Top Banner
Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng? Tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế là những nhân tố được nhiều nghiên cứu ghi nhận là nguyên nhân tác động gây nên thâm hụt thương mại. Tình hình thâm hụt thương mại những năm gần đây Qua số liệu thống kê cho thấy từ năm 1999 đến năm 2002, cán cân thương mại Việt Nam ở trạng thái cân bằng hoặc thặng dư, nhưng từ năm 2003 đến nay cán cân thương mại liên tục ở trạng thái thâm hụt và giá trị thâm hụt ngày càng lớn. Nếu trong năm 2003 thâm hụt thương mại vào khoảng 2,581 tỷ USD thì đến năm 2008 mức thâm hụt lên đến 12,782 tỷ USD, gấp 5 lần so với năm 2003. Năm 2009 mức thâm hụt là 15,412 tỷ USD, gấp 5,9 lần so với năm 2003. Trong năm 2010, cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về nhập siêu với mức thâm hụt vào khoảng trên 12 tỷ USD. Nếu so sánh giá trị thâm hụt thương mại với giá trị GDP qua các năm thì từ năm 2002 (năm bắt đầu có thâm hụt thương mại) tỷ lệ thâm hụt thương mại so với GDP ngày càng gia tăng và trở nên đáng báo động trong những năm gần đây (2007-2010), khi tỷ lệ này vượt trên 10%GDP. Theo IMF, mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai so với GDP nếu vượt quá 5% thì được xem là nghiêm trọng, vì vậy vấn đề thâm hụt thương mại của Việt Nam cần phải được xem xét thấu đáo.
30

Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Jul 29, 2015

Download

Documents

Nguyen Duchung
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng?

Tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế là những nhân tố được nhiều nghiên cứu ghi nhận là nguyên nhân tác động gây nên thâm hụt thương mại.

Tình hình thâm hụt thương mại những năm gần đâyQua số liệu thống kê cho thấy từ năm 1999 đến năm 2002, cán cân

thương mại Việt Nam ở trạng thái cân bằng hoặc thặng dư, nhưng từ năm 2003 đến nay cán cân thương mại liên tục ở trạng thái thâm hụt và giá trị thâm hụt ngày càng lớn.

Nếu trong năm 2003 thâm hụt thương mại vào khoảng 2,581 tỷ USD thì đến năm 2008 mức thâm hụt lên đến 12,782 tỷ USD, gấp 5 lần so với năm 2003. Năm 2009 mức thâm hụt là 15,412 tỷ USD, gấp 5,9 lần so với năm 2003. Trong năm 2010, cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về nhập siêu với mức thâm hụt vào khoảng trên 12 tỷ USD. Nếu so sánh giá trị thâm hụt thương mại với giá trị GDP qua các năm thì từ năm 2002 (năm bắt đầu có thâm hụt thương mại) tỷ lệ thâm hụt thương mại so với GDP ngày càng gia tăng và trở nên đáng báo động trong những năm gần đây (2007-2010), khi tỷ lệ này vượt trên 10%GDP.

Theo IMF, mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai so với GDP nếu vượt quá 5% thì được xem là nghiêm trọng, vì vậy vấn đề thâm hụt thương mại của Việt Nam cần phải được xem xét thấu đáo.

 

Page 2: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Hình 1: Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1999-2010. Nguồn: GSO và tính toán của tác giả.

Nguyên nhân thâm hụt thương mạiCơ cấu hàng hoá xuất khẩuHơn một thập niên qua, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng

nông lâm sản, công nghiệp nặng và khoáng sản, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (TTCN).

Theo thống kê của GSO, trung bình giai đoạn 1999 - 2010F, hàng nông lâm sản chiếm khoảng 15%, trong đó chủ yếu là hàng nông sản với các sản phẩm chính như gạo, hồ tiêu, cao su; hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm khoảng 34% mà chủ yếu là khoáng sản với mặt hàng chính là than đá và dầu thô; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 40% với sản phẩm chủ yếu là hàng dệt may và giầy da (Hình 2).

Hình 2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo nhóm (trung bình) giai đoạn 1999 - 2010F. Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu GSO

Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cho thấy hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam không có gì nổi trội so với các quốc gia trong khu vực, cơ cấu mặt hàng của Việt Nam giống với các nước khác trong ASEAN. Có rất nhiều mặt hàng trong nhóm hàng công nghiêp nhẹ tiểu thủ công nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu, nhập khẩu dây chuyền sản xuất. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều ngành nghề sản xuất trong nước.

