Page 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
NGUYỄN MẠNH HIẾU
TÍNH TOÁN MÔ PHỎNG CÁC THÔNG SỐ
TRƯỜNGQUANG TẠI VÙNG HỘI TỤ CỦA VẬT KÍNH
CÓ KHẨUĐỘ SỐ CAO SỬ DỤNG TRONG HỆ KHẮC
LASERTRỰC TIẾP ỨNG DỤNG CHO CHẾ TẠO CẤU
TRÚCVẬT LIỆU NANO
LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LIỆU VÀ LINH KIỆN NANO
HÀ NỘI - 2019
Page 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
NGUYỄN MẠNH HIẾU
TÍNH TOÁN MÔ PHỎNG CÁC THÔNG SỐ TRƯỜNG
QUANG TẠI VÙNG HỘI TỤ CỦA VẬT KÍNH CÓ KHẨU
ĐỘ SỐ CAO SỬ DỤNG TRONG HỆ KHẮC LASER
TRỰC TIẾP ỨNG DỤNG CHO CHẾ TẠO CẤU TRÚC
VẬT LIỆU NANO
Chuyên ngành: Vật liệu và linh kiện nano
Mã số: 8440126.01QTD
LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LIỆU VÀ LINH KIỆN NANO
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN QUỐC TIẾN
HÀ NỘI – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Page 3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn của TS. Trần Quốc Tiến- Viện Khoa học Vật liệu – Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam. Các kết quả đưa ra trong luận văn này là do tôi thực hiện. Tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Nhà trường về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 12 tháng 06 năm 2019
Học viên thực hiện
Nguyễn Mạnh Hiếu
Page 4
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm, hỗ trợ và giúp đỡ từ
nhiều cá nhân và đơn vị.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Trần Quốc Tiến, người đã trực
tiếp hướng dẫn, đóng góp ý kiến và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn đến TS. Tống Quang Công, TS. Vũ Thị Nghiêm,
KTV. Phạm Văn Trường cùng các anh chị tại phòng Laser bán dẫn- Viện Khoa học
Vật liệu đã luôn động viên giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy cô giáo đã giảng dạy tôi trong
hai năm qua, những người đã truyền đạt kiến thức cần thiết cho tôi trong thời gian tôi
học tập tại trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người thân đã hỗ
trợ và giúp đỡ trong suốt quá trình học tập cũng như trong thời gia n thực hiện khóa
luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Page 5
TÍNH TOÁN MÔ PHỎNG CÁC THÔNG SỐ TRƯỜNG QUANG TẠI
VÙNG HỘI TỤ CỦA VẬT KÍNH CÓ KHẨU ĐỘ SỐ CAO SỬ DỤNG
TRONG HỆ KHẮC LASER TRỰC TIẾP ỨNG DỤNG CHO CHẾ TẠO
CẤU TRÚC VẬT LIỆU NANO
Nguyễn Mạnh Hiếu
Khóa K23, chuyên ngành Vật liệu và linh kiện nano
Tóm tắt luận văn tốt nghiệp
Kỹ thuật khắc laser trực tiếp dựa trên sự polyme hóa của các vật liệu nhạy
quang khi xảy ra quá trình hấp thụ photon tại điểm hội tụ của chùm laser. Phương
pháp này dùng hệ quang học được biến đổi từ kính hiển vi quang học, ở đó một chùm
ánh sáng laser được hội tụ tại một vùng rất nhỏ (< 1λm3) thông qua vật kính. Để hội tụ
được chùm laser xuống kích thước rất nhỏ phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau như
các thông số trường qua. Chính vì vậy, luận văn này tập trung chủ yếu vào mô phỏng
các thông số trường quang tại vùng hội tụ của vật kính có khẩu độ số cao sử dụng
trong hệ khắc laser trực tiếp ứng dụng cho chế tạo cấu trúc vật liệu nano.
Trong phần đầu tiên của luận án, chúng tôi đã đưa ra lý thuyết nhiễu xạ ánh
sáng và nghiên cứu sự nhiễu xạ ánh sáng trong một hệ vật kính. Từ đó, đưa các thông
số ảnh hưởng đến sự phân bố cường độ của vùng hội tụ tạo bởi vật kính như khẩu độ
số của vật kính, chiết suất môi trường và sự phân cực của chùm tia tới. Phần tiếp theo,
chúng tôi nghiên cứu lý thuyết Debye về sự hội tụ của sóng điện từ. Dựa trên lý thuyết
vector Debye, chúng tôi đã nghiên cứu về mặt lý thuyết sự phân bố của các vùng hội tụ
của các vật kính có khẩu độ số cao. Từ đó, chúng tôi đưa ra phương pháp tính toán số
và mô phỏng trường điện từ của vùng hội tụ dựa trên công cụ matlab. Cuối cùng,
chúng tôi đưa ra các kết quả mô phỏng theo các thông số đã nghiên cứu như khẩu độ
số, chiết suất môi trường và phân cực của chùm tia laser tới. Kết quả tính toán mô
phỏng cho thấy, khi ánh sáng được hội tụ xuống kích thước micromet thì kích thước
vùng hội tụ này phụ thuộc nhiều từ các thông số này. Sau đó, chúng tôi đã đối chiếu
kết quả mô phỏng với kết quả thực nghiệm. Từ những kết quả cho thấy, việc tính toán
mô phỏng các thông số trường quang tại vùng hội tụ có ý nghĩa quan trọng, để đưa ra
Page 6
các thông số trường quang của vật kính có khẩu độ số cao ứng dụng chế tạo các cấu
trúc quang tử 2 hay 3 chiều (2D, 3D) bằng phương pháp hấp thụ một photon cực thấp
(LOPA).
Từ khóa: Khắc laser trực tiếp, vật kính, khẩu độ số, nhiễu xạ ánh sáng.
Page 7
1
MỤC LỤC
VIẾT TẮT ...................................................................................................................... 3
GIỚI THIỆU .................................................................................................................. 4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ............................................................................. 8
1.1. Nhiễu xạ ánh sáng ................................................................................................... 8
1.1.1. Nhiễu xạ ánh sáng của sóng cầu. ....................................................................... 8
1.1.2. Nhiễu xạ ánh sáng của sóng phẳng .................................................................. 12
1.2. Giới thiệu công nghệ khắc laser trực tiếp .......................................................... 18
1.2.1. Công nghệ khắc laser trực tiếp ......................................................................... 18
1.2.2. Vật liệu cảm quang truyền thống (polymer) cho công nghệ khắc laser trực tiếp
.................................................................................................................................... 19
1.2.3. Phương pháp chế tạo cấu trúc bằng khắc laser hấp thụ đa photon .................. 20
1.2.4. Phương pháp chế tạo cấu trúc bằng khắc laser hấp thụ một photon ................ 21
1.2.5. Các ứng dụng điển hình của cấu trúc chế tạo bằng phương pháp khắc laser
trực tiếp. ..................................................................................................................... 26
CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU CƠ BẢN VỀ PHÂN BỐ ÁNH SÁNG TRONG
VÙNG HỘI TỤ CỦA MỘT VẬT KÍNH CÓ KHẨU ĐỘ SỐ CAO. ...................... 27
2.1. Sự nhiễu xạ ánh sáng trong một hệ thống vật kính. .......................................... 27
2.1.1. Tiêu chuẩn Rayleigh. ....................................................................................... 28
2.1.2. Phân bố ánh sáng trong vùng hội tụ của một vật kính có khẩu độ số cao. ...... 30
2.2. Sự dịch chuyển tiêu cự của chùm tia hội tụ khi đặt trong môi trường chiết
suất… ............................................................................................................................ 33
2.3. Phương pháp tính toán số và mô phỏng dựa trên công cụ matlab. ................. 35
2.4. Nghiên cứu cơ bản về phân bố EM trong môi trường hấp thụ. ....................... 36
2.4.1. Sự hội tụ của sóng điện từ trong môi trường hấp thụ. ..................................... 39
2.4.2. Khai triển tích phân Debye – Wolf. ................................................................. 40
2.4.3. Khai triển tích phân Debye- Wolf mở rộng. .................................................... 40
Page 8
2
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ MÔ PHỎNG VỀ PHÂN BỐ TRƯỜNG QUANG
TRONG VÙNG HỘI TỤ CỦA VẬT KÍNH CÓ KHẨU ĐỘ SỐ CAO. ................. 44
3.1. Phân bố ánh sáng trong vùng hội tụ theo khẩu độ số khác nhau. ................... 44
3.2. Hình dạng và kích thước của chùm tia đầu vào tại vùng hội tụ. ..................... 45
3.3. Ảnh hưởng của chùm tia đầu vào về hình dạng và kích thước của vùng hội
tụ…… ............................................................................................................................ 46
3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng phân bố phân cực của chùm ánh sáng tới trong vùng
hội tụ mạnh của vật kính có khẩu độ số cao. ............................................................ 48
3.4.1. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một chùm phân cực thẳng theo trục x .. 50
3.4.2. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một chùm phân cực tròn. ...................... 52
3.4.3. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một chùm phân cực hướng tâm ............ 53
3.4.4. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một chùm phân cực phương vị. ............ 55
3.5. Phân bố ánh sáng trong vùng hội tụ theo các môi trường chiết suất khác
nhau… ........................................................................................................................... 56
3.5.1. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ trong cùng một môi trường chiết suất ......... 56
3.5.2. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ trong môi trường chiết suất khác nhau ....... 57
3.6. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một vật kính có khẩu độ số cao theo các
vị trí bề mặt khác nhau. .............................................................................................. 60
3.7. So sánh đối chứng kết quả mô phỏng với thực nghiệm. ................................... 61
3.7.1. Quan sát đối chiếu thực nghiệm và mô phỏng sự vùng hội tụ của một vật kính
có khẩu độ số cao theo khẩu độ số khác nhau. .......................................................... 61
3.7.2. Ảnh hưởng của phân cực chùm tuyến tính và tròn tới sự phân bố cường độ
trong khu vực trọng tâm. ............................................................................................ 63
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 67
PHỤ LỤC A ................................................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 71
Page 9
3
VIẾT TẮT
PSF (Point spread function): Chức năng lan truyền điểm
NA (Numerical aperture): Khẩu độ số
n (Refractive index): Chiết suất
OL (Objective lens): Vật kính
OPA (One-photon absorption): Hấp thụ một photon
AMOL (Absorption modulation optical lithography): Quang học điều chế hấp thụ
CLSM (Confocal laser scanning microscopy): Kính hiển vi quét laser đồng tiêu
FDTD (Finite-difference time-domain): Phương pháp sai phân hữu hạn trong miền thời
gian
TPA (Two-photon absorption): Hấp thụ 2 photon
AR (Aspect ratio): Tỷ lệ co
FWHM (Full width at half maximum): Một nửa chiều rộng tối đa
LOPA (Low one-photon absorption): Hấp thụ một photon cực thấp
DLW (Direct laser writing): Khắc laser trực tiếp
EM (Electromagnetic): Điện từ
STED (Stimulated emission depletion): Suy giảm phát xạ kích thích
Page 10
4
GIỚI THIỆU
Công nghệ nano là công nghệ thu hút sự chú ý và tạo cho con người sự tưởng
tượng rộng hơn về thế giới trong một thời gian rất ngắn so với các công nghệ khác [1].
Nó đã thực sự trở thành hiện thực nhờ vào các phát minh của nhiều loại kỹ thuật kính
hiển vi với độ phân giải cao như kính hiển vi điện tử quét (SEM), kính hiển vi lực
nguyên tử (AFM), kính hiển vi đường hầm quét (STM), và các kính hiển vi quang học
(OM) siêu phân giải, vv… Các công cụ này cho phép quan sát và trong một vài trường
hợp có thể chế tạo các cấu trúc vật liệu ở cấp độ nano. Nhiều lĩnh vực nghiên cứu cũng
như các ngành khoa học có thể được phát triển trong phạm vi của công nghệ nano,
chẳng hạn như điện tử học nano, vật liệu nano, cơ học nano, nano từ, nano quang, sinh
học nano, hay y học nano… [2].
Công nghệ nano cho phép chế tạo các cấu trúc nano khác nhau, thu được hình
ảnh của các cấu trúc, cũng như đo được các tính chất của vật liệu, và cuối cùng là tạo
được các ứng dụng đặc biệt ở cấp độ nano. Để đến được giai đoạn ứng dụng các vật
liệu nano, có rất nhiều vấn đề cần cải thiện cho các phương pháp đang được nghiên
cứu và thử nghiệm hiện nay. Điều đặc biệt quan trong là phương pháp sử dụng phải
đơn giản, giá thành rẻ, và hoạt động ở điều kiện bình thường. Chính vì vậy mà nhiều
phòng thí nghiệm trên thế giới vẫn tiếp tục nghiên cứu và tối ưu hoá các kỹ thuật kính
hiển vi hiện nay, và tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các phương pháp mới.
Trong số các loại kính hiển vi đã được thương mại hoá, kính hiển vi quang học
(Optical Microscope OM) được sử dụng rộng rãi trong rất nhiều các thí nghiệm vật lý,
hoá học, y và sinh học, do tính đơn giản và chi phí thấp. Đặc biệt, kính hiển vi quang
học có thể nghiên cứu vật liệu trong không gian 2 và 3 chiều, và có thể kết hợp với các
phép đo điện hay từ trường…, điều mà những kỹ thuật khác không thể làm được. Ngày
nay, kính hiển vi quang học đã được thay đổi so với chức năng truyền thống trước đây
để có thể ứng dụng, không chỉ thu được các ảnh quang học thông thường, mà có thể là
các ảnh dựa trên sự tương tác giữa ánh sáng, cụ thể là chùm laser, với cấu trúc vật liệu,
đặc biệt là có thể dùng hệ quang học đó để chế tạo các cấu trúc mong muốn dựa trên
sự tương tác laser với vật liệu [3]. Gần đây, sự có sẵn của ống kính có khẩu độ số cao
và việc sử dụng chúng kết hợp với các chùm tia laser khác nhau đã cho phép hội tụ
được chùm ánh sáng xuống vài micromet [4] hoặc thậm chí vài trăm nano [5, 6]. Các
vùng hội tụ với kích thước nhỏ đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm vật lý,
sinh học, thông tin, y học và khoa học vật liệu.
Page 11
5
Đặc biệt, vùng hội tụ bước sóng phụ trở thành một công cụ quan trọng để lưu
trữ dữ liệu quang [7], hình ảnh nano [8], chế tạo nano [9,10], cũng như bẫy quang và
gia tốc quang [11,12].
Kính hiển vi quang học cho hình ảnh và chế tạo vật liệu.
Mặc dù sự phát triển của kính hiển vi điện tử quét (SEM) , kính hiển vi quét
xuyên hầm (STM) và kính hiển vi lực nguyên tử (AFM) rất mạnh trong những năm
qua, kính hiển vi quang học đóng một vai trò quan trọng trong hình ảnh quang học,
quang khắc và chế tạo quang học do vận hành dễ dàngvà chi phí thấp.
So với kính hiển vi trường rộng [13], phát minh ra kính hiển vi đồng tiêu được
thiết kế nhằm tăng độ phân giải quang học và độ tương phản của hình ảnh vi mô bằng
cách sử dụng một lỗ không gian để chặn ánh sáng không tập trung trong hình ảnh.
Ngày nay, trong một hệ thống đồng tiêu dựa trên một thấu kính có khẩu độ số cao, ánh
sáng có thể được tập trung rất đồng đều với kích thước nhỏ cỡ micromet, do đó độ
phân giải tăng lên đáng kể. Kính hiển vi đồng tiêu được dựa trên cơ chế hấp thụ một
photon (OPA), sử dụng một laser rẽ tiền, hoạt động ở chế độ liên tục và như vậy laser
phát xạ tạibước sóng ở trung tâm dải hấp thụ cao của vật liệu đã được nghiên cứu. Tuy
nhiên, dưới các điều kiện hội tu tốt, vùng hội tụ này sẽ rất nhạy với nhiều tham số. Các
tham số này liêu quan tới ánh sáng tới và cũng liên quan đến thấu kính sử dụng. Hiểu
biết tốt hơn các thông số này và khả năng thực hiện một hình dạng họi tụ như mong
muốn là rất quan trọng cho các ứng dụng.
Trên thực tế, vật liệu được nghiên cứu và môi trường thực nghiệm thường làm
suy giảm chất lượng vùng hội tụ. Một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng
tới độ sâu xuyên qua giới hạn của kính hiển vi đồng tiêu [4] là sự hấp thụ của vật liệu.
Do đó, kính hiển vi đồng tiêu thông thường không cho phép tạo ảnh tế bào sâu và chế
tạo cấu trúc 3D của cấu trúc quang tử.
Ngược với kính hiển vi đồng tiêu thông thường, kính hiển vi hấp thụ hai photon
(TPA) cho độ phân giải theo trục tốt hơn. Trong trường hợp này, mẫu có chọn lọc và
chỉ được kích thích một cách hiệu quả tại vị trí tiêu điểm của kính hiển vi, do sự phụ
thuộc bậc hai của phản ứng vật liệu đối với cường độ kích thích. Bằng cách điều khiển
vùng hội tụ, tạo hình ảnh 3D phức tạp hoặc chế tạo được thực hiện [14] . Tuy nhiên,
do tính chất phi tuyến, điều này chỉ xảy ra với cường độ kích thích rất cao, TPA đòi
hỏi một xung laser có độ rộng xung femto giây hoặc picogiây với công suất cao. Do
đó, kỹ thuật này khá tốn kém và phức tạp. Một phương pháp đơn giản và chi phí thấp
Page 12
6
cho phép tạo ảnh 3D và chế tạo các cấu trúc 3D bằng kính hiển vi TPA đang là một
nhu cầu rất cao.
Kính hiển vi siêu phân giải
Trong một kính hiểm vi tiêu chuẩn, do tính chất nhiễu xạ, tính chất sóng của
ánh sáng, khả năng phân giải bị giới hạn bằng một nữa bước sóng của chùm sáng tới.
Để vượt qua giới hạn nhiễu xạ này nhằm quan sát các phan tử đơn hoặc chế tạo các
cấu trúc nano vẫn đang là một thách thức lớn. Rất nhiều nhà khoa học trải qua hàng
trăm năm đã và đang nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp vượt qua giới hạn nhiễu xạ
này. Nhưng cho đến nay chưa có tiến bộ nào vượt qua được giới hạn nhiễu xạ một
cách đang kể. Năm 1984, sáng chế "kính hiển vi quang học quét gần trường" (SNOM)
[15] đã vượt qua giới hạn nhiễu xạ lần đầu tiên. Tuy nhiên, trong thực tế, kỹ thuật này
chỉ có thể phù hợp với một số ứng dụng cụ thể do nguyên tắc làm việc của hệ quét tiếp
điểm. Trong những thập kỷ qua, một số hệ kính hiểm vi quang siêu phân giải, dựa trên
quang học trường xa đã được đề xuất, chẳng hạn như kính hiển vi làm nghèo phát xạ
kích thích (STED) [5], in quang học điều chế hấp thụ (AMOL) [16]. Về nguyên tắc,
các kỹ thuật này sử dụng hai nguồn sáng, một nguồn cho kích thích, và nguồn còn lại
có hình dạng tròn mỏng ở khu vực trọng tâm, được sử dụng để ngăn chặn các “hoạt
động” của các điểm Airy của chùm đầu tiên nhằm thu được điểm Airy hiệu quả, điểm
này nhỏ hơn nhiều so với giới hạn nhiễu xạ. Để sinh ra nguồn thứ 2 có dạng tròn mỏng
trong khu vực trọng tâm, một đĩa phẳng xoáy thường được sử dụng. Cường độ phân bố
thu được từ mặt nạ xoáy có hình dạng tròn mỏng ngang. Vì thế, trong phương pháp
này, độ phân giải được tăng cường chủ yếu dọc theo các hướng bên cạnh. Độ phân giải
trục vẫn nằm trong thang tỷ lệ micromet, tương tự như tỷ lệ kính hiển vi tiêu chuẩn.
Để cải thiện độ phân giải trục, một số phương pháp khác đã được đề xuất bằng cách sử
dụng nguồn sáng thứ ba, được điều chế bởi 1 đĩa lệch pha 0/pi để thực hiện phân bố
trường trong mỏng theo chiều dọc trong khu vực hội tụ. Do đó, với sự kết hợp của các
điểm tròn mỏng ngang và dọc, Độ phân giải siêu 3D có thể đạt được. Trong thực tế, do
sử dụng ba chùm laser, chúng phải được chồng lên nhau một cách hoàn hảo trong
vùng hội tụ, như vậy đòi hỏi một hệ thống quang học rất phức tạp với thách thức lớn
về dich chuyển quang học. Vì thế, sử dụng một phương pháp đơn giản để tạo ra một
vùng hội tụ điểm 3D tròn mỏng hiệu quả là mong muốn trong lĩnh vực kính hiển vi
siêu phân giải 3D.
Page 13
7
Mục đích và đề cương luận án
Mục đích của luận án này là nghiên cứu cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm
vùng hội tụ trong điều kiện vùng hội tụ của vật kính có khẩu độ số cao sử dụng trong
hệ khắc laser trực tiếp ứng dụng cho chế tạo cấu trúc vật liệu nano.Dựa tính phân cực
và tính chất chùm tia của chùm sáng tới, như cũng không phù hợp về chiết suất, sự
phân bố phân cực và cường độ của vùng hội tụ để đưa ra phân bố điện trường của
vùng hội tụ. Từ đó, kiểm soát được các thông số trường quang ảnh hưởng trực tiếp đến
vùng hội tụ. Hơn nữa, dựa trên các kết quả mô phỏng để tiến hành việc chế tạo các cấu
trúc vật liệu nano.
Nội dung của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn được chia
làm 3 chương:
Chương I: Trình bày về cơ sở lý thuyết về nhiễu xạ ánh sáng, nhiễu xạ ánh sáng trong
hệ thống vật kính và giới thiệu công nghệ khắc laser trực tiếp.
Chương II: Trình bày phương pháp tính toán và mô phỏng các thông số trường quang
dựa trên lý thuyết Debye. Từ đó đưa ra phương pháp tính toán số và mô phỏng sử
dụng phần mềm matlab.
Chương III: Trình bày các kết quả mô phỏng về phân bố trường quang trong vùng hội
tụ của vật kính có khẩu độ số cao. Chương này, chúng tôi đưa ra các kết quả mô phỏng
cụ thể theo các thông số đã nghiên cứu ở chương I và chương II. Kết quả mô phỏng ở
chương này cũng cho thấy sự phù hợp giữa các tính toán mô phỏng lý thuyết với kết
quả thực nghiệm.
Page 14
8
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
1.1. Nhiễu xạ ánh sáng.
1.1.1. Nhiễu xạ ánh sáng của sóng cầu.
a)Hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng.
Ánh sáng từ nguồn S truyền qua một lỗ tròn
nhỏ trên màn P. Sau P đặt màn quan sát E, trên
màn E ta nhận được hình tròn sáng đường kính
B’D’ đồng dạng với lỗ tròn BD. Theo định luật
truyền thẳng của ánh sáng, nếu thu nhỏ lỗ tròn P thì
hình tròn sáng trên màn E nhỏ lại. Thực nghiệm
chứng tỏ rằng khi thu nhỏ lỗ tròn đến một mức
nào đó thì trên màn E xuất hiện những vân tròn
sáng tối xen kẽ nhau. Trong vùng tối hình học
(ngoài B’D’) ta cũng nhận được vân sáng và trong vùng sáng hình học (vùng B’D’)
cũng có vân tối. Tại C có thể nhận được điểm tối hay sáng phụ thuộc vào kích thước
của lỗ tròn và khoảng cách từ màn E đến màn P. Như vậy ánh sáng khi đi qua lỗ tròn
đã bị lệch khỏi phương truyền thẳng.
Định nghĩa: Hiện tượng tia sáng bị lệch khỏi phương truyền thẳng khi đi gần các
chướng ngại vật có kích thước nhỏ được gọi là hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng.
Chướng ngại vật có thể là mép biên hay vật cản hoặc một lỗ tròn có kích thước cùng
cỡ bước sóng của ánh sáng chiếu tới.
Hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng có thể giải thích dựa vào nguyên lí Huygens-Fresnel.
Nguyên lí đó được phát biểu như sau.
Nguyên lí Huygens – Fresnel:
- Mỗi điểm trong không gian được sóng ánh sáng từ nguồn thực gửi đến đều trở
thành nguồn sáng thứ cấp phát sóng ánh sáng về phía trước.
- Biên độ và pha của nguồn thứ cấp là biên độ và pha do nguồn thực gây ra tại
vị trí của nguồn thứ cấp.
Theo nguyên lí Huygens–Fresnel, khi ánh sáng chiếu đến lỗ tròn, các điểm trên
lỗ tròn đều trở thành nguồn thứ cấp phát sóng cầu thứ cấp. Bao hình của các mặt sóng
cầu thứ cấp là mặt sóng. Ở mép của lỗ tròn mặt sóng bị uốn cong và tia sóng luôn
Hình 1.1. Hiện tượng nhiễu xạ
ánh sáng.
Page 15
9
vuông góc với mặt sóng, do đó ở mép biên các tia sóng bị đổi phương so với phương
của sóng tới (Hình 1.2)
Hình 1.2. Giải thích định tính hiện tượng nhiễu xạ.
Mỗi nguồn sáng thứ cấp trên mặt lỗ tròn BD có biên độ và pha dao động đúng
bằng biên độ và pha dao động do nguồn sáng S gây ra tại điểm đó. Dao động sáng tại
mỗi điểm trên màn ảnh E sẽ bằng tổng các dao động sáng do những nguồn sáng thứ
cấp trên lỗ tròn BD gây ra tại điểm đó. Từ biểu thức của hàm sóng, dựa vào nguyên lí
Huygens-Fresnel người ta có thể tìm được biểu thức định lượng của dao động sáng tại
một điểm M trên màn hình E, nhưng việc tính toán khá phức tạp vì phải tính tích phân.
