I/ TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ1. TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU 1.1. Khái ni ệm: Trái phiếu là một chứng chỉ vay nợ của Chính phủ hoặc doanh nghiệp, thể hiện nghĩa vụ của ngườ i phát hành ph ải tr ả nợ cho ngườ i n ắm gi ữ trái phiếu một số tiền nh ất định, vào những khoảng thờ i gian nhất định và phải trả lại khoản ti ền gốc khi khoản ti ền vay đến hạn. Trái phiếu là loại chứng khoán nợ , tổ chức phát hành v ới tư cách là người đi vay, ngườ i mua trái phi ếu là ngườ i cho vay, hay còn g ọi là nhà đầu tư. Đố i với ngườ i thiếu vốn, trái phiếu là phương tiệ n vay vốn qua thịtrường; đối với người đầu tư, trái phiếu cũng là một phương tiện đầu tư để thu lờ i. Trái phiếu thể hiện sự ràng buộc pháp lý giữa người đi vay và ngườ i cho vay, người đi vay có trách nhiệ m ph ải tr ả cho chủ nợ một khoản ti ền gốc và lãi nhất định, đây là một hình thức tín dụng có nét đặ c thù riêng, nó ra đờ i muộn hơn các hình thứ c tín dụng khác và phát tri ển mạnh trong nền kinh tếhàng hoá, đặc biệt là ở những quốc gia có thịtrườ ng chứng khoán phát tri ển. 1.2. Phân loại trái phi ếu 1.2.1. Phân loại theo đối tượ ng phát hành - Thứ nhấ t, trái phi ế u Chính phủ:Đểđáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN, Chính phủcác nước thườ ng phát hành trái phi ếu đểhuy động tiền nhàn r ỗi trong các tầng l ớp dân cư và các tổ chức kinh t ế xã hội. Chính phủ một quốc gia luôn đượ c xem là nhà phát hành có uy tín nh ất trên thịtrườ ng. TPCP là một loại chứng khoán nợ , do Chính phủ phát hành, có thờ i hạn, mệnh giá, lãi suất và xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủđối với ngườ i s ở hữu trái phi ếu, TPCP là tên gọi chung của các loại trái phi ếu do KBNN phát hành và trái phi ếu chính quyền địa phương, các cơ quan đượ c Chính phủ cho phép phát hành và đượ c Chính phủđảm bảo thanh toán. Mục đích củ a việc phát hành trái phi ếu Chính phủ là nhằm huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN, đầu tư xây dựng các công trình, dự án trọng điểm hoặc để xây dựng, thực hiện các chương trình mụ c tiêu c ủa Chính phủ. Nguồn thanh toán trái TPCP chủ yếu l ấy t ừ NSNN hoặc nguồn v ốn thu hồi tr ực ti ếp t ừcác công trình được đầu tư từ
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
tự do hoá thị trườ ng vốn trong nước là cơ hội tốt để cho các nhà đầu tư thực hiện các
giao dịch trái phiếu trên thị trườ ng. Thông qua các hoạt động giao dịch này góp phần
khai thông các luồng vốn trong nền kinh tế, nâng cao vị trí của thị trườ ng TPCP trong
thị trườ ng tài chính.
2.2. Phân loại
Trái phiếu Chính phủ có nhiều loại khác nhau, nếu căn cứ vào k ỳ hạn và mục đích
phát hành thì TPCP đượ c chia thành: Tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu
công trình; trái phiếu đầu tư; trái phiếu ngoại tệ; công trái xây dựng tổ quốc.
+ Tín phiếu kho bạc: Là loại TPCP có k ỳ hạn dưới 1 năm, mục đích của việc phát
hành tín phiếu kho bạc là nhằm phát triển thị trườ ng tiền tệ và huy động vốn để bù đắpthiếu hụt tạm thờ i của NSNN trong năm tài chính. Tín phiếu kho bạc đượ c phát hành theo
phương thức đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước, dướ i hình thức chiết khấu mệnh giá;
khối lượ ng và lãi suất tín phiếu kho bạc đượ c hình thành qua k ết quả đấu thầu. Bộ Tài
chính có thể uỷ thác cho Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Thương mại Nhà nướ c phát
hành, thanh toán tín phiếu kho bạc. Toàn bộ khoản vay từ việc phát hành tín phiếu kho
bạc đượ c tập trung vào ngân sách Trung ương để sử dụng theo quy định; ngân sách Trung
ương đảm bảo nguồn thanh toán gốc, lãi tín phiếu kho bạc và chi phí tổ chức phát hành,
thanh toán cho các tổ chức nhận uỷ thác phát hành. Tín phiếu kho bạc đượ c giao dịch
trên thị trườ ng tiền tệ hoặc đượ c chiết khấu tại Sở giao dịch của Ngân hàng Nhà nướ c.
+ Trái phiếu kho bạc: Là loại trái phiếu Chính phủ có k ỳ hạn từ 1 năm trở lên,
do Kho bạc Nhà nướ c phát hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt của NSNN hàng năm
đã đượ c Quốc hội phê duyệt. Trái phiếu kho bạc được đảm bảo bằng ngân sách Nhà
nướ c, vì thế loại trái phiếu này có độ rủi ro không đáng kể. Trái phiếu kho bạc đượ c bán
lẻ qua hệ thống KBNN hoặc đấu thầu qua thị trườ ng giao dịch chứng khoán, bảo lãnh
phát hành và đại lý phát hành. Lãi suất trái phiếu kho bạc do Bộ trưở ng Bộ Tài chính
quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trườ ng tài chính tại thời điểm phát hành.
Trườ ng hợp đấu thầu lãi suất thì lãi suất hình thành qua k ết quả đấu thầu.
+ Công trái xây dự ng tổ quốc: Công trái xây dựng tổ quốc do Chính phủ phát
hành nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân để đầu tư xây dựng những công trình
quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đờ i sống, tạo cơ
sở vật chất, k ỹ thuật cho đất nướ c. Việc mua công trái thực hiện theo nguyên tắc tự
nguyện. Nhà nước đảm bảo giá trị công trái và bảo hộ quyền sở hữu, các quyền và lợ i
ích hợ p pháp khác của ngườ i sở hữu công trái.
2.3. Các thành viên tham gia thị trƣờ ng trái phiếu Chính phủ
2.3.1. Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành trái phiếu là một tổ chức đứng ra huy động vốn bằng cách phát
hành trái phiếu cho các nhà đầu tư thông qua việc mua trái phiếu. Đối với TPCP, Chính phủ và các chính quyền địa phương là chủ thể phát hành trái phiếu với khối lượng lớn
nhất ra thị trường. Điều này là dễ hiểu, vì không phải lúc nào Chính phủ cũng có đủ
nguồn NSNN dự trữ để bù đắp thiếu hụt NSNN và những khoản chi lớn cho đầu tư phát
triển. Hầu hết, Chính phủ các quốc gia trên thế giới đều sử dụng hình thức huy động các
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thông qua việc phát hành TPCP huy động vốn từ trong
nước và huy động vốn trên thị trường quốc tế thông qua việc phát hành trái phiếu quốc tế.