Page 3: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Không chỉ vậy, nhiều mặt hàng xuất khẩu khả năng gia tăng sản lượng khi giá cả có lợi, chẳng hạn như tỷ giá hối đoái tăng thì nhiều mặt hàng xuất khẩu không thể tăng sản lượng vì hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đã phát huy hết công suất sản xuất và không thể khai thác tiếp nhằm đảm bảo tính bền vững dài hạn (như dầu thô, than đá,...) hay một số nhóm hàng phụ bị tác động quá nhiều của thời tiết (như nông sản, thủy sản,...).

Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu.Từ số liệu thống kê của GSO, dễ dàng nhận thấy suốt giai đoạn 1999 -

2010, tổng giá trị nhập khẩu ngày càng gia tăng và nhập khẩu thuộc nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm tỷ trọng rất lớn, trung bình khoảng 92% tổng giá trị nhập khẩu, 8% còn lại chủ yếu là hàng tiêu dùng.

Trong nhóm hàng tư liệu sản xuất thì nhóm hàng máy móc thiết bị chiếm khoảng 29% tổng giá trị nhập khẩu; nhóm hàng nguyên nhiên, vật liệu chiếm khoảng 63,5% tổng giá trị nhập khẩu (Hình 3).

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất cao. Như đã đề cập trong phần trên, nhiều mặt hàng sản xuất trong nước phải nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, cùng với đó là quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra mạnh mẽ nên nhu cầu thay thế thiết bị lạc hậu bằng cách nhập khẩu công nghệ từ các nước phát triển góp phần làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu chung.

Ngoài ra, lộ trình tự do hoá thương mại của Việt Nam nhất là kể từ năm 2007 (năm Việt Nam trở thành thành viên WTO) đã thu hút một nguồn vốn FDI khá lớn hàng năm và kèm theo đó là nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị, dây chuyền sản xuất phục vụ đầu tư. Ngoài những nguyên nhân làm gia tăng việc nhập khẩu như đã nêu trên, nguyên nhân nhập khẩu tăng cao còn phải kể đến:

- Tỷ lệ nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu ở mức khá cao dẫn tới thực tế là nếu xuất khẩu muốn tăng lên thì nhất thiết nhập khẩu sẽ tăng;

- Thu nhập ở Việt Nam tăng lên sẽ tạo thêm nhu cầu đối với hàng tiêu dùng và xa xỉ phẩm;

- Đầu cơ bất động sản và các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn cũng là lý do dẫn tới nhập khẩu gia tăng trong những năm gần đây;

- Sự biến động trong giá hàng hoá thế giới dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hoá, nên nhiều hàng hoá được nhập khẩu để tích trữ trước khi giá tăng.

Page 4: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Hình 3: Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu khẩu theo nhóm (trung bình) giai đoạn 1999 - 2010F. Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu GS

Các nhân tố vĩ mô tác động đến cán cân thương mại Việt NamDưới góc độ thương mại quốc tế, có nhiều nhân tố vĩ mô tác động gây

ra thâm hụt hoặc thặng dư thương mại. Trong nghiên cứu này tác giả chỉ xem xét hai nhân tố là tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế (GDP), đây là những nhân tố được nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước ghi nhận là nguyên nhân tác động gây nên thâm hụt thương mại.

Tỷ giá hối đoáiNgày nay, quan hệ thương mại là đa phương, một nước có quan hệ

buôn bán với rất nhiều nước trên thế giới, để có cái nhìn toàn diện hơn về vị thế cạnh tranh của hàng hóa trong nước với các đối tác thương mại khác người ta dùng tỷ giá thực đa phương (tỷ giá trung bình), tỷ giá thực đa phương là một chỉ số phản ánh mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc gia và là cơ sở để đánh giá đồng nội tệ bị định giá cao hay thấp.

Page 5: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Hình 4: Tỷ giá thực và Cán cân thương mại Việt Nam theo quý giai đoạn 1999 –Q1 2010. Nguồn: IFS và tính toán của tác giả.

Từ kết quả tính toán và đồ thị Hình 4 có thể nhận thấy rằng, trong giai đoạn quý 1/1999 đến quý 4/2003, REER có giá trị lớn hơn 100 và có xu hướng tăng, đến quý 1/2004 RERR vẫn có giá trị lớn hớn 100 nhưng có xu hướng giảm dần và đến quý 1/2008 REER có giá trị nhỏ hơn 100 và tiếp tục có xu hướng giảm cho những quý tiếp sau.

Theo lý thuyết kinh tế học, nếu REER lớn hơn 100 thì VND được coi là giảm giá so với các đồng tiền còn lại và ngược lại khi REER nhỏ hơn 100 thì VND được coi là tăng giá so với các đồng tiền còn lại.Khi VND giảm giá sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá Việt Nam được cải thiện, xuất khẩu có lợi thế hơn nhập khẩu nên cán cân thương mại thời kỳ này sẽ được cải thiện.

