UBND TỈNH CAO BẰNG SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Số: 30/KH-SGD&ĐT CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Cao Bằng, ngày 26 tháng 7 năm 2019 KẾ HOẠCH Phát triển giáo dục và đào tạo năm 2020 Thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 25 tháng 6 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2020; Công văn số 2330/BGDĐT-KHTC ngày 29/5/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) về việc thực hiện xây dựng Báo cáo kế hoạch phát triển giáo dục, đào tạo và dự toán NSNN năm 2020 , Công văn số 2409/UBND-TH ngày 10/7/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2020, Sở GD&ĐT Cao Bằng xây dựng kế hoạch phát triển GD&ĐT năm 2020 như sau: A. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN GD&ĐT NĂM 2019 I. ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 1. Về quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục, quy mô học sinh, cơ cấu trình độ và ngành nghề đào tạo a. Về quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục Hệ thống mạng lưới trường lớp tiếp tục được hoàn thiện ở các cấp học: 100% xã, phường, thị trấn có cơ sở giáo dục MN, trường TH; 100% xã, phường, thị trấn có trường có bậc THCS; 100% huyện, thành phố, có từ 1 -4 trường THPT. Các trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) đã mở rộng qui mô đến các huyện khó khăn; toàn tỉnh có 12 trường PTDTNT cấp huyện, 01 trường PTDTNT cấp tỉnh. Có 199 trung tâm học tập cộng đồng đang phát huy có hiệu quả trong việc bồi dưỡng kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ vào sản xuất cho các đối tượng lao động, chủ yếu là lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp nông thôn. Mạng lưới cơ sở giáo dục, hệ thống trường lớp phát triển, từng bước hoàn thiện đáp ứng nhu cầu học tập cho các đối tượng theo hướng đa dạng hoá. Năm 2018 và đầu năm 2019, tỉnh Cao Bằng tích cực thực hiện công tác dồn, ghép trường, điểm trường nhằm giảm số điểm trường lẻ, trường có quy mô nhỏ; đưa học sinh ở điểm trường lẻ về học tại trường chính, mở rộng quỹ đất xây dựng để có mạng lưới trường, lớp có tính phù hợp cao, vừa đáp ứng tốt nhu cầu trước mắt, vừa đảm bảo ổn định và phát triển lâu dài. Tính đến hết năm 2018, toàn tỉnh có 646 cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông (trong đó có 192 trường mầm non; 241 trường tiểu học; 183 trường THCS; 30 trường THPT), giảm 13 trường so với kế hoạch; 01 trung tâm GDTX tỉnh; 01 trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp;
21
Embed
UBND TỈNH CAO BẰNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMsocaobang.edu.vn/upload/18751/20190729/30_KH-SGDdT.pdf · ghép trường, điểm trường nhằm giảm số
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
UBND TỈNH CAO BẰNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Số: 30/KH-SGD&ĐT
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Cao Bằng, ngày 26 tháng 7 năm 2019
KẾ HOẠCH
Phát triển giáo dục và đào tạo năm 2020
Thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 25 tháng 6 năm 2019 của Thủ tướng
Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân
sách nhà nước năm 2020; Công văn số 2330/BGDĐT-KHTC ngày 29/5/2019 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) về việc thực hiện xây dựng Báo cáo kế hoạch
phát triển giáo dục, đào tạo và dự toán NSNN năm 2020, Công văn số
2409/UBND-TH ngày 10/7/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng về việc xây
dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm
2020, Sở GD&ĐT Cao Bằng xây dựng kế hoạch phát triển GD&ĐT năm 2020
như sau:
A. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN GD&ĐT
NĂM 2019
I. ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM
1. Về quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục, quy mô học sinh, cơ cấu trình
độ và ngành nghề đào tạo
a. Về quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục
Hệ thống mạng lưới trường lớp tiếp tục được hoàn thiện ở các cấp học: 100%
xã, phường, thị trấn có cơ sở giáo dục MN, trường TH; 100% xã, phường, thị trấn
có trường có bậc THCS; 100% huyện, thành phố, có từ 1-4 trường THPT. Các
trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) đã mở rộng qui mô đến các huyện
khó khăn; toàn tỉnh có 12 trường PTDTNT cấp huyện, 01 trường PTDTNT cấp
tỉnh. Có 199 trung tâm học tập cộng đồng đang phát huy có hiệu quả trong việc
bồi dưỡng kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ vào sản
xuất cho các đối tượng lao động, chủ yếu là lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp
nông thôn. Mạng lưới cơ sở giáo dục, hệ thống trường lớp phát triển, từng bước
hoàn thiện đáp ứng nhu cầu học tập cho các đối tượng theo hướng đa dạng hoá.