Fresnel đã đưa ra một phương pháp tính đơn giản gọi là phương pháp đới cầu Fresnel.
b) Phương pháp đới cầu Fresnel.
Hình 1.3. Phương pháp đới cầu Fresnel.
Xét nguồn sáng điểm O phát ánh sáng đơn sắc và điểm được chiếu sáng M.
Lấy O làm tâm dựng mặt cầu Σ bao quanh S, bán kính R < OM. Đặt MB = b. Lấy M
làm tâm vẽ các mặt cầu Σ0,Σ1,Σ2...có bán kính lần lượt là b, b+ 𝜆
2 , b + 2
𝜆
2 ... , trong đó
λ là bước sóng do nguồn S phát ra. Các mặt cầu Σ0, Σ1, Σ2...chia mặt cầu Σ thành các
đới gọi là đới cầu Fresnel. Với cách dựng như vậy, người ta chứng minh được rằng
diện tích các đới cầu bằng nhau và bằng:
Page 16
10
∆S =πRb
R+bλ (1.1)
Bán kính rk của đới cầu thứ kbằng:
rk = √Rbλ
R+B√kvới k = 1, 2, 3... (1.2)
Theo nguyên lí Huygens, mỗi đới cầu trở thành nguồn sáng thứ cấp phát ánh
sáng tới điểm M. Gọi ak là biên độ dao động sáng do đới cầu thứ k gây ra tại M. Khi k
tăng, các đới cầu càng xa điểm M và góc nghiêng θ tăng (Hình 1.3), do đó ak giảm: a1
> a2> a3 ... Khi k khá lớn thì ak ≈ 0 .
Vì khoảng cách từ đới cầu đến điểm M và góc nghiêng θ tăng rất chậm nên ak
giảm chậm, ta có thể coi ak do đới cầu thứ k gây ra là trung bình cộng của ak-1 và ak+1:
ak =1
2(ak−1 + ak+1) (1.3)
Khoảng cách của hai đới cầu kế tiếp tới điểm M khác nhau λ /2. Các đới cầu đều
nằm trên mặt sóng Σ, nghĩa là pha dao động của tất cả các điểm trên mọi đới cầu đều
như nhau. Kết quả, hiệu pha của hai dao động sáng do hai đới cầu kế tiếp gây ra tại M
là:
∆φ =2π
λ(L1 − L2) =
2π
λ.
λ
2= π (1.4)
Như vậy hai dao động sáng đó ngược pha nhau nên chúng sẽ khử lẫn nhau. Vì M
ở khá xa mặt Σ, ta coi các dao động sáng do các đới cầu gây ra tại M cùng phương, do
đó dao động sáng tổng hợp do các đới gây ra tại M sẽ là:
a = a1 - a2 + a3 - a4 +... (1.5)
Sau đây chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp đới cầu Fresnel để khảo sát hiện
tượng nhiễu xạ của ánh sáng qua lỗ tròn, đĩa tròn và qua khe hẹp.
c) Nhiễu xạ qua lỗ tròn.
Xét nguồn sáng điểm S, phát ánh sáng đơn sắc qua lỗ tròn AB trên màn chắn P
đến điểm M, S và M nằm trên trục của lỗ tròn. Lấy S làm tâm dựng mặt cầu Σ tựa vào
lỗ tròn AB. Lấy M làm tâm vẽ các đới cầu Fresnel trên mặt Σ. Giả sử lỗ chứa n đới
cầu. Biên độ dao động sáng tổng hợp tại M là:
a = a1 - a 2 +a3 - a 4 + ... ± a n
Page 17
11
Hình 1.4. Nhiễu xạ qua lỗ tròn.
Ta có ta có thể viết:
a =a
2+ (
a1
2− a2 +
a3
2) + (
a3
2− a4 +
a5
2) + ⋯ + {
an
2an−1
2− an ≈ −
an
2
Vì các biểu thức trong dấu ngoặc bằng không, nên:
a =a1
2±
an
2 (1.6)
Lấy dấu + nếu đới n là lẻ và dấu - nếu đới n là chẵn. Ta xét các trường hợp sau:
* Khi không có màn chắn P hoặc kích thước lỗ tròn rất lớn: n →∞, an ≈0 nên cường độ
sáng tại M:
I0 = a2 =a1
2
4 (1.7)
* Nếu lỗ chứa số lẻđới cầu
𝑎 =𝑎1
2+
𝑎𝑛
2
I = (𝑎1
2+
𝑎𝑛
2)
2 (1.8)
I > I0, điểm M sáng hơn khi không có màn P. Đặc biệt nếu lỗ chứa một đới cầu
a =a1
2+
a2
2= a1 và I = a1
2 = 4I0 (1.9)
Cường độ sáng gấp 4 lần so với khi không có lỗ tròn, như vậy điểm M rất sáng.
* Nếu lỗ chứa số chẵn đới cầu
I =a1
2−
an
2 (1.10)
I = (a1
2−
an
2)
2 (1.11)
Page 18
12
I < I0, điểm M tối hơn khi không có lỗ tròn. Nếu lỗ tròn chứa hai đới cầu thì 𝑎 =𝑎1
2−
𝑎2
2 , do đó I = 0, điểm M tối nhất.
Tóm lại điểm M có thể sáng hơn hoặc tối hơn so với khi không có lỗ tròn tùy theo
kích thước của lỗ và vị trí của màn quan sát.
d) Nhiễu xạ qua một đĩa tròn.
Hình 1.5. Nhiễu xạ qua một đĩa tròn.
Giữa nguồn sáng S và điểm M có một đĩa tròn chắn sáng bán kính ro. Giả sửđĩa
che khuất m đới cầu Fresnel đầu tiên. Biên độ dao động tại M là:
a = am+1 − am+2 + am+3 − ⋯
a =am+1
2+ (
am+1
2− am+2 +
am+3
2) + ⋯
Vì các biểu thức ở trong ngoặc có thể coi bằng không, do đó:
a =am+1
2 (1.12)
Nếu đĩa chỉ che ít đới cầu thì am+1 không khác a1 là mấy, do đó cường độ sáng
tại M cũng giống như trường hợp không có chướng ngại vật giữa S và M. Trong
trường hợp đĩa che nhiều đới cầu thì am+1 ≈ 0 do đó cường độ sáng tại M bằng không.
1.1.2. Nhiễu xạ ánh sáng của sóng phẳng.
a) Nhiễu xạ của sóng phẳng qua một khe hẹp.
Để tạo ra chùm sáng song song, người ta đặt nguồn sáng S tại tiêu điểm của
thấu kính hội tụ Lo. Chiếu chùm sáng đơn sắc song song bước sóng λ vào khe hẹp có
bề rộng b (Hình 1.6). Sau khi đi qua khe hẹp, tia sáng sẽ bị nhiễu xạ theo nhiều
phương. Tách các tia nhiễu xạ theo một phương φ nào đó chúng sẽ gặp nhau ở vô
cùng. Muốn quan sát ảnh nhiễu xạ chúng tôi sử dụng thấu kính hội tụ L, chùm tia
nhiễu xạ sẽ hội tụ tại điểm M trên mặt phẳng tiêu của thấu kính hội tụ L. Với các giá
trị φ khác nhau chùm nhiễu xạ sẽ hội tụ tại các điểm khác nhau. Tùy theo giá trị của φ
Page 19
13
điểm M có thể sáng hoặc tối. Những điểm sáng tối này nằm dọc trên đường thẳng
vuông góc với chiều dài khe hẹp và được gọi là các cực đại và cực tiểu nhiễu xạ.
Hình 1.6. Nhiễu xạ qua một khe hẹp.
Vì ánh sáng gửi đến khe là sóng phẳng nên mặt phẳng khe là mặt sóng, các sóng
thứ cấp trên mặt phẳng khe dao động cùng pha. Xét các tia nhiễu xạ theo phương φ
=0, chúng hội tụ tại điểm F. Mặt phẳng khe và mặt quan sát là hai mặt trực giao do đó
theo định lí Malus, các tia sáng gửi từ mặt phẳng khe tới điểm F có quang lộ bằng
nhau và dao động cùng pha nên chúng tăng cường nhau. Điểm F rất sáng và được gọi
là cực đại giữa.
Xét trường hợp φ ≠ 0. Áp dụng ý tưởng của phương pháp đới cầu Fresnel ta vẽ
các mặt phẳng Σ0, Σ1, Σ2... vuông góc với chùm tia nhiễu xạ và cách đều nhau một
khoảng λ/2, chúng sẽ chia mặt khe thành các dải sáng nằm song song với bề rộng của
khe hẹp. Bề rộng của mỗi dải là ℓ =λ
2 sin φ và số dải trên khe sẽ là:
N =b
ℓ=
2b sin φ
λ (1.13)
Theo nguyên lí Huygens, những dải này là nguồn sáng thứ cấp dao động cùng
pha (vì nằm trên cùng một mặt sóng) và phát ánh sáng đến điểm M. Vì quang lộ của
hai tia sáng từ hai dải kế tiếp đến điểm M khác nhau λ/2 nên dao động sáng do hai dải
kế tiếp gửi tới M ngược pha nhau và chúng sẽ khử nhau. Kết quả là nếu khe chứa số
chẵn dải (N = 2k) thì dao động sáng do từng cặp dải kế tiếp gây ra tại M sẽ khử lẫn
nhau và điểm M sẽ tối và là cực tiểu nhiễu xạ. Điều kiện điểm M tối là:
N =2b sin φ
λ= 2k
Hay sin φ = kλ
b với 𝑘 = ±1, ±2, ±3 … (1.14)
Page 20
14
Nếu khe chứa một số lẻ dải (N = 2k+1) thì dao động sáng do từng cặp dải kế tiếp
gửi tới điểm M sẽ khử lẫn nhau, còn dao động sáng do dải cuối cùng gửi tới thì không
bị khử. Kết quả điểm M sẽ sáng và được gọi là cực đại nhiễu xạ bậc k. Cường độ sáng
của các cực đại này nhỏ hơn rất nhiều so với cực đại giữa. Điều kiện điểm M sáng là:
N =2b sin φ
λ= 2k + 1
Hay sin φ = (2k + 1)λ
2b với 𝑘 = ±1, ±2, ±3 … (1.15)
Tóm lại ta có các điều kiện cực đại, cực tiểu nhiễu xạ qua một khe hẹp như sau:
- Cực đại giữa (k=0): sin φ = 0
- Cực tiểu nhiễu xạ:sin φ = ±λ
b, ±2
λ
b, ±3
λ
b, …
- Cực đại nhiễu xạ: sin φ = ±3λ
b, ±5
λ
b, …
Đồ thị phân bố cường độ sáng trên màn quan sát cho bởi Hình 1.7.
Hình 1.7. Hình nhiễu xạ của sóng phẳng qua một khe hẹp.
Nhận xét thấy các cực đại nhiễu xạ bậc k = 1,2,3...nằm xen giữa các cực tiểu nhiễu xạ
và phân bố đối xứng ở hai bên cực đại giữa. Cực đại giữa có bề rộng gấp đôi các cực
đại khác. Theo tính toán lí thuyết, cường độ sáng của các cực đại nhiễu xạ tuân theo hệ
thức sau
I0 : I1 : I2 : I3 : ....= 1 : 0.045 : 0.016 : 0.008 : ...
b) Nhiễu xạ của sóng phẳng truyền qua cách tử phẳng.
Cách tử phẳng là một hệ nhiều khe hẹp giống nhau có độ rộng b, nằm song song cách
đều trên cùng một mặt phẳng. Khoảng cách d giữa hai khe kế tiếp được gọi là chu kì
của cách tử.
Page 21
15
Số khe hẹp trên một đơn vị chiều dài: n =1
d
Hình 1.8. Nhiễu xạ qua cách tử.
Xét một cách tử phẳng có N khe hẹp. Bề rộng của một khe là b, chu kì của cách
tử là d. Chiếu chùm sáng đơn sắc song song bước sóng λ vuông góc với mặt cách tử.
Vì các khe có thể coi là nguồn kết hợp, do đó ngoài hiện tượng nhiễu xạ gây bởi một
khe còn có hiện tượng giao thoa gây bởi các khe. Do đó ảnh nhiễu xạ qua cách tử sẽ
phức tạp hơn nhiều so với ảnh nhiễu xạ qua một khe hẹp. Ta sẽ khảo sát ảnh nhiễu xạ
qua cách tử:
- Tất cả N khe hẹp đều cho cực tiểu nhiễu xạ tại những điểm trên màn ảnh thỏa
mãn điều kiện:
sin φ = kλ
b với 𝑘 = ±1, ±2, ±3 … (1.16)
Những cực tiểu này được gọi là cực tiểu chính
- Xét phân bố cường độ sáng giữa hai cực tiểu chính:
Hiệu quang lộ của hai tia sáng xuất phát từ hai khe kế tiếp đến điểm M là L1
−L2 = dsinφ. Nếu hiệu quang lộ đó bằng số nguyên lần bước sóng L1 −L2 = dsinφ = mλ
thì dao động sáng do hai tia đó gây ra tại M cùng pha và tăng cường lẫn nhau. Kết quả
điểm M sáng. Các điểm đó được gọi là cực đại chính. Vị trí các cực đại chính là:
sin φ = mλ
d với 𝑚 = 0, ±1, ±2, ±3 … (1.17)
Số nguyên m là bậc của cực đại chính. Cực đại chính giữa (m = 0) nằm tại tiêu
điểm F của thấu kính. Vì d > b nên giữa hai cực tiểu chính có thể có nhiều cực đại
chính. Ví dụ: k = 1 và d/b = 3. Do |m|𝜆
𝑑< |k|
𝜆
𝑏 nên |m| < 𝑘
𝑑
𝑏= 3, nghĩa là 𝑚 =
±0, ±1, ±2. Như vậy giữa hai cực tiểu chính có 5 cực đại chính.
Page 22
16
Hình 1.9. Ảnh nhiễu xạ qua ba khe hẹp.
- Xét phân bố cường độ sáng giữa hai cực đại chính:
Tại điểm chính giữa hai cực đại chính kế tiếp, góc nhiễu xạ thỏa mãn điều kiện:
sin φ = (2m + 1)λ
2d với 𝑚 = ±0, ±1, ±2 …
Tại các điểm này, hiệu quang lộ của hai tia gửi từ hai khe kế tiếp có giá trị là:
d sin φ = (2m + 1)λ
2
Đây là điều kiện cực tiểu giao thoa, hai tia đó sẽ khử lẫn nhau. Tuy nhiên điểm chính
giữa đó chưa chắc đã tối. Để minh họa cụ thể ta xét hai trường hợp đơn giản sau:
+ Nếu số khe hẹp N = 2 (số chẵn) thì các dao động sáng do hai khe hẹp gửi tới
sẽ khử nhau hoàn toàn và điểm chính giữa đó sẽ tối. Điểm tối đó được gọi là cực tiểu
phụ.
+ Nếu số khe hẹp N = 3 (số lẻ) thì các dao động sáng do hai khe hẹp gửi tới sẽ
khử nhau, còn dao động sáng do khe thứ ba gây ra không bị khử. Kết quả là giữa hai
cực đại chính là một cực đại. Cực đại này có cường độ khá nhỏ, nên được gọi là cực
đại phụ. Rõ ràng giữa cực đại phụ này và hai cực đại chính hai bên phải có hai cực
tiểu phụ.
Người ta chứng minh được rằng, nếu cách tử có N khe hẹp thì giữa hai cực đại
chính sẽ có N-1 cực tiểu phụ và N-2 cực đại phụ. Hình 1.9 biểu diễn ảnh nhiễu xạ qua
ba khe hẹp.
Cách tử phẳng có thể dùng để đo bước sóng ánh sáng, ứng dụng trong máy đơn
sắc... Từ công thức (1.1-1.17) nếu ta biết được chu kì của cách tử, bằng cách đo góc φ
ứng với cực đại chính bậc m ta có thể xác định được bước sóng ánh sáng.
Page 23
17
Hình 1.10. Nhiễu xạ trên tinh thể.
c) Nhiễu xạ trên tinh thể.
Các nguyên tử (phân tử hay ion) cấu tạo
nên vật rắn tinh thể được sắp xếp theo một cấu
trúc tuần hoàn gọi là mạng tinh thể, trong đó vị
trí của các nguyên tử (phân tử hay ion) gọi là
nút mạng. Khoảng cách giữa các nút mạng, đặc
trưng cho tính tuần hoàn, được gọi là chu kì của
mạng tinh thể. Chiếu lên tinh thể một chùm tia
Rơnghen, mỗi nút mạng trở thành tâm nhiễu xạ và mạng tinh thể đóng vai trò như
một cách tử với chu kì là chu kì của mạng tinh thể. Chùm tiaRơnghen sẽ nhiễu xạ
theo nhiều phương, tuy nhiên chỉ theo phương phản xạ gương (phương mà góc phản
xạ bằng góc tới), cường độ của tia nhiễu xạ đủ lớn để ta có thể quan sát được ảnh
nhiễu xạ. Những tia nhiễu xạ này sẽ giao thoa với nhau và cho cực đại nhiễu xạ nếu
hai tia nhiễu xạ kế tiếp có hiệu quang lộ bằng số nguyên lần bước sóng:
ΔL = 2dsinφ = kλ
hay
sin φ = kλ
2d (1.18)
d là khoảng cách giữa hai mặt phẳng nguyên tử của vật rắn tinh thể (chu kì mạng tinh
thể). Công thức (1.18) gọi là công thức Vulf-Bragg. Đây là công thức cơ bản để phân
tích cấu trúc của vật rắn tinh thể bằng tia Rơnghen. Nếu biết bước sóng của tia
Rơnghen và đo góc φ ta có thể xác định được chu kì d của mạng tinh thể.
Page 24
18
1.2. Giới thiệu công nghệ khắc laser trực tiếp.
Hình 1.11. Hệ khắc laser dùng chế tạo các vi cấu trúc với các ký hiệu linh quang học
L: thấu kính, P: tấm phân cực, PBS: bộ tách chùm phân cực, λ / 2, λ / 4: các tấm thay
đổi phân cực λ / 2 và λ / 4, PZT: Bộ dịch áp điện 3D, APD: photodiode avalanche,
PC: máy tính kết nối với phần cứng điện tử (bộ điều khiển, thẻ PCI) và phần mềm
(Igor, chương trình Labview).
1.2.1. Công nghệ khắc laser trực tiếp.
Một trong các việc quan trọng của công nghệ nano trong quang tử là chế tạo được
các cấu trúc quang tử như mong muốn. Trong những thập kỷ qua, nhiều công nghệ chế
tạo đã được đề xuất. Thực tế thì kỹ thuật được lựa chọn phụ thuộc rất nhiều vào mục
tiêu ứng dụng, cũng như loại vật liệu dùng để chế tạo. Ví dụ, để chế tạo các cấu trúc
quang tử 2 hay 3 chiều (2D, 3D), ta có thể dùng phương pháp giao thoa ánh sáng [17,
18], phương pháp tự tập hợp các hạt hình cầu (self-assembly of opals) [19], và phương
pháp khắc laser trực tiếp (Direct Laser Writing - DLW) [20-25]. Trong các phương
pháp trên, khắc laser trực tiếp bằng đang được chú ý quan tâm bởi kỹ thuật này cho
phép chế tạo nhanh các cấu trúc quang tử 1D, 2D và 3D có hình dạng bất kỳ với độ
phân giải dưới 100 nm, điều này là rất khó thực hiện với các phương pháp khác. Kỹ
thuật khắc laser trực tiếp dựa trên sự polyme hóa của các vật liệu nhạy quang khi xảy
ra quá trình hấp thụ photon tại vùng hội tụ của chùm laser [20]. Phương pháp này dùng
hệ quang học được biến đổi từ kính hiển vi quang học, ở đó một chùm ánh sáng laser
được hội tụ tại một vùng rất nhỏ (< 1µm3) thông qua vật kính, và chỉ có vật liệu này
Page 25
19
mới có phản ứng mạnh và có sự biến đổi vật chất (cho nên được gọi là khắc laser trực
tiếp). Vùng hội tụ được quét trong không gian 3 chiều bằng cách sử dụng hệ dịch
chuyển PZT (gốm áp điện). Phương pháp này rất lý tưởng để chế tạo các cấu trúc tùy ý
có kích cỡ vài trăm nano.
Sơ đồ nguyên lý hoạt động kỹ thuật khắc laser trực tiếp được mô tả trên Hình 1.11.
Hệ có bốn phần chính đó là nguồn sáng, hệ thống dẫn quang học, hệ thống dịch
chuyển ghép nối mẫu/ đế và hệ thống đầu đo. Chùm laser (có thể là bước sóng 355 nm
hoặc 532 nm) được ghép nối trực tiếp tới bộ phận dẫn quang thông qua thấu kính hội
tụ L1. Ánh sáng đi qua hệ thống dẫn, chùm tia laser được mở rộng và chuẩn trực bằng
các thấu kính khác nhau. Công suất laser được giám sát bằng cách sử dụng sự kết hợp
của một tấm /2 và một bộ phân cực. Một tấm /4 được đặt ở phía trước vật kính (OL)
có thể quay để điều chỉnh sự phân cực sao cho thu được chùm tia mong muốn (hình
tròn, elip hoặc tuyến tính). Chùm sáng phân cực "sạch" với công suất được xác định,
được hội tụ vào photoresist bởi vật kích có khẩu độ số (NA) OL cao. Việc thực hiện
DLW đạt được bằng cách quét mẫu với vùng hội tụ của chùm laser. Việc dịch chuyển
này được thực hiện bởi gốm áp điện 3D (PZT). Phát xạ huỳnh quang được hội tụ bởi
vật kính OL tương tự và được gửi đến hệ thống đầu thu. Thu thập và phân tích dữ liệu
được thực hiện bởi một bộ máy bên ngoài tích hợp với máy tính.
1.2.2. Vật liệu cảm quang truyền thống (polymer) cho công nghệ khắc laser trực
tiếp.
Vật liệu dùng cho phương pháp DLW là vật liệu polyme nhạy với ánh sáng,
được gọi là chất cảm quang và được chia thành hai loại: cảm quang âm và cảm quang
dương [2, 26, 27]. Tùy thuộc vào loại cảm quang và các cơ chế chế tạo và thông số
thực nghiệm, các cấu trúc khác nhau có thể được chế tạo. Đối với cảm quang âm, khi
được chiếu với ánh sáng, sẽ gây ra phản ứng trùng hợp, làm cho chất cảm quang trở
nên vững chắc và tồn tại lại trên đế thuỷ tinh sau khi rửa, còn các vùng không được
chiếu ánh sáng sẽ bị rửa trôi. Đây là loại cảm quang thường được sử dụng để chế tạo
các cấu trúc quang tử, đặc biệt là cấu trúc 3D, vì độ cứng và độ trong suốt của vật liệu
này trong vùng ánh sáng nhìn thấy và vùng hồng ngoại. Ngược lại, cảm quang dương
sẽ có phản ứng ngược lại khi nó hấp thụ ánh sáng. Kết quả là vùng vật liệu nào bị
chiếu ánh sáng sẽ bị rửa trôi trong quá trình rửa mẫu, còn vùng không chiếu ánh sáng
vẫn tồn tại trên đế thuỷ tinh. Các chất cảm quang dương thường được sử dụng để tạo
ra cấu trúc 1D và 2D, như để tại khuôn mẫu chế tạo cấu trúc trong các vật liệu khác, ví
dụ cấu trúc plasmonic khi chuyển sang vật liệu kim loại bằng phương pháp “loại bỏ”
Page 26
20
(lift-off). Do vật liệu này mềm và dễ bị ăn mòn trong quá trình rửa, cấu trúc 3D gần
như chưa bao giờ có thể được thực hiện bằng vật liệu cảm quang dương.
Việc chế tạo các cấu trúc 1D, 2D, hay 3D phụ thuộc cơ bản vào cơ chế tương tác giữa
chùm ánh sáng kích thích và vật liệu polyme sử dụng. Hai cách kích thích đã được áp
dụng để chế tạo các cấu trúc, cụ thể là phương pháp hấp thụ một photon (One-Photon
Absorption, OPA) và phương pháp hấp thụ hai photon (Two-Photon Absorption, TPA).
Phương pháp kích thích OPA rất đơn giản để chế tạo các cấu trúc mỏng một chiều và hai
chiều (1D và 2D), bằng việc sử dụng một chùm laser đơn giản, thông thường là chùm
laser liên tục, giá thành thấp, có bước sóng nằm trong dải hấp thụ của vật liệu cảm quang.
Tuy nhiên, do bị hấp thụ mạnh bởi vật liệu, cường độ của chùm ánh sáng bị giảm nhanh
trong quá trình đi sâu vào vật liệu, dẫn đến không thể chế tạo được cấu trúc dày, hay cấu
trúc 3D [28]. Cấu trúc chế tạo được cũng không đều theo bề dày của vật liệu, vì vậy
phương pháp khắc quang bằng laser sử dụng hiệu ứng OPA thường dùng để chế tạo các
cấu trúc 1D và 2D có độ dày khiêm tốn khoảng 1 µm.
1.2.3. Phương pháp chế tạo cấu trúc bằng khắc laser hấp thụ đa photon.
Để chế tạo các cấu trúc 1D, 2D dày, và đặc biệt là cấu trúc 3D, ngày nay người ta
phải sử dụng phương pháp TPA hay hấp thụ đa photon (Multiple-Photon Absorption,
MPA). Hấp thụ 2 hay nhiều photon là một hiệu ứng quang phi tuyến, được đề xuất từ
những năm 1990 [29, 30], để thu được ảnh 3D của các vật liệu và cấu trúc vật liệu, với
độ phân giải cao. Đây là phương pháp phức tạp và giá thành đắt. Thực tế, để có thể tạo
được hiệu ứng TPA, cần phải có một chùm ánh sáng laser có mật độ công suất lớn cỡ
hàng triệu lần so với cường độ của chùm ánh sáng sử dụng trong phương pháp OPA.
