BỘ NỘI VỤ TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH NHIỆM KỲ 2021- 2026 (Ban hành kèm theo Quyết định số /QĐ-BNV ngày tháng năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ) HÀ NỘI, THÁNG 8 NĂM 2021
BỘ NỘI VỤ
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
NHIỆM KỲ 2021- 2026
(Ban hành kèm theo Quyết định số /QĐ-BNV ngày tháng năm 2021
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ)
HÀ NỘI, THÁNG 8 NĂM 2021
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
1. Đồng chí Phạm Thị Thanh Trà, Bộ trưởng Bộ Nội vụ- Trưởng ban.
2. Đồng chí Triệu Văn Cường, Thứ trưởng Bộ Nội vụ- Phó Trưởng ban.
3. Đồng chí Lại Đức Vượng, Vụ trưởng Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức, Bộ Nội vụ- Ủy viên.
4. Đồng chí Đặng Xuân Hoan, Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia -
Ủy viên.
THƯỜNG TRỰC BIÊN SOẠN
1. PGS.TS. Triệu Văn Cường, Thứ trưởng Bộ Nội vụ- Trưởng ban;
2. TS. Đặng Xuân Hoan, Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia- Phó
Trưởng ban.
3. TS. Lại Đức Vượng, Vụ trưởng Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức, Bộ Nội vụ- Phó trưởng ban.
4. GS.TS. Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận
Trung ương- Chuyên gia.
5. GS.TS. Vũ Văn Hiền, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương-
Chuyên gia.
6. PGS.TS. Lương Thanh Cường, Phó Giám đốc Học viện Hành chính
Quốc gia- Thư ký.
NHÓM BIÊN SOẠN
CHUYÊN ĐỀ 1
1. PGS.TS. Triệu Văn Cường, Thứ trưởng Bộ Nội vụ;
2. PGS.TS. Lương Thanh Cường, Học viện Hành chính Quốc gia;
3. TS. Đoàn Văn Dũng, Học viện Hành chính Quốc gia.
CHUYÊN ĐỀ 2
1. PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh, Học viện Hành chính Quốc gia;
2. PGS.TS. Lê Thị Hương, Học viện Hành chính Quốc gia.
CHUYÊN ĐỀ 3
1. TS. Nguyễn Đăng Quế, Học viện Hành chính Quốc gia;
2. PGS.TS. Đặng Khắc Ánh, Học viện Hành chính Quốc gia.
CHUYÊN ĐỀ 4
1. PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, Học viện Hành chính Quốc gia;
2. TS. Nguyễn Hải Long, Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử, Văn phòng
Quốc hội.
CHUYÊN ĐỀ 5
1. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Vân, Học viện Hành chính Quốc gia;
2. PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh, Học viện Hành chính Quốc gia.
CHUYÊN ĐỀ 6
1. PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, Học viện Hành chính Quốc gia;
2. TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy, Học viện Hành chính Quốc gia.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐP Chính quyền địa phương
CNXH Chủ nghĩa xã hội
GDP Tổng sản phẩm trong nước
HĐND Hội đồng nhân dân
NSNN Ngân sách nhà nước
TAND Tòa án nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
UBND Ủy ban nhân dân
VKSND Viện Kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
Chuyên đề 1 TẦM NHÌN, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC ......................................... 1
Chuyên đề 2 CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VÀ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP
TỈNH..................................................................................................................................................... 37
Chuyên đề 3 KỸ NĂNG CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG THAM
GIA XÂY DỰNG, BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT, THẨM TRA BÁO CÁO, ĐỀ ÁN ........................... 77
Chuyên đề 4 KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH, THẢO LUẬN, TRANH LUẬN CỦA ĐẠI BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH ............................................................................................. 106
Chuyên đề 5 KỸ NĂNG TIẾP XÚC VÀ THAM VẤN Ý KIẾN CỬ TRI, TIẾP CÔNG DÂN,
TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CƠ QUAN BÁO CHÍ CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP
TỈNH................................................................................................................................................... 140
Chuyên đề 6 KỸ NĂNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH .. 182
1
Chuyên đề 1
TẦM NHÌN, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
I. Bối cảnh thế giới, bối cảnh trong nước và yêu cầu đặt ra đối với tầm
nhìn phát triển đất nước
1. Bối cảnh thế giới
Hiện tại, các quốc gia đang đứng trước nhiều thách thức. Các thách thức
đặt ra với mỗi quốc gia không còn trong tầm kiểm soát một cách đơn giản như
trước mà là những thách thức nan giải, khó kiểm soát. Đặc trưng nan giải được
thể hiện ở tính phức hợp, nhiều bên liên quan, biến động liên tục, khó đoán định
và ảnh hưởng lâu dài. Đó là những thách thức phức tạp như thảm họa tự nhiên
khó lường (biến đổi khí hậu; dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch Covid- 19; lũ lụt;
động đất; nước biển dâng, ngập mặn, hạn hán; cháy rừng…), khủng hoảng kinh
tế (nợ công, gián đoạn chuỗi sản xuất toàn cầu…) hay các vấn đề xã hội (chủ
nghĩa khủng bố, vấn đề an ninh thông tin, an ninh lương thực…).
Những vấn đề này đang tạo ra các nguy cơ đối với giá trị truyền thống vốn
từng là nền tảng của ổn định và phát triển xã hội, đối với việc đạt được các mục
tiêu phát triển và phát triển bền vững trong khu vực hoặc trong quốc gia. Để giải
quyết và quản lý các vấn đề này một cách chủ động, hiệu quả thì các quốc gia
cần huy động được trí tuệ, sự cam kết và nguồn lực của các bên liên quan. Điều
này dẫn đến đòi hỏi các ngành, các địa phương phải có sự phối hợp đồng bộ,
khắc phục sự thiếu hụt về nguồn lực, năng lực để giải quyết các vấn đề của
ngành, địa phương mình, qua đó, góp phần giải quyết những vấn đề chung của
cả nước.
Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế gắn liền với việc tham gia vào quá trình
phân công lao động quốc tế, khai thác lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Vì vậy,
một lần nữa, cần thiết đặt ra câu hỏi về năng lực của mỗi quốc gia trong việc tạo
ra được sức mạnh nội lực của mình thông qua việc sử dụng các phương thức
điều hành thích hợp nhằm huy động được sức mạnh tổng thể trên nền các lợi thế
đặc thù cả nước cũng như của từng ngành, địa phương.
2
Theo nghĩa đó, cách tiếp cận hệ thống động có một ý nghĩa quan trọng.
Theo lý thuyết hệ thống, tính gắn kết của các tiểu hệ thống tạo nên đặc trưng và
sức mạnh của đại hệ thống. Tuy nhiên, mỗi tiểu hệ thống có tính năng động của
nó và cần được tính tới trong các can thiệp vào hệ thống. Tính chất động trong
tiếp cận hệ thống động đòi hỏi các quốc gia cần tính tới yếu tố “thời” hay “thời
thế” của bối cảnh để thay đổi phương thức điều hành quốc gia theo cách “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động đến mỗi quốc
gia và toàn cầu với cường độ, tốc độ, phạm vi ngày càng gia tăng. Sự tác động
này không phải là sự tác động tuyến tính, tác động theo cấp số cộng mà là sự tác
động theo cấp số nhân, cấp số mũ. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra
nhiều câu hỏi lớn cho các quốc gia như: làm thế nào để phát triển thịnh vượng,
bền vững, người dân được thụ hưởng những thành quả tốt nhất từ phát triển,
không ai bị bỏ lại phía sau trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngoài công
nghệ thông tin, các lĩnh vực có sự đột phá mạnh mẽ hàng đầu còn bao gồm y
học, năng lượng, sinh học, môi trường,.... Chuyển đổi số trở thành xu hướng
chung được đẩy mạnh trong hầu hết các lĩnh vực như một nguồn động lực quan
trọng của phát triển. Các quốc gia trên thế giới đứng trước cơ hội hiếm có để bứt
phá. Cơ hội “nhảy vọt” về phát triển đang hiện hữu do mức độ tác động của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được đánh giá là cao hơn hàng trăm lần
so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.
Đại dịch COVID-19 đang tác động mạnh mẽ đến đời sống toàn cầu.
COVID-19 cũng tác động lên chuỗi giá trị toàn cầu thông qua các trung tâm của
chuỗi. Trong đại dịch COVID-19, các quốc gia chịu tác động nặng nề cũng là
các trung tâm của mạng sản xuất toàn cầu. Khi đại dịch bùng nổ, lan rộng, lây
nhiễm với nhiều biến thể, các biện pháp giãn cách xã hội được thực hiện ở
những cấp độ khác nhau, nhiều hoạt động sản xuất tạm dừng lại. Chuỗi cung
ứng bị đứt đoạn ảnh hưởng đến các hoạt động đầu tư, sản xuất, thương mại toàn
3
cầu, từ đó làm suy giảm tăng trưởng nền kinh tế thế giới nói chung và nhiều
quốc gia, khu vực nói riêng.
Xu thế toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế là một tất yếu khách quan, sự phát
triển của kinh tế thế giới tất yếu phải gắn với toàn cầu hóa, phân công lao động
quốc tế, lưu chuyển các nguồn lực phát triển. Tuy nhiên, quá trình này cũng
đang gặp phải những thách thức về khả năng trao đổi, kết nối. Dịch bệnh
COVID-19, chủ nghĩa dân tộc đã thúc đẩy các xu hướng bảo hộ thương mại,
chuyển dịch sản xuất từ ngoài nước về trong nước. Những giải pháp về công
nghệ chưa thể giải quyết được bài toán trao đổi, chia sẻ, hợp tác đúng nghĩa. Vì
vậy, các quốc gia sẽ không lựa chọn xu hướng phi toàn cầu hóa mà chuyển đổi
phương thức mô hình, toàn diện hơn, cẩn trọng hơn.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhận định:
“Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức
tạp, khó dự báo. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang
đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn,
xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt
hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế.
Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách
thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng
trước những thách thức lớn… Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái
nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc
gia, nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ
thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến
tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân
lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết
liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển
mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với
mọi quốc gia, dân tộc.
4
Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hoà bình, an ninh con người, thiên
tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng,
biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,... tiếp tục diễn biến phức
tạp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến
lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc,
tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn
ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hoà bình, ổn định, tự do, an ninh, an
toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn
nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hoà bình, ổn định,
thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn”1.
Bối cảnh trên đòi hỏi quản trị quốc gia, quản trị địa phương cần có cách
tiếp cận phù hợp, nhận diện được những tác động của bối cảnh quốc tế đến quốc
gia và đến các địa phương để từ đó xác định được tầm nhìn, mục tiêu, giải pháp
phù hợp cho sự phát triển bền vững của đất nước, sự trường tồn của quốc gia,
dân tộc.
2. Bối cảnh trong nước
Đất nước đã qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, 10 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Quy mô, trình độ phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước được nâng lên. Đây là động lực, nguồn lực quan
trọng để đất nước ta vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển nhanh, bền vững
trong những năm tới. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII đánh giá “Ở trong nước, sau
35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin
của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”2.
1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, trang
105- 107. 2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, trang
107.
5
Theo đó, "kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng
được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế
được nâng lên. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được
đặc biệt chú trọng, đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, được
tiến hành quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ
giữa "xây" và "chống". Sự thống nhất, phối hợp đồng bộ giữa Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường. Chính trị,
xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, kiên quyết,
kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ
đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Đặc biệt, trong năm 2020, đại dịch
Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội
và sự phát triển của đất nước, nhưng nhờ phát huy được sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết
liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng
ủng hộ của nhân dân, chúng ta đã từng bước kiểm soát thành công đại dịch
Covid-19; từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh và các hoạt động kinh tế - xã
hội; ổn định đời sống, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống
tốt đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta"3.
Vê kinh tế, “tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn
đạt khoảng 6%/năm (riêng năm 2020 tăng trưởng GDP vẫn đạt 2,91% là mức
tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới). Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình
quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỉ USD và thu nhập bình
quân đầu người đạt 2.779 USD/người). Chất lượng tăng trưởng được cải thiện,
3 Xem thêm: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021,
tập 1, trang 107.
6
năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 5,9%/năm giai
đoạn 2016 – 2020”4.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, kinh tế - xã hội phát triển vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước và còn nhiều khó khăn, thách
thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt gay gắt hơn. Nguy
cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn. Việc phát triển văn hóa, bảo
đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường; việc phát triển đồng bộ các
vùng, miền, địa phương trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng vẫn
còn nhiều hạn chế. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, mâu thuẫn
xã hội còn diễn biến phức tạp. Xu hướng già hóa dân số, đô thị hóa tăng nhanh;
biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng ngày càng lớn đến sự phát triển
đất nước. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững
môi trường hoà bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp
thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới.
3. Yêu cầu đặt ra đối với tầm nhìn phát triển đất nước
Tầm nhìn, theo nguyên nghĩa là khoảng cách xa nhất mà mắt có thể nhìn
thấy; nhưng trong lĩnh vực chính trị - xã hội, tầm nhìn được hiểu không chỉ là
khả năng nhìn xa về khoảng cách không gian, mà cả khoảng cách thời gian, là
năng lực tiên liệu được tương lai, xác định được tương lai muốn đạt đến một
cách có căn cứ, không phải là những điều viển vông, mơ mộng. Đó là năng lực
“nhìn xa, trông rộng”, năng lực phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình, dự báo,
xác định được tổ chức mình hay đất nước mình sẽ như thế nào trong tương lai.
Tương lai mà tầm nhìn xác định không phải là tương lai gần, ngắn trong một, hai
năm mà là tương lai xa, có khoảng cách thời gian dài có thể là 10, 20 năm, một
thời kỳ, một giai đoạn phát triển. Do đó, tầm nhìn thường gắn với chiến lược, là
tầm nhìn chiến lược; gắn với mục tiêu, là cơ sở, định hướng cho việc xác định
4 Xem thêm: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021,
tập 1, trang 61.
7
mục tiêu và các nhiệm vụ chiến lược cần phải thực hiện để đạt được tầm nhìn
đó. Tầm nhìn còn gắn với sứ mệnh, thể hiện mong muốn, niềm tin vào vai trò,
giá trị, ý nghĩa của sự tồn tại, phát triển tổ chức, đất nước mình trong tương lai.
Tầm nhìn là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu về năng lực,
phẩm chất của người lãnh đạo, của một đảng chính trị, nhất là đảng cầm quyền.
Tầm nhìn thể hiện lý tưởng phấn đấu, thể hiện mục tiêu cần đạt được, là cơ sở để
xác định nhiệm vụ, giải pháp thực hiện; để thống nhất tư tưởng, đoàn kết trong
Đảng, tập hợp, đoàn kết, cổ vũ, động viên mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân, các
lực lượng xã hội phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, gian khổ, hy sinh để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó. Yêu cầu
đặt ra với tầm nhìn là sự đúng đắn, chính xác của định hướng, mục tiêu đề ra,
phù hợp với lý tưởng của Đảng, tính chất, xu thế của thời đại, yêu cầu phát triển
của đất nước trong từng giai đoạn, có cơ sở, căn cứ khoa học, phù hợp với thực
tiễn, điều kiện của đất nước, khả thi, thể hiện khát vọng, ý chí quyết tâm phấn
đấu cao nhưng không chủ quan, duy ý chí.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đại
hội VII của Đảng thông qua năm 1991 (Cương lĩnh năm 1991) và Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm
2011) của Đảng đã đề ra tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước đến giữa thế kỷ
XXI và đến khi kết thúc (hoàn thành) thời kỳ quá độ lên CNXH. Tầm nhìn, mục
tiêu phát triển đất nước đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước là sự
kế thừa, cụ thể hóa tầm nhìn, mục tiêu do Cương lĩnh đề ra. Đây là vấn đề có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự phát triển của đất nước, là
cơ sở bảo đảm sự nhất quán, kết nối, kế thừa trong chủ trương, đường lối phát
triển đất nước của Đảng qua các kỳ Đại hội Đảng đến giữa thế kỷ XXI, bảo đảm
sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong đường lối phát triển đất
nước. Đây cũng là yêu cầu đặc biệt quan trọng trong bối cảnh tình hình thế giới
diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách chống phá sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa, xâm phạm quyền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của đất
8
nước ta; trong khi đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; thách thức trên con đường phát
triển của đất nước còn nhiều, không thể xem thường, chủ quan, dao động, mất
cảnh giác.
Sau hơn 35 năm đổi mới, con đường phát triển của đất nước ngày càng
được xác định cụ thể hơn, đầy đủ hơn. Quá trình toàn cầu hóa, cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, các quy luật phát triển cho phép, đồng thời đòi hỏi Việt
Nam phải xác định được tầm nhìn, phải định vị được quốc gia trên bản đồ thế
giới. Việt Nam xác định là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào
sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới thì
cần phải xác định đất nước sẽ ở đâu trong tương lai. Đó là tầm nhìn mà Việt
Nam cần hướng tới, không chỉ tạo ra động lực cho phát triển mà là một cam kết
về quyết tâm phát triển của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
Sự biến động của thế giới ngày nay càng đòi hỏi các quốc gia phải xác định
được hướng đi, đích đến. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang đưa
đến những cơ hội và những thách thức phát triển. Sự biến động của thế giới sẽ
tác động đến mỗi quốc gia và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Tầm
nhìn chiến lược là yêu cầu cần thiết để nước ta làm chủ vận mệnh, chủ động
trong việc xác định các kịch bản phát triển, ứng phó với biến động.
Lịch sử cho thấy, sự phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới luôn
là một hành trình với nhiều khó khăn, nhiều thách thức. Lịch sử phát triển của
nhân loại cũng cho thấy không có một mẫu hình chung cho mọi quốc gia, không
thể phát triển bằng những mô hình vay mượn, chắp vá mà phải đổi mới sáng tạo,
cần xác định được mục tiêu tương lai, có tầm nhìn chỉnh thể, hệ thống.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy, thiết lập được tầm nhìn dài
hạn, phù hợp là một trong những ngọn nguồn của thành công. Từ khi Đảng ra
đời ngày 3-2-1930, đất nước đã đạt được những cột mốc quan trọng. 30 năm đầu
từ 1930 - 1960, qua hai kỳ Đại hội của Đảng: Đại hội I (tháng 3-1935), Đại hội
9
II (tháng 2-1951), chúng ta giành chính quyền, tiến hành thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, từng bước tiến hành cuộc cách mạng dân
chủ; với ba kỳ Đại hội của Đảng, khoảng gần 30 năm từ 1960 - 1986, bắt đầu từ
Đại hội III (tháng 9-1960), Đại hội IV (tháng 12-1976), Đại hội V (tháng 3-
1982), nước ta hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất
đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; tròn 30 năm từ 1986 -
2016, tiến hành toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Tầm nhìn 30 năm từ 2016 - 2045, khi nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tròn 100 năm chính là cơ sở để Việt Nam tạo nên sự bứt phá
cho tương lai, hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
II. Quan điểm, tầm nhìn và mục tiêu phát triển đất nước
1. Quan điểm
Thứ nhất, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp
tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt
chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là
trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần;
bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Thứ ba, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng
nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ,
10
nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động
lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững.
Thứ tư, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc
lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế;
phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là
nguồn lực con người là quan trọng nhất.
Thứ năm, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai
cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn
với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành
công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
2. Tầm nhìn
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011) đề ra mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI “phấn đấu xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Không chỉ có tầm nhìn về phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI,
Cương lĩnh của Đảng còn có tầm nhìn về phát triển đất nước xa hơn, tới khi kết
thúc thời kỳ quá độ lên CNXH. Cương lĩnh xác định “Mục tiêu tổng quát khi kết
thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của
CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ
sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc”. Đồng thời, Cương lĩnh còn nêu ra 8 phương hướng cơ bản và 8 mối quan
hệ lớn cần phải quán triệt, thực hiện tốt để thực hiện thành công các mục tiêu trên.
Tám phương hướng cơ bản là: 1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; 2.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 3. Xây dựng nền
11
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; 4. Bảo đảm vững chắc
quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; 5. Thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; 6. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện
đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; 7.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; 8. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tám mối quan hệ lớn là: 1. Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; 2.
Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 3. Quan hệ giữa kinh tế thị
trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; 4. Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; 5.
Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội; 6. Quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; 7. Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 8. Quan hệ giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định 10 mối quan hệ: 1. Quan
hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; 2. Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị; 3. Giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; 4.
Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất XHCN; 5. Giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; 6. Giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường; 7. Giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; 8. Giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế; 9. Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ; 10. Giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ
cương xã hội.
Các quan điểm, tầm nhìn của Cương lĩnh là cơ sở để xác định tầm nhìn của
Đảng về phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI trong văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ XIII đến năm 2045, năm kỷ niệm 100 năm thành lập Nước.
12
3. Mục tiêu
Đối với nước ta, quán triệt quan điểm việc xác định mục tiêu phát triển đất
nước đến năm 2025, 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 là vừa phải quán triệt tư
tưởng của Cương lĩnh, kế thừa quan điểm của Đại hội các nhiệm kỳ trước, vừa
cần phải có những bổ sung cần thiết, phù hợp với bối cảnh đất nước hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng và khả năng của đất nước.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp
với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên thế giới, nhiều tổ chức đã đưa ra các tiêu chí và phân loại các nước
trên thế giới: Nước kém phát triển, nước đang phát triển, nước phát triển. Trong
các nước đang phát triển lại phân thành hai loại nước: i) Nước đang phát triển,
thu nhập trung bình thấp; ii) Nước đang phát triển, thu nhập trung bình cao.
