Top Banner
Tiền tố nhị phân Bởi: Wiki Pedia Trong tính toán, tiền tố nhị phân được dùng để định lượng những con số lớn mà ở đó dùng lũy thừa hai có ích hơn dùng lũy thừa 10 (như kích thước bộ nhớ máy tính). Mỗi tiền tố kế tiếp nhau hơn kém nhau 1024 lần (210) thay vì 1000 lần (103) như trong hệ tiền tố SI. Tiền tố nhị phân thường được viết và phát âm hệt như tiền tố SI, mặc dù điều này gây ra nhầm lẫn, do tiền tố SI từ xưa đến nay chính thức có nghĩa liên quan đến hệ thập phân. Lịch sử Những máy tính đầu tiên sử dụng một trong hai cách mô tả địa chỉ để nói về bộ nhớ hệ thống; hệ nhị phân (cơ số 2) hoặc hệ thập phân (cơ số 10). Máy IBM 701 (1952) sử dụng hệ nhị phân và có thể mô tả được 2048 "word", mỗi word có 36 bit. Máy IBM 702 (1953) sử dụng hệ thập phân và có thể mô tả 10.000 "word", mỗi word có 7 bit. Một trong những máy tính thành công nhất thời đó là IBM 1401, được giới thiệu vào năm 1959 và đến 1961 cứ 4 máy tính điện tử thì có 1 chiếc IBM 1401, sử dụng cách ghi địa chỉ theo hệ thập phân và có thể có 1400, 2000, 4000, 8000, 12.000 hoặc 16.000 ký tự (mỗi ký tự có 8 bit) trong bộ lưu trữ nhân. Khi nói đến "4k IBM 1401" có nghĩa là 4000 ký tự của bộ nhớ. Đến giữa thập niên 1960 cách ghi địa chỉ theo hệ nhị phân đã là kiến trúc chuẩn trong thiết kế máy tính. Tài liệu hướng dẫn hệ thống máy tính thời đó xác định kích thước bộ nhớ với con số chính xác như 32.768, 65.536 hay 131.072 "word" lưu trữ. Có vài phương pháp được dùng để viết tắt các lượng số này. Một bài báo trong cuộc thảo luận nhỏ vào năm 1964 của Gene Amdahl nói về IBM System/360 đã dùng 1K với nghĩa là 1024. Kiểu cách này đã được dùng lại bởi những nhà buôn bán máy tính khác, Mô tả hệ thống của CDC 7600 (1968) dùng rất nhiều chữ K như 1024. Một kiểu dùng khác đó là cắt đi 3 số cuối và thêm chữ K vào. Giá trị chính xác 32.768, 65.536 và 131.072 trở thành 32K, 65K và 131K. Nếu 32.768 được làm tròn, nó sẽ thành 33K. Kiểu này đã được dùng trong khoảng từ năm 1965 đến 1975. Việc sử dụng 1024 K thông dụng hơn kiểu K sau khi cắt cụt. Cả hai đều được dùng, có khi bởi cùng một công ty. Máy tính thời gian thực HP 21MX (1974) ký hiệu 196.608 là 196K và 1.048.576 là 1 M. Máy tính doanh nghiệp HP 3000 (1973) có thể có bộ nhớ 64K, 96K, hoặc 128K byte. Tiền tố nhị phân 1/12
12

Tiền tố nhị phân

Mar 02, 2023

Download

Documents

Khang Minh
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Tiền tố nhị phân

Tiền tố nhị phânBởi:

Wiki Pedia

Trong tính toán, tiền tố nhị phân được dùng để định lượng những con số lớn mà ở đódùng lũy thừa hai có ích hơn dùng lũy thừa 10 (như kích thước bộ nhớ máy tính). Mỗitiền tố kế tiếp nhau hơn kém nhau 1024 lần (210) thay vì 1000 lần (103) như trong hệtiền tố SI. Tiền tố nhị phân thường được viết và phát âm hệt như tiền tố SI, mặc dù điềunày gây ra nhầm lẫn, do tiền tố SI từ xưa đến nay chính thức có nghĩa liên quan đến hệthập phân.