Chính phủ tham gia vào thị trường trái phiếu với tư cách là chủ thể phát hành, là người
cung cấp hàng hóa cho thị trường tài chính. Thông qua thị trường này, Chính phủ sẽ thu
hút được các luồng vốn nhàn rỗi trong dân cư; thu hút các nhà đầu tư tham gia vào thị
trường này và cuối cùng Chính phủ sẽ tập trung được một lượng tiền cần thiết để đầu tư
cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2.3.2. Các tổ chứ c trung gian
Khác vớ i các thị trườ ng phổ thông; thị trườ ng TPCP muốn hoạt động đượ c ngoài
việc tham gia của chủ thể phát hành và nhà đầu tư ra thì luôn tồn tại chủ thể thứ ba đó là
các tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian là người đứng ra k ết nối các hoạt động mua,
bán, trao đổi giữa chủ thể phát hành và nhà đầu tư; giữa các nhà đầu tư vớ i nhau. Các tổ
Tổ chức bảo lãnh hoặc đại lý đối với trườ ng hợ p phát hành trái phiếu theo phương
thức bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành là các công ty Chứng khoán; Quỹ đầu tư;
Công ty tài chính; các tổ chức Ngân hàng. Để thực hiện đượ c việc bảo lãnh phát hành tức
là tổ chức này giúp cho tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trướ c khi phát hành trái
phiếu ra thị trườ ng chứng khoán; phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái
phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn chưa phân phối hết. Trong khi đó, Tổ chức
đại lý phát hành đượ c chính tổ chức phát hành trái phiếu ủy thác cho thực hiện việc bán
trái phiếu cho các nhà đầu tư.
Bảo lãnh phát hành gồm hai khâu cơ bản: Tư vấn tài chính và phân phối chứng
khoán. Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưở ng một khoản phí nhất định căn cứ trên
số tiền thu đượ c từ đợ t phát hành. Phí bảo lãnh phát hành được quy định theo một tỷ lệ nhất định (Ở Việt Nam hiện nay phí bảo lãnh phát hành trái phiếu tối đa là 0,15%/số tiền
trái phiếu nhận bảo lãnh). Việc bảo lãnh phát hành thường đượ c thực hiện theo một trong
các phương thức sau:
Bảo lãnh vớ i cam k ế t chắ c chắ n: Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức
bảo lãnh cam k ết ngoài việc thực hiện các thủ tục trướ c khi phát hành trái phiếu ra thị
trườ ng chứng khoán, phân phối lại trái phiếu cho các nhà đầu tư và nhận mua lại trái
phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết.
Bảo lãnh theo phương thứ c cố gắ ng cao nhấ t : Là phương thức bảo lãnh mà theo
đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát
hành không cam k ết bán toàn bộ số chứng khoán mà chỉ cam k ết sẽ cố gắng hết sức để
bán chứng khoán ra thị trường, nhưng phần không phân phối hết sẽ đượ c trả lại cho tổ
chức phát hành.
Bảo lãnh theo phương thứ c bán t ấ t cả hoặc không: Là phương thức bảo lãnh mà
theo đó tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành nếu không bán hết số
chứng khoán thì hủy bỏ toàn bộ đợ t phát hành.
Bảo lãnh theo phương thứ c t ố i thiể u - t ối đa: Là phương thức bảo lãnh trung gian
giữa phương thức bảo lãnh cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc
không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phải bán
tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát hành. Nếu lượ ng chứng khoán bán đượ c
đạt tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì toàn bộ đợ t phát hành sẽ bị hủy bỏ.
Hoạt động bảo lãnh phát hành về cơ bản gồm có các hoạt động sau:
+ Nghiên cứu và tư vấn cho các tổ chức phát hành chứng khoán cách thức phát
hành, cơ cấu phát hành và định giá chứng khoán.
+ Chuẩn bị và hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết cho đợ t phát hành.
+ Thoả thuận, hợ p tác vớ i các nhà bảo lãnh phát hành khác và các công ty chứng
khoán, thực hiện công tác tiếp thị, phân phối chào bán chứng khoán.
+ Quản lý, phân phối và thanh toán chứng khoán.
+ Thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trườ ng và các dịch vụ sau khi phát hành.
- Thứ hai, t ổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Là tổ chức chuyên về đánh giá mức độ “Tín nhiệm” của các tổ chức phát hành
và xếp hạng chúng theo năng lực thanh toán tiền lãi và vốn vay theo k ỳ hạn đã cam kết
của nhà phát hành trái phiếu. Tại nhiều nước đã hình thành những tổ chức chuyên môn phân tích và đánh giá hệ số tín nhiệm đối với nhà phát hành. Hai công ty lâu đờ i và nổi
tiếng trong lĩnh vực này là hai công ty của Mỹ: Công ty Moody và công ty Standard và
Poors ( S & P), các công ty này đưa ra ký hiệu trong việc xếp hạng trái phiếu theo mức
độ rủi ro và cách xếp hạng này đượ c sử dụng phổ biến ở các nướ c. Mức độ “ tín nhiệm”
của các công ty thường đượ c xếp theo các chữ cái A, B, a, b…… dưới đây là cách xếp
hạng của hai công ty nói trên: AAA thể hiện chất lượ ng cao nhất đó là việc chắc chắn
hoàn trả đượ c tiền lãi và tiền gốc cho các nhà đầu tư chứng khoán; vớ i mức AA thì năng
lực thanh toán tiền gốc và lãi có phần kém hơn so vớ i AAA; tiếp theo là các hạng A,
BBB, BB,B, CCC, CC,C… và thấp nhất là D (thể hiện có nguy cơ vỡ nợ). Ngoài ra ngườ i
ta còn sử dụng thêm các dấu ( +) và (-) để thể hiện mức độ đánh giá chính xác hơn.
Sở giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch có tổ chức để giao dịch các
chứng khoán đượ c niêm yết. Sở giao dịch thực hiện vận hành thị trườ ng thông qua bộ
máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên thị trườ ng sở giao dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt
động giao dịch chứng khoán ở Sở , phù hợ p với các quy định luật pháp về chứng khoán và
giao dịch chứng khoán.