Để thực hiện điều đó, thông thường ta phải dùng một nguồn sáng laser xung siêu ngắn
(femto giây), khá tốn kém và phức tạp. Chùm ánh sáng này cũng cần phải được hội tụ
tốt để tăng cường độ bằng việc sử dụng một vật kính có khẩu độ lớn, thường là vật
kính được nhúng trong dầu. Bước sóng của laser xung (thường là laser Ti-Sapphire)
nằm ở vùng 800 nm, ngoài vùng hấp thụ tuyến tính của phần lớn các vật liệu cảm
quang. Sự kết hợp giữa laser xung và hệ quang học hội tụ mạnh làm tăng cường độ
ánh sáng kích thích, do đó cho phép tạo ra phản ứng quang phi tuyến bậc 3, ở đó vật
liệu sẽ hấp thụ cùng lúc 2 photon, mà năng lượng tổng sẽ tương đương với năng lượng
của một photon nằm ở vùng hấp thụ. Việc này cho phép vật liệu cảm quang dịch
chuyển mức năng lượng và xảy ra hiệu ứng hoá học, ví dụ trường hợp đối với vật liệu
cảm quang âm. Tất nhiên chỉ ở vùng hội tụ mới xảy ra, và tạo được cấu trúc tương ứng
với vùng hội tụ (focusing spot), có kích thước < 1µm3. Bằng cách quét vùng hội tụ này
Page 27
21
trong không gian 3D, ta có thể chế tạo được cấu trúc như mong muốn [21-25]. Phương
pháp DLW sử dụng hiệu ứng TPA đã được đề xuất từ những năm 2000 [21,22], bởi
những phòng thí nghiệm mạnh. Ngày nay, phương pháp này đã được thương mại hoá
bởi nhiều công ty, trong đó đáng kể là công ty Kloé [31] của Pháp, và công ty
Nanoscribe [32] của Đức. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn laser xung femto giây, cộng
với hệ quang học phức tạp để bảo đảm xung femto giây không bị dãn (do hiện tượng
tán sắc), làm cho giá thành của một hệ DLW sử dụng hiệu ứng TPA khá đắt, khoảng
400 nghìn euros. Một xu hướng hiện nay là thay thế laser Ti-Sapphire cồng kềnh bằng
laser femto giây làm bằng vật liệu Erbium-Ytterbium trong sợi quang học. Tuy vậy,
bước sóng của laser này nằm ở vùng hồng ngoại nên cần phải có công suất khá cao để
tạo hiệu ứng hấp thụ nhiều photon (MPA), và việc sử dụng mới dừng ở mức độ thí
nghiệm.
Trong phương pháp chế tạo này, ta cũng biết là cấu trúc chế tạo được không thể nhỏ
hơn kích thước của chùm ánh sáng hội tụ, và kích thước này thì bị hạn chế bởi rào cản
nhiễu xạ ánh sáng. Tức là chùm ánh sáng hội tụ có kích thước tối thiểu bị hạn chế bởi
bước sóng ánh sáng, λ, và khẩu độ của vật kính sử dụng, NA (giới hạn nhiễu xạ ≥
0.61) [33]. Tuy vậy, thực tế cho thấy là kích thước của cấu trúc chế tạo được còn phụ
thuộc vào cả vật liệu sử dụng, ngưỡng hấp thụ 2 photon, sự co giãn vật liệu … Vì vậy,
nếu điều khiển công suất của laser chiếu hoặc thời gian chiếu, ta có thể tối ưu được
kích thước thực tế của cấu trúc chế tạo tới khoảng 100 nm3 [34]. Gần đây, một vài
nhóm làm về siêu phân giải quang học đã ứng dụng hiệu ứng hiệu ứng STED
(STimulated-Emission Depletion) vào phương pháp DLW để có thể tạo ra các cấu trúc
có kích thước nhỏ hơn 100 nm [35-38]. Sự kết hợp này đòi hỏi phải thêm một laser thứ
hai vào hệ DLW để tạo phát xạ kích thích (STED), cũng như phải cải thiện tính chất
của vật liệu cảm quang để hiệu ứng STED có hiệu quả. Vì vậy, mặc dù là ý tưởng hay,
nhưng những nghiên cứu cho thấy phương pháp STED-DLW còn có rất nhiều hạn chế,
khá phức tạp và đắt tiền [35-38].
1.2.4. Phương pháp chế tạo cấu trúc bằng khắc laser hấp thụ một photon.
Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để chế tạo được các cấu trúc quang tử 2D, 3D,
như trong trường hợp sử dụng phương pháp TPA, nhưng chỉ sử dụng một laser đơn
giản và hệ quang học có chi phí thấp, như trong trường hợp của phương pháp OPA.
Với mục đích nghiên cứu công nghệ mới, đáp ứng các tiêu chí: đơn giản và chi phí
thấp, Phòng thí nghiệm quang lượng tử và phân tử - LPQM (UMR 8537, CNRS) thuộc
Đại học Sư phạm Cachan (Pháp) gần đây đã đề xuất và chứng minh một phương pháp
Page 28
22
mới, được gọi là phương pháp hấp thụ một photon cực thấp (Low one-photon
absorption - LOPA) [39]. Để tránh ảnh hưởng của hiệu ứng hấp thụ trong phương
pháp OPA, chúng tôi sử dụng một nguồn sáng kích thích có bước sóng nằm ở dải hấp
thụ rất thấp của vật liệu cảm quang. Trên thực tế, sự hấp thụ của vật liệu cảm quang là
khác nhau cho các bước sóng khác nhau. Ở phần ngoài cùng của dải hấp thụ, hấp thụ
của vật liệu là rất yếu, hoặc gần như bằng không. Nếu một chùm tia laser, có bước
sóng nằm trong phạm vi này, được sử dụng, chùm ánh sáng sẽ được hội tụ và truyền
qua trong vật liệu cảm quang, gần giống như chùm ánh sáng đi trong không khí. Mặc
dù sự hấp thụ là cực yếu, nhưng phản ứng hoá học vẫn có thể rất hiệu quả ở vùng hội
tụ ánh sáng mạnh, khi sử dụng một vật kính có khẩu độ cao, ở đó cường độ ánh sáng
có thể cao gấp hàng triệu lần cường độ của chùm không được hội tụ. Do hiệu ứng
LOPA, hình dạng của vùng hội tụ gần như không thay đổi khi xuyên sâu vào vật liệu
cảm quang (lên tới độ dày hàng trăm µm). Kích thước của vùng hội tụ có thể đạt gần
giới hạn nhiễu xạ khoảng 0,4λ theo chiều ngang và 1,33λ theo chiều dọc. Như đã nói ở
trên, kích thước thực tế của cấu trúc chế tạo được sẽ nhỏ hơn giới hạn nhiễu xa này.
Như vậy, bằng cách kết hợp một vật liệu hấp thụ rất thấp và một hệ quang học hội tụ
mạnh, phương pháp LOPA cho phép chế tạo các cấu trúc quang tử 2D, 3D, tương
đương với các cấu trúc thu được bằng phương pháp TPA [40, 41]. Những lợi ích của
phương pháp DLW sử dụng LOPA dựa trên những lợi thế tương ứng của cả hai
phương pháp OPA và TPA. Thật vậy, LOPA-DLW chỉ cần một nguồn laser liên tục,
có công suất vài mW, có bước sóng nằm trong vùng ánh sáng nhìn thấy (thoả mãn
điều kiện LOPA đối với phần lớn chất cảm quang), và một hệ quang học đơn giản. Giá
thành của phương pháp này sẽ giảm xuống khoảng 100 nghìn euros, đồng thời thao tác
với hệ LOPA cũng đơn giản hơn rất nhiều.
Gần đây, một số nhóm nghiên cứu cũng chứng minh nhiều ưu điểm khác của
phương pháp LOPA so với phương pháp TPA đã được thương mại hoá. Thứ nhất, việc
sử dụng nguồn laser liên tục dẫn đến hiệu ứng nhiệt do quang, có thể nói là hiệu ứng
không mong muốn đối với nhiều trường hợp. Tuy nhiên, trong trường hợp khắc quang
trên vật liệu cảm quang nó lại là hiệu ứng tích cực. Chúng ta có thể thấy rằng thông
thường đối với chất cảm quang âm, chuyên dùng để chế tạo cấu trúc 3D, sau khi chiếu
ánh sáng, ta cần ủ nhiệt ở khoảng 100°C trong vài phút để hoàn thành chu trình liên
kết của chất cảm quang. Khi sử dụng hệ LOPA, ta có thể bỏ qua gia đoạn ủ nhiệt này
[42], vì nó đã được thực hiện ngay trong quá trình chiếu ánh sáng, hiệu ứng nhiệt cảm
ứng do quang, điều không thể làm được trong trường hợp dùng laser xung của phương
pháp TPA (hiệu ứng nhiệt của kích thích xung là có, rất mạnh, tuy vậy nó diễn ra một
Page 29
23
cách không liên tục, giống như các xung laser, vì vậy nó không làm tăng nhiệt độ của
mẫu lên 100°C một cách liên tục để tạo liên kết). Đặc biệt là sự ủ nhiệt thông qua
chùm ánh sáng hội tụ chỉ diễn ra ở vùng hội tụ, vì vậy nó cho phép giảm hiệu ứng tích
luỹ năng lượng [43] đối với các vùng xung quanh, và tăng độ phân giải của hệ LOPA
[42].
Bên cạnh đó, phương pháp LOPA còn cho phép chế tạo các cấu trúc quang tử có
chứa một hạt vật chất rất nhỏ (hữu cơ, vô cơ, kim loại, từ, vv.), thông qua việc chế tạo
theo hai bước với cùng một hệ LOPA: dùng công suất laser cực kì thấp (µW) để quét
xác định vị trí của hật nano, sau đó tăng công suất cao hơn (mW) để chế tạo cấu trúc
polymer như mong muốn có chứa hạt nano đó [44, 45]. Việc cho các hạt nano vào cấu
trúc quang tử tạo ra các ứng dụng khác nhau, tuỳ theo hướng sử dụng. Các cấu trúc
quang tử sẽ giúp tăng cường sự tương tác của ánh sáng đối với hạt nano, do tính giam
giữ ánh sáng của cấu trúc quang tử, dẫn đến các ứng dụng hấp dẫn. Ví dụ tinh thể
quang tử có thể tăng cường mạnh mẽ các tính quang học phi tuyến [46, 47], tối ưu hoá
phát sáng huỳnh quang thông qua hiệu ứng Purcell [48, 49], hay tăng cường hiệu ứng
plasmonic ở cấp độ nano để làm ứng dụng sensor nhạy [50, 51]. Trong trường hợp
khác, các hạt nano được gắn kết vào cấu trúc quang tử cũng có thể làm thay đổi các
tính chất quang học của cấu trúc quang tử. Ví dụ các vật liệu polymer tuyến tính được
pha tạp vào cấu trúc quang tử sẽ tương tác với ánh sáng, làm thay đổi chiết suất của
toàn bộ cấu trúc, do đó cho phép điều chỉnh được chất lượng của cấu trúc quang tử,
hay làm dịch chuyển vùng cấm quang học của cấu trúc quang tử (photonic bandgap)
[52, 53].
Điều đặc biệt của công nghệ này là chúng tôi cũng có thế chế tạo các cấu trúc nano
trên các loại vật liệu khác (vật liệu từ hoặc vật liệu kim loại) bằng cách trực tiếp hoặc
gián tiếp để tạo ra các cấu trúc mới như plasmonic hay metamaterial. Như đã phân tích
ở trên, phương pháp LOPA sử dụng nguồn laser liên tục, và việc kích thích bằng
nguồn ánh sáng này lên vật liệu sẽ gây hiệu ứng nhiệt cảm ứng. Nhiệt độ có thể tăng
lên cao hay thấp tuỳ thuộc vào công suất nguồn laser và độ hấp thụ của vật liệu, môi
trường xung quanh. Gần đây, phương pháp LOPA đã cho phép chế tạo các cấu trúc
nano tương tự như cấu trúc tạo ra bởi chất cảm quang âm, nhưng sử dụng chất cảm
quang dương, điều chưa được phát hiện ra trước đây [54]. Việc tạo được cấu trúc bằng
phương pháp hiệu ứng nhiệt cảm ứng này làm đơn giản hoá quá trình rửa của vật liệu,
đặc biệt là cho phép chế tạo các cấu trúc vượt qua giới hạn nhiễu xạ, tức là kích thước
của cấu trúc nhỏ hơn, tới 57 nm [54], và khoảng cách giữa hai cấu trúc cũng rất gần,
khoảng 300 nm. Đó là một bước tiến mới cho phép phương pháp quang học, hay kính
Page 30
24
hiển vi quang học, đạt đến cấp độ nano, giống như các phương pháp đã được thương
mại hoá nhưng phức tạp khác, như E-beam. Phương pháp nhiệt cảm ứng bởi kích thích
quang này cũng đơn giản hơn rất nhiều phương pháp STED như đã nói ở trên. Ngoài
ra, hiện nay, phương pháp này cũng đang được áp dụng để chế tạo cấu trúc plasmonic
hay in mầu trên màng kim loại [55, 56]. Cách làm của nó rất đơn giản. Trước tiên một
lớp kim loại (vàng) mỏng khoảng vài nanomét được phủ lên một tấm thuỷ tinh bằng
phương pháp phún xạ. Sau đó, dùng hệ LOPA với công suất vài chục mW để quét lên
lớp kim loại. Do hấp thụ với công suất cao, nên nhiệt độ của lớp kim loại sẽ lên đến
vài trăm độ C (chưa đến ngưỡng bay hơi), làm cho lớp kim loại bị tách ra khỏi đế thuỷ
tinh và lớp kim loại sẽ co lại tạo thành các hạt nano kim loại, có kích thước vài chục
nanomét [57, 58]. Trong trường hợp hạt vàng, nó sẽ có cộng hưởng plasmonic ở vùng
nhìn thấy, khoảng 500 nm, dẫn đến khi nhìn vào mẫu, nơi màng vàng bị quét bởi chùm
laser, ta sẽ thấy màu sắc, do một phần ánh sáng đã bị hấp thụ cộng hưởng plasmonic.
Khi quét lớp màng vàng theo các cấu trúc mong muốn ta sẽ thu được cấu trúc
plasmonic như mong muốn. Ngoài ra, bằng việc kiểm soát công suất laser và thời gian
chiếu mẫu, ta có thể thay đổi được kích cỡ hạt vàng dẫn đến thay đổi bước sóng cộng
hưởng và thay đổi mầu sắc của vật liệu. Rất nhiều ứng dụng hay có thể sử dụng
phương pháp này, ví dụ như chế tạo đĩa quang plasmonic [59, 60], in mầu kim loại
[55, 56], mã vạch, hay các ứng dụng khoa học khác bằng cách phủ lên trên lớp kim
loại này các chất phát sáng, để làm tăng cường khả năng phát sáng của vật liệu đó
thông qua hiệu ứng plasmonic [61, 62].
Nguyên lý của khắc laser trực tiếp dựa trên hiệu ứng LOPA:
Đối với phương pháp hấp thụ một photon cực thấp LOPA, để tránh ảnh hưởng của
hiệu ứng hấp thụ, chúng tôi cần sử dụng một nguồn ánh sáng kích thích có bước sóng
nằm ở dải hấp thụ rất thấp của vật liệu cảm quang. Trên thực tế, sự hấp thụ của vật liệu
cảm quang là khác nhau cho các bước sóng khác nhau. Ở phần ngoài cùng của dải hấp
thụ, hấp thụ của vật liệu là rất yếu, hoặc gần như bằng không. Nếu một chùm tia laser,
có bước sóng nằm trong phạm vi này, được sử dụng, chùm ánh sáng sẽ được hội tụ và
truyền qua trong vật liệu cảm quang, gần giống như chùm ánh sáng đi trong không khí.
Mặc dù sự hấp thụ là cực yếu, nhưng phản ứng hoá học vẫn có thể rất hiệu quả ở vùng
hội tụ ánh sáng mạnh, khi sử dụng một vật kính có khẩu độ cao, ở đó cường độ ánh
sáng có thể cao gấp hàng triệu lần cường độ của chùm không được hội tụ. Do hiệu ứng
LOPA, hình dạng của vùng hội tụ gần như không thay đổi khi xuyên sâu vào vật liệu
cảm quang (lên tới độ dày hàng trăm µm). Kích thước của vùng hội tụ có thể đạt gần
giới hạn nhiễu xạ khoảng 0.4λ theo chiều ngang và 1.33λ theo chiều dọc. Như đã nói ở
Page 31
25
trên, kích thước thực tế của cấu trúc chế tạo được sẽ nhỏ hơn giới hạn nhiễu xa này.
Bước sóng laser càng nhỏ, độ chính xác trong chế tạo các cấu trúc PCs càng cao. Như
vậy, bằng cách kết hợp một vật liệu hấp thụ rất thấp và một hệ quang học hội tụ mạnh,
phương pháp LOPA cho phép chế tạo các cấu trúc quang tử 2D, 3D, tương đương với
các cấu trúc thu được bằng phương pháp TPA. Những lợi ích của phương pháp DLW
sử dụng LOPA dựa trên những lợi thế tương ứng của cả hai phương pháp OPA và
TPA. Điều đặc biệt của công nghệ này là chúng tôi cũng có thế chế tạo các cấu trúc
nano trên các loại vật liệu khác (vật liệu từ hoặc vật liệu kim loại) bằng cách trực tiếp
hoặc gián tiếp để tạo ra các cấu trúc mới như plasmonic hay giả vật liệu metamaterial.
Phương pháp này cũng cho phép nghiên cứu tính chất quang và từ của các cấu trúc
hoặc hạt nano.
Về các vật liệu cho kỹ thuật quang khắc, như chúng ta đã biết vật liệu lai hữu cơ
và vô cơ được chế tạo bằng phương pháp sol-gel có ưu thế lớn, do có thể tổng hợp ở
nhiệt độ thấp, độ đồng nhất của vật liệu cao, dễ dàng điều chỉnh thành phần và cho
phép lắp ghép các phần vật liệu hữu cơ với các phần vật liệu vô cơ có tính chất hoá lý
rất khác nhau ở mức độ trộn lẫn đến nanô mét thậm chí đến cả mức độ phân tử để thu
được các vật liệu mới có tính chất mong muốn. Đối với kỹ thuật khắc laser, đặc biệt là
kỹ thuật LOPA một số loại vật liệu lai vô cơ -hữu cơ khi chế tạo thành công có thể hấp
thụ rất thấp ở vùng bước sóng của laser khắc. Vì vậy chùm laser có thể xuyên sâu vào
vật liệu tạo điều kiện tốt cho việc chế tạo các cấu trúc quang tử 3D, đồng thời tăng chất
lượng của cấu trúc. Bên cạnh đó, vật liệu lai vô cơ hữu cơ còn có khả năng điều chỉnh
chiết suất theo hướng tăng chiết suất vật liệu so với các vật liệu polyme. Điều này sẽ
giúp cho việc điều chỉnh vùng bước sóng làm việc của cấu trúc tinh thể quang tử chế
tạo bằng phương pháp khắc laser.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu ứng dụng về cảm biến quang cho lĩnh vực hóa môi
trường nhằm phát hiện hóa chất độc hại nói chung đặc biệt là cảm biến quang dựa trên
các cấu trúc linh kiện quang tử là một lĩnh vực mới chưa có nhiều kết quả. Mặc dù trên
lý thuyết đây là một trong các loại cảm biến đem lại độ nhạy cao trong quá trình sử
dụng. Các kết quả nghiên cứu về cấu trúc tinh thể quang tử kết hợp với hiệu ứng
plasmon bề mặt hứa hẹn tạo ra các loại cảm biến quang tử thế hệ mới với độ nhạy
được nâng cao. Vì vậy, phát triển các nghiên cứu về cảm biến quang tử ứng dụng cho
hóa môi trường và bước tiếp theo đó là ứng dụng cho cảm biến sinh học là công việc
cần thiết và mang tính thời sự.
Page 32
26
1.2.5. Các ứng dụng điển hình của cấu trúc chế tạo bằng phương pháp khắc laser
trực tiếp.
Khi việc chế tạo các cấu trúc quang tử bằng phương pháp khắc laser, sử dụng OPA,
TPA hay LOPA, đã thành công và đáng tin cậy, rất nhiều phòng thí nghiệm trên thế
giới đều muốn xây dựng hệ thiết bị chế tạo các cấu trúc quang tử trên cơ sở phương
pháp này và có thể sử dụng cho nhiều loại ứng dụng khác nhau. Nhiều ứng dụng của
cấu trúc quang tử chế tạo được có thể dùng cho mục đích nghiên cứu cơ bản một số
hiện tượng vật lý ở cấp độ nano, có thể là các ứng dụng vật lý cho sinh học, hay hoá
học. Một vài ví dụ điển hình như: chế tạo hệ lò xo dao động ở cấp độ micro mét hay các hệ
cơ học micro mét dùng cho đồng hồ [63], các thấu kính hiển vi siêu nhỏ [64], cấu trúc siêu
cứng [65], các cấu trúc quang tử dùng cho ống dẫn sóng, micro hay nanolaser [66], các
buồng cộng hưởng micro mét [67, 68], các lồng giam, giá đỡ sinh học [69-71], các cấu trúc
plasmon [72], hay các vật liệu mới metamaterial [73, 74]. Điều cần lưu ý là các cấu trúc
quang tử ở đây là các cấu trúc có kích thước dưới 1 µm, thường là các cấu trúc 2D và 3D,
và chỉ có thể chế tạo bằng phương pháp khắc laser. Vì vậy, việc xây dựng một hệ quang
khắc laser là cần thiết cho các phòng thí nghiệm muốn chế tạo và ứng dụng vật liệu ở cấp
độ nano.
Một trong các ứng dụng khác rất thú vị và nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới đang
quan tâm là chế tạo và nghiên cứu là vật liệu metamaterials (MMs), vì những tính chất vật
lý đặc biệt và khả năng ứng dụng to lớn của loại vật liệu này. MMs cho phép điều khiển
biên độ và tần số của các mode sóng điện từ trong quá trình truyền sóng cũng như chặn
sóng, điều mà trước đây các vật liệu sẵn có trong tự nhiên khó có thể làm được [75-78]. Sự
linh hoạt này giúp vật liệu trở nên quan trọng trong lĩnh vực thông tin, cảm ứng và các thiết
bị quang học... Một trong những tính chất rất đặc biệt của vật liệu MMs là có thể hấp thụ
hoàn toàn sóng điện từ đối với một số tần số mong muốn [79, 80]. Những tính chất đặc biệt
của vật liệu MMs đã nhanh chóng được thực nghiệm kiểm chứng. Điểm thu hút của vật liệu
MMs là khả năng điều khiển sóng điện từ hay điều khiển các tính chất quang của vật liệu
phục vụ cho hàng loạt ứng dụng. Mặc dù các cấu trúc MMs hoạt động ở vùng hồng ngoại
xa đã được nghiên cứu đầy đủ và có ứng dụng trong thực tế, song nghiên cứu về các cấu
trúc MMs hoạt động trong vùng hồng ngoại gần hay vùng ánh sáng nhìn thấy còn rất hạn
chế. Lý do là vì các MMs hoạt động ở vùng này đòi hỏi phương pháp chế tạo phải đạt được
độ phân giải rất cao, để chế tạo được cấu trúc cỡ nanomét. Ở đây, phương pháp khắc trực
tiếp bằng laser lại giữ một vị trí rất quan trọng, vì nó cho phép chế tạo được cấu trúc MMs
có hình dạng như ý muốn để có được tính chất quang học tối ưu. Hơn nữa đây cũng là
phương pháp duy nhất cho phép chế tạo được các MMs dưới dạng 3D [73, 81].
Page 33
27
CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU CƠ BẢN VỀ PHÂN BỐ ÁNH SÁNG TRONG
VÙNG HỘI TỤ CỦA MỘT VẬT KÍNH CÓ KHẨU ĐỘ SỐ CAO.
Độ phân giải cao là một yêu cầu thiết yếu của kính hiển vi hình ảnh, như kính
hiển vi quét laser đồng tiêu (CLSM), kính hiển vi quang học quét trường gần (SNOM),
kính hiển vi điện tử quét (SEM) và kính hiển vi quét xuyên hầm (STM), vv… Tùy
thuộc vào hệ thống kính hiểm vi hình ảnh và các đặc tính mẫu, độ phân giải có thể dao
động từ 1 µm xuống 10−10 m. Độ phân giải của một kính hiển vi quang học tiêu chuẩn
được giới hạn ở tỉ lệ thước đo micromet. Giới hạn của độ phân giải kính hiển vi quang
học này chủ yếu là do giới hạn nhiễu xạ ánh sáng gây ra, đó là đặc tính sóng của ánh
sáng.
Trong chương này, chúng tôi thảo luận về các yếu tố của vùng hội tụ trong vật
kính bị hạn chế bởi nhiễu xạ ánh sáng được sử dụng trong kính hiển vi quang học. Đầu
tiên, một giới thiệu ngắn gọn về lý thuyết nhiễu xạ và các phương pháp tính toán số
được sử dụng để tính toán phân bố điện từ (EM) trong vùng hội tụ sẽ được trình bày.
Sau đó, chúng tôi nghiên cứu tính chất của nhiều thông số về phân bố cường độ của
một điểm lấy nét giới hạn nhiễu xạ, chẳng hạn như khẩu độ số của vật kính, phân cực
và phân bố pha của chùm ánh sáng tới, v.v.
2.1. Sự nhiễu xạ ánh sáng trong một hệ thống vật kính.
Nhiễu xạ là tính chất sóng của ánh sáng [82]. Khi ánh sáng gặp vật thể “nhỏ”
(kích thước gần với bước sóng ánh sáng) (trong suốt hoặc mờ), một hiện tượng nhiễu
xạ sẽ xuất hiện. Kết quả là, thay vì chiếu bóng của đối tượng và sự phân bố cường độ
Hình 2.1. Sự lan truyền ánh sáng dưới điều kiện tập trung chặt chẽ bởi một chiết suất
cao của thấu kính. Kích thước vùng hội tụ, T và L, được xác định ở bán rộng hội tụ
(FWHM) theo cường độ đỉnh dọc theo hướng ngang và dọc.
Page 34
28
thì trên màn hình đặt ở mặt sau của vật thể ta thu được có hình dạng vòng hoặc vân.
Ảnh hưởng nhiễu xạ lần đầu tiên được đề xuất bởi lý thuyết Huygens và được nghiên
cứu thêm bởi Fresnel [82].
Nhiễu xạ ánh sáng được sử dụng để giải thích nhiều hiện tượng. Như chúng ra
được biết, với một ống kính hoàn hảo cũng không thể có được một vùng hội tụ lý
tưởng. Hình 2.1 minh hoạ sự lan truyền của một chùm ánh sáng, được hội tụ bởi một
vật kính có khẩu độ số cao không bị sai lệch. Trong vùng tiêu điểm, vùng hội tụ, thay
vì một điểm lý tưởng thì thu được vùng hội tụ có dạng một hình elip, với một đối xứng
quay dọc theo trục quang. Kích thước của vùng hội tụ được thể hiện bởi kích thước
theo chiều dọc (L) và ngang (T). Tỷ lệ L/T thường được định nghĩa là tỷ lệ co (AR).
Lý do kích thước hạn chế (T, L) của vùng hội tụ là do sự nhiễu xạ khi truyền
qua một khẩu độ ống kính. Thật vậy, như bất kỳ loại nhiễu xạ khẩu độ (tức là một khe,
một lỗ hình chữ nhật), một ống kính được xem như một nhiễu xạ khẩu độ, được tạo
thành bởi các điểm nhiễu vô hạn. Ở vùng lân cận của khu vực hội tụ, sự phân bố
trường điện từ EM là sự chồng chéo của tất cả các tia sáng bị nhiễu xuất hiện từ khẩu
độ ống kính. Do đó, vùng hội tụ là một hình ảnh giao thoa của tất cả các tia này, dẫn
đến một kích thước hữu hạn mà không thể giảm xuống dưới bước sóng của ánh sáng
tới.
2.1.1. Tiêu chuẩn Rayleigh.
Kích thước và hình dạng của vùng hội tụ ảnh hưởng trực tiếp đến phân giải của
kính hiển vi quang học. Chẳng hạn, hình ảnh của một đối tượng điểm trên máy ảnh là
một hình ảnh của vùng hội tụ, được mô tả như một chức năng truyền điểm (PSF). Nếu
có hai điểm nằm trong khu vực hội tụ, đủ gần nhau, các PSF có liên quan hợp nhất vào
nhau và chúng tôi không còn có thể phân biệt được hình ảnh của những điểm này trên
máy ảnh. Hơn nữa, trong trường hợp của một quang khắc, dựa trên việc sử dụng một
chùm tập trung, nó không thể chế tạo một cấu trúc với một kích thước nhỏ hơn kích
thước điểm lấy nét. Việc xác định chính xác lấy nét tại chỗ hoặc khoảng cách có thể
phân giải tối thiểu là vấn đề quan trọng nhất trong hệ thống kính hiển vi quang học.
Biểu diễn toán học về độ phân giải được đề cập đến hai loại công thức, được đề xuất
bởi Abbe và Rayleigh [82]. Hai công thức khá giống nhau. Trong một hệ thống hình
ảnh, các tiêu chuẩn Rayleigh thường được coi là một tiêu chuẩn xác định. Trong
trường hợp này, khoảng cách có thể phân giải tối thiểu giữa hai điểm là khoảng cách
trong đó cường độ tối đa của PSF của điểm thứ nhất với mức tối thiểu đầu tiên của
Page 35
29
PSF của điểm thứ hai. Khoảng cách này bằng một nửa kích thước PSF. Trong tiêu
chuẩn Rayleigh, khoảng cách tối thiểu ngang và dọc được tính như sau [82]:
- Đối với kích thước ngang (bên):
T/2 = 0,61λ/NA (2.1)
- Đối với kích thước dọc (trục):
L/2 = 2λ /NA2 (2.2)
Trong đó λ là bước sóng ánh sáng, NA là khẩu độ số của vật kính OL, được định nghĩa
là:
NA = n sinα, (2.3)
Trong đó n là chiết suất của môi trường mà ánh sáng truyền đi, và α là một nửa góc tối
đa mà ánh sáng được tập trung vào vùng hội tụ.
Theo các công thức này, độ phân giải của một hệ thống hình ảnh quang học phụ
thuộc vào bước sóng ánh sáng λ và khẩu độ số NA của vật kính OL. Đối với NA cao
hơn, có thể thu được vùng hội tụ nhỏ hơn và độ phân giải tốt hơn. Để có một NA cao,
người ta có thể tăng góc α hoặc sử dụng một môi trường nhúng với chiết suất cao hơn.
Do đó, để có một số loại vật kính khác nhau, ta nhúng OL vào không khí (n = 1), nước
(n = 1.33), OL ngâm dầu (n = 1.51) hoặc dung môi rắn (n> 2) [83]. Ngày nay, OL với
NA khác nhau từ 0.2 đến 1.65 đã được thương mại và có sẵn.
Để đạt được những vùng hội tụ đồng đều hoặc có phân giải tốt hơn, các thấu
kính có khẩu độ số cao thường được sử dụng trong các hệ thống quang học. Chúng tôi
chú ý rằng các tiêu chuẩn Rayleigh (công thức (2.1), (2.2)) được xác định dựa trên
cường độ của đĩa Airy, đó là mẫu nhiễu xạ của khẩu độ tròn. Sự nhiễu xạ này được
nghiên cứu bằng cách sử dụng lý thuyết nhiễu xạ vô hướng Fresnel-Kirchho, trong đó
các đặc tính vectơ của ánh sáng bị bỏ qua và hướng của năng lượng (vector poynting)
cũng bị bỏ qua… Do đó, công thức (2.1) và (2.2) chỉ phần nào thể hiện kích thước
vùng hội tụ. Tuy nhiên, khi làm việc với một hệ thống quang học có một thấu kính có
khẩu độ số cao, có rất nhiều hiện tượng có thể xuất hiện, chẳng hạn như các cấu trúc
hội tụ rỗng, hình thành vùng hội tụ bất đối xứng, vv… Do đó, cần có một lý thuyết
nhiễu xạ có tính đến đặc tính vectơ của ánh sáng tới.
Phần tiếp theo, chúng tôi sẽ thảo luận về phương trình toán học về phân bố
cường độ của vùng hội tụ trong các điều kiện lấy nét.
Page 36
30
2.1.2. Phân bố ánh sáng trong vùng hội tụ của một vật kính có khẩu độ số cao.
Hình 2.2. Hình biểu diễn của sự lan truyền của sóng ánh sáng, tập trung bởi một vật
kính có NA cao (NA> 0.7). Đường cong màu đỏ đại diện cho luồng sóng lan truyền ở
lối ra của thấu kính .Các chỉ số 1, 2 trong tọa độ Cartesian cho thấy các tọa độ của
ống kính (vật kính) và vùng hội tụ (hình ảnh) tương ứng.
Trong một hệ thống quang học hình ảnh, nếu NA của OL là tương đối cao (>
0.7), như trong Hình 2.2, mặt sóng (ωi) của tia sáng tại lối ra của vùng hội tụ và biến
thành một hình dạng hình cầu. Do đó, các xấp xỉ được thực hiện trong lý thuyết nhiễu
xạ vô hướng, như xấp xỉ gần, điều kiện biên Kirchhoff, xấp xỉ Fresnel hoặc Fraunhofer
[84] không còn thỏa mãn nữa. Kết quả thu được tương ứng không thể phản ánh chính
xác của sự phân bố trường ánh sáng trong vùng lân cận của một tiêu điểm. Trong
những năm 1950, Richard và Wolf đã đề xuất một phương trình toán học đầy đủ về
phân bố điện từ EM trong khu vực hội tụ của một thấu kính có khẩu độ số cao. Công
thức đề xuất xem xét các thuộc tính vector của trường EM và sự dẫn xuất dựa trên
phép ước lượng vector Debye. Ý tưởng chính của lý thuyết này có thể được tóm tắt
như sau [84,85]:
i) Mặt sóng của chùm tia ngay sau khi thoát ra có dạng hình cầu (hình cầu
Gaussian) với bán kính ƒ được gọi là tiêu cự của OL.
ii) Mỗi tia sáng bị nhiễu xạ được xem như là một sóng phẳng và truyền tới tiêu
điểm hình học của thấu kính, được biểu thị bởi sóng vector, k.
iii) Cos (θ, n) ≈ 1, trong đó n là vector của khẩu độ nhiễu xạ và θ là góc của
hướng lan truyền của tia nhiễu xạ và trục quang học.
Theo Richard và Wolf, sự phân bố điện trường tại một điểm bất kỳ p (Hình 2.2) trong
vùng tiêu điểm được cho trong tọa độ Cartesian [85,86] bởi:
Page 37
31
𝐸 = −ⅈ𝑘𝐶
2𝜋∬ 𝑇(𝑆) exp[ⅈ𝑘(𝛷(𝑠𝑥, 𝑠𝑦) + 𝑠𝑥𝑥2 + 𝑠𝑦𝑦2 + 𝑠𝑧𝑧2)] ⅆ𝛺
𝛺, (2.4)
trong đó:
C là hằng số, k = 2πn / λ là số lượng bước sóng,
λ là bước sóng của sự cố ánh sáng, n là chiết suất của môi trường nhúng, và Ω
là một góc của khẩu độ vật kính. Chỉ bên trong góc Ω này, các tia sáng nhiễu xạ được
coi là lan truyền về phía tiêu điểm và đóng góp vào sự hình thành một vùng hội tụ. s =
(sx, sy, sz) là một vector không gian hướng về vùng hội tụ O. Φ (sx, sy) là biến dạng
sóng đối với phân bố Gaussian trong trường hợp quang sai. Trong tính toán của chúng
tôi, nó được coi bằng 0 cho một hệ thống lấy nét không có quang sai, ngoại trừ trường
hợp giao dịch với lớp điện môi. T(s) đề cập đến sự phân bố biên độ của ánh sáng ở lối
ra của vật kính. Công thực này (2.4) này khá phức tạp, bởi vì nó phụ thuộc vào các
tham số khác nhau, chẳng hạn như sự giảm cường độ quang khi qua vật kính và đầu
vào của trường vector.
Giải thích vật lý của phương trình (2.4) là sự phân bố trường vectơ tại một điểm
bất kỳ p (x2, y2, z2) trong vùng hội tụ của một vật kính có khẩu độ số cao là sự chồng
chất của tất cả các sóng phẳng được phát ra từ lối ra của ống kính trong góc Ω. Hơn
nữa, biên độ của sóng phẳng (s), có quan hệ trực tiếp với thấu kính được sử dụng và
chùm tia vector tới.
Trong trường hợp chung, thấu kính có dạng hình tròn. Mặt tiền (wi) của chùm
nhiễu xạ ở lối ra của khẩu độ khách quan là đối xứng theo trục xung quanh trục quang.
Do đó, thuận tiện để thể hiện các vector sóng của bằng cách giới thiệu các tọa độ hình
cầu [87,88]
𝑠 = (sin 𝜃 cos 𝜑 , sin 𝜃 sin 𝜑 , cos 𝜃) (2.5)
với 0 < θ <α, trong đó α là góc tập trung cực đại của OL (Hình 2.2) và φ là góc phương
vị của mặt phẳng đối tượng. Chúng tôi lưu ý rằng, trong một số trường hợp, trong để
tính toán phân bố đặc biệt của mặt sóng, chúng tôi cũng sử dụng tọa độ Cartesian để
thể hiện vector đơn vị s.
Ngoài ra, góc Ω [87] có thể được biểu diễn trong các tọa độ Cartesian và
Spherical như sau:
ⅆΩ =𝑑𝑠𝑥 𝑑𝑠𝑦
𝑠2= sin 𝜃 ⅆ𝜃ⅆ𝜑 (2.6)
Page 38
32
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đối với mặt phẳng ảnh, chúng tôi sử dụng tọa độ
Cartesian để thuận tiện thể hiện sự phân bố cường độ tại mặt phẳng (x2y2), (x2z2),
(y2z2) của vùng hội tụ.
Thay thế công thức (2.5) và (2.6) vào phương trình (2.4), công thức tích phân nhiễu xạ
do đó có thể được viết lại như sau [88]:
𝐸(𝑥2,𝑦2,𝑧2) = −ⅈ𝐶
𝜆∫ ∫ sin 𝜃A(𝜃, 𝜑)B(𝜃, 𝜑)𝐏(𝜃, 𝜑)
2π
0
𝛼
0
× exp[ikn(z2 cos 𝜃 +
𝑥2 sin 𝜃 cos 𝜑 + 𝑦2 sin 𝜃 sin 𝜑)]ⅆ𝜃ⅆ𝜑 (2.7)
Trong đó:
- A (θ, 𝜑) là biên độ của chùm tia tới, đề cập đến chùm tia của chùm laser tới. Ví
dụ, trong trường hợp một chùm đồng nhất, A (θ, 𝜑) = 1. Nếu có mặt chắn (pha
hoặc thành phần quang học điều chế cường độ) là đặt ở phía trước của OL.
- B (θ, 𝜑) là hệ số lọc quang, cho thấy việc bảo tồn năng lượng trước và sau khi mở
ống kính. Trong một hệ thống ống kính một mặt phẳng, B (θ, 𝜑) = √cos 𝜃 [5].
- P (θ, 𝜑) cho biết trạng thái phân cực của trường EM trong vùng tiêu điểm. Nó
được biểu thị bằng P (θ, 𝜑) = T (θ, 𝜑) P0 (θ, 𝜑), trong đó P0 (θ, 𝜑) là vectơ ma
trận liên quan đến sự phân cực của ánh sáng đầu vào và T (θ, 𝜑) là ma trận toán tử
ống kính 3 × 3 để chuyển đổi phân cực từ đối tượng thành vùng tiêu điểm. Dạng
toán học của sự phân cực của trường đầu vào có thể được biểu diễn dưới dạng:
𝐏0 = [
p𝑥(𝜃, 𝜑)p𝑦(𝜃, 𝜑)
p𝑧(𝜃, 𝜑)
] (2.8)
Ma trận điều khiển ống kính có thể được tính bằng cách:
𝐓(𝜃, 𝜑) = 𝑅−1𝐶𝑅, (2.9)
R = [cos 𝜑 sin 𝜑 0
− sin 𝜑 cos 𝜑 00 0 1
], C =[cos 𝜃 0 sin 𝜃
0 1 0− sin 𝜃 0 cos 𝜃
] (2.10)
trong đó R, C mô tả sự quay của hệ tọa độ quanh trục quang và sự thay đổi phân cực
trong suốt quá trình truyền qua thấu kính [88]. Chúng tôi chú ý rằng T (θ, φ) chỉ biểu
thị chuyển đổi phân cực của chùm sáng trong trường hợp môi trường đồng nhất. Nếu
có bất kỳ lớp điện môi sau ống kính, hệ số Fresnel phải được giới thiệu để đưa vào tài
khoản truyền dẫn khác nhau của phân cực khác nhau.
Page 39
33
Như vậy, bằng cách sử dụng công thức (2.8), (2.9) và (2.10), các trạng thái
phân cực của lĩnh vực trong khu vực hội tụ, P (θ, φ), có thể được viết lại như sau:
𝐏(𝜃, 𝜑) =
[
1 + (cos 𝜃 − 1) cos2 𝜑 (cos 𝜃 − 1) cos 𝜑 sin 𝜑 − sin 𝜃 cos 𝜑
(cos 𝜃 − 1) cos 𝜑 sin 𝜑 1 + (cos 𝜃 − 1) sin2 𝜑 − sin 𝜃 sin 𝜑sin 𝜃 cos 𝜑 − sin 𝜃 sin 𝜑 cos 𝜃
] [
p𝑥(𝜃, 𝜑)p𝑦(𝜃, 𝜑)
p𝑧(𝜃, 𝜑)
] (2.11)
Ảnh hưởng của sự phân cực chùm tia vào sự phân bố cường độ của một vùng
hội tụ chặt chẽ về lý thuyết được nghiên cứu.
Dựa trên lý thuyết Debye, đối với một chùm ánh sáng tập trung bởi một thấu
kính có khẩu đội số cao, chúng tôi có thể thấy rằng sự phân bố trường EM trong vùng
hội tụ phụ thuộc vào nhiều các thông số, chẳng hạn như chế độ chùm laser đầu vào, sự
phân cực của ánh sáng tới, thấu kính có khẩu đội số cao, vv..
2.2. Sự dịch chuyển tiêu cự của chùm tia hội tụ khi đặt trong môi trường chiết
suất.
Trong thực tế, một vấn đề quan trọng liên quan đến ứng dụng kính hiển vi
quang học là quang sai, làm suy giảm khả năng của kính hiển vi quang học. Trong
phần này, chúng tôi sẽ thảo luận về một trong những tác động quan trọng nhất gây ra
bởi phương tiện không khớp khúc xạ chiết suất: quang sai hình cầu.
Hình 2.3. Minh họa sơ đồ về sự lan truyền của chùm tia hội tụ chặt chẽ với sự hiện
diện của chiết suất khác nhau. n1, n2 lần lượt là các chiết suất của phương tiện thứ
nhất và thứ hai. O0 là tiêu điểm trong trường hợp môi trường đồng nhất (n1 = n2) và
O1, O2 là tiêu điểm thay đổi gây ra bởi các trường hợp không khớp chiết suất. D là bề
mặt giữa hai môi trường chiết suất. d là khoảng cách giữa D và O0.
Như minh họa trong Hình 2.3, trong một hệ thống lấy nét chặt, khi ánh sáng
được hội tụ qua lớp điện môi D và do khúc xạ thì vùng hội tụ không hội tụ tại tiêu
Page 40
34
điểm O0. Tùy thuộc vào các giá trị của n1 và n2, điểm lấy nét xuất hiện ở bên trái (O1)
hoặc bên phải (O2) của tiêu điểm ban đầu (O0). Joel và cộng sự đã báo cáo rằng, theo
phép đo định lượng của sự dịch chuyển này, một hệ thống thấu kính có thể được sử
dụng để đo chiết suất của vật liệu. Tuy nhiên, nghiên cứu của họ chủ yếu tập trung vào
trường hợp thấu kính có khẩu độ số thấp, trong đó các tính chất vector của ánh sáng bị
bỏ qua. Trong trường hợp hệ thống tập trung khẩu độ số cao, các tia sáng hội tụ
thường xuyên và việc truyền (hệ số Fresnel) của các phân cực s và p phải được xem
xét.
So với phân phối của điện từ EM trong môi trường đồng nhất, các điểm bổ sung
phải được xem xét thêm: điểm đầu tiên là sự truyền không tương đương của các thành
phần di động, và điểm còn lại là quang sai pha (Φ (θ, 𝜑)). Do đó, chúng tôi nên viết lại
phương trình chuyển đổi phân cực (phương trình (2.9)) đã được thảo luận trong Phần
2.1. Trong môi trường đầu tiên, n1:
P1(θ1,𝜑) = T1(θ1, 𝜑)P0 = R−1CRP0, (2.12)
Trong đó P1 đại diện cho phân bố phân cực trong môi trường 1, P0 là phân cực
chùm tia tới, R và C mô tả sự quay của hệ tọa độ quanh trục quang (biểu thức (2.10)).
Phân bố phân cực trong môi trường thứ hai:
P2(θ1,θ2, 𝜑) = T2(θ1,θ2, 𝜑)P1(θ, 𝜑) = T2(θ1,θ2, 𝜑)T1(θ1, 𝜑)P0, (2.13)
Trong đó :
T2(θ1,θ2, 𝜑) = [L(2)]−1IL(1), (2.14)
Và:
𝐼 = [
𝑡𝑝 0 0
0 𝑡𝑠 00 0 𝑡𝑝
], 𝐿(ⅈ) = [cos 𝜃ⅈ 0 −sin 𝜃ⅈ
0 1 0sin 𝜃ⅈ 0 cos 𝜃ⅈ
], (2.15)
Mô tả sự quay của hệ tọa độ thành các vectơ phân cực s và p, i = 1,2 đại diện
cho các tia sáng trước và sau giao diện D, Ibiểu thị việc truyền giao diện điện môi và ts
và tp là các hệ số Fresnel:
𝑡𝑠 =2 sin 𝜃2 cos 𝜃2
sin(𝜃1+𝜃2) , 𝑡𝑝 =
2 sin 𝜃2 cos 𝜃2
sin(𝜃1+𝜃2)cos (𝜃1−𝜃2) , (2.16)
θ1(i = 1) và θ2(i = 2) lần lượt là các góc truyền của tia di chuyển trong môi
trường 1 và môi trường 2. Theo luật Snell: n1sinθ1 = n2sinθ2.
Page 41
35
Ngoài ra, do sự hiện diện của giao diện điện môi, hệ số quang sai cảm ứng được
đưa ra là:
Φ(θ1,θ2,d) = −d(n1 cosθ1 −n2 cosθ2), (2.17)
Trong đó d là khoảng cách giữa giao diện điện môi D và tiêu điểm O0 (Hình
2.3).
Sử dụng Φ (θ1, θ2, d) và P2 (θ1,θ2,𝜑), phương trình. (2.7), được viết lại thành:
𝐄(𝑥2,𝑦2,𝑧2) = −ⅈ𝐶
𝜆∫ ∫ sin 𝜃1A(𝜃1, 𝜑)B(𝜃1, 𝜑)𝐏2(𝜃1, 𝜑)
2π
0
𝛼
0
× exp[i𝑘0(𝑛2𝑧2 cos 𝜃2 +
𝑛1𝑥2 sin 𝜃1 cos 𝜑 + 𝑛1𝑦2 sin 𝜃1 sin 𝜑) + Φ (𝜃1, 𝜃2, ⅆ)]ⅆ𝜃1ⅆ𝜑 (2.18)
Bằng cách sử dụng phương trình này, chúng tôi nghiên cứu phân bố cường độ
của chùm tia hội tụ khi đặt trong môi trường có chiết suất.
2.3. Phương pháp tính toán số và mô phỏng dựa trên công cụ matlab.
Về nguyên tắc, có một số lượng cực nhỏ các tia nhiễu xạ trong phạm vi của các
góc θ (0 ≤ θ ≤ α) và ((0 ≤ φ ≤ 2π), xuất hiện từ khẩu độ ống kính và lan truyền tới vùng
tiêu điểm. Tuy nhiên, việc đối phó với một số tia vô cực là không thực tế. Đối với tính
toán số, xem xét thời gian cần thiết để tính toán, và độ chính xác dung sai, một lượng
giới hạn thích hợp của các tia nhiễu xạ nên được áp dụng.
Do đó, đối với tính toán số, chúng tôi giả sử rằng góc θ được giới hạn từ 0 đến
α bằng một khoảng cách bằng nhau của Δθ, và do đó, góc phương vị φ được giới hạn
từ 0 đến 2π bởi một khoảng cách khoảng bằng nhau của Δφ. Trong chương trình mô
phỏng, chúng tôi giả sử rằng θ được giới hạn bởi Nθ bước tuyến tính như:
𝜃1 = 0,
𝜃𝑚 = 𝜃𝑚−1 + ∆𝜃, (1 ≤ 𝑚 ≤ 𝑁𝜃 , 𝑛𝑔𝑢𝑦ê𝑛),
∆𝜃 =𝛼
𝑁𝜃,
và góc phương vị φ được rời rạc hóa bởi Nφ các bước tuyến tính như sau:
𝜑1 = 0,
𝜑𝑛 = 𝜑𝑛−1 + ∆𝜑, (1 ≤ 𝑛 ≤ 𝑁𝜃 , 𝑛𝑔𝑢𝑦ê𝑛),
∆𝜑 =2𝜋
𝑁𝜑,
Page 42
36
Do đó, công thức tích phân (phương trình (2.7)) có thể được đơn giản hóa bằng
cách tổng hợp một số lượng lớn các sóng phẳng. Nó có thể được viết bằng một cách
tính toán số như sau:
𝐸(𝑥2ⅈ , 𝑦2𝑗 , 𝑧2𝑘) =
= ∑ ∑ sin 𝜃𝑚 𝐴(𝜃𝑚, 𝜑𝑛)𝐵(𝜃𝑚, 𝜑𝑛)𝑃(𝜃𝑚, 𝜑𝑛)
𝑁𝜑
𝑛=1
𝑁𝜃
𝑚=1
× exp [ⅈ𝑘𝑛(𝑧2𝑘 cos 𝜃𝑚 + 𝑥2ⅈ sin 𝜃𝑚 cos 𝜑𝑛 + 𝑦2𝑗 sin 𝜃𝑚 sin 𝜑𝑛)]∆𝜃∆𝜑
(2.19)
Bên cạnh đó, tương tự như phương pháp sai phân hữu hạn trong miền thời gian
(FDTD), khu vực quan tâm (mặt phẳng quan sát) được giả thiết là một phân bố lưới
3D (Nx, Ny, Nz) với một khoảng cách nhỏ hơn λ / 10. Trong tính toán mô phỏng của
chúng tôi, các tham số này được đặt là Nθ = Nφ = 200, Nx = Ny = Nz = 200, cho một
NA cao OL (α ≈ 67,5o), và cho một mô phỏng vùng có kích thước 0,5 μm x 0,5 μm x
0,5 μm.
Trong nghiên cứu này, cách tính toán số được lập trình bằng ngôn ngữ C trên
phần mềm Matlab. Các chi tiết code lập trình được đính kèm trong Phụ lục A.
2.4. Nghiên cứu cơ bản về phân bố EM trong môi trường hấp thụ.
Sóng điện từ truyền từ trung bình đến trung bình với các chiết suất khác và các
đặc tính quang học khác nhau đã được nghiên cứu rộng rãi bởi một số tác giả. Điều
quan tâm nhất của cả lý thuyết lẫn thực tế là sư phân bố nhiễu xạ ánh sáng trong vùng
hội tụ khi ánh sáng được tập trung bởi một thấu kính của kính hiển vi. Những nghiên
cứu này đã đóng góp rất nhiều trong lĩnh vực kính hiển vi quang học để thiết kế các
ống kính mục tiêu tốt hơn, đặc biệt là những ống kính có khẩu độ cao, cũng như cho
hình ảnh quang học có độ phân giải cao.