Lịch sử

Những máy tính đầu tiên sử dụng một trong hai cách mô tả địa chỉ để nói về bộ nhớhệ thống; hệ nhị phân (cơ số 2) hoặc hệ thập phân (cơ số 10). Máy IBM 701 (1952) sửdụng hệ nhị phân và có thể mô tả được 2048 "word", mỗi word có 36 bit. Máy IBM 702(1953) sử dụng hệ thập phân và có thể mô tả 10.000 "word", mỗi word có 7 bit. Mộttrong những máy tính thành công nhất thời đó là IBM 1401, được giới thiệu vào năm1959 và đến 1961 cứ 4 máy tính điện tử thì có 1 chiếc IBM 1401, sử dụng cách ghi địachỉ theo hệ thập phân và có thể có 1400, 2000, 4000, 8000, 12.000 hoặc 16.000 ký tự(mỗi ký tự có 8 bit) trong bộ lưu trữ nhân. Khi nói đến "4k IBM 1401" có nghĩa là 4000ký tự của bộ nhớ.

Đến giữa thập niên 1960 cách ghi địa chỉ theo hệ nhị phân đã là kiến trúc chuẩn trongthiết kế máy tính. Tài liệu hướng dẫn hệ thống máy tính thời đó xác định kích thướcbộ nhớ với con số chính xác như 32.768, 65.536 hay 131.072 "word" lưu trữ. Có vàiphương pháp được dùng để viết tắt các lượng số này. Một bài báo trong cuộc thảo luậnnhỏ vào năm 1964 của Gene Amdahl nói về IBM System/360 đã dùng 1K với nghĩa là1024. Kiểu cách này đã được dùng lại bởi những nhà buôn bán máy tính khác, Mô tảhệ thống của CDC 7600 (1968) dùng rất nhiều chữ K như 1024. Một kiểu dùng khácđó là cắt đi 3 số cuối và thêm chữ K vào. Giá trị chính xác 32.768, 65.536 và 131.072trở thành 32K, 65K và 131K. Nếu 32.768 được làm tròn, nó sẽ thành 33K. Kiểu này đãđược dùng trong khoảng từ năm 1965 đến 1975.

Việc sử dụng 1024 K thông dụng hơn kiểu K sau khi cắt cụt. Cả hai đều được dùng, cókhi bởi cùng một công ty. Máy tính thời gian thực HP 21MX (1974) ký hiệu 196.608là 196K và 1.048.576 là 1 M. Máy tính doanh nghiệp HP 3000 (1973) có thể có bộ nhớ64K, 96K, hoặc 128K byte.

Tiền tố nhị phân

1/12

www.princexml.com
Prince - Non-commercial License
This document was created with Prince, a great way of getting web content onto paper.
Page 2: Tiền tố nhị phân

Thuật ngữ Kbit, Kbyte, Mbit và Mbyte bắt đầu được sử dụng như đơn vị nhị phân vàođầu thập niên 1970. Tờ quảng cáo cho máy tính IBM System/370 Model 158 (1972) đãcó những dòng sau: "Dung lượng lưu trữ thực có bán từ 512K đến 2.048K byte tăng theotừng bậc 512K". Phần lớn dung lượng bộ nhớ được mô tả theo K. Megabyte được dùngđể mô tả địa chỉ 22-bit của máy PDP-11/70 (1975) của hãng DEC và gigabyte để chỉ địachỉ 30-bit của máy VAX11/780 (1977), cũng của DEC.

Vào giữa thập niên 1070 việc dùng K (hoặc Kbyte) để biểu diễn 1024 đã trở nên phổbiến và ít gặp hơn là M (hay MByte) được dùng như 1.048.576 word hay byte cho bộnhớ (RAM). K và M cũng được dùng với nghĩa thập phân cho dung lượng đĩa. Việc sửdụng song song các tiền tố này cho cả hệ thập phân và nhị phân đã được định nghĩatrong những tiêu chuẩn và từ điển thời đó. ANSI/IEEE Std 1084-1986 vẫn còn dùng đểtham khảo và đã định nghĩa kilo và mega. Thuật ngữ "dung lượng máy tính" có nghĩa làbộ nhớ hệ thống "kilo (K). (1) Một tiền tố để chỉ 1000. (2) Trong các câu văn liên quanđến kích thước dung lượng máy tính, là một tiền tố để chỉ 210, hay 1024." "mega (M).(1) Một tiền tố để chỉ một triệu. (2) Trong các câu văn liên quan đến kích thước dunglượng máy tính, là một tiền tố chỉ 220, hay 1.048.576."