Năm 2018 và đầu năm 2019, tỉnh Cao Bằng tích cực thực hiện công tác dồn,
ghép trường, điểm trường nhằm giảm số điểm trường lẻ, trường có quy mô nhỏ;
đưa học sinh ở điểm trường lẻ về học tại trường chính, mở rộng quỹ đất xây dựng
để có mạng lưới trường, lớp có tính phù hợp cao, vừa đáp ứng tốt nhu cầu trước
mắt, vừa đảm bảo ổn định và phát triển lâu dài. Tính đến hết năm 2018, toàn tỉnh
có 646 cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông (trong đó có 192 trường mầm non;
241 trường tiểu học; 183 trường THCS; 30 trường THPT), giảm 13 trường so với
kế hoạch; 01 trung tâm GDTX tỉnh; 01 trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp;
2
01 trung tâm phục hồi chức năng và giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật; 01
trường Cao đẳng Sư phạm; 13 trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường
xuyên cấp huyện. Hiện nay, tỉnh Cao Bằng tiếp tục chỉ đạo các huyện, thành phố
thực hiện việc dồn, ghép trường, điểm trường lẻ. Theo đó, dự kiến đến hết năm
2019, tổng số cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông của toàn tỉnh còn 564 (giảm 82
trường) (trong đó có 186 trường mầm non; 174 trường tiểu học; 174 trường
THCS; 30 trường THPT).
Mặc dù vậy, việc dồn ghép các trường, điểm trường còn gặp nhiều khó khăn,
do Cao Bằng là tỉnh miền núi có địa hình phức tạp, điều kiện giao thông hạn chế,
khoảng cách giữa các làng, xã khá lớn, gây nhiều khó khăn cho học sinh đến
trường, dẫn đến khó khăn trong việc duy trì sĩ số lớp học. Bên cạnh đó, do tỉnh
Cao Bằng đang có kế hoạch sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp huyện, xã; do
vậy, hiện tại, việc dồn ghép các điểm trường tại các địa phương được sắp xếp chưa
đủ điều kiện để thực hiện một cách triệt để.
b. Quy mô học sinh, cơ cấu trình độ và ngành nghề đào tạo
* Số lượng, tỷ lệ huy động trẻ, học sinh, sinh viên
Năm 2018, toàn tỉnh có 124.886 trẻ, học sinh tăng 2.579 em so với năm
trước, trong đó: Bậc mầm non: 35.577 trẻ (trong đó có 30.448 trẻ mẫu giáo), cấp
tiểu học: 46.628 học sinh, cấp THCS: 30.039 học sinh, cấp THPT: 12.642 học
sinh. Ước tính năm 2019, tổng số trẻ mẫu giáo và học sinh phổ thông của tỉnh là
126.400 (tăng 1.243 em). Năm 2018, toàn tỉnh có 814 sinh viên Cao đẳng sư
phạm, trong đó có 744 sinh viên thuộc diện trong ngân sách và 70 sinh viên ngoài
ngân sách; năm 2019, quy mô sinh viên dự kiến là 823 em.
* Tỷ lệ đi học so với dân số độ tuổi ở các cấp học như sau:
- Bậc mầm non: Nhà trẻ đạt tỷ lệ 20,5%; Mẫu giáo đạt tỷ lệ 96,0%. Riêng trẻ
5 tuổi ra lớp mẫu giáo đạt tỷ lệ huy động 99,0%.