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới công bố ngày 1-7-2020, những nước có
bình quân thu nhập dưới 4.035 USD/người là thu nhập trung bình thấp, từ 4.035
USD đến 12.535 USD/người là thu nhập trung bình cao, từ 12.535 USD trở lên
là thu nhập cao.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
thông qua mục tiêu: Ðến năm 2025: Thu nhập bình quân đầu người của nước ta
đạt khoảng 4.700 - 5.000 USD, đến năm 2030 khoảng 7.500 USD. Trên nguyên
tắc bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa và bổ sung, phù hợp với những
thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; đồng thời nghiên cứu,
tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực chung của thế giới,
13
Ðại hội XIII xác định mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, đến năm 2030
và năm 2045:
- Ðến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại,
vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Ðến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Ðảng: Là nước đang phát
triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Ðến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát
triển, thu nhập cao.
III. Định hướng và nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển đất nước giai
đoạn 2021 - 2030
1. Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2021 - 2025
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng
6,5 - 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000
USD; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity -
TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội
bình quân trên 6,5%/năm; tỉ lệ đô thị hoá khoảng 45%; tỉ trọng công nghiệp chế
biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP.
Về xã hội: Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao
động xã hội khoảng 25%; tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở
khu vực thành thị năm 2025 dưới 4%; tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 -
1,5% hằng năm; có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh/1 vạn dân; tỉ lệ tham gia bảo
hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt
tiêu chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông
thôn mới kiểu mẫu.
Về môi trường: Đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh
của dân cư thành thị là 95 - 100%, nông thôn là 93 - 95%; tỉ lệ thu gom và xử lý
chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; tỉ lệ khu
14
công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung
đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%; tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỉ lệ che phủ rừng ổn định 42%.
2. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021- 2030
Một là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể
chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường..., tháo
gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực,
tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Hai là, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân
bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tập trung xây
dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với
xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền
núi, vùng dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế
số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn kết hài hoà, hiệu quả
thị trường trong nước và quốc tế.
Ba là, tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc
đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số
ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng
trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu
vực và thế giới.
Bốn là, phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội
sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển
sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội
15
thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin,
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất
của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan
trọng nhất của đất nước.
Năm là, quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an
ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng
môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm
đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện
tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
Sáu là, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống
và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm,
hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân
dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi
trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ
sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi
trường.
Bảy là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,
an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ
cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa;
phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy
cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch.
Tám là, tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương
hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có
hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế,
uy tín quốc tế của Việt Nam.
16
Chín là, thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền
làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã
hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Mười là, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục
vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong
hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ
nạn xã hội.
Mười một là, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng
lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng,
lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng và công tác dân vận của Đảng.
Mười hai là, tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa
ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa
phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân
dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ
17
cương xã hội. Trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn, cần chú trọng hơn
đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
3. Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ 2021 - 20265
a. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh
đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích
nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng
đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ
phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó
của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
b. Tập trung kiểm soát đại dịch COVID-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin
COVID-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh
mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ
thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập;
phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành
phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả
doanh nghiệp trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát
triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực
để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là
5 Mục này được biên soạn theo tinh thần Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam về các nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII.
18
pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục
những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.
c. Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây
dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững
chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
d. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy
giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào
dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an
ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh
phúc của con người Việt Nam.
đ. Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát
huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững
mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước
hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa
của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức
chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn
dân tộc.
e. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ,
cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với
biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt.
IV. Những yêu cầu đặt ra và một số vấn đề cần quan tâm đối với phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương nhiệm kỳ 2021 - 2026
19
1. Những yêu cầu đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ
2021 -2026
a. Đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển dựa trên nền tảng khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo
Vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế là nội dung lớn,
chính thức được đề ra từ Đại hội XI. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-
2020 xác định nội dung đổi mới mô hình tăng trưởng cơ cấu lại nền kinh tế như
sau: “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng
sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa
chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại
nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các
vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng
nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh
nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế trí thức. Gắn phát triển kinh tế
với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh”6. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII
xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển
mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy khởi
nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng
ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản
phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia
có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu…Cơ cấu lại kinh tế
vùng, đổi mới thể chế liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng,
phát huy vai trò các vùng kinh tế động lực và các đô thị lớn, quan tâm phát triển
các vùng còn khó khăn, thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng”7.
6 Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, trang 107.
7 Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tập 1, trang 120-122.
20
Trong những năm qua, tuy có độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng GDP tính
bình quân/ người của Việt Nam vẫn còn thấp. Trên thực tế, một phần lợi thế của
Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là từ giá lao động rẻ, nguồn xuất khẩu các sản
phẩm nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên. Song những lợi thế này đang giảm
dần, cả nước và các địa phương phải tìm ra động lực phát triển mới đó là năng
suất lao động, công nghệ mới và lợi thế về địa lý. Chính vì vậy, tư duy đổi mới
sáng tạo, phát triển dựa trên năng suất nhân tố tổng hợp cần được chú trọng.
Trên phạm vi cả nước, tập trung ưu tiên phát triển lợi thế sản xuất nông
nghiệp và lợi thế về tài nguyên con người, trước hết hướng vào các ngành kinh
tế dịch vụ; tạo ra được sự gắn kết giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ trong quá trình phát triển. Tập trung phát triển công nghiệp ở các địa bàn
thuận lợi cho công nghiệp. Đối với các vùng có lợi thế sản xuất nông nghiệp cần
đầu tư về cơ sở hạ tầng và phát triển dịch vụ, tạo nền tảng căn bản phục vụ phát
triển sản xuất nông nghiệp, trước hết là giao thông, thủy lợi, năng lượng, hình
thành hệ thống các viện nghiên cứu, các trường đại học có chất lượng cao. Đầu
tư hình thành các cụm công nghiệp và dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp để
bố trí các cơ sở công nghiệp phục vụ nông nghiệp tại các vùng chuyên canh
nông nghiệp.
Việc lựa chọn các dự án đầu tư phát triển công nghiệp được đặt trong tầm
nhìn dài hạn, chiến lược, dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, tiên tiến để tránh
trở thành bãi thải công nghệ lạc hậu trong tương lai.
Phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hướng đến phát triển bền
vững, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, trong đó sinh kế của người dân là
một vấn đề cần được chú trọng quan tâm giải quyết. Với mục tiêu xóa đói, giảm
nghèo, việc tận dụng mọi nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển là một yêu cầu
cấp thiết. Việc sử dụng công nghệ cao trong sản xuất, giảm lượng phát khí thải
trong sản xuất là điều kiện cần cho tăng trưởng xanh nhưng là vấn đề khó do đòi
hỏi cao về nguồn lực đầu tư. cần được quan tâm một cách hợp lý trong quá trình
hoạch định, thực thi chính sách không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn cả ở phạm
21
vi địa phương. Tuy nhiên, người dân trong không ít trường hợp thường quan tâm
đến việc nguồn thu nhập có được hơn là tạo được nguồn thu đó như thế nào, ảnh
hưởng như thế nào đến môi trường. Chính vì vậy, giải quyết sinh kế và thu nhập
của người dân cần phải được đặt ra trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng
trưởng xanh ở các địa phương.
Trong dài hạn, đầu tư vào tăng trưởng xanh sẽ cải thiện hiệu quả kinh tế và
tăng tổng lượng của cải trên toàn cầu. Mặt khác sự đầu tư đó sẽ đem lại hiệu quả
trong việc phục hồi các nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo, giảm thiểu những
rủi ro môi trường và tái thiết sự thịnh vượng cho tương lai. Tuy nhiên, do nguồn
vốn đầu tư từ NSNN có mức độ, nên để có đủ nguồn vốn đầu tư vào tăng trưởng
xanh, cần huy động rộng rãi các nguồn lực đầu tư từ xã hội thông qua các cơ chế
khuyến khích về đầu tư công nghệ.
Kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản
xuất, dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động
tiêu cực đến môi trường. Theo Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp quốc
(UNIDO), nền kinh tế tuần hoàn là một chu trình sản xuất khép kín, các chất thải
được quay trở lại, trở thành nguyên liệu cho sản xuất, từ đó giảm mọi tác động
tiêu cực đến môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe con người. Theo Ellen
MacArthur Foundation (2012), định nghĩa về kinh tế tuần hoàn được nhiều quốc
gia và các tổ chức quốc tế thừa nhận rộng rãi hiện nay là “một hệ thống có tính
khôi phục và tái tạo thông qua các kế hoạch và thiết kế chủ động. Nó thay thế
khái niệm “kết thúc vòng đời” của vật liệu bằng khái niệm khôi phục, chuyển
dịch theo hướng sử dụng năng lượng tái tạo, không dùng các hóa chất độc hại
gây tổn hại tới việc tái sử dụng và hướng tới giảm thiểu chất thải thông qua việc
thiết kế vật liệu, sản phẩm, hệ thống kỹ thuật và cả các mô hình kinh doanh
trong phạm vi của hệ thống đó”.
Để phát triển kinh tế tuần hoàn, mô hình tăng trưởng kinh tế chiều sâu cần
được triển khai, trong đó, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào, áp dụng khoa
học công nghệ vào các ngành, đặc biệt là xử lý rác thải để tái tạo nguyên liệu
mới. Quy định lộ trình thay thế các nhiên liệu, sản phẩm sử dụng nguyên liệu
22
nguy hại, sản phẩm sử dụng một lần bằng các nhiên liệu, nguyên liệu thân thiện
với môi trường, sản phẩm sử dụng nhiều lần, kéo dài thời gian sử dụng hữu ích
của sản phẩm.
b. Phát huy có hiệu quả các động lực nội tại phục vụ tăng trưởng và phát
triển bền vững
Các động lực nội tại phục vụ tăng trưởng và phát triển bền vững, trong đó
văn hóa là "nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc…"8, con người "giữ vị trí trung tâm trong chiến
lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của công cuộc đổi mới;…"9, đại đoàn kết toàn dân tộc "là nguồn sức
mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp cách mạng ở Việt Nam"10.
Cần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc. Yêu nước là truyền thống quý báu, là hệ giá trị nổi bật của dân tộc
Việt Nam. Lòng yêu nước là nguồn lực nội sinh của cộng đồng dân tộc. Trong
chiến tranh, yêu nước được thể hiện qua tinh thần đấu tranh chống kẻ thù xâm
lược, tinh thần quật khởi, ý chí quật cường bất khuất, chống lại sự xâm lược, đô
hộ, đồng hóa của ngoại bang để bảo vệ độc lập dân tộc và biên cương của Tổ
quốc. Ngày nay, yêu nước gắn liền với yêu CNXH, phát huy cao độ ý chí tự lực,
tự cường, vượt qua khó khăn, thử thách, hợp tác trong lao động, sản xuất; sáng
tạo, nỗ lực trong khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh
phúc, xây dựng thành công CNXH, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh. Để phát huy cao độ lòng yêu nước cần phải
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chỉ có đoàn kết sâu, rộng mới tập hợp
được sức mạnh của quần chúng nhân dân trong xây dựng và kiến thiết đất nước.
8 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 16/5/2021. 9 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 16/5/2021. 10
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 16/5/2021.
23
Khơi dậy khát vọng phát triển ở mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi làng xóm,
mỗi địa phương và ở quy mô quốc gia. Khát vọng phát triển chỉ có ý nghĩa khi
khát vọng ấy biến thành những hành động, những việc làm cụ thể ở mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng. Vì vậy, nguồn lực con người, tài nguyên con người là tài nguyên
quan trọng nhất, quyết định nhất, bền vững nhất trong thời đại ngày nay. Điều
này đòi hỏi, giáo dục và đào tạo thực chất, gắn với thực học, thực tài để con
người Việt Nam thực sự có đủ tri thức, sức khỏe, bản lĩnh, kỹ năng để làm việc
trong môi trường quốc tế.
Một động lực phát triển quan trọng của Việt Nam trong thời đại ngày nay là
sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Từ một quốc gia kém phát triển, Việt Nam đã
từng bước vươn lên, khẳng định uy tín, vai trò, vị thế của mình trên trường quốc
tế. Từ một nước nghèo nàn và lạc hậu, Việt Nam đã tích cực hội nhập quốc tế,
được thế giới ghi nhận như hình mẫu phát triển kinh tế - xã hội. Với việc ngày
càng khẳng định được vị thế trên trường quốc tế thì cần khai thác và thực hiện
hiệu quả hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo ra động lực cho
tăng trưởng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh của
thời đại là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự tăng trưởng nhanh và bền vững của
đất nước trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
c. Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thị làm
động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới
Đẩy nhanh tốc độ, nâng cao chất lượng đô thị hóa và kinh tế đô thị. Xây
dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển hệ thống đô thị hài hòa, phù hợp với
tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương.
Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới theo hướng gắn với đô thị hóa, bảo đảm thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu
quả, bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, đem lại sự chuyển biến tích
cực rõ nét hơn về nếp sống tới từng thôn, bản, ấp, hộ gia đình và cuộc sống trực
tiếp của mỗi người dân sinh sống ở nông thôn. Thực hiện xây dựng nông thôn
mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn,
24
bản. Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, kết nối chặt chẽ xây dựng
nông thôn mới với quá trình đô thị hóa. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu
tư vào khu vực nông thôn để xây dựng liên kết theo chuỗi giá trị; đẩy mạnh thực
hiện Chương trình "mỗi xã một sản phẩm" gắn với xây dựng thương hiệu, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Tập trung xử lý ô nhiễm môi
trường, nhất là rác thải, nước thải. Tích hợp một số chương trình đầu tư đang
triển khai trên địa bàn nông thôn vào Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới.
d. Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bền vững, bao trùm,
nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Đổi mới thực chất cách tiếp cận trong giảm
nghèo bằng các chính sách hỗ trợ có điều kiện, giảm hỗ trợ cho không, khơi dậy
ý chí chủ động vươn lên tự thoát nghèo; hạn chế bất bình đẳng xã hội. Khuyến
khích làm giàu theo pháp luật, phát triển mạnh tầng lớp trung lưu gắn với nâng
cao trách nhiệm xã hội. Tập trung giải quyết cơ bản nhu cầu về nhà ở cho người
dân, bổ sung cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển mạnh mẽ nhà ở xã hội; bố trí
hợp lý khu dân cư và hỗ trợ phát triển nhà ở cho người dân tại các vùng thường
xuyên chịu tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu.
e. Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Vấn đề bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cần
được đặt ra như một biến số quan trọng trong việc bảo đảm môi trường cho phát
triển. Các thách thức của các vấn đề an ninh phi truyền thống trong giai đoạn
ngày nay ngày càng gay gắt, diễn ra đa dạng ở các địa bàn. An ninh, quốc
phòng, trật tự, an toàn xã hội là vấn đề không chỉ ở tầm quốc gia mà là vấn đề cụ
thể ở mỗi địa phương. Vì vậy, quá trình phát triển kinh tế - xã hội luôn phải gắn
kết với yêu cầu an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội.
25
Vấn đề bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ không chỉ cần
đặt ra đối với các địa phương có đường biên giới, có vùng biển mà là vấn đề
chung ở mọi địa phương. Chủ quyền quốc gia ngày nay không chỉ là chủ quyền
ở vùng đất liền, vùng biển, vùng trời mà còn là chủ quyền trên không gian mạng,
chủ quyền mở rộng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội như chủ
quyền về văn hóa. Công nghệ ngày càng phát triển khiến cho việc thực hiện các
chức năng vốn có của nhà nước đối với các đối tượng quản lý trên phạm vi lãnh
thổ quốc gia mình ngày càng trở nên ít rõ ràng hơn. Các thông tin quản lý, các
dữ liệu quản lý nếu không được quản lý, bảo mật có thể là công cụ để lợi dụng,
phá hoại cho định hướng phát triển của quốc gia, của các địa phương.
2. Một số vấn đề cần quan tâm đối với phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương nhiệm kỳ 2021 – 2026
a. Thiết lập tầm nhìn của địa phương trong tầm nhìn chung của quốc gia
Tầm nhìn phát triển của địa phương giúp làm rõ điểm xuất phát, lợi thế so
sánh của địa phương, các xu thế phát triển của kinh tế - xã hội quốc gia, vùng và
các địa phương để có định hướng phát triển đúng. Tầm nhìn phát triển của địa
phương bên cạnh bảo đảm tính thực tiễn, tính khả thi thì cần có kế hoạch để thực
hiện tầm nhìn, trong đó cần khắc phục các điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Một
số điểm nghẽn cản trở sự phát triển của địa phương có thể là: hệ thống kết cấu
hạ tầng (giao thông, công nghệ thông tin, cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục, y
tế, khoa học và công nghệ…), chất lượng nguồn nhân lực, năng lực của một bộ
phận cán bộ, công chức, các vấn đề khai thác đúng lợi thế của địa phương.
b. Đổi mới công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Thực hiện quy hoạch tích hợp các ngành, lĩnh vực phát triển, bảo đảm sự
đồng bộ, thống nhất giữa các quy hoạch, khắc phục vụ sự chồng chéo về quy
hoạch, thiếu sự đồng bộ giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ, giữa quy
hoạch trung ương và địa phương; bảo đảm tầm nhìn dài hạn trong việc xây dựng
quy hoạch, tạo ra không gian phát triển bền vững.
Quá trình xây dựng quy hoạch phát triển tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương được đặt trong tầm nhìn của vùng, quốc gia, khu vực và thế giới. Vì vậy,
26
cần thiết có sự chủ động tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương trong quá trình xây dựng quy hoạch, bảo
đảm phát huy đúng lợi thế so sánh của mỗi địa phương để giúp quy hoạch phát
triển kinh tế- xã hội của các địa phương được thiết lập, tổ chức thực hiện có hiệu
quả.
Văn kiện Đại hội XIII đã yêu cầu “Nâng cao chất lượng quy hoạch vùng;
đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý vùng có hiệu quả, phát huy tốt nhất tiềm
năng, lợi thế của từng vùng, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng
và giữa các vùng”11
.
Các định hướng phát triển trong xây dựng kế hoạch đã được Đảng ta xác
định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 làm cơ sở
cho việc xây dựng quy hoạch không gian phát triển cho các địa phương, đó là:
- Vùng trung du và miền núi phía Bắc: Phát huy các lợi thế về tài nguyên
rừng, khoáng sản, các cửa khẩu, văn hóa dân tộc đặc sắc, đa dạng và tiềm năng
phát triển du lịch, dịch vụ... Tập trung bảo vệ, khôi phục rừng, nhất là rừng đầu
nguồn. Đẩy mạnh trồng rừng, phát triển lâm nghiệp bền vững, cây công nghiệp,
cây ăn quả, cây đặc sản, cây dược liệu, chăn nuôi gia súc gắn với công nghiệp
chế biến nông, lâm sản. Phát triển hiệu quả các cơ sở khai thác gắn với chế biến
sâu các loại khoáng sản. Chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái; bảo vệ và sử
dụng có hiệu quả nguồn nước các hồ, đập để điều tiết nước sản xuất và sinh
hoạt. Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng liên kết nội vùng và với vùng đồng
bằng sông Hồng, Thủ đô Hà Nội.
- Vùng đồng bằng sông Hồng: Đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo, kinh tế số xã hội số. Tập trung phát triển một số ngành sản
xuất công nghiệp và dịch vụ hiện đại: Điện tử, sản xuất phần mềm, trí tuệ nhân
tạo, sản xuất ô tô, công nghiệp phụ trợ, các dịch vụ thương mại, logistics, ngân
hàng, tài chính, du lịch, viễn thông, y tế chuyên sâu. Mở rộng phát triển nông
nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch. Thúc đẩy mạnh mẽ các trung tâm đổi
11
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tập 1, trang 127.
27
mới sáng tạo. Tập trung xây dựng các trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao. Đẩy mạnh đô thị hóa gắn với phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đô thị, kết nối đô thị. Xây dựng Thủ đô Hà Nội trở
thành đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn. Tiếp tục xây
dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển, là cửa
ngõ của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gắn với cảng cửa ngõ quốc tế Lạch
Huyện.
- Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: Tập trung phát triển mạnh
kinh tế biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển, nhất là đánh
bắt và nuôi trồng hải sản xa bờ. Cơ cấu lại nông, lâm nghiệp, khai thác, nuôi
trồng thủy, hải sản gắn với công nghiệp chế biến, bảo đảm bền vững và hiệu quả
cao. Nâng cao hiệu quả phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp lọc hóa dầu,
luyện kim, sản xuất, lắp ráp ô tô. Phát triển nhanh, đồng bộ năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo. Tăng cường liên kết vùng, tiếp tục hình thành, phát triển hệ
thống đô thị ven biển, các trung tâm du lịch biển, du lịch sinh thái mang tầm khu
vực và quốc tế.
- Phát huy hiệu quả các hành lang kinh tế Đông - Tây; phát triển các cảng
biển và dịch vụ cảng biển, hạ tầng và các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá.
Nâng cao năng lực phòng, chống, giảm thiểu thiệt hại của thiên tai, bão lũ, hạn
hán; chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, chống sa mạc hóa, sạt lở
bờ sông, bờ biển.
