TỔNG CỤC THỐNG KÊ CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚC Số: 296/BC-CTK CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Vĩnh Phúc, ngày 25 tháng 6 năm 2020 BÁO CÁO Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2020 Năm 2020 là năm cuối, năm bản lề của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020, là năm có nhiều sự kiện, kỷ niệm những ngày lễ lớn, như: 90 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, 75 năm thành lập nước, 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 70 năm ngày thành lập tỉnh Vĩnh Phúc và tổ chức đại hội Đảng bộ các cấp... Do đó ngay từ đầu năm, Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh chỉ đạo các ngành, các cấp tập trung các nguồn lực phấn đấu hoàn thành và vượt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới virus corona (Covid-19) đã bùng phát lan rộng ra nhiều nước trên thế giới , ảnh hưởng toàn diện đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đẩy nền kinh tế toàn cầu trước nguy cơ rơi vào tình trạng suy thoái. Trong nước, dịch Covid-19 đã làm tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực bị suy giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tăng cao. Tỉnh Vĩnh Phúc là một trong số các địa phương có ca bệnh đầu tiên của cả nước, đã chịu ảnh hưởng nặng bởi đại dịch, các hoạt động sản xuất kinh doanh đình trệ, gián đoạn chuỗi cung ứng và lưu chuyển thương mại, ảnh hưởng lớn đến tâm lý và đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã quyết liệt chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung thực hiện “mục tiêu kép” - vừa quyết liệt phòng chống dịch bệnh, vừa duy trì và phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân. Triển khai kịp thời các cơ chế, chính sách của Chính phủ về hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh nên tình hình kinh tế của tỉnh 6 tháng đầu năm 2020 tuy có suy giảm so với cùng kỳ năm 2019 nhưng các nhiệm vụ đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, các hoạt động văn hóa xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn được đảm bảo. Tình hình cụ thể như sau: I. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1. Về tăng trưởng kinh tế Đại dịch Covid-19 diễn biến ngày càng nghiêm trọng, khó lường, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới.
23
Embed
Tæng côc Thèng kª céng hoµ x· héi chñ nghÜa viÖt nam...Trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản,dịch Covid-19 ảnh hưởng chủ yếu đến việc
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
CỤC THỐNG KÊ TỈNH VĨNH PHÚC
Số: 296/BC-CTK
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Vĩnh Phúc, ngày 25 tháng 6 năm 2020
BÁO CÁO
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc
tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2020
Năm 2020 là năm cuối, năm bản lề của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
2016 - 2020, là năm có nhiều sự kiện, kỷ niệm những ngày lễ lớn, như: 90 năm
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, 75 năm thành lập nước, 130 năm ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, 70 năm ngày thành lập tỉnh Vĩnh Phúc và tổ chức đại hội
Đảng bộ các cấp... Do đó ngay từ đầu năm, Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh chỉ
đạo các ngành, các cấp tập trung các nguồn lực phấn đấu hoàn thành và vượt các
chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng
mới virus corona (Covid-19) đã bùng phát lan rộng ra nhiều nước trên thế giới,
ảnh hưởng toàn diện đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đẩy nền kinh tế toàn cầu
trước nguy cơ rơi vào tình trạng suy thoái. Trong nước, dịch Covid-19 đã làm
tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực bị suy giảm hoặc tăng thấp so với
cùng kỳ, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tăng cao. Tỉnh Vĩnh Phúc là một trong
số các địa phương có ca bệnh đầu tiên của cả nước, đã chịu ảnh hưởng nặng bởi
đại dịch, các hoạt động sản xuất kinh doanh đình trệ, gián đoạn chuỗi cung ứng
và lưu chuyển thương mại, ảnh hưởng lớn đến tâm lý và đời sống nhân dân.