2.3.4. T ổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ
Là tổ chức nhận lưu giữ, bảo quản các chứng khoán của khách hàng và tiến hành
các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
2.3.5. Chủ thể đầu tư
Chủ thể đầu tư chính là những ngườ i tham gia mua các loại chứng khoán nợ do
Chính phủ phát hành. Nếu phân loại theo quy mô, tổ chức của các chủ thể đầu tư thì
phân chia thành các nhà đầu tư cá nhân và các nhà đầu tư có tổ chức. Thông thườ ng,
các nhà đầu tư cá nhân là các hộ gia đình, những ngườ i dân có khoản tiền nhàn rỗi, thay
vì gửi tiết kiệm vào ngân hàng họ quyết định đầu tư dướ i hình thức mua TPCP. Còn các
nhà đầu tư có tổ chức là các công ty kinh doanh chứng khoán, tổ chức tài chính,..... họ là
những tổ chức có quy mô, chuyên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực mua, bán chứng
khoán và sử dụng các nguồn vốn kinh doanh của mình để đầu tư vào TPCP, vì đây là
lĩnh vực đầu tư khá an toàn, lãi suất TPCP thườ ng ổn định, ít có những biến động lớ n và
người phát hành đảm bảo đượ c khả năng thanh toán cao và hệ số tín nhiệm của chủ thể
phát hành rất cao.
2.4. Thị trƣờ ng sơ cấp
Thị trườ ng TPCP là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra các hoạt
động mua bán tài sản tài chính. Thị trườ ng TPCP là một bộ phận không thể tách rờ i thị
trườ ng chứng khoán; thông qua thị trườ ng TPCP, Chính phủ và các doanh nghiệp sẽ thu
hút và khơi thông đượ c các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để tập trung đầu tư cho các
trường sơ cấp hoạt động có hiệu quả và phát triển. Thị trường thứ cấp bao gồm thị trường
tập trung và thị trường phi tập trung.
2.5.1. Th ị trườ ng chứ ng khoán tậ p trung (Sở giao d ị ch chứ ng khoán)
Thị trườ ng chứng khoán tập trung hay thị trườ ng chứng khoán có tổ chức là một
trung tâm mua bán chứng khoán đượ c tổ chức một cách chặt chẽ và đượ c gọi là Sở giao
dịch chứng khoán. Phương thức giao dịch tại Sở giao dịch là phương thức đấu giá, trong
đó có các lệnh mua, lệnh bán đượ c khớ p với nhau trên cơ sở đó hình thành giá cả của
từng chứng khoán; để có đủ điều kiện đượ c giao dịch tại thị trườ ng chứng khoán tập
trung thì trái phiếu phải niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán. Trái phiếu niêm yết và
giao dịch tại Sở GDCK phải đảm bảo các yêu cầu k ỹ thuật là các trái phiếu của một đợ t
phát hành phải có cùng ngày đáo hạn, việc mua bán trái phiếu đượ c thực hiện tập trungtại Sở GDCK theo hình thức đấu giá. Trái phiếu Chính phủ có thể đượ c giao dịch trên thị
truờ ng tập trung, thị trườ ng phi tập trung (OTC); việc niêm yết và giao dịch qua Sở
GDCK chỉ có ý nghĩa cung cấp thông tin về giá cả cho công chúng đầu tư và làm cơ sở
cho mọi giao dịch k ỳ hạn.
2.5.2. Th ị trườ ng chứ ng khoán phi tậ p trung hay th ị trườ ng trao tay (Over The
Counter market - OTC)
Là thị trườ ng không có trung tâm giao dịch, việc giao dịch chứng khoán đượ c các
công ty chứng khoán thực hiện qua mạng lưới điện thoại, điện tín. Việc mua, bán trên thị
trường OTC đượ c thực hiện thông qua thương lượ ng, mặc cả giữa bên mua và bên bán;
đặc điểm của thị trườ ng này là không có sàn giao dịch, do vậy các nhà mua, bán chứng
khoán bị ngăn cách nhau về không gian và trong nhiều trườ ng hợ p họ không liên lạc k ịp
thờ i vớ i nhau. Ở đây có hai cách thức định giá chứng khoán: Đối vớ i những thị trườ ng
OTC mà k ỹ thuật tự động còn chưa đượ c ứng dụng thì các chứng khoán đượ c bán buôn
vớ i các mức giá khác nhau, ở nhiều địa điểm khác nhau, mức giá này trên thực tế là mức
giá thỏa thuận, thương lượ ng chứ không phải được hình thành trên cơ sở đấu giá. Trong
khi đó, ở thị trường OTC, nơi mà hệ thống yết giá tự động đượ c sử dụng thịnh hành
(Anh; Mỹ) thì các nhà mua, bán chứng khoán đượ c liên k ết vớ i nhau trong toàn quốc
bằng màn hình điện tử, thông tin giá cả đượ c thực hiện liên tục tại trụ sở ; chính vì vậy,
hơn, TPCP đượ c luân chuyển, giao dịch thuận lợ i và nâng cao tính thanh khoản của
TPCP.
3. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƢỜ NG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
TRONG NỀN KINH TẾ
3.1. Chức năng của thị trƣờ ng trái phiếu Chính phủ
Thị trườ ng tài chính có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của một
quốc gia, nhất là đối vớ i các quốc gia có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trườ ng.
Thông qua thị trườ ng tài chính, Chính phủ và các doanh nghiệp có thể thu hút đượ c các
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để thực hiện đầu tư vào các mục đích cụ thể của mình.Thị trườ ng TPCP là một bộ phận cơ bản của thị trườ ng tài chính; có thể nhận thấy chức
năng của thị trườ ng TPCP trong nền kinh tế thể hiện ở các mặt sau đây:
- Thứ nhấ t , thị trườ ng TPCP có chức năng huy động và phân bổ các nguồn vốn.
Bở i vì, TPCP vừa tham gia vào thị trườ ng tiền tệ (tín phiếu kho bạc), vừa tham gia vào
thị trườ ng vốn (trái phiếu kho bạc). Như vậy, thị trườ ng TPCP là một bộ phận của thị
trườ ng tài chính, là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán, trao đổi các loại TPCP nhằm
thoả mãn các nhu cầu về vốn đầu tư của các chủ thể trong xã hội.
- Thứ hai, các nướ c có nền kinh tế thị trườ ng phát triển hay các nước đang phát
triển đều có thị trường TPCP để huy động vốn cho đầu tư phát triển, thị trườ ng TPCP
đượ c coi là một công cụ quan trọng của Chính phủ để thực hiện chính sách tài khoá và
chính sách tiền tệ quốc gia. TPCP phát hành có nhiều loại k ỳ hạn khác nhau, mỗi loại
TPCP lại có một tác động nhất định đến nền kinh tế. Bên cạnh đó, cùng vớ i việc phát
hành TPCP của các cơ quan thuộc Chính phủ và các chính quyền địa phương đã góp
phần làm phong phú khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển và tạo hàng hoá cho
thị trườ ng vốn. Phát triển thị trườ ng TPCP chính là một trong những giải pháp quan trọng
để thu hút các nguồn lực tài chính cho các mục tiêu phát triển của quốc gia. Điều này đã
khẳng định vị trí của TPCP và thị trườ ng TPCP trong việc phát triển kinh tế; nó không
điều chỉnh quan hệ cung cầu thị trường để thực thi chính sách tài chính tiền tệ; thiết lập
và điều hành hoạt động thị trườ ng mở để điều chỉnh khối lượ ng tiền cung ứng trong lưu
thông, góp phần kiểm soát và hạn chế lạm phát.