- Vùng Tây Nguyên: Nâng cao hiệu quả các diện tích cây công nghiệp, cây
dược liệu, hình thành các chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến, bảo quản và
phân phối, xây dựng thương hiệu sản phẩm trên thị trường quốc tế. Chú trọng
khôi phục và phát triển kinh tế rừng. Phát triển năng lượng tái tạo. Phát triển các
trung tâm du lịch lớn, hình thành các tuyến du lịch chuyên đề đặc thù vùng Tây
Nguyên. Phát triển nguồn nhân lực, ổn định dân cư, ưu tiên bảo tồn và khôi phục
các giá trị truyền thống, bản sắc của các dân tộc vùng Tây Nguyên. Xây dựng
đường bộ cao tốc và nâng cấp mạng lưới giao thông nội vùng, các tuyến kết nối
các tỉnh Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, ven biển Nam Trung Bộ với Nam Lào
28
và Đông Bắc Campuchia. Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trong mọi tình huống.
- Vùng Đông Nam Bộ: Là vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao. Tập trung phát triển mạnh khoa học, công nghệ và hệ sinh thái đổi
mới sáng tạo, đi đầu trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng, xây dựng kinh tế số,
xã hội số, sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, công nghiệp chế biến, chế tạo; tài
chính ngân hàng, bất động sản. Nâng cao khả năng kết nối hạ tầng vùng, tạo
động lực liên kết, lan tỏa thúc đẩy hợp tác và phát triển với đồng bằng sông Cửu
Long qua các hành lang N1, N2, cao tốc Bắc - Nam, quốc lộ 50; với Tây
Nguyên qua cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Đà Lạt; với Nam Trung Bộ qua
cao tốc Bắc - Nam và quốc lộ 55. Phát triển chuỗi công nghiệp - đô thị Mộc Bài
- Thành phố Hồ Chí Minh - Cảng Cái Mép - Thị Vải gắn với hành lang kinh tế
xuyên Á. Thúc đẩy phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài
chính quốc tế. Tập trung phát triển cảng biển container Cái Mép - Thị Vải thực
sự trở thành cảng trung chuyển quốc tế. Nghiên cứu xây dựng thành phố sân bay
cửa ngõ quốc tế Long Thành.
- Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Tập trung vào sản xuất nông nghiệp
hàng hóa, hiện đại, quy mô lớn; nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp hiệu quả cao,
tối ưu hóa về giá trị nông nghiệp; phát triển công nghệ về giống, công nghiệp
chế biến, bảo quản nông sản, thủy sản; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ và
xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, xây dựng mạng
đô thị vùng tạo động lực cho phát triển. Phát triển năng lượng tái tạo, năng
lượng sạch. Thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu nông nghiệp phù
hợp với từng vùng sinh thái, chủ động thích ứng, thực hiện hiệu quả các dự án
ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; giải quyết vấn đề sạt lở bờ sông,
bờ biển, sụt lún, hạn mặn; xây dựng chiến lược tổng thể bảo vệ và sử dụng bền
vững nguồn nước sông Mê Kông. Sớm hoàn thành, đưa vào sử dụng đường cao
tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ; nghiên cứu, xây dựng một số tuyến đường bộ cao tốc
như Cần Thơ - Cà Mau, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Hà Tiên - Rạch Giá -
Bạc Liêu... Tập trung xây dựng phát triển Phú Quốc thành trung tâm dịch vụ, du
29
lịch sinh thái biển mạnh mang tầm quốc tế, kết nối với các trung tâm kinh tế lớn
trong khu vực và thế giới.
Với các địa phương có vùng biển, có điều kiện phát triển kinh tế biển, cần
bảo đảm phát triển bền vững kinh tế biển phù hợp với các chuẩn mực quốc tế,
kiểm soát khai thác tài nguyên biển, phục hồi hệ sinh thái biển, gắn liền với bảo
đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.
c. Xây dựng kịch bản phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn
Tác động của dịch bệnh COVID-19 đến thế giới và mỗi quốc gia sẽ còn lâu
dài. Vì vậy, các liệu pháp chính sách cần được thực hiện linh hoạt để thích ứng
với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Nhìn nhận toàn diện hiện trạng kinh tế -
xã hội trong bối cảnh tác động của dịch COVID-19 để có lộ trình phù hợp. Kịch
bản tăng trưởng không phải chỉ có một mà cần có nhiều kịch bản tăng trưởng,
dự liệu các vấn đề để đạt được mục tiêu đề ra. Cần khu biệt được tác động của
COVID-19 đến từng ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, từng địa phương để
có các chính sách phù hợp. Sự tác động của dịch bệnh COVID-19 cũng đặt ra
những vấn đề liên quan đến thể chế, thể chế cần dự liệu được các tình huống bất
thường, các khó khăn để có giải pháp giảm sốc hiệu quả.
d. Thực hiện chuyển đổi số và phát triển kinh tế số
Chuyển đổi số là phương tiện, là công cụ cho phát triển, gia tăng kết nối, cơ
hội phát triển. Ở cấp độ quốc gia, chuyển đổi số gắn liền với chính phủ số, kinh
tế số và xã hội số quốc gia. Ở cấp độ địa phương, chuyển đổi số gắn liền với sự
chuyển đổi sang chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trên địa bàn của địa
phương. Chuyển đổi số sẽ tác động toàn diện vào đời sống kinh tế - xã hội, tạo
động lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng, góp phần nâng cao năng suất lao
động, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của các địa
phương.
Để chuyển đổi số các địa phương cần phải có nền tảng hạ tầng, dữ liệu, các
vấn đề về an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu, khả năng kết nối, sự sẵn sàng từ
các chủ thể từ người cung ứng, người sử dụng, người quản lý… Vì vậy, chuyển
30
đổi số cần có trọng tâm, trọng điểm và có bước đi phù hợp để bảo đảm tính kết
nối.
Chuyển đổi số tạo động lực cho kinh tế số. Kinh tế số là nền kinh tế vận
hành chủ yếu dựa trên nền tảng số, đặc biệt là các giao dịch điện tử trên môi
trường Internet. Kinh tế số không chỉ thúc đẩy sự tăng trưởng mà còn tạo ra sự
thay đổi về diện mạo của nền kinh tế ở góc độ cấu trúc kinh tế và phương thức
sản xuất. Tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW đặt
mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20% GDP, phát triển
được một cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh. Vì vậy, ở
cấp độ quốc gia và mỗi địa phương, phát triển kinh tế số là mục tiêu, là động
lực, đồng thời cũng là nhiệm vụ để tạo ra động lực mới trong phát triển.
Để phát triển kinh tế số, nước ta cần phải vượt qua không ít thách thức,
trong đó, có thách thức về thể chế. Dù khuôn khổ pháp lý có những bước tiến
nhất định với nhiều luật (như Luật Giao dịch điện tử (2005), Luật Công nghệ
thông tin (2006), Luật Tần số vô tuyến điện (2009), Luật An ninh mạng
(2018)…), tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục rà soát, chỉnh sửa,
bổ sung để hoàn thiện như về giao dịch số, chứng từ số, thương mại điện
tử…cũng như sự chuẩn bị về hạ tầng kỹ thuật, nhân lực. Việt Nam là một trong
những quốc gia có chỉ số an toàn an ninh thông tin chưa cao, đặc biệt là ở khối
doanh nghiệp và thách thức về nhân lực khi nhân lực công nghệ thông tin - nhân
tố quan trọng nhất trong cạnh tranh và phát triển kinh tế số, còn ít về số lượng,
chưa bảo đảm về chất lượng. Ở các địa phương, các vùng nông thôn, thách thức
này càng lớn hơn, cần có quyết tâm lớn, sự nỗ lực trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện.
đ. Phối hợp giải quyết có hiệu quả các vấn đề vùng và liên vùng trong phát
triển
Trong thời gian qua các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã nỗ lực rất
lớn, tận dụng hết mọi tiềm năng sẵn có cùng với sự hỗ trợ từ trung ương để tập
trung đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chú trọng đến phát triển công nghiệp
và bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, các liên kết, sự
31
phối hợp giữa các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương trong vùng có lúc chưa
đồng bộ, chặt chẽ, chưa tạo được sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các địa phương để phát
huy lợi thế chung của vùng trong phát triển kinh tế; sự phân công lao động trong
phạm vi vùng chưa sâu; nhiều doanh nghiệp trong vùng có quy mô nhỏ, chưa kết
nối được thành hệ thống/chuỗi sản xuất…
Vì vậy, sự phối hợp giữa các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương khi giải
quyết các vấn đề vùng và liên vùng là rất quan trọng, với một số nội dung như:
- Vấn đề liên vùng về kinh tế: thông thường yêu cầu về xử lý kết nối không
gian, hành lang kinh tế, hạ tầng sản xuất kinh doanh; liên kết khai thác, sử dụng
các yếu tố đầu vào, đầu ra (nguyên liệu, lao động, công trình khai thác sản xuất,
dịch vụ, thị trường tiêu thụ,…) cho phát triển ngành sản xuất kinh doanh; liên
kết phát triển chuỗi cung ứng sản phẩm, phát triển cụm ngành, khu kinh tế, khu
công nghiệp, khu dịch vụ; liên kết khai thác, sử dụng hợp lý hiệu quả nguồn tài
nguyên, nguồn lực có phạm vi liên vùng, được sử dụng cho khai thác chung liên
vùng (sông lớn chảy liên vùng, mặt nước biển,… cơ sở hạ tầng, dịch vụ có chức
năng liên vùng, quốc lộ,…).
- Vấn đề liên vùng về xã hội, dân cư, lao động: xử lý yêu cầu về phát triển,
khai thác, sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục đào
tạo,…) cấp vùng, liên tỉnh trong và ngoài vùng quy hoạch; liên kết phát triển
chuỗi cung ứng dịch vụ xã hội liên vùng; xử lý vấn đề di dân, di chuyển lao
động, tái định cư; kết nối phân bố hợp lý không gian dân cư, kết nối hạ tầng
phục vụ đời sống sinh hoạt các khu vực dân cư giữa vùng quy hoạch với các
vùng lân cận xung quanh.
- Vấn đề liên vùng về môi trường, ứng phó thiên tai, các vấn đề an ninh phi
truyền thống: xử lý yêu cầu về kết nối, liên kết xây dựng, khai thác, sử dụng hệ
thống công trình phòng chống ô nhiễm môi trường, hành lang, vành đai bảo vệ
môi trường, ứng phó thiên tai, biến đổi khí hậu giữa trong và ngoài vùng; kết nối
bố trí hợp lý không gian/khu vực bảo vệ, bảo tồn tài nguyên, môi trường sinh
thái; liên kết bảo vệ, bảo tồn nguồn tài nguyên phân bố xuyên các vùng, được sử
dụng cho khai thác chung liên vùng.
32
Các vấn đề an ninh phi truyền thống hiện nay cần được giải quyết không
chỉ ở cấp độ quốc gia mà phải giải quyết trên nhiều cấp độ mà trước hết ở các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. HĐND các cấp, trong đó, có cấp tỉnh
không chỉ giải quyết các vấn đề cấp thiết mang tính ngắn hạn mà còn phải giải
quyết các vấn đề có tính dài hạn, tác động trực tiếp đến triển vọng phát triển ổn
định và bền vững của địa phương. Trong định hướng phát triển của địa phương,
các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống cụ thể, gắn với địa phương
phải được dự liệu và có giải pháp chủ động ứng phó.
- Vấn đề liên vùng giải quyết đa mục tiêu: thông thường xử lý yêu cầu về
kết nối xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật liên vùng (giao thông, cấp điện, cấp
nước,…); kết nối không gian đô thị giữa trong và ngoài vùng quy hoạch; liên kết
khai thác, sử dụng hệ thống cơ sở hạ tầng dịch vụ có chức năng liên tỉnh, liên
vùng, quốc tế (sân bay, cửa khẩu,…); liên kết xây dựng, phát triển kinh tế - xã
hội khu vực giáp ranh giữa vùng quy hoạch và các vùng lân cận xung quanh (có
phạm vi ranh giới thuộc vùng quy hoạch và vùng tiếp giáp với vùng quy hoạch).
e. Thực hiện có hiệu quả vai trò, trách nhiệm quyết định các vấn đề phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Bảo đảm vai trò quyết định các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương của HĐND các cấp nói chung, HĐND cấp tỉnh nói riêng thông qua
quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hằng năm
của tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương; quy hoạch, kế hoạch phát triển các
ngành, lĩnh vực trên địa bàn trong phạm vi được phân quyền, quyết định chủ
trương đầu tư, chương trình dự án của tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương
theo quy định của pháp luật; quyết định chủ trương, biện pháp cụ thể để khuyến
khích, huy động các thành phần kinh tế tham gia cung cấp các dịch vụ công trên
địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật; quyết định các biện pháp khác để phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn theo quy định của pháp luật… HĐND cấp tỉnh
cần thiết lập có hiệu quả tầm nhìn phát triển của địa phương thông qua các nghị
quyết, thông qua việc giám sát thực hiện các nghị quyết, giám sát việc thực hiện
các quy hoạch, kế hoạch phát triển.
33
g. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn.
Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm
minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay
cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, không có
vùng cấm, không có ngoại lệ. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ
chức, hành chính, kinh tế, hình sự.
Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo
sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt
của người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương; kiên trì giáo
dục, rèn luyện đức tính liêm khiết, xây dựng văn hoá tiết kiệm, không tham
nhũng, lãng phí, trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người
đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch; cơ
chế bảo vệ, khuyến khích những người làm công tác kiểm tra, giám sát, phát
hiện, xử lý tham nhũng cũng như với người tố cáo, tích cực đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí, đồng thời xử lý nghiêm những người lợi dụng chống tham
nhũng, lãng phí để vu khống, gây mất đoàn kết nội bộ; kiểm soát có hiệu quả tài
sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo,
quản lý; đẩy mạnh thực hiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ
án tham nhũng, lãng phí; kiên quyết thu hồi tài sản tham nhũng; kịp thời xử lý,
thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý khi có biểu hiện tham nhũng, lãng phí; xử lý
nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân, doanh
34
nghiệp. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, bảo đảm liêm chính, trong
sạch, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức
năng phòng, chống tham nhũng và các cơ quan tham mưu cho cấp uỷ lãnh đạo,
chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng. Từng bước mở rộng phạm vi phòng,
chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước, mở rộng và nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Phát huy vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính
trị - xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu quả phát hiện và xử lý tham nhũng,
lãng phí.
35
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Bối cảnh thế giới, trong nước hiện nay đặt ra những yêu cầu gì đối với
của HĐND và đại biểu HĐND cấp tỉnh? Liên hệ với cá nhân đại biểu HĐND.
2. Phân tích thời cơ, thách thức, lợi thế so sánh của tỉnh/thành phố trực
thuộc trung ương nơi đại biểu HĐND công tác.
3. Trách nhiệm của HĐND và đại biểu HĐND cấp tỉnh trong việc góp
phần hiện thực hóa tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước (được xác định trong
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng) và của địa
phương (được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh/thành phố trực
thuộc trung ương nhiệm kỳ 2020-2025 nơi đại biểu HĐND công tác?).
4. Những vấn đề cần quan tâm đối với phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi đại biểu HĐND công tác).
36
TÀI LIỆU THAM KHẢO DÀNH CHO HỌC VIÊN
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021.
2. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản điện tử ngày
16/5/2021.
3. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2019).
4. Nghị quyết của Quốc hội khóa XV về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
và hằng năm.
5. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương,
nhiệm kỳ 2020 - 2025 (nơi cá nhân đại biểu HĐND công tác)
6. Chương trình hoạt động của HĐND tỉnh/thành phố trực thuộc trung
ương nhiệm kỳ 2020 - 2025 (nơi cá nhân đại biểu HĐND công tác).
7. Nghị quyết của HĐND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương về phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm (nơi cá nhân đại biểu HĐND công tác).
37
Chuyên đề 2
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VÀ
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
I. Khái quát về chính quyền địa phương
1. Khái niệm, đặc điểm chung của chính quyền địa phương
a. Khái niệm chính quyền địa phương
Địa phương là một phạm trù không gian lãnh thổ gắn với những đặc điểm
về điều kiện tự nhiên, sự phát triển kinh tế, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán
và lối sống của con người.
Tùy thuộc vào mô hình tổ chức chính quyền địa phương (CQĐP) ở mỗi
quốc gia khác nhau mà có các hình thức tổ chức CQĐP phù hợp, nhưng nhìn
chung CQĐP được lập ra. Đặc điểm chung của việc thiết kế tổ chức CQĐP trên
thế giới là vừa đảm bảo sự thống nhất của quốc gia, vừa đảm bảo thực hiện một
cách tốt nhất quyền lợi của dân cư địa phương.
Xét về tính chất pháp lý, CQĐP được nhìn nhận trên hai phương diện có
quan hệ gắn bó với nhau:
Phương diện thứ nhất, CQĐP là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước ở
địa phương. Điều này có nghĩa, trong quan hệ quyền lực nhà nước thống nhất,
CQĐP là một cấu trúc quyền lực có tính bộ phận trong hệ thống cơ quan nhà
nước thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ xuất phát từ tính thống nhất của quyền lực
nhà nước (tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân).
Phương diện thứ hai, CQĐP không chỉ là thiết chế đại diện cho quyền lực
nhà nước ở địa phương mà còn thiết chế đại diện cho lợi ích, ý chí, nguyện vọng
của các cộng đồng dân cư trong phạm vi địa phương. Do vậy, CQĐP ở mỗi đơn
vị hành chính - lãnh thổ còn là hình thức tổ chức thực hiện dân chủ của nhân dân
địa phương trong một phạm vi lãnh thổ cụ thể.
Xét một cách tổng quát, CQĐP có hai chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, chức năng thực hiện quyền hành pháp ở địa phương, quản lý dân
cư trong lãnh thổ
38
Là trung tâm tổ chức thực hiện pháp luật và các quyết định quản lý nhà
nước của các cơ quan nhà nước cấp trên tại địa bàn quản lý của mình, CQĐP
đưa quyền lực nhà nước vào hoạt động hàng ngày của địa phương, quản lý toàn
diện (hoặc gần như toàn diện, trừ những mặt không được phân quyền, phân cấp,
ủy quyền) các quá trình xã hội diễn ra trên địa bàn lãnh thổ. Quyền lực nhà nước
mà CQĐP có được là do Hiến pháp, pháp luật quy định. Đồng thời, Nhà nước
bảo đảm các phương tiện, nguồn lực, trong đó có ngân sách để CQĐP thực hiện
chức năng này. CQĐP thực hiện quyền hành pháp theo các hướng:
- Thi hành Hiến pháp, pháp luật và thực hiện quyết định của các cơ quan
nhà nước cấp trên;
- Quyết định chủ trương, biện pháp bằng việc ra nghị quyết để giải quyết
các vấn đề của cộng đồng địa phương theo thẩm quyền;
- Kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành pháp luật và quyết định của CQĐP
đối với tất cả các cơ quan, tổ chức, công dân trên lãnh thổ hành chính.
Thứ hai, chức năng đại diện cộng đồng, thay mặt cho cộng đồng dân cư tại
địa phương, thể hiện tính chất dân chủ của nhà nước, bảo đảm quyền lợi của địa
phương trong mối quan hệ với quyền lợi quốc gia, quyền lợi của các địa phương
khác.
Đại diện cho cộng đồng dân cư địa phương, CQĐP phản ánh với cơ quan
cấp trên về nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu chính đáng của nhân dân địa
phương; phản ảnh về những đặc điểm, đặc thù của địa phương; tham gia vào quá
trình hoạch định chính sách của cấp trên để bảo đảm cho chính sách phù hợp với
tình hình, hoàn cảnh thực tế của địa phương.
Quyền được quyết định của CQĐP là quyền tự mình đề ra và thực hiện
chính sách cho riêng địa phương theo quy định của Hiến pháp, luật đồng thời tự
chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Về mặt hình thức, quyền được tự quyết định phải qua quá trình phân quyền,
phân cấp, ủy quyền và được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật. Nguồn lực để
thực hiện quyền tự quyết này không chỉ từ trung ương bảo đảm mà địa phương
phải tự bảo đảm bằng tài sản, ngân sách riêng và nguồn nhân lực của địa
39
phương.
Tóm lại, "chính quyền địa phương là những thiết chế nhà nước, hay thiết
chế tự quản của cộng đồng lãnh thổ địa phương, có tư cách pháp nhân quyền lực
công, được thành lập một cách hợp hiến và hợp pháp, để quản lý, điều hành mọi
mặt đời sống nhà nước, xã hội trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ của một
quốc gia, trong giới hạn thẩm quyền, thủ tục, cách thức nhất định do pháp luật
quy định"12
.
b. Đặc điểm chung của chính quyền địa phương 13
- Có một đơn vị hành chính - lãnh thổ xác định bằng đường địa giới hành
chính (nếu đó là cấu trúc nhà nước đơn nhất), hoặc có biên giới nội địa (nếu có-
nếu là cấu trúc nhà nước liên bang). CQĐP được đặt trong một vùng địa giới
hành chính xác định trong lãnh thổ quốc gia. Đây là đặc điểm quan trọng cần
chú ý, vì mỗi đơn vị hành chính khác nhau cần được quản lý khác nhau, là cơ sở
để tổ chức cấu trúc và xác định thẩm quyền của CQĐP.
- Có dân cư nhất định trên địa bàn hành chính - lãnh thổ xác định. CQĐP
quản lý một số lượng người dân xác định trên địa bàn của một đơn vị lãnh thổ
xác định.
- Có một bộ máy chính quyền, với những thẩm quyền pháp lý do pháp luật
quy định. Về tổ chức, CQĐP có thể cấu trúc bộ máy khác nhau nhưng về
phương diện pháp lý, tổ chức của CQĐP là một pháp nhân công quyền. Có
nghĩa rằng CQĐP độc lập về tư cách pháp lý, có tài sản độc lập, nhân danh mình
tham gia các quan hệ pháp luật và chịu trách nhiệm về các giao dịch ấy.