Trong bối cảnh đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã quyết liệt chỉ đạo các
cấp, các ngành tập trung thực hiện “mục tiêu kép” - vừa quyết liệt phòng chống
dịch bệnh, vừa duy trì và phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội, bảo đảm đời
sống nhân dân. Triển khai kịp thời các cơ chế, chính sách của Chính phủ về hỗ
trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cấp,
các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh nên tình hình kinh tế
của tỉnh 6 tháng đầu năm 2020 tuy có suy giảm so với cùng kỳ năm 2019 nhưng
các nhiệm vụ đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, các hoạt động
văn hóa xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn được đảm bảo. Tình
hình cụ thể như sau:
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ
1. Về tăng trưởng kinh tế
Đại dịch Covid-19 diễn biến ngày càng nghiêm trọng, khó lường, ảnh
hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới.
2
Tỉnh Vĩnh Phúc với nền kinh tế có tỷ trọng khu vực FDI cao, đã và đang hội
nhập sâu rộng, độ mở lớn, tính tự chủ và khả năng chống chịu còn hạn chế do đó
đã chịu ảnh hưởng nặng bởi đại dịch, hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế bị suy
giảm; các hoạt động sản xuất kinh doanh đình trệ, gián đoạn chuỗi cung ứng và
lưu chuyển thương mại. Kinh tế Vĩnh Phúc lần đầu tiên có mức tăng trưởng âm
trong 6 tháng đầu năm kể từ năm 2009. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh 6 tháng
đầu năm 2020 ước giảm 2,70% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công
nghiệp, xây dựng giảm 5,24%, ngành dịch vụ giảm 4,04%, riêng ngành Nông
lâm nghiệp và thủy sản duy trì được mức tăng 1,02% so với cùng kỳ năm 2019.
Cụ thể tăng trưởng các ngành như sau:
1.1. Tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản
Trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản,dịch Covid-19 ảnh hưởng
chủ yếu đến việc xuất khẩu các sản phẩm của ngành này sang thị trường Trung
Quốc và một số nước như dưa hấu, thanh long, sầu riêng... Trên phạm vi cả
nước, việc xuất khẩu sẽ gặp khó khăn khi thông thương nội địa và quốc tế của
Trung Quốc và một số nước bị đình trệ do tác động của dịch bệnh. Tuy nhiên,
đối với ngành nông nghiệp Vĩnh Phúc, sản phẩm chủ yếu phục vụ thị trường nội
địa nên không bị tác động lớn của dịch Covid-19. Bên cạnh đó, các cơ chế chính
sách hỗ trợ tái cơ cấu nông nghiệp theo Nghị Quyết số 201/2015/NQ-HĐND
của Hội đồng Nhân dân tỉnh tiếp tục được thực hiện có hiệu quả.
Trong trồng trọt, cơ cấu cây trồng trên địa bàn tỉnh đã có sự chuyển biến
rõ nét, nên mặc dù diện tích gieo trồng tiếp tục xu hướng giảm nhưng giá trị sản
xuất của ngành trồng trọt 6 tháng đầu năm vẫn đạt mức tăng trưởng 0,14%, chủ
yếu do sản lượng rau các loại (với cơ cấu chiếm trên 30% tổng giá trị ngành
trồng trọt) đạt mức tăng 10,69% so với cùng kỳ.
Trong chăn nuôi: Chăn nuôi gia cầm, chăn nuôi bò (đặc biệt chăn nuôi bò
sữa) trên địa bàn tiếp tục phát triển mạnh. Sản lượng tăng khá so với cùng kỳ:
sản lượng thịt gia cầm tăng 7,54%, trứng tăng 7,76%, sữa bò tươi tăng 34,50%...
Chăn nuôi lợn có xu hướng dần hồi phục. Tuy nhiên, việc tái đàn vẫn gặp không
ít khó khăn do giá con giống quá cao, nguồn cung cấp con giống từ các cơ sở
chăn nuôi uy tín, đảm bảo an toàn còn hạn chế.
