Câu 2: Những cách thức để dân tộc tồn tại qua 10 TK Bắc thuộc? Từ Bắc thuộc để chỉ thời kì VN bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình TQ – thuộc địa của TQ, giai đoạn hơn 1000 năm kể từ khi Triệu Đà thôn tính Âu Lạc (179 TCN) đến khi Khúc Thừa Dụ giành lại quyền tự chủ từ nhà Đường (905). Mục tiêu của chính quyền đô hộ phương Bắc là chiếm lấy nước ta để đồng hóa, xóa tên VN ra khỏi bản đồ TG bằng chính sách đô hộ lúc rắn, lúc mềm nhưng mục đích nói trên thì không thay đổi.Tuy nhiên, trải qua thời gian hơn 1000 năm, tổ tiên chúng ta ko đánh mất đi bản sắc văn hóa độc đáo của mình, thậm chí còn tiếp thu và chuyển biến những tập tục người phương bắc đưa vào để biến thành một phần của văn hóa VN. Về tổ chức, cai trị: + Sau khi chiếm được Lạc Việt, nhà Hán đã đặt bộ máy đô hộ chặt chẽ ở cấp châu, huyện song chính quyền đô hộ vẫn không nắm được các huyện vì ở cấp huyện vẫn theo chế độ lạc tướng cha truyền con nối của người Việt. Đẳng cấp quý tộc của người Việt vẫn nắm được tông tộc mà cai quản dân Việt. + Sau khi lật đổ chính quyền của Hai Bà Trưng, nhà Hán thiết lập chính quyền đô hộ ở nước ta chặt chẽ hơn đồng thời thể hiện rõ nét hơn sự đấu tranh giữa 2 mặt đối lập của chế độ quận huyện với kết cấu xóm làng. Ta có làng xã nông thôn – là đơn vị hành chính có ý nghĩa trong đời sống người Việt, là nơi đáp ứng đầy đủ nhu cầu vật chất. Kẻ thù đặt bộ máy cai trị ở quận huyện. Mục tiêu đồng hóa không thực hiện được vì động lực phát triển của XH cuối cùng vẫn là ND, những lực lượng sx lớn lên ngay trong sự thống trị của PK nước ngoài.Tinh thần tự lực, tự cường chống lại sự đồng hóa và giữ vững cá tính của ND ta rất mạnh.Nhân tố chủ yếu tạo nên sức mạnh đó là sự đoàn kết
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Câu 2: Những cách thức để dân tộc tồn tại qua 10 TK Bắc thuộc?
Từ Bắc thuộc để chỉ thời kì VN bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình TQ –
thuộc địa của TQ, giai đoạn hơn 1000 năm kể từ khi Triệu Đà thôn tính Âu Lạc (179 TCN)
đến khi Khúc Thừa Dụ giành lại quyền tự chủ từ nhà Đường (905). Mục tiêu của chính quyền
đô hộ phương Bắc là chiếm lấy nước ta để đồng hóa, xóa tên VN ra khỏi bản đồ TG bằng
chính sách đô hộ lúc rắn, lúc mềm nhưng mục đích nói trên thì không thay đổi.Tuy nhiên,
trải qua thời gian hơn 1000 năm, tổ tiên chúng ta ko đánh mất đi bản sắc văn hóa độc đáo của
mình, thậm chí còn tiếp thu và chuyển biến những tập tục người phương bắc đưa vào để biến
thành một phần của văn hóa VN.
Về tổ chức, cai trị:
+ Sau khi chiếm được Lạc Việt, nhà Hán đã đặt bộ máy đô hộ chặt chẽ ở cấp châu,
huyện song chính quyền đô hộ vẫn không nắm được các huyện vì ở cấp huyện vẫn theo chế
độ lạc tướng cha truyền con nối của người Việt. Đẳng cấp quý tộc của người Việt vẫn nắm
được tông tộc mà cai quản dân Việt.