- Thực hiện quản lý hành chính nhà nước trong phạm vi đơn vị hành chính
- lãnh thổ.
- Có ngân sách địa phương để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với CQĐP ở đơn vị hành
chính - lãnh thổ khác. Mỗi CQĐP có quyền thẩm quyền nhất định để tổ chức các
công việc quản lý trong nội bộ của CQĐP và thực hiện các công việc quản lý đối
12
GS.TS. Phạm Hồng Thái, Hiến pháp năm 2013 về chính quyền địa phương và việc ban hành Luật Tổ chức chính
quyền địa phương, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng 01/2015, trang 05. 13
Xem thêm Tài liệu bồi dưỡng HĐND nhiệm kỳ 2016-2021.
40
với dân cư trên địa bàn.
2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
a. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật”.
Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật là một
trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
nói chung và của CQĐP nói riêng. Nguyên tắc này đòi hỏi việc tổ chức và hoạt
động của bộ máy CQĐP phải dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và
pháp luật. Hoạt động quản lý trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế,
văn hóa, giáo dục, y tế, an sinh xã hội… đều phải trên cơ sở các quy định của
pháp luật.
Trên cơ sở các quy định chung của trung ương, căn cứ vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của địa phương, chính quyền các cấp ở địa phương sẽ phải đưa ra
những giải pháp nhằm triển khai thực hiện pháp luật trên địa bàn địa phương.
Mọi hoạt động này đều phải đảm bảo sự tuân thủ đúng các quy định về thẩm
quyền, thủ tục, nội dung điều chỉnh của pháp luật.
Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật
đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức trong bộ máy CQĐP cần nắm rõ các quy định của
pháp luật và tổ chức thi hành các quy định đó vào thực tiễn. Trong bối cảnh đẩy
mạnh phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương hiện nay, thẩm
quyền, trách nhiệm của CQĐP càng được khẳng định. CQĐP sẽ phát huy được
tính chủ động, sáng tạo trong phạm vi đã phân cấp, phân quyền và chịu trách
nhiệm về những nhiệm vụ được giao.
Trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và
CQĐP nói riêng, tập trung dân chủ cần được hiểu rõ và thống nhất. Tập trung
dân chủ một mặt đề cao chế độ dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, nhưng mặt khác, cũng đề cao chế độ kỷ luật trong các mối quan hệ
41
giữa các cơ quan nhà nước. Tập trung dân chủ là nguyên tắc kết hợp hài hoà
giữa chỉ đạo, lãnh đạo tập trung và mở rộng dân chủ.
Nguyên tắc này đòi hỏi, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
nói chung và CQĐP nói riêng, một mặt phải bảo đảm sự chỉ đạo, lãnh đạo tập
trung, thống nhất của trung ương với địa phương, của cấp trên với cấp dưới và
mặt khác phải mở rộng dân chủ, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
địa phương và cấp dưới; phải coi trọng vai trò của tập thể nhưng phải đề cao vai
trò, trách nhiệm cá nhân của người lãnh đạo; phát huy tính năng động, sáng tạo
của cấp dưới nhưng luôn phải đảm bảo sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp
trên.
b. Nguyên tắc hiện đại, minh bạch, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân
Đảm bảo yêu cầu hiện đại, minh bạch trong hoạt động quản lý của các cơ
quan nhà nước nói chung và CQĐP nói riêng trong bối cảnh hội nhập và toàn
cầu hóa hiện nay là một trong những nguyên tắc cơ bản đặt ra. Nguyên tắc hiện
đại, minh bạch đòi hỏi CQĐP cần đảm bảo tính chuyên nghiệp ngay trong hoạt
động của mỗi cán bộ, công chức, trong hoạt động quản lý trên các lĩnh vực tại
địa phương.
Hiện đại, minh bạch trong tổ chức, hoạt động của CQĐP là đòi hỏi tất yếu
và là biện pháp thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay. Hơn nữa, đây cũng được coi là biện pháp để phát huy quyền làm chủ
của nhân dân và tăng cường vai trò ngày càng quan trọng của cơ sở. Minh bạch
các thông tin, trong đó có những thông tin liên quan trực tiếp đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân như quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, việc triển khai các dự
án đầu tư tại địa phương… Đây cũng chính là việc đảm bảo quyền được tiếp cận
thông tin của nhân dân. Minh bạch là biện pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa các
hành vi vi phạm của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, là một trong
những cách thức để kiểm soát được hoạt động của CQĐP.
42
CQĐP gắn liền với hoạt động thực thi chính sách, pháp luật. Nhân dân
đánh giá hiệu quả của bộ máy nhà nước thông qua chính hoạt động của CQĐP.
Vì vậy, hiện đại, minh bạch là nguyên tắc tất yếu đòi hỏi mỗi cấp CQĐP cần
đảm bảo thực hiện, đáp ứng yêu cầu hội nhập và toàn cầu hóa.
Bên cạnh đó, hoạt động của CQĐP luôn gắn liền với thực tiễn ở mỗi địa
phương, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân ở địa phương. Chính
vì vậy, CQĐP phải luôn đảm bảo nguyên tắc phục vụ nhân dân và chịu sự giám
sát của nhân dân.
Nhân dân thể hiện vai trò giám sát đối với các cơ quan nhà nước nói chung
và CQĐP nói riêng thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh của mình, thông qua các đại biểu trong cơ quan quyền lực nhà nước ở
trung ương hoặc địa phương, qua hoạt động đóng góp ý kiến xây dựng, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp ý kiến xây dựng Hiến pháp và pháp luật…
Nhân dân cũng thực hiện quyền giám sát đối với CQĐP thông qua các tổ
chức đoàn thể mà nhân dân là thành viên như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Nông dân…
Để thực hiện quyền giám sát của nhân dân, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi cán
bộ, công chức nhà nước cần đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch trong hoạt
động quản lý, tạo điều kiện thuận lợi để cơ chế giám sát được thực thi.
c. Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa
số; Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với
trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
HĐND làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số thông qua
các kỳ họp. Trong mỗi kỳ họp sẽ có nhiều phiên họp, phiên họp của HĐND
được thực hiện theo chế độ hội nghị nhằm bàn bạc, thảo luận và quyết định các
công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, trên cơ sở phát huy trí tuệ tập
thể của HĐND. Việc quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND tại phiên họp được thực hiện bằng việc biểu quyết để thông qua nghị
43
quyết và các quyết định tại phiên họp phải được quá nửa số đại biểu biểu quyết
thông qua, trừ trường hợp bãi miễn...
Khác với chế độ làm việc của HĐND, UBND làm việc theo chế độ kết hợp
trách nhiệm của tập thể UBND với việc đề cao trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch
UBND và của mỗi thành viên UBND. Sự kết hợp giữa phương thức làm việc
theo chế độ tập thể với trách nhiệm cá nhân chủ tịch UBND nhằm phát huy trí
tuệ tập thể thành viên UBND khi triển khai thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
của UBND, đồng thời cũng khẳng định trách nhiệm người đứng đầu UBND khi
quyết định các vấn đề quan trọng trong tổ chức, hoạt động của cơ quan. Mọi
hoạt động của UBND, thành viên UBND phải tuân thủ các quy định của pháp
luật và sự lãnh đạo của cấp ủy, sự giám sát của HĐND; bảo đảm tập trung, dân
chủ, tuân thủ các quy định của pháp luật và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
nhân dân ở địa phương.
3. Nguyên tắc phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương
“Phân định thẩm quyền” được hiểu là việc phân chia và xác định rõ thẩm
quyền của chính quyền trung ương, thẩm quyền của CQĐP và thẩm quyền của
các cấp CQĐP (thông qua phân cấp, phân quyền) để bảo đảm thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa
phương. Nội dung này luôn là vấn đề quan trọng trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước. Cơ sở pháp lý để phân định thẩm quyền của CQĐP là Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2019).
Theo Hiến pháp năm 2013: “Nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP được xác
định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương
và địa phương và của mỗi cấp CQĐP. Trong trường hợp cần thiết, CQĐP được
giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện
bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”14
. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã cụ thể
hóa thành các nguyên tắc cơ bản sau đây:
14
Khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 2013.
44
a. Bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất về thể chế, chính sách, chiến lược
và quy hoạch đối với các ngành, lĩnh vực; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt
của nền hành chính quốc gia15
Nguyên tắc này yêu cầu khi phân định thẩm quyền của CQĐP phải bảo đảm
tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính nhà nước. Phân định thẩm quyền
của CQĐP phải phù hợp với quy định của pháp luật, bảo đảm Chính phủ quản lý
thống nhất về thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, thanh tra, kiểm tra, kiểm
soát cân đối vĩ mô. Theo nguyên tắc này, sẽ không thực hiện phân định thẩm
quyền cho CQĐP những vấn đề về thể chế, chính sách, chiến lược và quy hoạch
đối với các ngành, lĩnh vực để tránh phân tán, cắt khúc, không nhất quán trong
quản lý. Phân định thẩm quyền trong các lĩnh vực quản lý nhà nước giữa trung
ương và địa phương phải bảo đảm trung ương tập trung hoạch định chính sách,
quản lý vĩ mô, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ thống nhất, chỉ những nhiệm vụ
cần phải bảo đảm thi hành thống nhất trong phạm vi cả nước, địa phương chưa đủ
nguồn lực thực hiện hoặc nếu giao địa phương thì tạo nên sự cắt khúc, chia rẽ mới
không phân cấp và giao trung ương tập trung quản lý thống nhất.
b. Phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương
ở các đơn vị hành chính trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên
địa bàn theo quy định của pháp luật16
Nguyên tắc này đòi hỏi những nhiệm vụ, quyền hạn nào CQĐP đảm nhiệm
được thì cần phân cấp, phân quyền, giao cho CQĐP thực hiện. Đẩy mạnh phân
cấp cho địa phương thực hiện những nhiệm vụ tổ chức thực thi pháp luật, quản
lý hành chính, giải quyết các công việc hành chính liên quan trực tiếp tới tổ
chức, cá nhân, thực hiện các nhiệm vụ địa phương có đủ nguồn lực để thực hiện
hiệu quả.
Việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn
các yêu cầu của tổ chức và người dân thì giao cho cấp đó thực hiện. Thực hiện
15
Điểm a, khoản 2, Điều 11, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). 16
Điểm b, khoản 2, Điều 11, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
45
nguyên tắc này sẽ phát huy quyền tự chủ, tính sáng tạo của các cấp CQĐP, góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
c. Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân
định rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa CQĐP các cấp đối với các hoạt động
kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ17
Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý các đơn vị, tổ chức kinh tế, văn
hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế - kĩ thuật hoặc hoạt động với mục đích giống
nhau nhằm làm cho hoạt động của các tổ chức, đơn vị này phát triển một cách
đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được với yêu cầu của nhà nước và xã hội. Quản lý
theo lãnh thổ là quản lý trên phạm vi đơn vị hành chính nhất định theo sự phân
vạch địa giới hành chính của nhà nước. Các đơn vị thuộc các ngành kinh tế - kỹ
thuật đều nằm trên một đơn vị hành chính nhất định, vừa chịu sự quản lý theo
ngành, đồng thời cũng chịu sự quản lý của các cấp CQĐP theo quy định. Vì vậy,
cần phân định rõ nhiệm vụ của các cơ quan quản lý theo ngành dọc và nhiệm vụ
quản lý cụ thể của từng cấp CQĐP theo đơn vị hành chính. Thực hiện nguyên
tắc này bảo đảm sự phát triển của các ngành, lĩnh vực, đồng thời giúp cho việc
khơi dậy tiềm năng và lợi thế của địa phương để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội cho địa phương.
d. Việc phân định thẩm quyền phải phù hợp với điều kiện, đặc điểm nông
thôn, đô thị, hải đảo và đặc thù của các ngành, lĩnh vực18
Có thể thấy đô thị và nông thôn, hải đảo có những điểm khác nhau cơ bản
về vị trí, vai trò, về kinh tế, về địa giới hành chính, về dân cư, về lối sống, về cơ
sở hạ tầng… Các ngành, lĩnh vực cũng có những đặc điểm khác nhau, do vậy
cũng đặt ra những yêu cầu quản lý không giống nhau. Vì vậy, việc phân định
thẩm quyền đồng loạt và đại trà (không phân biệt về điều kiện tự nhiên, kinh tế -
xã hội giữa các địa phương, không phân biệt các ngành, lĩnh vực) mà thực hiện
chung một cơ chế, chính sách sẽ không đạt hiệu quả cao.
17
Điểm c, khoản 2, Điều 11, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). 18
Điểm d, khoản 2, Điều 11, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
46
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải xác định rõ đặc thù của các đơn vị
hành chính, của quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực để phân định thẩm
quyền cho phù hợp. Chẳng hạn, trong lĩnh vực ngân sách, đối với các địa
phương tự cân đối được ngân sách sẽ được phân định thẩm quyền khác với các
địa phương chưa tự cân đối được ngân sách.
đ. Những vấn đề liên quan đến phạm vi từ hai đơn vị hành chính cùng cấp
trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của CQĐP cấp trên trực tiếp, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác19
Nguyên tắc này bảo đảm tính hiệu quả trong việc giải quyết những vấn đề
liên quan đến hai đơn vị hành chính cùng cấp trở lên bởi vì CQĐP ở các đơn vị
hành chính các cấp không có khả năng giải quyết tốt những vấn đề. Tuy nhiên,
không phải mọi vấn đề có liên quan đến hai xã/hai huyện/hai tỉnh trở lên đều
thuộc thẩm quyền giải quyết của chính quyền cấp trên trực tiếp. Những vấn đề
nêu các xã/huyện/tỉnh giải quyết được trên cơ sở liên kết, phối hợp và bảo đảm
hiệu quả thì không nhất thiết phải chuyển lên cấp trên. Thông thường, những
vấn đề liên quan đến chỉ đạo thống nhất hoặc cần huy động sự tham gia của các
xã/các huyện/các tỉnh hoặc các vấn đề phức tạp mà bản thân mỗi địa phương
cũng không thể tự mình giải quyết được mới thuộc thẩm quyền của cấp trên trực
tiếp.
e. Việc phân quyền, phân cấp cho các cấp CQĐP phải bảo đảm điều kiện
về tài chính, nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác; gắn phân quyền,
phân cấp với cơ chế kiểm tra, thanh tra khi thực hiện phân quyền, phân cấp.
CQĐP thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp và
chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân quyền, phân cấp20
Nguyên tắc này đòi hỏi phải bố trí đủ nguồn lực tương ứng với yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ theo phân cấp giữa trung ương và địa phương và giữa các
cấp CQĐP gồm: Biên chế, kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất và trang, thiết bị
đồng bộ với yêu cầu nhiệm vụ, quyền hạn do cấp có thẩm quyền quyết định.
19
Điểm đ, khoản 2, Điều 11, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). 20
Điểm e, khoản 2, Điều 11, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
47
Theo đó, phải xóa bỏ các thủ tục như: Chấp thuận, cho ý kiến, cho chủ trương…
nhằm đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm của các địa phương trong
hoạt động quản lý nhà nước. Đối với những nội dung đã được phân cấp thì cơ
quan cấp trên không làm thay hay can thiệp sâu vào quá trình ra quyết định của
cấp dưới mà chỉ thực hiện nhiệm vụ theo dõi, giám sát, kiểm tra việc cấp dưới
thực hiện. Ngược lại, cấp dưới có tránh nhiệm thực hiện những nhiệm vụ đã
được phân cấp và không được đùn đẩy trách nhiệm lên cấp trên.
Trên cơ sở nguyên tắc phân định thẩm quyền trên, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã quy định về phân
quyền, phân cấp, ủy quyền21
.
21
Các Điều 12, 13, 14, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định: "Điều 12. Phân quyền cho chính quyền địa phương 1. Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật. Trong trường
hợp này, luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy
quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác. 2. Chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
được phân quyền. 3. Cơ quan nhà nước cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thanh tra,
kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền cho các cấp
chính quyền địa phương. 4. Các luật khi quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, của các cơ quan thuộc chính
quyền địa phương phải bảo đảm các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này và phù hợp với các
nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương quy định tại Luật này. Điều 13. Phân cấp cho chính quyền địa phương 1. Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ
quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà
nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm
quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 2. Việc phân cấp phải bảo đảm các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này và phải được quy định
trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước phân cấp, trong đó xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn
phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới, trách nhiệm của cơ quan nhà nước phân
cấp và cơ quan nhà nước được phân cấp. 3. Cơ quan nhà nước cấp trên khi phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà
nước cấp dưới phải bảo đảm điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp và
chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp. 4. Cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp. Căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà nước ở địa phương có
thể phân cấp tiếp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp. Điều 14. Ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương 1. Trong trường hợp cần thiết, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật này, cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền
cho cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, người đứng đầu cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp thực hiện một hoặc một số
nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Việc ủy quyền
phải được thể hiện bằng văn bản. 2. Việc ủy quyền quy định tại khoản 1 Điều này phải bảo đảm điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực và các điều
kiện cần thiết khác để thực hiện. Cơ quan, tổ chức, cá nhân ủy quyền có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc
48
4. Cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), CQĐP được tổ chức ở các đơn
vị hành chính22
.
Theo đó, cơ cấu tổ chức của CQĐP ở các đơn vị hành chính hiện nay có 2
nhóm: (1) Có HĐND và UBND; (2) Nhóm không có HĐND.
a. Hội đồng nhân dân
HĐND gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên.
Thường trực HĐND là cơ quan thường trực của HĐND, thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước HĐND. Thành viên của Thường trực HĐND không thể đồng thời là thành
viên của UBND cùng cấp.
HĐND bao gồm các Ban. Ban của HĐND là cơ quan của HĐND, có nhiệm
vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước khi trình HĐND, giám sát,
kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước HĐND.
HĐND cấp tỉnh có Ban Pháp chế, Ban kinh tế - ngân sách, Ban văn hóa -
xã hội (nơi nào có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban Dân tộc;
HĐND thành phố trực thuộc Trung ương có thêm Ban Đô thị). Ban của HĐND
cấp tỉnh gồm có Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số lượng Ủy viên
của các Ban của HĐND cấp tỉnh do HĐND cấp tỉnh quyết định. Trường hợp
Trưởng ban của HĐND cấp tỉnh là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách thì
Ban có một Phó Trưởng ban; trường hợp Trưởng ban của HĐND tỉnh là đại biểu thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã ủy quyền và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà
mình đã ủy quyền. 3. Cơ quan, tổ chức được ủy quyền phải thực hiện đúng nội dung và chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được ủy quyền. Cơ quan, tổ chức nhận ủy
quyền không được ủy quyền tiếp cho cơ quan, tổ chức khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền". 22
Xem khoản 1, Điều 111 Hiến pháp năm 2013 và khoản 1, Điều 4, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
49
hoạt động không chuyên trách thì Ban có hai Phó Trưởng ban. Phó Trưởng ban
của HĐND cấp tỉnh là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách.
HĐND cấp huyện thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội (nơi có
nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban dân tộc). Ban của HĐND cấp
huyện gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số lượng Ủy
viên của các Ban của HĐND cấp huyện do HĐND cấp huyện quyết định.
Trưởng ban của HĐND cấp huyện có thể là đại biểu HĐND hoạt động chuyên
trách; Phó Trưởng ban của HĐND cấp huyện là đại biểu HĐND hoạt động
chuyên trách.
HĐND cấp xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội. Ban của
HĐND cấp xã gồm có Trưởng ban, một Phó trưởng ban và các Ủy viên. Số
lượng Ủy viên của các Ban của HĐND cấp xã do HĐND cấp xã quyết định.
Trưởng ban, Phó trưởng ban và các Ủy viên của các Ban của HĐND cấp xã hoạt
động kiêm nhiệm.
b. Ủy ban nhân dân
UBND do HĐND cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương, HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. UBND gồm
chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên23
.
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND được tổ chức ở cấp tỉnh, cấp huyện là
cơ quan tham mưu, giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự
phân cấp, ủy quyền của cơ quan nhà nước cấp trên. Cơ quan chuyên môn
thuộc UBND chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác
của UBND, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan quản
lý nhà nước về ngành, lĩnh vực cấp trên.
23
Xem thêm: Văn bản số 883/HD- UBTVQH14 ngày 02/6/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Hướng dẫn
một số nội dung về việc tổ chức kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021- 2026; Công văn
số 3308/BNV-CQĐP ngày 08/7/2021 của Bộ Nội vụ Về việc bầu người đứng đầu cơ quan chuyên môn giữ chức
danh Ủy viên UBND cấp tỉnh, cấp huyện nhiệm kỳ 2021-2026.
50
Các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh được tổ chức thống nhất gồm
17 sở24
và 04 sở đặc thù25
.
Việc tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND phải bảo đảm phù hợp với
đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và điều kiện, tình hình phát triển kinh tế - xã
hội của từng địa phương; bảo đảm tinh gọn, hợp lý, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả
trong quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực từ trung ương đến cơ sở; không trùng
lặp với nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước cấp trên đặt tại địa bàn.