1.2. Tăng trưởng khu vực công nghiệp - xây dựng
Sản xuất công nghiệp - xây dựng Quý I năm 2020 mặc dù chịu ảnh hưởng
của dịch bệnh Covid-19 nhưng các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã chủ động
ứng phó, khắc phục khó khăn. Các doanh nghiệp cũng đã dự trữ nguồn nguyên
liệu từ cuối năm 2019 và sản xuất theo các đơn hàng đặt trước, không có doanh
nghiệp phải tạm ngừng hay giảm năng lực sản xuất. Sang tháng Tư, thực hiện
nghiêm các chính sách, biện pháp về phòng chống dịch, các doanh nghiệp phải
3
bố trí thời gian sản xuất theo lịch luân phiên, một số doanh nghiệp đã thực hiện
tạm ngừng sản xuất 15 ngày theo thời gian cách ly toàn xã hội. Dịch bệnh kéo
dài sang quý II đã khiến nhiều ngành sản xuất có chuỗi cung ứng bị gián đoạn,
máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất bị thiết hụt; đơn hàng bị cắt
giảm, sự sụt giảm nhu cầu tiêu thụ dẫn tới sản lượng sản xuất giảm mạnh. Hiện
nay, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã từng bước khôi phục trở lại. Tuy
nhiên, vẫn gặp nhiều khó khăn đặc biệt đối với những doanh nghiệp FDI do tình
hình dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp tại các nước trên thế giới đã ảnh hưởng
đến nhiều ngành sản xuất có chuỗi cung ứng toàn cầu như linh kiện điện tử, lắp
ráp ô tô, xe máy, may mặc, giày da... Chỉ số IIP quý II giảm tới 24,68% so với
cùng kỳ năm trước, kéo theo 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất toàn ngành công
nghiệp giảm 9,65% so với cùng kỳ, thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Tình
hình một số ngành kinh tế chủ lực của tỉnh như sau:
+ Ngành sản xuất linh kiện điện tử: Gặp rất nhiều khó khăn do tiêu thụ
sản phẩm phụ thuộc vào Samsung hoặc các đối tác xuất khẩu tại nước ngoài, thị
trường xuất khẩu lớn nhất là Hàn Quốc hiện chưa mở cửa trở lại sau đại dịch.
Quý I/2020 các doanh nghiệp chịu tác động nhưng không lớn; sang Quý II/2020
chịu tác động mạnh do nguyên liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp
khó khăn, nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, không có đơn hàng, phải
cho công nhân nghỉ việc luân phiên hoặc dừng hoạt động. Chỉ số sản xuất của
ngành này trong 6 tháng đầu năm giảm 3,69% so với cùng kỳ năm trước. Ước
tăng trưởng 6 tháng đầu năm của ngành linh kiện điện tử giảm 1,49%, làm giảm
tăng trưởng chung 0,27 điểm %.
+ Các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất ô tô và xe máy đứng trước hàng
loạt các khó khăn như thị trường tiêu thụ bị thu hẹp do phải cạnh tranh với xe
nhập khẩu; hàng tồn kho nhiều trong khi nhu cầu thị trường xuống thấp; mặt
khác, trong tháng Tư, thực hiện lệnh cách ly toàn xã hội nên một số doanh
nghiệp đã phải cho công nhân tạm nghỉ toàn bộ trong 15 ngày, một số doanh
nghiệp khác bố trí cho nghỉ luân phiên hoặc cắt giảm hợp đồng lao động do
không đảm bảo được việc làm cho người lao động. Chỉ số sản xuất 6 tháng của
hai ngành này giảm lần lượt 27,88% và 8,48% so với cùng kỳ năm trước. Ước 6
tháng đầu năm, tăng trưởng ngành ô tô giảm 27,07% làm giảm tăng trưởng
chung của tỉnh 1,08 điểm %, ngành xe máy giảm 17,10% làm giảm tăng trưởng
chung của tỉnh 1,91 điểm %.
Các ngành công nghiệp còn lại như ngành sản xuất kim loại, sản xuất
khoáng phi kim loại, giày da, may mặc... đều bị ảnh hưởng, sản lượng sản xuất
giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ.
4
1.3. Tăng trưởng khu vực dịch vụ
Các ngành dịch vụ, đặc biệt là ngành thương mại, vận tải, lưu trú, ăn uống,
du lịch lữ hành là những ngành bị ảnh hưởng trực tiếp nhất do tác động từ dịch
bệnh Covid-19. Trước những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, nhiều hoạt
động giao thương, dịch vụ, thương mại trên địa bàn tỉnh có xu hướng sụt giảm,
hoặc tăng thấp so với cùng kỳ. Các hoạt động lễ hội đầu xuân bị hoãn hủy, lượng
khách đi thăm quan du lịch giảm mạnh. Hoạt động vận tải hàng hóa diễn ra
chậm do người dân hạn chế di chuyển, nhu cầu vận tải nguyên vật liệu phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh thời điểm đầu năm thấp. Sáu tháng đầu năm
2020, tăng trưởng các ngành dịch vụ giảm 4,04% so với cùng kỳ, làm giảm tăng
trưởng chung của tỉnh 0,85 điểm %. Trong đó: ngành bán buôn bán lẻ, sửa chữa ô
tô, xe máy giảm 8,00%; ngành vận tải kho bãi giảm 28,10%, ngành dịch vụ lưu
trú ăn uống giảm 29,98% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức sụt giảm thấp
nhất từ trước đến nay. Với tỷ trọng giá trị 3 ngành chiếm tới 35,24% tổng giá trị
tăng thêm các ngành dịch vụ, sự sụt giảm tăng trưởng của 3 ngành làm giảm
tăng trưởng chung 1,33 điểm %.
Tác động của Covid-19 tới một số ngành dịch vụ có yếu tố thị trường là
rất lớn, tuy nhiên đối với các ngành dịch vụ khác, đặc biệt các ngành sử dụng
ngân sách nhà nước như y tế, khoa học công nghệ, thông tin truyền thông... thì
tăng trưởng không có nhiều biến động, thậm chí có thể tăng cao hơn mức tăng
cùng kỳ: ngành thông tin truyền thông tăng 5,63%; ngành y tế và trợ giúp xã hội
tăng 11,79%; ngành hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,02%...
2. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, UBND tỉnh đã triển khai đồng bộ
nhiều giải pháp nhằm kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp
trước tác động của Covid-19 như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay,
giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng; gia hạn nộp thuế, miễn tiền chậm nộp cho
doanh nghiệp; mở rộng các dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, tập trung đơn giản hóa, giảm thời gian, chi phí cho
doanh nghiệp… Tuy nhiên, do sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh giảm sút nên
thu ngân sách nhà nước và tăng trưởng tín dụng trong tháng có xu hướng giảm.
2.1. Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước
Theo số liệu của Kho bạc Nhà nước tỉnh tính đến ngày 15/6/2020, tổng
thu ngân sách của tỉnh đạt 13.215 tỷ đồng, đạt 37,58% so với dự toán, trong đó
thu nội địa đạt 11.586 tỷ đồng bằng 39,47% dự toán. Thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu đạt 1.587 tỷ đồng, bằng 38,23% dự toán.
Chi ngân sách Nhà nước tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, quốc phòng, an ninh, y tế và duy trì hoạt động quản lý nhà nước của địa
5
phương. Tổng chi ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 9.227 tỷ đồng. Trong đó,
chi đầu tư phát triển đạt 4.897 tỷ đồng (bao gồm cả tạm ứng), chi thường xuyên
đạt 4.310 tỷ đồng. Nhìn chung, công tác quản lý chi ngân sách đã được tăng
cường, kiểm soát chi chặt chẽ, quản lý chi theo dự toán, thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
2.2. Hoạt động ngân hàng, tín dụng
Sáu tháng đầu năm, mặt bằng lãi suất cho vay và lãi suất huy động đều có
xu hướng giảm trong đó, lãi suất cho vay phổ biến từ 4,5-10,5%/năm đối với
từng kỳ hạn và đối tượng. Lãi suất huy động bằng VNĐ phổ biến từ 0,2-
7,2%/năm đối với từng kỳ hạn.