Vào thập niên 1980 các thuật ngữ kilobyte, megabyte và gigabyte trở nên phổ biến cùngvới cách viết tắt KB, MB và GB và các thuật ngữ Kbyte, Mbyte và Gbyte. Tất cả đềuđược định nghĩa trong IEEE 100. Thuật ngữ Kbyte, Mbyte và Gbyte được tìm thấy trongcác ấn bản thương mại và trong bài báo của IEEE (Kilobyte, Kbyte và KB là những đơnvị tương đương).

Ngành công nghiệp đã thích ứng với những định nghĩa kép này vì bộ nhớ hệ thống(RAM) luôn sử dụng nghĩa nhị phân trong khi dung lượng đĩa lại sử dụng nghĩa thậpphân (tuy cũng có những ngoại lệ đặc biệt cho một số loại đĩa). Không có đơn vị SI chodung lượng lưu trữ máy tính nhưng ý nghĩa thập phân của KB, MB và GB thường đượcchỉ bằng tiền tố SI.

Vào tháng 1 năm 1999, Ủy ban Kỹ thuật Điện Quốc tế giới thiệu các tiền tố kibi-, mebi-,gibi-, v.v., và các ký hiệu Ki, Mi, Gi, v.v., để chỉ các bội số nhị phân của số lượng vàloại bỏ sự nhập nhằng này. Tên của tiêu chuẩn mới được lấy ra từ hai chữ cái đầu tiêncủa tiền tố SI gốc kèm theo là chữ bi, viết tắt cho "binary" (nhị phân). Chuẩn mới cũnglàm rõ rằng, theo quan điểm của IEC, các tiền tố SI do đó sẽ chỉ được dùng với nghĩa cơsố 10 của nó và không bao giờ có nghĩa là cơ số 2.

Phiên bản thứ hai của tiêu chuẩn định nghĩa chúng chỉ đến exbi-, nhưng vào năm 2005,phiên bản thứ ba đã thêm vào các tiền tố zebi- và yobi-, do đó tất cả các tiền tố SI tiêuchuẩn đã có phần nhị phân tương ứng.

Tiền tố nhị phân

2/12

Page 3: Tiền tố nhị phân

Vào 19 tháng 3 năm 2005 tiêu chuẩn IEEE IEEE 1541-2002 (Các Tiền tố cho Bội sốNhị phân) đã được nâng lên thành tiêu chuẩn sử dụng đầy đủ bởi Hiệp hội Tiêu chuẩnIEEE sau khoảng thời gian hai năm thử nghiệm.

Sự bối rối của người dung

Ổ cứng này có thể chứa 160×109 byte, và được bán ra sử dụng tiền tố SI chuẩn là "160 GB"

Phần mềm fdisk của Linux dùng tiền tố SI chuẩn để mô tả ổ đĩa 160×109 byte là "160.0 GB"

Vào thời kỳ đầu tiên của máy tính hầu như không có sự nhầm lẫn nào từ người dùng vìbản chất cẩn thận của người dùng nhưng lý do quan trọng hơn là các nhà sản xuất máytính hồi đó xác định (trái với các quảng cáo) sản phẩm của họ bằng chữ số thập phân ởnhững chỗ thích hợp, ví dụ như vào năm 1968 IBM nói về System 360 "Model 91s cóthể cung cấp lên đến 6.291.496 byte bộ nhớ chính." Những nhà sản xuất ổ cứng bắt đầusử dụng MB, có nghĩa là 106 byte, để mô tả đặc tính sản phẩm của họ từ năm 1974. Đếnnăm 1977, trong phiên bản đầu tiên, Disk/Trend, một nhà tư vấn tiếp thị cho ngành côngnghiệp ổ cứng hàng đầu khi đó đã chia ngành công nghiệp dựa theo số MB (nghĩa thậpphân) dung lượng. Việc một hệ điều hành sử dụng MB với nghĩa nhị phân để hiển thịdung lượng ổ cứng có lẽ xuất hiện đầu tiên ở Macintosh Finder sau 1984. Trước đó, trênnhững hệ thống có dùng ổ cứng, dung lượng được hiển thị bằng các con số thập phânvà không dùng tiền tố nào (như lệnh CHKDSK của MS/PC DOS). Sau đó, một ví dụ làMicrosoft Windows 3.11 đã báo cáo dung lượng thực của ổ cứng 41.959.424 byte là 40MB.