Các tài liệu liên quan đến sóng điện từ được đưa ra từ lý thuyết cơ bản do Peter
Debye đề xuất từ đầu thế kỷ 19 cho sự chồng chất của sóng phẳng đồng nhất truyền ra
từ mặt phẳng khẩu độ trong một phạm vi định hướng cụ thể [89]. Năm 1959, Wolf
[90] là nhà khoa học đầu tiên đã mở rộng tích phân Debye cho khẩu độ cao tập trung
các sóng điện từ trong một môi trường đồng nhất. Lý thuyết này của ông là sự thể hiện
của phổ góc của sóng phẳng, từ đó thu được công thức tích phân tương tự tích phân
Debye. Công trình này đã mở đường cho sự phát triển hơn nữa của sự lan truyền và
tiêu cự của một chùm ánh sáng [91–98]. Các tác giả đã đưa ra một giải pháp chính xác
Page 43
37
của phương trình sóng đồng nhất và chứng minh tính hợp lệ của tích phân Debye mở
rộng cho các hệ thống thỏa mãn điều kiện khẩu độ cao. Theo Gasper và cộng sự [92]
đã chứng minh một giải pháp hoàn chỉnh cho các vấn đề và thu được xấp xỉ tiệm cận
và biểu thức xuất phát cho các trường điện và từ trường. Họ cũng sử dụng cách trình
bày của phổ góc của sóng phẳng và coi vấn đề lấy nét cho môi trường đồng nhất là
đẳng hướng. Ling và Lee [95] đã điều chỉnh sự tập trung của sóng điện từ thông qua
một mặt giao diện. Một điều kiện biên dưới dạng một phân bố hiện tại được sử dụng
như là một điểm khởi đầu, và việc biểu diễn phổ góc của sóng phẳng cũng được áp
dụng. Theo cách tiếp cận bán hình học, với việc sử dụng phương pháp pha tĩnh, các
biểu thức thu được cho các trường điện và từ trường. Tuy nhiên, do về mặt lý thuyết
rất phức tạp nên việc sử dụng các công thức này để tính toán trường điện từ gần vùng
hội tụ là không thực tế trong hầu hết các trường hợp. Năm 1976, Gasper và cộng sự là
nhóm nghiên cứu đầu tiên đã xem xét một sóng điện từ tùy ý khi nó di chuyển qua một
bề mặt phẳng. Ji và Hongo [96] đã xử lý các vấn đề khác nhau của một nguồn điểm và
một giao diện điện môi hình cầu và sử dụng phương pháp của Maslov để thu được
điện trường trong vùng hội tụ. Việc xử lý tổng hợp toàn bộ các lý thuyết khác nhau sau
đó được đưa ra bởi Stamnes [99]. Năm 1993, Hell và cộng sự [100] coi vấn đề lấy nét
đối với vật liệu chiết suất không đồng nhất bằng cách sử dụng tích phân Fresnel-
Kirchho. Họ đã tách ra 2 thành phần là vectơ điện s và các phần phân cực p và cũng đã
tính toán hiệu ứng quang sai hình cầu trên sự hình thành hình ảnh cho một kính hiển vi
quang đồng tiêu. Tuy nhiên, công thức tích phân mà họ sử dụng được lấy từ định lý
của Green, nhưng vần sự liên tục của điện trường. Ngoài thành phần điện trường còn
thành phần tiếp tuyến của từ trường, do đó công thức tích phân cuối cùng thu được có
thể không chính xác một cách chặt chẽ.Chỉ đến khi Torök et đồng nghiệp [101] đưa ra
sự tập trung của sóng điện từ thông qua giao diện phẳng giữa các vật liệu của các chiết
suất khác nhau được mô tả đầy đủ bằng trung bình của ma trận chính thức. Họ đã mở
rộng lý thuyết của Richards-Wolf về một thấu kính thủy tinh có khẩu độ cao, tập trung
ánh sáng thông qua các phương truyền với các chiết suất khác nhau trong khi giới
thiệu một lượng đáng kể quang sai. Sau đó, họ đã mở rộng công thức của mình với các
chiết suất khác nhau và đề xuất một cách tính xấp xỉ các tích phân và phương pháp
tính toán của Debye-Wolf… Gần như cùng một lúc, nó cũng được Wiersma và Visser
[102] chỉ ra một cách độc lập bằng cách sử dụng phương pháp trong môi trường thứ
hai bằng cách sử dụng phương pháp hoàn toàn khác nhau. Họ đã sử dụng một lý thuyết
vectơ kéo theo, được gọi là lý thuyết m. Tuy nhiên, hiệu suất của tất cả các tác giả đã
nói ở trên, các công thức tính toán đã tốn nhiều thời gian và thường tạo ra sự dao động
Page 44
38
nhanh bởi các nhiễu xạ có thể gây ra các sai số… Để cải thiện điều này, Leutenegger
và cộng sự [103] và Lin và cộng sự [104] đưa ra các kỹ thuật tính toán nhanh được đề
xuất bằng cách sử dụng phép biến đổi Fourier để có được hiệu suất nhiễu xạ. Phương
pháp tính toán được đưa ra bởi Leutenegger và cộng sự nhanh hơn 40 lần so với các
phương pháp cổ điển bằng cách tích hợp trực tiếp.
Hầu hết các mô hình tính toán nghiên cứu này được thực hiện bằng cách tính
xấp xỉ một số giải pháp nghiêm ngặt [92]. Tuy nhiên, các giải pháp chính xác của
Maxwell hoặc phương trình sóng cũng đã thu được [105]. Trong số nhiều cách tiếp
cận và thảo luận, những phương pháp được đưa ra bởi Torök và công sự [101], bởi
Wiersma và Visser [102] và bởi Leutenegger và cộng sự [103] thường được sử dụng vì
dễ dàng để tính toán số. Phương trình hoặc phương trình sóng cũng đã được thực hiện.
Theo những gì đã tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng, mặc dù ánh sáng chiếu
qua một giao diện phẳng giữa các vật liệu có chiết suất khác nhau đã được khảo sát
rộng rãi nhưng lại không chú ý đến sóng điện từ tập trung vào một môi trường hấp thụ
- đây là các trường hợp thường xảy ra trong thực tế khi ánh sáng được tập trung vào
vật liệu nhạy sáng thông qua một môi trường dầu hoặc thủy tinh. Việc nghiên cứu
sóng điện từ lan truyền trong môi trường hấp thụ khi ánh sáng bị suy giảm khi đi qua
là rất cần thiết. Trong một môi trường hấp thụ, chiết suất không còn được xác định bởi
một đại lượng thực duy nhất mà bởi một đại diện phức tạp. Do đó, vectơ sóng không
còn là vectơ thực mà được xác định bởi một vectơ phức, được biểu diễn bằng hình
elip. Có một số bài báo liên quan đến việc truyền sóng điện từ thông qua các giao diện
đơn hoặc đôi giữa môi trường đẳng hướng đồng nhất và phương pháp mất mát bằng
cách sử dụng phương pháp dò tia [106-117]. Một phương pháp dò tia phức tạp chung
được đề xuất để xác định các chiết suất, vectơ sóng, vectơ tia (hoặc vectơ Poynting) và
hướng phân cực của sóng khúc xạ cho hướng ngẫu nhiên của hướng chính và hướng
tùy ý của trục chính. Tất cả những lý thuyết này cho phép giải thích những quan sát
thử nghiệm trong các trường hợp khác nhau.
Trong lĩnh vực chế tạo nano, một ví dụ đắt tiền là khắc bằng laser trực tiếp
(DLW) trong đó ánh sáng được tập trung vào một chất quang dẫn. Việc nghiên cứu
sóng điện từ tập trung vào một môi trường hấp thụ như vậy rất quan trọng trong DLW
bởi vì, khi ánh sáng được tập trung vào các chất quang dẫn, cường độ của điểm lấy nét
liên tục bị suy giảm như một hàm của độ sâu từ giao diện (giữa một môi trường trong
suốt và lớp cảm quang). Kích thước và hình dạng của thể tích rắn ở vùng tiêu cự hoàn
Page 45
39
toàn được xác định bởi một ngưỡng (tỷ lệ thuận với mức cường độ đẳng áp ở vùng tiêu
cự), tại đó xảy ra đáng kể các phản ứng polyme hóa.
Mục đích của chương này là mở rộng cách xử lý của Wolf đối với vấn đề nhiễu
xạ trong các trường hợp khi sóng điện từ được tập trung vào một môi trường hấp thụ,
để có cái nhìn sâu sắc về vật lý của sự hình thành vùng hội tụ, sau đó được áp dụng
cho DLW.
2.4.1. Sự hội tụ của sóng điện từ trong môi trường hấp thụ.
Như đã đề cập ở trên, Torök và các đồng nghiệp đã thu được một giải pháp
nghiêm ngặt cho sóng điện từ tập trung trong một phương truyền phân tầng không tổn
thất[101]. Để thiết lập công thức của sóng không đồng nhất trong môi trường hấp thụ,
chúng tôi đã điều chỉnh cách tiếp cận của họ để lấy ra điện từ ngay trước giao diện
giữa hai môi trường. Trường trên giao diện tuân theo định luật khúc xạ chung của
Snell mà Fedorov và Nakajimawe gần đây đã thu được [118] cho các sóng phẳng xảy
ra trên giao diện. Trường được lấy ngay sau khi giao diện được sử dụng làm điều kiện
biên cho tập hợp công thức tích phân thứ hai tương ứng với sự chồng chất của sóng
phẳng, mô tả trường trong môi trường thứ hai. Theo cách này, bài toán nhiễu xạ được
giải theo một cách toán học chặt chẽ và giải pháp là phương trình sóng không thuần
nhất.
Hình 2.4. Sơ đồ ánh sáng tập trung bởi một ống kính vào một môi trường đơn lẻ.
Một nguồn điểm nằm trong không gian tại z = −∞ phát ra một sóng điện từ đơn sắc và
kết hợp phân cực tuyến tính. Sau đó, sóng lan truyền xảy ra trên một thấu kính khẩu độ
tạo ra sóng hình cầu hội tụ trong không gian hình ảnh. Nguồn gốc O của hệ tọa độ (x,
y, z) được đặt ở tiêu điểm Gaussian. Các trường điện và từ được xác định tại điểm P
tùy ý trong vùng tiêu cự.
Page 46
40
2.4.2. Khai triển tích phân Debye – Wolf.
Chúng tôi xem xét một hệ thống quang học đối xứng với một trục quang z (như
thể hiện trong Hình 2.4). Hệ thống này hình ảnh một nguồn điểm nằm trong không
gian tại z = -∞ và phát ra một sóng điện từ đơn sắc và mạch phân cực tuyến tính. Làn
sóng này xảy ra khi ống kính tạo ra một làn sóng hình cầu hội tụ trong không gian hình
ảnh. Nguồn gốc O của hệ tọa độ (x, y, z) được định vị ở trọng tâm Gaussian. Các
trường điện và từ được xác định tại điểm P tùy ý từ một khẩu độ đã được coi là lớn so
với bước sóng. Trong Hình 2.4 và những gì sau, s = (sx, sy, sz) là vector đơn vị dọc
theo một tia điển hình trong không gian hình ảnh và rP= (x, y, z) là vector vị trí trỏ từ
O đến P. Cho Ẽ (P, t) cho thấy trường điện tử phụ thuộc thời gian và ��(𝑃, 𝑡) cho biết
trường từ trường phụ thuộc thời gian tại P tại thời điểm t, do đó
��(𝑃, 𝑡) = 𝑅𝑒[𝐄(𝑃)exp (−ⅈ𝜔𝑡) (2.12)
��(𝑃, 𝑡) = 𝑅𝑒[𝐇(𝑃)exp (−ⅈ𝜔𝑡) (2.13)
Re ở đây là phần thực.
Trong một không gian hình ảnh không đồng nhất, các trường điện và điện từ
không thời gian có thể được trình bày dưới dạng sự chồng chéo của các sóng phẳng
[89], và chúng tôi sử dụng dạng phát triển của Wolf [90]:
𝐸(𝑃) = −ⅈ𝑘
2𝜋∬
𝑎(𝑠𝑥,𝑠𝑦)
𝑠𝑧𝛺exp(ⅈ𝑘[𝛷(𝑠𝑥 , 𝑠𝑦) + 𝑠. 𝑟𝑃]) ⅆ𝑠𝑥ⅆ𝑠𝑦, (2.14)
𝐻(𝑃) = −ⅈ𝑘
2𝜋∬
𝑏(𝑠𝑥,𝑠𝑦)
𝑠𝑧𝛺exp(ⅈ𝑘[𝛷(𝑠𝑥 , 𝑠𝑦) + 𝑠. 𝑟𝑃]) ⅆ𝑠𝑥ⅆ𝑠𝑦, (2.15)
trong đó Φ (sx, sy) là chức năng sai lệch (mô tả đường đi quang học giữa mặt trước của
sóng quang và mặt cầu dọc theo s, a và b là các vectơ sức mạnh điện và từ trường
tương ứng của các điện trường và điện từ không bị trật bánh ở lối ra aperture Σ, k là số
sóng, và Ω là góc cứng được hình thành bởi tất cả các tia quang học hình học (và do
đó đó là một giới hạn cho tất cả các vector vectơ đơn vị).
2.4.3. Khai triển tích phân Debye- Wolf mở rộng.
Chúng tôi lưu ý rằng công thức (2.14) và (2.15) biểu diễn của sóng rời khỏi
khẩu độ của OL. Ngoài ra, các trường điện và từ không phụ thuộc vào mặt sóng đặc
biệt trong góc Ω mà qua đó việc tích hợp được thực hiện. Điều này có thể được chứng
minh bằng toán học [119]. Các phương trình (2.14) và (2.15) cũng chỉ ra rằng các yếu
tố pha (ngoài chức năng sai lệch) là một yếu tố vô hướng của vectơ s và rp. Kết quả là,
hệ số pha thể hiện sự di chuyển đường quang giữa các đầu sóng đi qua điểm P và
Page 47
41
Gaussian lấy nét O, không giống như tích phân Fresnel-Kirchho, mà hệ số pha tỷ lệ
thuận với đường đi đầy đủ từ khẩu độ đến P.
Việc xem xét của chúng tôi là, không gian hình ảnh của OL bao gồm vật liệu 1
(lossless) và 2 (lossy) với các chiết suất n1 và ñ2 = n2 + iκ, tương ứng, được tách ra bởi
một mặt phẳng phẳng vuông góc với trục quang, như thể hiện trong Hình 2.5. Tâm O
được định vị ở trọng tâm Gaussian. Chúng tôi tính lại công thức (2.14) như sau:
Trong vật liệu 1 và tại bề mặt (z = -d), điện trường được đưa ra bởi:
𝐸1(𝑥, 𝑦, −ⅆ) = −ⅈ𝑘1
2𝜋∬ 𝑤(ⅇ)(𝑠1)
𝛺1exp [ⅈ𝑘1(𝑠1𝑥𝑥 + 𝑠1𝑦𝑦 − 𝑠1𝑧ⅆ)] ⅆ𝑠1𝑥ⅆ𝑠1𝑦, (2.16)
trong đó các chỉ số dưới 1 (và 2 trong phần sau) biểu thị các giá trị tương ứng với các
vùng trong vật liệu 1 (và 2) tương ứng, vật kính được coi là không có sai lệch (Φ (s1x,
s1y) = 0), và
𝐖(ⅇ) =𝒂(𝑠1𝑥,𝑠1𝑦)
𝑠1𝑧 (2.17)
Chúng tôi sẽ không trình bày sự phát sinh của các công thức tương ứng với
trường từ, bởi vì, ngoài các vectơ cường độ, pt (2.13) và phương trình (2.14) gần giống
nhau.
Hình 2.5. Sơ đồ ánh sáng tập trung bởi một thấu kính vào hai phương tiện cách nhau
bởi một giao diện phẳng.
Để mô tả trường trong vật liệu thứ hai, chúng tôi giả định rằng mỗi thành phần
sóng phẳng khúc xạ ở giao diện tuân theo luật của Snell phức tạp, và kết quả là trường
Page 48
42
được xây dựng như một sự chồng chéo của sóng phẳng. Nếu biên độ của sóng phẳng
phát ra khi giao diện được mô tả bởi W(e), thì biên độ của các sóng phẳng truyền qua
trong vật liệu thứ hai là một hàm tuyến tính của W(e), tức là
T(2) W(e), (2.18)
Trong đó toán tử T(2) là một hàm phức tạp của góc tới, và của n1 và ñ2. Các đường
truyền trong vật liệu thứ hai ở vùng lân cận gần (z = -d + δ) của bề mặt được cho bởi
𝐸2(𝑥, 𝑦, −ⅆ) = −ⅈ𝑘1
2𝜋∬ 𝐓(2)𝐖(ⅇ)(𝑠1)
𝛺1exp [ⅈ𝑘1(𝑠1𝑥𝑥 + 𝑠1𝑦𝑦 − 𝑠1𝑧ⅆ)] ⅆ𝑠1𝑥ⅆ𝑠1𝑦,
(2.19)
khi δ → 0 Chúng tôi trình bày trường bên trong vật liệu thứ hai một lần nữa như một
sự chồng chéo của sóng phẳng. Trong tài liệu thứ hai, vector wavesumber k2 có một
biểu diễn vector phức tạp, tức là k2 = k'2 + ik''2, trong đó k'2 và k''2 là các vector thực.
Mỗi vector có hướng lan truyền riêng, được đặc trưng bởi các vector đơn vị s'2 và s''2,
tương ứng. Chúng tôi thấy rằng k''2 luôn luôn vuông góc với giao diện, do đó tích hợp
trong phương trình (2.19) chỉ phụ thuộc vào hướng của k'2, do đó s'2. Bây giờ chúng
tôi có thể biểu diễn vector phức tạp trong môi trường thứ hai như k2 = k'2 + ik''2 = k'2s'2
+ ik''2s''2 trong đó k'2 và k''2 được xác định bởi |𝑘2′ | =
𝜔
𝑐0𝑚′ và |𝑘2
′′| =𝜔
𝑐0𝑚′′. Phương
trình sóng theo thời gian độc lập trong môi trường thứ hai bây giờ có thể được viết
như:
𝐸2(𝑟𝑝) = ∬ 𝐅(ⅇ)(𝑠′2)
𝛺2
exp(ⅈ(𝑘2 . 𝑟𝑝) ⅆ𝑠′2𝑥ⅆ𝑠′
2𝑦
= ∬ 𝐅(ⅇ)(𝑠′1)
𝛺2
exp[ⅈ(𝑘′2𝑠′
2 . 𝑟𝑝] exp (−𝑘′′2𝑧)ⅆ𝑠′
2𝑥ⅆ𝑠′2𝑦,
(2.20)
Chúng tôi phải xác định hàm F(e) (s'2), và vì thế chúng tôi sẽ sử dụng phương
trình (2.19), biểu diễn một điều kiện biên cho phương trình (2.20). Hơn nữa, chúng tôi
sẽ thiết lập mối quan hệ giữa s1 và s'2.
Từ định luận vector phản xạ, chúng tôi có:
𝑘′2𝑠′2 − 𝑘1𝑠1 = (𝑘′2 cos ∅2 − 𝑘1 cos ∅1)𝑢, (2.21)
trong đó u đại diện cho bề mặt bình thường, ϕ1 = (s1, u) và ϕ2 = (s'2, u), rằng
𝑘′2𝑠′2𝑥 = 𝑘1𝑠1𝑥, 𝑘′2𝑠′2𝑦 = 𝑘1𝑠1𝑦 (2.22)
Kết quả của việc chuyển đổi tọa độ và thiết lập s'2 = f (s1), công thức (2.20) trở thành:
Page 49
43
𝐸2(𝑟𝑝) = ∬ 𝐅(ⅇ)(𝑠′2)
𝛺2exp(ⅈ𝑘′2𝑠′2 . 𝑟𝑝) exp (−𝑘′′
2𝑧) × 𝐽0(𝑠1𝑥 , 𝑠1𝑦; 𝑠2𝑥 , 𝑠2𝑦)ⅆ𝑠1𝑥ⅆ𝑠1𝑦
(2.23)
trong đó J0 là ma trận Jacobi của phép biến đổi tọa độ:
𝐉0 = (𝑘1
𝑘′2
)2
bằng cách sử dụng công thức (2.22). Phương trình (2.23) thỏa mãn điều kiện biên được
biểu diễn bởi phương trình (2.19) khi
𝐹(ⅇ)(𝑠1, 𝑠2) = (ⅈ2
𝑘′2
2𝜋𝑘1) 𝑇(ⅇ) 𝑎(𝑠1𝑥,𝑠1𝑦)
𝑠1𝑧exp[−ⅈⅆ(𝑘1𝑠1𝑧 − 𝑘′
2𝑠′2𝑧)] exp (−𝑘2
′′ⅆ), (2.24)
Thay thế phương trình (2.24) vào phương trình (2.23), chúng tôi sẽ có được điện
trường trong vật liệu thứ hai:
𝐸2(𝑥, 𝑦, 𝑧) = −ⅈ
2𝜋𝑘1
∬ 𝑇ⅇ𝑎(𝑠1𝑥 , 𝑠1𝑦)𝑘2
′ 2
𝑠1𝑧
exp[−ⅈⅆ(𝑘1𝑠1𝑧 − 𝑘2′ 𝑠2𝑧
′ )]
𝛺1
× exp(ⅈ𝑘2′ 𝑠2𝑧
′ ) exp [ⅈ𝑘1(𝑠1𝑥𝑥 + 𝑠1𝑦𝑦)] × exp [(−𝑘2′′(𝑧 + ⅆ)]ⅆ𝑠1𝑥ⅆ𝑠1𝑦
(2.25)
Tất cả điều kiện biên biểu diễn bởi phương trình (2.19), và biểu diễn tách rời từ
phương trình (2.20) là các giải pháp chính xác của phương trình sóng đồng nhất và
không đồng nhất. Vì vậy, chúng tôi đã thành công có được một sự mở rộng phù hợp
của giải pháp của Wolf trong vật liệu thứ hai.
Page 50
44
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ MÔ PHỎNG VỀ PHÂN BỐ TRƯỜNG QUANG
TRONG VÙNG HỘI TỤ CỦA VẬT KÍNH CÓ KHẨU ĐỘ SỐ CAO.
3.1. Phân bố ánh sáng trong vùng hội tụ theo khẩu độ số khác nhau.
Như đã đề cập trong việc xác định các tiêu chuẩn Rayleigh, khẩu độ số của thấu
kính là một tham số quan trọng trong hệ thống quang học hình ảnh. Khẩu độ số tỷ lệ
thuận với góc mở tối đa (α) của thấu kính. Khẩu độ số cũng phụ thuộc vào chiết suất
(n) của môi trường ngâm và, như trong Hình 3.1. Trong luận văn, chúng tôi đã nghiên
cứu về mặt lý thuyết sự phân bố cường độ trong vùng hội tụ của 06 thấu kính khác
nhau trong bảng 3.1. Tất cả các thấu kính có NA cao này được nhứng vào các môi
trường khác nhau (không khí, nước và dầu). Trong mô phỏng, chúng tôi đã giả định
rằng chùm tia tới được phân cực tròn theo chiều thẳng đứng và nguồn ánh sáng đơn
sắc với bước sóng λ = 532 nm.
Các thông số của vùng hội tụ tại mặt phẳng (x2y2) và đường (z2 = 0) được thể
hiện trong Hình 3.1. Rõ ràng rằng, trong mọi trường hợp, kích thước ngang của vùng
hội tụ đối xứng quanh trục quang, và kích thước của nó sẽ giảm khi NA tăng lên.
Bảng 3.1: Các khẩu độ số khác nhau và các góc α tương ứng được sử dụng để tính
toán sự phân bố cường độ trong vùng hội tụ. Chiết suất của môi trường nhúng được
thay đổi theo từng thấu kính.
NA 0.7 0.9 1.1 1.25 1.4 1.49
n 1 1 1.333 1.333 1.515 1.515
α(o) 44.42 64.16 55.80 70.03 67.53 80.66
Hình 3.1. Phân bố cường độ ngang của vùng tập trung theo chức năng của NA (xem
Bảng 3.1). NA1,2,3... = nsin (α1,2,3… ) Kết quả thu được bằng cách sử dụng một chùm
đồng nhất phân cực tròn với λ = 532 nm.
Page 51
45
3.2. Hình dạng và kích thước của chùm tia đầu vào tại vùng hội tụ.
Hình 3.2 và cho thấy sự phân bố cường độ của vùng hội tụ tại mặt phẳng y2z2.
Chúng tôi có thể thấy một sự giảm đáng kể kích thước vùng hội tụ theo chiều dọc khi
tăng khẩu độ số của OL, theo như các tiêu chuẩn Rayleigh (Công thức (2.2)). Mặc dù
tốc độ giảm mạnh này, kích thước theo chiều dọc (L) luôn luôn lớn hơn chiều ngang
(T). Điều này là do trong một hệ thống lấy nét với việc sử dụng một OL duy nhất, nó
chỉ có thể lấy nét hoặc thu ánh sáng theo một hướng (truyền dọc theo trục z2) với việc
bỏ ánh sáng từ các hướng khác. Để tiếp tục giảm kích thước tiêu cự theo chiều dọc,
một khả năng là sử dụng đường quang học 4 pi [120], trong đó một OL thứ hai được
đặt ở phía đối diện để điều chỉnh trường ánh sáng dọc theo trục quang của hệ thống.