Tổng nguồn vốn huy động dự kiến đến cuối tháng Sáu, ước đạt 78.000 tỷ
đồng, giảm 3,46% so với cuối năm 2019. Nguồn huy động giảm chủ yếu là do
huy động từ các tổ chức kinh tế (TCKT) giảm mạnh (giảm 8.495 tỷ đồng so với
cuối năm 2019). Nguyên nhân là do dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng đến tình
hình sản xuất kinh doanh, làm giảm nguồn tiền gửi của doanh nghiệp. Mặt khác,
tháng Tư là tháng quyết toán của các doanh nghiệp Nhật Bản, một số doanh
nghiệp FDI chuyển lợi nhuận về nước… đã khiến nguồn huy động từ tiền gửi
các TCKT trên địa bàn giảm. Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm của dân cư và phát
hành giấy tờ có giá tăng trưởng tốt (tăng tới 11,86%, tương đương với 5.547 tỷ
đồng so với cuối năm 2019), xu hướng tiền gửi tiết kiệm tiếp tục được người
dân tin tưởng lựa chọn, cho thấy dòng tiền chảy vào hệ thống ngân hàng để tái
đầu tư nền kinh tế thay vì chảy vào các lĩnh vực khác như vàng, ngoại tệ, bất
động sản... Ngoài nguồn vốn huy động tại địa phương, các tổ chức tín dụng trên
địa bàn nhận vốn điều hoà từ Hội sở chính để tăng nguồn, bù đắp thanh khoản,
đáp ứng các nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Tổng dư nợ cho vay đến cuối tháng Sáu ước đạt 80.000 tỷ đồng, tăng
2,54% so với cuối năm 2019. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 52.000 tỷ
đồng, tăng 2,19%, chiếm 65% tổng dư nợ; dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt
28.000 tỷ đồng, tăng 3,18% so với cuối năm 2019 và chiếm 35% tổng dư nợ. Cơ
cấu tín dụng tăng trưởng hợp lý, phần lớn là cho vay các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển (chiếm tỷ lệ 86,2 % tổng dư nợ); cho vay
lĩnh vực phi sản xuất (như tiêu dùng, bất động sản và sử dụng thẻ tín dụng...)
chiếm tỷ lệ 11,98% tổng dư nợ. Phân theo đối tượng vay vốn, dư nợ tập trung
chủ yếu vào khu vực hộ gia đình, tư nhân, cá thể (chiếm 50,08% dư nợ), góp
phần tạo công ăn việc làm, cải thiện kinh tế hộ gia đình; khu vực doanh nghiệp
tư nhân, công ty cổ phẩn, công ty TNHH, DN FDI... (chiếm 49,82% dư nợ), hỗ
trợ khu vực doanh nghiệp ổn định sản xuất và mở rộng kinh doanh.
Nợ xấu có xu hướng tăng, ước đến hết tháng Sáu là 990 tỷ, chiếm 1,24%
trên tổng dư nợ, nguyên nhân do hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh
6
nghiệp, hộ gia đình, người dân gặp khó khăn, không có nguồn trả nợ ngân hàng
đúng hạn.
2.3. Bảo hiểm
Công tác bảo hiểm tiếp tục được các ngành, các địa phương triển khai
rộng khắp nhằm đảm bảo phục vụ tốt nhất cho các tầng lớp nhân dân và người
lao động. Ước tính 6 tháng đầu năm 2020, toàn tỉnh có 1.062.442 người tham
gia đóng bảo hiểm các loại. Trong đó, Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc là