25 TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở HỆ SINH THÁI MŨI CÀ MAU Hoàng Văn Thắng Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội Tóm tắt Sự thay đổi một cách rõ rệt của các yếu tố thời tiết trong nhiều thập kỷ, hoặc hàng triệu năm và trong tương lai do tự nhiên và con người gây ra – biến đổi khí hậu, ngày càng trở nên rõ nét và có những tác động không nhỏ lên không chỉ cộng đồng, mà còn tác động mạnh mẽ lên các hệ tự nhiên. Các hệ sinh thái cửa sông, ven biển, bao gồm cả rừng ngập mặn, rất dễ bị tổn thương do những thay đổi của các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Đánh giá được tính dễ bị tổn thương của các hệ thống nói chung (tự nhiên và xã hội), hệ sinh thái cửa sông ven biển nói riêng cần phải xem xét các tác động, đánh giá mức độ phơi lộ hay khả năng dễ bị tác động, mức độ nhạy cảm, khả năng tự điều chỉnh và khả năng thích ứng. Báo cáo này đề cập đến các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan lên hệ sinh thái đất ngập nước cửa sông, ven biển Mũi Cà Mau, đồng thời đánh giá tính dễ bị tổn thương của các hệ sinh thái này trước biến đổi của các yếu tố khí hậu trên. Bên cạnh đó, báo cáo cũng đánh giá khả năng thích ứng của các hệ sinh thái này, trên cơ sở đó, khuyến nghị một số giải pháp quản lý và bảo tồn. 1. MỞ ĐẦU Sự thay đổi một cách rõ rệt của các yếu tố thời tiết trong nhiều thập kỷ hoặc hàng triệu năm và trong tương lai do tự nhiên và con người gây ra – biến đổi khí hậu (BĐKH) – ngày càng trở nên rõ nét và có những tác động không nhỏ lên không chỉ cộng đồng, mà còn tác mạnh mẽ lên các hệ tự nhiên. Ngược lại, các hệ sinh thái (HST), nhất là các HST đất ngập nước (ĐNN) cửa sông, ven biển, đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm nhẹ các tác động của BĐKH, cũng như những hệ quả mà BĐKH có thể gây ra. Việt Nam là một trong số ít nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất của BĐKH (WB, 2008). Nếu nhiệt độ tăng 2 o C, mực nước biển dâng 1 m, có thể làm mất 12,2% diện tích đất là nơi cư trú của khoảng 23% dân số (tức khoảng 17 triệu người) (Trương Quang Học, 2011). Mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp rộng lớn, bao gồm các khu dân cư, canh tác và cả các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên... BĐKH còn ảnh hưởng lớn đến các HST do sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa và đặc biệt là tần suất và cường độ của những trận lũ và hạn hán. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ, rét hại, nắng nóng, hỏa hoạn và những thay đổi điều kiện sinh thái khác sẽ dẫn đến các thảm họa khôn lường cho con người. Sự thích ứng (Adaptation) đã trở thành một phần quan trọng của chương trình nghị sự phát triển, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển chịu tác động/bị đe dọa nghiêm trọng nhất trước
21
Embed
TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
25
TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở HỆ SINH THÁI MŨI CÀ MAU
Hoàng Văn Thắng
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường,
Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt
Sự thay đổi một cách rõ rệt của các yếu tố thời tiết trong nhiều thập kỷ, hoặc hàng triệu
năm và trong tương lai do tự nhiên và con người gây ra – biến đổi khí hậu, ngày càng trở
nên rõ nét và có những tác động không nhỏ lên không chỉ cộng đồng, mà còn tác động
mạnh mẽ lên các hệ tự nhiên. Các hệ sinh thái cửa sông, ven biển, bao gồm cả rừng ngập
mặn, rất dễ bị tổn thương do những thay đổi của các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, lượng
mưa, nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Đánh giá được tính dễ bị tổn
thương của các hệ thống nói chung (tự nhiên và xã hội), hệ sinh thái cửa sông ven biển nói
riêng cần phải xem xét các tác động, đánh giá mức độ phơi lộ hay khả năng dễ bị tác
động, mức độ nhạy cảm, khả năng tự điều chỉnh và khả năng thích ứng. Báo cáo này đề
cập đến các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa,
nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan lên hệ sinh thái đất ngập nước cửa
sông, ven biển Mũi Cà Mau, đồng thời đánh giá tính dễ bị tổn thương của các hệ sinh thái
này trước biến đổi của các yếu tố khí hậu trên. Bên cạnh đó, báo cáo cũng đánh giá khả
năng thích ứng của các hệ sinh thái này, trên cơ sở đó, khuyến nghị một số giải pháp quản
lý và bảo tồn.
