QUẺ DỊCH XÉT NHƯ LÀ SỐ ĐẾM Tác giả: Nguyễn Hiền Quan Ảnh bìa: Goldfish Thực hiện eBook: Goldfish Ngày hoàn thành: 24/06/2012 MỤC LỤC Các ký hiệu và qui ước Mã hóa nhị phân (binary) (二進制) Mã hóa t ứ phân (quaternary) (四進制) Mã hóa bát phân (octal) (八進制)
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
QUẺ DỊCH XÉT NHƯ LÀ SỐ ĐẾM Tác giả: Nguyễn Hiền Quan
Ảnh bìa: Goldfish Thực hiện eBook: Goldfish
Ngày hoàn thành: 24/06/2012
MỤC LỤC Các ký hiệu và qui ước Mã hóa nhị phân (binary) (二進制) Mã hóa tứ phân (quaternary) (四進制) Mã hóa bát phân (octal) (八進制)
Phục Hi (伏羲) (2953-2838 B.C.) đã tạo ra và đặt tên1 quẻ dịch; mỗi quẻ dịch có tượng (hình ảnh) là sáu vạch (hoặc vạch liền , hoăc vạch đứt ) chồng lên nhau (hexagram). Như vậy có tất cả 64 quẻ dùng để gán cho hàng loạt các nhóm đối tượng có cùng bản chất. Trong một số ứng dụng tên quẻ không hoàn toàn tương thích với thuộc tính bản chất của đối tượng2. Đã có nhiều công trình nhằm mã hóa các quẻ dịch theo số đếm cơ số 10, cơ số 8, cơ số 4, hay cơ số 2; cách tân này trong nhiều phương diện đã mang lại sự tươi trẻ cho Kinh Dịch.
Các ký hiệu và qui ước Qui ước dưới đây hoàn toàn là chủ quan: Số thứ tự của quẻ trong Kinh Dịch3 truyền thống (còn gọi là “theo thứ tự Văn
Vương” hay Kinh Dịch thông hành) được viết bằng hai chữ số đậm nét, tên kèm theo số này không viết hoa. Thí dụ 03 truân
Số mã hóa quẻ theo cơ số 10 thường không ghi kèm cơ số; thậm chí, nếu không có nguy cơ nhầm lẫn, các dấu cơ số khác hơn 10 cũng được giản lược
Mỗi vạch trong quẻ gọi là hào, quẻ là xâu sáu hào chồng lên nhau (hình 1); dĩ nhiên phải đặt hào phía dưới trước thì mới chồng tiếp nữa, do đó khi mã hóa quẻ phải đọc từ dưới lên.
Dãy quẻ xếp trên vòng tròn thì thì đọc từ trong ra (ly tâm).
Phép gán nhị phân (ký hiệu là ) o hào có ký số nhị phân (binary digit) là 0 o hào có ký số nhị phân là 1
Hình 1
23 bác (剝) 000001
1 Thuật ngữ “đặt tên”: đồng nghĩa với thuật ngữ ngày nay là mã hóa 2 Đây có thể là lý do mà Kinh Dịch trở nên khó thâm nhập. Các nhà dịch học thường phải “huyễn hóa” Kinh Dịch bầng những cái gọi là “Hà Đồ”, “Lạc Thư” (vốn là ma phương (magic square) bình thường thuần túy toán học); lấy các con số ở Hà Đồ, Lạc Thư làm những số thần bí. 3 Cần phân biệt thuât ngữ Kinh Dịch, Dịch Truyện và Chu Dịch.
Kinh Dịch chỉ có hình tượng quẻ, lời quẻ (gua ci 卦辭) và lời hào (yao ci 爻辭). Dịch Truyện, còn gọi là Thập Dực, là mười quyển phụ chú sau Kinh Dịch (giống như văn bản “dưới
luật”? của ta ngày nay), đều là những lời giải thích lanh quanh Kinh Dịch. Người đời sau lồng ghép đan xen Kinh Dịch với Thoán từ (彖辭 tuan= judgments, tags, etc.), với Tượng
từ (象辭)[xiang = image, figure, emblem].) thành Chu Dịch; theo đó có thói quen xem “quái từ” đồng nhất với thoán từ, hào từ đồng nhất với tượng từ.
Mã hóa nhị phân (binary) (二進制) Phải đợi đến gần 4000 năm sau, Thiệu Ung (邵雍) (Shaoyong 1011-1077 CE) đời
Tống, dường như đã phôi thai cách mã hóa nhị phân các quẻ Dịch khi xếp chúng theo dãy 64 quẻ trên bảng vuông 8 8 hay trên vòng tròn (gọi là dãy Phục Hi hay dãy Tiên Thiên 先天方圆图)4.
Sáu thế kỷ sau đó, Gottfriend Wilhelm Leibniz (1646-1716 CE) mới mô tả số nhị phân, Jesuit Joachim Bouvet đã dùng số nhị phân giải thích dãy Phục Hi.
Quẻ xâu sáu hào chồng lên nhau (đọc từ dưới lên) được gán bằng xâu nhị phân sáu bit (đọc từ trái qua). (Hình 2)
ký số cực trái (left most digit) là bit có trọng số cao nhất (most significant digit).
Hào sơ được xem là hào có trọng số lớn nhất
Hình 2. Mã hóa nhị phân quẻ 57.tốn (巽)
Có thể mở rộng phép gán (⇌) nêu trên cho lưỡng nghi (hai vạch: và ), và tứ tượng ( , , ,và )5. Bảng 1 mô tả số nhị phân (ký số) của lưỡng nghi và tứ tượng.
Bảng 1
Lưỡng Nghi( ) monogram Tứ Tượng( ) bigram
âm
dương
thái âm
thiếu
dương
thiếu âm
thái dương
陰 陽 太陰 少陽 少陰 太陽
0 1 00 01 10 11
4 Chữ 方 phương vừa có nghĩa là vuông nhưng cũng có nghĩa là phương hướng (đông, tây, nam, bắc . . .) 5 Trong Kinh Dịch (theo nghĩa4)) không hề thấy xuất hiện các thuật ngữ nầy, ngoại trừ 陰 chỉ xuất hiện trong quẻ Quẻ 61 trung phu, mà lại nằm trong lời hào (tỷ lệ 1/5297). Như vậy, do vậy mà cái nào gọi là thiếu âm, cái nào gọi là thiếu dương đến nay vẫn còn bỏ ngõ. Ghi nhận là trong “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử (老子) âm và dương chỉ xuất hiện duy nhất trong câu 42 (1/81 câu hay xấp xĩ 1/6000 từ). Dẫu sao, Kinh Dịch vẫn còn đó, các khái niệm qui ước nầy nhất thiết phải mang ý nghĩa xác định.
Mã hóa tứ phân (quaternary) (四進制)
Năm 1973, Martin Schœnberger dựa trên giả thiết của nhà sinh học phân tử Gunther S.Stent vế sự tương đồng giữa các 64 quẻ Kinh Dịch với 64 codon (mã di truyền) của 20 acide amin, Schœnberger đã mã hóa tứ phân theo tượng (tượng1: nhân; tượng2: địa; tượng3: thiên): bằng số tứ phân (ternary digit).
Quẻ là ba tượng chồng lên nhau (hình 3); đọc từ dưới lên.
Mỗi tượng là một trong bốn bigram ( , , , ).
Phép gán tứ phân (cũng ký hiệu là ) o tượng có ký số tứ phân là 0 o tượng có ký số tứ phân là 1 [vì ( 2 4(01) (1) )]
o tượng có ký số tứ phân là 2 [vì ( 2 4(10) (2) )]
o tượng có ký số tứ phân là 3 [vì ( 2 4(11) (3) )]
Hình 3
32 hằng (恆) 4(030)
Bây giờ, nếu ta biến các hào của quẻ 32 (hào thành , còn thành ) thì dễ thấy quẻ đó có số tứ phân là 2 4 10(110011) (303) (51) 61 trung phu. Quẻ 32 và quẻ 61 gọi là hai quẻ bù nhau (“Inlaid hexagrams” 错卦 cuogua, hay “Complementary hexagrams”旁通卦 pangtonggua).
Hình 4 minh họa cho cách mã hóa quẻ 57.tốn (巽), so sánh với hình 2 sẽ thấy hình vẽ thông thoáng hơn.
, , , , , , ,
Mã hóa bát phân (octal) (八進制) Quẻ kinh dịch được mã hóa nhị phân (Binary) bằng các hào âm (gán cho số 0 ) hào dương (gán cho số 1) và đọc từ dưới lên – hào sơ, hào nhị, … cho tới hào thượng –; thí dụ quẻ có thứ tự 23 sơn địa bác (剝 bō) (thứ tự khác với mã số)
Đọc theo nhị phân là 000001 với
ký số tận cùng bên phải – ở đây là 1 – có trọng số bé nhất 02 ; ký số tận cùng bên trái – ở đây là 0 – có trọng số lớn nhất 52
Theo đó quẻ Bác mã thập phân là 1001
Cũng có thể mã hóa tứ phân (Quaternary) bằng tứ tượng xét như là kết hợp của hai hào, còn quẻ là kết hợp theo thứ tự từ dưới lên của ba tượng. Hệ thống số là hệ cơ số 4 (radix 4)
Ký hiệu (hình vẽ) Tên Trung Quốc
太陰 少陽 少陰 太陽
Tên Việt Nam?! Thái Âm Thiếu âm? Thiếu dương? Thái dương
Ký số 0 1 2 3
Thí dụ quẻ có thứ tự 32 lôi phong hằng (恆 héng) 2 4 10001100 030 12
Đọc theo tứ phân là 030 với
ký số tận cùng bên phải – biểu diễn tượng 3 – có trọng số 04 ; ký số giữa “số 3” – biểu diễn tượng 2 – có trọng số 14
Mã thập phân quẻ Hằng 2 1 010
0 4 3 4 0 4 12
Mã hóa tứ phân các quẻ kinh dịch dùng hệ cơ số 4 tiện dụng trong việc so sánh giữa 64-quẻ với hệ các DNA cơ bản. Dường như người thời cổ đã sáng tạo cách biểu diễn 64-quẻ như hệ cơ số 8 bằng hình tượng : quẻ sáu hào xếp thứ tự được xem như hai quái xếp thứ tự lên nhau, mỗi quái gồm ba hào cũng xếp thứ tự; quái dưới gọi là nội quái, quái trên gọi là ngoại quái . Biểu diễn theo con số người ta sử dụng ký số bát phân (octal) 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6 ,7 tương ứng với bát quái như sau:
卦像
卦名 坤 艮 坎 巽 震 離 兌 乾
自然 地 山 水 風 雷 火 澤 天
家族 母 少男 中男 長女 長男 中女 少女 父
性情 順 止 陷 入 動 麗 悅 健
方位 西南 東北 北 東南 東 南 西 西北
八進制 0 1 2 3 4 5 6 7
Ghi chú: Các quẻ nếu gọi tên theo bát quái thì quái trên được gọi trước (thí dụ quẻ 23 đọc là sơn địa Bác); cách gọi này chỉ để gợi nhớ. Còn khi phân tích, vận dụng, … người ta luôn đọc các hào từ dưới lên trên