Hình 3.2. Phân bố cường độ theo chiều dọc trong vùng hội tụ theo các khẩu số khác
nhau (NA = 0.7, 0.9, 1.1, 1.25, 1.4, 1.49). Kết quả thu được bằng cách sử dụng các
thông số tương tự như trong Hình 3.1.
a) Kích thước FWHM của vùng hội tụ, theo hướng ngang và dọc
0,7 0,8 0,9 1,0 1,1 1,2 1,3 1,4 1,5
0,3
0,6
0,9
1,2
1,5
1,8
KÝch thíc ngang (T)
KÝch thíc däc (L)
DÇu
Níc
KÝc
h t
h
íc
chiÒ
u d
äc
(L)
(µm
)
KhÈu ®é sè (NA)
Kh«ng khÝ
0,2
0,3
0,4
0,5
0,6
0,7
KÝc
h t
h
íc
chiÒ
u n
gan
g (
T)
(µm
)
Page 52
46
b) Tỉ lệ cạnh của vùng hội tụ theo chức năng của NA
0,7 0,8 0,9 1,0 1,1 1,2 1,3 1,4 1,5
2,0
2,5
3,0
3,5
4,0
KhÈu ®é sè (NA)
Tû
lÖ
L/T
tû lÖ
Hình 3.3. (a) Kích thước FWHM của vùng hội tụ, theo hướng ngang và dọc, (b) Tỉ lệ
cạnh của vùng hội tụ theo chức năng của NA. Kết quả thu được bằng cách sử dụng
các thông số tương tự như các kết quả thu được trong Hình 3.1 và 3.2.
Các giá trị tính toán của chiều rộng đầy đủ tại độ bán rộng hội tụ (FWHM) theo
các kích thước ngang (T) và dọc (L) của vùng hội tụ được thể hiện trong Hình 3.3 (a).
Rõ ràng là kích thước theo chiều dọc giảm đáng kể từ 1.6 μm xuống khoảng 0.4 μm
trong khi hướng ngang giảm từ 0.4 μm xuống 0.20 μm. Bằng cách sử dụng các kích
thước vùng hội tụ của các môi trường khác nhau, chúng tôi thấy rằng kích thước vùng
hội tụ đối với NA = 0.9 (n = 1) trong môi trường không khí nhỏ hơn đối với NA = 1.1
(n = 1.33) trong môi trường nước, mặc dù góc α nhỏ hơn. Đó là do các bước sóng
trong môi trường dày đặc là ngắn hơn. Tỉ số L/T của vùng hội tụ được thể hiện trong
Hình 3.3 (b). Nó cũng giảm xuống còn khoảng 2 lần ở NA = 1.49. Việc giảm tỷ lệ này
là khá quan trọng đối với nhiều ứng dụng. Thật vậy, hình ảnh 3D và chế tạo quang học
3D, đòi hỏi độ phân giải giống nhau theo mọi hướng.
Chúng tôi lưu ý rằng kích thước FWHM lý thuyết của vùng hội tụ nhỏ hơn giá
trị được tính toán bởi các tiêu chuẩn Rayleigh (1.22λ / NA). Điều này khẳng định sự
chênh lệch của nhiễu xạ vô hướng và các lý thuyết vectơ Debye. Để tính gần đúng về
kích thước vùng hội tụ, cả hai lý thuyết đều có thể chấp nhận được, nhưng trong
trường hợp hình ảnh có độ phân giải cao và chế tạo nano, việc tính toán chính xác từ lý
thuyết vectơ Debye sẽ được sử dụng.
3.3. Ảnh hưởng của chùm tia đầu vào về hình dạng và kích thước của vùng hội tụ.
Vì chùm tia laser thường được sử dụng như một nguồn ánh sáng, điều quan
trọng là mô tả đặc tính tập trung của các chùm laser di động trong điều kiện lấy nét
Page 53
47
chặt chẽ. Cho đến nay, các kết quả thường được báo cáo nhất về chùm tia laser được
gọi là chùm Gauss [121], chùm Bessel-Gaussian [122] và chùm Laguerre-Gaussian
[123]. Trong phần này, chúng tôi nghiên cứu hiệu quả của ba loại chế độ chùm đầu
vào trên phân bố cường độ của điểm lấy nét, đó là: chùm đồng nhất; chùm Gaussian;
và chùm Laguerre-Gaussian. Các biểu diễn toán học của biên độ của các chế độ chùm
này có thể được mô tả như trong Bảng 3.2.
Bảng 3.2: Các chế độ chùm tia khác nhau được sử dụng để tính toán phân bố cường
độ trong vùng hội tụ của OL có NA cao. A (θ, φ) đại diện cho biên độ của chế độ chùm
tia. w là eo của chùm Gauss. β là tỷ lệ bán kính vật kính và eo chùm. θ và φ là các tọa
độ cực của khẩu độ ống kính (xem Hình 2.2). 𝐿𝑝1 là đa thức Laguerre tổng quát.
Chùm đồng nhất 𝐴(𝜃, 𝜑) = 1
Chùm Gaussian 𝐴(𝜃, 𝜑) = exp (−
𝑥12 + 𝑦1
2
𝑤2)
Chùm Laguerre-
Gaussian 𝐴(𝜃, 𝜑) = 𝛽2
sin 𝜃
𝑠ⅈ𝑛2𝛼exp [− (𝛽
sin 𝜃
sin 𝛼)
2
] 𝐿𝑝1 [2 (𝛽
sin 𝜃
sin 𝛼)
2
]
Chúng tôi lưu ý rằng đối với chế độ chùm Laguerre-Gaussian (L-G), chúng tôi
chỉ xem xét chế độ thứ tự đầu tiên, tức là, p = 1. Trong trường hợp này, L11 (x) = 2 - x,
và chùm L-G có hình dạng của một vòng đôi. Tuy nhiên, chế độ này phụ thuộc vào tỷ
lệ β, được xác định là tỷ số bán kính vật kính và vòng eo chùm tia ở phía trước OL.
Trong tính toán của chúng tôi, chúng tôi đặt β = 2.0 để đảm bảo rằng hai vòng của
chùm tia này đi qua OL.
Hình 3.4. So sánh các phân bố cường độ trong vùng hội tụ của OL có NA cao,
được thực hiện với các chế độ chùm tia khác nhau. Thông số mô phỏng: λ = 532nm,
chùm tia tới phân cực tròn, NA = 1.4, n = 1.515.
Page 54
48
Mặt cắt ngang của các chùm tia laser tớiở phía trước khẩu độ ống kính được
hiển thị ở hàng đầu tiên của Hình 3.4. Các phân bố được tính toán có liên quan trong
vùng hội tụ tại mặt phẳng (x2y2) - và (x2z2) được trình bày trong Hình 3.4 (a1-c1) và
(a2-c2), tương ứng. Kết quả tính toán số được thu được trong điều kiện lấy nét (NA =
1.4, n = 1.515), và chùm tia tới có một phân cực tròn. Với các chùm tia sáng khác nhau
ở lối vào của OL, các phân bố cường độ trong vùng lấy nét cũng khác nhau.
So với chùm đồng nhất, chùm tia Gaussian cho phép thu được điểm lấy nét
tương tự nhưng với kích thước lớn hơn. Điều này có thể được giải thích bởi thực tế là
cường độ ánh sáng của chùm Gaussian tập trung ở tâm chùm, có thể tương đương với
tổng khẩu độ lớn của một chùm tia đồng nhất (NA cao) và khẩu độ nhỏ đồng đều
chùm (NA thấp). Do đó, kết quả phân bố cường độ lớn hơn so với phân bố thu được
với một chùm đồng nhất (NA cao). Do kích thước ngang lớn, tỷ lệ khung hình của
điểm lấy nét thu được bằng chùm Gauss trở nên nhỏ hơn. Với một chùm tia phù hợp
của chùm tia Gaussian, có thể tạo ra một điểm lấy nét với hình dạng đẳng hướng, một
nhu cầu cao cho nhiều ứng dụng, như hình ảnh 3D và chế tạo 3D. Trong trường hợp
chùm tia tới L-G, các phân bố cường độ tại các mặt phẳng (x2y2), (x2z2) cho thấy hình
dạng của tiêu điểm được điều chỉnh mạnh. Một phần đáng kể của vòng bên dọc theo
hướng ngang được xuất hiện. Tại mặt phẳng (x2z2), cường độ đỉnh đã được chia thành
hai đỉnh dọc theo trục quang (trục z2). Sự phân bố cường độ này có thể được giải thích
bởi thực tế là điểm lấy nét là hệ quả của sự giao thoa của các tia sáng được điều khiển
trong vùng tiêu cự. Trong trường hợp chùm L-G, ánh sáng của các vòng bên trong và
bên ngoài có các pha khác nhau, và do đó khi các tia nhiễu xạ được cộng vào trong
vùng tiêu cự, chúng giao thoa triệt tiêu và tổng cường độ tại tiêu điểm bị suy yếu. Về
lý thuyết, với sự kiểm soát thứ tự L-G và, có thể thu được một điểm lấy nét với cường
độ bằng 0 tại một tiêu điểm, điều này rất thú vị đối với kính hiển vi siêu phân giải
[124] hoặc bẫy quang [125]. Trong thực tế, do cường độ của hai vòng không bằng
nhau (vòng thứ nhất chiếm ưu thế), tổng cường độ tại mặt phẳng tiêu cự chỉ bị suy
yếu.
3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng phân bố phân cực của chùm ánh sáng tới trong vùng
hội tụ mạnh của vật kính có khẩu độ số cao.
Trong phần này, chúng tôi nghiên cứu sự ảnh hưởng của các loại phân cực khác
nhau, được thể hiện trên Hình 3.5, về sự phân bố cường độ của vùng hội tụ. Độ phân
cực của các thành phần xuyên tâm (Px, Py) và theo chiều dọc (Pz), được trình bày trong
Bảng 3.3 [126]. Trong mọi trường hợp, tia laser được giả định truyền theo hướng trục
Page 55
49
quang. Do đó, Pz được thiết lập bằng 0 để chỉ ra rằng chùm sáng là phân cực ngang
trước khi vào khẩu độ OL
Bảng 3.3: Các trạng thái phân cực khác nhau của chùm ánh sáng tới được sử dụng để
nghiên cứu sự phân bố cường độ của vùng hội tụ của một khẩu độ số cao.
Độ
phân
cực
Phân
cực
theo
trục x
Phân
cực
theo
trục y
Phân
cực
tròn
phải
(RC)
Phân
cực
tròn
trái
(LC)
Phân
cực
ellip
Phân
cực
radial
Phân cực
phương
vị
Px 1 0 1
√2
ⅈ
√2
2
√5 cos 𝜑 -sin 𝜑
Py 0 1 ⅈ
√2
1
√2
ⅈ
√5 sin 𝜑 cos 𝜑
Pz 0 0 0 0 0 0 0
Độ phân cực của chùm tia laser trước và sau khi khẩu độ ống kính được minh
họa trong Hình 3.5 (bên phải của từng tiểu mục). Biểu diễn toán học liên quan của
chuyển đổi phân cực, T (θ, φ) (tương đương (2.9) ở chương 2).
Hình 3.5. Minh họa chuyển đổi phân cực trong một hệ thống hội tụ. Phần bên trái của
mỗi đồ thị phụ là biểu diễn giản đồ của sự phân cực của chùm sáng: tuyến tính (a),
tròn (b), xuyên tâm (c), phương vị (d). Phần bên phải của mỗi đồ thị phụ hiển thị các
cực phân cực trước và sau OL. Các dấu hiệu ⊗ và ⊙ chỉ ra sự phân cực của trường
EM, chỉ vào và ra khỏi mặt phẳng tương ứng
Như được thể hiện trong Hình 3.5, khi một chùm ánh sáng truyền qua một khẩu
độ mục tiêu, trạng thái phân cực của nó được điều chỉnh. Nếu NA của OL tương đối
Page 56
50
cao, thì hiệu ứng phân cực của chùm tia tới trên sự phân bố cường độ của các vùng hội
tụ là đáng kể [127]. Ở đây, chúng tôi sử dụng NA OL cao (NA = 1.4, n = 1.515) để
nghiên cứu ảnh hưởng của sự phân cực chùm tia tới sự phân bố cường độ của một
vùng hội tụ.
3.4.1. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một chùm phân cực thẳng theo trục x
Hình 3.6. Sự phân bố của EM đối với chùm phân cực tuyến tính x trong vùng tiêu cự.
[(a) - (d)] thể hiện sự phân bố tổng cường độ, thành phần dọc Ez2 và hai thành phần
xuyên tâm Ex2 và Ey2 tương ứng. Các chỉ số dưới đây cho thấy sự phân bố cường độ tại
các mặt phẳng (x2y2) và (x2z2). Với, λ = 532 nm, NA = 1.4, n = 1.515.
Trong trường hợp một chùm phân cực tuyến tính x, như trong Hình 3.6 (a), tổng
lượng phát xạ của vùng hội tụ tại mặt phảng (x2y2) cho thấy một hình dạng dài dọc
theo hướng phân cực ánh sáng tới. Các thành phần khác của 𝐸𝑥22 , 𝐸𝑦2
2 và 𝐸𝑧22 được
chuẩn hóa với tổng cường độ 𝐸𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙2 , được thể hiện trong hình 3.6 (b1-d1). Rõ ràng là,
vì chùm tia tới bị phân cực tuyến tính x, thành phần 𝐸𝑥22 , có hình dạng đối xứng, đóng
một vai trò chi phối trong vùng hội tụ. Tuy nhiên, như thể hiện trong Hình 3.6 (d1),
điều thú vị là trong điều kiện hội tụ chặt chẽ, chùm ánh sáng đầu vào tạo ra một thành
phần dọc (Ez2) tại vùng hội tụ của OL. Lý do là, khi chùm phân cực tuyến tính x đi qua
khẩu độ OL, như được minh họa trong Hình 3.5 (a), các tia sáng hội tụ một cách đáng
kể, và phân cực của chúng sẽ quay tương ứng. Do đó, có thành phần x2 (mũi tên xanh)
và thành phần z2 (mũi tên màu xanh lục) trong vùng hội tụ. Thành phần x2 giữ cùng
một pha, và do đó phân bố cường độ cảm ứng (𝐸𝑥22 ,) được hình thành tại tiêu điểm.
Ngược lại, đối với thành phần z2 hướng lên, các tia từ phía trên của trục x (hướng tích
cực) có một hướng ngược lại (lệch pha 𝜋) so với các phần từ phần dưới của trục x
Page 57
51
(hướng tiêu cực). Do đó, khi các tia được điều khiển cộng lại trong vùng tiêu cự, giao
thoa triệt tiêu xảy ra ở trục quang và giao thoa tăng cường xảy ra ở vùng lân cận (Hình
3.6 (d1)). Do sự đóng góp đáng kể của thành phần dọc này, điểm lấy nét hiển thị hình
dạng không đối xứng trong vùng tiêu cự. Khi tăng NA, hình dạng bất đối xứng này trở
nên quan trọng hơn.
Tỉ lệ phân bố cường độ của các thành phần khác nhau dọc theo các trục x2, y2,
z2 được thể hiện trong Hình 3.7. Thành phần dọc 𝐸𝑧22 đại diện cho khoảng 14% tổng
cường độ trong khi 𝐸𝑦22 đóng góp ít hơn 0,5% tổng cường độ.
Hình 3.7: Sự phân bố cường độ của chùm phân cực tuyến tính x trong vùng hội tụ. (a)
- (c): phân bố EM theo các trục x2, y2, và z2. Các tham số tính toán số tương tự như
trong Hình 3.6
Do vùng hội tụ bất đối xứng, FWHM của cường độ tổng cộng dọc trục y2
(đường màu đen trong Hình 3.7 (b)) khoảng 182 nm, trong khi trục x2 (đường màu đen
trong Hình 3.7 (a)) là khoảng 254 nm. Lưu ý rằng, trong trường hợp một chùm phân
cực tuyến tính y, vùng hội tụ có cùng hình dạng dài như thu được bởi một phân cực
tuyến tính x, nhưng trục dài của vùng hội tụ là song song với trục y2. Trong thực tế,
đối với hình ảnh có độ phân giải cao hoặc chế tạo, sự phân bố bất đối xứng gây ra bởi
chùm phân cực tuyến tính là một nhược điểm. Ngược lại, vùng hội tụ nhỏ của thành
phần Ex2 có thể hữu ích cho một số ứng dụng, chẳng hạn như kích thích phân tử đơn
hoặc kích thích cực đại plasmonic bề mặt. Trên thực tế, vì kích thước vùng hội tụ nằm
trong thang đo nhỏ hơn micromet, nên rất khó để mô tả đặc tính thí nghiệm của hành
vi bất đối xứng này.
Page 58
52
3.4.2. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một chùm phân cực tròn.
Hình 3.8. Sự phân bố của EM đối với chùm phân cực tròn trong vùng hội tụ. [(a) - (d)]
thể hiện sự phân bố cường độ của toàn bộ diện tích, thành phần dọc Ez2, và hai thành
phần xuyên tâm, Ex2, Ey2 tương ứng. Các chỉ số dưới đây cho thấy sự phân bố cường
độ tại các mặt phẳng (x2y2), (x2z2) tương ứng. Kết quả thu được với λ = 532 nm, NA =
1,4, n = 1,515.
Như đã thảo luận ở trên, vùng hội tụ bất đối xứng thường gây ra các vấn đề
không mong muốn. Trong thực tế, một chùm phân cực tròn thường được sử dụng để
tập trung chặt chẽ bởi vì nó gây ra một vùng hội tụ hoàn toàn đối xứng, như trong
Hình 3.8 (a). Trên thực tế, có một sự phân bố tương đương của hai thành phần xuyên
tâm 𝐸𝑥22 (Hình 3.8 (b)) và 𝐸𝑦2
2 (Hình 3.8 (c)). Do đó, khi các thành phần này thêm vào
trong khu vực hội tụ, nó tạo ra một vùng hội tụ đối xứng.
Sự phân bố của các thành phần khác nhau dọc theo trục x2, y2 và z2 trong mặt
phẳng tiêu điểm được thể hiện trong Hình 3.9. Rõ ràng là cường độ của Ex2 và Ey2 đều
giống nhau và mỗi loại đều đóng góp 46% tổng cường độ. Ez2 có cùng một đề xuất
theo cả hai hướng (Hình 3.9 (a, b)), nhưng cường độ của nó chỉ là 8% tổng cường độ.
Tuy nhiên, thành phần theo chiều dọc này có hình dạng bánh donut như trong Hình 3.8
(d1). Ở khu vực hội tụ, hình dạng vành tròn thường có xu hướng tăng kích cỡ tại chỗ.
So với điểm cực quang thu được bởi một chùm phân cực tuyến tính, kích thước của
vùng hội tụ trong trường hợp này (210 nm) nhỏ hơn chiều dài hướng (254 nm), nhưng
lớn hơn kích thước dọc theo trục ngắn của nó (182 nm). Vì chùm phân cực tròn trái
còn có một điểm tâm đối xứng ở khu vực tiêu cự giống như đối với phân cực tròn
đúng, chúng tôi không cho thấy những kết quả số này. Ngoài ra, trong trường hợp một
chùm phân cực hình elliptically, phụ thuộc vào độ phân cực của px và py, hình dạng
Page 59
53
của vùng hội tụ liên tục giữa các hình dạng của các trường hợp phân cực tuyến tính và
tròn.
Hình 3.9. Phân bố cường độ trong vùng tập trung thu được bởi chùm phân cực tròn.
(a) - (c): phân bố EM theo các trục x2, y2, và z2. Các tham số tính toán số được thực
hiện giống như trong Hình 3.8.
Trong thực tế, để có được một chùm phân cực tròn, một tấm phân cực λ/4 được
đưa ra để chuyển đổi trạng thái phân cực của chùm tia từ các đường tròn sang phải
hoặc trái. Gần đây, bằng cách sử dụng các thiết bị dựa trên mảng tinh thể lỏng, chẳng
hạn như bộ điều biến ánh sáng không gian và bộ chuyển đổi phân cực, sự phân cực của
chùm laser có thể được điều chế theo ý muốn. Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ trình
bày các yếu tố tập trung của các chùm hội tụ với phân bố phân cực cao.
3.4.3. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một chùm phân cực hướng tâm.
Như được mô tả ở phía bên trái của Hình 3.5 (c), sự phân cực xuyên tâm là sự
kết hợp các cực phân cực tuyến tính khác có định hướng dọc theo trục quang. Sự phân
bố cường độ của vùng hội tụ gây ra từ một chùm phân cực vạch cực được thể hiện
trong Hình 3.10. Tại (x2y2) đồng đều, tổng phân bố cường độ (a1) có hình dạng đối
xứng, nhưng so với trường hợp phân cực tròn, vùng hội tụ lớn hơn. Do thực tế là, như
thể hiện trong Hình 3.5(c) (bên phải), các thành phần xuyên tâm xuất hiện của các tia
sáng (mũi tên màu xanh) nằm ở phần trên của trục quang có các hướng ngược nhau
(lệch pha) đến những vị trí nằm ở phần dưới của trục quang. Vì vậy, khi tia sáng thêm
vào trong khu vực tiêu điểm, do các nhiễu phá hoại ở khu vực tiêu điểm, các thành
phần xuyên tâm (Ex2, Ey2) cho thấy một hình dạng hai điểm. Ngược lại với thành phần
xuyên tâm do cùng một hướng (pha) của thành phần dọc xuất hiện (mũi tên màu xanh)
tại lối ra của khẩu độ OL, sự phân bố cường độ của thành phần theo chiều dọc có hình
dạng xây dựng trong khu vực trọng tâm.
Page 60
54
Hình 3.10. Sự phân bố của EM đối với chùm phân cực hướng tâm. [(a) - (d)] thể hiện
sự phân bố cường độ của toàn bộ diện tích, thành phần dọc Ez2 và hai thành phần
xuyên tâm, Ex2 và Ey2 tương ứng. Các chỉ số dưới đây cho thấy sự phân bố cường độ
tại các mặt (x2y2) và (x2z2). Với λ = 532 nm, NA = 1.4, n = 1.515.
Sự phân bố cường độ của các thành phần khác nhau của điểm lấy nét dọc theo
trục x2, y2 và z2 được thể hiện trong Hình 3.11. Nó cho thấy rõ rằng sự phân bố cường
độ tổng thể lớn hơn (240nm) được tạo ra từ một phần đáng kể (30%) của các thành
phần xuyên tâm (Ex2, Ey2), có hình dạng hai điểm trong vùng tiêu cự. Kích thước
FWHM của thành phần dọc dọc theo hướng bên chỉ là 170nm, nhỏ hơn nhiều so với
kích thước giới hạn nhiễu xạ. Do đó, việc triệt tiêu các thành phần xuyên tâm, trong
khi đó tăng cường thành phần theo chiều dọc, là một cách để có được một điểm tập
trung giới hạn.
Hình 3.11.Sự phân bố mật độ trong khu vực hội tụ thu được bởi một chùm phân cực
cực hướng tâm. (a) - (c): Phân bố EM theo các trục x2, y2, và z2. Các tham số tính toán
số được thực hiện giống như trong Hình 3.10.
Page 61
55
3.4.4. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một chùm phân cực phương vị.
Hình 3.12. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một chùm phân cực phương vị.
Sự phân cực phương vị được minh họa trong Hình 3.12. Nó bao gồm các phân
cực phân cực tuyến tính có hướng xoay quanh trục quang. Sự phân bố cường độ của
vùng hội tụ của một chùm phân cực phương sai cực đại được thể hiện trong Hình 3.13.
Không giống như các trường hợp các chùm phân cực tuyến tính, tròn và hướng tâm,
việc sử dụng chùm laser với phân cực phương vị cho phép có được một lỗ đen ngang
ngang trong vùng tiêu điểm (Hình 3.13 (a1)). Do sự phân cực địa phương là trực giao
với hướng trục của chùm tới và trục quang của OL, khi nó đi qua lỗ OL, không có
thành phần dọc nào có thể xuất hiện (Hình 3.12). Do đó, không có sự đóng góp từ
thành phần dọc theo sự phân bố của ô trong khu vực hội tụ (Hình 3.13 (d1,2)). Hơn nữa,
trong trường hợp phân cực phương vị, luôn luôn tồn tại một cặp tia, có độ lệch pha π,
tọa độ đối xứng quanh trục quang (tức là pi và pj, xem Hình 3.12). Vì vậy, khi các tia
này can thiệp vào khu vực hội tụ, một nhiễu phá hoại được thu được (Hình 3.13 (b1,
c1)).
Hình 3.13. Sự phân bố của chùm tia tới phân cực phương vị trong khu vực tiêu cự. [(a)
- (d)] hiển thị phân bố cường độ của tổng số, thành phần dọc Ez2 và hai thành phần
xuyên tâm, Ex2 và Ey2, tương ứng. Các mục con 1, 2 chỉ ra phân bố cường độ tại mặt
(x2y2) và (x2z2). λ = 532nm, NA = 1,4, n = 1,515.
Page 62
56
Hình 3.14. Phân bố cường độ của vùng lấy nét thu được từ chùm tia tới phân cực
phương vị trong vùng tiêu cự. (a) - (c): Phân phối EM cùng với trục x2, y2 và z2 tương
ứng. Các tham số tính toán số được lấy giống như các tham số trong Hình 3.13.
Sự phân bố cường độ các thành phần khác nhau dọc theo các trục x2, y2 và z2
trong khu vực hội tụ được thể hiện trong Hình 3.14. Thành phần dọc (đường đứt màu
đỏ) bằng không cho cả ba trục. Sự phân bố trong vùng hội tụ hoàn toàn bị phân cực.
Kích thước FWHM của vùng tối của điểm vành tròn là khoảng 142nm, nhỏ hơn giới
hạn nhiễu xạ. Điểm tập trung vành tròn nhỏ này có nhiều ứng dụng quan trọng.
Về nguyên tắc, đối với mỗi ứng dụng, phân cực chùm tia tới có thể được định
nghĩa chuẩn để thực hiện một trường mong muốn trong vùng tiêu cự. Tuy nhiên, trong
thực tế, chất lượng lấy nét cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác. Sự suy giảm chất
lượng lấy nét gây ra bởi sự không khớp chiết suất được giới thiệu bởi một giao diện là
một trong những vấn đề thường gặp nhất. Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ trình bày
phân bố cường độ của điểm lấy nét với sự hiện diện của giao diện điện môi.