Tiền tố nhị phân

3/12

Page 4: Tiền tố nhị phân

Những tiền tố nhị phân sử dụng ký hiệu SI

Ký hiệu một ký tự thì y hệt như tiền tố SI, trừ "K", được dùng qua lại với "k" (trong SI,"K" viết hoa có nghĩa là độ kelvin, và chỉ có "k" viết thường mới có nghĩa là 1.000).

Các tiền tố này thường được dùng trong ngữ cảnh nói về kích thước bộ nhớ hay tập tin.Tên và giá trị của tiền tố SI được định nghĩa trong tiêu chuẩn SI năm 1960, với giá trị làlũy thừa của 1000. Những từ điển tiêu chuẩn đã thực sự công nhận nghĩa nhị phân củanhững tiền tố này. Ví dụ như từ điển trực tuyến Oxford định nghĩa megabyte như sau:"Máy tính một đơn vị thông tin bằng với một triệu hoặc (chính xác) 1.048.576 byte."

BIPM (tổ chức duy trì SI) cấm tuyệt đối việc dùng như tiền tố nhị phân, và đề nghị sửdụng tiền tố IEC để thay thế (đơn vị tính toán không nằm trong SI).

Có người đề nghị "k" được dùng cho 1.000, và "K" cho 1.024, nhưng nó không thể mởrộng cho những tiền tố bậc cao hơn và chưa bao giờ được công nhận rộng rãi.

Mặc dù các tiền tố để chỉ các đơn vị thấp hơn một bit hay một byte theo lý thuyết cóthể được dùng trong những lĩnh vực như mã hóa, nén dữ liệu, và mức độ truyền dữ liệu,chúng không được dùng trong thực tế.

Tiền tố nhị phân

4/12

Page 5: Tiền tố nhị phân

Một cách không chính thức, những tiền tố thường đứng một mình. Do đó có ai đó sẽnghe thấy "DRAM 256 "kí"" (256 kilobyte nhị phân), "ổ cứng 160 "mê"" (160 megabytethập phân) hay "đường truyền Internet 2 "mê"" (2 megabit thập phân trên giây). Đơn vịnào đang được dùng, và cơ số của nó là nhị phân hay thập phân, tùy thuộc hoàn toàn vàongữ cảnh sử dụng và không thể được xác định chỉ bằng đơn vị.

Tiền tố nhị phân

5/12

Page 6: Tiền tố nhị phân

Tiền tố tiêu chuẩn IEC

Ví dụ: 300 GB ≅ 279.5 GiB.

Tỷ lệ xấp xỉ giữa tiền tố nhị phân và thập phân

Khi các đơn vị trong bảng đơn vị đi lên dần, phần trăm sai lệch giữa giá trị nhị phânvà thập phân của tiền tố càng tăng, từ 2,4% (với tiền tố kilo) đến trên 20% (với tiền tốyotta). Điều này khiến cho sai số giữa hai giá trị trở nên quan trọng khi lưu trữ dữ liệungày càng lớn và công nghệ truyền dẫn được phát triển.

Sự chấp nhận

Đến năm 2007, quy ước đặt tên của IEC vẫn chưa được sử dụng rộng rãi, nhưng nó đangđược phổ biến dần dần.

Tiền tố nhị phân

6/12

Page 7: Tiền tố nhị phân

Nó được hỗ trợ mạnh mẽ bởi nhiều cơ quan tiêu chuẩn hóa và tổ chức kỹ thuật, nhưIEEE, CIPM, NIST, và SAE. Những tiền tố nhị phân mới cũng đã được chấp nhận bởitổ chức Tiêu chuẩn hóa Kỹ thuật Điện tử của Ủy ban Châu Âu (CENELEC) như một tàiliệu dung hòa HD 60027-2:2003-03. Tài liệu này sẽ được chấp nhận như một tiêu chuẩnChâu Âu.

