Page 1
1
PHÂN-TÍCH KINH-NGHIỆM
MỸ-CẢM
TRỰC-GIÁC VỀ HÌNH-TƯỚNG
Vấn-đề Mỹ-Học cận-đại là hỏi xem trong Kinh-nghiệm Mỹ-cảm
hoạt-động của chúng ta trong tâm-lý như thế nào ? Đấy là vấn-đề thứ nhất
rồi mới đến vần-đề thứ hai là hỏi xem sự-vật như thế nào thì gọi được là
Đẹp ? Hai vấn-đề đều trọng-yếu cả, nhưng vấn-đề thứ hai muốn giải-
quyết thì ắt trước hết phải giải-quyết vấn-đề thứ nhất đã. Bởi vì sự-vật có
làm nổi lên Kinh-nghiệm Mỹ-cảm thì mới có thể gọi được là Mỹ, là Đẹp
vậy. Như thế thì chúng ta tất trước hết phải có kinh-nghiệm thế nào là Mỹ-
cảm, rồi sau mới có thể quyết-định sự-vật nào dẫn đến kinh-nghiệm gọi là
Mỹ-cảm .
Vậy Mỹ-cảm Kinh-nghiệm là gì ? Đấy là hoạt-động của tâm-lý trong
khi chúng ta thưởng-thức cái đẹp thiên-nhiên hay cái đẹp nghệ-thuật. Đấy
là một tỉ-dụ của Ramakrishna :
" Bấy giờ tôi lên sáu hay lên bẩy tuổi. Một buổi sớm mai tôi
xách ít gạo rang trong cái giỏ, vừa đi vừa ăn trên bờ ruộng-lúa. Thời-
tiết vào tháng sáu, tháng bẩy, ở góc trời nổi hiện một đám mây đen
thật đẹp, nặng chĩu cơn mưa. Tôi vừa ăn gạo rang vừa ngắm đám
mây. Chẳng mấy chốc mây đen kéo đầy trời, chợt có một đàn hạc
trắng như sữa bay ngang qua đám mây đen kia. Cảnh-tượng đẹp quá
đến nỗi tôi mê-ly ngay vào trong trạng-thái tinh-thần xa-lạ. Cái trạng-
thái ấy đến với tôi làm cho tôi quên mất ý-thức về ngoại-giới. Tôi
ngã bất-tỉnh nhân-sự, và gạo rang đổ tứ-tung trên bờ ruộng. Người đi
qua thấy thế, bế tôi về nhà. Đấy là lần đầu tôi mất ý-thức ngoại-giới
trong trạng-thái xuất-thần " .
_ ( Sri Ramakrishna " The Great Master ". _ Madras -- India )
Page 2
2
Trên đây là trạng-thái điển-hình của Kinh-nghiệm Mỹ-cảm. Chúng ta
đứng ngắm cảnh thiên-nhiên hay tác-phẩm nghệ-thuật cảm thấy cái đẹp
hấp-dẫn đến mê-say, quên mình vào cảnh, nửa cảnh nửa tình nhập vào cõi
mộng như Trang-chu ngắm con bướm trên cành hoa bất-giác " mộng hóa
làm bướm, vù vù như bướm, tự thấy thích-chí không còn biết mình là Chu.
Chợt tỉnh dậy thì lại lù lù là Chu, chẳng biết là Chu mộng làm bướm hay
bướm mộng là Chu ? Chu với bướm hẳn là có phân-biệt. Thế gọi là vật-
hóa " . _ ( Tề Vật Luận )
Đấy là tâm-trạng ngoạn cảnh thẩm-mỹ của văn-nhân nghệ-sĩ .
" Vạn vật tĩnh quan giai tự đắc, tứ thời giai hứng dữ nhân đồng" .
(Muôn vật nhìn một cách bình-tĩnh đều tự mãn-nguyện, bốn mùa có
cái đẹp cảm-hứng cùng với người là một ).
Cái tâm-trạng " vật-hóa " ấy là Kinh-nghiệm Mỹ-cảm thuần-túy
vậy. Cái loại cảnh-giới ấy, hoặc do nghệ-thuật đem lại hay do cảnh thiên-
nhiên, vốn khác nhau vô cùng, nhưng đều là Kinh-nghiệm Mỹ-cảm cả.
Nhiệm-vụ trọng đại nhất của Mỹ-học là phân-tích các loại ấy .
Mỹ-học là một ngành triết-học riêng. Như Hume ( 1711 - 1776 ) hay
Kant ( 1724 - 1804 ) cho tới hiện nay triết-học vốn thiên-trọng về đường
tri-thức-luận. Vấn-đề căn-bản của tri-thức là hỏi xem chúng ta biết sự tồn-
tại của sự-vật vũ-trụ như thế nào ? Vấn-đề này dẫn đến sự chú-ý đặc-biệt
của triết-học cận-đại về sự hoạt-động tâm-lý trong lúc tâm biết vật, phải
chăng chỉ có một lối biết. Theo triết-học phân-tích thì có thể có ba loại tri-
thức về một vật. Giản-đơn nhất là trực-giác ( intuition ), thứ đến là tri-giác
( perception ), sau cùng là khái-niệm ( conception ). Một đứa trẻ mới ra
đời lần đầu-tiên dương mắt nhìn sự-vật hỗn-độn những hình-tướng
( form ), không thể thấy được ý-nghĩa ( meaning ) bởi vì nó không có cách
gì gợi lên những liên-tưởng do kinh-nghiệm đã có được. Cái biết hình-
tướng không có ý-nghĩa ấy khác với cái biết của người lớn, thì gọi là
" trực-giác ". Ví như đứa trẻ mới nhìn thấy bông hoa lại đồng thời nhìn
thấy mẹ nó hái hoa, hay là nghe thấy người khác gọi cái ấy là " hoa ", thì
đến lần thứ hai nó lại nhìn thấy bông hoa nó mới liên-tưởng đến hình-ảnh
mẹ nó hay là tên gọi " Hoa " bấy giờ bông hoa đối với nó thêm có ý-
nghĩa. Cái biết từ hình-tướng đến ý-nghĩa thì gọi là " tri-giác ". Trong tri-
giác, hình-tướng không rời với ý-nghĩa, đối-tượng của biết còn là sự-vật
Page 3
3
cá-thể cụ-thể. Sau khi đã từng-trải thấy nhiều lần bông hoa, có thứ hoa này
hoa khác nhiều vô kể, bấy giờ người ta có thể ly-khai bông hoa cá-biệt để
trừu-tượng-hóa ý-nghĩa của hoa. Người ta đi đến " khái-niệm " là cái biết
siêu-hình-tướng, là cái biết ý-nghĩa, kết-thúc của kinh-nghiệm tới cái biết
thành-thực là cơ-sở của khoa-học .
Về lý-thuyết thì quá-trình phát-triển của ba loại biết là Trực-giác
trước Tri-giác, Tri-giác trước Khái-niệm. Nhưng ở thực-tế trong kinh-
nghiệm chúng không từng rời nhau, Tri-giác quyết không thể Trực-giác
mà có được, bởi vì chúng ta trước hết ắt phải cảm-giác đến hình-tướng sự-
vật rồi sau mới có thể biết đến ý-nghĩa của nó, cũng như Khái-niệm không
thể rời khỏi Tri-giác mà có được, bởi vì toàn-thể cái biết ắt phải căn-cứ
vào cái biết cá-biệt. Trái lại Tri-giác cũng không rời khỏi Khái-niệm, bởi
vì Tri-giác phải căn-cứ vào kinh-nghiệm đã qua để giải-thích sự-vật trước
mắt, mà phần lớn kinh-nghiệm đã qua tồn-tại trong tâm ở hình-thức Khái-
niệm. Khi nói bông hoa đấy là tên gọi chung cho một loại vật, đấy là Khái-
niệm đã có khi ta Tri-giác bông hoa .
Theo Croce, nhà Mỹ-học Ý-Đại-Lợi hiện-đại thì " tri-thức có hai
loại, một là Trực-giác ( Intuition ), một là Danh-lý ( Logical ) ". Tri-thức
Danh-lý gồm cả Tri-giác lẫn Khái-niệm. Theo ông thì tri-thức Trực-giác là
" tri-thức đối với sự-vật cá-biệt " ( knowledge of individual things ). Tri-
thức Danh-lý có thể quy-nạp vào công-thức A làm B như biết Sen là một
loại hoa, tức là qui-nạp từ Tri-giác A ra Khái-niệm B. A tự-thân không có
ý-nghĩa, nó phải nhận cùng với B có quan-hệ mà có ý-nghĩa. Bình-thường
chúng ta Tri-giác hay suy tính không dừng lại ở bản thân của A mà tất
nhiên lấy A làm bàn đạp để bước tới sự-vật quan-hệ với A .
Trực-giác thì không thế. Khi ta Trực-giác A là đem tất cả sức chú-ý
tập-trung vào bản thân của A. Trong tinh-thần chỉ có hình-tướng hay là ý-
tưởng ( image ) của A mà thôi .
Trực-giác với Danh-lý khác nhau. Theo Kant cho tới nay, triết-học
phần lớn phân triết-học ra làm hai bộ-phận nghiên-cứu là Danh-học và Tri-
thức-luận, một bên là đem công việc nghiên-cứu Trực-giác phân ra Mỹ-
học. Mỹ-Học là một loại Tri-thức-luận, ở Danh-lý Tây-phương là
" Æsthetic " dịch ra Hán-văn là Mỹ-Học. Người ta cũng có thể dịch là
Trực-giác-học, vì ở Âu-Tây " Æsthetic " là chỉ vào cái loại hoạt-động tối
Page 4
4
đơn-thuần, tối nguyên-thủy của tầm biết vật. Đấy cũng chính là Mỹ-Cảm,
Kinh-nghiệm Mỹ-cảm cũng là kinh-nghiệm trực-giác, trực-giác hình-
tướng vậy .
Như trên đây giải-thích về Mỹ-cảm Kinh-nghiệm, bất cứ một sự-vật
thuộc thiên-nhiên hay thuộc nghệ-thuật, nếu có thể làm cho ta cảm thấy
đẹp, thì nhất-định là nó có thể làm cho ta cảm thấy hiện lên một cảnh-giới
cụ-thể, hay là một hình-ảnh mới đẹp choán hết cả ý-thức của ta, khiến ta
tập-trung hết cả năng-lực tinh-thần để quán-thưởng nó, không còn để ý vào
cái gì ngoài nó ra nữa. Cái loại kinh-nghiệm ấy là trực-giác về hình-tướng,
hình-tướng là đối-tượng của trực-giác, thuộc về vật, còn trực-giác là hoạt-
động của tâm biết vật, thuộc về ta .
Trong Kinh-nghiệm Mỹ-cảm, trực-giác là chỗ tâm tiếp vật, mà chỉ có
trực-giác thôi. Vật chỉ dẫn đến tâm có hình-tướng thôi. Trong Kinh-
nghiệm Mỹ-cảm chỉ có trực-giác với hình-tướng mà thôi, ngoài ra không
có chi khác nữa, mặc dầu khi đứng trước sự-vật, hoạt động của tâm biết
vật còn có thể có tri-giác khái-niệm. Ngoài trực-giác, vật đối với tâm,
ngoài hình-tướng bản-thân, còn có nhiều ý-nghĩa khác nữa .
Ba Ý-Nghĩa Của Sự-Vật Đối Với Tâm :
Đối với sự-vật chung-quanh ta, chúng ta đều có mấy lối nhận-thức,
tùy theo quan-điểm chúng ta đứng nhìn. Một sự-vật mà chúng ta cho là
đẹp hay xấu, đấy là một nhận-thức. Nhưng cũng còn các lối nhận-thức
khác như cho sự-vật là thật hay giả, có ích-dụng hay vô-dụng, tùy theo
quan-điểm mà chúng ta ước-lượng giá-trị của chúng đối với ta .
Ví như cây thông cổ-thụ trên sườn núi kia, tất cả mọi người nhìn thấy
đều gọi là cây thông, nhưng mỗi người thấy nó một cách, người thấy đứng
gần, người thấy cành lá, người thấy đàng xa. Lại còn tùy theo tâm-lý của
thời-gian thấy cây thông, người thấy nó trong lòng đang vui sướng, người
thấy nó đang khi buồn-phiền lo-âu. Đấy là tâm-lý cùng trường-hợp khác
nhau của ta có ảnh-hưởng đến thái-độ nhận-thức của mình về sự-vật cụ-thể
như cây thông kia chẳng hạn. Cái cây vốn là một vật, mà tùy theo quan-
điểm của mỗi người biến thành nhiều vật. Nay mỗi người đem cái ấn-
tượng nhận-thức được ở cái cây ấy để vẽ nên bức họa hay vịnh nên bài
Page 5
5
thơ, dù nghệ-thuật có đồng đều, khi tác-phẩm đã thành, đem ra so-sánh thì
thấy chẳng tác-phẩm nào giống với tác-phẩm nào hết, mỗi tác-phẩm một
vẻ :
" Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười ".