+ Sau khi lật đổ chính quyền của Hai Bà Trưng, nhà Hán thiết lập chính quyền đô hộ
ở nước ta chặt chẽ hơn đồng thời thể hiện rõ nét hơn sự đấu tranh giữa 2 mặt đối lập của chế
độ quận huyện với kết cấu xóm làng. Ta có làng xã nông thôn – là đơn vị hành chính có ý
nghĩa trong đời sống người Việt, là nơi đáp ứng đầy đủ nhu cầu vật chất. Kẻ thù đặt bộ máy
cai trị ở quận huyện. Mục tiêu đồng hóa không thực hiện được vì động lực phát triển của XH
cuối cùng vẫn là ND, những lực lượng sx lớn lên ngay trong sự thống trị của PK nước
ngoài.Tinh thần tự lực, tự cường chống lại sự đồng hóa và giữ vững cá tính của ND ta rất
mạnh.Nhân tố chủ yếu tạo nên sức mạnh đó là sự đoàn kết của ND ta, sự đô hộ tuy hà khắc,
tàn nhẫn nhưng vẫn k tới được cơ sở bên dưới cấp huyện.
Về văn hóa: ra sức bảo tồn văn hóa, tiếng nói, cốt cách dân tộc đồng thời tiếp thu và
Việt hóa những yếu tố tích cực của Kinh tế - Văn hóa TQ làm nền tảng lâu dài. Khi PK
phương Bắc đô hộ nước ta với mục đích đồng hóa – biến người Việt trở thành người Hán
thông qua ngôn ngữ, cách ăn mặc. Tuy nhiên quá trình này đã gặp phải sự phản đối gay gắt
của cư dân Lạc Việt.
+ Tiêu biểu cho quá trình đồng hóa là quá trình lai tạo gen, người Hán ở nước ta chủ
trương lấy vợ người Việt trên cơ sở đồng hóa, tuy nhiên lúc bấy giờ nước ta vẫn còn ảnh
hưởng của chế độ mẫu hệ nên những người con mang dòng máu Hán lại suy nghĩ và hành
động như người Việt.
+ Ảnh hưởng thứ 2 về mặt VH là cách ăn mặc, cư xử: dân ta đã mạnh mẽ chống lại sự
đồng hóa. Ta vẫn giữ được các tục lệ (tục vẽ nắt thuyền, ăn trầu, nhuộm răng đen, để tóc,
bánh chưng – bánh giày,…), tín ngưỡng dân gian (thờ cúng tổ tiên, thờ cúng đấng thiêng
liêng, thờ cúng vạn vật…)…
+ Các triều đại PK truyền bá Nho giáo vào nước ta, bắt ND phải thay đổi phong tục
theo người Hán. Nhiều Nho sĩ quan lại người Hán được cấp đất Âu Lạc để thực hiện chính
sách nói trên và mở các lớp dạy chữ Nho.Tuy nhiên dưới thời Bắc thuộc Nho giáo chỉ ảnh
hưởng đến 1 số vùng trung tâm quận, châu.
Trên mặt trận VH đó là sự đấu tranh giữa 2 mặt đối lập của Bắc thuộc và
chống Bắc thuộc; giữa quá trình Việt hóa và Hán hóa. Ta đã không bị đồng hóa vì VH còn
thì dân tộc còn. Sự khác nhau giữa quốc gia này và quốc gia khác đó chính là sự khác nhau
về VH. Bảo vệ dân tộc – văn hóa.
- Về KT, thủ CN: Tiếp thu tinh hoa phương Bắc như kĩ thuật đúc đồng, luyện kim
nhưng vẫn giữ vững đc các làng nghề truyền thống của dân tộc với nhiều loại sản phẩm thuỷ
tinh có nhiều màu, tinh xảo. Quá trình tiếp xúc văn hoá Hoa - Việt lâu dài đã đem đến những
thay đổi quan trọng trong ngành thủ CN. Bên cạnh những nghề truyền thống, người Việt đã
phát triển những nghề thủ công học từ người Hán như rèn sắt, làm gốm, làm gạch ngói, làm
đường, làm giấy, chế tạo thủy tinh, sản xuất đồ mỹ nghệ, thuộc da, sơn then… Trong từng
nghề, người Việt tiếp thu không chỉ kỹ thuật mà cả phong cách nghệ thuật Hán. Đồ gốm làm
ra trong thời kỳ này đã thấy xuất hiện nhiều loại hoa văn Hán rất đặc thù. Người Việt từ sản
xuất các loại gốm thô đã tiến tới làm ra các sản phẩm gốm tráng men. Nghề làm vật liệu xây
dựng đặc biệt phát triển nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng các công trình kiến trúc thành
quách, chùa tháp, mộ táng… của chính quyền cai trị. Nghề làm giấy học được từ TQ cũng có
những tiến bộ đáng kể; nghề chế tạo thủy tinh cũng đạt nhiều thành tựu quan trọng
Về quân sự: Khát vọng độc lập luôn cháy bỏng trong dân tộc Việt, họ luôn sẵn sang
đứng lên đấu tranh khởi nghĩa khi có thời cơ.
Các cuộc khởi nghĩa diễn ra liên tục mở đầu là cuộc nổi dậy oanh liệt của những
người phụ nữ: khởi nghĩa HBT năm 40-43 (Mê Linh, Vĩnh Phúc), sau đó 10 TK: khởi nghĩa
Chu Đạt (17), Lương Long (178-179), Khu Lien (192) thành lập nước Lâm Ấp (Champa), Bà
Triệu (248), Lương Thạc (319-323), Lí Bí (542-548), Triệu Quang Phục (548-571), Mai
Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-791)….
Làm lung lay ý chí, chính quyền của kẻ thù, đó là sự đấu tranh của 2 mặt đối
lập chiến tranh xâm lược và chiến tranh giải phong dân tộc, chiến tranh phi nghĩa và chiến
tranh chính nghĩa.
Câu 3: Những nội dung chủ yếu của nền văn minh Đại Việt?
Nền văn minh Đại Việt kéo dài từ 905-1858 => ND ta đã xây dựng 1 nền văn minh
có tính chất phong phú và toàn diện trên các phương diện KT, C.Trị, GD, VH & NT.
1. Về chính trị: Sự nghiệp tự cường của họ Khúc (905-930) và tiếp đó là chiến thắng
Bạch Đằng của Ngô Quyền đã đưa ĐV vào thời kì xây dựng quốc gia độc lập.
939, NQ xưng Vương và đóng đô ở Cổ Loa.
968, ĐBL dẹp loạn 12 sứ quân, tự xưng là Hoàng đế, kinh đô ở Hoa Lư, đặt tên nước
là Đại Cồ Việt => bắt đầu xây dựng triều chính, bước đầu thống nhất đất nước.
981, Lê Hoàn thừa kế quốc gia của nhà Đinh lập ra Tiền Lê.
a. Tổ chức nhà nước: nhà nước gồm 2 phần – TW và địa phương.
+ Trung ương: Vua đứng đầu, nắm mọi quyền lực chủ yếu của đất nước, có quyền
thẩm định tối cao cả về KT, CT, VH, tôn giáo lẫn lập pháp và hành pháp, nắm trong tay
quyền sinh sát và trở thành biểu tượng của quốc gia, Vua thống trị theo chế độ cha truyền con
nối. Bên cạnh vua còn có một hệ thống đại thần giúp việc: tả hữu tướng quốc (tể tướng) &
tam thái, tam thiếu, tam tư. Khi có việc đại sự, Vua thường bàn bạc với hàng ngũ đại thần để
quyết định. Ngoài ra còn có cả 1 hệ thống cơ quan, quan lại cao cấp khác, mỗi cơ quan chịu
trách nhiệm về 1 mặt của nhà nước. Vào XV, bộ máy NN đc phân thành 6 bộ và một số đài,
viện phụ trách việc giấy tờ và thanh tra quan lại.