Những tiền tố đang bắt đầu được sử dụng trong những bài báo kỹ thuật và phần mềmkhi việc tránh nhập nhằng là quan trọng. Các phần mềm hiện đang dùng tiền tố tiêuchuẩn IEC (chung với tiền tố tiêu chuẩn SI) bao gồm Linux kernel, GNU Core Utilities,Launchpad, GParted, ifconfig, Deluge (chương trình BitTorrent), và BitTornado. Nhữngchương trình khác như fdisk và apt-get sử dụng tiền tố SI với ý nghĩa thập phân.

Việc sử dụng

Cụm từ "đơn vị thập phân" sẽ được dùng để chỉ "định danh SI được hiểu với nghĩa tiêuchuẩn, thập phân, lũy thừa của 1000" và "đơn vị nhị phân" sẽ có nghĩa "định danh SIđược hiểu với nghĩa nhị phân, lũy thừa của 1024." B sẽ được dùng làm ký hiệu cho bytetheo tiêu chuẩn công nghiệp máy tính (IEEE 1541 và IEC 60027; B cũng được dùng làmký hiệu cho bel, một đơn vị không phải của SI phổ biến để đo số truyền).

Có những đơn vị luôn luôn được hiểu là số thập phân ngay cả khi nói đến máy tính. Vídụ như, hertz (Hz), được dùng để đo tốc độ xung đồng hồ của những linh kiện điện tử, vàbit/s, dùng để đo tốc độ truyền bit. Do đó bộ vi xử lý 1 GHz sẽ thực hiện 1.000.000.000xung đồng hồ trong một giây, nhạc 128 kbit/s tốn 128.000 bit (16 kB, 15.625 KiB) mộtgiây, và kết nối Internet tốc độ 1 Mbit/s có thể truyền 1.000.000 bit (125 kB, tươngđương 122 KiB) một giây, giả thiết 1 byte bằng 8 bit, và không có trễ.

Tiền tố nhị phân

7/12

Page 8: Tiền tố nhị phân

Cách phát âm

Trong tiếng Anh và tương tự đối với tiếng Việt, cách phát âm được đề nghị là âm đầucủa tiền tố nhị phân phát âm giống như âm đầu của tiền tố SI tương ứng, và âm sao phátâm như "bi". Ví dụ như: KiB, viết là Kibibyte, đọc là "ki bi bai (tờ)".

Bộ nhớ máy tính

Việc đo lường phần lớn các loại bộ nhớ điện tử như RAM, ROM và Flash (ổ flash dunglượng lớn như đĩa cứng đôi khi là ngoại lệ) thường ở đơn vị nhị phân, vì chúng được tạora ở dung lượng theo lũy thừa hai. Đây là cấu hình tự nhiên nhất cho bộ nhớ, vì khi đótất cả các tổ hợp của các đường địa chỉ sẽ tương ứng với một địa chỉ hữu hiệu, cho phéptập hợp dễ dàng vào một khối bộ nhớ liên tục lớn hơn.

Tổ chức Công nghệ Liên bang Thống nhất JEDEC, một cơ quan tiêu chuẩn hóa kỹ thuậtbán dẫn của Liên minh Công nghiệp Điện tử (Electronic Industries Alliance - EIA) trongTiêu chuẩn 100B.01 định nghĩa K, M và G theo nghĩa nhị phân là tiền tố cho những đơnvị của bộ nhớ bán dẫn, ghi chú rằng những định nghĩa này "chỉ được kèm theo để phảnánh thực tế sử dụng thông thường" và còn chú ý rằng 'IEEE/ASTM SI 10-1997 có nói"Việc sử dụng như thế này thường dẫn tới sự nhầm lẫn và không được tán thành."'. Tấtcả những tiêu chuẩn xuất bản bởi JEDEC vẫn đang sử dụng cách dùng thông thường,gồm cả những đề xuất đóng gói chip nhớ cho người dùng cuối.

Nhiều lĩnh vực trong lập trình máy tính đề cập tới bộ nhớ với ý nghĩa lũy thừa hai mộtcách tự nhiên. Ví dụ như, một con trỏ có thể tham chiếu đến nhiều nhất là 65.536 đơn vị(byte, word, hoặc đối tượng khác), hay một hệ điều hành có thể chiếu tương ứng bộ nhớvới nghĩa là từng trang độ lớn 4.096-byte, trong trường hợp đó chính xác 8.192 trangcó thể định vị được 33.554.432 byte bộ nhớ phần cứng. Sẽ thuận tiện hơn khi diễn đạtcác con số này một cách không chính thức lần lượt là 64K đơn vị, hay 8K trang có độlớn 4Kbyte (KiB), mỗi trang tương ứng với 32 MByte (MiB) bộ nhớ. Một lập trình viêncó thể dễ dàng tính nhẩm rằng "8K × 4K là 32 meg" và sẽ có giá trị chính xác, với ngữcảnh lũy thừa hai này. Sự thuận tiện này có lẽ là một trong những nguồn gốc của việcmượn "kilo" và "mega" từ hệ SI để viết tắt cho 1.024 và 1.048.576, như một tiếng lóngđặc biệt trong một nhánh của ngành công nghiệp.

Hầu như tất cả chương trình dành cho người dùng máy tính (và nhiều chương trình lậptrình cấp cao) không có xu hướng và cũng không cần phải nói rõ về lũy thừa của hai. Sựlẫn lộn của người dùng giữa lũy thừa của 1000 và lũy thừa của 1024 có thể suy ra phầnlớn từ vài ứng dụng và hệ điều hành ban đầu được viết bởi lập trình viên và cũng dànhcho lập trình viên, những chương trình đó do đó đã báo cáo số lượng như kích thước tậptin theo cách quen thuộc (đối với lập trình viên) là lũy thừa của 1024 trong khi sử dụngtên viết tắt SI (lũy thừa của 1000). Nếu không có những báo cáo này, phần lớn ngườidùng sẽ không bị đặt vào nghĩa lũy thừa của 1024, vì bộ nhớ thực mà người dùng sử

Tiền tố nhị phân

8/12

Page 9: Tiền tố nhị phân

dụng sau khi vài bù trừ chi phí hiếm khi là lũy thừa của 2. Hành vi được kế thừa của hệđiều hành khi báo cáo kích thước theo lũy thừa của 1024 vẫn tiếp tục đến ngày nay (năm2007) ngay cả ở nhiều hệ điều hành có giao diện đồ họa nhắm chủ yếu đến người dùngkhông phải lập trình viên.

Ổ cứng

Những nhà sản xuất ổ cứng dùng đơn vị thập phân để chỉ dung lượng. Việc sử dụng nhưthế có truyền thống từ lâu, trước cả khi hệ thống SI của các tiền tố thập phân được côngnhận vào năm 1960:

* Ổ cứng đầu tiên là IBM 350 (thập niên 1950) có 5.000.000 ký tự 6 bit được tổ chứctrong 100 vùng (sector) ký tự (nghĩa là khối - block). Điều này xảy ra trước khi có hệthống SI.

* Vào thập niên 1960 một cách mặc định tất cả ổ đĩa sử dụng định dạng chiều dài khốibiến đổi của IBM (gọi là Count Key Data hay "CKD"). Bất kỳ kích thước khối nào cũngcó thể xác định dựa trên chiều dài rãnh (track) lớn nhất. Các khối ("thanh ghi" trongthuật ngữ của IBM) 88, 96, 880 và 960 thường được dùng vì chúng liên quan tới kíchthước khối không đổi của các thẻ có lỗ. Dung lượng đĩa thường được chỉ theo các khốithanh ghi rãnh đầy đủ, ví dụ như một gói 3336 đĩa 100 Megabyte chỉ đạt được dunglượng với một kích thước khối rãnh 13.030 byte.

* CKD vẫn còn dùng đến thập niên 1990 và có lẽ còn đến ngày nay. Vào thập niên 1970và 1980 phần lớn ổ đĩa được xác định bằng số rãnh chưa định dạng (dung lượng chưađịnh dạng) với kích thước khối cụ thể và dung lượng đã được định dạng là một hàm củathiết kế bộ điều khiển. Ví dụ như, ST412 của IBM PC/XT có dung lượng chưa định dạnglà 12,75 MB (không phải MiB) và được định dạng với bộ điều khiển Xebec và 512 khốivà được quảng cáo là ổ cứng 10,0 MB (không phải MiB). Những bộ điều khiển khác hỗtrợ những kích thước khối khác dẫn đến dung lượng sau khi định dạng khác nhau.

* Sự xuất hiện của giao tiếp thông minh (SCSI và IDE) vào đầu thập niên 1990 đã thốngnhất việc quyết định kích thước một khối và mặc định chọn 512 byte, không có lý do gìkhác ngoài việc IBM đã chọn nó khi họ lấy bộ điều khiển Xebec dành cho PC/XT. Dunglượng tiếp tục được xác định bởi các nhà sản xuất ổ cứng với định nghĩa tiền tố SI.

Bất kể thực tế từ trước đến nay của các nhà sản xuất ổ cứng là luôn xác định dung lượngvới quy ước tiền tố SI, giao diện đồ họa của một vài hệ thống hay hệ điều hành vẫn báocáo dung lượng ổ cứng là một số nhị phân dẫn đến sự lẫn lộn. Vào tháng 1 năm 2007,phần lớn, nhưng không phải tất cả, các nhà sản xuất ổ cứng tiếp tục dùng tiền tố thậpphân để xác định dung lượng.

Tiền tố nhị phân

9/12

Page 10: Tiền tố nhị phân

Ổ đĩa flash

Ổ đĩa Flash dùng USB và thẻ nhớ dựa trên Flash như CompactFlash và Secure Digitalđược xếp vào loại bội số "lũy thừa của hai" của megabyte thập phân; ví dụ, một thẻ "256MB" sẽ chứa 256 triệu byte.

Mặc dù các thiết bị ít ra thường có dung lượng byte mong đợi, mỗi nhà sản xuất cũngđịnh vị những phần khác nhau của dung lượng cơ bản của thiết bị cho những thứ nhưwear levelling (một kỹ thuật để kéo dài tuổi thọ thẻ nhớ).

Đĩa mềm

Việc sử dụng một cách nhập nhằng các tiền tố thập phân có thể bắt đầu từ đĩa mềmkhi nhà sản xuất truyền thông và ổ đĩa chỉ dung lượng chưa định dạng trong khi cáchệ thống khác nhau đưa ra những dung lượng đã định dạng khác nhau như là kết quảcủa các thiết kế bộ điều khiển khác nhau. Dường như một vài nhà sản xuất hệ thốngvà phân phối hệ điều hành bắt đầu báo cáo theo cách mà hiện giờ chúng ta biết là Kibyte. Một hệ thống lai rất nhập nhằng đã được phát triển với đĩa mềm 3½" mật độ caohai mặt, ở đó một "megabyte" có nghuax là 1000 lần của "kilobyte" 1024 byte. Do đó,vào năm 2005, những nhà sản xuất đã thống nhất sử dụng sử định dang "đĩa 1,44 MB"cho một sản phẩm không chứa 1,44×220 byte cũng không phải 1,44×106 byte, mà là1,44×1000×1024 byte (xấp xỉ với 1.406 MiB, hay 1.475 MB).

CD và DVD

Dung lượng đĩa CD luôn được cho dưới dạng đơn vị nhị phân. Một đĩa CD "700 MB"(hay "80 phút") có dung lượng danh nghĩa vào khoảng 700 MiB (xấp xỉ 730MB). Nhưngdung lượng của DVD lại được cho ở dạng thập phân. Một DVD "4.7 GB" có dung lượngdanh nghĩa là khoảng 4,38 GiB.

Bus

Băng thông Bus được cho ở đơn vị thập phân. Điều này không phải do dung lượng ổcứng sử dụng thập phân, cũng không phải do độ truyền bit, mà là do tốc độ xung đồnghồ. Ví dụ, bộ nhớ "PC3200" chạy trên bus ống kép 200 MHz, truyền 8 byte một chu kỳ,và do đó có băng thông 200.000.000×2×8 = 3.200.000.000 byte/s.

Tranh cãi pháp lý

Có hai vụ kiện nổi bật chống lại những nhà sản xuất thiết bị lưu trữ số. Một trường hợpliên quan đến bộ nhớ flash và trường hợp kia lien quan đến ổ đĩa cứng. Cả hai được hòagiải với các nhà sản xuất đồng ý làm rõ dung lượng lưu trữ các sản phẩm của họ trênbao bì người dùng.