Ngược lại, khi VND tăng giá thực sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá Việt Nam sẽ bị hạn chế, nhập khẩu sẽ có lợi thế hơn xuất khẩu vì vậy cán cân thương mại thời kỳ này sẽ nghiêng về nhập siêu.

Xét trong thực tế, từ quý 1/1999 đến quý 4/2003 là giai đoạn VND giảm giá thực. So với quý 1/1999 tại thời điểm quý 4/2003 VND giảm giá thực khoản 16,01%, nên trong thời kỳ này cán cân thương mại Việt Nam có nhiều cải thiện (nhiều quý có thặng dư thương mại).

Trong giai đoạn tiếp sau, từ quý 1/2004 đến quý 4/2007, VND giảm giá thực nhưng tỷ lệ giảm so với thời điểm quý 1/1999 giảm dần, cán cân thương mại mất cân bằng mức thâm hụt thương mại bắt đầu gia tăng.

Page 6: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Đến quý 1/2008, VND không còn lợi thế giảm giá thực so với các đồng tiền khác, từ thời điểm này VND bắt đầu tăng giá thực. VND tăng giá đã hỗ trợ cho hoạt động nhập khẩu gia tăng và thực tế số liệu thống kê cho thấy từ Quý 1 năm 2004 đến nay cán cân thương mại đã nghiêng hẳn về nhập siêu.

Tăng trưởng kinh tếNền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển nhanh với mức

tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng 7%. Công nghiệp hóa đặt ra yêu cầu về trang bị cơ sở vật chất hiện đại nên việc nhập khẩu máy móc thiết bị từ bên ngoài là khó tránh khỏi, chưa kể một số ngành nguyên liệu sản xuất phải nhập khẩu vì nguồn trong nước không đủ đáp ứng như sản xuất thép, phân bón.  

Bên cạnh đó, chính sách mở cửa hội nhập trong những năm gần đây đã tạo nhiều cơ hội cho xuất khẩu trong nước nhưng cũng làm gia tăng nhập khẩu, nhất là từ khi Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương như với các nước ASEAN, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),...

Hình 5 cho thấy, tương quan thuận giữa tăng trưởng kinh tế và gia tăng nhập khẩu trong giai đoạn 1999 - 2010 và mức gia tăng nhập khẩu mạnh mẽ sau khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO (so với năm 2006, vào năm 2007 mức nhập khẩu đã tăng 38% và 77% trong năm 2008). 

Hình 5: GDP thực và nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn Q1 1999 – Q1 2010. Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của IMF và GSO.

Page 7: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Ngoài việc gia tăng nhập khẩu đối với máy móc thiết bị, nguyên vật liệu khi thu nhập gia tăng, những sản phẩm tiêu dùng xa xỉ cũng có xu hướng gia tăng.

Hình 6 cho thấy mức gia tăng ôtô nhập khẩu (mạnh nhất là ôtô 12 chỗ ngồi trở xuống trong khoảng 3 năm gần đây) khi thu nhập bình quân đầu người tăng. 

Hình 6: Thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam và số lượng ô tô nhập khẩu giai đoạn 2000 - 2009. Nguồn: Số liệu thống kê của WB và GSO.

Kết luậnDưới góc độ xuất nhập khẩu hàng hóa cho thấy có rất nhiều yếu tố tác

động đến cán cân thương mại của Việt Nam, từ các yếu tố nội tại như mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu đến tác động của các yếu tố vĩ mô như tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế, lạm phát,…

Trong nhiều yếu tố kể trên, theo tác giả nguyên nhân chính gây nên tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài là do mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Khả năng sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu mà chủ yếu là các nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu gần như không đáp ứng được nhu cầu thị trường.

Page 8: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Xuất khẩu phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu đã làm hạn chế nhiều giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, như chính sách tỷ giá, chính sách tự do thương mại,…

Để giảm thâm hụt thương mại Việt Nam bên cạnh việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý, thì cần thực hiện nhiều biện pháp như chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu, cải thiện hiệu quả đầu tư, thu hút có chọn lọc các dự án FDI, khuyến khích tiết kiệm, giảm bội chi ngân sách nhà nước,….

Trong đó việc chuyển đổi cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu là hết sức quan trọng, việc chuyển đổi cần thực hiện theo hướng gia tăng khả năng sản xuất nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu.

Để chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong những năm sắp tới Việt Nam cần  tập trung đầu tư cho các ngành xuất khẩu chủ lực với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao cấp độ chế biến hàng tinh chế, tạo nguồn nguyên phụ liệu cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, từ đó nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động cạnh tranh.

Để làm được điều này, theo tác giả cần thực hiện một số giải pháp như quy hoạch, phát triển các cụm, khu công nghiệp phụ trợ bên cạnh các khu công nghiệp chuyên ngành chuyên sản xuất nguyên phụ liệu, vật tư sản xuất để cung ứng cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu; Chuyển hướng sản xuất và hình thành vùng nguyên liệu cho các ngành đang có thế mạnh như dệt may, xuất khẩu gỗ,…

NDHMoney

Page 9: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Lạm bàn về vấn đề nợ công của Việt NamViettinnhanh - Nợ công của các quốc gia nói chung và của Việt

Nam nói riêng hiện nay đang là vấn đề bàn thảo và tranh luận của nhiều nhà kinh tế cũng như của giới báo chí.

Kỳ 1: Nợ công có thực sự đáng lo ngại? Về vấn đề nợ công Theo công bố mới đây của Bộ Tài chính, tổng nợ nước ngoài của Việt

Nam đến năm 2010 là 32,5 tỉ USD, tăng 4,5 tỉ USD so với mức 27,9 tỉ USD năm 2009. Đáng chú ý là nợ của Chính phủ tăng dần trong giai đoạn 2006 - 2010, với con số tương đương là 27,8 tỉ USD (2010) so với 14,6 tỉ USD (2006). Đồng thời nợ do Chính phủ bảo lãnh cũng có cùng xu hướng tăng, với 4,6 tỉ USD (2010), cao hơn mức 1 tỉ USD năm 2006. Năm 2010, Việt Nam mới trả nợ được 1,6 tỉ USD.

  

Nhằm kiềm chế lạm phát, đầu năm 2011 Chính phủ ra Nghị quyết 11, trong đó có thắt chặt đầu tư công, nhiều dự án thuộc khu vực sử dụng nguồn vốn đầu tư công buộc phải ngừng lại vì thiếu vốn. (Ảnh: B.N)

 Những con số trên một lần nữa lại làm dấy lên nỗi lo lắng của dư luận,

đặc biệt là sự quan ngại đối với vấn đề nợ công và hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Xét theo một khía cạnh nào đấy thì sự quan ngại trên không phải là không có cơ sở.

 Muốn hiểu rõ về khái niệm nợ công, trước hết ta phải tìm hiểu rõ khái

niệm khu vực công. Khu vực công là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ khu vực nhà nước(gồm cả trung ương, địa phương) và doanh nghiệp Nhà nước (trong

Page 10: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

đó bao gồm cả phần vốn đóng góp theo tỷ lệ chi phối, hoặc không chi phối của Nhà nước tại doanh nghiệp), chịu áp lực chính trị cũng như phải chịu trách nhiệm về nợ nần chung.

 Nợ là một phần của tổng tiêu sản mà người mượn phải trả, hoặc là trả

vốn hoặc trả cả vốn và lãi, hoặc bằng hàng hóa và dịch vụ cho người cho mượn ở một hay nhiều thời điểm trong tương lai. Nợ như vậy sẽ bao gồm: nợ vay như nợ ngân hàng, nợ qua việc bán trái phiếu, tiền trả trước của khách hàng, bổn phận phải chi trả khác (ví dụ nhà nước nợ công chức tiền hưu trí hứa hẹn sau khi về hưu).

 Nợ như vậy không bao gồm cổ phiếu hay phần hùn, thí dụ cổ phiếu

hoặc phần hùn do công ty phát hành không phải là nợ của công ty đó với người sở hữu cổ phiếu hoặc phần hùn. Trong trường hợp chính phủ bảo lãnh nợ, thì chỉ ghi thành nợ chính phủ khi chính phủ phải thực hiện việc trả nợ.

 Nợ công theo định nghĩa như trên là rộng hơn so với nợ nhà nước. Các

tổ chức quốc tế hiện nay khuyến khích các nước tính toán và theo dõi nợ công, chứ không chỉ nợ nhà nước. Lý do là vì nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam), có khu vực quốc doanh lớn (xuất phát từ chính sách định hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo). 

 Về nguyên tắc luật pháp, trong trường hợp quốc doanh hay tư doanh đã

được chấp nhận là công ty trách nhiệm hữu hạn, thì khi phá sản, người chủ sở hữu không chịu trách nhiệm gì về nợ nần của các công ty này ngoài tài sản đã góp. Tuy nhiên trên thực tế thì khác hẳn. Thứ nhất, nhiều công ty quốc doanh không phải là công ty trách nhiệm hữu hạn. Thứ hai, dù là công ty trách nhiệm hữu hạn, về mặt chính trị, nhà nước không thể thoái thác trách nhiệm nợ của họ.

 Qua đó cho thấy, số liệu nợ mà Bộ Tài chính Việt Nam phổ biến hiện

nay là nợ nhà nước chứ không phải là nợ công. Nợ công thực tế chắc sẽ lớn hơn nhiều.

 

Page 11: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Thống kê tài chính Việt Nam hiện nay vẫn chỉ tập trung vào nợ nhà nước, nên cũng khó lòng cho thấy toàn cảnh vấn đề tài chính công vì khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn và nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm nợ nần với khu vực này. Đây không phải là vấn đề của nhiều nước châu Á khác, do đó việc so sánh giữa Việt Nam với Thái Lan hoặc Malaysia chẳng hạn là không đúng trên thực tế về mặt nợ công.

 Giới hạn chỉ số nợ công nào là an toàn cho Việt Nam?  Đưa ra một chỉ số giới hạn an toàn cho vấn đề nợ công của một quốc

gia là rất khó khăn và nhiều khi không thực hiện được. Mỗi quốc gia có một đặc thù kinh tế cho riêng mình. Nếu chỉ xét chỉ tiêu tỷ lệ nợ công tính trên GDP để xác định mức độ an toàn là chưa đủ và chưa phản ánh đúng thực chất vấn đề. Khi nhìn vào Bảng cân đối tài khoản của một quốc gia thì các chuyên gia kinh tế thường nhìn cả 2 vế: Tài sản lẫn Nguồn vốn.

 Nợ công và tỷ lệ nợ công tính trên GDP của Việt Nam không phải là

cao. Nếu nói về khả năng trả nợ thì hàng năm Việt nam chỉ phải trả nợ nước ngoài cả gốc lẫn lãi khoảng 1 tỷ USD, đây là số tiền không lớn để chúng ta trả nợ nước ngoài (chỉ tính riêng việc chúng ta xuất khẩu dầu thô đủ khả năng để trả nợ gốc và lãi nợ nước ngoài hàng năm). Các món vay nợ nước ngoài của Việt Nam phần lớn là vay nợ dài hạn.

 

TTQuốc gia Tổng nợ công (USD) Tỉ lệ nợ công/GDP

Mỹ 7.581.480.000.000 53.7 %

Nhật 9.613.320.000.000 191.9 %

Tây Ban Nha 887.312.000.000 62.1 %

Đức 2.507.240.000.000 79.6 %

Hi Lạp 362.838.000.000 99.6 %

Page 12: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Việt Nam 49.302.700.000 51.7 %

(Nguồn: The Economist, năm 2010)

Qua bảng số liệu trên sẽ thấy Mỹ và Đức có nợ công khá lớn, còn nếu nhìn vào tỷ lệ nợ công tính trên GDP thì Nhật bản là nước có tỷ lệ cao nhất. Tuy nhiên, tại sao các tổ chức và chính phủ các nước không lo ngại nợ công tại Đức mà lại rất lo ngại nợ công tại Hy Lạp và Tây Ban Nha?

 Cũng giống như một doanh nghiệp khi họ dùng tiền đi vay để kinh

doanh, nếu họ vay 100 đồng và tài sản của họ sau khi vay nợ để kinh doanh lên tới 200 đồng, doanh nghiệp đó có khả năng trả nợ lãi và nợ gốc thường xuyên cho người cho vay thì chúng ta thấy họ là đối tượng đáng tin hơn là một doanh nghiệp chỉ vay 10 đồng để kinh doanh và họ không có tài sản gì để trả nợ chúng ta.

 Nợ công của một quốc gia cũng vậy. Việc nợ công cao cũng như tỷ lệ

nợ công trên GDP cao chưa phải là đáng lo ngại mà điều chúng ta cần quan tâm là nợ công đó được đầu tư như thế nào, khả năng trả nợ của chính phủ đó ra sao? 

 Nếu số tiền đó được đầu tư hiệu quả thì càng cần phải khuyến khích

vay nợ thêm để chính phủ có thể tạo ra nhiều tài sản và lợi ích cho xã hội hơn, đồng thời số tiền thu được từ nguồn lợi đầu tư của Chính phủ có thể trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn trong tương lai. 

 Ngược lại nếu nợ công không được Chính phủ đầu tư hiệu quả và bị

thất thoát thì nó sẽ trở thành "quả bom hẹn giờ" luôn treo lơ lửng bên cạnh nền kinh tế, nó sẵn sàng bị nổ phá nát nền kinh tế bất cứ lúc nào.

  

* Cách tính nợ công của Việt Nam chưa phản ánh chân thực

một phần quan trọng: Đó là nợ phải trả trong tương lai khi công

chức về hưu. Phần này có thể rất lớn (ở Singapore chiếm tới 50%

GDP). Theo nguyên tắc tính nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, thì mỗi khi

một công chức nhận lương, họ phải đóng vào quỹ về hưu, còn một

Page 13: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

phần khác, có thể bằng hoặc gấp đôi, Chính phủ phải đóng vào quỹ

này. Nhiều nước, không thiết lập ra quỹ này, mà đem chi hết, nên nhà

nước hàng năm lấy tiền ngân sách ra chi trả mà quên đi quỹ kia. 

* Hiện nay, hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Canada,

Úc, Nhật và các nước trong khối Liên hiệp châu Âu (EU) đã tính

nợ theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Ở EU, việc tính này đã thành luật.

Đó là lý do các nước này đều có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn 50%

nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với các nước này là bắt đầu vượt ngưỡng

an toàn. Còn đối với các nước đang phát triển, khi không tính nợ hưu

trí thì có lẽ là 50% (tất nhiên là tùy từng nước, tùy theo nước đó có

chính sách hưu trí cho công chức không và tỷ lệ nằm trong diện công

chức lớn như thế nào). Ở các nước phát triển, tỷ lệ nợ công có thể

bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ nợ nhà nước vì khu vực quốc doanh

không đáng kể, do đó họ vẫn chỉ tập trung vào nợ nhà nước.

 

 Hoàng Sơn

Page 14: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Kỳ 2: Thực trạng nợ công tại Việt Nam

Viettinnhanh - Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008), nợ công và khủng hoảng nợ công hiện nay không chỉ là nỗi lo lắng của chính phủ mà còn là sự quan tâm của cả cộng đồng.

Lạm bàn về vấn đề nợ công của Việt Nam

Zimbabwe - quốc gia có tỷ lệ lạm phát khủng khiếp nhất hiện nay cũng chính là nước có tỷ lệ nợ công trên GDP cao nhất thế giới. Mối liên kết giữa các thành viên trong EU đang bị đe đe dọa bởi khủng hoảng nợ công. Tháng 4/2011, nội các của Chính phủ Mỹ bất đồng vì nợ công.

 

Tại Việt Nam, theo World Factbook của CIA (Central Intelligence Agency), tỷ lệ nợ công so với GDP năm 2009 là 52,30% và Việt Nam hiện đang xếp thứ 44 trong 129 quốc gia về nợ công.

 Theo công bố của Tạp chí Kinh tế The Economist, tỷ lệ nợ công năm

2010 của Việt Nam là 50,935 tỷ USD (tương đương 51,6% GDP). Mặc dù tỷ

Page 15: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

lệ nợ này vẫn nằm trong tầm kiểm soát (dưới 50%/GDP) nhưng nó quá cao so với mức phổ biến ở các nền kinh tế đang phát triển (từ 30-40%) và với thực trạng nợ công của một số nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc (17,4%), Indonesia (26,5%). Ngoài ra, cũng theo The Economist, mức nợ công tính trên đầu người của Việt Nam năm 2010 là 580,91 USD. Nếu so sánh với 713,6 USD (Trung Quốc), 743 USD (Indonesia), 4.184 USD (Malaysia), 1.071 USD (Philippines), 2.064 USD (Thái Lan) thì đây là con số không cao. 

 Tuy nhiên, nếu so mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 2001 xấp xỉ 112 USD; thì trong vòng 10 năm, con số này đã tăng gấp 5 lần. Với thực trạng tỷ lệ tiết kiệm nội địa khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư toàn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP tại Việt Nam hiện nay, thì chắc chắn con số này sẽ tiếp tục gia tăng trong những năm tới. 

 Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngoài có vai trò quan trọng

và chiếm tỷ trọng cao nhất. Năm 2010, trong 56,6% GDP nợ công đã có 42,2% GDP là nợ nước ngoài (biểu đồ 2). Mặc dù nợ công khác với nợ nước ngoài, nhưng hiện nay ở Việt Nam, thông tin chi tiết về nợ công chưa đầy đủ; do vậy, các nhà kinh tế thường sử dụng chỉ số nợ nước ngoài để hình dung quy mô và mức độ nghiêm trọng của nợ công của quốc gia.

 Nguồn cung cấp nợ nước ngoài chủ yếu của Việt Nam là các khoản vay ODA. Theo danh mục nợ công năm 2009 của Bộ Tài chính (BTC), 60,3% nợ công là ODA và 29,8% được tài trợ từ trái phiếu trong nước. 

 Các điều khoản  ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm bớt được áp

lực nợ công; tuy nhiên, tỷ trọng nợ nước ngoài cao tăng nguy cơ rủi ro về cơ cấu nợ trong tương lai. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ trong lịch sử cho thấy, khi tỷ trọng nợ nước ngoài quá cao, Chính phủ mất đi tính chủ động khi ứng phó với các biến động kinh tế thế giới và khó kiểm soát các món nợ vay phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái và tâm lý của nhà đầu tư quốc tế. 

Khủng hoảng nợ Argentina (2001) và sự bất ổn của Hy Lạp hiện nay là minh chứng điển hình cho tác động tiêu cực của nguồn nợ công từ nước ngoài. Trường hợp ngược lại là Nhật, mặc dù có mức nợ công trên GDP cao

Page 16: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

nhưng Nhật Bản vẫn được đánh giá là bền vững do nợ công chủ yếu được tài trợ từ các nhà đầu tư trong nước.

Cơ cấu nợ công của Việt Nam. (Nguồn: Bộ Tài chính).

  Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp,

trong đó chủ yếu là ở mức 1% - 2,99%. Tuy nhiên so với các năm trước, năm 2010, các khoản vay của Việt Nam có lãi suất cao hơn và khoản vay với lãi suất thả nổi đang ngày càng tăng lên, gây thêm áp lực nợ cho Chính phủ. Trong 25,097 tỷ USD tổng nợ nước ngoài của Chính phủ, có 19,313 tỷ USD có lãi suất từ 1 - 2,99%; trên 1,678 tỷ USD chịu lãi suất từ 3 - 5,99% (tăng 176 triệu USD so với 2009) và có tới 1,888 tỷ USD ở mức lãi suất 6- 10%, tăng hơn gấp đôi so với 2009. Ngoài ra, các khoản vay với lãi suất thả nổi cũng tăng 6,66 triệu USD so với 2009. 

 Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ

nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Với thực trạng

Page 17: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

này, rõ ràng chi phí trả lãi đang trở thành gánh nặng ngày càng gia tăng của Chính phủ.

 Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý

thuyết, điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản vay bằng USD (22,95%) và JPY (38,25%) (biểu đồ 3) gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD.

 Như vậy, mặc dù mức nợ công so với GDP của Việt Nam vẫn được

đánh giá là an toàn nhưng cơ cấu nợ công đang ẩn chứa nhiều rủi ro; do vậy, trong tình trạng lạm phát toàn cầu đang gia tăng, nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến về tiền tệ trên thế giới thì quản lý nợ công thế nào cho hiệu quả là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu tại Việt Nam hiện nay.

 

Theo Luật Quản lý nợ công Việt Nam 2009, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Với cách tính này, nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ công của Việt Nam. Tỷ lệ nợ công năm 2009 Việt Nam là 52,6%/GDP, nợ Chính phủ là 41,9%, nợ Chính phủ bảo lãnh là 9,8%, nợ chính quyền địa phương là 0,8%. Con số tương tự của năm 2010 lần lượt là 56,6%, 44,3%, 11,36% và 0,94%.

 Hoàng Sơn

Page 18: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Kỳ 3: Giải pháp nào cho quản lý nợ công Việt Nam hiện nay?

Viettinnhanh - Vay nợ để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều bình thường diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy vậy, nợ bao nhiêu là an toàn lại là một bài toán khó giải. Do đó, cần có biện pháp tính toán kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế và kiểm soát tốt quá trình sử dụng nguồn vốn vay. 

Để nợ công được quản lý chặt chẽ từ khâu vay nợ, sử dụng và thanh toán nợ đến hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng, giữ vững uy tín quốc gia trong thanh toán nợ, đảm bảo an ninh tài chính đối với các khoản nợ công, hạn chế rủi ro, cần phải thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp và có lộ trình cụ thể.

Tỷ lệ thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010. (Nguồn: IMF).

 

Page 19: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Trước mắt, cần xây dựng kế hoạch chiến lược về vay nợ công trên cơ sở và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ.

 Kế hoạch chiến lược về vay nợ công xác định rõ mục đích vay (vay nợ

để tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án đầu tư quan trọng, hiệu quả, vay nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia), mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay trong nước và ngoài nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp.

 Kế hoạch chiến lược về vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng

các khoản vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu sử dụng.

 Bên cạnh đó cần đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng

trưởng của nợ công, có khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ Chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ…

 Đồng thời cần kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay lại và các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh. Chính phủ vay về cho vay lại và bảo lãnh vay là các hoạt động thường phát sinh khi doanh nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn trên thị trường vốn quốc tế, nhưng không đủ uy tín để tự mình đứng ra vay nợ. Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn vốn quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. 

 

Page 20: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia châu Á theo tính toán của ACL. (Nguồn: World Development Indicators và Economist Intelligence Unit 2010). Các khoản vay và bảo lãnh này thực chất là nghĩa vụ ngân sách dự

phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải trang trải các khoản nợ của khu vực doanh nghiệp trong tương lai, khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán. Nguy cơ này sẽ càng cao hơn nữa khi Chính phủ vay và phát hành bảo lãnh không dựa trên những phân tích thận trọng về mức độ rủi ro cũng như năng lực trả nợ của doanh nghiệp.

 Do đó, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm của Nhà nước hoặc thuộc các lĩnh vực ưu tiên cao của quốc gia. Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ trong nước; khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công - tư (PPP).

Page 21: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Thực trạng cán cân vãng lai, cán cân vốn của Việt Nam từ 2005 – 2012. (Nguồn: IMF).

  Ngoài ra, cần phải nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử

dụng vốn vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh. Đây là vấn đề cốt yếu đảm bảo cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công. Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp... ; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay nợ.

 Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải

tuân thủ 2 nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.

Page 22: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

 Cùng với đó, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản

lý nợ công cũng được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu hàng đầu. Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công.

 Thực tế cho thấy, vấn đề người dân quan tâm nhất chưa phải là tỷ lệ mà

là tốc độ tăng nợ hàng năm. Xin lưu ý là tốc độ tăng nợ đối với nước ngoài của Việt Nam ngày càng tăng cao như 4,18% năm 2004, tăng lên 12,66% năm 2005. Đến năm 2006 tăng lên 21,81%, đặc biệt năm 2010 là 34%. Thực chất nguyên nhân tăng đến chóng mặt về tốc độ tăng nợ nước ngoài này là do đâu?

 Để thực hiện được những vấn đề trên, Kiểm toán Nhà nước với tư cách

là cơ quan độc lập về kiểm tra tài chính nhà nước cần được quy định rõ nhiệm vụ kiểm toán nợ công theo Luật Quản lý nợ công và Luật Kiểm toán nhà nước.

 Mặt khác, Chính phủ cần thuê các chuyên gia tư vấn độc lập có chuyên

môn cao, cùng với các chuyên gia có uy tín của nhà nước đánh giá toàn diện về nợ quốc gia, phân tích số liệu gốc, các nguyên nhân chủ quan, khách quan, đề xuất các giải pháp khắc phục trước mắt cũng như lâu dài.

 Tiền vay phải được quản lý chặt chẽ theo những nguyên tắc, được sử

dụng hiệu quả trên cơ sở của Luật quản lý nợ công một cách công khai, minh bạch và có lộ trình trả nợ. Ngoài ra phải có mô hình phát triển kinh tế phù hợp, bền vững để đảm bảo nguồn vốn vay từ nước ngoài được sử dụng hiệu quả và đúng mục đích.

 

Page 23: Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng

Theo ước tính, đến năm 2016 Chính phủ phải trả nợ khoảng

trên 2 tỷ USD. Nhưng việc quản lý nợ công hiện nay đang phải đối

mặt với không ít thách thức. Để bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và

bù đắp thâm hụt ngân sách, nợ nước ngoài đã tăng đáng kể chỉ trong

vài năm trở lại đây. Khả năng trả nợ không thể chỉ dựa vào con số

GDP vì cách tính GDP của Việt Nam vẫn chưa theo thông lệ quốc tế.

Những con số về khoản nợ, ngay cả các chuyên gia chuyên sâu về

kinh tế khó biết sự thật ở đâu. Nợ của nước ta hiện nay là chưa tính

đủ, vì còn thiếu hẳn nợ của khu vực kinh tế nhà nước mà chính phủ

phải chịu trách nhiệm trả nợ (con nợ); phần nợ này không được hiển

thị hoặc không thấy trong số liệu thống kê. Ví dụ ai sẽ phải chịu trách

nhiệm trả những tổn thất và thua lỗ của Vinashin? Hiển nhiên là Nhà

nước, nghĩa là ngoài những khoản Vinashin vay của nước ngoài, tuy

nhiên trong báo cáo thống kê thì không đề cập đến những số liệu này.

Thực tế cho thấy việc quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia

nước ta hiện nay không ít những trường hợp bị "lọt lưới" bởi sự chia

cắt, thiếu thống nhất trong quản lý.