UBND cấp huyện gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. UBND cấp
huyện loại I có không quá 03 (ba) Phó Chủ tịch; loại II và loại III có không quá
02 (hai) Phó Chủ tịch. Ủy viên UBND cấp huyện gồm các Ủy viên là người
đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, Ủy viên phụ trách quân
sự, Ủy viên phụ trách công an. Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện
gồm có các phòng và cơ quan tương đương phòng.
UBND cấp xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy
viên phụ trách công an. UBND cấp xã loại I, loại II có không quá 02 (hai) Phó
Chủ tịch; xã loại III có 01 (một) Phó Chủ tịch.
II. Nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của chính quyền địa
phương cấp tỉnh
1. Nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của Hội đồng nhân
dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
a. Nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
24
Theo quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Nghị định 107/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh được tổ chức thống nhất gồm
17 sở: Sở Nội vụ; Sở Tư pháp; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Tài chính; Sở Công Thương; Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn; Sở Giao thông vận tải; Sở Xây dựng; Sở Tài nguyên và Môi trường; Sở Thông tin và Truyền
thông; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Sở Khoa học và Công nghệ; Sở
Giáo dục và Đào tạo; Sở Y tế; Thanh tra tỉnh; Văn phòng UBND. 25
Theo quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Nghị định 107/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, 04 cơ quan chuyên môn đặc thù của UBND cấp tỉnh: Sở Ngoại vụ; Ban Dân
tộc; Sở Du lịch; Sở Quy hoạch - Kiến trúc. Trường hợp không tổ chức riêng Sở Ngoại vụ, Ban Dân tộc thì chức
năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ngoại vụ, dân tộc do Văn phòng
UBND thực hiện. Riêng Sở Quy hoạch - Kiến trúc được thành lập ở thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh.
51
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2019)26
đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh trong việc
tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; quyết định các vấn đề
của địa phương trên các lĩnh vực: xây dựng chính quyền, kinh tế, tài nguyên,
môi trường, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục,
thể thao, y tế, lao động và thực hiện chính sách xã hội, công tác dân tộc, tôn giáo
và quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Đồng thời, HĐND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ giám sát việc tuân theo
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND cấp
tỉnh; giám sát hoạt động của Thường trực HĐND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh, Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Ban của HĐND cấp tỉnh; giám
sát văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh và văn bản của HĐND cấp
huyện; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, HĐND thành phố trực thuộc trung ương còn quyết định quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm cả
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các quận, phường trực thuộc; quyết định
quy hoạch về xây dựng và phát triển đô thị trong phạm vi được phân quyền;
quyết định các biện pháp phát huy vai trò trung tâm kinh tế - xã hội của đô thị
lớn trong mối liên hệ với các địa phương trong vùng, khu vực và cả nước theo
quy định của pháp luật; quyết định các biện pháp quản lý dân cư ở thành phố và
tổ chức đời sống dân cư đô thị; điều chỉnh dân cư theo quy hoạch, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân.
- Về phương thức hoạt động của HĐND cấp tỉnh27
Hoạt động của HĐND cấp tỉnh được thực hiện thông qua Thường trực
HĐND, các Ban HĐND, các đại biểu HĐND và kỳ họp HĐND. Trong đó, kỳ
họp là phương thức hoạt động quan trọng nhất của HĐND cấp tỉnh. Theo đó,
HĐND cấp tỉnh họp thường lệ mỗi năm 02 kỳ. Trường hợp không thể triệu tập
kỳ họp thường lệ thì Thường trực HĐND cấp tỉnh báo cáo báo cáo Uỷ ban
26
Xem Điều 19 và Điều 40 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). 27
Xem thêm: Nghị quyết số 629/2019/UBTVQH14 ngày 30/01/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Hướng
dẫn một số hoạt động của Hội đồng nhân dân.
52
thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Ngoài ra có thể tổ chức kỳ họp theo
chuyên đề hoặc để giải quyết công việc phát sinh đột xuất.
Tại kỳ họp thường lệ, HĐND cấp tỉnh quyết định kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương; quyết định dự toán và phân bổ ngân sách, phê chuẩn
quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện pháp để triển
khai thực hiện ngân sách địa phương; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương;
quyết định những vấn đề khác thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nghe
Thường trực HĐND báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri, thông báo kết
quả thực hiện chương trình và kế hoạch giám sát; nghe UBND cấp tỉnh báo cáo
kết quả giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri; nghe Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp tỉnh thông báo công tác tham gia xây dựng chính quyền và những
ý kiến, kiến nghị; xem xét báo cáo hoạt động của Thường trực HĐND, Ban của
HĐND, UBND và báo cáo công tác của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh; xem xét việc trả lời chất vấn. Khi cần thiết, HĐND cấp tỉnh xem
xét báo cáo của cơ quan nhà nước hữu quan, ra nghị quyết về những vấn đề
HĐND cấp tỉnh xem xét.
Kỳ họp của HĐND cấp tỉnh được tiến hành công khai. Trong trường hợp
cần thiết, theo đề nghị của Thường trực HĐND, Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc ít
nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND cấp tỉnh yêu cầu thì sẽ họp kín.
b. Nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của Thường trực HĐND
và các Ban của HĐND cấp tỉnh
- Thường trực HĐND cấp tỉnh
Thường trực HĐND do HĐND cấp tỉnh bầu ra, gồm Chủ tịch, Phó Chủ
tịch, các Ủy viên là Trưởng ban của HĐND cấp tỉnh. Nếu Chủ tịch HĐND cấp
tỉnh là đại biểu chuyên trách thì có một Phó Chủ tịch; nếu Chủ tịch HĐND cấp
tỉnh là đại biểu không chuyên trách thì có hai Phó Chủ tịch. Phó Chủ tịch HĐND
cấp tỉnh là đại biểu hoạt động chuyên trách. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thường
trực HĐND cấp tỉnh được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và các văn bản liên quan.
Thường trực HĐND cấp tỉnh làm việc theo nguyên tắc tập thể. Mỗi tháng,
53
Thường trực HĐND cấp tỉnh họp ít nhất một lần để kiểm điểm việc thực hiện
các Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh và các quyết định của mình, đề ra nhiệm vụ
công tác tháng sau. Thường trực HĐND cấp tỉnh có thể họp bất thường theo đề
nghị của từng thành viên Thường trực HĐND cấp tỉnh.
- Các Ban của HĐND cấp tỉnh
Các Ban của HĐND cấp tỉnh là cơ quan được lập ra để giúp HĐND cấp
tỉnh hoạt động. Nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban HĐND cấp tỉnh được quy
định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2019) và các văn bản liên quan28
.
Ban của HĐND cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
HĐND cấp tỉnh; trong thời gian HĐND cấp tỉnh không họp thì báo cáo công tác
trước Thường trực HĐND cấp tỉnh.
Thường trực HĐND chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của các Ban của
HĐND cấp tỉnh. Các Trưởng ban được dự các phiên họp hàng tháng của
Thường trực HĐND cấp tỉnh.
Phương thức hoạt động của Ban là phiên họp do Trưởng ban triệu tập. Tại
phiên họp, các thành viên thảo luận các dự án trình HĐND cấp tỉnh thông qua
hoặc chuẩn bị các đề án trình HĐND cấp tỉnh, kiểm điểm việc thực hiện chương
trình, bàn công tác của thời gian tới. Ngoài ra, Ban còn tổ chức các cuộc kiểm
tra, giám sát ở cơ sở, phát hiện những vấn đề để kiến nghị với cơ sở hoặc trình
HĐND cấp tỉnh quyết định.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh
a. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của UBND cấp tỉnh được thể hiện trong các
lĩnh vực29
: kinh tế; nông nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và đất đai; công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp; giao thông, vận tải; xây dựng, quản lý và phát triển đô thị;
thương mại dịch vụ; giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, y
28
Xem thêm Điều 109 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). 29
Xem thêm Điều 21, Điều 42 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
54
tế và xã hội; khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường; an ninh, quốc
phòng và trật tự an toàn xã hội; dân tộc và chính sách tôn giáo; thi hành pháp
luật; xây dựng chính quyền... Ngoài ra, UBND cấp tỉnh còn thực hiện nhiệm vụ
quyền hạn do cơ quan nhà nước ở trung ương phân cấp, uỷ quyền; đồng thời
phân cấp, uỷ quyền cho UBND cấp dưới, cơ quan, tổ chức khác thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, UBND cấp tỉnh
ra các quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện những văn bản đó; đình chỉ
việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định sai trái của các ngành thuộc
quyền quản lý và của UBND cấp huyện; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết
không thích đáng của HĐND cấp huyện, đồng thời đề nghị HĐND cấp tỉnh sửa
đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó.
b. Phương thức hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
UBND cấp tỉnh hoạt động thông qua các phiên họp Ủy ban; qua hoạt động
của chủ tịch UBND, Phó chủ tịch UBND, các thành viên của UBND và các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh.
UBND cấp tỉnh họp thường kỳ mỗi tháng một lần; có thể họp đột xuất
trong các trường hợp: Do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định; theo yêu cầu của
Thủ tướng Chính phủ; theo yêu cầu của ít nhất một phần ba tổng số thành viên
UBND cấp tỉnh.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của chính quyền
thành phố trực thuộc trung ương nơi thí điểm tổ chức chính quyền đô thị
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và nhu cầu thực tiễn, Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố
Hà Nội, thành phố Đà Nẵng; Nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
55
Như vậy, ở Thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng là "thí điểm", còn ở
Thành phố Hồ Chí Minh là thực hiện chính thức30
.
Ngày 29/03/2021, Chính phủ ban hành các Nghị định quy định chi tiết và
biện pháp thi hành các Nghị quyết này31
.
Căn cứ vào các quy định trên nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động
của chính quyền thành phố trực thuộc trung ương ở Hà Nội, Đà Nẵng, Thành
phố Hồ Chí Minh có một số thay đổi như sau:
a. Đối với thành phố Hà Nội
Theo Nghị quyết số 97/2019/QH14 và Nghị định số 32/2021/NĐ-CP thì
mô hình chính quyền đô thị thành phố Hà Nội được quy định như sau: CQĐP ở
thành phố Hà Nội, huyện, quận, thị xã, xã, thị trấn là cấp CQĐP gồm có HĐND
và UBND; CQĐP ở các phường thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội là
UBND32
. Như vậy, khác với thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng, ở
thành phố Hà Nội chỉ CQĐP ở phường không có HĐND phường. Vì thế, nhiệm
vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của CQĐP cấp thành phố cũng ít có sự
thay đổi.
b. Đối với Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng
Theo Nghị quyết số 131/2020/QH14 và Nghị quyết số 119/2020/QH14, ở
Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng, CQĐP quận và phường đều
không tổ chức HĐND. Điều này làm cho nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức
hoạt động của CQĐP cấp thành phố ở hai địa phương này có nhiều sự thay đổi.
Cụ thể:
30
Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố
Hà Nội; Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về Thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một
số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 về
Tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh. 31
Nghị định số 32/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày
27/11/2019 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội; Nghị định số
33/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của
Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh và Nghị định số 34/2021/NĐ-CP quy định
chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức
mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng. 32
Điều 1 Nghị quyết số 97/2019/QH14.
56
- Với HĐND Thành phố Hồ Chí Minh và HĐND thành phố Đà Nẵng:
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Luật Tổ chức CQĐP, quy định
khác của pháp luật có liên quan và các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Quyết định dự toán thu NSNN trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách
địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, trong đó bao gồm dự toán
ngân sách của quận; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp
cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương;
+ Giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và việc thực hiện nghị
quyết của HĐND Thành phố trên địa bàn quận, phường thuộc quận; giám sát
hoạt động của UBND quận, UBND phường thuộc quận, TAND quận, VKSND
quận;
+ Lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch UBND quận. Thời hạn, thời điểm,
trình tự lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch UBND quận được thực hiện theo
quy định của Quốc hội;
+ Đại biểu HĐND Thành phố có quyền chất vấn Chủ tịch UBND quận,
Chánh án TAND quận, Viện trưởng VKSND quận;
+ Bầu Hội thẩm TAND quận theo giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam Thành phố; miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm TAND quận theo đề
nghị của Chánh án TAND Thành phố sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng cấp.
Đối với thành phố Đà Nẵng, ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn trên còn bổ
sung 2 nhiệm vụ quyền hạn theo Nghị quyết số 119/2020/QH14 bao gồm: i)
Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm
của thành phố, trong đó bao gồm kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn
và hằng năm của quận và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của
phường; ii) Thông qua chủ trương thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
giới đơn vị hành chính quận, phường.
- Với UBND Thành phố: Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Luật
Tổ chức Tổ chức chính quyền địa phương, quy định khác của pháp luật có liên
quan và các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
57
+ Xây dựng, trình Hội đồng nhân dân thành phố quyết định các nội dung
Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân
sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, trong đó bao gồm dự
toán ngân sách của chính quyền địa phương cấp dưới; điều chỉnh dự toán ngân
sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa
phương; Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và
hàng năm của thành phố, trong đó bao gồm kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
trung hạn và hằng năm của quận và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng
năm của phường và tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành
phố. Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố, quyết định giao
và điều chỉnh nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các quận, phường trực thuộc,
quyết định chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện ngân sách địa phương, bao
gồm ngân sách quận, phường.
+ Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án nhóm B, nhóm C sử
dụng vốn đầu tư công thuộc quận, phường quản lý theo quy định của Luật Đầu
tư công.
+ Căn cứ vào quy định của Chính phủ và tình hình thực tiễn của công tác
quản lý đô thị, quyết định thành lập, bãi bỏ cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân quận.
+ Quyết định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, biện
pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các
hành vi vi phạm pháp luật khác trên địa bàn các quận trực thuộc.
4. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
trong quản trị địa phương
HĐND và UBND cấp tỉnh là hai thiết chế của CQĐP ở tỉnh/thành phố trực
thuộc trung ương, thống nhất về mục tiêu, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản
trị địa phương nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. HĐND
và UBND cấp tỉnh có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND và UBND cấp tỉnh
gắn kết chặt chẽ, không tách rời trong quá trình quản trị địa phương. Chất lượng
58
và hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh có tác động trực tiếp đến chất lượng
và hiệu quả hoạt động của UBND cấp tỉnh và ngược lại, hoạt động của UBND
cấp tỉnh phản ánh được năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND cấp
tỉnh trong quản trị địa phương.
Trong tổ chức quản trị địa phương, HĐND cấp tỉnh là chủ thể thiết lập nên
tổ chức bộ máy của CQĐP ở tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, đồng thời
bằng cơ chế giám sát, HĐND cấp tỉnh góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của CQĐP, trong đó có hiệu lực, hiệu quả hoạt động UBND cấp tỉnh.
HĐND cấp tỉnh xác định tầm nhìn, định hướng cho sự phát triển của địa phương
thông qua việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn của địa phương; thông qua quy hoạch, kế hoạch phát triển các
ngành, lĩnh vực trên địa bàn tỉnh trong phạm vi thẩm quyền được giao. Thông
qua công cụ ngân sách, HĐND cấp tỉnh tác động đến các định hướng ưu tiên
phát triển của địa phương. HĐND cấp tỉnh thiết lập ra lộ trình, thiết lập nên
những mục tiêu, tạo tiền để để UBND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo
đảm các mục tiêu phát triển gắn với thực tiễn của địa phương, gắn với mong đợi,
kỳ vọng của nhân dân, cử tri địa phương cũng như thống nhất với mục tiêu phát
triển chung của đất nước.
UBND cấp tỉnh với tư cách là cơ quan chấp hành của HĐND cấp tỉnh, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương, HĐND cấp tỉnh và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên là chủ thể
thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, là chủ thể trực tiếp thực
hiện các nội dung quản trị địa phương. Các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, sau khi HĐND cấp tỉnh
thông qua sẽ được UBND cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện, góp phần hiện
thực hóa các mục tiêu phát triển của địa phương.
Mối quan hệ giữa HĐND và UBND cấp tỉnh ở đây có thể hiểu là mối quan
hệ giữa chủ thể thẩm định, thông qua và chủ thể dự thảo và tổ chức thực hiện kế
hoạch, quy hoạch phát triển. Hai chủ thể này tạo nên sự toàn vẹn trong quy
hoạch, kế hoạch phát triển; tạo nên sự hoàn chỉnh trong chu trình thực hiện quy
59
hoạch, kế hoạch phát triển, giữa mục tiêu và kết quả đạt được, giữa mong muốn,
khát vọng và thực tiễn phát triển. Chất lượng của quy hoạch, kế hoạch, nghị
quyết mà HĐND cấp tỉnh thông qua là tiền đề để thực hiện có hiệu quả quy
hoạch, kế hoạch, nghị quyết. Quá trình UBND cấp tỉnh thực hiện quy hoạch, kế
hoạch, nghị quyết là quá trình để những mong đợi, mục tiêu được thực hiện. Ở
khía cạnh khác, quá trình này cũng là thước đo, là sự soi chiếu để tìm ra những
điểm hợp lý và chưa hợp lý trong quy hoạch, kế hoạch, các nghị quyết đã được
thông qua. Sự giám sát của HĐND cấp tỉnh đối với UBND cấp tỉnh trong quá
trình này không chỉ giản đơn là quá trình để phát hiện ra những sai sót hay
những vi phạm mà quan trọng hơn để có thêm căn cứ thực tiễn cho việc thông
qua quy hoạch, kế hoạch, nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
Để quản trị địa phương hiệu quả, HĐND và UBND cấp tỉnh cần phải là hai
thiết chế thống nhất trong quản trị địa phương, thống nhất về ý chí, khát vọng,
mục tiêu. Nếu như HĐND cấp tỉnh cần có trách nhiệm giải đáp câu hỏi nên đi
theo hướng nào, đi đến đâu thì UBND cần phải có câu trả lời cụ thể cho việc đi
đến hướng đích đó như thế nào, bằng cách nào. UBND cấp tỉnh báo cáo với
HĐND cấp tỉnh về kết quả thực hiện, đồng thời HĐND cấp tỉnh cũng thường
xuyên theo dõi hoạt động thực tiễn để xác định kết quả thực hiện mục tiêu, mức
độ đúng hướng và lộ trình thực hiện. Hai chủ thể này trong quản trị địa phương
có thực hiện đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình thì quản trị địa phương mới
thực sự đạt được mục tiêu, kết quả; ý chí của nhân dân địa phương được tập hợp,
thể hiện được thể hiện bằng những kết quả cụ thể trong phát triển kinh tế - xã
hội, phục vụ lợi ích nhân dân ở địa phương nói riêng, cả nước nói chung.
III. Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1. Vị trí, vai trò, phân loại đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
a. Vị trí của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Đại biểu HĐND cấp tỉnh là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân
địa phương. Trong hoạt động, đại biểu HĐND cấp tỉnh thay mặt nhân dân trong
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quyền lực nhà nước, quyết định
60
các vấn đề quan trọng để phát huy các tiềm năng của trong tỉnh/thành phố trực
thuộc trung ương, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, biến ý chí quyền lực
của nhân dân trên địa bàn trở thành quyền lực nhà nước, thể hiện bằng các quyết
định của cơ quan nhà nước, thực hiện quyền giám sát việc tuân theo pháp luật của
UBND cấp tỉnh và của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân đóng tại địa phương. Về thực chất, đại biểu HĐND cấp
tỉnh là người thực hiện quyền lực nhân dân theo phương thức thay mặt cử tri trong
phạm vi địa bàn cấp tỉnh. Đại biểu HĐND cấp tỉnh được hình thành theo nguyên
tắc bầu cử trực tiếp của cử tri.
Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mang tính nguyên tắc về vị trí
của đại biểu HĐND nói chung, trong đó có đại biểu HĐND cấp tỉnh nói riêng:
"Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa
phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ
tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những
yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đại biểu HĐND có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp
luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của HĐND, động viên Nhân dân
tham gia quản lý nhà nước"33
.
Như vậy, Hiến pháp đã khẳng định vị trí của đại biểu HĐND cấp tỉnh thông
qua các nội dung sau đây:
Một là, đại biểu HĐND cấp tỉnh là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của nhân dân ở cả hai cấp độ là ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân ở địa
phương. Đại biểu HĐND cấp tỉnh có trách nhiệm trong việc giữ mối liên hệ, gắn
bó chặt chẽ với nhân dân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình.
Đồng thời, đại biểu HĐND cấp tỉnh còn có trách nhiệm trong mối quan hệ
với các cơ quan nhà nước khác ở địa phương. Đại biểu HĐND cấp tỉnh đóng vai
trò tương tác, giám sát, thúc đẩy để các cơ quan nhà nước hoạt động tích cực,
hiệu quả hơn trong việc giải quyết những vấn đề hàng ngày, cũng như những
vấn đề trung hạn, dài hạn đặt ra từ thực tiễn cuộc sống ở địa phương. Thông qua
33
Khoản 1, Điều 115, Hiến pháp năm 2013.
61
việc xử lý những vấn đề đó, sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa những biểu hiện
của sự xơ cứng, quan liêu, lạm quyền, trục lợi, cục bộ... có thể nảy sinh trong
việc thực thi chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước ở địa phương.
Hai là, đại biểu HĐND cấp tỉnh bình đẳng trong thảo luận và quyết định
các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh. Tất cả các đại biểu
HĐND cấp tỉnh đều được bầu cử từ các đơn vị bầu cử, căn cứ theo số dân, được
bầu trực tiếp qua phổ thông đầu phiếu, thay mặt cho cử tri hoạt động trong
HĐND. Điều này thể hiện sự bình đẳng của các đại biểu HĐND cấp tỉnh. Sự
bình đẳng giữa các đại biểu HĐND cấp tỉnh cũng thể hiện sự bình đẳng giữa cử
tri ở các đơn vị bầu cử trong phạm vi cả nước. Vị thế này bảo đảm cho từng đại
biểu sự bình đẳng trong quan hệ với mọi đại biểu khác, dù đó là đại biểu thường
hay đại biểu giữ vị trí lãnh đạo trong hệ thống chính trị ở CQĐP cấp tỉnh. Mỗi
đại biểu đều nắm giữ một lá phiếu và vì thế, cần phải được ứng xử bình đẳng
như nhau.
Về mặt pháp lý, mặc dù đại biểu HĐND cấp tỉnh có đại biểu hoạt động
chuyên trách, có đại biểu hoạt động không chuyên trách; có đại biểu giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý, có đại biểu không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý…; song
nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh về bản chất không bị ảnh
hưởng nhiều bởi các yếu tố này. Trên thực tế, các đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt
động chuyên trách sẽ có thêm các nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với tính chất
chuyên trách (như quy định về thời gian dành cho hoạt động thực hiện nhiệm vụ
đại biểu; các nhiệm vụ, quyền hạn khác khi tham gia thành viên của các ban của
HĐND cấp tỉnh). Tuy nhiên, quyền biểu quyết gắn với từng cá nhân đại biểu
HĐND cấp tỉnh là thẩm quyền quan trọng nhất, là cơ sở để hình thành nên mọi
quyết định của HĐND cấp tỉnh. Quyền biểu quyết này được thực hiện theo
nguyên tắc HĐND làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số... Đây
cũng là điểm trung tâm để khẳng định rằng, đại biểu HĐND cấp tỉnh có vị thế
bình đẳng trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh.
b. Vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Thứ nhất, vai trò đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa
62
phương
Đây là điểm quan trọng nhất và là điểm cốt yếu khi nói đến vai trò của đại
biểu HĐND cấp tỉnh, hay nói cách khác, không thể nói đến đại biểu HĐND cấp
tỉnh mà lại thiếu vắng vai trò đại diện. Vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
nhân dân của đại biểu HĐND cấp tỉnh được xác lập ở hai khía cạnh: i) Đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình; ii) Đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa bàn cấp tỉnh. Vai trò đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân của đại biểu HĐND cấp tỉnh có ý nghĩa trước hết để
mọi quyết định của HĐND cấp tỉnh thực sự xuất phát từ lợi ích của người dân,
vì lợi ích chung của địa phương.
Thứ hai, đại biểu HĐND cấp tỉnh có vai trò là hạt nhân trong toàn bộ hoạt
động của HĐND cấp tỉnh. HĐND cấp tỉnh và các cơ quan của HĐND cấp tỉnh đều
được cấu thành từ các đại biểu HĐND cấp tỉnh. Các đại biểu HĐND cấp tỉnh là
những hạt nhân, thành tố cấu thành nên HĐND cấp tỉnh; hoạt động của đại biểu
HĐND cấp tỉnh chính là sự tổng hòa của tổng thể các hoạt động của toàn bộ các
thành viên; sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu hoạt động của đại biểu HĐND cấp
tỉnh vượt ra ngoài ý nghĩa, mục đích là thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của HĐND cấp tỉnh. Cũng như các chủ thể khác trong cơ quan công quyền,
hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh nhìn chung đều được điều chỉnh bằng
pháp luật, hoạt động trên nền tảng, khuôn khổ pháp lý nhất định, theo chiều
hướng ngày càng hoàn thiện, đầy đủ, cụ thể.
Chất lượng, kết quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh phụ thuộc lớn vào chất
lượng, kết quả hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh. Tuy nhiên, cũng phải
thấy rằng, khi nói đến hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh thì không phải chỉ
nói đến hoạt động của từng đại biểu với tư cách là từng cá nhân đơn lẻ mà phải
được đặt trong một tổng thể chu trình làm việc, trong hoạt động của các đại biểu
HĐND cấp tỉnh nói chung.
c. Phân loại đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Có nhiều tiêu chí để phân loại đại biểu HĐND cấp tỉnh. Chẳng hạn: căn cứ
vào địa bàn, có thể phân thành đại biểu HĐND cấp tỉnh (do cử tri ở tỉnh bầu ra)
63
và đại biểu HĐND thành phố trực thuộc Trung ương (do cử tri ở thành phố trực
thuộc Trung ương bầu ra); căn cứ vào nơi làm việc, có thể phân thành đại biểu
làm việc trong cơ quan của Đảng, đại biểu làm việc trong cơ quan nhà nước, đại
biểu làm việc trong các tô chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế...; căn cứ vào
vị trí việc làm, có thể phân thành đại biểu giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và đại
biểu không giữ chúc vụ lãnh đạo, quản lý...
Tuy nhiên, cách phân loại phổ biến hơn cả là căn cứ vào tính chất hoạt
động của đại biểu HĐND cấp tỉnh, đại biểu HĐND cấp tỉnh được phân thành đại
biểu hoạt động chuyên trách và đại biểu hoạt động không chuyên trách.
- Đại biểu hoạt động chuyên trách
Đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách là cán bộ, công chức của
cơ quan nhà nước thuộc đối tượng áp dụng của Luật Cán bộ, công chức, được
trả lương, phụ cấp và các chế độ khác từ NSNN theo quy định của pháp luật34
.
Hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh chuyên trách mang tính chuyên
môn cao, là thành tố then chốt trong hoạt động chung của HĐND cấp tỉnh, là
nền tảng căn bản để HĐND cấp tỉnh có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của mình, phúc đáp kịp thời những đòi hỏi của thực tiễn ở địa phương. Thực tế
đã chứng minh, đại biểu chuyên trách là một trong những yếu tố quan trọng để
đảm bảo hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh, nhất là trong xu hướng tăng
cường phân quyền, phân cấp cho CQĐP, mở rộng phạm vi, thẩm quyền của
HĐND cấp tỉnh trong ban hành các chính sách, biện pháp hỗ trợ, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Việc xác định số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách ở
từng đơn vị hành chính được căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành. Cụ
thể như sau: Số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Chủ
tịch, Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh tối đa là 2 (hai) người; số lượng đại biểu
HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng ban, Phó Trưởng
34
Xem thêm: điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 1206/2016/NQ-UBTVQH quy định về chế độ, chính sách và
các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân.
64
ban ở mỗi Ban của HĐND tối đa là 2 (hai) người, trừ Thành phố Hồ Chí Minh
và thành phố Đà Nẵng.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng đại biểu HĐND hoạt động
chuyên trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND thành phố tối đa là 3
(ba) người; số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách giữ chức vụ
Trưởng ban, Phó Trưởng ban và Ủy viên ở mỗi Ban của HĐND thành phố tối đa
là 4 (bốn) người.
Đối với thành phố Đà Nẵng, số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên
trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND thành phố tối đa là 2 (hai)
người; số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng
ban, Phó Trưởng ban ở mỗi Ban của HĐND thành phố tối đa là 3 (ba) người.
- Đại biểu hoạt động không chuyên trách
Đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động không chuyên trách là người vừa làm
nhiệm vụ đại biểu của nhân dân vừa đảm nhiệm chức vụ khác trong các tổ chức
Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân, tổ chức tôn giáo… hoặc không đảm nhiệm chức vụ (ví dụ cán bộ hưu trí..).
Theo quy định, đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động không chuyên trách phải dành
ít nhất một phần ba thời gian làm việc trong năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh35
. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi
đại biểu làm việc có trách nhiệm sắp xếp công việc, tạo điều kiện thời gian và các
điều kiện cần thiết khác cho đại biểu HĐND cấp tỉnh làm nhiệm vụ đại biểu.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh được quy định trong các
Điều từ 91 đến 100 và Điều 103 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); từ Điều 83 đến Điều 87 của Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 và các quy định pháp
luật khác có liên quan.
a. Nhiệm vụ của đại biểu HĐND cấp tỉnh
35
Khoản 2 Điều 103 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
65
- Tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND cấp tỉnh; tham gia thảo
luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh.
Đại biểu HĐND cấp tỉnh không tham dự kỳ họp, phiên họp thì phải có lý do và
phải báo cáo trước với Chủ tịch HĐND cấp tỉnh. Trường hợp đại biểu HĐND
cấp tỉnh không tham dự các kỳ họp liên tục trong 01 năm mà không có lý do thì
Thường trực HĐND cấp tỉnh phải báo cáo HĐND cấp tỉnh để bãi nhiệm đại biểu
HĐND đó. Tại kỳ họp HĐND, đại biểu HĐND cấp tỉnh có nhiệm vụ chấp hành
nội quy kỳ họp, tham dự đầy đủ kỳ họp, phiên họp của HĐND, cuộc thảo luận ở
Tổ đại biểu HĐND, cuộc họp Ban của HĐND mà đại biểu là thành viên; tham
gia các hoạt động khác của HĐND cấp tỉnh. Khi nhận được thông báo về thời
gian, dự kiến chương trình và tài liệu kỳ họp, đại biểu HĐND cấp tỉnh phải
nghiên cứu tài liệu, tiếp xúc cử tri, tham gia các hoạt động của Tổ đại biểu chuẩn
bị cho kỳ họp HĐND cấp tỉnh. Trong kỳ họp, đại biểu HĐND cấp tỉnh có nhiệm
vụ tham gia thảo luận và quyết định chương trình kỳ họp; thảo luận tại phiên
họp toàn thể và thảo luận ở Tổ đại biểu về các vấn đề thuộc nội dung, chương
trình kỳ họp; biểu quyết thông qua những vấn đề thuộc nội dung, chương trình
kỳ họp HĐND cấp tỉnh.
- Liên hệ chặt chẽ với cử tri nơi mình thực hiện nhiệm vụ đại biểu, chịu sự
giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến,
nguyện vọng, kiến nghị của cử tri với HĐND cấp tỉnh và cơ quan nhà nước hữu
quan ở địa phương. Mỗi năm một lần vào cuối năm, kết hợp với việc tiếp xúc cử
tri, đại biểu HĐND cấp tỉnh báo cáo với cử tri ở đơn vị bầu ra mình về hoạt động
trong năm, nhiệm vụ năm tới của mình và của HĐND cấp tỉnh. Sau mỗi kỳ họp
HĐND, đại biểu HĐND cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo với cử tri về kết quả của
kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND, vận động và cùng với
nhân dân thực hiện các nghị quyết đó.
- Trách nhiệm tiếp xúc cử tri, tiếp công dân: Trong thời gian giữa hai kỳ họp,
đại biểu HĐND cấp tỉnh có nhiệm vụ tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu cử của mình,
lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với HĐND cấp tỉnh và các cơ quan
nhà nước khác, báo cáo kết quả kỳ họp với cử tri, tuyên truyền thực hiện tốt pháp
66
luật… Đại biểu HĐND cấp tỉnh có trách nhiệm tiếp công dân theo quy định của
pháp luật36
. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, đại biểu
HĐND có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải
quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết; đôn đốc, theo dõi
và giám sát việc giải quyết. Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho
đại biểu HĐND cấp tỉnh về kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân trong thời hạn do pháp luật quy định. Trong trường hợp xét thấy việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đúng pháp luật, đại biểu HĐND có
quyền gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu
xem xét lại; khi cần thiết, đại biểu HĐND yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó giải quyết.
b. Quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
- Có quyền tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng của địa
phương thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh tại các kì họp, tại các
cuộc họp tổ, đoàn hoặc các tổ chức khác của HĐND cấp tỉnh mà các đại biểu là
thành viên. Đây là quyền hạn quan trọng nhất của đại biểu HĐND cấp tỉnh.
- Có quyền chất vấn Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên
UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND… cùng cấp
- Có quyền kiến nghị HĐND cấp tỉnh bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
người giữ chức vụ do HĐND cấp tỉnh bầu; kiến nghị tổ chức phiên họp chuyên
đề, phiên họp để giải quyết các công việc phát sinh đột xuất, phiên họp kín của
HĐND cấp tỉnh và kiến nghị về những vấn đề khác mà đại biểu thấy cần thiết.
- Có quyền kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân áp dụng biện pháp cần
thiết để thực hiện Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước,
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đại biểu HĐND cấp
36
Xem thêm: Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Tiếp công dân
năm 2013, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018.
67
tỉnh có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần
thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật.
- Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đại biểu HĐND cấp tỉnh có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.
- Có quyền miễn trừ khi làm nhiệm vụ. Theo đó, không được bắt, giam,
giữ, khởi tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu HĐND cấp tỉnh nếu
không có sự đồng ý của HĐND cấp tỉnh hoặc trong thời gian HĐND cấp tỉnh
không họp, không có sự đồng ý của Thường trực HĐND cấp tỉnh. Trường hợp
đại biểu HĐND cấp tỉnh bị tạm giữ vì phạm tội quả tang thì cơ quan tạm giữ
phải lập tức báo cáo để HĐND cấp tỉnh hoặc Thường trực HĐND cấp tỉnh xem
xét, quyết định.
3. Những phẩm chất cơ bản của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
a. Phẩm chất chính trị
Phẩm chất chính trị là yếu tố quan trọng, quyết định đến chất lượng của người
đại biểu HĐND, là động lực tinh thần thúc đẩy người đại biểu HĐND vươn lên
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được nhân dân giao phó.
Khoản 1 Điều 7 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2019) quy định một trong các tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân
là: Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công
cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Căn cứ Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04/8/2017 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII quy định khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí
đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý, khung tiêu chuẩn về chính trị tư tưởng của đại
biểu HĐND có thể được xác định là: Trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc
gia, dân tộc và nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, mục tiêu, lý tưởng về độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi
mới của Đảng. Có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng, không
dao động trong bất cứ tình huống nào, kiên quyết đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh,
đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Có tinh thần yêu
68
nước nồng nàn, đặt lợi ích của Đảng, quốc gia - dân tộc, nhân dân, tập thể lên
trên lợi ích cá nhân; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp của Đảng, vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Yên tâm công tác, chấp hành nghiêm
sự phân của của tổ chức và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao
b. Phẩm chất đạo đức
Về phẩm chất đạo đức, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định, đại biểu HĐND phải “Có phẩm chất đạo
đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật;
có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác”37
Với người đại biểu HĐND nói chung, đại biểu HĐND cấp tỉnh nói riêng,
phẩm chất đạo đức là nền tảng, là gốc, là sức mạnh làm nên tư cách, phẩm giá
người đại biểu nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Cũng
như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn; cây phải có
gốc, không có gốc thì cây chết; người cách mạng phải có đạo đức cách mạng,
không có đạo đức thì có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân"38
.
Đại biểu HĐND cấp tỉnh là người gần dân, thường xuyên tiếp xúc với nhân
dân. Bởi vậy, phẩm chất đạo đức của họ sẽ có tác động rất lớn đối với người
dân, có ảnh hưởng rất lớn đối với hiệu quả công tác của họ. Nếu đại biểu HĐND
cấp tỉnh có đầy đủ các phẩm chất thì sẽ được nhân dân tin tưởng và gửi gắm
những tâm tư, nguyện vọng. Ngược lại, nếu đại biểu HĐND cấp tỉnh không đủ
các phẩm chất đạo đức thì họ sẽ bị mất niềm tin của nhân dân, mọi quyết định
của họ chỉ là võ đoán, xa rời thực tế, không phù hợp với lợi ích của nhân dân.
Đại biểu HĐND cấp tỉnh phải là người gương mẫu đi đầu trong việc chấp
hành chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, nói
đi đôi với làm, là tấm gương sáng để nhân dân noi theo, phải tích cực đấu tranh
chống lại các tiêu cực xã hội như: tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tha hoá, sa
sút về đạo đức lối sống, chạy theo địa vị, danh lợi, tranh giành, kèn cựa lẫn
37
Khoản 1 Điều 7 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). 38
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 252.
69
nhau, mất đoàn kết nội bộ, dối trá, lười biếng, suy thoái, tự diễn biến về tư tưởng
chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng…
Đại biểu HĐND cấp tỉnh muốn được nhân dân tin yêu, thu phục được Nhân
dân thì phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong mọi lúc, mọi nơi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"39
. Phẩm chất
đạo đức của đại biểu HĐND cấp tỉnh phải theo tinh thần: “Trung thành với
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo
vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia”40
.
c. Năng lực thực hiện hoạt động của người đại biểu nhân dân
Ngoài phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức, đại biểu HĐND cấp tỉnh
phải có năng lực thực hiện nhiệm vụ người đại biểu nhân dân. Năng lực thực
hiện nhiệm vụ người đại biểu nhân dân của đại biểu HĐND cấp tỉnh bao gồm
kiến thức, trách nhiệm, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu. Theo đó,
kiến thức của đại biểu HĐND cấp tỉnh thể hiện ở trình độ chuyên môn được đào
tạo, sự am hiểu chủ chương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được
thể hiện ở kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Trách nhiệm đại biểu thể hiện ở các điểm như: (i) Tinh thần, thái độ của đại
biểu đối với những vấn đề mà cử tri quan tâm và với các hoạt động của HĐND
cấp tỉnh; (ii) Việc tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp HĐND cấp tỉnh; (iii)
Chủ động, tích cực nghiên cứu, thảo luận và công tâm, khách quan khi biểu
quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND; (iv) Liên hệ chặt
chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri và báo cáo với cử tri về hoạt động của
mình và của HĐND cấp tỉnh…
Đại biểu HĐND cấp tỉnh có trách nhiệm tốt là người luôn trăn trở, băn
khoăn trước những tâm tư, nguyện vọng của cử tri, luôn tìm cách để giải quyết
các yêu cầu chính đáng của nhân dân; trăn trở trước những vấn đề phát triển đi
39
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 293. 40
Khoản 1, Điều 8 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
70
lên của địa phương, cùng nhân dân tìm cách tháo gỡ những khó khăn, phát huy
những tiềm năng sẵn có của địa phương để phát triển đi lên, từng bước nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; tích cực tuyên truyền, vận động gia
đình, nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Cùng với kiến thức và trách nhiệm, để hoàn thành nhiệm vụ, đại biểu
HĐND cấp tỉnh cần có kỹ năng hoạt động. Kỹ năng hoạt động của đại biểu
HĐND cấp tỉnh là khả năng vận dụng khéo léo, thành thạo những kiến thức và
kinh nghiệm vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ của người đại biểu.
Kỹ năng hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh được biểu hiện cụ thể trên
các khía cạnh như: Kỹ năng xây dựng kế hoạch hoạt động của đại biểu HĐND,
kỹ năng tiếp xúc với cử tri, kỹ năng tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại
chúng, kỹ năng chất vấn, kỹ năng giám sát…
Để có kỹ năng hoạt động tốt, đại biểu HĐND cấp tỉnh phải luôn rèn luyện,
không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, phải gắn lý luận
với thực tiễn, sâu sát thực tế đời sống xã hội trong và ngoài địa phương.
4. Xung đột lợi ích và giải quyết xung đột lợi ích trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
a. Xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh có
điểm chung là sử dụng quyền lực nhà nước theo quy định pháp luật. Cả lý luận
và thực tiễn đã chứng minh, việc sử dụng quyền lực nhà nước luôn có tính hai
mặt, đó là: Không có quyền lực thì không thể thực hiện được chức trách, nhiệm
vụ nguời đại biểu nhân dân; nhưng quyền lực cũng có xu hướng lộng quyền, lạm
quyền, nói cách khác là tha hóa nhằm mục đích vụ lợi, tham nhũng, sách nhiễu,
tiêu cực... Do vậy, cần có những biện pháp kiểm soát hiệu quả để phòng ngừa,
phát hiện, giám sát, theo dõi và xử lý có hiệu quả, tránh sự lạm dụng quyền lực,
bảo đảm tính liêm chính, khách quan trong hoạt động của đại biểu HĐND cấp
tỉnh.
71
Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì "Xung đột lợi ích là
tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân
thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ"41
.
Như vậy, có thể hiểu, xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh là tình huống phát sinh khi việc thực
hiện chức trách, nhiệm vụ của họ bị tác động tiêu cực hoặc sẽ bị tác động tiêu cực
bởi lợi ích cá nhân của chính bản thân đại biểu HĐND cấp tỉnh.
Có thể nhận diện xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh thông qua các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của đại biểu HĐND cấp tỉnh là xung đột trong hoạt động công vụ. Hoạt động
công vụ là quá trình thực thi quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội, trong đó có quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu
HĐND cấp tỉnh. Quá trình này tác động trực tiếp và thường xuyên, liên tục đến
quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý.
Thứ hai, lợi ích và sự thực hiện quyền lực được giao là hai yếu tố quyết
định đến việc xuất hiện xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh. Trong đó:
- Lợi ích (bao gồm lợi ích cá nhân và lợi ích công) là yếu tố cần để làm
xuất hiện xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại
biểu HĐND cấp tỉnh. Lợi ích cá nhân bao gồm cả vật chất (tiền, tài sản, quà
tặng…) và lợi ích phi vật chất (những mối quan hệ tình cảm, sự hàm ơn…). Lợi
ích công bị tác động đó là tính đúng đắn, khách quan của hoạt động công vụ mà
đại biểu HĐND cấp tỉnh phải bảo vệ. Vấn đề đặt ra là lợi ích cá nhân có tác
động như thế nào đến việc thực hiện nhiệm vụ công? Khi đại biểu HĐND cấp
tỉnh không lựa chọn lợi ích cá nhân và đặt việc thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm
lên trên lợi ích cá nhân có được (hoặc có thể có được) thì khi đó tính đúng đắn
của hoạt động công vụ được bảo vệ. Ngược lại trong trường hợp, nếu đại biểu
41
Khoản 8, Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
72
HĐND cấp tỉnh đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích công, để lợi ích cá nhân tác
động tiêu cực dẫn đến việc thực hiện công vụ không đúng với chức trách, nhiệm
vụ để thu lợi cá nhân thì khi đó, tính đúng đắn trong hoạt động công vụ đã bị
xâm hại. Cần lưu ý rằng, nếu đại biểu HĐND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn không đúng đắn mà không nhằm mục đích thu lợi ích riêng thì xung
đột lợi ích không tồn tại mà do nhận thức, trình độ của họ.