- Cấp tiểu học: 99,1%. Riêng trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,9%.
- Cấp THCS: 91,83% (tăng 0,60%). Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình
lớp 5 vào lớp 6 đạt trên 99%.
- Cấp THPT: 52,83% (tăng 1,90%). Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS vào lớp
10 đạt 71,3%.
Nhìn chung năm 2018, quy mô trẻ, học sinh tăng so với năm học trước ở tất
cả các bậc học, cấp học. Tăng nhiều ở ngành học mầm non do hệ thống trường,
lớp và cơ sở vật chất phục vụ giáo dục cơ bản đã đáp ứng nhu cầu học tập của
nhân dân trong tỉnh. Số lớp học giảm do thực hiện kế hoạch đưa học sinh tại các
điểm trường về trung tâm để thuận tiện nuôi dưỡng, giáo dục, tăng tỷ lệ học sinh
trên lớp, nâng cao chất lượng giáo dục.
Công tác tuyển sinh và đào tạo các trình độ cao đẳng và đại học (vừa làm vừa
học) gặp nhiều khó khăn do nguồn tuyển hạn chế, nhu cầu đào tạo giảm; hơn nữa,
chỉ tiêu đào tạo trình độ cao đẳng sư phạm ngày càng giảm theo lộ trình của Bộ
3
GD&ĐT (giảm 20% mỗi năm). Tỷ lệ người học giữa các ngành đào tạo không
đồng đều, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng không ổn định do phụ thuộc vào cơ chế,
chính sách, tình hình tuyển dụng viên chức giáo dục hàng năm của địa phương.
Điều này, ảnh hưởng đến việc làm của giáo viên, việc bố trí, sắp xếp công việc
phù hợp và các khó khăn về tài chính của các cơ sở đào tạo.
2. Tình hình phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo viên cơ bản đang được hoàn thiện dần
về cơ cấu; hàng năm được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, nâng cao chất lượng
chuyên môn đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. 100% giáo viên của tỉnh đạt chuẩn
các cấp học; tỷ lệ trên chuẩn của giáo viên mầm non là 61,3% năm 2018 (ước đạt
69% năm 2019); giáo viên tiểu học là 72% năm 2018 (ước đạt 79,1% năm 2019);
THCS là 53,29% năm 2018 (ước đạt 54% năm 2019); THPT 9,79% năm 2018
(ước đạt 10,1% năm 2019). Cán bộ quản lý đạt trình độ chuẩn về trình độ đào tạo,
được bồi dưỡng về kiến thức quản lý giáo dục, quản lý nhà nước, lý luận chính trị
đáp ứng yêu cầu công tác.
Từ đầu năm 2018, tỉnh Cao Bằng không tuyển bổ sung giáo viên và nhân
viên trường học cùng với việc thực hiện dồn ghép trường, điểm trường, lớp lẻ và
việc tinh gọn bộ máy theo Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương. Do vậy, tính đến tháng 6 năm 2019, toàn ngành có 9.962 giáo viên khối
mầm non, phổ thông; giảm 67 người so với năm 2018.
Tuy vậy, xét về đội ngũ, tỉnh Cao Bằng đang gặp một số khó khăn do thiếu
giáo viên đứng lớp tại một số điểm trường mầm non; nhiều trường THCS, tiểu học
thiếu giáo viên ở một số chuyên môn đặc thù (mĩ thuật, âm nhạc, tin học, ngoại
ngữ).
3. Công tác phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông
Trong năm học, tỉnh Cao Bằng đã thực hiện Kế hoạch triển khai Đề án giáo
dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn
2018-2025 ban hành kèm theo Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 của
Thủ tướng Chính phủ. Chỉ đạo các cơ sở giáo dục, hướng nghiệp thực hiện công
tác hướng nghiệp, dạy nghề phổ thông; tổ chức thi và cấp chứng chỉ nghề phổ
thông cho 3.266 học sinh học sinh lớp 8 và 4.390 học sinh lớp 11.
Thực hiện công tác phân luồng thông qua việc chỉ đạo tuyên truyền, hỗ trợ
học sinh và cha mẹ học sinh trong việc lựa chọn hướng đi sau khi tốt nghiệp
THCS và THPT. Kết quả, 70% học sinh tốt nghiệp THCS vào học THPT, số còn
lại đi học GDNN-GDTX, trung cấp chuyên nghiệp, học nghề; học sinh sau khi tốt
nghiệp THPT đăng ký dự thi vào các trường đại học, tỉ lệ học sinh trúng tuyển vào
Đại học, Cao đẳng bình quân hàng năm là 35% trở lên. Phối hợp với Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội chỉ đạo các trung tâm GDNN-GDTX thông báo cụ thể
chương trình học, chế độ chính sách, quyền lợi của các loại hình đào tạo nghề hiện
hành đến các trường THCS; phối hợp tổ chức các buổi tư vấn chọn nghề cho học
sinh lớp 9; chỉ đạo các trường dạy nghề phối hợp với Sở GD&ĐT để quảng bá các
4
chương trình đào tạo nghề trong các hội nghị, hội thảo của ngành giáo dục, đào tạo;
thông báo chỉ tiêu, ngành nghề đào tạo … đến các trường THCS trên địa bàn tỉnh.
4. Nâng cao chất lượng giáo dục và dạy học ngoại ngữ
Tiếp tục triển khai Kế hoạch thực hiện Đề án dạy và học ngoại ngữ trong
trường phổ thông trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2017- 2025; Năm 2018,
tỉnh Cao Bằng ban hành Kế hoạch số 599/KH-UBND thực hiện Đề án dạy và học
ngoại ngữ trong trường phổ thông trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2017-
2025; chỉ đạo đẩy mạnh việc chuẩn hóa năng lực đội ngũ giáo viên tiếng Anh
đồng bộ các cấp học Tiểu học, THCS, THPT trên từng địa bàn huyện, thành phố
để đón nhận hết số học sinh được học tiếng Anh theo chương trình thí điểm từ
Tiểu học lên THCS và THPT. Tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng bậc cho giáo viên
tiếng Anh, cử giáo viên tiếng Anh bồi dưỡng các lớp do Bộ GD&ĐT tổ chức.
Toàn tỉnh có 02 trường THCS và 01 Trường THPT tham gia dạy học thí điểm
chương trình tiếng Anh 10 năm theo Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống
giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020”. Các trường dạy học thí điểm Chương
trình tiếng Anh 10 năm được đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên được bồi
dưỡng đảm bảo đáp ứng yêu cầu.
5. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý
giáo dục
Trong năm học, tỉnh Cao Bằng tiếp tục chú trọng đầu tư hạ tầng cơ sở công
nghệ thông tin trong các cơ sở GD&ĐT, triển khai kết nối internet. Qua đó, nhiều
trường học được trang bị thiết bị và phòng học tin học; hầu hết các cơ sở giáo dục
phổ thông trong tỉnh được lắp đặt hệ thống Internet, thuận lợi cho việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học, quản lý.
Tăng cường chỉ đạo các cơ quan quản lý giáo dục và cơ sở giáo dục thực hiện
ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học, kiểm tra
đánh giá và quản lí giáo dục: như các phần mềm quản lý giáo dục EMIT, PMIT,
phần mềm quản lý thiết bị, phần mềm quản lý thư viện, phần mềm biên soạn ngân
hàng câu hỏi,... Các cơ sở giáo dục đã tích cực phối hợp với các nhà cung cấp dịch
vụ internet trong việc triển khai dịch vụ Vnedu giúp tăng cường trao đổi thông tin,
phối hợp giữa nhà trường với gia đình trong giáo dục học sinh. Tiếp tục thực hiện
việc quản lý văn bản thông qua hệ thống quản lý văn bản trực tuyến Ioffice.
Tiếp tục chỉ đạo việc lắp đặt, vận hành và sử dụng có hiệu quả hệ thống
phòng họp trực tuyến giữa Sở GD&ĐT với 13 điểm cầu tại các trường THPT ở
trung tâm huyện, thành phố; Hệ thống này đã được sử dụng hiệu quả trong việc
bồi dưỡng thường xuyên nội dung 2 cho giáo viên mầm non, tiểu học, THCS của
tỉnh theo hình thức trực tuyến. Tiếp tục triển khai Dự án Giáo dục THCS khu vực
khó khăn nhất trong việc đầu tư hệ thống phòng học trực tuyến sử dụng hiệu quả
trong công tác bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý theo chương trình của Dự án;
Tổ chức và quản lý các hoạt động chuyên môn trên trang mạng “trường học kết
5
nối” một cách hiệu quả phục vụ cho việc sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn theo
hướng nghiên cứu bài học, xây dựng chủ đề dạy học
6. Hội nhập quốc tế trong GD&ĐT
Tiếp tục phối hợp thực hiện chương trình giáo dục đại học với Chính quyền
Quảng Tây, Trung Quốc dành cho tỉnh Cao Bằng, cử học sinh, sinh viên theo học
tại các trường đại học thuộc Chính quyền Quảng Tây, Trung Quốc. Hiện tại, tỉnh
Cao Bằng đang nghiên cứu và chuẩn bị các thủ tục cần thiết cho công tác đào tạo
đối ứng trình độ đại học cho lưu học sinh tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc; theo đó,
mỗi năm từ năm 2019 đến năm 2022, tỉnh Cao Bằng dự kiến dành 02 suất học
bổng cho học sinh thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc sang học trình độ đại học
tại các trường đại học công lập tại thành phố Hà Nội hoặc thành phố Thái Nguyên.
7. Tăng cường cơ sở vật chất đảm bảo chất lượng các hoạt động GD&ĐT
Trong năm học 2018 - 2019, tỉnh Cao Bằng đã ưu tiên đầu tư cho giáo dục,
thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, từng bước tăng cường cơ sở vật chất đảm bảo
chất lượng các hoạt động GD&ĐT. Tiếp tục bố trí các nguồn vốn để tăng cường
cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục thông qua xây dựng mới hoặc cải tạo sửa
chữa các hạng mục thiết yếu như phòng học, thư viện, nhà ăn, nhà bếp, nhà nội
trú. Kết quả, Chương trình kiên cố hóa các trường lớp học mầm non, tiểu học đã
tiến hành đầu tư xây dựng 120 phòng học mầm non, 93 phòng học tiểu học và
đang triển khai công tác chuẩn bị đầu tư xây dựng 58 phòng học mầm non, 88
phòng học tiểu học. Tổng kinh phí đầu tư cho công tác này trong năm học là hơn
100 tỷ đồng. Chương trình mục tiêu giáo dục vùng núi, vùng dân tộc thiểu số,
vùng khó khăn hiện đang triển khai đầu tư, xây dựng mới và cải tạo sửa chữa cho
18 nhà ăn, nhà bếp và 23 khu nội trú tại các trường phổ thông dân tộc bán trú và
trường, điểm trường tiểu học, trung học cơ sở có học sinh bán trú với tổng số vốn
đầu tư gần 70 tỷ đồng.
Triển khai mua sắm bổ sung thiết bị dạy học cho các bậc học đồng thời tiếp
tục phát động phong trào tự làm thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi. Chỉ đạo việc
quản lý và sử dụng thiết bị dạy học một cách hiệu quả, hỗ trợ giáo viên trong quá
trình lên lớp và giúp học sinh trong việc nắm bắt nội dung bài giảng, tăng hứng
thú học tập. Tiếp tục mua sắm bổ sung các phòng thí nghiệm, thực hành bước đầu
đáp ứng được nhu cầu giảng dạy của giáo viên và nhu cầu học tập, thực hành của
học sinh. Mua sắm bổ sung trang thiết bị dạy học tối thiểu, bàn ghế cho 55 trường,
đồ dùng nhà ăn, nhà bếp cho 34 trường, thiết bị khu nội trú cho 37 trường phổ
thông dân tộc bán trú và các trường, điểm trường tiểu học, trung học cơ sở có học
sinh bán trú với tổng số vốn đầu tư gần 50 tỷ đồng.