_ ( Kiều )
Sở dĩ như thế là vì tri-giác của mỗi người không thể hoàn-toàn giống
hệt nhau, vì không thể khách-quan được. Ấn-tượng chúng ta tiếp-nhận ở
sự-vật, ở hình-tướng, đều có mang sắc-thái chủ-quan cả, chẳng nhiều cũng
ít. Một nhà buôn gỗ, một nhà thực-vật-học, một họa-sĩ, cả ba đồng thời
ngắm nhìn một cây thông trên sườn núi. Có thể cho rằng tri-thức của ba
người về cái cây diễn ra cùng một lúc, mà là ba loại tri-giác khác nhau.
Tri-giác của nhà buôn gỗ, thấy cái cây thuộc loại cây dùng vào việc đóng
đồ có giá-trị. Tri-giác nhà thực-vật-học thấy cái cây có lá như cái kim, trái
giống trái cầu, bốn mùa đều xanh tươi, thuộc về loại thực-vật đầy đủ các
bộ-phận nở hoa kết trái. Nhà hội-họa lại chẳng để ý gì đến những sự liên-
quan với cây thông, y chỉ ngắm nhìn vẻ đẹp của nó, tri-giác của y về nó là
một cây cổ-thụ, bốn mùa xanh tốt. Thái-độ tâm-lý phản-ứng, của ba người
trên đây cũng không nhất-trí. Trong lòng nhà buôn gỗ suy-tính xem nên
dùng cái cây để đóng đồ-đạc gì bán được nhiều tiền, sau khi thuê người hạ
xuống thì việc chuyên-chở nó đi như thế nào cho tiện-lợi. Trong lòng nhà
thực-vật-học suy-tính xếp cái cây vào loại nào, chủng nào, phân-tích
những điểm khác biệt của nó với những cây tùng cùng loại với nó, hỏi xem
vì đâu mà nó sống lâu, không bị thời-tiết làm thay-đổi. Nhưng nhà hội-họa
không suy-tính lôi-thôi chi hết, y chỉ mải ngắm nhìn thưởng-thức, nào mầu
xanh của lá, những vân ngoằn-ngoèo có vẩy như rồng của da cây, cùng
dáng ngang-nhiên, vươn cao, có vẻ khí-khái của cây thông .
Xem đấy đủ biết cây thông kia không còn là một vật cổ kính nữa.
Hình-tướng nó tùy theo hứng của người đứng ngắm nhìn mà thay đổi. Cái
ấn-tượng mà chúng ta nhận được ở cây thông chỉ là phản-chiếu tâm-trạng
của ta, hình-tướng cây thông thành ra một nửa của Trời sinh, một nửa của
người tạo nên, đúng như thi-sĩ Nguyễn-Du đã viết :
" Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng ".
Page 6
6
Bởi vì tri-giác của chúng ta dù tầm-thường đến đâu cũng vẫn chứa
khả-năng sáng-tạo. Đối với sự-vật, dù chúng ta hết sức khách-quan ngắm
nhìn, trong tri-giác của chúng ta vẫn còn nhiều thành-phần chủ-quan .
Có con mắt thẩm-mỹ ( thái-độ thẩm-mỹ ) là có thể nhìn thấy cái đẹp
của sự-vật chúng ta ngắm nhìn. Ví dụ trường-hợp ngắm nhìn cây thông
trên đây, nhà hội-họa đã nhìn thấy cái đẹp của nó, vì khi y đứng ngắm nhìn
nó thì lòng y đã sẵn có thái-độ thẩm-mỹ rồi. Còn nhà buôn gỗ với nhà
thực-vật-học, muốn thấy cái đẹp của cây thông như nhà hội-họa, thì phải
bỏ thái-độ nhà buôn gỗ cùng khoa-học đi, nghĩa là bỏ thái-độ thực-dụng
của nhà buôn và thái-độ tìm nguyên-nhân của nhà khoa-học, chỉ còn giữ
lại thái-độ mỹ-cảm để thưởng-thức thôi .
Cả ba thái-độ ấy đều có ở mỗi người chúng ta, nhưng không được
phát-triển đồng đều. Thái-độ thực-dụng là do ý muốn duy-trì sự sống thì
cần phải lợi-dụng hoàn-cảnh bao-hàm ta với vật chung-quanh ta. Cái gì ở
đấy có ích hay có hại cho sự sinh sống thì ở ta phát-sinh tình-cảm yêu,
ghét đối với vật ấy. Thái-độ thực-dụng là do tri-giác thực-dụng tạo nên, tri-
giác thực-dụng do kinh-nghiệm sinh ra. Một đứa trẻ lần đầu gặp lửa liền
cho tay vào, bị lửa đốt bỏng, về sau mỗi khi gặp lại lửa, nó liền nhận-thức
lửa là vật đốt bỏng, bấy giờ lửa mới là vật có ý-nghĩa đối với nó. Đối với
chúng ta cũng thế, sự-vật sở dĩ có ý-nghĩa là do kinh-nghiệm, mà phần lớn
ý nghĩa là do thục-dụng mà ra. Tri-giác là khi giác-quan tiếp-xúc với sự-
vật, tâm-lý ta hiểu rõ được ý-nghĩa của nó, ban đầu chỉ là biết được thực-
dụng của nó, sau khi biết được ý-nghĩa thực-dụng rồi chúng ta mới có
động-tác phản-ứng, hoặc yêu hoặc ghét, hoặc thân hoặc sơ, đối với sự-vật .
" Vật chí tri, tri nhiên hậu hiếu ố hình yên "
_ ( Lễ Ký ) .
Do đấy mà có thái-độ thực-dụng của nhà buôn gỗ đứng trước cây
thông vậy .
Thái-độ của nhà thực-vật-học lại không thế, nó có tính-cách lý-luận
khách-quan, cố làm như không để tình-cảm của mình tham-dự, giữ tinh-
thần " Vô sở vi nhi vi " ( Không làm gì mà làm ). Trong thái-độ khoa-học
rất ít có ý-chí và tình-cảm, nên cái điểm trọng-yếu nhất ở hoạt-động tâm-lý
là suy-luận, tìm tòi trừu-tượng, muốn tìm trong thế-giới hỗn-tạp lấy những
Page 7
7
quan-hệ cùng mạch của sự-vật để rồi thay tri-giác ( percept ) bằng khái-
niệm ( concept ) mà quy về nguyên-lý xếp đặt cho có hàng lối thứ-tự, phân
ra thứ này là " nhân " thứ kia là " quả ", điều này là tất nhiên, điều kia là
ngẫu nhiên v.v…. Đấy là thái-độ của nhà thực-vật-học đứng ngắm cây
thông .
Người buôn gỗ từ cây thông mà nghĩ đến đồ gỗ, tiền lời … Nhà thực-
vật-học nghĩ đến giễ cây, thân cây, hoa lá, ánh-sáng mặt-trời …. Ý-thức
của họ không thể thu gọn vào bản-thân cây thông, mà đi đến sự-vật liên-
quan tới cây thông. Cho nên trong thái-độ thực-dụng và khoa-học, những
ý-tưởng nhận-thức nơi sự-vật không độc-lập mà liên-hệ đến vật khác,
người quan-sát không thể đem tất cả sức chú-ý để chuyên-chú vào bản-
thân vật đối-tượng. Nhưng ở thái-độ cảm-mỹ thì sức chú-ý hết sức tập-
trung, cô-lập-hóa ý-tưởng, cắt đứt hết liên-hệ khác, ý-thức hình như cùng
với vật đối-tượng hợp vào làm một, khác nào Trang-Chu tưởng mình là
con bướm trong mộng. Nhà họa-sĩ khi ngắm cây thông thì tập-trung tất cả
sức chú-ý vào bản-thân cây thông, ở đấy là tất cả thế-giới đầy đủ của y,
quên cả mình vào trong thế-giới ấy, quên cả ý-nghĩa thực-dụng hay khoa-
học của cây thông. Tất cả ý-thức anh bị cây thông choán hết, ngoài cây
thông không còn vật chi khác nữa. Y chẳng mưu-tính gì về thực-dụng của
cây thông, cho nên trong lòng không có ý-chí với ham muốn, chẳng tìm tòi
quan-hệ nhân-quả cho nên không cần trừu-tượng để suy-tư. Cái hoạt-động
tâm-lý ấy, không còn ý-lực lẫn suy-lý trừu-tượng thì gọi là trực-giác. Trực-
giác đoạn-tuyệt hoàn-toàn với các liên-hệ khác gọi là hình-tướng. Mỹ-cảm
Kinh-nghiệm là hình-tướng trực-giác. Đẹp là tính-chất đặc-biệt của sự-vật
hiển-hiện rõ ràng ra hình-tướng cụ-thể ở trực-giác. Khi cụ Nguyễn-Công-
Trứ vịnh cây thông đứng giữa trời ngang-nhiên trên sườn núi đá, cành lá
vui reo trước gió, thì hẳn là cụ đã hoàn-toàn biến thành cây thông, cùng
với thông mà tự-đắc, còn đâu là Vật với Ngã nữa :
" Ngồi buồn lại trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười !
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo .
Giữa trời vách đá treo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông ! "
Page 8
8
Chân, Thiện, Mỹ, Với Trí, Ý, Tình ._
Thái-độ thực-dụng lấy Thiện làm mục-đích tối cao. Thái-độ nghệ-
thuật lấy Mỹ làm mục-đích tối cao. Thái-độ khoa-học lấy Chân làm mục-
đích tối cao .
Ở thái-độ Thực-dụng thì sức chú-ý của chúng ta đặt vào chỗ quan-hệ
giữa vật nọ với vật kia, hoạt-động tâm-lý thiên vào suy-lý trừu-tượng .
Ở thái-độ Nghệ-thuật thì sức chú-ý của chúng ta tập-trung cả vào
hình-tướng bản-thân của vật đối-tượng, hoạt-động tâm-lý thiên vào trực-
giác .
Cả ba phương-diện Thiện, Chân, Mỹ đều do nơi chúng ta đặt giá-trị
cho sự-vật chứ không phải tự nơi bản-thân sự-vật có tính-chất đặc-biệt ấy.
Bỏ quan-điểm của con người đi thì thế-giới sự-vật là một mớ hỗn-tạp,
không có phân-biệt, Thiện ác, Chân ngụy, Đẹp xấu, đều vô ý-nghĩa đối với
nó. Cho nên bất cứ phương-diện nào, Thiện, Chân, hay Mỹ đều mang ít
nhiều tính-chất chủ-quan của chúng ta cả .
" Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ".
Ba thái-độ trên, tuy gán cho ba hạng người trong xã-hội, nhưng bất
quá phân ra để nhận-thức, kỳ thực thì về tâm-lý-học ở mỗi cá-nhân chúng
ta và thường đầy đủ cả ở ba con người, bởi vì chúng đại-biểu cho ba tác-
dụng của tâm-lý như Tứ-Khải trong Thiền Thái-Tông bên Tầu đã viết :
" Tâm chi tam tác dụng : Trí, Tình, Ý
Chuển mê khải ngộ
Ly khổ đắc lạc
Chỉ ác tu thiện
Chân, Mỹ, Thiện
Giải, Tín, Hành vi mục đích " .
_ ( Tứ Khải )
( Ba tác-dụng chính của tâm-lý là Trí-thức, Tình-cảm và Ý-chí
Chuyển-biến cảnh mê lầm, khai phóng ý-thức giác-ngộ
Page 9
9
Dời khỏi cảnh đau khổ, đạt tới cảnh an-lạc
Đình-chỉ điều làm ác, tu-sửa làm điều thiện
Lấy lý-giải, tín-ngưỡng, hành-động làm mục-đích ) .
Trên đây nhà Thiền-sư đã trình-bày khúc-triết thái-độ khoa-học cầu
Chân, thái-độ nghệ-thuật cầu Mỹ và thái-độ đạo-đức cầu Thiện quan-hệ
mật-thiết với ba tác-dụng hoạt-động căn-bản của tâm-lý nhân-loại. Có
hoạt-động tri-thức, tình-cảm và ý-chí mới có khoa-học, nghệ-thuật và đạo-
đức, những hoạt-động ấy đều đầy đủ ở mỗi tâm-lý cá-nhân, không phải
người này chỉ có tác-dụng tâm-lý trí-thức, người kia chỉ có tác-dụng tâm-
lý tình-cảm và người nọ chỉ có tác-dụng tâm-lý ý-chí. Con người là con
người toàn-diện, chỉ vì thiên-trọng quá về chuyên-môn nên mới biến thành
những bộ-phận, để rồi nhìn thế-giới một cách phiến-diện như " ếch nằm
đáy giếng coi trời bằng vung " khiến cho " một cây làm khuất mất cả
rừng ". Chân, Thiện, Mỹ là ba danh-từ, ba khái-niệm ( concept ) trừu-
tượng không thể rời xa với tác-dụng tâm-lý sản-sinh ra chúng. Người ta,
nhân có tác-dụng tâm-lý tiếp-xúc với sự-vật chung-quanh mới hiện ra có
tri-giác này, tri-giác nọ. Sự thật là một dòng biến-đổi không ngừng .
" Thệ giả như tư phù, bất xả tri dạ " _ ( Khổng-Tử )
( Trôi chảy như thế ru, ngày đêm không thôi ).
Bởi thế mà chỉ trực-tiếp với sự-vật thì mới gần với sự-thực sinh-
động, đem thay-thế tri-giác còn nóng hổi bằng những khái-niệm phổ-quát
hợp-lý, chúng ta đi vào cõi chết lạnh-lùng. Nhất là ở phạm-vi văn-học
nghệ-thuật, văn-nghệ-sĩ không làm việc sáng-tác hay thưởng-thức với
những khái-niệm khó-khăn, mà phải đến với sự-vật trực-tiếp để nhân-tình-
hóa sự-vật " Từ hòn đất nặn nên ông bụt ", quên mình vào sự-vật hay là
" vật hóa " như Trang-Chu hóa thành bướm " Vật ngã câu vong " ( Đối
vật và tự-ngã đều mất ). Cho nên đáng lẽ suy-luận những khái-niệm Chân,
Thiện, Mỹ như các triết-gia triết-lý về nghệ-thuật, nhà bình-luận văn nghệ
phải trở về với tâm-lý văn-nghệ để nghiên-cứu qua tác-phẩm nghệ-thuật
những tri-giác, những sự-kiện tâm-lý sáng-tạo và thẩm-mỹ văn-nghệ ngõ
hầu tìm ra những nguyên-lý phê-bình văn-nghệ. Đấy là quan-điểm tâm-lý-
học về nghệ-thuật .
Một sự-vật khiến ta thấy đẹp thì nhất định một cảnh-giới hay một
hình-ảnh ấy trong chốc lát đã choán toàn vẹn ý-thức ta, khiến ta tập-trung
Page 10
10
tất cả chú-ý vào đấy để quan-thưởng, để thích-thú đến nỗi tinh-thần ta mê
ly, quên hết cả sự-vật chung-quanh. Cái loại kinh-nghiệm ấy là trực-giác
hình-tướng. hình-tướng là đối-tượng của trực-giác thuộc về vật, trực-giác
là hoạt-động của tâm biết vật, thuộc về ta. Trong Mỹ-cảm Kinh-nghiệm,
tâm ta tiếp-xúc với vật chỉ là trực-giác, mà dù hoạt-động của tâm biết vật
ngoài trực-giác ra còn có tri-giác lẫn khái-niệm, và vật đối tâm ngoài hình-
tướng còn có nhiều sự-kiện quan-hệ khác nữa, như thực-chất, thành phần,
hiệu-dụng, giá-trị v.v…. Nhưng trong Mỹ-cảm Kinh-nghiệm thì tâm sở dĩ
tiếp-xúc với vật chỉ có trực-giác thôi, mà vật sở dĩ hiện ra cho tâm cũng
chỉ có hình-tướng thôi. Ở bài " Vịnh cây thông " của Nguyễn-Công-Trứ
trên kia, chúng ta nhận thấy tâm-lý của tác-giả đứng trước cây thông hoàn-
toàn chỉ còn có hình-tướng cây thông mà tác-giả đã trực-giác đến nỗi
muốn đồng-nhất mình với cây thông, cây thông cũng nhân-tình-hóa thành
tác-giả .
" Kiếp sau xin chờ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo !
Giữa trời vách đá treo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông ".
Đấy là chúng ta chỉ thấy có trực-giác của Nguyễn-Công-Trứ khi tinh-
thần chú-ý vào cây thông, và trong tinh-thần chỉ còn mỗi cây thông mà
thôi .
" Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng ".
_ ( Kiếu )
Vậy ở thái-độ Mỹ-cảm, cảnh-vật ly-khai :
1) _ Với sự-vật quan-hệ với nó .
2) _ Có thể có hiệu-dụng cho người ta .
Ngoài hai điểm trên, cảnh-vật tự nó có ý-nghĩa, tự nó có giá-trị,
không phải ỷ-lại vào cái gì khác bên ngoài mới có giá-trị, như ở thái-độ
thực-dụng thì giá-trị là ngoại-tại ( extrinsic ). Ở thái-độ thẩm-mỹ thì giá-trị
hoàn-toàn nội-tại ( intrinsic ) độc-lập, tự-túc, không ỷ-lại vào đâu cả .
Page 11
11
" Võng lưỡng vấn ảnh viết :
"_ Nẵng tử hành kim tử chỉ. Nẵng tử tọa kim tử khởi, hà kỳ vô
đặc thác dư ?
" Ảnh viết :
"_ Ngô hữu đãi nhi nhiên giả dã ? Ngô sở đãi hựu hữu đãi nhi
nhiên giả dã ? Ngô đãi xà phó diêu dực dã ? Ô thức sở dĩ
nhiên, ô thức sở dĩ bất nhiên ? "
_ ( Trang-Tử, " Tề Vật Luận " )
( Bong Bóng hỏi Bóng rằng :
( _ Trước đây mi đi, bây giờ mi đứng. Trước kia mi ngồi, bây
giờ mi đứng dậy, sao mi không có đặc cách gì vậy ?
( Bóng đáp :
( _ Ta có đợi vào cái chi mà thế chăng ? Cái vật ta đợi vào lại
có dời vào cái chi mà thế chăng ? Ta dời vào cửa của rắn, cánh
của ve chăng ? Nào biết sở dĩ như thế, nào biết sở dĩ không
thế ? )
Đấy là Trang-Tử đối với cái thái-độ nghệ-thuật, sống tự-do độc-lập
như Ôn-Như-Hầu khao-khát :
" Thoát trần một gót thiên-nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời ".
_ ( Cung Oán Ngâm-Khúc )
Mỹ-Cảm Kinh-Nghiệm Là Sáng-Tạo Nghệ-Thuật ._
Theo quan-điểm tâm-lý-học thì ba động-tác là khích-động, tri-giác,
phản-ứng, tuy phân ra làm ba nhưng nhất-quán một hơi thông-suốt, khích-
động là thành-phần của tri-giác mà tri-giác là dự-bị cho phản-ứng .
" Vật chí tri, tri nhiên hậu hiếu ố hình yên "
( Sự-vật khích-động vào quan-năng của trí, ý-thức mới tri-giác,
rồi sau thái-độ yêu ghét mới phản-ứng )
_ ( Lễ Ký ).
Page 12
12
Tất cả tri-giác đều ngụ tính-chất thực-dụng. Trong thế-giới sự sự vật
vật vốn phức-tạp, tự nó không có ý-nghĩa, tự nó chưa có danh xứng. Nhân-
loại dần dần căn-cứ vào kinh-nghiệm mới bắt đầu đặt tên gọi cho sự-vật
chung-quanh để phân-biệt .
" Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân " ( Phương hướng để tụ-họp
các loại, vật lấy bầy đàn mà chia ). Gọi cái hàng ngày ăn là cơm, cái hàng
ngày mặc là áo v.v….. Bấy giờ sự-vật mới bắt đầu có ý-nghĩa, là phần lớn
do nơi thực-dụng mà có. Gọi là tri-giác là khi nào giác-quan tiếp-xúc với
sự-vật bên ngoài, trong tâm-lý có ý-nghĩa rõ-rệt, ý-nghĩa ấy là do thực-
dụng mà ra. Một khi tỏ rõ hiệu-dụng của sự-vật bấy giờ mới có thể có
động-tác phản-ứng thích-hợp đối với chúng được .
Nói về các loại ý-nghĩa ấy, thì có loại động-vật đều có thể nói là có
tri-giác. Mèo thấy chuột biết chuột là món ăn được, chuột thấy mèo biết
được mèo là giống ăn mình, do đấy mà mèo có thái-độ rình, chuột thấy
mèo thì chạy trốn. Thái-độ của nhân-loại đối với sự-vật cũng tương-tự như
thế. Tuy nhiên giữa người và cầm-thú có điểm khác nhau trọng-yếu này, là
động-vật khi tri-giác sự-vật tức thì y theo bản-năng xung-động mà phát ra
động-tác phản-ứng vội-vàng, không chút lưỡng-lự, hoàn-toàn thụ-động.
Trái lại, nhân-loại phản-ứng có chủ-động, nhờ có bản-lĩnh phản-tỉnh suy-
nghĩ để ước-chế bản-năng xung-động. Chính cái khả-năng phản-tỉnh của
nhân-loại đối với hoàn-cảnh cho nên có văn-hóa, nào khoa-học, triết-học,
tôn-giáo, nghệ-thuật, đều nhờ ở bản-lĩnh phản-tỉnh của nhân-loại mà sinh
ra cả. Bản-lĩnh ấy dùng vào phương-diện thực-dụng thì có tinh-thần
" mưu-định rồi mới hành-động " " ăn có nhai nói có nghĩ ". Dùng vào
khoa-học thì có tinh-thần bình-tĩnh, khảo-xét. Dùng vào phương-diện Mỹ-
cảm thì có tinh-thần mà Ram gọi là " Vô tư quán thưởng " ( Disinterested
comtemplation ) " Vô sở như nhi vi quan thưởng ) .
Trong thái-độ Mỹ-cảm, chúng ta từ tri-giác đến phản-ứng động-tác
dừng lại ở biên-giới để hình-ảnh sự-vật bài-trí trong tinh-thần thành một
bức họa trước mắt mà ngắm. Đấy là mục-đích của nhà thẩm-mỹ không
giống với nhà thực-dụng, không đòi hỏi hiệu-dụng cho nên trong tâm
không có ý-chí cùng dục-niệm. Nó cũng khác với nhà khao-học, không tìm
tòi quan-hệ điều-lý của sự-vật, cho nên ở trong tâm nhà thẩm-mỹ cũng
không có khái-niệm với suy-nghĩ. Nó chỉ có quan-thưởng hình-tướng của
sự-vật thôi. Vì chỉ mê hình-tướng cho nên không để ý đến sự-vật là có thật
Page 13
13
hay không. Cảnh-vật của Mỹ-cảm thường ví như mộng-cảnh, ảo-cảnh.
" Đẹp như mộng " :
" Giấc mộng mưới năm đã tỉnh rồi,
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng,
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời ".
_ ( Tản-Đà )
Đấy là nghệ-sĩ không phân-biệt mộng với thực, nhìn đám mây bay
thành ra " bức tranh vân cẩu " nhà khoa-học chỉ cho là " thế giác " nhà
thực-dụng cho là " hoang đường " nhưng đối với nhà nghệ-sĩ thì chính
đấy là trực-giác hình-tướng .
Mỹ-cảm Kinh-nghiệm là một trạng-thái tâm-lý cực-đoan, tập-trung
hết sức tinh-thần vào một đối-tượng khiến cho hình-ảnh của nó biến thành
một thế-giới độc-lập, tự-túc như nhà tâm-lý-học Đức Münsterberg trong
" Principe of Art Education " viết :
" Nếu anh có thể tưởng biết bản-thân sự-vật, thì chỉ có một
phương-pháp là anh nên đem sự-vật ấy cắt đứt, ly-khai hẳn với sự-
vật khác, khiến cho ý-thức anh hoàn-toán chỉ có một cảm-giác đơn
độc, không để cho tơ-hào cảm-giác sự-vật nào khác lởn-vởn bên cạnh
nó nữa, nếu thực anh có thể làm được đến trình-độ ấy thì chắc chắn
là về sự-vật nó hoàn-toàn cô-lập, về tự-ngã tinh-thần anh hoàn-toàn
ngưng-định ở bản-thân sự-vật kia, đối với nó tâm anh hoàn-toàn
viên-mãn, ý-thức anh hoàn-toàn đầy đủ. Tóm lại, đấy là thưởng-thức
cái Đẹp vậy " .