1. MỞ ĐẦU
Sự thay đổi một cách rõ rệt của các yếu tố thời tiết trong nhiều thập kỷ hoặc hàng triệu năm và
trong tương lai do tự nhiên và con người gây ra – biến đổi khí hậu (BĐKH) – ngày càng trở nên
rõ nét và có những tác động không nhỏ lên không chỉ cộng đồng, mà còn tác mạnh mẽ lên các hệ
tự nhiên. Ngược lại, các hệ sinh thái (HST), nhất là các HST đất ngập nước (ĐNN) cửa sông, ven
biển, đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm nhẹ các tác động của BĐKH, cũng như những
hệ quả mà BĐKH có thể gây ra. Việt Nam là một trong số ít nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất của
BĐKH (WB, 2008). Nếu nhiệt độ tăng 2oC, mực nước biển dâng 1 m, có thể làm mất 12,2% diện
tích đất là nơi cư trú của khoảng 23% dân số (tức khoảng 17 triệu người) (Trương Quang Học,
2011). Mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp rộng lớn, bao gồm các khu dân cư,
canh tác và cả các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên... BĐKH còn ảnh hưởng lớn đến các
HST do sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa và đặc biệt là tần suất và cường độ của những trận lũ
và hạn hán. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ, rét hại, nắng nóng, hỏa hoạn và những
thay đổi điều kiện sinh thái khác sẽ dẫn đến các thảm họa khôn lường cho con người.
Sự thích ứng (Adaptation) đã trở thành một phần quan trọng của chương trình nghị sự phát triển,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển chịu tác động/bị đe dọa nghiêm trọng nhất trước
26
BĐKH (WB, 2010; Earkin and Lemos, 2010). Hiện đây đang là vấn đề hàng đầu trong các cuộc
thương thảo chính sách và yêu cầu khoa học (Andrade và nnk., 2010).
Các HST cửa sông, ven biển, bao gồm cả rừng ngập mặn (RNM) rất dễ bị tổn thương do những
thay đổi của các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, lượng mưa, mực nước biển dâng và các hiện tượng
thời tiết cực đoan. Tuy nhiên, hiện nay còn rất ít các nghiên cứu về các vấn đề nêu trên. Báo cáo
này đề cập đến các tác động của BĐKH, bao gồm sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, mực nước
biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan lên HST ĐNN cửa sông, ven biển Mũi Cà Mau,
đồng thời đánh giá tính dễ bị tổn thương của các HST này trước biến đổi của các yếu tố khí hậu.
Bên cạnh đó, báo cáo cũng đánh giá khả năng thích ứng của các HST, trên cơ sở đó khuyến nghị
một số biện pháp quản lý và bảo tồn, nhằm ứng phó với BĐKH.
2. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở tiếp cận HST và tiếp cận thích ứng dựa trên HST. Các
nghiên cứu và công trình đã được công bố trên thế giới và Việt Nam cũng như khu vực Mũi Cà
Mau được thu thập và phân tích. Khảo sát thực địa để cập nhật và đánh giá hiện trạng về đa dạng
sinh học, các chức năng và dịch vụ HST cũng như những tác động của BĐKH và các hiện tượng
thời tiết cực đoan đối với khu vực Mũi Cà Mau. Địa bàn khảo sát và đánh giá chủ yếu thuộc
phạm vi của Vườn Quốc gia (VQG) Mũi Cà Mau, thuộc huyện Năm Căn và Ngọc Hiển, tỉnh Cà
Mau.
Tính tổn thương của đất ngập nước trước biến đổi khí hậu:
Tính dễ bị tổn thương (Vulnerability) của một HST ĐNN là mức độ/thước đo/ước số của độ phơi
lộ, tính nhạy cảm và khả năng tự điều chỉnh và thích ứng của HST.
Để hiểu được tính bị tổn thương của ĐNN trước BĐKH, chúng ta cần biết được mối quan hệ
nhân quả giữa những mối đe dọa của BĐKH, sự phơi lộ (hay khả năng dễ bị tác động), tính nhạy
cảm và khả năng thích ứng của các cấu thành của HST ĐNN cũng như những tác động lên các
dịch vụ và hậu quả của tính tổn thương của hệ tự nhiên và cộng đồng sống phụ thuộc vào các
HST này (ICEM, 2011a).
Các yếu tố đe dọa của BĐKH lên các HST ĐNN là khá nhiều. Trong nghiên cứu này, thay đổi về
nhiệt độ, lượng mưa, mực nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ được xem xét
kỹ hơn cả.
Bên cạnh các tác động của việc gia tăng dân số và các hoạt động phát triển, việc xâm nhập của
các loài ngoại lai và thể chế, chính sách cũng là những nhân tố tác động lên tính dễ bị tổn thương
của HST.
Đánh giá được tính dễ tổn thương của các hệ thống nói chung (tự nhiên và xã hội), HST cửa
sông ven biển nói riêng, bao gồm việc xem xét các tác động (Impact), đánh giá mức độ phơi lộ
hay khả năng dễ bị tác động (Exposure), mức độ nhạy cảm (Sensitivity), khả năng tự điều chỉnh
(Adaptive Capacity) và khả năng thích ứng (Adaptation).
27
3. VƯỜN QUỐC GIA MŨI CÀ MAU
3.1.Vị trí địa lý
VQG Mũi Cà Mau nằm ở tận cùng phía Nam của Việt Nam, thuộc phạm vi các xã Đất Mũi,
huyện Ngọc Hiển và xã Lâm Hải và Đất Mới huyện Năm Căn, trải rộng từ vĩ độ Bắc: 8o32’N-
8o49’N đến kinh độ Đông: 104o40’E-104o55’E. Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau có diện tích tự
nhiên là 41.862 ha, trong đó, phần đất liền 15.262 ha, phần ven biển 26.600 ha.
Mũi Cà Mau là một phần của vùng rừng ngập mặn Cà Mau, nơi có vị trí quan trọng trong danh
mục các vùng ĐNN của Đông Nam Á và là một trong các khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn
của thế giới (Hình 3.1).
Các đặc điểm của HST ĐNN ở Mũi Cà Mau là tiêu biểu cho vùng sinh thái cửa sông, ven biển.
Rừng ngập mặn cung cấp dinh dưỡng và những sản phẩm sơ cấp đầu tiên cho chuỗi thức ăn ở
ven biển, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nuôi trồng thủy sản và đánh bắt thủy sản, cung
cấp nguồn giống động thực vật, cung cấp nơi cư trú cho các loài động vật hoang dã và các loài
chim di cư, cung cấp các sản phẩm gỗ củi, dụng cụ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, bảo vệ bờ
biển, hỗ trợ quá trình phát triển bền vững ở vùng ven biển. VQG Mũi Cà Mau là nơi du lịch và
tham quan giải trí lý tưởng cho du khách trong và ngoài nước (VQG Mũi Cà Mau, 2010).