Tổ chức có hiệu quả việc khai thác và sử dụng các phòng học ngoại ngữ với
các trang thiết bị hiện đại; các phòng tin học, ngoại ngữ tại các trường phát huy tốt
trong việc dạy và học tin học, ngoại ngữ, tạo được sự hứng thú học tập của học
sinh đối với bộ môn tin học và tiếng Anh.
6
Tuy nhiên, công tác đầu tư, quản lý và sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị trường
học vẫn còn một số khó khăn nhất định. Một số địa phương đầu tư chưa đồng bộ;
Việc có nhiều điểm trường, lớp lẻ còn làm cho việc đầu tư cơ sở vật chất cho các
trường không hiệu quả. Số vốn đầu tư bị chia nhỏ, dẫn đến việc đầu tư dàn trải,
manh mún. Cơ sở vật chất, thiết bị trường học hiện nay mới chỉ đạt mức tối thiểu
so với quy định, nên chưa đủ đáp ứng nhu cầu của các cấp học như: phòng học,
phòng chức năng, phòng thư viện, phòng thiết bị, phòng chờ, phòng tin học, ngoại
ngữ...; một số đang và đã xuống cấp, thiếu kinh phí đầu tư cải tạo sửa chữa duy tu
hàng năm... Đặc biệt, do nguồn vốn theo các chương trình, dự án chỉ thực hiện đầu
tư đối với các cơ sở giáo dục thuộc các địa phương là đối tượng thụ hưởng, các cơ
sở giáo dục khác ít có cơ hội được đầu tư.
Công tác đầu tư cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục được thực hiện bởi
nhiều cơ quan quản lý khác nhau, theo phân cấp về quản lý giáo dục và được đầu
tư bởi nhiều nguồn vốn khác nhau; điều này dẫn đến một số khó khăn trong việc
thống kê, quản lý cơ sở vật chất, thiết bị. Tại một số cơ sở giáo dục, việc cập nhật
hệ thống hồ sơ theo dõi, quản lý thiết bị còn chưa đầy đủ, kịp thời; chưa thực hiện
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thiết bị. Công tác theo dõi, phân
loại, bảo quản, đánh giá thực trạng, thanh lý thiết bị, tài sản hư hỏng ở một số cơ
sở giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, nên ảnh hưởng đến việc xây dựng kế
hoạch bổ sung mua sắm thiết bị hàng năm.
Việc đào tạo, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên
trong quản lý, sử dụng cơ sở vật chất và thiết bị dạy học có lúc chưa kịp thời.
Công tác bố trí nhân viên thiết bị của phần lớn cơ sở giáo dục hiện nay còn bất
cập, hầu hết các trường học chưa có biên chế nhân viên thiết bị, việc quản lý thiết
bị các nhà trường chủ yếu giao cho nhân viên thư viện (đối với trường có nhân
viên thư viện) và giao cho giáo viên kiêm nhiệm phụ trách công tác thiết bị trường
học, một số nhân viên không có chuyên ngành đào tạo phù hợp, nên khả năng đáp
ứng yêu cầu công việc chưa cao.
8. Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo; công tác phổ
cập giáo dục, chống mù chữ; công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia
a. Chất lượng giáo dục
Công tác giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên các cấp học, ngành học
được coi trọng; việc kết hợp giáo dục văn hoá với giáo dục thể chất, y tế học
đường; giáo dục đạo đức, pháp luật được chú trọng. Trình độ hiểu biết, năng lực
nhận thức, tiếp cận tri thức mới, khả năng sáng tạo, độc lập tư duy của học sinh,
sinh viên ngày càng được nâng cao, cụ thể:
Giáo dục mầm non:
- 100% trẻ học tại các cơ sở giáo dục mầm non được đảm bảo an toàn; trong
năm học không xảy ra ngộ độc hoặc tai nạn, thương tích.
- 100% trẻ học tại các cơ sở giáo dục mầm non được khám sức khỏe định kỳ
và theo dõi trên biểu đồ phát triển trẻ em, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân: