VỊ THẾ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỈNH BẾN TRE SO VỚI CÁC TỈNH TRONG KHU VỰC PHÍA NAM Anh 1 , N.C. & Hòa 2 , N.N. (2016) Tóm tắt 3 Năng lực cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, nó biểu hiện ở hai cấp độ khác nhau từ vi mô (doanh nghiệp) đến vĩ mô (địa phương, quốc gia), trong đó việc xác định vị thế năng lực cạnh tranh cấp vĩ mô đóng vai trò đầu tàu dẫn dắt các chủ thể kinh tế trong khu vực tăng trưởng và phát triển. Trong bối cảnh và điều kiện kinh tế của tỉnh Bến Tre, bài viết này chủ yếu phân tích các vấn đề về (1) vị thế năng lực cạnh tranh của tỉnh Bến Tre trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài so với các tỉnh khác trong khu vực phía Nam và (2) phân tích năng lực về quy mô sản xuất của doanh nghiệp trong tỉnh Bến Tre. Để trả lời cho vấn đề thứ nhất, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tỉnh năng lực hút vốn đầu tư nước ngoài của tỉnh Bến Tre xếp hạng thứ 13/19 trong số 19 tỉnh thuộc khu vực phía Nam, đồng thời tìm thấy được đặc thù chung về các yếu tố chưa đạt yêu cầu của khu vực phía Nam về thu hút vốn đầu tư: tiếp cận đất đai, tính minh bạch, chi phí không chính thức, đào tạo lao động và thiết chế pháp lý. Đối với vấn đề thứ hai nhằm đánh giá năng lực về quy mô sản xuất của tỉnh Bến Tre và kết quả cho thấy doanh nghiệp của tỉnh đang ở trạng thái thu hẹp quy mô sản xuất. Qua đó hai vấn đề trên, tỉnh Bến Tre cần tháo bỏ những nút thắt của vấn đề thứ nhất để tìm kiếm nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài trong điều kiện khó khăn về ngân sách thông qua việc hoàn thiện cơ chế vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ theo một lối đi riêng của tỉnh, từ đó tạo ra một động lực chủ đạo tăng trưởng và phát triển của tỉnh để dẫn dắt các chủ thể đang hoạt động của tỉnh tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong xu thế hội nhập. 1. Giới thiệu Việc xác định vị thế năng lực cạnh tranh cấp vĩ mô của tỉnh Bến Tre là cần thiết và góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của tỉnh. Một trong các vấn đề đặt ra là đi bằng con đường nào hoặc chọn hướng đi nào phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của tỉnh Bến Tre, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn về ngân sách. Theo nghiên cứu của Izumi & Kenichi (2009) về tiến trình “bắt kịp” công nghiệp hóa của một số quốc gia đã và đang phát triển, thì Việt Nam đang ở giai đoạn 1, giai đoạn chế tạo đơn giản dưới sự chỉ dẫn của nước ngoài (hình 1). Đây là giai đoạn bắt đầu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI, giai đoạn mượn nguồn lực từ bên ngoài để tăng trưởng và phát triển. 1 Giảng viên Khoa Tài chính – Kế toán, trường Đại học Nguyễn Tất Thành 2 Giảng viên Khoa Tài chính – Kế toán, trường Đại học Nguyễn Tất Thành 3 Phát biểu trong hội thảo tham vấn ý kiến chuyên gia về các chương trình, kế hoạch phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2016 2020 tại tỉnh Bến Tre
25
Embed
VỊ THẾ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỈNH BẾN TRE SO V …tckt.ntt.edu.vn/wp-content/uploads/2016/06/HoiThaoBenTre2016... · của nền kinh tế, ... mô đóng vai trò
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
VỊ THẾ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỈNH BẾN TRE
SO VỚI CÁC TỈNH TRONG KHU VỰC PHÍA NAM
Anh1, N.C. & Hòa
2, N.N. (2016)
Tóm tắt3
Năng lực cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế, nó biểu hiện ở hai cấp độ khác nhau từ vi mô (doanh nghiệp) đến vĩ
mô (địa phương, quốc gia), trong đó việc xác định vị thế năng lực cạnh tranh cấp vĩ
mô đóng vai trò đầu tàu dẫn dắt các chủ thể kinh tế trong khu vực tăng trưởng và
phát triển. Trong bối cảnh và điều kiện kinh tế của tỉnh Bến Tre, bài viết này chủ
yếu phân tích các vấn đề về (1) vị thế năng lực cạnh tranh của tỉnh Bến Tre trong
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài so với các tỉnh khác trong khu vực phía Nam và
(2) phân tích năng lực về quy mô sản xuất của doanh nghiệp trong tỉnh Bến Tre. Để
trả lời cho vấn đề thứ nhất, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tỉnh năng lực hút vốn
đầu tư nước ngoài của tỉnh Bến Tre xếp hạng thứ 13/19 trong số 19 tỉnh thuộc khu
vực phía Nam, đồng thời tìm thấy được đặc thù chung về các yếu tố chưa đạt yêu
cầu của khu vực phía Nam về thu hút vốn đầu tư: tiếp cận đất đai, tính minh bạch,
chi phí không chính thức, đào tạo lao động và thiết chế pháp lý. Đối với vấn đề thứ
hai nhằm đánh giá năng lực về quy mô sản xuất của tỉnh Bến Tre và kết quả cho
thấy doanh nghiệp của tỉnh đang ở trạng thái thu hẹp quy mô sản xuất. Qua đó hai
vấn đề trên, tỉnh Bến Tre cần tháo bỏ những nút thắt của vấn đề thứ nhất để tìm
kiếm nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài trong điều kiện khó khăn về ngân sách thông
qua việc hoàn thiện cơ chế vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ theo một lối đi
riêng của tỉnh, từ đó tạo ra một động lực chủ đạo tăng trưởng và phát triển của tỉnh
để dẫn dắt các chủ thể đang hoạt động của tỉnh tự nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình trong xu thế hội nhập.
1. Giới thiệu
Việc xác định vị thế năng lực cạnh tranh cấp vĩ mô của tỉnh Bến Tre là cần
thiết và góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của tỉnh. Một trong các
vấn đề đặt ra là đi bằng con đường nào hoặc chọn hướng đi nào phù hợp với điều
kiện và hoàn cảnh của tỉnh Bến Tre, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn về ngân sách.
Theo nghiên cứu của Izumi & Kenichi (2009) về tiến trình “bắt kịp” công nghiệp
hóa của một số quốc gia đã và đang phát triển, thì Việt Nam đang ở giai đoạn 1, giai
đoạn chế tạo đơn giản dưới sự chỉ dẫn của nước ngoài (hình 1). Đây là giai đoạn bắt
đầu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI, giai đoạn mượn nguồn lực từ bên ngoài để tăng
trưởng và phát triển.
1 Giảng viên Khoa Tài chính – Kế toán, trường Đại học Nguyễn Tất Thành
2 Giảng viên Khoa Tài chính – Kế toán, trường Đại học Nguyễn Tất Thành
3 Phát biểu trong hội thảo tham vấn ý kiến chuyên gia về các chương trình, kế hoạch phát triển doanh nghiệp
giai đoạn 2016 2020 tại tỉnh Bến Tre
Tuy nhiên, việc mượn nguồn lực phải đảm bảo rằng tăng thêm lợi ích của
tỉnh mà không tổn hại đến lợi ích của các chủ thể kinh tế đang hoạt động tại tỉnh,
đồng thời đối tác bên ngoài cũng là con tàu dẫn dắt các chủ thể kinh tế đang hoạt
động tại tỉnh bước vào môi trường cạnh tranh “sân chơi đầu tư và tăng trưởng”, điều
này có nghĩa là đối tác bên ngoài sẽ tạo ra môi trường đầu tư để các chủ thể kinh tế
đang hoạt động tại tỉnh khi tham gia vào sẽ được hưởng lợi ích tăng thêm so với
hiện trạng đã tồn tại trước kia. Việc mượn nguồn lực mạnh từ bên ngoài đòi hỏi sự
đánh đổi (chi phí cơ hội) của địa phương cho các đối tác bên ngoài thông qua những
lợi thế cạnh tranh mà tỉnh có được. Một nguyên tắc cơ bản là khi lợi ích của các chủ
thể trong nền kinh tế địa phương tăng thêm thì họ sẽ không ngại bỏ thêm vốn tham
gia vào hoạt động kinh tế, ngược lại một chiếc bánh lợi ích không đổi họ sẽ không
chịu bỏ vốn tham gia vào hoạt động kinh tế. Chính vì thế, việc tạo môi trường cạnh
tranh “sân chơi đầu tư và tăng trưởng” là điều cần thiết và thiết thực cho tỉnh Bến
Tre trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn kết nối hạ tầng kinh tế (đầu tư, sản xuất,
thương mại và dịch vụ) với khu vực lân cận.
Hình 1. Các giai đoạn bắt kịp công nghiệp hóa
Nguồn: Izumi & Kenichi (2009)
Bên cạnh đó, việc tạo ra môi trường cạnh tranh “sân chơi đầu tư và tăng
trưởng” kích thích được các chủ thể dựa vào sức lao động và kinh tế cá thể (người
lao động, hộ kinh doanh cá thể, người dân địa phương) nếu sân chơi đầu tư và tăng
trưởng có sự hài hòa về phúc lợi xã hội, điều này có nghĩa là nếu họ tham gia vào
kênh tiêu dùng kênh cạnh tranh này họ sẽ nhận được phúc lợi xã hội trong tương lai,
Giai đoạn 1
Chế tạo đơn giản
dưới sự chỉ dẫn
của nước ngoài
Giai đoạn 2
Có công nghiệp
hỗ trợ, nhưng vẫn
dưới sự chỉ dẫn
của nước ngoài
Giai đoạn 3
Làm chủ được
quản lý và công
nghệ, có thể sản
xuất được hàng
hóa chất lượng
cao
Giai đoạn 4
Có đầy đủ năng
lực đổi mới và
thiết kế sản phẩm
với vai trò đi đầu
toàn cầu
Việt Nam
Thái Lan,
Malaysia
Hàn Quốc,
Đài Loan
Nhật Bản,
Mỹ, EU
Bắt đầu thu hút
FDI
Nội lực hóa sản
xuất phụ tùng và
linh kiện
Nội lực hóa kỹ
năng và công nghệ
Nội lực hóa đổi
mới
Liên kết
(FDI tăng nhanh)
Thu hút
công nghệ
Sáng tạo
hoặc thế hệ tương lai của các chủ thể này sẽ hưởng thành quả lao động mà trong
hiện này đã cống hiến và tích lũy. Mục tiêu chủ yếu của phần này khi tạo ra sân
chơi đầu tư và tăng trưởng thì cần có những định hướng phát triển bền vững, đặc
biệt là thế hệ tương lai của các chủ thể tham gia.
Một trong các chủ thể không thể thiếu để tạo ra môi trường cạnh tranh “sân
chơi đầu tư và tăng trưởng” là chính quyền địa phương. Đây chính là chủ thể then
chốt để giải quyết bài toán lớn của tỉnh thông qua chế vận hành hai chính sách tài
khóa và tiền tệ. Sự thông thoáng hay tháo gỡ một số nút thắt về cơ chế vận hành của
hai chính sách tiền tệ và tài khóa sẽ là động lực chính tăng trưởng và phát triển của
tỉnh theo một lối đi riêng. Chẳng hạn như, việc chính sách ưu đãi đầu tư của tỉnh về
sự cắt giảm nguồn thu ngân sách tại thời điểm hiện tại (Tt) và đánh đổi lại để có sự
kích thích đầu tư sản xuất của nhiều doanh nghiệp khác vào tỉnh Bến Tre, từ đó
nguồn thu ngân sách sẽ nhiều hơn vào thời điểm tương lai (Tt+k) so với thời điểm
hiện tại (Tt). Thực thi chính sách này đều đem lại lợi ích kinh tế cho cả hai phía: cơ
quan quản lý của tỉnh và doanh nghiệp muốn đầu tư vào tỉnh.
Việc đánh giá vị thế năng lực cạnh tranh của tỉnh Bến Tre so với các tỉnh
khác trong khu vực phía Nam trong bài viết này chỉ dừng lại một số nội dung trong
đề án tạo ra môi trường cạnh tranh “sân chơi đầu tư và tăng trưởng” như sau: vấn đề
thứ nhất là khía cạnh so sánh năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) thông qua năng lực
thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào tỉnh giai đoạn 2005-20144 và vấn đề thứ hai là
khía cạnh năng lực về quy mô sản xuất của các doanh nghiệp đang hoạt động tại
tỉnh Bến Tre giai đoạn 2012-20145. Kết quả phân tích và đánh giá sẽ được tác giả
trình bày ở phần tiếp theo.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của bài viết này trình bày việc định hướng cơ chế vận
hành chính sách tài khóa và tiền tệ phù hợp vĩ mô nhằm hình thành môi trường cạnh
tranh “sân chơi đầu tư và tăng trưởng” thông qua một số nội dung:
2.1. Mục tiêu thứ nhất là thu hút vốn đầu tư:
Qua bản dự thảo Chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Bến
Tre giai đoạn 2016-2020, để đạt được mục tiêu tăng đầu tư (cả về vốn lẫn số lượng
doanh nghiệp) từ tỷ lệ doanh nghiệp từ nhỏ lên vừa, từ vừa lên lớn từ 2,3% năm
2015 lên 7,5% vào năm 2020, thì tốc độ tăng bình quân của các doanh nghiệp tại
tỉnh Bến Tre vẫn chưa đáp ứng mục tiêu trên. Do đó, để hoàn thành tốt mục tiêu này
thì tỉnh Bến Tre cần có một chính sách thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài để đáp ứng
chỉ tiêu trên. Do đó, chương trình nghiên cứu đề xuất 02 mục tiêu cụ thể trong việc
thu hút vốn đầu tư như sau:
4 Tại thời điểm phân tích, niên giám thống kê 2015 của Tổng Cục thống kê Việt Nam chưa công bố do đó
việc đánh giá chỉ dừng lại tới năm 2014. Nguồn số liệu năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI từ Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và nguồn số liệu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI từ Tổng cục
Thống kê Việt Nam (GSO). 5 Nguồn số liệu báo cáo tài chính doanh nghiệp từ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bến Tre cung cấp.
(1) So sánh vị thế của tỉnh Bến Tre và 18 tỉnh khu vực phía Nam trong
việc thu hút vốn đầu tư (đánh giá lợi thế về vị trí đầu tư): Với cơ sở hạ tầng giao
thông của tỉnh Bến Tre với các tỉnh lận cận, vị thế của tỉnh Bến Tre đã có một bước
ngoặc mới trong việc thu hút vốn đầu tư vào tỉnh làm đầu tàu trong việc chuyển đổi
nền kinh tế địa phương, chẳng hạn như từ đầu năm đến 15/5/2016, toàn tỉnh có
thêm 124 doanh nghiệp mới được thành lập, tăng 27% so cùng kỳ, vốn đăng ký ban
đầu tăng 65,5% so cùng kỳ (với 676,3 tỷ đồng); lũy kế toàn tỉnh hiện có 2.996
doanh nghiệp ở trạng thái hoạt động với tổng vốn đăng ký 16.326 tỷ đồng; toàn tỉnh
hiện có 48.000 hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động trên các lĩnh vực; 48 dự án FDI
còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 614,15 triệu USD; 137 dự án đầu tư trong nước còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký 14.864,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, cần so sánh vị thế trong
việc thu hút vốn của Bến Tre so với 18 tỉnh trong khu vực phía Nam nhằm tìm hiểu
điểm mạnh, điểm yếu về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bến Tre so với 18
tỉnh khác trong việc thu hút vốn đầu tư (I).
