bộ Nông nghệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát lại quy hoạch sản xuất, bố trí lại
cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu của từng vùng; gắn
phát triển vùng nguyên liệu với cơ sở chế biến; sản phẩm sản xuất ra phải
xuất phát từ nhu cầu thị trường (trong nước và xuất khẩu) để quy hoạch, xây
dựng kế hoạch sản xuất từng loại sản phẩm, không để nông dân sản xuất tự
phát dẫn đến tình trạng khi thừa, khi thiếu gây thiệt hại cho người sản xuất và
người tiêu dùng. Trước mắt, tập trung đầu tư cải tạo vườn tạp, xây dựng vùng
chuyên canh tập trung, thâm canh một số cây trồng có lợi thế, có khả năng
cạnh tranh được ở trong nước và ngoài nước như: dứa, chuối, nhãn, vải, xoài,
cây có múi, thanh long, rau cao cấp, măng tây, hồ tiêu...
3.4.5. Thị trường
Bộ Thương mại cần chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trình
Thủ tướng Chính phủ biện pháp hỗ trợ xuất khẩu rau, quả vào các thị trường
lớn và mới trong đó có Mỹ, Nga, Nhật Bản, Đài Loan... nhằm giải quyết ổn
định đầu ra cho sản xuất rau, quả trước mắt và lâu dài. Tạo điều kiện và hỗ trợ
các doanh nghiệp về kinh phí tham gia hội chợ, triển lãm quốc tế, tiếp thị để
tìm kiếm thị trường.
3.4.6. Khoa học và công nghệ
Cần phải có các bộ giống tốt có năng suất cao để thay thế giống năng suất
thấp, chất lượng kém hiện nay theo hướng: tuyển chọn giống sẵn có, nhập
khẩu, lai tạo những giống mới năng suất cao, chất lượng tốt.
Bộ Nông nghệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo Viện nghiên cứu rau quả,
Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam giúp các tỉnh về kỹ thuật để các tỉnh
đều có vườn giống đầu dòng nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp và nhân dân
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 58
Page 62
Đề án kinh tế thương mại
lai ghép, tạo giống tốt cung cấp cho nhu cầu của người trồng rau, quả. Trên cở
sở sắp xếp lại hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học của Bộ, cần có kế
hoạch đầu tư Viện nghiên cứu rau quả thuộc Tổng công ty rau quả Việt Nam
hiện nay cùng với Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam trở thành các Viện
nghiên cứu cùng về rau, quả.
3.4.7. Đầu tư và tín dụng
- Vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho các công việc: Nghiên cứu khoa
học và công nghệ; nhập khẩu, tạo giống đầu dòng; khuyến nông, chuyển giao
tiến bộ kỹ thuật mới về cây rau, quả đào tạo cán bộ.
- Vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch được thực hiện đối với các dự án cải
tạo đổi mới công nghệ, thiết bị và đầu tư mới cho chế biến; trồng cây ăn quả
theo các dự án.
- Vốn tín dụng ngân hàng: bảo đảm vốn cho nhu cầu của người trồng rau, quả.
- Vốn thuộc Chương trình giải quyết việc làm, vốn Ngân hàng phục vụ
người nghèo, nếu thuộc vùng khó khăn. Khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển rau, quả, nhất là mô hình kinh tế trang trại gia đình, trang trại tư
nhân đầu tư trồng rau, quả và công nghiệp chế biến.
3.4.8. Đào tạo cán bộ và huấn luyện kỹ thuật
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng cường hơn nữa công tác
khuyến nông, khuyến lâm đề huấn luyện nông dân về kỹ thuật trồng trọt cây
rau, quả nhất là hướng dẫn việc áp dụng công nghệ sạch, không sử dụng hoá
chất thuốc trừ sâu độc hại trong sản xuất rau, quả, phát huy vai trò tích cực
của kinh tế hợp tác và hợp tác xã về phòng trừ sâu bệnh.
Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật,
trước hết là giám đốc các doanh nghiệp để nâng cao kiến thức về kỹ thuật và
quản lý sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học, kỹ thuật, công
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 59
Page 63
Đề án kinh tế thương mại
nghệ và đào tạo cán bộ.
3.4.9. Về vệ sinh an toàn thực phẩm
Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm trong những năm gần đây rất đáng
lo ngại. Đặc biệt, trong sản xuất rau quả, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật,
sử dụng chất bảo quản không đúng quy định hoặc cấm lưu hành trên thị
trường đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sức khoẻ
người tiêu dùng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh an toàn
thực phẩm đến nay về cơ bản đã hoàn thành, tuy nhiên việc xây dựng hệ
thống tiêu chuẩn còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của
công tác quản lý và và các tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước về vệ sinh an toàn còn yếu, phân tán, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các
bộ và ngành.