3.5. Phân bố ánh sáng trong vùng hội tụ theo các môi trường chiết suất khác
nhau.
3.5.1. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ trong cùng một môi trường chiết suất.
- TH1 với: n1=n2=1, NA=0.7
Page 63
57
- TH2 với: n1=n2=1.333, NA=1.1
- TH3 với: n1=n2=1.515, NA=1.4
Hình 3.15. Phân bố cường độ cho một điện trường tập trung trong vùng lân cận của
vùng hội tụcùng chiết suất theo trục xz(với λ = 532 nm).
Hình 3.15 cho thấy, kích thước của vùng phân bố cường độ cho một điện
trường tập trung chặt chẽ trong vùng lân cận của vùng hội tụ cùng chiết suất có sự
khác nhau khi đặt vào 3 môi trường. Cụ thể là, đối với môi trường là không khí (n=1)
thì kích thước của vùng phân bố cường độ lớn so với môi trường là nước (n=1.333), và
nhỏ nhất và để vào môi trường dầu (n=1.515).
3.5.2. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ trong môi trường chiết suất khác nhau.
Hình 3.16 cho thấy các kết quả tính toán phân bố cường độ cho một điện trường
tập trung chặt chẽ trong vùng lân cận của vùng hội tụ với sự có mặt của các chiết suất
khác nhau. Các phép tính số được thực hiện với: NA = 0.9, khoảng cách d = 5 μm, và
các giao diện điện môi khác với n1/n2 = 1.2/1.5, n1/n2 = 1.2/1.2 và n1/n2 = 1.5/1.2.
Chùm tia tới là một sóng phẳng đơn sắc phân cực tròn (λ = 532 nm).
Page 64
58
Hình 3.16. Phân bố cường độ cho một điện trường tập trung chặt chẽ trong vùng lân
cận của vùng hội tụ với sự có mặt của các chiết suất khác nhau. (a1) n1=1.2, n2=1.5,
tiêu điểm thực tế được chuyển sang O2 bằng zshift = +3.83 μm. (b1) n1 = n2 = 1.2, môi
trường thuần nhất, zshift = 0 μm. (c1) n1 =1.5, n2 =1.2, tiêu điểm được chuyển sang O1
bằng zshift = -2.76 μm. [(a2 )- (c2 )] các đường viền phân bố cường độ (thang log) của
[(a1) - (c1)]. λ = 532 nm, NA = 0.9. Mặt phẳng D được đặt ở phía bên trái của tiêu
điểm với khoảng cách d = 5 μm.
Rõ ràng là, khi so sánh với môi trường đồng nhất (Hình 3.16 (b)), khi chùm tia
truyền từ một vật liệu chiết suất nhỏ sang một vật liệu chiếu suất lớn hơn (Hình 3.16
(a)) thì vùng hội tụ được chuyển sang phía bên phải của vùng hội tụ O0 (zshift = +3.83
μm). Ngược lại, khi ánh sáng truyền từ chiết cao hơn sang chiết suất thấp hơn, vùng
hội tụ được chuyển sang (zshift = -2.76 μm) ở phía bên trái của điểm đầu O0 (Hình 3.16
(c)).
Chúng tôi lưu ý rằng giá trị tuyệt đối của các dịch chuyển tiêu điểm không
giống nhau đối với tiêu điểm ban đầu O0. Một sự dịch chuyển lớn hơn của một tiêu
điểm thu được trong Hình 3.16 (a) so với Hình 3.16 (c). Điều này là do thực tế là, đối
với mỗi tia di chuyển, ví dụ, tia cận biên, như minh họa trong Hình 2.3, khoảng cách
DO1(2) = h cot θa(b), không phụ thuộc tuyến tính vào sin θ (định luật Snell). Do đó, sự
thay đổi tiêu cự có liên quan, (d − DO1) và (DO2 − d) không giống nhau. Biểu đồ
đường viền [Hình 3.16 (a2 - c2)], cho thấy rõ rằng, do quang sai cầu gây ra từ sự không
khớp chiết suất, hình dạng điểm lấy nét không đối xứng dọc theo trục quang học và
kích thước của nó lớn hơn so với hình thu được trong trường hợp của môi trường đồng
nhất.
Page 65
59
Hình 3.17. Hiệu chỉnh chiết suất của môi trường khi phân bố cường độ vùng hội tụ
(a1): n1/n2 = 1.0/1.5, zshift = 4.11 μm. (b1): n1/n2 = 1.0/2.4, zshift = 10.36 μm. (c1): n1/n2
= 1.0/3.4, zshift = 17.72 μm. [(a2) - (c2)] đồ thị phân bố cường độ cho thấy trong [(a1 ) -
(c1 )]. λ = 532 nm, NA = 0.9. Mặt phẳng D được đặt ở phía bên trái của tiêu điểm với
khoảng cách d = 5 μm.
Tương tự như các tính toán trên, chúng tôi nghiên cứu sự thay đổi tiêu điểm do
sự truyền từ không khí (n1 = 1.0) sang các vật liệu khác nhau (n2> 1.0). Các vật liệu
được nghiên cứu là dầu (n2 = 1.5), kim cương (n2 = 2.4) và silicon (n2 = 3.4). Như
Hình 3.17 (a-c), khi tăng chiết suất của môi trường thứ hai (n2 = 1.5 đến 3.4), điểm
đốm được chuyển đáng kể từ zshift = 4.11 μm (a1) đến zshift = 17.72 μm (c1). Kích thước
của vùng hội tụ lớn hơn nhiều và cho thấy một số loại 'đuôi' ở bên phải của vùng hội
tụ.
Hình 3.17 (a2 - c2) biểu diễn các đường viền đường viền của các phân bố cường
độ thể hiện trong Hình 3.17 (a1- c1). Rõ ràng rằng, khi sự khác biệt giữa chiết suất giữa
môi trường (môi trường thứ hai tăng), sự thay đổi của phân bố vùng hội tụ là rất quan
trọng.
Sự thay đổi vùng hội tụ như là một hàm của chiết suất của môi trường thứ hai
(n2) được thể hiện trong Hình 3.18. Các kết quả số được thu bằng NA = 0.9, d = 5 μm,
và n1 = 1.0. Sự thay đổi vùng hội tụ thể hiện sự phụ thuộc tuyến tính vào chiết suất của
môi trường thứ hai (n2). Sự phụ thuộc của vùng hội tụ và n2 có thể được tính gần đúng
zshift = 7.09 x (n2 - 1.0) [μm]. Ở đây, chúng tôi lưu ý rằng, công thức thu được từ sơ đồ
(Hình 3.18) thu được với n1 = 1.0 và vị trí cố định của khoảng các bề mặt điện môi D
(d = 5 μm).
Page 66
60
Hình 3.18.Tính toán sự thay đổi tiêu điểm như là một hàm của chiết suất của môi
trường thứ hai (n2). Chúng tôi giả định n1 = 1.0, λ = 532 nm, NA = 0.9. Giao diện D
được đặt ở phía bên trái của tiêu điểm với khoảng cách d = 5 μm
Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ thảo luận về sự ảnh hưởng của vị trí của bề
mặt điện môi đến sự phân bố cường độ ánh sáng tại vùng hội tụ của một vật kính có
khẩu độ số cao.
3.6. Phân bố ánh sáng tại vùng hội tụ của một vật kính có khẩu độ số cao theo các
vị trí bề mặt khác nhau.
Sự thay đổi phân bố cường độ ánh sáng của vùng hội tụ theo các vị trí bề mặt D
được thể hiện trong Hình 3.19. Chúng tôi đã nghiên cứu bốn vị trí khác nhau của D, đó
là: d = 0 μm; 5 μm; 10 μm; 15 μm. Kết quả tính toán thu được với NA = 0.9, n1 = 1.0,
n2 = 1.5 và chùm tia tới được giả định là phân cực tròn (λ = 532 nm).
Hình 3.19 cho thấy rằng, khi độ sâu của giao diện (hướng trục z2 dịch về phía
nguồn sáng so với mặt D) tăng từ d = 0 đến d = 15 μm, vùng hội tụ được chuyển từ 0
đến 14.13 μm. Hơn nữa, khi so sánh với kích thước điểm dọc theo hướng song song,
một độ giãn dài có thể xuất hiện dọc theo trục quang học. Do đó, trong nhiều ứng dụng
khác nhau, ví dụ như đĩa compact đa lớp, nếu có vấn đề không khớp chiết suất ở bề
mặt của đĩa, khoảng cách dọc của các lớp khác nhau bên trong đĩa đã được tăng lên để
tránh tín hiệu không mong muốn gây ra từ hình dáng dài (Hình 3.19 (d)).
Page 67
61
Hình 3.19. Phân bố cường độ ánh sáng của vùng hội tụ theo các vị trí bề mặt D. (a) d
= 0 μm, zshift = 0 μm, (b) d = 5 μm, zshift = 4.11 μm, (c) d = 10 μm, zshift = 7.25 μm, (d)
d = 15 μm, zshift = 10.13 μm. [(a2) - (c2)] đồ thị phân bố cường độ (thang đo log) của
[(a1 ) - (c2)]. λ = 532 nm, NA = 0.9. n1 = 1.0, n2 = 1.5.
Hình 3.19 (a2 - d2), hiển thị các đường đồng mức (thang đo log) của các phân bố
cường độ tương ứng với Hình 3.19 (a1-d1). Nó tiếp tục chỉ ra sự xuống cấp của chất
lượng điểm lấy nét gây ra bởi độ sâu của lớp điện môi. Tuy nhiên, do kích thước bên
không được điều chỉnh thường xuyên, nên nó có thể được sử dụng như một phương
pháp để tạo ra các trường dài như kim trong khu vực trọng tâm.
Tóm lại, chiết suất khác nhau ảnh hưởng mạnh mẽ đến chất lượng của một
vùng hội tụ. Do đó, trong thực tế, tốt nhất là chọn một lớp phủ, có độ dày phù hợp
cũng như chiết suất tương tự đối với vật liệu nghiên cứu.
3.7. So sánh đối chứng kết quả mô phỏng với thực nghiệm.
3.7.1 Quan sát đối chiếu thực nghiệm và mô phỏng sự vùng hội tụ của một vật kính
có khẩu độ số cao theo khẩu độ số khác nhau.
Như đã nghiên cứu về mặt lý thuyết ở phần trên, kích thước vùng hội tụ phụ
thuộc bởi khẩu độ số của vật kính được sử dụng.
Bằng cách thay đổi kích thước độ mở chùm tia tới, chúng tôi đã đo được sự
phân bố cường độ của vùng hội tụ từ đường kính chùm tia từ 0,5 cm đến 1,0 cm với
bước tăng 0,1 cm. Từ việc điều chỉnh đường kính chùm tia tới, chúng tôi có thể tính
toán các NA hiệu quả của OL được sử dụng, như trong Bảng 3.4.
Bảng 3.4: Các khẩu độ số của vật kính được tính toán tương ứng với đường kính (d)
của chùm tia laser tới.
d(cm) 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1.0
NA 0.7 0.84 0.98 1.12 1.26 1.4
Page 68
62
Ở đây, chúng tôi tập trung vào đặc tính lấy nét của các OL có NA cao (NA>
0,7) và do đó chúng tôi chỉ hiển thị kết quả của khẩu độ có đường kính tối thiểu d =
0.5 cm.
Hình 3.20. Sự thay đổi kích thước vùng hội tụ phụ thược đường kính của chùm tia tới.
[(a) - (d)] Đường kính của chùm tia laser lần lượt d: 5 mm, 6 mm, 8 mm, 10 mm.
Đường kính của khẩu độ mục tiêu là 10 mm.
Các kết quả thí nghiệm thu được từ chùm tia tới phân cực tròn với kích thước
chùm tia khác nhau được thể hiện trong Hình 3.20. Nó cho thấy rõ rằng, tại mặt phẳng
(x2y2), khi khẩu độ số tăng từ 0.7 đến 1.4, kích thước vùng hội tụ giảm từ 560 nm
xuống 280 nm. Tại (x2z2), kích thước dọc của vùng hội tụ bị giảm đáng kể khi tăng
NA.
Hình 3.21. So sánh kích thước điểm lấy nét thực nghiệm và lý thuyết thu được. L: kích
thước dọc của điểm lấy nét; Tx, Ty: chuyển đổi kích thước dọc theo trục x2−, y2.
Thông số mô phỏng: = 532nm, n = 1.515. chùm đồng nhất phân cực tròn.
Page 69
63
FWHM đo được của phân bố cường độ của vùng hội tụ dọc theo hướng ngang
và hướng dọc được thể hiện trong Hình 3.21. Ta thấy rằng kích thước ngang dọc theo
trục x2 (vòng tròn màu xanh da trời “о”) và trục y2 (hinhg kim cương đỏ “♦”) tăng. Kết
quả này tương đối trùng với kết quả tính toán chùm phân cực tròn trong điều kiện hội
tụ chặt chẽ (đường màu xanh và đỏ được vẽ trong Hình 3.21). Tương tự, kích thước
theo chiều dọc giảm từ 3µm xuống 0,71µm, điều này cho thấy rõ sự phụ thuộc của
kích thước vùng hội tụ vào khẩu độ số của OL.
Do đó, việc thay đổi độ mở, rất dễ dàng để nghiên cứu sự ảnh hưởng của khẩu
độ số về sự phân bố cường độ của vùng hội tụ. Tuy nhiên, như trong Hình 3.21, đường
cong xuất phát thực nghiệm hơi khác so với kết quả lý thuyết. Điều này là do trong
điều kiện lấy nét chặt, chất lượng hình ảnh thường bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố,
chẳng hạn như chùm tia không hoàn hảo, hệ thống tiêu điểm và quang sai được đưa
vào từ lan truyền quang sai.
Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ đưa ra ảnh hưởng của phân cực chùm tới sự
phân bố cường độ trong khu vực trọng tâm
3.7.2. Ảnh hưởng của phân cực chùm tuyến tính và tròn tới sự phân bố cường độ
trong khu vực trọng tâm.
Như đã thảo luận trong Chương 2, bằng cách sử dụng lý thuyết vector Debye,
trong điều kiện lấy nét chặt chẽ (NA = 1.4), chúng tôi đã dự đoán sự ảnh hưởng của sự
phân cực sự cố đối với sự hình thành phân bố trong khu vực trọng tâm. Tuy nhiên,
trong thực tế, đặc tính định lượng của điểm lấy nét, nằm trong thang đo tiểu micromet,
là khá khó khăn. So với các phương pháp phức tạp đã đề cập trước đây, bằng cách sử
dụng các hạt nano vàng tương đối nhỏ và vật kính có khẩu độ số cao, trong đó các tính
chất vectơ của ánh sáng là đáng kể, chúng tôi có thể tái tạo lại sự phân bố của điểm tập
trung chặt chẽ từ chùm tia sự cố phân cực.
Page 70
64
Hình 3.22. Quan sát thực nghiệm sự phụ thuộc của hình dạng vùng hội tụ vào sự phân
cực của chùm sáng. Phân cực chùm đầu vào (hình tròn màu xanh lá) của mỗi ảnh:
phân cực tuyến tính tại 0◦ (a), ở 45◦ (b), ở 110◦ (c) và phân cực tròn (d).
Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày trước tiên phép đo thực nghiệm của một
điểm tập trung chặt chẽ từ ánh sáng phân cực tuyến tính và tròn. Trong phần thứ hai
của phần này, chúng tôi sẽ thảo luận về phân bố toàn diện trong vùng tiêu cự thu được
từ các chùm tia tới phân cực hướng và phương vị.
Hình 3.23. Sơ đồ mô phỏng của hệ khắc laser trực tiếp.
Thiết lập thử nghiệm đã được hiển thị trong Hình 3.23. Việc kiểm soát phân cực
chùm kích thích được thực hiện bằng cách sử dụng các tấm phân cực (QWP, HWP2).
Ban đầu, chùm tia laser được phân cực tuyến tính dọc theo trục x. Hướng của nó (phân
cực tuyến tính) sau đó được điều khiển bằng cách xoay tấm phân cực λ/2 (HWP2), như
Page 71
65
được minh họa trong Hình 3.23. Để tạo ra sự phân cực tròn, một tấm tấm phân cực λ/4
(QWP) được đặt đằng sau HWP2. Tùy thuộc vào mục đích của công việc, có thể sử
dụng một tấm HWP2 hoặc cả hai tấm HWP2 và QWP.
Thứ nhất, khi không có tấm QWP, chúng tôi đã quét dọc theo vùng hội tụ bằng
một chùm phân cực tuyến tính và đo hình ảnh huỳnh quang của một hạt nano vàng
đơn. Hình 3.22 (a) cho thấy hình dạng của vùng hội tụ được kéo dài theo cùng hướng
với phân cực chùm đầu vào (ở đây dọc theo hướng x). Bằng cách thay đổi hướng phân
cực, chúng tôi quan sát thấy rằng phân bố bất đối xứng đã thay đổi cho phù hợp. Hình
3.22 (b) và 3.22 (c) cho thấy các hình ảnh tán sắc của cùng một hạt nano vàng kích
thích với sự phân cực chùm tuyến tính ở 45º và ở 110º. Hình dạng vùng hội tụ xác
định rằng tính bất đối xứng của nó là do sự phân cực của chùm đầu vào, điều này phù
hợp với dự đoán lý thuyết được trình bày trong phần trên. Hơn nữa, bằng cách đưa tấm
QWP với một hướng thích hợp đối với hướng của sự phân cực tuyến tính dẫn đến sự
phân cực tròn, chúng tôi thu được hình ảnh tán xạ với một hình dạng đối xứng hoàn
toàn, như thể hiện trong Hình 3.22 (d). Kết quả này khẳng định cũng là dự đoán lý
thuyết như thể hiện trong Hình 3.8 (a).
Hình 3.24. So sánh các kết quả thử nghiệm (a, c) và lý thuyết (b, d) của điểm vùng hội
tụ, dọc theo trục x2 (màu đỏ) và trục y2 (màu xanh) cho tuyến tính (a, b) và các phân
cực tròn (c, d). Các đồ thị thực nghiệm được trích ra từ các hình ảnh được vẽ trong
các Hình 3.22(a) và 3.22(d). Các đồ thị lý thuyết được rút ra từ Hình 3.8(a) và
3.10(a).
Page 72
66
Để đánh giá định lượng hình dạng và kích thước của vùng hội tụ thu được với
các phân cực tuyến tính và tròn, chúng tôi trích xuất các dữ liệu từ Hình. 3.22 cho hai
trục trực giao, theo kích cỡ tối thiểu và cực đại của điểm lấy nét. Hình 3.24 cho thấy sự
so sánh giữa kết quả lý thuyết và kết quả thực nghiệm. Trong trường hợp một chùm
phân cực tuyến tính theo trục quang x (Hình 3.24(a)), bán rộng được tính toán một nửa
(FWHM) của toàn bộ phân bố cường độ dọc theo trục y (FWHM = 240 nm) chỉ là
70.5% dọc theo trục x (FWHM = 340 nm). Tỷ lệ này phù hợp với kết quả tính toán số
(71.4%) thể hiện trong Hình 3.24 (b). Trong trường hợp của một phân cực tròn, vùng
hội tụ là đối xứng và điểm có cùng một hình dạng dọc theo cả hai trục, như thể hiện
trong Hình 3.24 (c), cũng phù hợp với các đường cong lý thuyết thể hiện trong Hình
3.24 (d). Tuy nhiên, so với lý thuyết, điểm đo tập trung thực nghiệm (FWHM = 280
nm) lớn hơn khoảng 40 nm cho cả trục và cho cả hai trường hợp phân cực. Sự khác
biệt này có thể được giải thích như sau: trong thực tế, chúng tôi đã sử dụng một hạt
nano vàng để khảo sát có đường kính 50 nm (vì thế nó không được coi là một điểm lý
tưởng). Tuy nhiên, không cần thiết trong trường hợp của chúng tôi, vì sự phụ thuộc
phân cực của điểm lấy nét được chứng minh rõ ràng.
Page 73
67
KẾT LUẬN
Kết luận, trong luận văn này, chúng tôi đã nghiên cứu lý thuyết và tính toán mô
phỏng các thông số trường quang tại vùng hội tụ của vật kính có khẩu độ số cao sử
dụng trong hệ khắc laser trực tiếp ứng dụng cho chế tạo cấu trúc vật liệu nano và đối
chiếu các kết quả tính toán mô phỏng này với thực nhiệm. Từ đó, kiểm soát được các
thông số trường quang đến sự ảnh hưởng vùng hội tụ của chùm tia khi qua vật kính có
khẩu độ số cao.
Đầu tiên, dựa trên lý thuyết vector Debye, chúng tôi đã nghiên cứu về mặt lý
thuyết sự phân bố và những thông số trường quang của các vùng hội tụ của các vật
kính có khẩu độ số cao như khẩu độ số của vật kính, chiết suất môi trường và sự phân
cực của chùm tia tới.Từ đó, chúng tôi đưa ra phương pháp tính toán số và mô phỏng
trường điện từ của vùng hội tụ dựa trên công cụ matlab.
Thứ hai, chúng tôi đưa ra các kết quả mô phỏng vùng hội tụ theo các thông số
đã nghiên cứu như khẩu độ số, chiết suất môi trường, khoảng cách giữa 2 môi trường
của vùng hội tụ và sự phân cực của chùm tia tới. Kết quả tính toán mô phỏng cho thấy,
khi ánh sáng được hội tụ xuống kích thước micromet thì kích thước vùng hội tụ này
phụ thuộc vào nhiều các thông số khác nhau.
Cuối cùng, chúng tôi đã đối chiếu kết quả mô phỏng với thực nghiệm. Từ
những kết quả cho thấy, việc tính toán mô phỏng các thông số trường quang tại vùng
hội tụ có ý nghĩa rất quan trọng, từ đo đưa ra được các thông số trường quang của vật
kính có khẩu độ số cao, ứng dụng chế tạo các cấu trúc quang tử 2 hay 3 chiều (2D, 3D)
bằng phương pháp hấp thụ 1 photon cực thấp (LOPA).
Page 74
68
PHỤ LỤC A
1 %initialize Matlab environment 2 clear 3 close all 4 clc 5 tic; 6 set(0,'DefaultAxesFontName', 'Times New Roman') 7 set(0,'DefaultAxesFontSize', 11) 8 %set(0,'DefaultUnits','normalized'); 9 set(0,'defaultuicontrolunits','normalized'); 10 % % % % % % % % %program body % % % % % % % % % % % % % 11 % basic parameters 12 NA=1.49; % numerical aperture of objective lens 13 n=1.515; % refractive index of immersion medium 14 lambda=532e-9; % wavelength of light 15 alpha=asin(NA/n); % maximum open angle of OL 16 k=2*pi*n/lambda; % wavenumber 17 % image plane in Cartesian coordinates 18 L_focal=0.5*1e-6; % observation scale 19 Nx=50; % discretization of image plane 20 Ny=50; % discretization of image plane 21 x2=linspace(-L_focal,L_focal,Nx); 22 y2=linspace(-L_focal,L_focal,Ny); 23 [X2,Y2]=meshgrid(x2,y2); 24 Z2=0; 25 % polarization case 26 % '1': x-linear, '2':y -linear, '3': left circular 27 % '4': right circular, '5': elliptical, '6': radial, '7': azimuthal 28 polar=1; 29 polarSTR=num2str(polar); 30 %normalization and steps of integral 31 Ex2=0; % Ex-component in focal 32 Ey2=0; % Ey-component in focal 33 Ez2=0; % Ez-component in focal 34 N_theta=50; 35 N_phi=50; 36 delta_theta=alpha/N_theta; 37 delta_phi=2*pi/N_phi; 38 % starting loop 39 for theta=eps:delta_theta:alpha 40 for phi=eps:delta_phi:2*pi 41 %convertion function of polarization from object plane to imaging 42 %plane
Page 75
69
43 a=1+(cos(theta)-1)*(cos(phi))^2; 44 b=(cos(theta)-1)*cos(phi)*sin(phi); 45 c=-sin(theta)*cos(phi); 46 d=1+(cos(theta)-1)*(sin(phi))^2; 47 e=-sin(theta)*sin(phi); 48 ff=cos(theta); 49 V=[a b c;b d e;-c -e ff]; 50 %incident beam polarization cases 51 px=[1,0,1/sqrt(2),1i/sqrt(2),2/sqrt(5),cos(phi),-sin(phi)]; 52 py=[0,1,1i/sqrt(2),1/sqrt(2),1i/sqrt(5),sin(phi),cos(phi)]; 53 pz=0; 54 % selected incident beam polarization 55 P=[px(1,polar);py(1,polar);pz]; 56 % polarization in focal region 57 PP=V*P; 58 % numerical calculation of field distribution in focal region 59 Ex2=Ex2+1i*sin(theta)*sqrt(cos(theta)).*PP(1,1).*exp(1i*k*(Z2*cos(theta)+sin(t
heta).*(X2*cos(phi)+Y2*sin(phi))))*delta_theta*delta_phi; 60 Ey2=Ey2+1i*sin(theta)*sqrt(cos(theta)).*PP(2,1).*exp(1i*k*(Z2*cos(theta)+sin(t
heta).*(X2*cos(phi)+Y2*sin(phi))))*delta_theta*delta_phi; 61 Ez2=Ez2+1i*sin(theta)*sqrt(cos(theta)).*PP(3,1).*exp(1i*k*(Z2*cos(theta)+sin(t
heta).*(X2*cos(phi)+Y2*sin(phi))))*delta_theta*delta_phi; 62 end 63 end 64 % intensity of different components and total field 65 Ix2=conj(Ex2).*(Ex2); 66 Iy2=conj(Ey2).*(Ey2); 67 Iz2=conj(Ez2).*(Ez2); 68 I1=Ix2+Iy2+Iz2; 69 %find maxumum 70 MM1=max(max(I1)); 71 % plot data 72 figure (1) 73 hFig = figure(1); 74 set(gcf,'PaperPositionMode','auto') 75 set(hFig, 'Position', [300 300 300 300]) 76 p=axes; 77 set(p,'Position',[0 0 1 1]) 78 pcolor(X2*1e6,Y2*1e6,Ix2); 79 shading interp 80 title('PSF as a fuction of different polarization') 81 set(gca,'Xtick',[-L_focal 0 L_focal]); 82 set(gca,'Ytick',[-L_focal 0 L_focal]);
Page 76
70
83 set(gca,'FontSize',12) 84 colormap(jet) 85 axis equal 86 axis tight 87 axis off 88 view(0,90); 89 hold off 90 % export figure & save data 91 dataname=['polar=',polarSTR]; 92 PexportJpg(hFig,40,24,dataname); 93 saveas(h,[figurename1,'.fig']); 94 save([dataname,'.txt'], 'I1','-ascii'); 95 toc % count execution time 96 load chirp% ringtone for program alert 97 sound(y,Fs) 98 % % % % % % % % %end program% % % % % % % % % % % % % %
Page 77
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Anh
[1] H. Hosono, Y. Mishima, et al., “Nanomaterials: from research to applications”,
Elsevier (2006).