+ Địa phương: mặc dù làng xã vẫn là cơ sở nhưng bên trên đã có 1 hệ thống hành
chính lớn nhỏ khác nhau, từ lộ, phủ, châu đến huyện. Mỗi đơn vị đều có 1 nhóm quan lại
&QĐcai quản. Cuối XV, các ti phụ trách đạo thừa tuyên (Đô ti, Thừa ti và Hiến ti) thay cho
lộ thời trước. Xã không còn là những tế bào độc lập mà từ đầu thời Trần đã được NN quản lí
(hộ tịch, ruộng đất các xã đều phải kê khai và gửi lên quan huyện để NN nắm được).
Sang thời Lê, NN tăng cường thêm 1 bước quản lí xã thôn (thông qua c/sách quân
điền, NN bắt quan lại cấp thông phải khai số đinh, số ruộng). NN còn quy định cả số xã
trưởng đỗi với xã lớn, vừa và nhỏ, các thể lệ bầu xã trưởng. Đến XV, ĐV trở thành 1 khối
thống nhất có tổ chức và trật tự do NN quản lí => hệ thống CQ PK tập trung cao độ, thể hiện
sức mạnh chi phối của triều đình TW xuống các địa phương và quyền chuyên chế tuyệt đối
của nhà Vua.
b. Luật pháp
Thời kì đầu tiên của quốc gia độc lập: Khúc, Ngô, Đinh, Tiền Lê chưa có luật pháp
nên NN thường xử tội theo ý Vua, cho đến thời Tiền Lê pháp luật vẫ còn tùy tiện.
1002, Lê Hoàn bắt đầu đinh luật lệ.
1003, những người làm phản bị tội chém bêu đầu.
Thời Lý hoạt động lập pháp của NN bắt đầu phát triển.1040, Lý Thái Tông xuống
chiếu từ nay về sau ND trong nước ai có việc kiên tụng thì giao cho Thái tử xét xử trước khi
trình lên Vua kết án. 1042, Lý Thái Tông sai Trung thư sửa đổi và làm thành quyển Hình thư:
gồm 3 quyển => đó là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta, đánh dấu mốc quan trọng trong
LS pháp quyền VN.
Đến thời Trần, 1230 Trần Thái Tông cho soạn Quốc triều hình luật.1244 Vua cho
đinh lại luật 1 lần nữa, về ND cũng giống luật thời Lý – bảo vệ nền thống trị và quyền lợi của
vua quan, quý tộc, cũng cố quyền lực của NN TW tập quyền, đặc biệt là Vua. 1483 Luật
Hồng Đức => luật pháp trở thành 1 hệ thống chuẩn mực nhằm duy trì và bảo vệ trật tự an
ninh XH, phản ánh những lợi ích của tầng lớp thống trị và thực tế XH ĐV đương thời, những
quan hệ XH được luật pháp hóa.
Từ XVI đến XVII là thời kì LS đất nước có nhiều biến động, các triều đại thay thế
nhau trị vì đất nước và chia nhau khu vực thống trị. Cả Đàng trong và Đàng ngoài vẫn áp
dụng luật Hồng Đức bên cạnh đó có bổ sung thêm 1 số điều về KT, Tài chính..
Sang XIX dưới thời Nguyễn, từ 1811 Gia Long sai định thần soạn 1 bộ lấy tên là
Hoàng triều luật lệ hay bộ Luật Gia Long.(dựa trên cơ sở tham khảo bộ luật của nhà Thanh
và Luật HĐ thời Lê Thánh Tông) =>củng cố thêm tính chất thủ cựu, lạc hậu của chế độ chính
trị làm mất bản dần sắcdân tộc.
1. Kinh tế, khoa học kĩ thuật
a. Đời sống kinh tế
Nông nghiệp:đã có từ sớm, trải qua thời kì Bắc thuộc sang thời kì PK độc lập tự chủ
nền NN ngày càng phát triển, lưỡi cày sắt thay thế dần cho lưỡi cày đồng. Các vua nhà Tiền
Lê, nhà Lý luôn luôn chăm lo đến sx NN: đầu mùa xuân Vua thường có lễ cày tịch điền
(khuyến khích ND trong việc nông trang), cấm giết trâu bò, giảm thuế khi mùa màng thất
thu. Nhà nước đặt ra chức Hà đê sứ, Khuyến nông sứ: chuyên trông coi việc đắp đê & sx NN.