Sự thực hiện quyền lực được giao là yếu tố đủ để làm xuất hiện xung đột
lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp
tỉnh. Đây chính là môi trường quyết định đến việc xung đột lợi ích trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh có xuất hiện
hay không. Xung đột lợi ích xuất hiện khi có mối quan hệ trực tiếp (hoặc có thể
chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai) giữa việc đại biểu HĐND cấp tỉnh tham gia
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật (nhân danh quyền
lực được giao) và việc họ có được lợi ích nào đó từ việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn được giao.
Thứ ba, có 2 loại xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh, bao gồm xung đột thực tế và xung đột tiềm ẩn.
- Xung đột lợi ích thực tế: Là tình huống mà lợi ích cá nhân của đại biểu
HĐND cấp tỉnh có tác động trực tiếp (xung đột trực tiếp) với việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao hoặc có căn cứ chắc chắn cho rằng, lợi ích cá
nhân của đại biểu HĐND cấp tỉnh có thể ảnh hưởng không phù hợp đến việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, không phụ thuộc vào sự tác động, ảnh
hưởng đó đã xảy ra trên thực thế hay chưa.
- Xung đột lợi ích tiềm ẩn: Là tình huống mà lợi ích cá nhân của đại biểu
HĐND cấp tỉnh có thể xung đột với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của họ
trong tương lai. Đây là loại xung đột ở hiện tại chưa nảy sinh nhưng khi có điều
kiện sẽ nảy sinh trong tương lai và “điều kiện nảy sinh” này lại rất dễ xuất hiện
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh.
b. Giải quyết xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
73
Xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại
biểu HĐND cấp tỉnh nếu không được giải quyết một cách triệt để thì sẽ là nguy
cơ, là mối đe dọa, là nguồn gốc và là căn nguyên cơ bản nhất có thể dẫn đến
những sự xung đột xã hội nghiêm trọng. Để giải quyết xung đột lợi ích trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh, một số giải
pháp được đưa ra là:
Một là, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực
chuyên môn và kỹ năng hoạt động cho đại biểu HĐND cấp tỉnh đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, nhằm giảm thiểu những xung đột lợi ích có thể
phát sinh, làm tổn hại lợi ích của Nhà nước và Nhân dân. Đây được coi là giải
pháp quan trọng có tính chất quyết định đến việc giải quyết xung đột lợi ích
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh. Do
vậy, đây cần được xem xét là giải pháp quan trọng, cơ bản cần phải thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả, làm cơ sở cho thực hiện các giải pháp tiếp theo.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động của đại biểu
HĐND, đồng thời tăng cường tính công khai, minh bạch, bảo đảm thực thi trách
nhiệm giải trình trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu
HĐND cấp tỉnh.
Ba là, thiết lập cơ chế kiểm soát để ngăn chặn những tác động tiêu cực mà
xung đột lợi ích có thể gây ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
đại biểu HĐND cấp tỉnh. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, để đảm bảo hiệu quả
kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động thực thi công vụ của đại biểu HĐND
cấp tỉnh cần xây dựng một cơ chế kiểm soát xung đột lợi ích có đủ ba yếu tố, đó
là: (1) Giảm thiểu nguy cơ phát sinh tình huống xung đột lợi ích tiềm ẩn trong
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh; (2) Kiểm soát và
loại bỏ được các “vùng cấm” có thể tạo ra xung đột lợi ích trong thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh (kiểm soát xung đột lợi ích
thực tế); (3) Kịp thời phát hiện và xử lý xung đột lợi ích khi những tình huống
này phát sinh.
74
Bốn là, phát huy vai trò của Nhà nước, nhân dân, xã hội và các cơ quan
truyền thông trong kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ của đại
biểu HĐND cấp tỉnh. Hiện tại, hệ thống giám sát hoạt động công vụ từ phía cơ
quan nhà nước, xã hội, cơ quan truyền thông chủ yếu nhằm mục đích phát hiện
hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo thực hiện hoạt động công vụ nói chung và
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND cấp tỉnh nói riêng. Mục tiêu
phòng ngừa vi phạm hay phát hiện tình huống xung đột lợi ích trong hoạt động
công vụ của đại biểu HĐND cấp tỉnh chưa được đề cao và chủ động thực hiện.
Năm là, có chế tài đủ mạnh, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh những
trường hợp đại biểu HĐND vi phạm pháp luật khi xử lý xung đột lợi ích, không
có “vùng cấm”, không có ngoại lệ.
75
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích các nguyên tắc phân định thẩm quyền chính quyền địa
phương; những giải pháp để các nguyên tắc này được thực hiện có hiệu lực,
hiệu quả; trách nhiệm của đại biểu HĐND trong việc góp phần thực hiện các
nguyên tắc này. Liên hệ thực tế ở tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi đại
biểu HĐND công tác).
2. Phân tích mối quan hệ giữa HĐND cấp tỉnh và UBND cấp tỉnh trong
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp tỉnh.
3. Phân tích nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh. Những yếu tố tác động đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
HĐND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi đại biểu HĐND công tác).
4. Vị trí, vai trò, trách nhiệm của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong việc nâng
cao chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh. Liên hệ thực tế bản thân đại
biểu HĐND.
5. Kinh nghiệm của bản thân đại biểu HĐND trong việc giải quyết các
xung đột khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND.
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO DÀNH CHO HỌC VIÊN
1. Hiến pháp Việt Nam năm 2013
2. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2019.
3. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015
4. Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
5. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
6. Nghị quyết số 629/2019/UBTVQH14 ngày 30/01/2019 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội hướng dẫn một số hoạt động của Hội đồng nhân dân.
7. Văn bản số 883/HD-UBTVQH14 ngày 02/6/2021 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội Hướng dẫn một số nội dung về việc tổ chức kỳ họp thứ nhất của
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021- 2026
8. Công văn số 3308/BNV-CQĐP ngày 08/7/2021 của Bộ Nội vụ Về việc
bầu người đứng đầu cơ quan chuyên môn giữ chức danh Ủy viên UBND cấp
tỉnh, cấp huyện nhiệm kỳ 2021-2026.
9. Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc
trung ương (nơi đại biểu HĐND công tác).
77
Chuyên đề 3
KỸ NĂNG CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TRONG THAM GIA XÂY DỰNG, BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT,
THẨM TRA BÁO CÁO, ĐỀ ÁN
I. Khái quát về nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1. Khái niệm, phân loại nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Ban hành văn bản là một trong những hình thức hoạt động chủ yếu của các
cơ quan nhà nước để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, trong đó có các
nghị quyết.
Theo các quy định hiện hành, nghị quyết (trong quản lý nhà nước) là một
trong những hình thức văn bản của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, HĐND các cấp.42
Nghị quyết của HĐND được HĐND ban hành để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của HĐND. Trong quá trình hoạt động, HĐND thảo luận và thông qua
các loại nghị quyết sau:43
a. Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng,
an ninh 5 năm, hàng năm và 6 tháng. Đây là các loại nghị quyết được ban hành
trong các kỳ họp định kỳ của HĐND cấc cấp. Riêng với nghị quyết 5 năm,
HĐND sẽ ban hành ngay trong kỳ họp thứ nhất của nhiệm kỳ HĐND (trường
hợp chưa chuẩn bị kịp thì có thể thông qua vào kỳ họp thứ hai).
b. Nghị quyết cụ thể hóa các chính sách của cấp trên (trong trường hợp cần
thiết phải ban hành những văn bản để giải thích, hướng dẫn cho phù hợp với đặc
điểm của địa phương nhưng không được trái với quy định của cấp trên). Những
nghị quyết loại này không phải kỳ họp HĐND nào cũng ban hành mà chỉ ban
42
Chẳng hạn, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2020), Hội đồng nhân dân cấp huyện ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định để
quy định những vấn đề được luật, nghị quyết của Quốc hội giao hoặc để thực hiện việc phân cấp cho chính
quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương; Hội
đồng nhân dân cấp xã ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân cấp xã ban hành quyết định để quy định những vấn
đề được luật, nghị quyết của Quốc hội giao. 43
Xem thêm trong Ban Công tác đại biểu - Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Kiến thức và kỹ năng cơ bản dành cho
đại biểu HĐND. Hà Nội, 2021, trang 90-93.
78
hành khi cần thiết. Thông thường, những nghị quyết loại này chỉ ban hành khi
pháp luật quy định.44
c. Nghị quyết ban hành các chính sách riêng của địa phương: HĐND có
thẩm quyền ban hành các chính sách của địa phương để đề ra các mục tiêu, giải
pháp và huy động các nguồn lực để đầu tư, phát triển các ngành, lĩnh vực cũng
như để thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp theo quy định của pháp luật.
Những nghị quyết loại này thường gắn liền với sự chủ động về ngân sách địa
phương nên chủ yếu do HĐND cấp tỉnh ban hành.
d. Nghị quyết về chương trình giám sát, thành lập đoàn giám sát của
HĐND; chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật; kế hoạch tổ chức
kỳ họp HĐND hàng năm,… của HĐND. Các loại nghị quyết này thường do
Thường trực HĐND chuẩn bị và trình ra HĐND thông qua theo quy định của
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)
và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
đ. Nghị quyết cá biệt về nhân sự của HĐND. Các loại nghị quyết này thường
được ban hành trong kỳ họp thứ nhất của nhiệm kỳ khi HĐND bầu và phê chuẩn
các chức danh lãnh đạo theo quy định thuộc thẩm quyền của HĐND và có thể có
cả trong các kỳ họp khác khi có yêu cầu thay đổi bộ máy nhân sự CQĐP ở những
vị trí do HĐND bầu và quyết định theo quy định của pháp luật, chẳng hạn cần
phải bầu bổ sung, thay thế các ủy viên UBND là trưởng các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND khi có người về hưu hay được điều chuyển công tác khác.
Thông thường, các nghị quyết của HĐND được chia thành 2 nhóm lớn: Các
nghị quyết có quy phạm pháp luật (nghị quyết là văn bản quy phạm pháp luật)
và các nghị quyết cá biệt. Để xác định nội dung nghị quyết cần được ban hành
dưới hình thức nghị quyết có quy phạm pháp luật hay nghị quyết cá biệt, phải
căn cứ vào Điều 3 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và
44
Chẳng hạn, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 (Điều 30) quy định: Hội đồng nhân dân quyết định dự toán
thu, chi ngân sách địa phương và HĐND cấp tỉnh quyết định việc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cho các
cấp ngân sách ở địa phương. Dựa vào đó, HĐND cấp tỉnh đều ban hành Nghị quyết quy định về phân cấp ngân
sách này.
79
khoản 1 Điều 1 Nghị định số 154/2020/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Theo đó, nghị quyết do HĐND ban hành không phải là văn bản quy phạm
pháp luật trong các trường hợp sau:
- Nghị quyết miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu HĐND và các chức vụ khác;
- Nghị quyết phê chuẩn kết quả bầu cử đại biểu HĐND và bầu các chức vụ
khác;
- Nghị quyết giải tán HĐND;
- Nghị quyết phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh,
cấp huyện;
- Nghị quyết thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan chuyên môn thuộc
UBND; quyết định thành lập các ban, ban chỉ đạo, hội đồng, ủy ban để thực hiện
nhiệm vụ trong một thời gian xác định;
- Nghị quyết tổng biên chế ở địa phương;
- Nghị quyết dự toán, quyết toán ngân sách địa phương;
- Nghị quyết về chương trình, đề án, dự án, kế hoạch;
- Các nghị quyết, quyết định khác không có nội dung quy định tại các Điều
27, 28, 29 và 30 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2020).
2. Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong ban hành nghị
quyết
Việc ban hành nghị quyết của HĐND phải phù hợp với nhiệm vụ, quyền
hạn của HĐND, không được phép ban hành các nghị quyết vượt ra ngoài nhiệm
vụ, quyền hạn của mình. Vì vậy, việc xác định thẩm quyền ban hành nghị quyết
của HĐND phải dựa vào chức năng, nhiệm vụ của HĐND từng cấp. Theo quy
định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2019), nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh rất rộng, bao quát đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội trên địa bàn cấp tỉnh.45
45
Xem thêm Điều 19, 41 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
80
Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh, HĐND cấp tỉnh ban
hành các văn bản, trong đó chủ yếu là các nghị quyết và giám sát việc thực hiện các
nghị quyết này. Điều 27 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2020), HĐND cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định:
- Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên;
- Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
- Biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an
ninh ở địa phương;
- Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương.
Theo quy định hiện hành, UBND cấp tỉnh, các Ban của HĐND cấp tỉnh và
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp căn cứ văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên, tự mình hoặc theo đề xuất của cơ quan, tổ chức,
đại biểu HĐND, có trách nhiệm đề nghị xây dựng nghị quyết của HĐND để quy
định chi tiết vấn đề được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên hoặc để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh.46
3. Trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh gồm 2 loại là nghị quyết có quy phạm pháp
luật và nghị quyết cá biệt không chứa quy phạm pháp luật. Hai loại nghị quyết này
có trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành khác nhau.
a. Đối với nghị quyết có quy phạm pháp luật
Trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành nghị quyết có quy phạm pháp luật của
HĐND cấp tỉnh phụ thuộc vào chủ thể trình dự thảo nghị quyết theo quy định của
pháp luật. Cụ thể, tại các điều từ 111 đến 126 Luật Ban hành văn bản quy phạm
46
Xem Điều 111 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
81
pháp luật47 quy định 3 giai đoạn chủ yếu (mỗi giai đoạn có thể gồm nhiều bước
khác nhau) để xây dựng và ban hành nghị quyết của HĐND cấp tỉnh, cụ thể:
- Xây dựng, thông qua đề nghị xây dựng nghị quyết của HĐND cấp tỉnh;
- Soạn thảo dự thảo và thẩm định dự thảo nghị quyết (đối với dự thảo do
UBND cấp tỉnh trình);
- Thẩm tra, trình, xem xét, thông qua nghị quyết.
Ba giai đoạn này có nhiều bước thực hiện, trong đó phải đảm bảo có lấy ý
kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; Sở Tư pháp thẩm định và các
ban của HĐND thẩm tra. Ngoài ra, trong một số trường hợp quy định tại Điều 146
của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2020), nghị quyết của HĐND cấp tỉnh có thể được xây dựng, ban hành theo trình
tự, thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 149 Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
Cơ quan được giao nhiệm vụ tham mưu trình dự thảo nghị quyết ra HĐND
cần xác định rõ nghị quyết trình HĐND cấp tỉnh thuộc trường hợp nào trong 04
trường hợp quy định tại Điều 27 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) để làm cơ sở tham mưu UBND cấp tỉnh trình
HĐND cấp tỉnh ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, cụ thể:
(i) Đối với ban hành nghị quyết thuộc trường hợp tại khoản 1 Điều 27 Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020)
“trường hợp ban hành văn bản quy định chi tiết văn bản của cấp trên”.
Cơ quan chủ trì tham mưu thực hiện quy trình xây dựng nghị quyết của
HĐND cấp tỉnh theo các bước như sau:
- Bước 1: Tham mưu UBND cấp tỉnh trình Thường trực HĐND cấp tỉnh
thông qua đề nghị xây dựng nghị quyết.
Sau khi được Thường trực HĐND cấp tỉnh chấp thuận thông qua đề nghị
xây dựng nghị quyết, cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục thực hiện các bước tiếp
theo.
47
Xem thêm Điều 111, 116,117,119,121,122, 124 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2020).
82
- Bước 2: Tổ chức soạn thảo nghị quyết;
- Bước 3: Tổ chức lấy ý kiến về dự thảo nghị quyết;
- Bước 4: Hoàn chỉnh hồ sơ, gửi Sở Tư pháp thực hiện thẩm định;
- Bước 5: Trình UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định trình;
- Bước 6: Trình các Ban HĐND cấp tỉnh thực hiện thẩm tra;
- Bước 7: Hoàn chỉnh hồ sơ, trình HĐND cấp tỉnh thông qua .
(ii) Đối với ban hành nghị quyết thuộc trường hợp tại khoản 2, 3, 4 Điều 27
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2020) “trường hợp ban hành văn bản để quy định chính sách, biện pháp quản lý
phù hợp với tình hình thực tế của địa phương”.
- Bước 1: Tham mưu HĐND cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định
chính sách, biện pháp quản lý phù hợp với tình hình thực tế của địa phương bao
gồm các hoạt động sau:
+ Xây dựng nội dung đề nghị xây dựng nghị quyết: nội dung chính sách;
đánh giá tác động chính sách;
+ Thực hiện lấy ý kiến về đề nghị xây dựng nghị quyết;
+ Hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị xây dựng nghị quyết, gửi Sở Tư pháp thẩm
định;
+ Trình UBND cấp tỉnh thông qua chính sách trong đề nghị xây dựng nghị
quyết;
+ Trình Thường trực HĐND cấp tỉnh thông qua đề nghị xây dựng nghị
quyết.
- Bước 2: Tổ chức soạn thảo nghị quyết
Sau khi được Thường trực HĐND cấp tỉnh chấp thuận thông qua đề nghị
xây dựng nghị quyết, cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục thực hiện việc xây dựng
nghị quyết theo quy định, cụ thể:
+ Tổ chức soạn thảo nghị quyết;
+ Tổ chức lấy ý kiến về dự thảo nghị quyết;
+ Hoàn chỉnh hồ sơ, gửi Sở Tư pháp thực hiện thẩm định;
+ Trình UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định trình;
83
+ Trình các Ban HĐND cấp tỉnh thực hiện thẩm tra;
+ Hoàn chỉnh hồ sơ, trình HĐND cấp tỉnh thông qua .
(iii) Riêng đối với nghị quyết do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tỉnh, các Ban HĐND cấp tỉnh tham mưu trình HĐND cấp tỉnh thì quy trình ban
hành không phải lấy ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp. Trong quá trình tổ chức
lấy ý kiến, có thể tiến hành gửi lấy ý kiến góp ý của Sở Tư pháp để hoàn thiện
hơn về thể thức trình bày và nội dung.
b. Đối với nghị quyết cá biệt không chứa đựng quy phạm pháp luật
Hiện nay, đối với việc ban hành nghị quyết cá biệt, không chứa các quy
phạm pháp luật của HĐND, chưa có quy định pháp luật thống nhất, quy định cụ
thể về trình tự, thủ tục ban hành.
Về nguyên tắc, việc ban hành nghị quyết cá biệt của HĐND các cấp phải
đảm bảo quy định tại khoản 4 Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), trong đó quy định “Ban của HĐND là cơ
quan của HĐND, có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước
khi trình HĐND, giám sát, kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ
trách; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND”.
HĐND cấp tỉnh có thể triển khai ban hành nghị quyết cá biệt theo các bước
như sau:
- Các ban của HĐND, đại biểu HĐND, UBND hoặc các cơ quan khác đề
xuất việc ban hành nghị quyết theo thẩm quyền;
- Lấy ý kiến góp ý của các sở, ban, ngành, địa phương và người dân (nếu
cần thiết);
- Họp, thông qua tập thể UBND trước khi trình (nếu có);
- Lấy ý kiến thẩm tra của các Ban của HĐND cùng cấp;
- Hoàn chỉnh dự thảo, trình HĐND xem xét, thông qua.
II. Một số kỹ năng của đại biểu Hội đồng nhân dân trong tham gia xây
dựng, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1. Tham gia xác định mục tiêu của dự thảo nghị quyết
84
Tham gia của đại biểu HĐND vào xây dựng, ban hành nghị quyết trước hết
là tham gia vào quá trình sáng kiến nghị quyết, tham gia vào việc hình thành
chương trình xây dựng nghị quyết. Chương trình xây dựng nghị quyết của
HĐND nói chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng có thể được thực hiện theo từng
năm hoặc cho toàn khóa của HĐND.
Một trong những nhiệm vụ và chức năng quan trọng của nghị quyết của
HĐND, đặc biệt là các nghị quyết chứa quy phạm pháp luật, là giải quyết các
vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND trên địa bàn. Mỗi nghị quyết như vậy đều
có một mục tiêu nhất định, hướng vào giải quyết một hay một số vấn đề bức xúc
trên địa bàn. Vì thế, vấn đề xã hội là nguồn gốc để hình thành nghị quyết.
Các nghị quyết của HĐND đều chứa đựng cách thức giải quyết những vấn
đề nhất định diễn ra trên địa bàn, vì vậy, lựa chọn chính xác vấn đề cần giải
quyết để đưa vào nghị trình ban hành nghị quyết của Hội đồng có ý nghĩa đặc
biệt quan trộng và sự tham gia của đại biểu HĐND vào việc xác định các vấn đề
để đưa vào chương trình ban hành nghị quyết là hết sức cần thiết.