- Thứ tư , Chính phủ các nướ c trên thế giới đều sử dụng thị trường TPCP để huy
động vốn cho đầu tư phát triển và coi đây là một công cụ quan trọng trong việc điều
hành chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ quốc gia. TPCP gồm có nhiều loại, nhiều
k ỳ hạn khác nhau, mỗi loại lại có một tác động nhất định đến quá trình phát triển của nền
kinh tế trong từng giai đoạn. Tín phiếu kho bạc vừa có vai trò là huy động vốn để bù đắp
thiếu hụt ngân sách, vừa là công cụ của thị trườ ng tiền tệ; ngay cả các quốc gia có nền
kinh tế phát triển họ vẫn phát hành tín phiếu ngắn hạn vớ i mục đích đảm bảo hàng hoá
cho thị trườ ng tiền tệ hoạt động. Trái phiếu kho bạc là công cụ huy động vốn cho NSNNvà cho đầu tư phát triển, đặc biệt là các cơ sở hạ tầng quan trọng của đất nướ c. Thông qua
thị trườ ng TPCP, Chính phủ các nướ c sẽ thu hút đượ c các nguồn lực tài chính cho các
mục tiêu phát triển của quốc gia. Trái phiếu Chính phủ là một trong những công cụ huy
động vốn của Chính phủ; trong trườ ng hợ p NSNN không bị thâm hụt, Bộ Tài chính vẫn
phát hành tín phiếu kho bạc vớ i mục đích là để thực hiện chính sách tiền tệ. TPCP trung
và dài hạn đáp ứng đủ các yêu cầu k ỹ thuật đượ c niêm yết tại TTGDCK; bên cạnh đó
TPKB, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu do các cơ quan Chính phủ phát hành
đã góp phần làm phong phú các công cụ nợ trên thị trườ ng tài chính.
Tóm lại, qua việc phát hành TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát
triển kinh tế, đã khẳng định vai trò của TPCP và thị trường TPCP trong quá trình phát
triển kinh tế. TPCP và thị trường TPCP không những là các công cụ huy động vốn, mà
còn là công cụ để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Trong xu thế hội nhập và mở cửa nền
kinh tế, huy động các nguồn vốn thông qua phát hành TPCP và phát triển thị trường
TPCP ngày càng được nhiều Chính phủ quan tâm bởi những tác động tích cực của thị
trường TPCP đến quá trình phát triển kinh tế; cùng với quá trình tự do hoá thị trường
vốn trong nước, thì việc phát hành TPCP và phát triển thị trường TPCP sẽ thu hút được
sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường này. Ngoài ra, sự
luân chuyển các luồng vốn trên thị trường TPCP có ý nghĩa rất quan trọng đối với thị
Thị trường Trái phiếu ở VN bao gồm: tín phiếu kho bạc, trái phiếu CP, trái phiếu chínhquyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp (bao gồm cả trái phiếu ngân hàng thươngmại), chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ có giá trị khác. Đây là một thị trườn g
đang phát triển thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và tổ chức tài chính nước ngoài.Vào cuối 2006, có khoảng 375 loại Trái phiếu CP và Trái phiếu DN được niêm yết trênthị trường chứng khoán, với tổng mệnh giá khoảng 5 tỉ USD.
Các giao dịch TPCP chiếm tỷ lệ chủ yếu của toàn thị trường.Dư nợ trái phiếu còn rất thấp (khoảng 7% GDP) so với các thị trường trong khu vực
(Trung Quốc 21%, Thái Lan 33%, Malaysia 62%) Chủ thể phát hành không đa dạng, chưa có hệ thống các nhà tạo lập thị trường và hệthống giao dịch, thanh toán còn nhiều hạn chế.TPCP chứng tỏ được tầm quan trọng với tư cách là một nguồn vốn đầu tư.
Trong 3 loại trái phiếu hiện đã được phát hành và mua bán tại Việt Nam, bao gồm: TPCP và tín phiếu kho bạc
Trái phiếu chính quyền địa phương
Trái phiếu doanh nghiệp
Khối lượng TP CP chiếm ưu thế trên thị trường với 81% thị phần,trong khi đó trái phiếu
địa phương là 10%, và Trái phiếu DN 9%
Trong 5 năm giai đoạn 2006-2010, GDP tăng trưởng ở mức 8% - 8,5%, tổng vốn đầu tưlà khoảng 2.675.000 tỉ đồng, tương đương 39,9% GDP.
Nhu cầu vốn qua phát hành trái phiếu là khoảng 187.250 tỉ đồng.Trong đó, TPCP chiếmthị phần lớn nhất cả về khối lượng và giá trị.
2. Thực trạng thị trƣờng phát hành trái phiếu chính phủ ở VN
a.
Bán lẻ trái phiếu qua KBNN Tháng 6/ 1999 cho đến KBNN đã chuyến hẳn sang tổ chức phát hành loại trái phiếucó thời hạn 2 năm có ghi tên và không in trước mệnh giá, bán cho các đối tượng làngười Việt Nam và người nước ngoài đang làm việc và sinh sống ở Việt Nam; Các tổchức tín dụng hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng ; Các công ty bảo hiểm, Quỹđầu tư hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, Các chi nhánh đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam; Các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của Việt Nam. Điều này cho phép
KBNN có thể huy động một khối lượng vốn với thời gian hợp lý và tạo điều kiện choviệc sử dụng vốn của Ngân sách nhà nước được kéo dài.
