Vietnam Chartbook A comprehensive guide to Vietnam’s economy Sep 2018 Retail Research Lo ngại tăng trưởng giảm dần đều gần như đã được loại trừ nhờ kết quả của quý 3 đã tích cực hơn. Tuy vậy, những thách thức với các cân đối vĩ mô đang gia tăng. Làn sóng bảo hộ và chiến tranh thương mại đã có những tác động rõ rệt hơn đến hoạt động sản xuất theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực trong khi thị trường tài chính, tiền tệ phải chịu sức ép nhiều hơn từ các yếu tố bên ngoài. Mục tiêu kiểm soát lạm phát, tỷ giá gặp nhiều thách thức hơn hẳn các năm trước. Bù lại, tài khóa ổn định giúp tỷ lệ thâm hụt xuống mức thấp nhất 7 năm. Thực thi chính sách tiền tệ thận trọng, kết hợp khơi thông nguồn vốn ngân sách để thúc đẩy sức cầu nội địa trong bối cảnh rủi ro bên ngoài ra tăng là cần thiết. Bên cạnh đó Việt nam cũng hoàn toàn có khả năng để cần tận dụng cơ hội nảy sinh từ các căng thẳng thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút FDI. 1. GDP quý 3 tăng +6.88% YoY, cao hơn mức tăng +6.73% của quý 2. Đóng góp cho sự cải thiện của quý 3 là lĩnh vực Công nghiệp và Xây dựng với mức tăng trưởng +8.61% (quý 2 tăng +8.4%). Nông, Lâm nghiệp, Thủy sản và Dịch vụ trong quý 3 đều giảm tốc. Chính sách đúng đắn và cả may mắn đã giúp tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong quý 3 không sụt giảm mạnh theo đà sụt giảm của điện thoại như đã xảy ra trong quý 2. 2. Chỉ số PMI tháng 9 giảm xuống mức thấp nhất 10 tháng. Xu hướng giảm tốc nhanh của chỉ số PMI bắt đầu từ tháng 6, thời điểm nổ ra chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. 3. CPI 9 tháng tăng +3.2% so với cuối năm 2017, mức cao nhất 5 năm. Trong các tác nhân có thể làm lạm phát tăng cao trong quý 4, Lương thực và Năng lượng (xăng, dầu, gas) là 2 nhóm mặt hàng cần phải quan tâm nhiều nhất. 4. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng tốc trong quý 3/2018 với mức tăng +12.5% YoY, cao nhất trong vòng 4 quý. Động lực chính đằng sau sự tăng tốc này là nguồn vốn tư nhân duy trì mức tăng trưởng cao, +18.8% và nguồn vốn ngân sách nhà nước tăng +14.9% YoY, gấp đôi trung bình 2 quý đầu năm. 5. Tổng thu ngân sách 9 tháng đạt 962 nghìn tỷ, tăng +13.7% YoY và tổng chi là 989 nghìn tỷ, tăng +9.8%. Bội chi ngân sách 9 tháng là 26.7 nghìn tỷ, giảm hơn một nửa so với cùng kỳ 2017 và mới chỉ bằng 0.73% GDP trong khi cùng kỳ 3 năm liền trước đều trên 3%. 6. Xuất nhập khẩu tháng 9 giảm mạnh sau khi đạt kỷ lục trong tháng 8. Tổng giá trị thương mại hai chiều giảm -9.2% so với tháng 8 và chỉ tăng +8.1% YoY, kéo tăng trưởng 9 tháng xuống mức +13.7%, thấp hơn nhiều mức tăng +21.2% của năm 2017 và đây là tốc độ tăng thấp thứ hai trong 20 tháng trở lại đây (chỉ cao hơn tháng 6/2018). Hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu cùng yếu đi, trong đó, nhập khẩu tăng thấp là nguyên nhân chủ yếu kéo giảm tăng trưởng chung. 