Thời Lê sơ (XV), nhà nước ban hành phép quân điền, thống nhất quy tắc chia ruộng cày ở
làng xã, từ thời Lý Trần ND đã biết sd kĩ thuật thâm canh trong lảm ruộng, 2-3 vụ/năm.
NN rất quan tâm đến công tác trị thủy, đắp đê: 1077 nhà Lý cho đắp đê sông Như
Nguyệt (s.Cầu), 1108 đắp đê Cơ Xá dọc s.Hồng, 1248 nhà Trần tổ chức việc đắp đê trên quy
mô lớn ở nhiều lộ - phủ => ở đồng bằng s.Hồng 1 năm lúa chín 4 lần. Nửa sau TK XV, vua
Lê cho đắp đê chạy suốt từ NB đến nam HP.
ND, quý tộc, quan lại hợp lực khai phá đấ hoang, xd làng xóm mở rộng ruộng đồng, S
ruộng đất ngày càng mở rộng, kĩ thuật sx lúa được đúc kết trên kinh nghiệm thực hiện 4
khâu: nước, phân, cần, giống.
Bằng cách nhân giống lúa, TK VXIII cả Đàng trong và Đàng ngoài đã trồng được
nhiều giống lúa khác nhau.Cuối XVIII ngô, cao lương, kê, khoai, sắn được du nhập. Việc
trồng cây ăn quả cũng phát triền, trầu cau được trồng khắp nơi, nhuộm răng ăn trầu là tục lệ
phổ biến. ĐV trở thành quốc gia cường thịnh nhất ĐNA vào XV và giữ được nền độc lập
quốc gia ở XVIII.
Thủ CN: có những bước tiến đáng kể, các nghề thủ công truyền thống như chăn tằm,
ươm tơ, dệt lụa, làm đồ trang sức vàng bạc, nghề rèn sắt, khắc in bản gỗ, nghề đúc đồng, làm
giấy, nhuộm… đều phát triển. TK XV đã có những làng, phường thủ công chuyên nghiệp
bên cạnh nghề phụ của ND như ấp Mao Điền – dệt vải, phường Tàng Kiếm – dệt võng, gấm
trừa, phường Hàng Đào – nhuộm… Đầu XVI, XVII tơ tằm, lụa là loại hàng ăn khách có
tiếng.
Nghề gốm tiếp tục phát triển, trình độ ngày càng tinh xảo với nhiều kĩ thuật mới và
nhiều mặt hàng mới, lượng gạch ngói sx ra ngày càng nhiều.Đến thời Lý, Trần nghề gốm sứ
đã đạt tới trình độ công nghệ cao và thẩm mĩ cao được các lái buôn nước ngoài ưa chuộng.
TK XVI – XVII nghề làm đồ gốm phát triển trong cả nước, nhiều làng gốm nổi tiếng như Bát
Tràng, Hương Canh, Thổ Hà, Hàm Rồng, Biên Hòa…
Ở Đàng trong có tỉnh Quảng Nam, Quàng Ngãi nghề làm đường khá phát triển.
Những sản phẩm của nghề đúc đồng không còn là lưỡi cày, mũi tên nữa mà đã
chuyển sang làm các đồ đựng, chuông, khánh. 4 công trình thể hiện sự sáng tạo của thủ công
ĐV lúc đó là: chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tháp Báo Thiên và tượng Phật chùa Quỳnh
Lâm. Từ nhà Đinh các xưởng đúc của NN thường xuyên đúc tiền phục vụ nhua cầu mua bán
trong nước. Từ XVI – XIX, cùng với sự phát triển cảu nghề luyện kim, ngành khai khoáng
ngày càng mở rộng. Nghề làm đồ trang sức, nghề khảm vàng, bạc ngày càng đạt trình độ cao.
Tiếp thu công nghệ làm giấy của người TQ, Nd ta đã đưa công nghệ ấy lên trình độ
phát triển cao, chế tạo các loại giấy bằng nguyên liệu địa phương như vỏ cây dó, rêu biển, vỏ
cây dâu, vỏ cây thượng lục… Hàng loạt loại giấy khác nhau đã ra đời như: giấy nghè, giấy
nhũ tương, giấy đại phương và đặc biệt là giấy trầm hương: thơm, bền và không thấm nước,
không bị nát. Nghề khắc bản gỗ để in của làng Hồng Lục & Liễu Tràng cùng được mở rộng.
Nghề đóng thuyền cũng xuất hiện sớm và không ngừng phát triển. Đầu XV, Hồ
Nguyên Trừng đã cho đóng thuyền tải lương “cổ lâu” – khá lớn, vừa chở lương thực vừa chở
đc nhiều người. XVIII, thuyền chiến của chúa Nguyễn có đặt súng lớn đã đánh bại 1 hạm đội
của HL.
Nhìn chung, các ngành nghề thủ CN phát triển rộng rãi hơn trước, đáp ứng tốt nhu
cầu của ND trong nước, tạo ra những mặt hàng quan trọng trao đổi với thương nhân nước
ngoài, một số nghề mới ra đời đóng góp đáng kể vào bước tiến của kĩ thuật và văn hóa.
b. Khoa học kĩ thuật
Từ XIV những yếu tố KH – KT bắt đầu nảy sinh.
Hình học và số học được sd trong đo đạc ruộng đất và tính toán xây dựng. Lương Thế
Vinh, Vũ Hựu – những nhà toán học nổi tiếng ở TK XV.
Thiên văn học ra đời với Đặng Lộ và Trần Nguyên Đán.
Y học phát triển với Nguyễn Đại Năng.
Từ thời Trần, Quốc sử viện đc thành lập – cơ quan viết sử của NN, sử học đóng vai
trò quan trọng trong nền GD với các sử gia nổi tiếng: Lê Văn Hưu, Vũ Quỳnh, Hồ Tông
Thốc, Ngô Sĩ Liên… Sự phát triển khách quan của KT cùng với sự ảnh hưởng của văn minh
phương Tây đã tạo nên bước tiến mới về KH – KT, nhiều công trình nghiên cứu đã xuấ hiện,
các nhà bác học Lê Quý Đôn, nhà sử học Phan Huy Chú đã để lại cho đời sau nhiều tác phẩm
có giá trị. Súng thần công, súng tay, máy nghiền thuốc súng, đồng hố lớn và tàu thủy chạy
bằng hơi nước ra đời. TK XVII, chữ Quốc ngữ theo mẫu tự La tinh ra đời tạo đk quan trọng
trong việc giao lưu VH nhưng đến cuối XIX, chữ Quốc ngữ vần k được phổ biến.
2. Giáo dục, văn học, nghệ thuật
a. Giáo dục
Ở giai đoạn đầu, Nho giáo có tồn tại nhưng chưa mạnh, số lượng nho sĩ đc đào tạo
còn ít => ảnh hưởng còn hạn chế.
1070 nhà Lý dựng Văn Miếu, đúc tượng Chu Công, Khổng Tử, mở Quốc Tử Giám –
nơi dạy học cho con vua và con em quý tộc quan lại.1075 triều đình mở khoa thi đầu tiên
tuyển chọn nhân tài => vị trí Nho giáo được nâng cao dần trong XH.
Thởi Trần, NN chính quy hóa việc học hành, thi cử, lập quốc học viện cho con em
quý tộc, quan lại vào học, các nhà Nho còn mở các lớp học ở làng xóm. 1247 nhà Trần đặt
danh hiệu Tam Khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) dành cho người đỗ đầu. Nhiều nhà
Nho xuất hiện và ngày càng có địa vị như Mạc Đĩnh Chi, Lê Quát, Trương Hán Siêu, Phạm
Sư Mạnh, Chu Văn An…
Thời Lê, GD càng được chú trọng và mở mang, chế độ đào tạo Nho sĩ đc xd chính
quy, có hệ thống. Dưới thời Lê sơ GD có phần rộng rãi hơn, con em bình dân học hành ưu tú
cũng được đi học, đi thi, không kể giàu nghèo. Trường học được mở rộng nhằm bổ sung cho
bộ máy quan lieu đang phát triển, tài liệu học tập đều là giáo lý Nho giáo như Tứ thư, Ngũ
kinh, Bắc sử do phái Tống Nho chú giải. 1467 Lê Thánh Tông đặt ra chức Bác sĩ ngũ kinh để
dạy cho hs Quốc Tử Giám. =>chế độ thi cử thịnh đạt và trở thành phướng thức đào tạo quan
lại chủ yếu.
1427 Lê Lợi mở khoa thi đầu tiên lấy 36 người đỗ.
1429 Lê Lợi mở khoa thi Minh Kinh: khảo xét các quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống.
1434 nhà Lê bắt đầu quy định các thể lệ thi cử và bàn định mở khoa thi tiến sĩ.
Từ 1463 trở đi, 3 năm 1 lần tại kinh đô sẽ thi Hội, tại địa phương thi Hương. Triều
đình đặt ra lệ xướng danh, vinh quy và khắc tên người đỗ vào bia đá dựng ở Văn Miếu.
Ở Đàng trong, từ 1646 chúa Nguyễn cũng mở khoa thi chọn người làm quan, cứ 9
năm tổ chức thi 1 lần và số người đỗ mỗi khoa không nhiều (5-7 người).
Thời Tây Sơn, QT ban hành “Chiếu lập học”, từ 1789 QT mở kì thi Hương đầu tiên ở
Nghệ An, từ 1822 nhà Nguyễn mở khoa thi Hội đầu tiên.
Nền GD tuy có nhiều thăng trầm nhưng cũng đã sản sinh ra các nhà văn, nhà thơ lỗi
lạc như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du…
b. Văn học
Hầu hết thơ đương thời (từ XV về trước) đều thấm đượm sâu sắc tình cảm yêu nước
và toát lên niềm tự hào dân tộc chân chính: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Chiếu dời
đô (Lý Công Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần Hưng Đạo), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)… Văn
học chữ Nôm trở nên thịnh hành với: Cư trần lạc đạo phu (Trần Nhân Tông), Ngọc tỉnh liên
phú (Mạc Đĩnh Chi), Chu Văn An, Hồ Quý Ly… đặc biệt là Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi, Thơ Quốc âm của Lê Thánh Tông.
Sang XVI – XVIII Nho giáo suy đổi => nguồn cảm hứng dân tộc phai lạt đi trong tư
tưởng của giai cấp thống trị.Văn học chữ hán không còn chứa đựng tình cảm yêu nước, yêu
quê hương dân tộc => tìm thấy những đề tài mới mẻ hơn. Văn học chữ Nôm ngày càng phát
triển với Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ… Văn xuôi được sáng tác nhiều tiêu biểu là
Truyện kì mạn lục (ND), văn học dân gian như truyện, ca dao, tục ngữ, hát vè, truyện cổ tích,
truyện hài… đều nở rộ, hát tuồng, chèo, ả đào phát triển mạnh mẽ. Cùng với văn học chữ
Nôm, thể thơ song thất lục bát và lục bát cũng phát triển.
Xuất hiện các tài năng VH viết như Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm, Nguyễn
Gia Thiều với Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan. Truyện
Nôm dài như: Phan Trần, Quan Âm Thị Kính, Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh…là những
tác phẩm giá trị nhất ngay cả ở thời đại sau này. Ở XIX có Truyện Kiều của ND, Lục Vân
Tiên của NĐC.
c. Nghệ thuật
Thành tựu nổi bật là việc xây dựng các cung điện, thành lũy của nhà vua: kinh đô Hoa
Lư của ĐTH là 1 công trình đẹp về thẩm mĩ cũng như kiến trúc. Thành Thăng Long nhà Lý
là 1 công trình xd thành lũy lớn nhất trong các triều đại PK, bên cạnh đó còn các công trình