Bảng1: Kết quả huy động TP qua bán lẻ từ KBNN 2000 -2006
Năm Lãi suất (%/năm) Giá trị huy động (tỉ đồng) 2000 8,9-10,5 4.316
2001 6,8 - 7,0 2.667
2002 7,1 -7,4 4.117
2003 8,2 - 8,4 6.790
2004 8,2 - 8,4 7.736
2005 8,4 - 8,6 2.815
2006 8,4 - 8,8 2.815
Tổng cộng 34.245
( Nguồn: Kho bạc Nhà nước )
Bắt đầu từ năm 2007, nhằm thực hiện việc phát triển thị trường, KBNN đã chấm dứt hẳnhình thức này, và thực hiện toàn bộ thông qua đấu thầu và bảo lãnh. Tuy nhiên có 1 vài ýkiến cho rằng hiện tại nên mở lại kênh này.
b. Đấu thầu trái phiếu chính phủ
Năm 2005 đánh dấu kết quả thành công lớn trong việc ngân sách huy động vốn thông quahình thức đấu thầu tín phiếu kho bạc với sự tham gia dự thầu của các ngân hàng thương
mại. Trong năn này Bộ Tài chính và NHNN đã tổ chức 59 phiên đấu thầu tín phiếu kho
bạc, huy động tổng cộng 22.000 tỉ VND. Số vốn huy động được gần 22.000 tỷ đồng qua
đấu thầu Tín phiếu Kho bạc nói trên chủ yếu là đáp ứng cho nhu cầu đầu tư của Chính
phủ theo các chương trình trọng điểm và chiến lược của quốc gia. Đây cũng là năm đạt
khối lượng trúng thầu cao nhất từ trước đến nay, so với khối lượng trúng thầu của các
năm trước đó là 1997: 2.917,5 tỷ đồng; năm 1998: 4.011 tỷ đồng; năm 1999: 3.011 tỷ
đồng; 2000: 4.766 tỷ đồng; 2001: 3.955 tỷ đồng; 2002: 8.140 tỷ đồng và năm 2003 là
Tuy vậy mặc dù thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc có rất nhiều thành viên (47 vào
năm 2005), nhưng nói chung đó hầu hết là các NHTM nhà nước. Khối NHTM cổ phần,
ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài… vẫn còn đứng ngoài cuộc.
Ngoài nguyên nhân chủ quan là do các ngân hàng này có nguồn vốn nhỏ, thì nguyên nhânkhách quan là do cách tổ chức đấu thầu đã tạo ra hàng rào vô hình với họ. Kể từ giai đoạn
này cho đến gần đây, thường chỉ có 5-8 thành viên tham gia đấu thầu. Lãi suất trần do chỉ
đạo của Bộ Tài chính.
Tiếp tục cho tới năm 2006, trong năm này riêng Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đã thu
gần 8.000 tỉ đồng từ trái phiếu chính phủ. Trong đó, lãi suất trúng thầu có xu hướng giảm
từ mức bình quân 8,75%/năm vào đầu năm 2006 xuống 7,00%/năm vào cuối năm, tuynhiên thị trường đấu thầu vẫn khá sôi động với sự tăng mạnh cả về số và chất lượng
thành viên đấu thầu.
Trong năm 2007, mặc dù khối lượng đăng ký đấu thầu tương đối cao, bình quân gấp 3 lần
khối lượng gọi thầu, nhưng tỉ lệ thành công lại có xu hướng giảm dần. Cụ thể, quý I/2007
tỉ lệ thành công đạt 99%; quý II/2007 giảm xuống 82,46% và đến cuối quý III/2007 giảm
còn 58,39%. Nguyên nhân chủ yếu do việc đưa ra mức lãi suất trần thấp, chỉ 7,05 -
7,8%/năm (có đợt chỉ là 6,5%/năm) đối với TP kỳ hạn 5 năm; 7,95% - 8,6%/năm đối với
TP kỳ hạn 10 năm; 8 - 8,8%/năm đối với TP kỳ hạn 15 năm, trong khi kỳ vọng về lãi suất
của NĐT ngày một cao, xuất phát từ việc tăng dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10%. Mặc dù
vậy, cũng đã có gần 150.000 tỉ đồng trái phiếu được huy động trong năm này.
Trong quý I, khối lượng TPCP được KBNN phát hành dưới hình thức đấu thầu là 12.000tỉ đồng, không sụt giảm so với các quý trước. Tuy nhiên trái ngược lại, việc phát hànhTPCP quý II liên tục thất bại. Các đợt đấu thầu TPCP tại Sở giao dịch chứng khoán Hà
Nội không thu hút được các thành viên tham gia, thậm chí có những đợt không có thànhviên nào tham gia (như đợt 4, 5, 6 vào tháng 5, 6 do KBNN phát hành). Sang quý III và
IV, thị trường TPCP đã sôi động trở lại, khối lượng TPCP do KBNN phát hành là 15.588tỉ đồng.
Cùng với sự biến động về khối lượng TPCP phát hành qua các quý, lãi suất TPCP trongnăm 2008 cũng có nhiều thay đổi phức tạp tại từng thời điểm. Cụ thể, lãi suất TPCP thờihạn 2 năm như sau:
Kể từ tháng 3 đến tháng 8, lợi suất và lãi suất cuống phiếu chênh lệch rất nhiều, mức lãisuất trần TPCP mà BTC đưa ra đã dưới mức kì vọng của các nhà đầu tư, một nguyênnhân khiến các đợt đấu thầu thất bại trong quý II. Sang quý II và đặc biệt là quý III, lạm phát tăng nhanh chóng mặt trong khi lãi suất trầnvẫn không theo kịp khiến cho các nhà đầu tư từ bỏ TPCP. TPCP dần có dấu hiệu phục
hồi vào quý IV, sau khi Chính phủ thi hành hợp lí các chính sách tiền tệ.
Năm 2009, Chính phủ quyết định kích cầu, với một trong các biện pháp là phát hành56.000 tỉ đồng TPCP. Tuy nhiên do ảnh hưởng của lạm phát năm 2008, việc phát hànhkhông được hiệu quả như mong đợi, NSNN chỉ thu được 20.000 tỉ đồng, trong đó có2.000 tỉ đồng trái phiếu được KBNN phát hành trên tổng số 15.000 tỉ đồng gọi thầu.
Do ảnh hưởng của 2 năm trước, năm 2010 cũng không phải là một năm lạc quan cho trái phiếu. Mặc dù lãi suất liên tục được tăng kể từ cuối năm 2009, lên đến mức 12% cho cáckì hạn dưới 5 năm vào cuối tháng 2, nhưng vẫn có rất ít nhà đầu tư tham gia đấu thầu.
Sang giai đoạn tháng 3 – tháng 10, do chính phủ ưu tiên kích thích tăng trưởng kinh tế,cùng với các thông tư 13, 15 và 19 khiến các NHTM có nhu cầu mua trái phiếu, lãi suấtTPCP giảm khá nhanh và mạnh, lãi suất trần sơ cấp dần lấy lại được vai trò định hướngcho thị trường thứ cấp. Lãi suất TPCP lúc này ở mức 10% cho các kì hạn dưới 5 năm.Tuy vậy, đến cuối năm, do thanh khoản cuối năm trên thị trường tiền tệ tương đối khókhăn, làm ảnh hưởng đến lãi suất TPCP, cùng với việc các NHTM đã không còn nhu cầulớn như trước, khiến cho khối lượng đăng kí đấu thầu và trúng thầu lại giảm mạnh.
Biểu đồ 5: Lãi suất TPCP kì hạn 3 năm (2010)
Trong năm 2010, lượng TPCP đấu thầu qua Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đạt 28.115tỉ đồng, tín phiếu kho bạc đấu thầu qua NHNN đạt 7.492 tỉ đồng.
Năm 2011, trong 2 tháng dầu Bộ Tài chính đã phát hành thành công hơn 40% kế hoạchcủa cả năm (dự kiến 45.000 tỉ đồng). Điều này là do nhu cầu của các NHTM trong giaiđoạn đầu năm. Sau đó, Bộ tiếp tục hầu như không nâng lãi suất trần, khiến cho 3 đợt đấuthầu TPCP trong tháng 3 đều không thành công (145/6.000 tỉ đồng ở đợt 1, 139/6.000 tỉ
đồng ở đợt 2, 30/3.000 tỉ đồng ở đợt 3). Tình hình tiếp tục cho đến giữa tháng 5, đợt đấuthầu ngày 19/5 không thu được gì từ TPCP kì hạn 3 năm, và hơn 500/1.000 tỉ đồng từTPCP kì hạn 5 năm. Đến cuối tháng 5, thị trường TP lại sôi động trở lại với 1.000/1.000tỉ đồng TPCP kì hạn 5 năm và 905/1.000 tỉ đồng TPCP kì hạn 3 năm. Lí do vì lãi suấtliên ngân hàng giảm, một số ngân hàng lớn có thêm nguồn tiền từ trái phiếu đã đến hạn
của các năm trước, nên đầu tư trở lại trái phiếu. Ngoài ra, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng đang có động thái tìm đến Việt Nam và địa chỉ chính là trái phiếu. Trong khiđó, nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài lại thường thông qua các ngân hàngthương mại - là các thành viên chính của các đợt đấu thầu trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên
TPCP lại sớm hạ nhiệt kể từ tháng 7, do lo sợ lạm phát quay trở lại. Gần đây nhất là đợtđấu thầu 2.000 tỷ đồng TPCP ngày 13/10 không bán được trái phiếu nào.
c. Bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ
Để thực hiện việc huy động vốn cho NSNN, đa dạng hoá các kênh huy động vốn; bên
cạnh áp dụng phương thức đấu thầu TPCP qua TTGDCK; Bộ Tài chính (KBNN) đã
áp dụng phát hành TPCP theo phương thức bảo lãnh phát hành, TPCP được phát
hành dưới hình thức ghi sổ hoặc chứng chỉ, chứng chỉ trái phiếu không ghi tên và in
sẵn mệnh giá mục đích nhằm huy động nguồn vốn trung hạn và dài hạn cho NSNN.
Thông qua kênh phát hành này, Bộ Tài chính (KBNN) đã tạo ra được một khối lượng
hàng hoá có chất lượng cao đáp ứng đủ các yêu cầu kỹ thuật để được niêm yết và giao
dịch tại TTGDCK. Tính đến thời điểm 31/12/2004 đã có 23 đơn vị được công nhận
là thành viên bảo lãnh phát hành TPCP bao gồm các ngân hàng thương mại và các
công ty chứng khoán.
Từ năm 2000 đến 31/12/2004 Bộ Tài chính (KBNN) đã tổ chức được 31 phiên bảo
lãnh, đã huy động được 4.790 tỷ đồng (loại TPCP có kỳ hạn 5 năm); đặc biệt, trong
năm 2004 KBNN đã tổ chức thực hiện được 21 phiên bảo lãnh phát hành TPCP, huyđộng được 2.390 tỷ đồng; trong đó huy động vốn cho NSNN là 1.755 tỷ đồng, cho
các công trình giao thông thuỷ lợi là 635 tỷ đồng. Dư nợ trái phiếu phát hành theo
phương thức bảo lãnh phát hành tính đến 31/12/2004 là trên 2000 tỷ đồng, kết quả
phát hành TPCP theo phương thức bảo lãnh phát hành giai đoạn 2000 - 2004 như sau:
với độ tin cậy cao, bám sát được diễn biến của lãi suất trên thị trường vốn từ đó
tham mưu cho Lãnh đạo Bộ Tài chính trong việc lựa chọn phương án bảo lãnh
phát hành, đảm bảo hài hoà lợi ích và quyền lợi giữa chủ thể phát hành và các nhà
đầu tư kinh doanh chứng khoán. Thông qua việc công khai và minh bạch thông tinliên quan đến phương thức bảo lãnh phát hành TPCP đã giúp các nhà đầu tư có
được những thông tin cần thiết về thời điểm phát hành, khối lượng và thời hạn
TPCP từ đó các nhà đầu tư có kế hoạch sử dụng và phân bổ nguồn vốn đầu tư có
hiệu quả hơn.
Bảng 2: Giá trị TP (tỷ đồng) huy động thông qua hình thức bảo lãnh phát hành
giai đoạn 2000 -2008 của KBNN và Ngân hàng phát triển VN (VDB).
Năm KBNN VDB
2000 500 0
2001 250 0
2002 0 1.076
2003 1.650 5.034
2004 2.390 4.839
2005 9.945 3.195
2006 12.241 10.050
2007 18.400 22.4202008 15.000 24.631
Từ bảng số liệu trên ta có thể thấy, bảo lãnh phát hành TPCP là kênh đang chiếm giátrị vốn huy động lớn nhất so với các hình thức khác. Với hình thức này, KBNN và NHPTđã huy động đc hàng trăm nghìn tỉ đồng nguồn vốn dài hạn cho NSNN và cho đầu tư phát
triển, góp phần bổ sung một lượng hàng hóa lớn cho thị trường. Thị trường bảo lãnh pháthành ngày càng đượcc hoàn thiện và phát triển, trở thành nơi thu hút nhà đầu tư.
Năm 2005, lần đầu tiên Chính phủ VN phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc
tế đã thành công rực rỡ. Số lượng các nhà đầu tư quốc tế tham gia mua trái phiếu đạt mức
kỷ lục trên thị trường vốn trong nhiều năm trở lại đây. Có tới trên 255 nhà đầu tư lớn mua
trái phiếu của Chính phủ VN (so với 150 nhà đầu tư mua trái phiếu của Chính phủIndonesia đầu tháng 10/2005).Tổng số lượng nhu cầu các nhà đầu tư đặt mua lên tới 4,5
tỷ USD, gấp 6 lần lượng trái phiếu Chính phủ VN phát hành (750 triệu USD). Kể từ đó,
giai đoạn 2006-đầu năm 2008 là thời điểm TPCP bằng ngoại tệ rất được các nhà đầu tư
nước ngoài ưa chuộng. Năm 2007, Chính phủ đã cho phát hành 1 tỉ USD TPCP.