(2) Chính sách ưu đãi đầu tư vào tỉnh Bến Tre (đánh giá lợi thế cắt giảm
chi phí vốn và sự thông thoáng chính sách đầu tư): Sự thông thoáng của chính
sách đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Yếu tố 1: Thu hút vốn đầu tư (I) được thể hiện qua việc cắt giảm chi phí vốn
(R), chẳng hạn như giảm chi phí vốn trực tiếp (kết nối hạ tầng của doanh nghiệp với
địa phương: điện, nước, đường xá, v.v…); giảm chi phí gián tiếp về tiếp cận nguồn
lực (chi phí cơ hội về thời gian trong việc giải quyết thủ tục đầu tư và tiếp cận đất
đai của doanh nghiệp; nguồn lao động đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp)
Hình 2. Mối quan giảm chi phí vốn và lượng đầu tư
Yếu tố 2: Thu hút vốn đầu tư (I) được thể hiện qua việc cải thiện môi trường
đầu tư (En): môi trường đầu tư thông thoáng là yếu tố quan trọng trong việc cạnh
tranh thu hút vốn đầu tư với các tỉnh khác trong khu vực (gia nhập thị trường của
tỉnh; tiếp cận đất đai của doanh nghiệp; tính minh bạch của tỉnh; chi phí thời gian
thực hiện đầu tư; chi phí không chính thức; cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp
vào tỉnh; tính năng động của địa phương; dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; đào tạo lao
động của địa phương).
I0 I1 Đầu tư (I)
Chi phí vốn (R)
R0
R1
Lợi ích từ giảm chi phí vốn R
Các chính sách ưu đãi đầu tư trong việc thực hiện cắt giảm chi phí vốn (R)
và cải thiện môi trường đầu tư (En) đều có sự đánh đổi của nó. Theo số liệu của
Tổng Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2015, vấn đề thâm hụt ngân sách của tỉnh là
bài toán nan giải trong việc tính toán hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, và do đó cần
nguồn cung tiền từ bên ngoài để kích thích địa phương phát triển. Một trong những
mục tiêu không kém phần quan trọng là sự đánh đổi nguồn thu ngân sách giữa 02
thời điểm khác nhau: Việc chính sách ưu đãi đầu tư cho thấy rằng sẽ có một sự cắt
giảm nguồn thu ngân sách tại thời điểm hiện tại (Tt) và đánh đổi lại để có sự kích
thích đầu tư sản xuất của nhiều doanh nghiệp khác vào tỉnh Bến Tre, từ đó nguồn
thu ngân sách sẽ nhiều hơn vào thời điểm tương lai (Tt+k) so với thời điểm hiện tại
(Tt). Thực thi chính sách này đều đem lại lợi ích kinh tế cho cả hai phía: cơ quan
quản lý của tỉnh và doanh nghiệp muốn đầu tư vào tỉnh.
2.2. Mục tiêu thứ hai là đánh giá năng lực tài chính của các doanh nghiệp đang
hoạt động tại tỉnh Bến Tre:
Trong mục tiêu thứ hai, đứng ở góc độ cơ quan quản lý địa phương thì cần
xem xét các vấn đề sau:
(1) Đánh giá chung hiệu quả tài chính thực tế của doanh nghiệp ảnh hưởng
đến việc tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Vấn đề này rất quan trọng trong việc
kích thích doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Việc thu thuế là vấn đề nhạy
cảm đối với doanh nghiệp trong việc tuân thủ nộp thuế của họ (tính đơn giản trong
việc kê khai quyết toán thuế đúng với tình hình kinh doanh, nhận thức công bằng
trong chi tiêu công của địa phương, chất lượng quản trị công, v.v…). Tuy nhiên, với
số liệu thu thập dựa trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp đã nộp thì không
thể phân tích sâu về hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên cơ sở hiệu quả tài
chính, do đó trong báo cáo này chỉ đưa ra hiệu suất thu thuế thu nhập doanh nghiệp
(nguồn tài liệu từ Báo cáo tài chính từ Sở Kế hoạch và Đầu tư của tỉnh Bến Tre).
Trong vấn đề này cần đánh giá 03 tiêu chí cụ thể như sau:
- Đo lường hiệu quả quy mô doanh thu dựa trên vốn hay lao động (tăng
trưởng theo quy mô);
- Đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh ROA và hiệu quả tài chính ROE
đối với các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính (hiệu quả sử dụng vốn vay);