7. Thị trường tiền tệ có nhiều biến động trong quý 3 xuất phát từ sự lên giá của đồng USD. Chính sách tiền tệ đã được vận hành linh hoạt và bao quanh vấn đề chính là kiểm soát tỷ giá. Thanh khoản ngân hàng được chủ động giảm bớt đẩy lãi suất tăng đã giúp ổn định đồng VND. Tín dụng tăng chậm hơn các năm trước nhưng tốc độ tăng trưởng GDP vẫn ở mức cao là một dấu mốc quan trọng để có hướng đi mới trong kiểm soát tín dụng. 8. Thị trường chứng khoán quý 3 đã giao dịch cân bằng hơn và VNIndex đã có lúc lên lại trên 1000 điểm. Sự thay đổi chiến lược đầu tư do lãi suất tăng và chiến tranh thương mại đang khiến các nhà đầu tư nước ngoài gia tăng bán ròng ở cả thị trường cổ phiếu lẫn trái phiếu, gây áp lực lên giá tài sản của Việt nam. Nguyễn Đức Hùng Linh Giám đốc [email protected]Lê Huyền Trang Chuyên viên [email protected]
24
Embed
Vietnam Chartbook · vốn tư nhân duy trì mức tăng trưởng cao, +18.8% và nguồn vốn ngân sách nhà nước tăng +14.9% YoY, gấp đôi trung bình 2 quý đầu
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Vietnam Chartbook A comprehensive guide to Vietnam’s economy
Sep 2018
Retail Research
Lo ngại tăng trưởng giảm dần đều gần như đã được loại trừ nhờ kết quả của quý 3 đã
tích cực hơn. Tuy vậy, những thách thức với các cân đối vĩ mô đang gia tăng. Làn sóng
bảo hộ và chiến tranh thương mại đã có những tác động rõ rệt hơn đến hoạt động sản
xuất theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực trong khi thị trường tài chính, tiền tệ phải
chịu sức ép nhiều hơn từ các yếu tố bên ngoài.
Mục tiêu kiểm soát lạm phát, tỷ giá gặp nhiều thách thức hơn hẳn các năm trước. Bù lại,
tài khóa ổn định giúp tỷ lệ thâm hụt xuống mức thấp nhất 7 năm.
Thực thi chính sách tiền tệ thận trọng, kết hợp khơi thông nguồn vốn ngân sách để thúc
đẩy sức cầu nội địa trong bối cảnh rủi ro bên ngoài ra tăng là cần thiết. Bên cạnh đó Việt
nam cũng hoàn toàn có khả năng để cần tận dụng cơ hội nảy sinh từ các căng thẳng
thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút FDI.
1. GDP quý 3 tăng +6.88% YoY, cao hơn mức tăng +6.73% của quý 2. Đóng góp cho
sự cải thiện của quý 3 là lĩnh vực Công nghiệp và Xây dựng với mức tăng trưởng
+8.61% (quý 2 tăng +8.4%). Nông, Lâm nghiệp, Thủy sản và Dịch vụ trong quý 3
đều giảm tốc. Chính sách đúng đắn và cả may mắn đã giúp tăng trưởng của ngành
công nghiệp chế biến chế tạo trong quý 3 không sụt giảm mạnh theo đà sụt giảm
của điện thoại như đã xảy ra trong quý 2.
2. Chỉ số PMI tháng 9 giảm xuống mức thấp nhất 10 tháng. Xu hướng giảm tốc nhanh
của chỉ số PMI bắt đầu từ tháng 6, thời điểm nổ ra chiến tranh thương mại Mỹ -
Trung.
3. CPI 9 tháng tăng +3.2% so với cuối năm 2017, mức cao nhất 5 năm. Trong các tác
nhân có thể làm lạm phát tăng cao trong quý 4, Lương thực và Năng lượng (xăng,
dầu, gas) là 2 nhóm mặt hàng cần phải quan tâm nhiều nhất.
4. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng tốc trong quý 3/2018 với mức tăng +12.5%
YoY, cao nhất trong vòng 4 quý. Động lực chính đằng sau sự tăng tốc này là nguồn
vốn tư nhân duy trì mức tăng trưởng cao, +18.8% và nguồn vốn ngân sách nhà
nước tăng +14.9% YoY, gấp đôi trung bình 2 quý đầu năm.
5. Tổng thu ngân sách 9 tháng đạt 962 nghìn tỷ, tăng +13.7% YoY và tổng chi là 989
nghìn tỷ, tăng +9.8%. Bội chi ngân sách 9 tháng là 26.7 nghìn tỷ, giảm hơn một nửa
so với cùng kỳ 2017 và mới chỉ bằng 0.73% GDP trong khi cùng kỳ 3 năm liền
trước đều trên 3%.
6. Xuất nhập khẩu tháng 9 giảm mạnh sau khi đạt kỷ lục trong tháng 8. Tổng giá trị
thương mại hai chiều giảm -9.2% so với tháng 8 và chỉ tăng +8.1% YoY, kéo tăng
trưởng 9 tháng xuống mức +13.7%, thấp hơn nhiều mức tăng +21.2% của năm
2017 và đây là tốc độ tăng thấp thứ hai trong 20 tháng trở lại đây (chỉ cao hơn
tháng 6/2018). Hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu cùng yếu đi, trong đó, nhập khẩu
tăng thấp là nguyên nhân chủ yếu kéo giảm tăng trưởng chung.
7. Thị trường tiền tệ có nhiều biến động trong quý 3 xuất phát từ sự lên giá của đồng
USD. Chính sách tiền tệ đã được vận hành linh hoạt và bao quanh vấn đề chính là
kiểm soát tỷ giá. Thanh khoản ngân hàng được chủ động giảm bớt đẩy lãi suất tăng
đã giúp ổn định đồng VND. Tín dụng tăng chậm hơn các năm trước nhưng tốc độ
tăng trưởng GDP vẫn ở mức cao là một dấu mốc quan trọng để có hướng đi mới
trong kiểm soát tín dụng.
8. Thị trường chứng khoán quý 3 đã giao dịch cân bằng hơn và VNIndex đã có lúc lên
lại trên 1000 điểm. Sự thay đổi chiến lược đầu tư do lãi suất tăng và chiến tranh
thương mại đang khiến các nhà đầu tư nước ngoài gia tăng bán ròng ở cả thị
trường cổ phiếu lẫn trái phiếu, gây áp lực lên giá tài sản của Việt nam.
DN thành lập mới DN tạm ngừng HĐ DN hoàn tất giải thể
-
2
4
6
8
10
12
14
16
0
50
100
150
200
250
tỷ đ
ồng
Nghìn
LĐ Tổng số lao động ĐK Vốn ĐK Trung bình
SSI Retail Research
Vietnam Chartbook 8
Chỉ số tiêu dùng
10/11 nhóm mặt hàng tăng giá kéo lạm phát tháng 9 tăng cao
CPI tháng 9/2018 tăng +0.59% MoM, mức cao thứ 2 trong năm 2018 sau tháng 6 (+0.61%). Có tới 10/11 nhóm mặt hàng chính
trong cấu thành CPI tháng 9 tăng giá, nổi bật nhất là nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống với 3 nhóm phụ là Lương thực, Thực
phẩm và Ăn uống ngoài gia đình cùng tăng.
CPI Lương thực tăng trở lại mà nguyên nhân chính là do giá gạo. Giá gạo sau nửa đầu năm tăng mạnh đã giảm giá nhanh khi
xuất khẩu chậm lại. Từ mức đỉnh 6.7 nghìn đồng/kg vào tháng 5, giá lúa khô tại ĐBSCL đã giảm xuống 5.65 nghìn đồng/kg vào
cuối tháng 7. Bắt đầu từ tháng 8, giá lúa tăng dần và hiện tại đã lên 6 nghìn đồng/kg khiến CPI Lương thực tháng 8 và 9 tăng lần
lượt +0.1% và +0.28%.
CPI Thực phẩm tăng +0.51%, mức thấp nhất 5 tháng do giá một số thực phẩm đã lên mặt bằng cao và khó có thể tăng nhanh
như trước. Giá thịt lợn tháng 9 tăng +0.65% trong khi tháng 6 tăng tới +8.12%. Ngược lại, do mưa lũ nhiều, nguồn cung rau xanh
bị giảm sút đã khiến giá rau xanh tăng mạnh +1.82%. Do phụ thuộc vào Lương thực, Thực phẩm, CPI Ăn uống ngoài gia đình
cũng tăng +0.35%.
CPI Giao thông tháng 9 tăng +0.82% do trong kỳ tính toán có 2 lần điều chỉnh giá xăng dầu. Vào ngày 6/9, giá xăng E5 đã tăng
300đ (+1.5%) và ngày 21/9 tăng tiếp 320đ (+1.6%) lên 20.230đ/lít. Đây là mức giá xăng E5 cao nhất kể từ tháng 6/2015. CPI
nhóm Nhà ở, vật liệu xây dựng cũng tăng +0.2% do trong nhóm có mặt hàng gas. Nếu so sánh với giá dầu thế giới ở thời điểm
cuối tháng 6/2015 là ~90 USD/thùng thì việc CPI Giao thông cũng như Nhà ở vật liệu xây dựng tiếp tục tăng trong tháng 10 là
điều khó tránh khỏi.
Một yếu tố tăng giá có tính chu kỳ trong tháng 9 là học phí. Vào mùa khai giảng, nhiều tỉnh thành phố đã tăng học phí theo Nghị
định 86/2015. Năm nay, có 49 tỉnh thành tăng học phí làm CPI Giáo dục tăng +5.07% trong khi cùng kỳ 2017 có 41 tỉnh thành
tăng học phí làm CPI Giáo dục tăng +5%. Nghị định 86 cho phép học phí được điều chỉnh theo lạm phát và vì vậy CPI Giáo dục
hàng năm gần như chắc chắn sẽ tăng.
Trong số các mặt hàng tăng giá thấp đáng chú ý là Thuốc và Dịch vụ y tế. Giá Dịch vụ y tế trong tháng 7/2018 đã được giảm giá
theo Thông tư 15/2018 của Bộ Y tế và kể từ đó đến nay giá dịch vụ y tế gần như không thay đổi. Trong quãng thời gian từ đầu
năm 2016 đến đầu 2018, giá dịch vụ y tế tại các tỉnh thành lần lượt được tăng theo Thông tư liên tịch 37/2015/BTC-BYT và
Thông tư 02/2017/BYT khiến CPI Thuốc và dịch vụ y tế những năm đó tăng rất cao, năm 2016 là +55.7% và 2017 là +27.8%. 9
tháng năm nay, CPI nhóm mặt hàng này giảm -2.03% YTD.
Lạm phát 9 tháng đã lên mức cao nhất 5 năm
Tính chung 9 tháng, CPI đã tăng +3.2% so với cuối năm 2017 và trung bình tăng +3.57% so với cùng kỳ. Chỉ xét CPI so với cuối
năm trước (YTD), +3.2% là mức cao nhất 5 năm trở lại đây. Nguyên nhân chính khiến CPI tăng cao là giá lương thực, thực phẩm
và giá dầu. Sâu xa hơn, đó là những mất cân bằng trong cung cầu ngắn hạn.
Việc ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu gạo sang Indonesia, Hàn Quốc, Philippines … là một tin vui cho sản xuất nông nghiệp.
Được mùa nhưng không mất giá giúp tăng trưởng ngành nông nghiệp 9 tháng đạt +2.78% trong khi cùng kỳ 2017 chỉ tăng
+1.96%. Dẫu vậy, lạm phát lương thực cũng tăng theo với CPI Lương thực tăng +1.42% YTD (cùng kỳ tăng +0.84%). Hiện tại
xuất khẩu gạo của Việt nam đang chậm lại, kéo theo giá gạo trong nước xuống thấp so với vùng đỉnh tháng 5. Tuy nhiên nhiều
khả năng giá gạo sẽ tăng trong quý 4 bởi nhu cầu đối với gạo xuất khẩu vẫn lớn.
Trong các thị trường xuất khẩu, Philippines hiện đang có nhu cầu nhập khẩu thêm 500.000 – 800.000 tấn gạo để bổ sung kho dự
trữ và Indonesia cũng có thể tăng nhập khẩu để đối phó với bão lũ. Ở phía cung, một mặt lũ lụt sẽ làm giảm sản lượng lúa của
Campuchia, mặt khác Nghị định 107/2018 của Chính phủ mới ban hành sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp kinh
doanh gạo, từ đó gia tăng năng lực xuất khẩu và nhu cầu thu mua lúa.