[2] C. Dupas, P. Houdy, et al., “Nanoscience”, Springer (2004).
[3] Dennis E. Buetow, John K. Stevens, et al., “Three-Dimensional Confocal
Microscopy: Volume Investigation of Biological Specimens”, Academic Press
(1994).
[4] Tony Wilson. Confocal microscopy. Academic Press: London, etc, 426:1–64,
1990.
[5] Stefan W Hell and Jan Wichmann. Breaking the diffraction resolution limit by
stimulated emission: stimulated-emission-depletion fluorescence microscopy.
Optics letters, 19(11):780–782, 1994.
[6] Suliana Manley, Jennifer M Gillette, George H Patterson, Hari Shroff, Harald F
Hess, Eric Betzig, and Jennifer Lippincott-Schwartz. High-density mapping of
single-molecule trajectories with photoactivated localization microscopy.
Nature methods, 5(2):155–157, 2008.
[7] D. A. Parthenopoulos and P. M. Rentzepis. Three-dimensional optical storage
memory. Science, 245(4920):843–845, 1989.
[8] Bo Huang, Mark Bates, and Xiaowei Zhuang. Super resolution fluorescence
microscopy. Annual review of biochemistry, 78:993, 2009.
[9] Hong-Bo Sun, Makoto Maeda, Kenji Takada, James WM Chon, Min Gu, and
Satoshi Kawata. Experimental investigation of single voxels for laser
nanofabrication via two-photon photopolymerization. Applied physics letters,
83(5):819– 821, 2003.
[10] Vygantas Mizeikis, Kock Khuen Seet, Saulius Juodkazis, and Hiroaki Misawa.
Three-dimensional woodpile photonic crystal templates for the infrared spectral
range. Optics letters, 29(17):2061–2063, 2004.
[11] David G Grier. A revolution in optical manipulation. Nature, 424(6950):810–
816, 2003.
[12] [9] Kishan Dholakia and Peter Reece. Optical micromanipulation takes hold.
Nano today, 1(1):18–27, 2006.
[13] [10] Peter J Shaw. Comparison of widefield/deconvolution and confocal
microscopy for three-dimensional imaging. In Handbook of biological confocal
microscopy, pages 453–467. Springer, 2006.
Page 78
72
[14] M. Farsari and B. N. Chichkov. Materials processing: Two-photon fabrication.
Nature Photonics, 3(8):450, 2009.
[15] DW Pohl, W Denk, and M Lanz. Optical stethoscopy: Image recording with
resolution λ/20. Applied physics letters, 44(7):651–653, 1984.
[16] Rajesh Menon and Henry I Smith. Absorbance-modulation optical lithography.
JOSA A, 23(9):2290–2294, 2006.
[17] V. Berger, O. Gauthier-Lafaye, et al., “Photonic band gaps and holography,” J.
Appl. Phys. 82, 60-64 (1997).
[18] M. Campbell, D. N. Sharp, et al., “Fabrication of photonic crystals for the
visible spectrum by holographic lithography”, Nature 404, 53-56 (2000).
[19] S. Wong, V. Kitaev, et al., “Colloidal crystal films: advances in universality and
perfection”, J. Am. Chem. Soc. 125, 15589-15598 (2003).
[20] C. Rensch, S. Hell, et al., “Laser scanner for direct writing lithography,” Appl.
Opt. 28, 3754–3758 (1989).
[21] H. B. Sun, S. Matsuo, et al., “Three-dimensional photonic crystal structures
achieved with two-photon-absorption photopolymerization of resin”, Appl.
Phys. Lett. 74, 786-788 (1999).
[22] B. H. Cumpston, S. P. Ananthavel, et al., “Two-photon polymerization
initiators for three dimensional optical data storage and microfabrication,”
Nature 398, 51– 54 (1999).
[23] S. Kawata, H.-B. Sun, et al., “Finer features for functional microdevices,”
Nature 412, 697-698 (2001).
[24] M. Deubel, G. V. Freymann, et al., “Direct laser writing of three-dimensional
photonic-crystal templates for telecommunications”, Nature Mater. 3, 444-447
(2004).
[25] M. Farsari and B. N. Chichkov, “Materials processing: two-photon fabrication,”
Nat. Photonics 3, 450–452 (2009)
[26] C. Sibilia, T. M. Benson, et al., “Photonic crystals: physics and technology”,
Springer (2008).
[27] Bruce W. Smith, Kazuaki Suzuki, “Microlithography: Science and
Technology”, Second Edition, CRC Press (2007).
[28] Thi Thanh Ngan Nguyen, Quang Liem Nguyen, et al., “Optimization of
thickness and uniformity of photonic structures fabricated by interference
lithography”, Appl. Phys. A 111, 297-302 (2013).
Page 79
73
[29] W. Denk, J. H. Strickler, et al., “Two-photon laser scanning fluorescence
microscopy,” Science 248, 73–76 (1990).
[30] W. R. Zipfel, R. M. Williams, et al., “Nonlinear magic: multiphoton
microscopy in the biosciences,” Nat. Biotechnol. 21, 1369–1377 (2003).
[31] http://kloe.fr/equipement/en/dilase-750
[32] http://www.nanoscribe.de/en/
[33] J. Fischer, G. von Freymann, et al., “The Materials Challenge in Diffraction-
Unlimited Direct-Laser-Writing Optical Lithography”, Adv. Mater. 22, 3578
(2010)
[34] W. Haske, V. W. Chen, et al., “65 nm feature sizes using visible wavelength 3-
D multiphoton lithography,” Opt. Express 15, 3426–3436 (2007).
[35] Benjamin Harke, Paolo Bianchini, et al., “Photopolymerization Inhibition
Dynamics for Sub-Diffraction Direct Laser Writing Lithography”,
ChemPhysChem 13, 1429-1434 (2012).
[36] Richard Wollhofen, Julia Katzmann, et al., 120 nm resolution and 55 nm
structure size in STED-lithography, Opt. Express 21, 10831–10840 (2013).
[37] Thomas A Klar, Richard Wollhofen, et al., “Sub-Abbe resolution: from STED
microscopy to STED lithography”, Phys. Scr. T162, 014049 (2014)
[38] Joachim Fischer, Jonathan B. Mueller, et al., “Exploring the Mechanisms in
STED-Enhanced Direct Laser Writing”, Adv. Optical Mater. 3, 221–232
(2015).
[39] Q. Li, M. T. Do, et al., “A novel concept for three-dimensional optical
addressing by ultralow one-photon absorption method”, Opt. Lett. 38, 4640–
4643 (2013).
[40] M.T. Do, T.T.N. Nguyen, et al., “Submicrometer 3D structures fabrication
enabled by one-photon absorption direct laser writing”, Opt. Express 21,
20964-20973 (2013).
[41] M.T. Do, Q. Li, T.T.N. Nguyen, et al., “High aspect ratio sub-micrometer two-
dimensional structures fabricated by one-photon absorption direct laser
writing”, Microsystem Technologies 20, 2097–2102 (2014).
[42] D.T. T. Nguyen, Q. C. Tong, et al., “One-step fabrication of submicrostructures
by low one-photon absorption direct laser writing technique with local thermal
effect”, J. Appl. Phys. 119, 013101 (2016).
[43] M. T. Do, Q. Li, et al., “Optimization of LOPA-based direct laser writing
technique for fabrication of submicrometric polymer two- and three-
Page 80
74
dimensional structures”, Proc. SPIE, Photonic Crystal Materials and Devices
XI, 9127, 912703 (2014).
[44] M. T. Do, D. T. T. Nguyen, et al., “Controlled coupling of a single nanoparticle
in polymeric microstructure by low one-photon absorption-based direct laser
writing technique”, Nanotechnology 26, 105301 (2015).
[45] D. T. T. Nguyen, T. H. Au, et al., “Coupling of a single active nanoparticle to a
polymer-based photonic structure”, J. Science: Advanced Materials and
Devices 1, 18-30 (2016).
[46] M. Galli, D. Gerace, et al., “Low-power continuous-wave generation of visible
harmonics in silicon photonic crystal nanocavities”, Opt. Express 18, 26613
(2010).
[47] K. Rivoire, Z. Lin, et al., “Sum-frequency generation in doubly resonant GaP
photonic crystal nanocavities”, Appl. Phys. Lett. 97, 043103 (2010).
[48] S. Noda, M. Fujita, et al., “Spontaneous-emission control by photonic crystals
and nanocavities”, Nature Photon. 1, 449 (2007).
[49] M. Nomura, N. Kumagai, et al., “Laser oscillation in a strongly coupled single-
quantum-dot–nanocavity system”, Nature Phys. 6, 279 (2010).
[50] M. Barth, S. Schietinger, S. Fischer, J. Becker, N. Nusse, T. Aichele, B. Lochel,
C. Sonnichsen, O. Benson, “Nanoassembled plasmonic-photonic hybrid cavity
for tailored light-matter coupling”, Nano Lett. 10, 891-895 (2010).
[51] X. Wang, R. Morea, et al., “Coupling localized plasmonic and photonic modes
tailors and boosts ultrafast light modulation by gold nanoparticles”, Nano Lett.
15, 2633-2639 (2015).
[52] X. Hu, P. Jiang, et al., “Picosecond and low-power all-optical switching based
on an organic photonic-bandgap microcavity”, Nature Photon. 2, 185 (2008).
[53] H.-Y. Liu, C.-T. Wang, et al., “Optically tuneable blue phase photonic band
gaps”, Appl. Phys. Lett. 96, 121103 (2010).
[54] Quang Cong Tong, Dam Thuy Trang Nguyen, et al., “Direct laser writing of
polymeric nanostructures via optically induced local thermal effect”, Appl.
Phys. Lett. 108, 183104 (2016).
[55] Fei Cheng, Jie Gao, et al., “Structural color printing based on plasmonic
metasurfaces of perfect light absorption”, Scientifics Reports 5, 11045 (2015).
[56] Xiaolong Zhu, Christoph Vannahme, et al., “Plasmonic colour laser printing”,
Nature Nanotechnology 11, 325–329 (2016).
Page 81
75
[57] Minh Thanh Do, Quang Cong Tong, et al., “Fabrication and Characterization of
Large-Area Unpatterned and Patterned Plasmonic Gold Nanostructures”,
Journal of Electronic Materials 45, 2347-2353 (2016).
[58] Minh Thanh Do, Quang Cong Tong, et al., “Nano-patterning of gold thin film
by thermal annealing combined with laser interference techniques”, Appl. Phys.
A 122, 360 (2016).
[59] Min Gu, Xiangping Li, et al., “Optical storage arrays: a perspective for future
big data storage”, Light - Science and Applications 3, e177 (2014).
[60] I. Theodorakosa, F. Zacharatosa, et al., “Selective laser sintering of Ag
nanoparticles ink for applications in flexible electronics”, Applied Surface
Science 336, 157–162 (2015).
[61] Tianrui Zhai, Xinping Zhang, et al., “Random Laser Based on Waveguided
Plasmonic Gain Channels”, Nano Lett. 11, 4295–4298 (2011).
[62] Le Van Hong, Do Tran Cat, et al. Plasmonic Effect in Au-Added TiO2-Based
Solar Cell, J. Electronic Materials (2016) DOI: 10.1007/s11664-016-4755-3.
[63] Hong-Bo Sun, Kenji Takada, et al., “Elastic force analysis of functional
polymer submicron oscillators”, Appl. Phys. Lett. 79, 3173-3175 (2001).
[64] Timo Gissibl, Simon Thiele, et al., “Two-photon direct laser writing of
ultracompact multi-lens objectives”, Nature Photonics 10, 554-560 (2016).
[65] J. Bauer, A. Schroer, et al., “Approaching theoretical strength in glassy carbon
nanolattices”, Nature Materials 15, 438-443 (2016).
[66] Vincent W Chen, Nina Sobeshchuk, et al., “Three-dimensional organic
microlasers with low lasing thresholds fabricated by multiphoton and UV
lithography”, Optics Express 22, 12316 (2014).
[67] Chee-Wei Lee, Stefano Pagliara, et al. “Perpendicular coupling to in-plane
photonics using arc waveguides fabricated via two-photon polymerization”,
Appl. Phys. Lett. 100, 171102 (2012).
[68] Andreas W. Schell, Johannes Kaschke et al. “Three-dimensional quantum
photonic elements based on single nitrogen vacancy-centres in laser-written
microstructures”, Scientific Reports 3, 1577 (2013).
[69] S. Kim, F. Qiu, et al. “Fabrication and Characterization of Magnetic
Microrobots for Three-Dimensional Cell Culture and Targeted Transportation”,
Adv. Mater. 25, 5863–5868 (2013).
Page 82
76
[70] Attilio Marino, Carlo Filippeschi, et al., “Biomimicry at the nanoscale: current
research and perspectives of two-photon polymerization”, Nanoscale 7, 2841–
2850 (2015).
[71] Barbara Spagnolo, Virgilio Brunetti1, et al., “Three-dimensional cage-like
microscaffolds for cell invasion studies”, Scientific Reports 5, 10531 (2015).
[72] Shahin Bagheri, Ksenia Weber, et al., “Fabrication of Square-Centimeter
Plasmonic Nanoantenna Arrays by Femtosecond Direct Laser Writing
Lithography: Effects of Collective Excitations on SEIRA Enhancement”, ACS
Photonics 2, 779–786 (2015).
[73] Costas M. Soukoulis and Martin Wegener, “Past achievements and future
challenges in the development of three-dimensional photonic metamaterials”,
Nature Photonics 5, 523–530 (2011).
[74] Muamer Kadic, Tiemo Buckmann, et al., “Metamaterials beyond
electromagnetism”, Rep. Prog. Phys. 76, 126501 (2013).
[75] J. B. Pendry, “Negative refraction makes a perfect lens,” Phys. Rev. Lett. 85,
3966 (2000).
[76] D. Schurig, J. J. Mock, et al., “Metamaterial electromagnetic cloak at
microwave frequencies,” Science 314, 977 (2006).
[77] J. B. Pendry, D. Schurig, et al., “Controlling Electromagnetic Fields,” Science
312, 1780 (2006).
[78] Xianzhong Chen, Yu Luo, et al., “Macroscopic invisibility cloaking of visible
light,” Nature Communication 2 Doi: 10.1038/ncomms1176 (2011).
[79] N. I. Landy, S. Sajuyigbe, et al., “Perfect Metamaterial Absorber,” Phys. Rev.
Lett. 100, 207402 (2008).
[80] Koray Aydin, Vivian E. Ferry, “Broadband polarization-independent resonant
light absorption using ultrathin plasmonic super absorbers”, Nature Commun. 2,
517 (2011).
[81] Sumeet Walia, Charan M. Shah, “Flexible metasurfaces and metamaterials: A
review of materials and fabrication processes at micro- and nano-scales”, Appl.
Phys. Rev. 2, 011303 (2015).
[82] E. Hecht. Optics. Pearson education. Addison-Wesley, 2002.
[83] Scott Marshall Mansfield and GS Kino. Solid immersion microscope. Applied
physics letters, 57(24):2615–2616, 1990
[84] Min Gu. Advanced optical imaging theory, volume 75. Springer, 1999.
Page 83
77
[85] E. Wolf. Electromagnetic diffraction in optical systems I. an integral
representation of the image field. Proc. Roy. Soc. A, 253(1274):349–357, 1959.
[86] Kathleen Youngworth and Thomas Brown. Focusing of high numerical aperture
cylindrical-vector beams. Optics Express, 7(2):77–87, 2000.
[87] B Richards and E Wolf. Electromagnetic diffraction in optical systems. II.
structure of the image field in an aplanatic system. Proceedings of the Royal
Society of London. Series A. Mathematical and Physical Sciences,
253(1274):358–379, 1959.
[88] Lars Egil Helseth. Focusing of atoms with strongly confined light potentials.
Optics communications, 212(4):343–352, 2002.
[89] P. Debye, “Das verhalten von lichtwellen in der nähe eines brennpunktes oder
einer brennlinie,” Ann. Phys. (Berlin), vol. 335, no. 14, pp. 755–776, 1909.
[90] E. Wolf, “Electromagnetic diffraction in optical systems. i. an integral
representation of the image field,” Proc. R. Soc. A, vol. 253, no. 1274, pp. 349–
357, 1959.
[91] M. Herzberger and R. v. Mises, “Review: R. k. luneberg, mathematical theory
of optics,” Bull. Amer. Math. Soc., vol. 51, no. 11, pp. 865–867, 1945.
[92] J. Gasper, G. C. Sherman, and J. J. Stamnes, “Reflection and refraction of an
arbitrary electromagnetic wave at a plane interface,” J. Opt. Soc. Am., vol. 66,
no. 9, pp. 955–961, 1976.
[93] J. J. Stamnes and G. C. Sherman, “Radiation of electromagnetic fields in
uniaxially anisotropic media,” J. Opt. Soc. Am., vol. 66, no. 8, pp. 780–788,
1976.
[94] E. Wolf and Y. Li, “Conditions for the validity of the debye integral
representation of focused fields,” Opt Commun, vol. 39, no. 4, pp. 205 –210,
1981.
[95] H. Ling and S.-W. Lee, “Focusing of electromagnetic waves through a
dielectric interface,” J. Opt. Soc. Am. A, vol. 1, no. 9, pp. 965–973, 1984.
[96] Y. Ji and K. Hongo, “Analysis of electromagnetic waves refracted by a
spherical dielectric interface,” J. Opt. Soc. Am. A, vol. 8, no. 3, pp. 541–548,
1991.
[97] R. KanT, “An analical solusion of vector diffraction for focufocus optical-
system with seidel abberation. 1. spherical-abberation, curvature of field, and
distorsion,” J. Mod. Opt., vol. 40, no. 11, pp. 2293–2310, 1993.
Page 84
78
[98] J. J. Stamnes and G. S. Sithambaranathan, “Reflection and refraction of an
arbitrary electromagnetic wave at a plane interface separating an isotropic and a
biaxial medium,” J. Opt. Soc. Am. A, vol. 18, no. 12, pp. 3119–3129, 2001.
[99] J. Stamnes, Waves in Focal Regions: Propagation, Diffraction and Focusing of
Light, Sound and Water Waves. Adam Hilger, Bristol, UK, 1986.
[100] S. Hell, G. Reiner, C. Cremer, and E. H. K. Stelzer, “Aberrations in confocal
fluorescence microscopy induced by mismatches in refractive index,” J.
Microsc., vol. 169, no. 3, pp. 391–405, 1993.
[101] P. Török, P. Varga, Z. Laczik, and G. Booker, “Electromagnetic diffraction of
light focused through a planar interface between materials of mismatched
refractive indices: an integral representation,” JOSA A, vol. 12, no. 2, pp. 325–
332, 1995.
[102] S. H. Wiersma and T. D. Visser, “Defocusing of a converging electromagnetic
wave by a plane dielectric interface,” J. Opt. Soc. Am. A, vol. 13, no. 2, pp.
320– 325, 1996.
[103] M. Leutenegger, R. Rao, R. A. Leitgeb, and T. Lasser, “Fast focus field
calculations,” Opt. Express, vol. 14, no. 23, pp. 11277–11291, 2006.
[104] J. Lin, O. G. Rodríguez-Herrera, F. Kenny, D. Lara, and J. C. Dainty, “Fast
vectorial calculation of the volumetric focused field distribution by using a
three-dimensional fourier transform,” Opt. Express, vol. 20, no. 2, pp. 1060–
1069, 2012.
[105] S. Chang, J. H. Jo, and S. S. Lee, “Theoretical calculations of optical force
exerted on a dielectric sphere in the evanescent field generated with a
totallyreflected focused gaussian beam,” Opt Commun, vol. 108, no. 1-3, pp.
133–143, 1994.
[106] D. Censor, “Fermat’s principle and real space-time rays in absorbing media,” J.
Phys. A, vol. 10, no. 10, pp. 1781–1790, 1977.
[107] S. J. Chapman, J. M. H. Lawry, J. R. Ockendon, and R. H. Tew, “On the theory
of complex rays,” SIAM Review, vol. 41, no. 3, pp. 417–509, 1999.
[108] R. Egorchenkov and Y. Kravtsov, “Complex ray-tracing algorithms with
application to optical problems,” JOSA A, vol. 18, no. 3, pp. 650–656, 2001.
[109] P. C. Chang, J. Walker, and K. Hopcraft, “Ray tracing in absorbing media,” J.
Quant. Spectrosc. Radiat. Transfer, vol. 96, no. 3-4, pp. 327–341, 2005
[110] J. M. Diñeiro, M. Berrogui, S. Alfonso, C. Alberdi, B. Hernández, and C.
Sáenz, “Complex unitary vectors for the direction of propagation and for the
Page 85
79
polarization of electromagnetic waves in uniaxial and absorbing dielectric
media.,” J Opt Soc Am A Opt Image Sci Vis, vol. 24, no. 6, pp. 1767–75, 2007.
[111] L. G. Guimarães and E. E. Sampaio, “A note on snell laws for electromagnetic
plane waves in lossy media,” J. Quant. Spectrosc. Radiat. Transfer, vol. 109,
no. 11, pp. 2124–2140, 2008.
[112] Y. Wang, P. Shi, H. Xin, and L. Wu, “Complex ray tracing in biaxial
anisotropic absorbing media,” J. Opt. Soc. Am. A, vol. 10, no. 7, p. 075009,
2008.
[113] Y. Wang, L. Liang, H. Xin, and L. Wu, “Complex ray tracing in uniaxial
absorbing media,” J. Opt. Soc. Am. A, vol. 25, no. 3, pp. 653–7, 2008b.
[114] S. Alfonso, J. M. D. neiro, C. Alberdi, B. Hernández, and C. Sáenz, “Influence
of absorption on the anomalous negative refraction in right-handed uniaxial
absorbing dielectric media,” J. Opt. Soc. Am. A, vol. 27, no. 9, pp. 1938–1945,
2010.
[115] M. Sluijter, Ray-optics analysis of inhomogeneous optically anisotropic media.
Dissertation, TNW Optics Research Group, Delft University of Technology,
January 2010.
[116] B. Davis, P. Carney, and R. Bhargava, “Theory of midinfrared absorption
microspectroscopy: I. homogeneous samples,” Anal. Chem., vol. 82, no. 9, pp.
3474–3486, 2010.
[117] J. M. Diñeiro, C. Alberdi, B. Hernández, and C. Sáenz, “Uniaxial absorbing
media: conditions for refraction in the direction of the optical axis.,” J Opt Soc
Am A Opt Image Sci Vis, vol. 30, no. 3, pp. 385–91, 2013.
[118] V. Y. Fedorov and T. Nakajima, “Negative refraction of inhomogeneous waves
in lossy isotropic media,” J. Opt., vol. 16, no. 3, p. 035103, 2014.
[119] R. K. Luneburg, Mathematical theory of optics. University of California Press,
Berkeley, Calif., 1966
[120] Stefan Hell and Ernst HK Stelzer. Properties of a 4pi confocal fluorescence
microscope. JOSA A, 9(12):2159–2166, 1992
[121] CJR Sheppard and T Wilson. Gaussian-beam theory of lenses with annular
aperture. IEE Journal on Microwaves, Optics and Acoustics, 2(4):105–112,
1978
[122] Haifeng Wang, Luping Shi, Boris Lukyanchuk, Colin Sheppard, and Chong
Tow Chong. Creation of a needle of longitudinally polarized light in vacuum
using binary optics. Nature Photonics, 2(8):501–505, 2008.
Page 86
80
[123] Yuichi Kozawa and Shunichi Sato. Focusing property of a double-ring-shaped
radially polarized beam. Optics letters, 31(6):820–822, 2006
[124] Birka Hein, Katrin I Willig, and Stefan W Hell. Stimulated emission depletion
(sted) nanoscopy of a fluorescent protein-labeled organelle inside a living cell.
Proceedings of the National Academy of Sciences, 105(38):14271–14276, 2008
[125] Takahiro Kuga, Yoshio Torii, Noritsugu Shiokawa, Takuya Hirano, Yukiko
Shimizu, and Hiroyuki Sasada. Novel optical trap of atoms with a doughnut
beam. Physical Review Letters, 78(25):4713, 1997
[126] Xiang Hao, Cuifang Kuang, Tingting Wang, and Xu Liu. Effects of polarization
on the de-excitation dark focal spot in sted microscopy. Journal of Optics,
12(11):115707, 2010
[127] Min Gu. Advanced optical imaging theory, volume 75. Springer, 1999.
[128] Rishi Kant. An analytical solution of vector diffraction for focusing optical
systems with seidel aberrations: I. spherical aberration, curvature of field, and
distortion. Journal of Modern Optics, 40(11):2293–2310, 1993.
[129] Rishi Kant. An analytical method of vector diffraction for focusing optical
systems with seidel aberrations ii: Astigmatism and coma. Journal of Modern
Optics, 42(2):299–320, 1995