Tuy nhiên, năm 2008 là một cú sốc rất lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường trái phiếu. Khủng hoảng tài chính thế giới khiến nhiều NĐT tổ chức nước ngoài phải rút vốn về nước, do nhu cầu vốn của công ty mẹ tại chính quốc. Tuy nhiên, do thanh
khoản của thị trường trái phiếu rất thấp nên NĐT không dễ dàng rút vốn. Họ đành chấp
nhận bán tháo trái phiếu bằng mọi giá, với mức chiết khấu lên đến 30 - 50%. Một số ngân
hàng trong nước mua lại số trái phiếu này và trúng lớn khi kinh tế vĩ mô của Việt Nam ổn
định trở lại trong năm 2009.
Qua 2 năm (2009 - 2010), những bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lãi suất và lạm phát,
tiền đồng mất giá so với USD lại tái diễn nên trái phiếu chưa đủ sức hấp dẫn NĐT trở lại.
Năm 2011, những rủi ro như lạm phát cao, nới tỷ giá vẫn là rào cản chính. Trong tháng 3,
có thời điểm giá trị giao dịch của NĐT nước ngoài chỉ chiếm 7% giá trị giao dịch toàn thị
trường (trung bình năm 2010 là 28%). Những phiên đấu thầu trên thị trường sơ cấp gần
đây vắng bóng NĐT ngoại.
Những câu chuyện mang tính kỹ thuật cũng khiến NĐT ngoại ngại giao dịch trái phiếu.
Thông tư số 64/2010/TT-BTC quy định, kể từ tháng 6/2010, các NĐT nước ngoài khi
đầu tư vào trái phiếu ở Việt Nam sẽ phải chịu mức thuế khi chuyển nhượng chứng khoán
là 0,1% trên tổng doanh thu thu được từ bán chứng khoán tại thời điểm chuyển nhượng;
khi nhận lãi là 10% trên số lãi nhận được từ nhà phát hành trái phiếu (mức thuế cũ là
0,1% tính trên mệnh giá trái phiếu và lãi thu được vào ngày trả lãi trái phiếu). Với quy
định này, mức thuế đánh trên lãi suất trả cho các NĐT nước ngoài cao gần gấp 10 lần
mức thuế cũ.
Trong khi đó, kế hoạch phát hành TPCP đôi khi không phù hợp với quan hệ cung - cầu
vốn trên thị trường, mà chủ yếu theo nhu cầu huy động; thời gian đưa trái phiếu mới phát
hành vào giao dịch còn dài; có quá nhiều mã trái phiếu (gần 500 mã); chưa có hệ thống
nhà tạo lập thị trường… Thanh khoản ở mức thấp khoảng 1.000 tỷ đồng/ngày sẽ rất khó
cho NĐT ngoại rút vốn khi có nhu cầu. Tình trạng lạm phát cao, VND mất giá so với
USD cũng khiến các nhà đầu tư nước ngoài khó trở lại.
3. Những hạn chế của thị trƣờng trái phiếu chính phủ ở Việt Nam
Môi trƣờng kinh tế vĩ mô chƣa thực sự ổn định
Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, do vậy tỷ trọng tiết kiệm để đầu tư còn rất thấp,
chưa tạo ra được các cơ hội thu hút các nhà đầu tư vào TPCP. Mặc dù nước ta đang trong
tiến trình tự do hoá lãi suất (tháng 6/2002) biểu hiện là việc áp dụng cơ chế lãi suất cơ
bản, song vẫn còn có sự can thiệp của Nhà nước. Bước sang năm 2002 đã cho phép áp
dụng cơ chế lãi suất thoả thuận, song cơ chế này vẫn có nhược điểm là chưa phản ảnh
đúng quan hệ cung cầu vốn trên thị trường; việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận cộng
thêm sự bất ổn của chính sách kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường
TPCP. Hầu hết người dân chưa hiểu biết nhiều và không yên tâm tin tưởng khi tham gia
đầu tư vào TPCP trung hạn và dài hạn. Các tầng lớp dân cư trong xã hội chưa có nhiều cơ
hội để tham gia đầu tư vào TPCP bởi vì thị trường trái phiếu còn chưa phát triển mạnh;chính vì những lý do này mà hầu hết những người có thu nhập cao và có những khoản
tiền nhàn rỗi thường chấp nhận gửi tiền tiết kiệm vào các ngân hàng.
Hệ thống pháp luật còn chƣa đầy đủ và thiếu đồng bộ
Trước những năm 1995 không có một văn bản nào ở cấp Chính phủ quy định về cơ chế
phát hành và giao dịch TPCP. Sự ra đời của Nghị định số 72/CP (1995), tiếp theo là Nghị
định bổ sung số 01/2000/NĐ-CP và Nghị định số 141/2003/NĐ-CP; Pháp lệnh số
12/1999/PL-UBTVQH10 về phát hành công trái xây dựng tổ quốc, đó chính là hành lang pháp lý chuẩn, khắc phục được những hạn chế của cơ chế phát hành và giao dịch TPCP
trước đây; việc áp dụng cơ chế đấu thầu, bảo lãnh phát hành và niêm yết TPCP tại
TTGDCK đã có nhiều sửa đổi bổ sung, song vẫn bộc lộ một số điểm bất cập:
- Thứ nhất , chưa có sự thống nhất giữa Nghị định số 141/2003/NĐ-CP và Pháp
lệnh số 12/1999/PL-UBTVQH10 về phát hành công trái xây dựng tổ quốc, đây là hai văn
bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực phát hành TPCP, công trái XDTQ hay trái phiếu
kho bạc cũng đều là TPCP, do vậy nên thống nhất quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật chung.
- Thứ hai, tính thanh khoản của TPCP (loại trừ tín phiếu kho bạc đấu thầu qua
NHNN) còn chưa cao, bởi lẽ theo Luật NHNN, thì NHNN không được cầm cố, chiết
khấu các công cụ nợ dài hạn trong việc cho vay tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng.
Tại Quyết định số 139/1999/QĐ-TTg ngày 10/06/1999 quy định về tỷ lệ tham gia của
bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam, quy định các tổ chức, cá nhân nước ngoài được
nắm giữ tối đa 40% tổng số trái phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành, trong đó
một tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa 10% và một cá nhân nước ngoài được nắm
giữ tối đa 5%; quy định này là không phù hợp với hoạt động đầu tư trái phiếu.
Tiềm lực tài chính của các nhà đầu tƣ và phân phối trái phiếu chƣa đủ mạnh
Trên thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPCP nói riêng, việc phân phối trái
phiếu trên thị trường sơ cấp chưa mang tính chuyên nghiệp (thiếu vắng hệ thống phân
phối), bên cạnh đó vẫn chưa thu hút được các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp.
Các công ty chứng khoán chủ yếu tập trung ở Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh do
vậy khả năng bảo lãnh phát hành, môi giới mua và bán TPCP còn thấp; theo quy định thì
các công ty chứng khoán được bảo lãnh phát hành tối đa không vượt quá 4 lần giá trị tài
sản có trong một lần bảo lãnh, với việc quy định tỷ lệ như vậy cũng hạn chế phần nào
các công ty chứng khoán khi tham gia hoạt động bảo lãnh phát hành.
Việc thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức (các Quỹ đầu tư) cũng ảnh hưởng không nhỏđến kết quả hoạt động đấu thầu trái phiếu. Cho đến nay mới có một công ty quản lý quỹ
được thành lập (tháng12/2003) và chưa có một quỹ đầu tư chứng khoán nào được thành
lập, hiện tại mới chỉ có sự tham gia của một số Quỹ đầu tư nước ngoài (Dragon Capital).
Việc áp dụng tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài khi tham gia thị trường chứng khoán
Việt Nam, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài khi tham gia vào thị trường TPCP
họ không được hoạt động bình đẳng như các công ty Bảo hiểm trong nước, điều này dẫn
đến việc hạn chế khi tham gia mua TPCP, hạn chế cơ hội đầu tư của họ và thị trườngTPCP mất đi những nhà đầu tư có tổ chức có khả năng tài chính lớn.
Hoạt động quản lý phát hành và giao dịch trái phiếu Chính phủ còn nhiều
bất cập
Mặc dù đã có Nghị định số 141/2003/NĐ-CP và Pháp lệnh số 12/1999/PL-UBTVQH10
về phát hành công trái xây dựng tổ quốc làm khung pháp lý chuẩn cho việc phát hành và
giao dịch TPCP trên thị trường, nhưng việc tổ chức quản lý thị trường TPCP và sự phối
hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình hoạch định chính sách còn nhiều vấn đề
cần bàn.
- Thứ nhất , công tác xây kế hoạch huy động vốn và thời gian phát hành TPCP
hàng năm chưa được công khai và chuẩn hoá. Do vậy, các nhà tổ chức, các thành viên
của thị trường chứng khoán, giới kinh doanh đầu tư khi tham gia vào thị trường còn nhiều
bị động, lúng túng.
- Thứ hai, chúng ta đang từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất; nhưng thực tế là
trong quá trình xây dựng và điều hành lãi suất hiện nay, thì phía NHNN điều hành lãi
suất cơ bản, còn Bộ Tài chính lại điều hành lãi suất TPCP do vậy còn nhiều điểm không
đồng bộ trong quá trình hoạch định lãi suất, chưa tạo ra được đường cong lãi suất chuẩn.
Do vậy, lãi suất TPCP chưa phải là lãi suất chuẩn để tham chiếu. Lãi suất TPCP là do Bộ
Tài chính công bố cho từng đợt phát hành cụ thể, thường là thấp hơn lãi suất huy động
vốn cùng kỳ hạn của các NHTM; lãi suất tín phiếu kho bạc đấu thầu qua NHNN và lãi
suất TPCP đấu thầu qua TTGDCK vẫn áp dụng cơ chế lãi suất chỉ đạo, đây là lý do làm
giảm tính thị trường và tính cạnh tranh của TPCP so với các loại hình tín dụng khác. - Thứ ba, hiện nay TPCP được giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung
việc thiếu vắng thị trường OTC cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động và kết quả
giao dịch TPCP trên thị trường. Thị trường thứ cấp trái phiếu nói ch ung và TPCP nói
riêng chưa sôi động. Do vậy, việc huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển chưa đạt
kết quả cao, bên cạnh đó việc thiếu vắng các nhà tạo lập thị trường và một hệ thống phân
phối trái phiếu đồng bộ trên thị trường sơ cấp ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động phát
hành và giao dịch trên thị trường TPCP.
Tiềm lực tài chính của các nhà đầu tƣ và phân phối trái phiếu chƣa đủ mạnh
Trên thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPCP nói riêng, việc phân phối trái
phiếu trên thị trường sơ cấp chưa mang tính chuyên nghiệp (thiếu vắng hệ thống phân
phối), bên cạnh đó vẫn chưa thu hút được các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp.
Các công ty chứng khoán chủ yếu tập trung ở Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh do
vậy khả năng bảo lãnh phát hành, môi giới mua và bán TPCP còn thấp; theo quy định thì
các công ty chứng khoán được bảo lãnh phát hành tối đa không vượt quá 4 lần giá trị tài
sản có trong một lần bảo lãnh, với việc quy định tỷ lệ như vậy cũng hạn chế phần nào
các công ty chứng khoán khi tham gia hoạt động bảo lãnh phát hành.
Việc thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức (các Quỹ đầu tư) cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến kết quả hoạt động đấu thầu trái phiếu. Cho đến nay mới có một công ty quản lý quỹ
được thành lập (tháng12/2003) và chưa có một quỹ đầu tư chứng khoán nào được thành
lập, hiện tại mới chỉ có sự tham gia của một số Quỹ đầu tư nước ngoài (Dragon Capital).
Việc áp dụng tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài khi tham gia thị trường chứng khoán
Việt Nam, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài khi tham gia vào thị trường TPCP
họ không được hoạt động bình đẳng như các công ty Bảo hiểm trong nước, điều này dẫn
phối trái phiếu đồng bộ trên thị trường sơ cấp ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động phát
hành và giao dịch trên thị trường TPCP.
Chƣa có chính sách hợp lý để thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi
Thuế thu nhập đánh vào thu nhập từ trái phiếu có sự phân biệt, chưa công bằng giữa các
nhà đầu tư, cụ thể đối với các nhà đầu tư là cá thể thì được miễn thuế thu nhập đối với
phần lợi tức thu được từ hoạt động kinh doanh TPCP. Trái lại, đối với các tổ chức thì thu
nhập từ trái phiếu vẫn phải nộp thuế thu nhập; với cơ chế trên có ảnh hưởng không nhỏ
đến các nhà hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán.
Theo quy định tại Thông tư số 110/2002/TT-BTC 12/12/2002 thì mức phí áp dụng đốivới hoạt động giao dịch TPCP qua thị trường tập trung là 0,075%/ doanh số giao dịch
(nhưng hiện nay Bộ Tài chính tạm thời chưa áp dụng). Thông thường các công ty chứng
khoán thu của khách hàng 0,3% đến 0,4% phí giao dịch/ doanh số giao dịch, đây cũng là
điểm bất cập cần sửa đổi để tránh gây thiệt hại cho khách hàng khi tham gia vào thị