Khi thi-hào Nguyễn-Du đứng ngắm động Tam-Thanh thì tâm-hồn
dần dần mê-ly vào trong cảnh-vật, quên hết nỗi nhọc mệt đi đường, quên
hết nỗi gần đường xa, trước mắt chỉ còn động Tam-Thanh với mình ngắm.
Rồi đi đến cô-lập-hóa đối-tượng, cảnh-vật bên ngoài cũng biến đi chỉ còn
cảnh-giới tinh-thần " Vật ngã câu vong " ngoại-vật với nội-tâm đều chìm
vào trong Mỹ-cảm Kinh-nghiệm, tức là trực-giác hình-tướng cho chí hình-
tướng cũng mất nốt, chỉ còn có tâm Thiền siêu lên trên cảm-giác lẫn ý-
niệm .
Page 14
14
" Mãn cảnh hư không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly Thiền ".
( Tràn ngập cảnh-vật đều là Không-Hư, đâu còn hình tướng.
Tâm này luôn luôn tập-trung không rời với tâm Thiền ) .
_ ( Vịnh động Tam-Thanh )
Nghệ-thuật đòi gạt đi hết ở trong tâm để có thể thu-lượm được hết cả.
Sự gột sạch đi ấy là gột sạch thế-giới thực-dụng, phiền-tạp, tục-trần ở
trong tâm, như cụ Đồ-Chiểu viết :
" Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi không sờn lòng đây "
_ ( Lục Vân Tiên )
Gột sạch tâm-hồn những ý-nghĩ danh-lợi thực-dụng, ngõ hầu có được
thế-giới thuần-túy ý-tưởng, độc-lập, tự-túc, không lệ-thuộc ỷ-lại vào chi
khác nữa ở bên ngoài. Cũng như Nguyễn-Công-Trứ tập-trung tinh-thần
vào cả cây thông trên sường núi, hình-tướng cây thông choán hết tâm-hồn,
thế-giới trước mắt chỉ còn ý-tưởng phảng-phất như cảnh mộng, thích-thú
mê-ly với mộng đến tưởng mình là cây thông đang vui reo trước gió, quên
cả tâm-tư lo-âu hiện-tại :
" Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười ".
Khi cảnh-vật đã là đối-tượng Mỹ-cảm thì bất cứ là cây thông trong
bức họa hay cây thông trên sườn núi, thẩy đều chỉ là ý-ảnh đơn-thuần.
Những ý-tưởng thật hay giả, có hay không đều thuộc về tri-thức danh-lý,
chỉ quan-hệ với đối-tượng về điều-lý chứ không phải là bản-thân hình-
tướng. Ý-ảnh, ý-tượng, không liên-hệ nhân-duyên ấy là đặc-trưng của Mỹ-
cảm Kinh-nghiệm. Trong giây phút quan-thưởng, người quan-thưởng ở ý-
thức chỉ có ý-tưởng đơn-thuần viên-mãn, y quên hết cả trời đất, thời-gian
không-gian, như người đang say .
" Say là say Nghĩa say Nhân,
Say thơ Lý-Bạch, say đàn Bá-Nha ".
_ (Đồ-Chiểu )
Page 15
15
Mỹ-cảm Kinh-nghiệm, tóm lại là cảnh-giới định-thần, trong ấy
không những chúng ta quên mất thích-thú cảnh-vật ở thế-giới ngoài đối-
tượng mà còn quên mất cả đến sự tồn-tại của chính mình. Trong thuần-túy
trực-giác không có tri-giác, như trường-hợp của Ramakrishna trên kia với
đàn hạc trắng qua đám mây đen .
Tri-giác xuất ra từ sự phân-biệt ta với vật, quên mất sự phân-biệt ấy
đi là cảnh-giới định-thần. Khi nào sự chú-ý chưa thật chuyên-nhất thì còn
có ta với sự-vật phân-biệt. Đến như tâm ta thực chuyên-chú nhất-tâm vào
một ý-tưởng thì bấy giờ không còn biết được ta là ta, vật là vật, mà là đem
tinh-thần đặt hết vào ý-tưởng, vật ngã hóa thành một khí, như Trang-Chu
gọi là " Vật hóa ". Nguyễn-Du gọi là Thiền. Nhà triết-gia Đức cận-đại
Schopenhauer viết trong " Le Monde Comme Volonté Et Comme
Représentation " ( Thế-giới Ý-chí Với Thế-giới Ý-tưởng ) .
" Như qua một cá-nhân bằng vào lực-lượng của tâm rời bỏ
phương-pháp tầm-thường nhìn vào sự-vật, không để cho định-luật lý-
do sung-túc ( the law of sufficient reason ) nó chi-phối trong sự suy-
cầu điều-lý của sự-vật. Cái loại suy-cầu này nhằm mục-đích cuối
cùng không tránh khỏi ý-chí hiệu-dụng. Như quả y có thể như thế,
không lý-hội sự-vật về phương-diện " ở đâu " " thời nào " " bởi đâu
" cùng là " tự đâu ra ( Where, When, Why, Whence ). Y chỉ chuyên
tâm xét-cứu bản-thân thế nào ( What ) của sự-vật, không để cho tư-
hào trừu-tượng cùng khái-niệm của lý-trí tức danh-lý, chiếm-đoạt ý-
thức, đem tất cả tinh-thần chuyên-chú vào vật tri-giác ấy, trong ý-
thức toàn-bộ chỉ có quan-chiếu đối với phong-cảnh rừng cây, núi non
hay là cửa nhà chẳng hạn ở trước mắt khiến cho tự mình như mất hút
trong cảnh sự-vật ấy, quên mất cả tình và ý-chí của mình riêng đi,
qua sinh-hoạt của " tư ngã thuần túy " ( pure subject ) luyện thành
tấm gương sáng của sự-vật, hầu như chỉ có sự-vật ở trong ấy thôi,
cũng không có người để tri-giác sự-vật nữa, y không đem tâm năng-
tri với vật sở-tri ( sujet connaissant et objet de connaisance ) mà phân
chia. Trái lại cả hai hòa vào một thể toàn-bộ ý-thức cùng một bức
họa cụ-thể lồng khít lên nhau. Như quả sự-vật ở trạng-thái như thế,
cùng với bản-thân cắt đứt hết liên-hệ nhân-duyên, mà đồng thời tự-
ngã cũng hết liên-hệ với ý-chí của mình. Kết-cục là vật sở-giác chẳng
còn là vật này, vật nọ mà là ý-tưởng ( idea ) hay là hình-tướng
thường còn suốt từ xưa đến nay … Người chìm vào trong cái vật sở-
Page 16
16
giác ấy, không còn là người này người kia nữa, vì chính y đã tự quên
mất mình vào trong vật sở-giác rồi. Đấy là một chủ-thể thuần-túy tri-
thức, không ý-chí, không thống khổ, không thời-gian vậy " .
Trên đây Schopenhauer cho rằng cái mối lo-âu lớn của người ta trong
nhân-sinh ở tại chỗ có ngã, chủ-thể của ngã là ý-chí. Người ta ai nấy đều là
nô-lệ của ý-chí mình. Có ý-chí thì có tranh-giành, tranh-giành đẻ ra đau-
khổ phiền-não. Trong khi chúng ta thưởng-thức văn-nghệ, chúng ta tạm
thời quên mất tự-ngã, thoát khỏi ràng-buộc của ý-chí. Từ thế-giới ý-chí
bước sang thế-giới ý-tưởng. Bởi thế mà văn-nghệ là một lối giải-thoát đối
với nhân-sinh vậy .
Tổng chi, Mỹ-cảm Kinh-nghiệm là trực-giác hình-tướng. Hình-tướng
thuộc về vật, trực-giác thuộc về ta. Thực ra thì trực-giác ngoài hình-tướng
không còn thấy chi nữa, mà hình-tướng ngoài trực-giác cũng không còn có
thể có tác-động tâm-lý nào khác xuất-hiện. Có hình-tướng tất nhiên có
trực-giác, có trực-giác tất nhiên có hình-tướng. Trực-giác là ở trong tâm
đột-nhiên thấy được một hình-tướng hay là ý-tưởng, đấy là Sáng-tạo vậy.
Nói Mỹ-cảm Kinh-nghiệm là trực-giác hình-tướng cũng chính là bảo Mỹ-
Cảm Kinh-Nghiệm là Sáng-Tạo Nghệ-Thuật vậy .
Mỹ-Cảm Kinh-Nghiệm -- Nhân-Tình-Hóa
Hay Là Tác-Dụng Di-Tình ._
Trong lúc chúng ta tập-trung tinh-thần để ngắm cảnh-vật lấy làm đối-
tượng độc-nhất trong ý-thức, ngoài đối-tượng không còn có chi nữa cả.
Rồi vô-tình ta mê-say cảnh đẹp, vật ngã đều biến cả vào làm một cảnh-giới
như Nguyễn-Công-Trứ trên kia biến vào với cảnh-giới cây thông " đứng
giữa trời mà reo ". Tác-giả đã thích-thú ngắm cây thông, tinh-thần chuyên-
chú đến tưởng-tượng cây thông thành một người reo hát, đồng thời cũng
đem cây thông dắn-dỏi nhập vào tâm mình mà tự mình biến thành cây
thông, muốn " làm cây thông " không muốn " làm người " nữa. Cái loại
hiện-tượng tâm-lý vật ngã đồng-nhất-hóa ấy đã được các nhà Mỹ-học ở
nước Đức cận-đại thảo-luận nhiệt-náo dưới đề-mục " Di Tình Tác Dụng "
( Fonction de Transfert ) .
Page 17
17
Di-Tình Tác-Dụng là đem tình-cảm phóng ra ngoài đến bản-thân sự-
vật, làm cho sự-vật có sắc-thái tâm-lý của mình .
" Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ".
Sự-vật tự nó chẳng sầu chẳng vui, vui sầu là do tự mình tri-giác. Cái
tri-giác ấy phóng ra ngoài cảnh-vật thành thuộc-tính của cảnh-vật. Thi-
nhân và nghệ-sĩ thường nhìn thế-giới như thế, đem cái của mình chủ-quan
phóng ra cảnh-vật, kết-quả làm cho sự-vật chết trở nên linh-động có sinh-
mệnh, sự-vật vô-tình vô-tri vô-giác thành hữu-tình có tri-giác. Trang-Tử
trong Thiên Thu-Thủy có đoạn Ngụ-ngôn :
" Trang-Tử dữ Huệ-Tử chơi trên bờ sông Hào-Lương, Trang-Tử viết:
" _ Du ngư xuất du thung dung, thi ngư lạc dã !
" Huệ-Tử viết :
" _ Tử phi ngư an tri ngư tri lạc ?
" Trang-Tử viết :
" _ Tử phi ngã an tri ngã bất tri ngư tri lạc ? "
_ ( Thu Thủy )
( Trang-Tử với Huệ-Tử dạo chơi trên bờ sông Hào-Lương, Trang-Tử
nói :
( _ Cá Du bơi lội thung-dung, cá vui vậy !
( Huệ-Tử nói :
( _ Anh không phải cá làm sao biết được cá vui ?
( Trang-Tử nói :
( _ Anh không phải tôi, sao biết được tôi không biết cá vui ? )
Qua Ngụ-ngôn lý-thú trên đây, chúng ta thấy được bộc-lộ hai quan-
điểm nhìn sự-vật, quan-điểm khách-quan của nhà khoa-học và quan-điểm
chủ-quan của nhà văn-nghệ. Câu chuyện Ngu-ngôn trên đây giữa hai quan-
điểm có thể đối-chiếu với cuộc đàm-thoại có thực hiện-đại giữa thi-hào R.
Tagore, đại-diện cho tiếng nói của Đông-phương với nhà khoa-học A.
Page 18
18
Einstein đại-diện cho tiếng nói của Tây-phương, buổi trưa ngày 14 - 07 -
1930 tại biệt-thự Kaputh .
" Einstein :
_ Ngài có tin vào một Thượng-Đế biệt-lập bên ngoài thế-giới
không ?
" Tagore :
_ Không phải là biệt-lập. Cái bản-ngã vô-hạn của người ta bao-
hàm cả vũ-trụ. Không có một cái gì có thể có được, nếu không phải
là nằm trong cái bản-ngã nhân-loại. Và như thế chứng-tỏ rằng chân-
lý vũ-trụ là chân-lý nhân-bản. Tôi xin lấy một thực-hiện khoa-học để
minh-chứng. Vật-thể là do nguyên-tử và điện-tử hợp thành với những
khoảng trống gián-cách với nhau. Nhưng vật-thể lại có thể hiện ra là
một khối cứng dắn. Nhân-loại cũng tương-tự, gồm những cá-nhân,
vậy mà chúng cùng nhau có sự liên-hệ thành nhân-loại tương-quan,
đem lại cho thế-gian này tình đồng-loại linh-động. Toàn-thể vũ-trụ
này cũng liên-hệ với chúng ta bằng cách ấy để thành một vũ-trụ
nhân-bản. Tôi đã theo đuổi cái tư-tưởng ấy ở nghệ-thuật, trong văn-
chương và trong cái ý-thức đạo-lý của con người .
" E. :
_ Có hai quan-niệm khác nhau về bản-tính vũ-trụ :
1 ) Thế-giới là một hệ-thống lệ-thuộc nhân-loại.
2 ) Thế-giới là một thực-tại độc-lập với yếu-tố nhân-loại.
" T. :
_ Khi nào vũ-trụ của chúng ta hiện ra trong hòa-điệu với con
người như là vĩnh-cửu, chúng ta biết nó là sự thật, chúng ta cảm thấy
nó như là đẹp .
" E. :
_ Đấy là quan-niệm thuần nhân-bản về vũ-trụ .
" T. :
_ Không thể có quan-niệm nào khác. Cái thế-giới này là một
thế-giới nhân-bản -- quan-điểm khoa-học về vũ-trụ cũng là quan-
điểm của người khoa-học. Có một số tiêu-chuẩn về lý-tính và
Page 19
19
thưởng-thức đem cho nó sự-thật, ấy là tiêu-chuẩn con Người vĩnh-
cửu mà những thực-nghiệm của nó phải qua thực-nghiệm của chúng
ta .
" E. :
_ Đấy là một thực-hiện của cá-thể nhân-bản .
" T. :
_ Phải, một cá-thể vĩnh-cửu. Chúng ta phải thực-hiện nó qua
những cảm-xúc và hoạt-động của chúng ta. Chúng ta thực-hiện con
người siêu-việt, không chút giới-hạn cá-nhân qua những giới-hạn
chúng ta. Khoa-học để ý đến cái gì không giới-hạn và những cá-nhân
đặc-thù. Đấy là thế-giới nhân-bản phi-ngã của sự-thật. tôn-giáo thực-
hiện những sự-thật ấy và liên-hệ chúng với nhu-cầu thâm-trầm của
chúng ta. Cái ý-thức cá-nhân của chúng ta về sự-thật có được ý-nghĩa
đại-đồng. tôn-giáo ứng-dụng vào sự-thật và chúng ta biết sự-thật là
tốt qua hòa-điệu của chúng ta với nó .
" E. :
_ Vậy thì Sự-thật hay là sự Đẹp không độc-lập với Người ?
" T. :
_ Nếu không có người nào hết thì Tướng Appollon de
Belovedera sẽ không còn đẹp nữa ?
" E. :
_ Tôi biểu-đồng-tình đối với quan-niệm ấy về Đẹp, nhưng
không đồng-tình đối với Sự-thật .
" T. :
_ Tại sao không ? Sự-thật được thực-hiện qua con người .
" E. :
_ Tôi không thể chứng-minh quan-niệm của tôi là đúng, nhưng
đấy là tín-ngưỡng của tôi .
Page 20
20
" T. :
_ Cái Đẹp là ở trong lý-tưởng về hòa-điệu hoàn-toàn nó ở tại
bản-tính đại-đồng. Sự-thật là sự hiểu-biết hoàn-toàn của tinh-thần
đại-đồng. Chúng ta cá-nhân cận-đại qua những lỗi-lầm sai lạc của
chúng ta, qua kinh-nghiệm lũy-tích, qua ý-thức giác-ngộ của chúng
ta. Không như thế thì làm thế nào chúng ta có thể biết Sự-thật được ?
" E. :
_ Tôi không thể chứng-minh một cách khoa-học được rằng Sự-
thật phải được quan-niệm như một Sự-thật chính-xác, độc-lập với
nhân-loại. Nhưng tôi tin chắc như thế. Chẳng hạn tôi tin rằng các
định-lý hình-học của Pythagore có nhận-định điều gì gần xác thật,
không quan-hệ với sự có Người hay không có Người. Nói cách khác,
nếu có một thực-tại độc-lập với Người thì cũng có một Sự-thật
tương-quan với thực-tại ấy. Và cũng như thế mà phủ-nhận điều trước
đẻ ra sự phủ-nhận điều sau .
" T. :
_ Sự-thật đồng-nhất với bản-tính đại-đồng, căn-bản phải là
nhân-bản, không thế thì cái gì cá-nhân chúng ta thực-hiện là thật -- ít
nhất là Sự-thật khoa-học và nó chỉ có thể đạt được qua cách-thức
luận-lý. Hay nói cách khác là qua một cơ-quan tư-tưởng của Người .
" E. :
_ Như thế theo quan-niệm của ông …. đấy không phải là
huyễn-tưởng cá-nhân mà là huyễn-tưởng của nhân-loại, coi như một
tổng-thể .
" T. :
_ Ở khoa-học chúng ta tiến-triển trong kỷ-luật tiêu-trừ giới-hạn
chủ-quan tinh-thần cá-nhân chúng ta, và như thế đạt tới sự hiểu-biết
Sự-thật ở tại tinh-thần con Người đại-đồng .
" E. :
_ Vấn-đề bắt đầu hỏi xem Sự-thật có độc-lập với ý-thức chúng
ta không ?
Page 21
21
" T. :
_ Cái gì chúng ta gọi là thật nằm trong điều-lý giữa phương-
diện chủ-quan và khách-quan của thực-tại, cả hai đều thuộc về con
người siêu-ngã .
" E. :
_ Cả đến ở trong sinh-hoạt hàng ngày của chúng ta, chúng ta
cảm thấy bắt-buộc phải gán cho những sự-vật nhật-dụng một cách
thật-tại độc-lập với Người. Chúng ta làm thế để liên-hệ kinh-nghiệm
giác-quan vào một đường hợp-lý. Chẳng hạn, nếu không có ai trong
nhà này, thì cái bàn kia vẫn ở nguyên chỗ của nó .
" T. :
_ Phải, nó ở tại bên ngoài tinh-thần cá-nhân, nhưng không ở
ngoài tinh-thần đại-đồng. Cái bàn tôi tri-giác thì được tri-giác bởi
cùng một loại ý-thức mà tôi có .
" E. :
_ Quan-điểm tự-nhiên của chúng ta đối với sự có thật ngoài
nhân-loại thì không có thể giải-thích hay chứng-minh được, nhưng
nó là một tín-ngưỡng mà không ai có thể thiếu được -- cả giống
người bản-sơ. Chúng ta gán cho Sự-thật một khách-quan-tính siêu
nhân-loại, điều ấy chúng ta không có không được, ấy là thực-tại độc-
lập với cuộc đời chúng ta, kinh-nghiệm và tinh-thần chúng ta -- dù
rằng chúng ta không có thể bảo cái ấy có ý-nghĩa gì .
" T. :
_ Khoa-học đã chứng-minh cái bàn là một vật dắn, ở bề ngoài
đấy là một ảo-tưởng. Vậy thì cái gì mà tinh-thần nhân-loại tri-giác thì
không có thật nữa, nếu tinh-thần kia mất đi. Đồng thời người ta phải
công-nhận rằng cái thực-tại vật-lý cùng tột của cái bàn chỉ là vô số
những trung-tâm điện-lực gián-cách vận-động tuần-hoàn, cái ấy cũng
thuộc về tinh-thần nhân-loại .
_ Trong sự tìm-hiểu Sự-thật mãi mãi có sự xung-đột giữa tinh-
thần nhân-loại đại-đồng với chính cái tinh-thần ấy giới-hạn vào cá-
nhân. Quá-trình thường-xuyên điều-giải sự mâu-thuẫn ấy được thấy
ở trong khao-học và triết-học, và ở trong luân-lý của chúng ta. Bất cứ
Page 22
22
ở trong trường-hợp nào, nếu có một Sự-thật không liên-hệ với nhân-
loại thì bấy giờ đối với chúng ta nó hoàn-toàn không có .
_ Người ta không có gì để tưởng-tượng một tinh-thần trong ấy
thứ-tự xẩy ra của sự-vật không diễn-tiến ở không-gian, mà chỉ diễn ra
ở thời-gian như một tràng thanh-âm của bản nhạc. Đối với tinh-thần
ấy thì về quan-niệm thực-tại tương-tự với thực-tại âm-nhạc, trong đó
hình-học của Pythagore không thể có ý-nghĩa gì hết. Có thực-tại của
giấy hoàn-toàn khác với thực-tại văn-chương. Đối với cái loại tinh-
thần của mọt-giấy ăn chất giấy, thì văn-chương hoàn-toàn không có
thật nữa, nhưng đối với tinh-thần nhân-loại thì văn-chương lại có giá-
trị lớn hơn là chất giấy. Cũng thế, mà một Sự-thật không quan-hệ với
tinh-thần nhân-loại về mặt cảm-giác hay lý-tính thì nó sẽ không là gì
hết chừng nào chúng ta còn là nhân-loại .
" E. :
_ Vậy ra tôi còn tín-ngưỡng hơn ông !
" T. :
_ Tôn-giáo của tôi ở tại sự điều-hòa con Người siêu-ngã, tinh-
thần nhân-loại đại-đồng, ở trong thực-thể cá-nhân tôi. Tôi gọi là
“ Tôn-giáo Nhân-Bản ” ( The Religion of Man ) . "
Nhà thi-hào Ấn-Độ trên đây đã đề-cao quan-điểm nghệ-thuật, trung-
thành với truyền-thống Đông-phương, coi nghệ-thuật như một tôn-giáo
của con Người vũ-trụ-hóa, tức là " Tat Twam Asi = Vũ-trụ Đồng-nhất-
thể ". " Văn dĩ tái đạo " ( Văn-nghệ vận chuyển đạo-lý ) như Khổng-Tử ở
Trung-Hoa nói : " Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân " ( Người
mở-mang các tôn-giáo, không phải tôn-giáo mở-mang ra người ) .
Vậy nghệ-thuật văn-chương có được cái khả-năng ấy là ở tại Mỹ-
Cảm Kinh-Nghiệm nó Sáng-Tạo hình-tướng, nhân-tình-hóa vũ-trụ sự-vật
thiên-nhiên vốn vô-tri vô-giác :
" Sơn thủy hữu tình " .
Page 23
23
Thông thường chúng ta đều có tính suy ta ra người, nhân vì có như thế đối
với ta ._
Hegel thường viết : " Mục-đích của nghệ-thuật đối với người ta là ở
tại làm cho người ta từ ngoại-giới sự-vật tìm trở về tự-ngã ". Ở đây ngụ
thuyết Di-tình Tác-dụng, nghĩa là đặt tâm-hồn mình vào sự-vật để cảm-
thông sự-vật vào nội tâm của chúng vậy .
Di-tình Tác-dụng là tác-dụng mô-phỏng theo người hay nhân-tình-
hóa ( anthropomorphisme ). Lấy người làm tiêu-chuẩn cho sự-vật, lấy
mình làm tiêu-chuẩn cho người, tức là suy bụng ta ra bụng người. Tất cả
tri-thức kinh-nghiệm đều có thể nói do như thế mà có được, đem cái sinh-
mệnh của người chuyển sang cho sự-vật, khiến cho sự-vật vô-tri vô-giác
có được nhân-tình, trở nên linh-động sinh-hoạt, bởi thế mà H. Delacroix
gọi Tác-dụng Di-tình là " Animation de l'univers " ( Sinh-mệnh-hóa vũ-
trụ ). Lấy lý-trí mà xét thì Tác-dụng Di-tình là một loại mê-tín. Nhưng nếu
không có nó thì thế-giới này sẽ là một khối chết khô, nhân-sinh cũng hết
cả thú-vị, nghệ-thuật không có thể nẩy sinh mà tôn-giáo cũng không do
đâu mà xuất-hiện. Thi-nhân, nghệ-sỹ cùng tín-đồ tôn-giáo phần lớn là dựa
vào Tác-dụng Di-tình để thay vũ-trụ, tạo ra một linh-hồn, lấp cái hố ngăn-
cách Người Trời, nhân-sinh với thiên-nhiên. Cái thái-độ ấy có một người
cho là chủ-nghĩa Thần-bí, kỳ thực không có chi là Thần-bí cả. chẳng qua
người ta tin trong vật còn có gì ẩn-tàng bất-khả tư-nghị như A. Einsteins
và R. Tagore trên kia đã thừa-nhận không giải-thích được. Bản lai Tạo-vật
không có gì là bí-mật, là ý ẩn ở tại bản-thân. Cái ý-nghĩa bí-mật ấy là do
người nhìn ra như thế .
" Nhân giả kiến chi vị chi nhân
Trí giả kiến chi vị chi trí ".
( Người nhân-ái thấy nó thì bảo là nhân-ái
Người trí-thức thấy nó thì bảo là trí-thức ).
Nếu phân-tích chủ-nghĩa Thần-bí thì nguyên lai là do Tác-dụng Di-
tình. Một ngọn cỏ, một lá cây, một giòng suối chảy, một tảng đá, xưa nay
chủ-nghĩa phiếm thần nhìn thấy bên trong có sinh-khí ngấm-ngầm huyền-
diệu .
" Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Page 24
24
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai ".
_ ( Nguyễn-Du )
Hay là :
" Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi ".
_ ( Tản-Đà )
Từ chỗ nhận-thức một vật cụ-thể có linh-hồn đến suy-tưởng vũ-trụ có
chủ-thể, điều-khiển vận-hành, tuy phạm-vi lớn nhỏ khác nhau nhưng cùng
một nguyên-lý giống nhau ấy là " Vạn vật đồng nhất thể ". Trong vật với
ngã đồng-nhất ấy, vật ngã giao cảm " đồng đồng vãng lai ", hồn-nhiên qua
lại giao-thông. Tùy theo tâm-hồn người nhìn, người vui nhìn sự-vật tươi,
người buồn nhìn sự-vật u-ám .
Các dân-tộc đều có Thần-thoại và Tôn-giáo, phần lớn đều phát-xuất
từ cái tác-dụng nhân-tình-hóa, suy người ta đến vật, tự mình thấy được hết
thảy cử-động đều có ý-chí linh-hồn, hoặc tâm ý làm chủ-động bèn suy ra
ngoại-vật cũng tương-tự như thế, gió có Thần-gió, sông có Thần-sông, núi
có hồn núi, tất cả hiện-tượng thiên-nhiên đều có quyền-năng siêu-nhiên,
vũ-trụ vận-hành có nhịp-điệu, có trật-tự, tựa hồ như có tâm-linh ý-chí
biểu-hiệu. Nên vũ-trụ có một chủ-thể " Thiên Địa chi Tâm " ( Conscience
cosmique) ( Ý-thức vũ-trụ ). Do đấy nẩy ra chủ-nghĩa tôn-giáo Nhất-Thần.
Theo quan-điểm nghệ-thuật Đông-phương xưa nay, văn-nghê-sĩ nhìn vũ-
trụ như biển-hiệu trò chơi Lila của cái Tâm chủ-thể, gọi là Hóa-Công .
" Hóa nhi đa hy lộng ".
( Trẻ tạo hóa hay đùa cợt ) .
Tác-Dụng Di-Tình trong văn-nghệ có một vai-trò rất lớn. Trong tác-
phẩm bút-ký của văn-sĩ chúng ta thấy mô-tả kinh-nghiệm của Tác-Dụng
Di-Tình. Như George Sand, nữ văn-sĩ Pháp viết trong " Ấn-Tượng và
Hồi-Ức " .
" Tôi có lúc nhảy ra ngoài cái tôi, nghiễm nhiên biến thành một
khối thực-vật, tôi thấy được tôi là cỏ, là chim bay, là ngọn cây, là
mây, là giòng nước chảy, là chân trời, thấy mình có cái loại nhan-sắc
hay hình-thể kia, biến-hóa trong chớp mắt, đi lại không vướng-vấp,
có khi tôi chạy, có lúc tôi bay, có lúc tôi biến đi, có khi tôi hiện ra.
Page 25
25
Tôi hướng về mặt-trời mà nở như bông hoa, hoặc bám vào cành lá
mà ngủ, chim cất cánh bay, tôi cũng bay, ếch, nhái nhẩy tôi cũng
nhẩy, lửa đóm hay ánh sao lấp-lánh tôi cũng lấp-lánh sáng. Tóm lại
mà nói chỗ trời đất tôi nghỉ ngơi phảng-phất như là hoàn-toàn do nơi
tôi khai nở ra vậy ".
Văn-học phái Tượng-trưng, đứng đầu là Beaudelaire cũng viết :
" Anh tập-trung hết tinh-thần vào chỗ quan-sát và thưởng-thức
sự-vật bèn quên mất tự mình có thật, chẳng bao lâu anh cùng với vật
ngoài hỗn-hợp vào làm một thể .
" Anh chuyên-chú nhìn vào một gốc cây đứng trước gió, gió
đưa lắc-lư, chỉ trong khoảng-khắc, đối với tâm-lý nhà thơ là một tỉ-
dụ rất tự-nhiên, ở tâm anh cái cây biến thành một sự-thực. Anh bắt
đầu đem tình-cảm cùng dục-vọng với thương buồn gán cho cây, nó
lắc-lư giao-động, biến thành anh lắc-lư giao-động. Chính tự anh đã
biến thành cái cây. Cũng như thế, anh ngắm bầu-trời xanh-trong,
quang-đãng có một đàn chim bay lượn, anh cảm thấy nó biểu-hiệu
cái gì siêu-phàm thoát-tục, một niềm hy-vọng xưa nay không phai,
anh tự mình biến thành đàn chim bay " .
Nghệ-sĩ không những ngắm cảnh-vật tự-nhiên thường có được tâm-
trạng như thế " Thể vật nhập vi ", nghĩa là đối với tự mình sáng-tạo về
nhân-vật và tình-cảm, luôn luôn như văn-sĩ Pháp Flaubert trong thư đã nói
về sự miêu-tả tiểu-thuyết trứ-danh " Madame Bovary " như sau :
" Lúc viết sách đem cái tự-kỷ quên bẵng đi, sáng-tạo nhân-vật
nào thì sinh-hoạt qua nhân-vật ấy, thật là một sự thích-thú. Ví như
bữa nào tôi đồng thời là một trượng-phu với vợ con, là tình-nhân với
người tình. Tôi đi chơi cưỡi ngựa qua một cách rừng cây, gặp vào
trời thu sương mờ, đầy rừng là lá vàng úa, tôi cảm thấy mình như là
con ngựa, như là gió, là tất cả bọn ấy nói chuyện tình-tứ ngọt-ngào
với lứa đôi, khiến cho bọn ấy tràn ngập sóng tình, mắt chói với ánh-
sáng thái-dương ".
Flaubert xưa nay bị người ta nhận là đại-biểu của phái tả thực. Ông ta
miêu-tả hết sức khách-quan những tình-cảnh, mà còn tự đặt mình vào
trong cảnh-ngộ, tự thân lĩnh-thụ san-sẻ sinh-mệnh của nhân-vật trong
Page 26
26
truyện. Như thế đủ có thể thấy rằng sự phân-biệt khách-quan với chủ-quan
trong văn-nghệ thực là miễn-cưỡng .
Ảnh-hưởng Di-Tình Tác-Dụng đối với công việc sáng-tạo văn-nghệ
còn có thể thấy ở một phương-diện khác nữa. Môi-giới văn-học là ngôn-
ngữ văn-tự. Sáng-tạo và phát-triển ngôn-ngữ văn-tự thường giống với
nghệ-thuật. Theo Croce thì ngôn-ngữ tự bản-thân nó là nghệ-thuật .
Ngôn-ngữ-học với Mỹ-học căn-bản chỉ là một. Không nói chi khác,
chỉ nói cái nghĩa suy rộng của ngôn-ngữ văn-tự. Ở các nước trong ngự-
ngôn văn-tự ý-nghĩa suy rộng phần lớn so với nghĩa gốc được dùng rất
rộng. Nghĩa suy rộng phần lớn bắt nguồn từ liên-tưởng giống nhau tương-
tự với Tác-dụng Di-tình, nhất là ở phương-diện động-từ. Ví như " thổi ",
" dập ", " chạy ", " gọi ", nguyên lai đều biểu-thị động-tác của người hay
động-vật. Ngày nay chúng ta thường nói " gió thổi ", " mưa dập ", " điện
chạy ", " mùi hoa gọi bướm " v.v….
Ngày nay nghĩa rộng dùng thành quen, chúng ta không thấy chỗ mới
mẻ của nó. Nhưng người sáng-tạo lúc đầu ra một nghĩa rộng, đều có phần
nào tính-chất sáng-tạo nghệ-thuật, sự sinh-hoạt và tiến-triển của ngôn-ngữ
có thể xem như một loại nghệ-thuật vậy .
Tác-Dụng Di-Tình có phải là tất cả Kinh-Nghiệm Mỹ-Cảm không ?
Có học-phái chủ-trương thuyết Di-Tình Tác-Dụng với Mỹ-Cảm
Kinh-Nghiệm như là đồng nghĩa. Nhưng thực ra thì Di-tình Tác-dụng
chẳng qua chỉ là một loại Mỹ-cảm Kinh-nghiệm rất phổ-thông. Không gợi
lên Di-tình Tác-dụng vẫn có thể có sức thẩm-mỹ rất cao. Nhà Mỹ-học
nước Đức như Muller Freinfels phân thẩm-mỹ ra hai loại, loại động và loại
tĩnh, loại tham-gia phân-hưởng và loại bàng-quan. Loại tham-gia phân-
hưởng thì quan-thưởng sự-vật, tất nhiên khởi lên Di-tình Tác-dụng, đặt
mình vào trong sự-vật ở tại bản-thân sự-vật để phân chia san-sẻ hoạt-động
cùng sinh-mệnh của sự-vật. Loại bàng-quan thì không khởi lên Di-tình
Tác-dụng, tuy sáng suốt nhìn sự-vật là sự-vật, mình là mình, giữ thái-độ
bình-tĩnh quan-sát hình-tướng mà thấy được cái Đẹp. Đấy cũng là chủ-
trương của Nietzsche, phân ra hai loại nghệ-thuật, một loại thuộc Tửu-
thần-tính ( Dionysian ) chuyên tại nơi mình hoạt-động, lĩnh-hội cái Đẹp
Page 27
27
của thế-giới, như nghệ-thuật âm-nhạc, khiêu-vũ. Một loại thuộc Nhật-thần-
tính ( Appollonian ) chuyên đứng bàng-quan lấy thái-độ bình-tĩnh để
thưởng-thức cái Đẹp của thế-giới như ở nghệ-thuật đồ họa, điêu-khắc
chẳng hạn .
Hai loại người ấy hạng nào có sức thẩm-mỹ hơn ? Người chủ-trương
thuyết Di-tình hẳn là bênh-vực phái tham-gia phân-hưởng cùng phái Tửu-
thần, nhưng thực ra đấy cũng là thiên-kiến. Học-giả Ruskin, người nước
Anh trong " Cận-đại Họa-gia " có nói về tình-cảm để sai ( pathetic fallacy)
tức là Tác-dụng Di-tình. Theo ông thì dòng thi-nhân thứ nhất đều thấy rõ
bản-lai diện-mục của sự-vật. Dòng thứ hai thi-nhân có tình-cảm đặt sai,
đem tình-cảm của mình lầm đi sang cho ngoại-vật. Nay hãy lấy diễn-kịch
và khán-hý-kịch để chứng-minh kẻ bàng-quan với kẻ tham-gia phân-
hưởng nghệ-thuật xem đàng nào có nhiều thú-vị hơn hay là cũng như
nhau .
Theo truyện ký của danh hý-kịch thì có hai phương-pháp để biểu-
diễn, một là thái-độ tham-gia phân-hưởng, quên hẳn mình trong vở-tuồng,
phảng-phất tự mình biến thành vai-trò mình hóa-trang biểu-diễn, phân-
chia, tham-gia tất cả tình-cảm của vai-trò, tất cả cử-động, ngôn-ngữ hoàn-
toàn khuôn theo tình-cảm lúc ấy nó chi-phối, tự nhiên biểu-lộ như không
tự mình cưỡng lại được. Đấy là thái-độ của cô đào trứ-danh Sarah Bernardt
cận-đại ở nước Pháp. Cô nói :
" Thông thường chúng tôi có thể cắt đứt hết cả lo-âu về nhân-
sinh trong thời-gian biểu-diễn, lột bỏ tính-cách của mình đi, khoác
lấy một tính-cách khác, sinh-hoạt trong cảnh mộng quay-cuồng, quên
hết thẩy " .
Và cô ta nhắc lại kinh-nghiệm cô ta diễn vở kịch của Racine :
" Tôi đau buồn, tôi nức nở, tôi kêu thương, tôi gào khóc, tất cả
hoàn-toàn chân-thật. Sự thống khổ của tôi đến nỗi người xem không
chịu nổi, nước mắt của tôi tuôn ra nóng hổi ".
Đấy là phương-pháp biểu-diễn phân-hưởng. Lại còn phương-pháp
thứ hai nữa là phương-pháp bàng-quan. Đấy là thái-độ luôn luôn ý-thức
sáng-suốt về mình trong khi biểu-diễn rất sinh-động tự-nhiên, hết thảy cử-
Page 28
28
động ngôn-gnữ đều là dụng tâm cả, ngoài mặt thì khẳng-khái lâm-ly mà
trong lòng phi-thường bình-tĩnh .
Đấy là phương-pháp biểu-diễn cổ-truyền Trung-Hoa, cũng như ở thế-
kỷ XVIII bên nước Anh có kịch-diễn Garrick nổi tiếng về vai-trò Richard
của Shakespear. Ông diễn đến màn vui thú cực độ, thần-sắc linh-động như
tự nhiên phát-triển đến nỗi cô đào kép hoảng sợ ngay trên sân khấu, ông ta
vẫn bình-tĩnh bên trong, sẽ đưa mắt bảo cô kép bình-tĩnh lại .
Hai phương-pháp biểu-diễn trên, một đàng là thái-độ phân-hưởng
tham-gia khơi lên Tác-dụng Di-tình, biểu-diễn vai-trò nào thì diễn-giả biến
thành vai-trò ấy. Một đàng là thái-độ bàng-quan không cho Tác-dụng Di-
tình khơi lên, biểu-diễn vai-trò nào cũng vẫn tự mình ý-thức được mình.
Về phiá khán-giả cũng có hai thái-độ, tham-gia phân-hưởng và bàng-quan.
Thái-độ chân-chính thưởng-thức là phải bình-tĩnh bàng-quan để xem biểu-
diễn một tấn tuồng như đứng trước một bức họa. Xem toàn-bộ, phân-tích
cân-nhắc các bộ cấu-kết liên-hệ, phân-tích tình lý các nhân-vật. Thái-độ ấy
đương nhiên là thái-độ chính-xác khoa-học chứ không phải thái-độ Mỹ-
cảm nghệ-thuật. Nhưng sau khi cân-nhắc, phân-tích, thẩm-lượng rồi, thì
tác-phẩm càng được thấy tỏ rõ vẻ đẹp, cái đẹp của nó càng thêm đẹp, cái
khéo, cái hay càng khéo càng hay. Bấy giờ thì Mỹ-cảm càng phong-phú
sâu rộng .
Tóm lại, Tác-dụng Di-tình với vật ngã đồng-nhất tuy thường thấy đi
đôi với Kinh-nghiệm Mỹ-cảm, nhưng Tác-dụng Di-tình không phải là bản-
thân của Kinh-nghiệm Mỹ-cảm, và cũng không phải là điều-kiện tất yếu
của Kinh-nghiệm Mỹ-cảm .
Kết-Luận Về Mỹ-Cảm Kinh-Nghiệm ._
1/ Mỹ-Cảm Kinh-Nghiệm là trạng-thái tinh-thần tập-trung, chú-ý hết
sức để xem ngắm, ta chỉ dùng có một bộ-phận của tự-ngã là hoạt-động
trực-giác đối với vật, không dùng tư-tưởng suy-tư tìm-tòi trừu-tượng,
không khơi lên ý-chí cùng dục-niệm. Vật chỉ có một bộ-phận là hình-
tướng đối với ta, ý-nghĩa cùng hiệu-dụng của nó tạm gạt ra ngoài phạm-vi
ý-thức. Ta chỉ tập-trung hết tinh-thần để ngắm-nghía một hình-ảnh ý-
tưởng cô-lập, không còn liên-hệ gì khác .
Page 29
29
2/ Muốn đạt tới trạng-thái ấy chúng ta phải chọn lấy một quan-điểm
thích-đáng, một khoảng cách tâm-lý giữa đối-tượng xem ngắm với nhân-
sinh thực-tế. Nghệ-thuật thành hay bại đều tùy theo quan-điểm, khoảng
cách tâm-lý ấy của quan-thưởng xa, gần như thế nào. Khoảng cách quá
gần thì người ta dễ rơi vào nhân-sinh thực-tế mà mất cái hình-ảnh ý-tưởng
cô-lập không liên-hệ. Khoảng cách xa quá người ta không có được hứng-
thú nữa mà khó hiểu được sự thưởng-thức nghệ-thuật .
3/ Trong khi tập-trung tinh-thần chú-ý quan-thưởng một hình-ảnh, ý-
tưởng cô-lập không liên-hệ, chúng ta thường đi từ chỗ vật với tâm biến
mất để tới chỗ vật ngã đồng-nhất. Từ vật ngã đồng-nhất đi đến vật ngã
giao-lưu, thành nhất khí lưu-thông, trong chỗ ý-thức, ta đem thích-thú
tình-cảm chuyển vào đối-tượng, lấy sắc-thái của vật đối-tượng di chuyển
vào ta. Nhưng cái loại Di-tình Tác-dụng ấy tuy thường thấy đi đôi với Mỹ-
cảm Kinh-nghiệm, nhưng không phải là Mỹ-cảm Kinh-nghiệm, cần phải
có Tác-dụng Di-tình như điều-kiện tất yếu. Có loại ý-vị thích-thú nghệ-
thuật rất cao mà không bình-tĩnh bàng-quan. Càng bình-tĩnh bàng-quan
càng ngắm thấy cái đẹp của hình-tướng .
4/ Trong Kinh-nghiệm Mỹ-cảm ta thường bắt chước, mô-phỏng
trong tưởng-tượng những sắc-thái động-tác ta thấy, đồng thời ta cũng phát-
xuất các vận-động thích-ứng làm cho tri-giác càng thêm sáng-suốt. Nhân
đấy mà da thịt gân cốt cùng các quan-năng sinh-lý khác biến-hóa thay-đổi.
Trong khi ta tập-trung hết năng-lực tinh-thần, tuy không ý-thức sáng-suốt
rõ ràng được sự biến-đổi sinh-lý ấy, cùng cảm-giác biến-hóa kia, nhưng
chúng có thể ảnh-hưởng lại đến Kinh-nghiệm Mỹ-cảm của ta .
5/ Hình-tướng là vật không cố-định, cùng một sự-vật đối với hàng
ngàn người, hiện ra hàng ngàn hình-tướng khác nhau, ý-nghĩa nông sâu
của sự-vật tùy theo người ngắm xem tính-tình nông sâu mà trở nên nông
sâu " Người làm sao chiêm bao làm vậy ". Trực-giác là dựa vào tính-cách
thích-thú riêng của mình mà thình-lình trong sư-vật xuất-hiện ra hình-
tướng, đấy là sáng-tạo nghệ-thuật. Vậy trực-giác hình-tướng ấy là sáng-tạo
nghệ-thuật. Nhân thế mà sự thưởng-thức nghệ-thuật ngụ có tính-chất sáng-
tạo vậy .
Page 30
30
Những Hiểu Lầm Về Mỹ-Cãm Kinh-Nghiệm ._
Ngộ-giải đầu tiên là sự lẫn-lộn Mỹ-cảm với Khoái-cảm. Người Tầu
cho rượu ngon là Mỹ-tửu :
" Bồ đào mỹ-tửu dạ quang bôi ".
Nhìn một phong-cảnh gọi là Mỹ, là Đẹp, như thế là lẫn-lộn Mỹ-cảm
với Khoái-cảm. Học-giả nước Anh , thế-kỷ thứ XIX dám nói trắng ra rằng:
" Tôi trước nay chưa nhìn thấy một pho-tượng nữ-thần nào đẹp hơn một
nửa cái đẹp của cô gái Anh mỹ-miều tươi thắm ". Nếu quả thực Mỹ-cảm
là Khoái-cảm thì sức hấp-dẫn của cô gái mỹ-miều tươi thắm nước Anh
mạnh hơn là pho-tượng nữ-thần điêu-khắc Hy-Lạp. Nhưng hai chữ Mỹ
trên đây ý-nghĩa khác nhau, không thể như nhau được .
Họa-sư Hòa-Lan là Rambrandt vẽ một bà già nhăn-nheo đầy mặt,
hẳn không có gì khích-động được Mỹ-cảm của Ruskin, thế mà đối với
nghệ-thuật thì ai cũng khen là đẹp .
Trước hết Mỹ-cảm không có nhiễm thực-dụng, nó là hoạt-động " Vô
sở vi nhi vi " tức là vô-tri vô-cầu. Còn Khoái-cảm là do yêu-cầu thực-dụng
được thỏa-mãn. Nhìn một người đẹp nẩy ra Khoái-cảm có thể lấy làm Mỹ-
cảm nhưng thực ra có thể không phải là Mỹ-cảm. Nếu thực anh cảm thấy
muốn cầu hôn-phối với cô ta được, mà bảo là đẹp, là mỹ thì chẳng qua đấy
là tính-dục thỏa-mãn. Nhưng nếu anh có thể vượt lên bản-năng khích-động
tính-dục, chỉ ngắm cô ta hình-tướng cân-đối, trong lòng không có một ý-
niệm động-dục, đấy là không khác gì ngắm pho-tượng điêu-khắc mà anh
thưởng-thức cái đẹp. Thái-độ của Mỹ-cảm thì không có ý-chí cho nên
không có nhiễm dục-vọng .
Thứ đến là Mỹ-cảm phản-chiếu tính-cách thích-thú của ta và thích-
thú của vật qua lại giao-lưu vừa bị-động vừa chủ-động, nửa tình nửa cảnh.
Khoái-cảm tầm-thường hoàn-toàn chịu nhận ảnh-hưởng bên ngoài kích-
thích chi-phối, cái thích-thú của ta với sắc-thái của vật không có thể dung-
hòa thành một hơi, cho nên chỉ có thể bị-động. Mỹ-cảm Kinh-nghiệm trái
lại vừa bị-động, vừa chủ-động. Thái-độ Mỹ-cảm giống như đi thuyền
thuận giòng nước chảy, tùy giòng nước mà trôi lượn. Tùy theo giòng nước
di-động thì chúng ta làm chủ-động. Nói về thuyền trôi thì sức nước không
Page 31
31
chống lại, thế là chúng ta bị-động. Nếu chúng ta muốn đi ngược giòng, hay
là cố ý muốn quay mũi thuyền lại, đấy là mất thái-độ Mỹ-cảm vậy .
Ba là trong khi chúng ta hưởng-thụ Khoái-cảm tầm-thường, trong ý-
thức ta rõ ràng thấy mình đang hưởng-thụ. Trong Mỹ-cảm Kinh-nghiệm,
ý-thức ta chỉ có một hình-ảnh ý-tưởng độc-lập không liên-hệ với chi hết.
Nếu thực đồng thời ta tưởng đến " ta hiện đang thấy thích-thú " thì sức
chú-ý từ bản-thân hình-ảnh ý-tưởng kia chuyển sang ảnh-hưởng do ý-
tưởng tạo ra, trong tâm bấy giờ sẽ có hai vật : một ý-tưởng để thưởng-thức,
một sự-kiện là nó làm cho ta thích-thú, một ý-tưởng để thưởng-thức không
còn độc-lập một mình, không liên-hệ nữa, mà hoạt-động của ta không còn
là trực-giác nữa mà biến thành danh-lý, khái-niệm. Chúng ta đối với một
tác-phẩm nghệ-thuật hay một phong-cảnh, càng thưởng-thức càng thích-
thú bao nhiêu thì càng thấy quên mất mình trong sự thưởng-thức mê say,
càng không thấy được cảm-giác nó sinh ra là thích-thú. Nếu tự mình thấy
được Khoái-cảm thích-thú thì khác gì soi đèn tìm bóng mình, sáng đến đâu
thì bóng mất đến đấy. Cũng như thế mà thái-độ Mỹ-cảm biến đi khi mình
thấy được mình thích-thú. Cái chỗ Mỹ-cảm đi đôi với Khoái-cảm là ở tại
đương thời, tại chỗ, đều không cảm thấy được. Một khi qua rồi, về sau mới
nhớ lại, cũng như đọc một bài thơ hay xem một bức họa, một màn kịch,
đương thời chỉ thấy đem hết tinh-thần chú-ý vào đấy như cá gặp nước,
không còn nghĩ đến gì khác. Về sau hồi tưởng lại mới thấy được đấy là
kinh-nghiệm thích-thú, Khoái-cảm .
Sự khác biệt giữa thích-thú Khoái-cảm với Mỹ-cảm Kinh-nghiệm rất
dễ thấy. Vậy mà hiện-đại có hai học-phái theo quan-điểm tâm-lý để
nghiên-cứu về Mỹ-học đã rơi vào chủ-trương sai lầm. Một là học-phái
phân-tâm của Freud cho văn-nghệ là thỏa-mãn hóa-trang của dục-vọng.
Tỉ-dụ điển-hình là Thần-thoại Hy-Lạp, Œdipe giết cha lấy mẹ, mà phân-
tâm-học giải-thích bằng tình-ái của đứa trẻ sơ-sinh đối với mẹ bị quan-
điểm luân-lý xã-hội áp-bức, nó ngấm-ngầm hoạt-động trong tiềm-thức, tìm
cách đòi thỏa-mãn .
Thần-thoại ấy diễn-tả thành tấn bi-kịch, thì theo học-phái phân-tâm-
học về nghệ-thuật, vở kịch kia chỉ là biểu-hiện hóa-trang cho cái loại tình-
ái bản-lai của đứa trẻ .
Page 32
32
Chúng ta không phủ-nhận dục-vọng nguyên-thủy là một động-lực rất
lớn của văn-nghệ, nhưng chúng ta phủ-nhận sự thỏa-mãn dục-vọng
nguyên-thủy ấy là cảm-giác riêng-biệt mà nghệ-thuật đem lại cho ta.
Quan-điểm văn-nghệ của phân-tâm-học là đòi theo hoàn-toàn phái Mỹ-học
hưởng-lạc ( Hedonistic Æsthetic ). Sự sai lầm ở tại chỗ lầm Khoái-cảm
của sự thỏa-mãn dục-vọng, với Mỹ-cảm Kinh-nghiệm, hay là ngoài Khoái-
cảm không còn thấy được sự-kiện của Mỹ-cảm trong văn-nghệ. Nội-dung
văn-nghệ hẳn là có quan-hệ với dục-tính. Nhưng trong khi sáng-tạo hay
thưởng-thức một tác-phẩm văn-nghệ, chúng ta không thể đồng thời ý-thức
sự điều-khiển của tính-dục với sự thỏa-mãn của nó. Chắc chắn là phải đem
cái gọi là " biểu-hiện hóa-trang " kia xem như hình-ảnh đối-tượng độc-lập
tự-túc vậy. Dục-vọng một khi đối-tượng-hóa với ý-thức bàng-quan thì
đương-sự đã hết mê để bình-tĩnh quan-sát. Trong cuộc thường mê, ngoài
cuộc thường tỉnh. Tỉnh là thái-độ thưởng-thức giá-trị, mê là Mỹ-cảm Kinh-
nghiệm vậy .
Ngoài học-phái nghệ-thuật phân-tâm-học của Freud ra, ở nước Đức
và nước Mỹ gần đây còn có nhiều nhà tâm-lý-học về Mỹ-học thực-nghiệm
cũng rơi vào cái lỗi lầm lấy Khoái-cảm làm Mỹ-cảm không phân-biệt. Họ
phân phẫu mô-hình nghệ-thuật ra làm nhiều mầu sắc, hình vụn nát, hay là
phân-tích âm-nhạc thành các âm-điệu vụn nát, rồi họ đem các bộ-phận vụn
nát ấy trắc-nghiệm vào người xem hay nghe, hỏi có thích loại này hay ghét
loại kia, mỗi loại tạo-sinh biến-hóa ở tâm-lý và sinh-lý như thế nào. Sau
khi trắc-nghiệm vào một số người rồi, họ làm bản thống-kê về kết-quả, và
nói cái loại mầu sắc này đối với loại người này, tùy theo tuổi-tác thì xấu,
không gợi Mỹ-cảm. Họ quên rằng mỹ-phẩm nghệ-thuật cốt ở chỗ toàn
nhất hòa hài. Cái toàn-nhất ấy mà R. Tagore gọi là " L'Unité Créatrice "
( Nhất-tính Sáng-tạo ), thì không phải là các bộ-phận hợp lại cho cân-đối
điều-hòa. Đem nhan-sắc, đường hình cùng âm-điệu đã phân-tích để luận-
định về xấu, đẹp của một mỹ-phẩm nghệ-thuật chân-chính, có khác gì đem
các bộ-phận giải-phẫu của một thân người tổ-hợp lại để tìm lấy sinh-mệnh
của một người sống vậy. Vả lại cái nhan-sắc, đường hình hay âm-điệu làm
cho người ta thích-thú hay không thích-thú, phần lớn là do tác-dụng sinh-
lý mà ra. Đối với sự-vật đưa đến thích-thú cho sinh-lý, tuy dễ gợi lên Mỹ-
cảm thực, nhưng tự-nhiên thân nó thì nhất-định không phải là đẹp .
Page 33
33
Thái-Độ Mỹ-Cảm Với Thái-Độ Phê-Bình Nghệ-Thuật ._
Mỹ-cảm Kinh-nghiệm như trên đã phân-tích là trực-giác đơn-thuần,
không có quan-hệ với bất cứ suy-luận danh-lý tư-khảo nào hết. Nay thử
hỏi muốn thưởng-thức một tác-phẩm văn-nghệ, chắc hẳn rằng không có
thể trước hết hãy giải-thích xong ý-nghĩa của nó thì làm sao không dùng
đến danh-lý tư-khảo, suy-nghĩ lý-luận được. Ví như đọc một bài thơ,
chúng ta không thể biến ngay nó thành hình-ảnh, ý-tưởng ở trước tinh-
thần, trong tâm-giới được. Tất nhiên là trước tiên phải hiểu ý-nghĩa từng
chữ, từng câu, phân-tích kỹ-thuật về âm-điệu, biết rõ tác-giả của bài thơ
kia đã sáng-tác ra nó trong tình-cảnh như thế nào ? Đấy là dùng danh-lý
tư-khảo, dùng lý-luận suy-tư, đấy là thái-độ khoa-học .
Rất phải, rất đúng ! Nhưng điều ấy không có gì xung-đột với điều
nói về Mỹ-cảm Kinh-nghiệm, không có thể đồng thời cùng hoạt-động với
danh-lý tư-khảo được. Người ta có thể suy-nghĩ danh-lý trước hay sau khi
có Mỹ-cảm Kinh-nghiệm. Trước khi có Mỹ-cảm Kinh-nghiệm thì tư-khảo
danh-lý là giải-thích thấu hiểu, sau khi có Mỹ-cảm Kinh-nghiệm thì tư-
khảo danh-lý là phê-bình. Hai loại hoạt-động ấy dùng hỗ-tương với nhau
nhưng không lẫn lộn .
Một mặt thì nghệ-thuật do trực-giác sản-sinh, đối-tượng của trực-giác
thì ở tại bản-thân hình-tướng, cùng với nhân-sinh thực-tế không quan-hệ.
Bởi thế cho nên thưởng-thức một tác-phẩm nghệ-thuật, cùng sự lý-giải đời
sống của tác-giả là hai sự-kiện giống nhau .
Một mặt khác thì nghệ-thuật là biểu-hiện tình-cảm, cùng với kinh-
nghiệm sinh-hoạt mật-thiết quan-hệ. Như thế thì thưởng-thức tác-phẩm
văn-nghệ không có thể không hiểu rõ cảnh-ngộ sinh-hoạt của tác-giả mà
được .
Đấy là hai phương-diện trong khoa bình-luận văn-nghệ. Cận-đại,
Mỹ-học-gia Âu-Tây trứ-danh như Croce, Clive Bell đều chú-trọng vào
phương-diện thứ nhất. Clive Bell trong " Nghệ-Thuật Luận " ( Art ) viết :
" Thưởng-thức nghệ-thuật, chúng ta không nên biết đến sinh-
hoạt của tác-giả. Ta phán-đoán một bức họa này so với bức họa kia
xem cái nào hơn, sự thực không dùng đến sự giúp-đỡ của lịch-sử.
Page 34
34
Nhưng nếu thực ta muốn giải-thích một tác-giả nào xem tại sao nghệ-
thuật của y dần dần thoái-hóa, biết được rằng cái bệnh lớn của y ở tại
sự lấy phải người vợ tầm-thường, hàng ngày đòi y phải thổi cơm, làm
đảo-lộn cả chỗ sở-dụng của y. Tìm ra thấy sự thoái-hóa của y, đấy là
thuần-túy phán-đoán về Mỹ-cảm. Đến sự giải-thích ra cái nguyên-
nhân thoái-bộ của y, đấy là công-việc của sử-gia ".
Lời phê-bình trên đây của Clive Bell là nhằm vào trào-lưu nghiên-
cứu truyện-ký hiện-đại, mà đại-biểu trứ-danh là Taine và Sainte-Beuve ở
nước Pháp. Theo Taine chủ-trương thì tạo nên nền văn-học của một nước
có ba sức chủ-động lớn là thời-đại, hoàn-cảnh và dân-tộc-tính. Muốn giải-
thích và hiểu rõ ba yếu-tố sự-kiện trên, ba sự-kiện ấy thông-thường thuộc
về phạm-vi lịch-sử. Còn Sainte-Beuve lại chú-trọng về yếu-tố mà Taine đã
sơ-suất bỏ quên ấy là cá-tính riêng của tác-giả. Đối với nhà phê-bình này
thì văn-học cũng như sinh-vật-học, tức là " khoa học tự-nhiên nghiên-cứu
tâm-linh ". Bởi thế mà ông chú-trọng đến đời sống của tác-giả. Học-phái
phân-tâm-học cũng rất chú-trọng đến quan-hệ giữa đời sống của tác-giả
với tác-phẩm. Như ở trên đã trình-bày theo học-phái này thì văn-nghệ là sự
thỏa-mãn cho dục-vọng cá-nhân, tác-giả không mãn-nguyện với thế-giới
hiện-thực mới sáng-tạo ra thế-giới lý-tưởng để bổ-khuyết cho những thiếu-
thốn. Vì thế mà muốn giải-thích một tác-phẩm thì nên hiểu rõ sự sinh-hoạt
nội-tâm của tác-giả, nhất là sinh-hoạt ẩn-ức trong tiềm-thức của y .
Những quan-điểm giải-thích và phương-pháp của học-phái lịch-sử và
mỹ-học trên đây có vẻ như thiên-kiến. Chúng có thể bổ-túc cho nhau.
Giải-thích cùng thưởng-thức văn-nghệ tuy là hai việc, nhưng cả hai đều
phải có đủ. Giải-thích là dự-bị cho thưởng-thức, thưởng-thức là giải-thích
được thấu-đáo. Chỉ nói về thưởng-thức thì sự-tích của tác-giả là ngoài đề,
nhưng nói về giải-thích thì sự-tích của tác-giả rất trọng-yếu. Bởi thế nên
gặp một tác-phẩm nghệ-thuật nào chúng ta nên có hai vấn-đề nghi-vấn :
1) Tác-phẩm ấy biểu-hiện tình-cảm đã phát-sinh như thế nào ?
Động-cơ thúc đẩy ở tại đâu ? Nó có quan-hệ với đời sống của tác-giả thế
nào ? Tác-giả có chịu ảnh-hưởng của ai không ? Tác-giả khi sáng-tác đã
trải qua kinh-nghiệm như thế nào ?
Page 35
35
2) Vấn-đề thứ hai, hỏi xem tác-phẩm ấy có phải là nghệ-thuật
không ? Nó có đưa đến cho ta Mỹ-cảm Kinh-nghiệm không ? Trong khi
ta thưởng-thức nó, trong tâm ta có sự biến-hóa gì ?
Loại vần-đề thứ nhất thuộc về lịch-sử và Tâm-lý-học .
Loại vấn-đề thứ hai thuộc về Mỹ-học .
Bên Âu-Tây học-phái của Sainte-Beuve chỉ bàn về lịch-sử, học-phái
phân-tâm của Freud chỉ bàn về tâm-lý, như thế mới chỉ chú-ý đến loại vấn-
đề thứ nhất. Học-phái của Croce chỉ bàn về Mỹ-học thuần-túy, như thế là
chỉ chú-ý đến loại thứ hai mà thôi. Sự thực cả hai loại vấn-đề không thể bỏ
sót được. Chưa giải-thích thì hẳn là không đủ để bàn-luận và thưởng-thức.
Chỉ có giải-thích mà không thưởng-thức thì mới chỉ làm công việc sử-học,
chưa đi vào lĩnh-vực văn-nghệ vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
( Saigon 1963_Tâm-Lý Văn-Nghệ )