Không giống với giá gạo, nhiều khả năng giá thịt lợn sẽ sớm bình ổn. Giá thịt lợn hơi hiện đang giao động trên 50 nghìn đồng/kg,
tương đương vùng đỉnh vào tháng 5/2016, thời điểm trước khi lao dốc khiến ngành chăn nuôi lợn lao đao. Giá tốt đã kích thích
người nuôi tái đàn. Tổng đàn lợn tính đến hết tháng 9 tăng +1.8% và sản lượng lợn xuất chuồng quý 3 tăng +2.8% (cùng kỳ giảm
-4.2% và -2.3%). Tại Trung Quốc, dù dịch bệnh có làm giá thịt lợn tăng nhưng mức giá hiện tại vẫn còn thấp hơn thời kỳ đỉnh
2016 tới 20%.
Ẩn số khó đoán nhất với lạm phát là giá dầu. Xuất phát từ cuộc cấm vận của Mỹ với Iran, giá dầu thô thế giới đã tăng +32% so
với đầu năm. Từ khi lệnh cấm vận giai đoạn 1 có hiệu lực (7/8/2018), sản lượng dầu của Iran đã giảm 380 nghìn thùng/ngày,
tương đương ~10% sản lượng sản xuất của Iran trước khi cấm vận. Cũng trong thời gian này, giá dầu thô thế giới tăng +12%.
Việc dự đoán giá dầu trong những tháng cuối năm không dễ bởi các nước sản xuất dầu mỏ lớn không đưa ra các con số đáng tin
cậy về sản lượng dầu mỏ. Theo thống kê của Bloomberg, trong tháng 8 và 9, OPEC đã tăng sản lượng thêm 510 nghìn
thùng/ngày còn Mỹ tăng sản lượng dầu đá phiến thêm 104 nghìn thùng/ngày. Về công suất dự trữ, riêng OPEC (trừ Iran) đã có
khoảng 1.5 triệu thùng/ngày, đủ để bù đắp phần hụt đi từ Iran. Với các số liệu này, rất khó để giải thích nguyên nhân đằng sau sự
tăng giá mạnh và liên tục của dầu thô trong năm nay.
SSI Retail Research
Vietnam Chartbook 9
Điểm tích cực trong ổn định lạm phát trong năm 2018 là chính sách tiền tệ đang được thực thi tương đối hiệu quả. Áp lực tỷ giá
trong năm 2018 là khá lớn và nếu như không có các biện pháp kiểm soát tốt, đà giảm giá của VND trong 9 tháng vừa qua có thể
chưa dừng lại ở 2.8%. Với tín dụng, khả năng cao là tăng trưởng tín dụng trong năm 2018 sẽ thấp hơn so với mục tiêu 17%, giúp
giảm bớt áp lực lạm phát cầu kéo.
Tóm lại, trong các tác nhân có thể làm lạm phát tăng cao trong quý 4, Lương thực và Năng lượng (xăng, dầu, gas) là 2 nhóm mặt
hàng cần phải quan tâm nhiều nhất. Việc quản lý giá gạo có phần đơn giản hơn do chúng ta có thể chủ động tích trữ và kiểm soát
cung cầu. Với giá xăng dầu, do phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài khó kiểm soát, chúng ta cần phải sử dụng quỹ bình ổn kết hợp
với tính toán thời điểm tăng giá để tránh gây áp lực dồn dập cho mùa cao điểm cuối năm.
Thách thức trong việc kiềm chế lạm phát trong năm 2018 đang lớn hơn hẳn các năm trước. Tuy vậy nếu chúng ta thành công,
việc kiểm soát lạm phát cho năm tiếp theo sẽ trở nên thuận lợi bởi thứ nhất, mặt bằng giá hàng hóa đã ở mức cao và thứ hai,
quan trọng hơn, là những bài học thực tế trong năm 2018 sẽ rất hữu ích để việc điều hành chính sách trong tương lai được tự tin
và nhất quán.
Lạm phát tăng cao và thường xuyên hơn trong năm 2018 Diễn biến CPI hàng tháng 2017 & 2018 MoM%
Nếu không tính đến yếu tố mùa vụ (giáo dục), cơ cấu lạm phát tháng 9/2018 khác biệt lớn so với cùng kỳ Cấu thành CPI tháng 9/2018 và 9/2017 MoM%
Lương thực, thực phẩm tăng giá là tác nhân và điểm khác biệt chính của lạm phát 9 tháng 2018 CPI Lương thực và Thực phẩm hàng tháng MoM%
Sau nửa đầu năm tăng giá mạnh do nhu cầu xuất khẩu cao, giá gạo đã rơi xuống mức thấp khi XK chậm lại Khối lượng xuất khẩu gạo hàng tháng và giá lúa khô ĐBSCL
Giá lợn ở vùng đỉnh của nhiều năm thúc đẩy người nuôi tái đàn và hứa hẹn gia tăng nguồn cung vào cuối năm Giá thịt lợn hơi tại Việt nam (đồng/kg)
Do dịch bênh, giá lợn TQ tăng nhanh, nhưng vẫn còn thấp hơn đỉnh 2016 tới 20% Giá thịt lợn tại Trung Quốc (CNY/kg)
Kiểm soát tăng trưởng tín dụng vì mục tiêu ổn định, bền vững
Trong những năm gần đây, tín dụng tăng nhanh đã đẩy dư nợ tín dụng lên mức 7 triệu tỷ đồng, tương đương 130% GDP so với mức 100% GDP vào cuối năm 2014. Chênh lệch tín dụng/GDP (Credit-to-GDP gap) đã liên tục tăng từ mức âm trong năm 2014 lên 30% trong năm 2018. Tỷ lệ tín dụng/GDP cao là một chỉ báo cần phải kiểm soát để không gây lạm phát như đã từng xảy ra trong năm 2008 và 2010.
CPI 9 tháng 2018 tăng 3.2% so với cuối năm 2017, mức tăng cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Rủi ro lạm phát chi phí đẩy là đã rõ trong môi trường lãi suất và giá cả hàng hóa toàn cầu tăng. Giá dầu thô đã tăng 60% chỉ trong 1 năm và tỷ giá diễn biến khó lường là những nhân tố bên ngoài rất khó kiểm soát nên chính sách ổn định tỷ giá và kiềm chế lạm phát trong nước cần phải được đặt lên ưu tiên hàng đầu. Tăng trưởng tín dụng vì vậy cần được kiểm soát chặt nhằm giảm bớt lượng sức ép thanh khoản, thu hẹp chênh lệch tín dụng/GDP và giữ lạm phát ở mức hợp lý.
Mặc dù không thay đổi mục tiêu tăng trưởng tín dụng 17% trong năm 2018, NHNN đã đưa ra những thông điệp hướng tới việc kiểm soát tín dụng chặt chẽ hơn, bằng cách ban hành Chỉ thị 04 với điều khoản không điều chỉnh tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Định hướng này phù hợp với khuyến nghị của IMF rằng cần phải hạ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng xuống dưới 17% và hướng tới giảm xuống dưới 14% nhằm củng cố sự ổn định vĩ mô.
Theo ước tính của Tổng cục thống kê, tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm đạt 9.52%, khá thấp so với mức tăng 12.16% cùng kỳ năm 2017 và thấp nhất trong 4 năm trở lại đây. So với cùng kỳ năm trước, tăng trưởng tín dụng hiện vào khoảng 14% yoy, mức thấp nhất kể từ năm 2015. Mức tăng trưởng hiện tại có thể coi là phù hợp với định hướng hạn chế nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích kinh tế.
Một điểm tích cực là cơ cấu vốn vay đang có sự dịch chuyển. Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn giảm về 27.7% trong tháng 5/2018 so với mức 33.3% cùng kỳ năm ngoái. Đây là kết quả của việc NHNN hạ tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn từ 45% xuống 40% từ đầu năm 2019, buộc các NHTM phải đẩy mạnh thu hút dòng vốn dài hạn nhằm tái cơ cấu nguồn vốn. Tháng 9 chứng kiến lãi suất huy động tăng ở kỳ hạn dài trên 12 tháng, trong khi các kỳ hạn ngắn vẫn khá ổn định. Tăng trưởng huy động đạt 9.15% trong 9 tháng đầu năm, thấp hơn so với mức 10.66% trong năm 2017.
22,200
22,400
22,600
22,800
23,000
23,200
23,400
23,600
Tỷ giá trần Tỷ giá trung tâm
Tỷ giá bán NHTM Tỷ giá bán tự do
-2.0
-1.0
0.0
1.0
2.0
3.0
4.0
5.0
6.0
22,200
22,400
22,600
22,800
23,000
23,200
23,400
23,600
23,800
chênh lệch lãi suất VND-USD Tỷ giá bán NHTM Tỷ giá bán tự do
-10,000
-5,000
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
-2,500
-1,500
-500
500
1,500
2,500
3,500
4,500
5,500
6,500
7,500
Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất/(Nhập) siêu (RHS)
-2500
2500
7500
12500
17500
22500
27500
32500
37500
42500 TPCP Cổ phiếu Tổng lũy kế
SSI Retail Research
Vietnam Chartbook 20
% chênh lệch tín dụng/GDP tăng dần Tăng trưởng tín dụng chậm lại
Nguồn: NHNN, World Bank Nguồn: NHNN
Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn Tăng trưởng tín dụng và tiền gửi YoY
Nguồn: NHNN Nguồn: NHNN
-15%
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
0
1
2
3
4
5
6
7
8
Jan-1
3
May-1
3
Sep-1
3
Jan-1
4
May-1
4
Sep-1
4
Jan-1
5
May-1
5
Sep-1
5
Jan-1
6
May-1
6
Sep-1
6
Jan-1
7
May-1
7
Sep-1
7
Jan-1
8
May-1
8
Sep-1
8
Triệu t
ỷV
ND
% Chênh lệch tín dụng/GDP
Dư nợ tín dụng
-5.0
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
2014 2015 2016
2017 2018
15
20
25
30
35
40
Dec-1
4
Fe
b-1
5
Apr-
15
Jun-1
5
Aug-1
5
Oct-
15
Dec-1
5
Fe
b-1
6
Apr-
16
Jun-1
6
Aug-1
6
Oct-
16
Dec-1
6
Fe
b-1
7
Apr-
17
Jun-1
7
Aug-1
7
Oct-
17
Dec-1
7
Fe
b-1
8
Apr-
18
0
100
200
300
400
500
600
700
800
10%
12%
14%
16%
18%
20%
22%
24%
26%
28%
30%
Fe
b-1
3
Jun-1
3
Oct-
13
Fe
b-1
4
Jun-1
4
Oct-
14
Fe
b-1
5
Jun-1
5
Oct-
15
Fe
b-1
6
Jun-1
6
Oct-
16
Fe
b-1
7
Jun-1
7
Oct-
17
Fe
b-1
8
Jun-1
8
Ng
hìn
tỷ Chênh lệch tiền gửi - tín dụng
Tăng trưởng tổng tiền gửi YoY
Tăng trưởng tín dụng YoY
SSI Retail Research
Vietnam Chartbook 21
Chỉ số thị trường tài chính
VNIndex quay lại ngưỡng 1000 điểm
VNIndex điều chỉnh ở giai đoạn đầu tháng trước khi hồi phục và vượt mốc 1000 điểm trong phiên 20/09 – đây là lần đầu tiên kể
từ tháng 1, VN Index quay lại vùng giá này. VN Index đóng cửa ngày 28/09 tại mức 1017.13 điểm, tương ứng với mức tăng 27.59
điểm so với cuối tháng 8 và tính chung quý III, VN Index tăng 56.35 điểm (+5.87%).
Giá trị giao dịch trên sàn HOSE tháng 9 đạt 4,707 tỷ đồng, tăng lần lượt 7.9% và 12.9% so với tháng 8 và tháng 7. Mặc dù vậy,
nếu tính chung quý III, thanh khoản sàn HOSE chỉ đạt 4,310 tỷ đồng, giảm 31.1% so với quý 2. VN Index điều chỉnh mạnh trong
thời gian trước đó khiến nhiều nhà đầu tư trở nên thận trọng và hạn chế tham gia thị trường.
Tháng 9 kết thúc với thông tin FTSE Russell chính thức đưa Việt Nam vào danh sách xem xét nâng hạng lên thị trường mới nổi
bậc 2. Đây là một thông tin tích cực và thực tế trong 2 tháng qua những thông tin liên quan đến nâng hạng luôn được thị trường
hào hứng đón nhận. Hiện tại thị trường Việt Nam đã đáp ứng toàn bộ 9 yêu cầu của FTSE Russell và cần ít nhất 1 năm xem xét
để chính thức đưa vào nhóm thị trường mới nổi. Tuy vậy chặng đường phía trước sẽ không đơn giản và 1 năm có lẽ vẫn là
khoảng thời gian quá ngắn cho Việt nam.
VN Index hồi phục kéo theo mức định giá của thị trường. Chốt phiên cuối tháng 9, P/E của VN Index đạt mức 18.3 lần, tăng
6.63% kể từ đầu quý III. Đây cũng là xu hướng chung của các chỉ số trong khu vực như Thái Lan và Malaysia. Đáng chú ý, P/E
của thị trường Trung Quốc đang rơi về vùng thấp nhất trong năm 2018. Ảnh hưởng từ chiến tranh thương mại với Hoa Kỳ khiến
cho Shanghai Composite giảm hơn 20% kể từ mức đỉnh được thiết lập trong năm 2018.
Khối ngoại mua ròng trở lại
Tính riêng kênh khớp lệnh, các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng 294 tỷ đồng – đây là đợt mua ròng đầu tiên của nhóm này kể từ
tháng 1/2018. Tính chung quý III, NĐTNN vẫn bán ròng trên HOSE với giá trị 3,2 nghìn tỷ đồng (tính theo cả 2 kênh khớp lệnh và
thỏa thuận). Tinh từ đầu năm, nếu loại trừ giao dịch đột biến tại VHM trong quý II và VRE trong quý 1, khối ngoại bán ròng hơn 2
nghìn tỷ đồng.
Ngành Dệt may thu hút dòng tiền
Vốn hóa của nhóm ngành Dệt may này tăng thêm 21% chỉ riêng trong tháng 9. Ngành dệt may đang được hưởng lợi từ tăng
trưởng số lượng đơn hàng từ các thị trường xuất khẩu. Một ví dụ là TCM. Doanh nghiệp này ghi nhận doanh thu kỷ lục trong
tháng 8 với giá trị 19.75 triệu USD, trong khi mức doanh thu bình quân hàng tháng của đơn vị này là 14-15 triệu. Nhờ vậy, TCM
ghi nhận LNST 8 tháng ở mức 7.9 triệu USD, hoàn thành 98% kế hoạch năm.
Tăng trưởng đơn hàng của ngành dệt may được giải thích nhờ vào hai yếu tố. Thứ nhất là chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
Hoa Kỳ áp thuế suất 10% đối với nhiều sản phẩm dệt may từ Trung Quốc khiến nhiều khách hàng Hoa Kỳ có xu hướng chuyển
sang sử dụng hàng may mặc của Việt Nam. Thứ hai là Việt Nam tham gia vào các FTAS như VKFTA (Việt Nam – Hàn Quốc) và
sắp tới đây là CPTPP, EVFTA. Các hiệp định này sẽ giúp ngành dệt may được hưởng lợi lớn từ mức thuế suất thấp, khiến cho
các sản phẩm dệt may cạnh tranh hơn nếu so sánh với các nhà sản xuất khác tại Trung Quốc. Ví dụ đối với sợi xuất khẩu sang
thị trường Hàn Quốc, thuế suất đối với sản phẩm Việt Nam là 0% trong khi sản phẩm Trung Quốc là 8%.
Các quốc gia đã ký FTAs với Việt Nam
Sản phẩm Tình trạng Thuế xuất khấu
từ Việt Nam Thuế xuất khẩu từ
Trung Quốc
Nhật Bản (ROO:Từ vải trở đi) Sợi Có hiệu lực từ
12/2008
0% 5%
May mặc 0% 8.4% - 10.9%
Hàn Quốc (ROO: Cắt và May) Sợi Có hiệu lực từ
20/12/2015
0% 8%
May mặc 0% 13%
Diễn biến của VN Index trong năm 2018 Thanh khoản thị trường tiếp tục được cải thiện