3.1.1. Phân khu chức năng trên đất liền
1. Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 12.203 ha, thuộc tiểu khu 2 và tiểu khu 3 của Khu rừng Đặc
dụng Đất Mũi và Khu rừng Phòng hộ Bãi bồi.
2. Phân khu phục hồi sinh thái: 2.859 ha, thuộc tiểu khu 4 và phần ven biển tiểu khu 1 của Khu
rừng Đặc dụng Đất Mũi.
3. Phân khu hành chính dịch vụ: 200 ha, thuộc khu vực ven Rạch Tàu, khu kênh Hai Thiện, khu
Rạch Bàu Lớn và khu Rạch Mũi.
3.1.2. Phân khu chức năng phần trên biển
Phạm vi tính từ mép bờ biển phía Tây ra phía biển, chức năng chủ yếu của phân khu này là bảo
tồn tài nguyên sinh vật biển và HST ven bờ, duy trì và nghiên cứu quá trình địa mạo và sinh thái
tự nhiên của VQG Mũi Cà Mau, bao gồm các điểm sau:
+ Cửa Sào Lưới thuộc huyện Cái Nước, tọa độ: từ 104°47’30” kinh Đông và 8°48’ vĩ Bắc.
+ Cách bờ biển 4.700 mét, tọa độ: từ 104°45’ kinh Đông và 8°48’ vĩ Bắc.
+ Ngoài biển, tọa độ: từ 104°42’ kinh Đông và 8°40’ vĩ Bắc.
+ Ngoài biển, tọa độ: từ 104°42’ kinh Đông và 8°35’ vĩ Bắc.
+ Ngoài biển, tọa độ: từ 104°48’ kinh Đông và 8°33’30” vĩ Bắc.
+ Đầu rạch Trương Phi thuộc huyện Ngọc Hiển, tọa độ: từ 104°48’ kinh Đông và 8°34’30” vĩ
Bắc.
28
3.1.3. Vùng đệm
Vùng đệm của VGQ Mũi Cà Mau có tổng diện tích 8.194 ha, nằm trên địa bàn các xã Đất Mũi,
Viên An và Đất Mới, thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.
3.2. Đặc điểm khí hậu
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình tại Ngọc Hiển 26,5-27,0oC. Tháng tư là tháng nóng nhất với nhiệt
độ trung bình là 28,5oC, tháng giêng là tháng lạnh nhất với nhiệt độ trung bình 25,1oC. Số giờ
nắng trung bình 2.300-2.600 giờ/năm. Tháng ba là tháng có số giờ nắng cao nhất (315 giờ),
tháng 9 là tháng có số giờ nắng thấp (147 giờ) (SIWRP, 2008).
Hình 3.1. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất VQG Mũi Cà Mau
Độ ẩm không khí và lượng bốc hơi: Độ ẩm không khí trung bình năm là 85,9%, độ ẩm cao có thể
trên 89%. Độ ẩm lớn nhất thường quan sát được trong tháng 9 và tháng 10 là 88%. Lượng bốc
hơi bình quân là 73 mm/tháng. Trong mùa mưa, chỉ số ẩm ướt thường đạt đến 4,1 lần. Độ ẩm
bình quân của không khí là 81% trong mùa mưa. Trong mùa khô, chỉ số khô hạn (lượng bốc
hơi/lượng mưa) bằng 2,2 lần.
Lượng mưa: Lượng mưa là nguồn nước ngọt chính trên bề mặt và có lượng thay đổi theo mùa.
Mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 có lượng mưa không đáng kể. Lượng mưa trung bình
nhiều năm tại Ngọc Hiển thấp hơn so với ở Cà Mau và được phân bố như ở Bảng 3.1 (VQG Mũi
29
Cà Mau, 2010).Vào mùa mưa và giai đoạn chuyển mùa, thường xuất hiện mưa giông kèm gió và
sóng lớn rất nguy hiểm trên sông rạch và vùng ven bờ.