Tiền tố nhị phân

10/12

Page 11: Tiền tố nhị phân

Vào 20 tháng 2, 2004, Willem Vroegh đã sắp đặt một vụ kiện chống lại Lexar Media,Dane–Elec Memory, Fuji Photo Film Hoa Kỳ, Eastman Kodak Company, KingstonTechnology Company, Inc., Memorex Products, Inc.; PNY Technologies Inc., SanDiskCorporation, Verbatim Corporation, and Viking InterWorks cho rằng sự mô tả về dunglượng các thẻ nhớ flash của họ là sai và gây nhầm lẫn.

Vroegh chỉ ra rằng một Thiết bị Bộ nhớ Flash 256MB chỉ có 244MB bộ nhớ tiếp cậnđược. "Nguyên đơn cho rằng bị đơn đã tiếp thị dung lượng bộ nhớ của các sản phẩmcủa họ bằng cách giả sử rằng một megabyte bằng với một triệu byte và một gigabytebằng với một tỷ byte." Nguyên đơn muốn sử dụng giá trị 220 cho một megabyte và 230cho một gigabyte. Nguyên đơn biết rằng tiêu chuẩn IEC định nghĩa một MB là một triệubyte nhưng đã nói rằng ngành công nghiệp bỏ qua phần lớn các tiêu chuẩn của IEC.Third Amended Complaint.pdf

Những nhà sản xuất đồng ý làm rõ dung lượng thẻ nhớ flash trên bao bì và trên trangweb.

Người mua hàng có thể đăng ký "giảm giá mười phần trăm sản phẩm bán ra trực tuyếntrong tương lai từ Cửa hàng Trực tuyến về Thiết bị Nhớ Flash của Bị đơn."

Công ty luật Gutride Safier, LLP và Milberg Weiss nhận được 2,4 triệu đô la Mỹ.

Vào ngày 7 tháng 7, 2005, một sự kiện mang tên Orin Safier chống lại Western DigitalCorporation, và các bạn hữu, đã được sắp đặt tại Tòa án Tối cao của Thành phố vàhạt San Francisco, số vụ án CGC-05-442812. Vụ này sau đó chuỷen tới Quận Bắc củaCalifornia, số vụ án 05-03353 BZ.

Mặc dù Western Digital khăng khăng rằng việc họ sử dụng đơn vị là đồng nhất với"tiêu chuẩn công nghiệp đúng đắn không thể phủ nhận trong đo lường và mô tả dunglượng lưu trữ", và rằng họ "không thể được kỳ vọng sẽ cải cách ngành công nghiệp phầnmềm", họ đã đồng ý dàn xếp

vào tháng 3 năm 2006 với 14 tháng 6, 2006 là ngày chuẩn bị được phê chuẩn cuối cùng(Final Approval hearing date).

Western Digital đã đề nghị đền bù cho khách hàng được tải về miễn phí phần mềm phụchồi và sao lưu trị giá 30 đô la Mỹ. Họ cũng trả $500.000 lệ phí và chi phí cho các luậtsư Adam Gutride và Seth Safier ở San Francisco, những người đã sắp xếp vụ kiện.

Western Digital đã ghi chú ở dưới bản hòa giải. "Rõ ràng, bị đơn tin rằng anh ta có thểkiện một công ty trứng vì gian lận khi ghi nhãn hộp 12 trứng là "một tá", vì vài thợ bánbánh sẽ xem một "tá" bao gồm đến 13 cái."

Tiền tố nhị phân

11/12

Page 12: Tiền tố nhị phân

Những nhà sản xuất bộ nhớ flash và ổ cứng giờ đây đã có sự nhân nhượng về quyền lợitrong gói hàng và trang web của họ bằng việc làm rõ dung lượng được định dạng của bộnhớ flash hoặc định nghĩa 1MB là 1 triệu byte và 1GB là 1 tỷ byte.

Cũng vậy, Class Action Fairness Act năm 2005 yêu cầu nghiên cứu cẩn thận hơn nữanhững sự hòa giải bằng phiếu giảm giá. Một trong những công ty luật bị đơn trong vụVroegh, Milberg Weiss & Bershad, đã bị buộc tội gian lận trong những vụ án lớn (classaction) không liên quan.

Tiền tố nhị phân

12/12