Nhà nước cần cam kết có chính sách và biện pháp để bảo đảm vệ sinh an
toàn thực phẩm như: Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch về vệ sinh an toàn thực phẩm. Tổ chức công tác thông
tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm
pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh thực phẩm áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên
tiến nhằm bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo đúng tiêu chuẩn quốc tế...
Người sản xuất, kinh doanh nông sản, thực phẩm phải chịu trách nhiệm đối
với sản phẩm do mình sản xuất, kinh doanh, không được có các hành vi trái
với quy định của pháp luật trong việc sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản,
vận chuyển, kinh doanh thực phẩm...
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 60
Page 64
Đề án kinh tế thương mại
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 61
Page 65
Đề án kinh tế thương mại
KẾT LUẬN
Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển kinh tế, thương mại quốc tế
là một bộ phận không thể thiếu được trong quá trình hội nhập và nó vai trò
quan trọng đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Việc đẩy mạnh giao lưu với
các nước và thúc đẩy xuất khẩu là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của
Việt Nam. Với những lợi thế hết sức thuận lợi về phát triển và xuất khẩu
các loại rau quả Việt Nam đã đáp ứng phần nào nhu cầu tiêu thụ của một số
quốc gia trên thế giới. So với nhiều ngành sản xuất khác thì rau quả chưa
phải là ngành đem lại kim ngạch lớn nhất cho đất nước nhưng cũng không
thể không thấy rõ lợi ích của nó trong nền kinh tế. Đài Loan là nước có nền
nông nghiệp ít phát triển, vì vậy nên nhu cầu xuất khẩu rau quả tương đối
lớn. Chúng ta đã nhanh chóng xác định đây là thị trường truyền thống đồng
thời cũng là thị trường đầy tiềm năng của ngành rau quả. Việt Nam đã có
rất nhiều hoạt động để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này, tuy nhiên
nếu so sánh với các thị trường khác thì Đài Loan vẫn còn khá nhỏ bé so với
tiềm năng có thể khai thác. Bởi vì trong thời gian tới Việt Nam cần cần xác
định phương hướng phát triển cho thị trường Đài Loan đồng thời thực hiện
các giải pháp cần thiết đồng bộ để có thể cạnh tranh với những quốc gia
khác. Nhà nước, các bộ, các cơ quan ngang bộ cần có sự hợp tác tích cực
để đưa ra giải đúng đắn để xuất khẩu rau quả mang lại nhiều lợi nhuận cho
các doanh nghiệp cũng như tăng kim ngạch cho quốc gia.
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 62
Page 66
Đề án kinh tế thương mại
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại - PGS.TS: Hoàng Minh
Đường, PGS.TS: Nguyễn Thừa Lộc ( Đồng chủ biên), NXB Lao động
xã hội, Hà Nội, 2006.
2. Giáo trình Kinh tế thương mại – GS-TS Đặng Đình Đào, GS-TS Hoàng
Đức Thân, NXB Thống kê, 2003.
3. Vai trò của Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất
khẩu - Tạp chí ngoại thương tháng 1/2004 GSTSKH Tào Hữu Phùng.
4. Chuyên mục bàn tròn (2004) - xuất, chế biến rau quả _ Thời báo kinh
tế Việt Nam số 90 ngày 5/6/2002.
5. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn - 5/2004 _ Công văn gửi thủ
tướng chính phủ “Báo cáo kết quả triển khai thực hiện chương trình
phát triển rau, quả, hoa, cây cảnh thời kỳ 1999 – 2010.
6. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (2006). Đề án chiến lược phát
triển thị trường nông sản đến năm 2010. Hà Nội
7. Thị trường rau quả xuất khẩu. Nguyễn thành Nam - NXB Thống kê
2003.
8. Thị trường nông sản (2006) “ Thách thức cho trái cây Việt ”.
9. Viện kinh tế nông nghiệp (2005) - Báo cáo khoa học “Khả năng cạnh
tranh nông sản Việt Nam trong hội nhập AFTA”.
10.Một số luận văn khác.
11.Một số bài viết trên trang web.
www.rauhoaqua.vn
www.mot.gov.vn
Đào Thị Thanh Thủy - QTKD Thương Mại 47B 63