Theo quy định, UBND cấp tỉnh, các Ban của HĐND cấp tỉnh và Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp căn cứ văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên, tự mình hoặc theo đề xuất của cơ quan, tổ chức, đại
biểu HĐND, có trách nhiệm đề nghị xây dựng nghị quyết của HĐND để quy
định chi tiết vấn đề được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên hoặc để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh.48
Như vậy, đại biểu HĐND cấp tỉnh là một trong những chủ thể sáng kiến
ban hành nghị quyết. Để có thể đưa ra sáng kiến nghị quyết hoặc đánh giá được
các sáng kiến nghị quyết trong chương trình ban hành nghị quyết của Hội đồng,
các đại biểu HĐND phải tích cực tham gia vào việc xác định các vấn đề xã hội
đang bức xúc trên địa bàn làm căn cứ để xác định mục tiêu cho từng nghị quyết.
Đại biểu HĐND cần phát huy vai trò và chức năng thiết lập nghị trình ban
hành nghị quyết. Việc thực hiện tốt điều này vừa thể hiện tính trách nhiệm và
tính đáp ứng của đại biểu HĐND trước cử tri và nhân dân, vừa góp phần thúc
48
Xem Điều 111 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
85
đẩy tính đáp ứng và tính trách nhiệm của HĐND và bộ máy chính quyền nói
chung.
Để có thể tham gia vào việc xác định những nội dung vấn đề cần thiết phải
ban hành nghị quyết của HĐND để giải quyết, các đại biểu HĐND phải có kỹ
năng xác định vấn đề xã hội và biết cách lựa chọn vấn đề xã hội nào cần thiết để
đưa vào chương trình ban hành nghị quyết để giải quyết.
Theo quy định tại Điều 113 Hiến pháp năm 2013, HĐND quyết định các
vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp
luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND. Chính vì vậy, việc
xác định các vấn đề quan trọng để đưa vào chương trình xây dựng nghị quyết
của HĐND là rất cần thiết. Việc xác định vấn đề nào là quan trọng ở mỗi địa
phương tùy thuộc vào điều kiện và thực trạng của mỗi địa phương, thể hiện qua
những bức xúc của xã hội, qua mong muốn, nguyện vọng của cử tri và qua phân
tích các vấn đề kinh tế - xã hội của địa phương.
Một vấn đề xã hội có thể được nhận biết qua thực tiễn quản lý các mặt của
đời sống xã hội trên địa bàn; cũng có thể được phát hiện qua các phương tiện
thông tin đại chúng hay các nghiên cứu chính sách. Đại biểu HĐND nên chủ
động trong việc tìm hiểu, nghiên cứu các mặt của đời sống xã hội trên địa bàn,
tích cực tiếp xúc cử tri để lắng nghe ý kiến của họ để thấy được những vấn đề
bức xúc cần giải quyết. Có như vậy, nội dung của các nghị quyết của HĐND
mới mang “hơi thở của cuộc sống hiện thực”, đi vào giải quyết được các vấn đề
cụ thể, bức xúc của người dân và xã hội trên địa bàn, qua đó mới tạo nên niềm
tin của người dân đối với chính quyền nói chung và đại biểu HĐND nói riêng.
Trong xã hội hiện đại, thường xuất hiện nhiều vấn đề xã hội cùng lúc, vấn
đề xã hội này xuất hiện kế tiếp vấn đề xã hội khác. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân cả chủ quan và khách quan, không phải tất cả các vấn đề xã hội đều được
giải quyết, tức là không phải vấn đề nào cũng có thể được HĐND dự kiến đưa
vào nghị quyết. Chỉ những vấn đề xã hội mà HĐND thấy cần thiết, quan trọng
và có thể thực hiện được mới nằm trong nghị trình ban hành nghị quyết.
86
Điểm cốt yếu ở bước này là làm thế nào để xác định “đúng” và “trúng” vấn
đề xã hội cần giải quyết bằng nghị quyết. Điều đó có nghĩa là các đại biểu
HĐND phải xác định được chính xác các vấn đề của địa phương (tỉnh/thành phố
trực thuộc trung ương) cần phải giải quyết, tránh tình trạng có những vấn đề xã
hội bức xúc nhưng lại chậm trễ trong việc đưa vào nghị trình ban hành, hoặc có
những vấn đề xã hội chưa thật sự bức thiết nhưng được ưu tiên đưa vào nghị
trình ban hành nghị quyết. Nội dung thảo luận cần tập trung vào những vấn đề
“nóng”, được nhiều người quan tâm hay trực tiếp liên quan tới đời sống của
người dân trên địa bàn.
Thực tiễn cho thấy, một số vấn đề gắn liền với nhu cầu, yêu cầu bức thiết
của xã hội cũng như liên quan đến lợi ích và cuộc sống của người dân chậm
được đưa vào nghị trình ban hành nghị quyết của HĐND. Do đó, để thực hiện
tốt vai trò tham gia thiết lập nghị trình ban hành nghị quyết, đại biểu HĐND cần:
(i) tăng cường nắm bắt tình hình thực tế của địa phương; tăng cường tương tác
và tiếp xúc với cử tri nhằm nắm bắt kịp thời và đầy đủ tâm tư, nguyện vọng
cũng như những phản ánh của cử tri; (ii) đại biểu HĐND và Văn phòng Đoàn
đại biểu Quốc hội và HĐND cấp tỉnh cần có cơ chế để tổng hợp, tiếp nhận và xử
lý thông tin do báo chí phản ánh; (iii) đại biểu HĐND cần chủ động hơn nữa
trong hoạt động nêu sáng kiến ban hành nghị quyết; (iv) tăng cường tương tác và
tiếp xúc với giới chuyên gia và đội ngũ trí thức để lắng nghe các ý kiến, kiến
nghị của họ về các vấn đề xã hội bức xúc cần quan tâm giải quyết.
2. Tham gia phân tích nội dung trọng tâm của dự thảo nghị quyết
Trước khi nghị quyết của HĐND được thông qua trong phiên họp toàn thể,
các đại biểu HĐND cấp tỉnh cần nghiên cứu kỹ dự thảo để xem xét xem nội
dung của dự thảo nghị quyết có phù hợp và giải quyết được các vấn đề mà nghị
quyết đề cập hay không. Để làm được điều này, đại biểu cần phân tích được các
nội dung của nghị quyết. Đây có thể xem như một bước trong quy trình phân
tích các chính sách chứa đựng trong nội dung của nghị quyết.49
49
Đánh giá tác động của chính sách là việc phân tích, dự báo tác động của chính sách đang được xây dựng đối
với các nhóm đối tượng khác nhau nhằm lựa chọn giải pháp tối ưu thực hiện chính sách.
87
Theo quy định hiện hành, chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai mạc kỳ
họp HĐND, cơ quan trình dự thảo nghị quyết phải gửi đầy đủ hồ sơ dự thảo nghị
quyết tới các ban của HĐND để thẩm tra. Hồ sơ trình lên các ban bao gồm: tờ
trình HĐND về dự thảo nghị quyết; bản dự thảo nghị quyết; báo cáo thẩm định
và báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến của UBND đối với dự thảo (nếu dự thảo là
của của cá nhân hay của các cơ quan ngoài UBND trình); bản giải trình, tiếp thu
ý kiến của các tổ chức và cá nhân; báo cáo đánh giá tác động của chính sách đối
với các nghị quyết được quy định tại khoản 2 và 3 Điều 27 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) (các nghị quyết
chứa chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và các nghị quyết chứa đựng các
biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa
phương).
Việc phân tích chính sách nên tập trung vào việc phân tích, đánh giá tác
động của chính sách tới đời sống kinh tế - xã hội của địa phương. Để làm điều
đó, trước hết các đại biểu cần làm rõ: nghị quyết đề cập tới vấn đề trọng tâm
nào? Vấn đề đó có tạo ra bức xúc của người dân hay không? Những giải pháp
mà nghị quyết đưa ra sẽ giải quyết được các nguyên nhân nào trong vấn đề
chính sách? Giải quyết được đến mức độ nào? Tác động của các giải pháp này
đối với xã hội, nhất là đối với nhóm đối tượng chính sách như thế nào?
Theo quy định của Nghị định 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bằng
Nghị định 154/2020/NĐ-CP của Chính phủ) hướng dẫn thực hiện Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), tác động của
chính sách được đánh giá gồm:50
- Tác động về kinh tế được đánh giá trên cơ sở phân tích chi phí và lợi ích
đối với một hoặc một số nội dung về sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, môi
trường đầu tư và kinh doanh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, tổ chức
và cá nhân, cơ cấu phát triển kinh tế của quốc gia hoặc địa phương, chi tiêu
công, đầu tư công và các vấn đề khác có liên quan đến kinh tế;
50
Xem Điều 6 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP).
88
- Tác động về xã hội của chính sách được đánh giá trên cơ sở phân tích, dự
báo tác động đối với một hoặc một số nội dung về dân số, việc làm, tài sản, sức
khỏe, môi trường, y tế, giáo dục, đi lại, giảm nghèo, giá trị văn hóa truyền thống,
gắn kết cộng đồng, xã hội và các vấn đề khác có liên quan đến xã hội;
- Tác động về giới của chính sách (nếu có) được đánh giá trên cơ sở phân
tích, dự báo các tác động kinh tế, xã hội liên quan đến cơ hội, điều kiện, năng
lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới;
- Tác động của thủ tục hành chính (nếu có) được đánh giá trên cơ sở phân
tích, dự báo về sự cần thiết, tính hợp pháp, tính hợp lý và chi phí tuân thủ của
thủ tục hành chính để thực hiện chính sách;
- Tác động đối với hệ thống pháp luật được đánh giá trên cơ sở phân tích,
dự báo khả năng về thi hành và tuân thủ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, tác
động đối với tổ chức bộ máy nhà nước, khả năng thi hành và tuân thủ của Việt
Nam đối với các điều ước quốc tế.
Việc phân tích kỹ những nội dung chủ yếu của nghị quyết và tác động của
những chính sách trong dự thảo nghị quyết lên đời sống xã hội cho phép người
đại biểu:
- Xem xét, cân nhắc về các giải pháp đang có trong dự thảo dựa trên việc
phân tích chi phí - lợi ích; dựa trên các đánh giá tác động tích cực và tiêu cực để
có thể dự báo được những ưu điểm và khiếm khuyết của các phương án này;
- Giúp nâng cao chất lượng của nghị quyết, tăng cường tính thực tế và qua
đó nâng cao tính khả thi cho nghị quyết khi được thông qua;
- Giúp đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các chính sách chứa đựng
trong các nghị quyết đã có hoặc sắp ban hành của HĐND;
- Giúp cho việc thực hiện chính sách dễ dàng hơn, đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu của nhóm đối tượng của nghị quyết.
Để có thể có đóng góp tích cực vào phân tích nội dung của nghị quyết cần
nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết để phân tích vấn đề, do đó cần nắm
được kỹ năng thu thập và xử lý thông tin.
89
Những yêu cầu cơ bản đối với nguồn thông tin mà nhà quản lý cần để phục
vụ cho quá trình ra quyết định là: thông tin phải chính xác, đầy đủ, kịp thời và
phù hợp. Để có được thông tin chính xác, khách quan, đầy đủ và kịp thời, trong
quá trình xác định vấn đề cần lưu ý các điểm sau đây:
+ Để đảm bảo tính chính xác của thông tin, cần lựa chọn đúng nguồn thông
tin khách quan và đáng tin cậy;
+ Để có được thông tin kịp thời, cần thường xuyên và chủ động thu thập
các thông tin có liên quan tới hoạt độnng trên địa bàn một cách định kỳ;
+ Cần xây dựng một hệ thống xử lý thông tin tin cậy;
+ Biết lựa chọn đúng các thông tin cần thiết.
Những thông tin cần thu thập khi phân tích nội dung vấn đề trong nghị
quyết của HĐND có thể bao gồm:
- Thông tin chính trị - pháp lý: Là những thông tin có trong các văn bản,
quy định của Đảng và trong các văn bản quy định pháp luật của Nhà nước. Đây
là loại thông tin không thể thiếu trong mọi hoạt động của đại biểu HĐND, trong
đó có hoạt động phân tích nội dung dự thảo nghị quyết vì những thông tin này
giúp cho đại biểu HĐND đánh giá được mức độ tuân thủ pháp luật của các quy
định, giải pháp được nêu trong nghị quyết. Các thông tin thuộc nhóm này
thường được thu thập bằng phương pháp nghiên cứu thư viện (desk study).
- Thông tin thực tế: Là những thông tin từ thực tiễn đời sống kinh tế-xã hội
của địa phương; những kết quả thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước trên địa bàn. Những thông tin này có thể có được quan các
báo cáo của các đơn vị có liên quan, các cơ quan nằm dưới sự giám sát của
HĐND, qua việc tiếp xúc với công dân, với cử tri tại các cuộc tiếp xúc cử tri
theo kế hoạch hoặc các buổi gặp gỡ, trao đổi với người dân, cán bộ, công chức,
viên chức,... Thông tin nhóm này cũng có thể thu thập được thông qua các hoạt
động điều tra khảo sát bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu hay quan sát.
Chẳng hạn, nếu HĐND tỉnh dự kiến ban hành nghị quyết “Phát triển giáo
dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh năm 2021-2025” thì các thông tin cần thiết phải
tiến hành thu thập sẽ bao gồm:
90
- Thông tin chính trị - pháp lý: Chủ trương của Đảng về đổi mới toàn diện
công tác giáo dục và đào tạo; nội dung liên quan tới giáo dục, đào tạo cấp tỉnh
trong Luật Giáo dục; các nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, các quy định đã có của HĐND tỉnh các khóa trước và của UBND tỉnh;
các chính sách về giáo dục hiện đang thực hiện,...
- Thông tin thực tế: các thông tin trong các báo cáo của ngành giáo dục -
đào tạo của tỉnh; các báo cáo giám sát của Ban Văn hóa - Xã hội của HĐND cấp
tỉnh và cấp huyện đã có; nội dung phản ánh qua các cuộc tiếp xúc với đội ngũ
giáo viên, cử tri...
3. Tham gia nhận xét tính hợp pháp, hợp lý của dự thảo nghị quyết
Đại biểu HĐND cấp tỉnh trong công việc của mình thường phải tham gia
vào đánh giá một số lượng lớn các dự thảo nghị quyết trước khi có thể tham gia
vào tranh luận và biểu quyết thông qua các nghị quyết này. Có những nghị quyết
mang tính đơn lẻ, cá biệt, không phức tạp nhưng cũng có những nghị quyết có
nội dung rất phức tạp, bao trùm mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của địa phương. Để
làm tốt nhiệm vụ này, các đại biểu cần nắm được kỹ năng, cách thức đọc và hiểu
về dự thảo nghị quyết (cả về mặt nội dung và hình thức) với mục đích là không
bỏ sót các yếu tố quan trọng, phát hiện được các điểm thiếu sót hay không chính
xác, không hợp lý trong các dự thảo để yêu cầu bổ sung, hoàn chỉnh và từ đó lựa
chọn được các vấn đề trọng tâm, nổi bật để có ý kiến tham gia của mình khi ban
hành nghị quyết.
Việc xem xét dự thảo nghị quyết trước hết phải tập trung vào xem xét tới
quy trình, thủ tục ban hành nghị quyết. Ở nội dung này, các đại biểu cần xem xét
để đánh giá xem dự thảo nghị quyết đã được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục
đã được pháp luật quy định đối với từng loại dự thảo hay chưa. Những vấn đề cụ
thể cần lưu ý là:51
a. Nhận xét, đánh giá về quy trình, thủ tục
51
Xem Ban Công tác đại biểu - Ủy ban thường vụ Quốc hội: Kiến thức và kỹ năng cơ bản dành cho đại biểu
HĐND. Hà Nội, 2021, trang 185-186.
91
- Dự thảo nghị quyết do cơ quan nào đề xuất và tiến hành biên soạn? Các
bước lập hồ sơ để xây dựng dự thảo đã chính xác chưa?
- Xem xét hồ sơ do cơ quan soạn thảo trình đã đầy đủ chưa? Trường hợp
chưa đủ, đại biểu có thể yêu cầu cơ quan soạn thảo dự thảo nghị quyết bổ sung
thêm cho đầy đủ theo yêu cầu, nhất là những văn bản như ý kiến đóng góp của
các bên có liên quan tới dự thảo nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật;
- Các góp ý của các cơ quan, đơn vị có liên quan và báo cáo thẩm định.
b. Nhận xét, đánh giá về nội dung của dự thảo nghị quyết
Dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh sau khi được soạn thảo và lấy ý
kiến của các bên liên quan, cần phải được thẩm định qua các cơ quan chuyên
môn của UBND trước khi trình ra HĐND, ý kiến các cơ quan có liên quan xem
xét các nội dung của nghị quyết để đảm bảo tính hợp pháp cũng như hợp lý của
nghị quyết (Ví dụ: thẩm tra về tính khả thi về tài chính, thẩm tra tính khả thi về
nhân sự…).
Vì vậy, về cơ bản, các dự thảo nghị quyết khi chuyển tới các đại biểu đã
được khẳng định về mặt pháp lý. Tuy nhiên, với nhiệm vụ là chủ thể tham gia
ban hành nghị quyết, các đại biểu vẫn phải thực hiện việc đánh giá dự thảo về
nội dung. Việc đánh giá các nội dung của dự thảo chính sách cần tập trung vào
hai khía cạnh chủ yếu: tính hợp pháp và tính hợp lý của các giải pháp.
Các yêu cầu hợp pháp đặt ra đối với nội dung của nghị quyết của HĐND
bao gồm:
Thứ nhất, nội dung của nghị quyết phải phù hợp với chủ trương, đường lối
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nghị quyết của HĐND phải xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng,
cụ thể hóa chủ trương, đường lối này cho phù hợp với những đặc điểm của địa
phương mình.
Do đặc tính của các hoạt động quản lý nhà nước là quản lý bằng pháp luật
và theo pháp luật nên bất kỳ một quyết định nào của cơ quan nhà nước hay của
các cá nhân được trao thẩm quyền, trong đó có nghị quyết của HĐND, cũng
không được trái với Hiến pháp, luật. Ngoài ra, do hệ thống các cơ quan nhà
92
nước là một hệ thống có thứ bậc chặt chẽ nên một quyết định quản lý nhà nước
sẽ chỉ hợp pháp khi nó không trái với các quy định của cơ quan nhà nước cấp
trên.
Yêu cầu này đòi hỏi nghị quyết của HĐND phải phản ánh đúng các chủ
trương, đường lối của Đảng đồng thời đúng với quy định pháp luật hiện hành.
Để có thể đánh giá chính xác yêu cầu này của nghị quyết, các đại biểu
HĐND phải nắm vững chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về các vấn đề mà nghị quyết đề cập tới.
Thứ hai, các nội dung nêu ra trong nghị quyết phải thuộc phạm vi thẩm
quyền của HĐND.
Trong hệ thống nhà nước, mỗi cơ quan, đơn vị đều có chức năng, nhiệm vụ
xác định và kèm theo đó là một thẩm quyền nhất định để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ đó. Thẩm quyền của HĐND được quy định cụ thể trong các văn
bản pháp luật, trước hết là Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Một nghị quyết chỉ được coi là hợp
pháp khi nội dung của nghị quyết giải quyết những vấn đề trong phạm vi thẩm
quyền của HĐND được quy định trong các văn bản này.
Thứ ba, nghị quyết phải được ban hành theo đúng trình tự và thủ tục theo
quy định của pháp luật.
Việc ban hành nghị quyết của HĐND phải tuân thủ đúng các quy định về
trình tự, thủ tục ban hành. Chẳng hạn, nghị quyết của HĐND chỉ được ký ban
hành sau khi được hội nghị toàn thể HĐND thông qua. Như vậy, những văn bản
được ký trước khi thông qua, dù có đúng về nội dung cũng không thể được coi
là hợp pháp.
Bên cạnh các yêu cầu về tính hợp pháp, một nghị quyết của HĐND chỉ
được coi là hợp lý khi nó đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây:
- Nội dung của nghị quyết phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Đảng, của Nhà
nước và của đối tượng chịu tác động của nghị quyết
Vì các quyết định đều phản ánh ý chí, mong muốn của chủ thể ra quyết
định nên các quyết định quản lý nhà nước đã chứa đựng trong đó các lợi ích,
93
mong muốn của nhà nước. Nghị quyết của HĐND, với tư cách là quyết định của
cơ quan quản lý nhà nước, cũng phản ánh nội dung này. Tuy nhiên, trong nghị
quyết, cũng cần quan tâm tới việc bảo đảm lợi ích cho đối tượng chịu tác động
của nghị quyết và bảo đảm hài hòa giữa lợi ích mà đối tượng chịu tác động của
nghị quyết được hưởng so với những nhóm đối tượng khác trong xã hội. Khi
những nhà quản lý nhà nước chỉ quan tâm tới lợi ích của Nhà nước mà bỏ qua
lợi ích của cá nhân những đối tượng chịu tác động của quyết định quản lý nhà
nước thì sẽ không tạo nên được sự đồng thuận của những đối tượng này và quyết
định sẽ rất khó có thể có hiệu lực trong thực tiễn.
- Nội dung của nghị quyết phải cụ thể, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của địa phương
Các địa phương đều có những điểm đặc thù riêng biệt của mình và cùng với
một vấn đề như nhau nhưng ở các địa phương khác nhau, cần được giải quyết
theo những cách khác nhau. Chính vì vậy, muốn cho nghị quyết khả thi, việc tìm
hiểu để biết rõ về điạ phương rất quan trọng.
Ngoài ra, nghị quyết sẽ được ban hành còn không được gây cản trở tới việc
thực hiện các quyết định khác có liên quan; các nguồn lực dự kiến để triển khai
thực hiện nghị quyết phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương,
bảo đảm được các nguồn lực; những giải pháp ban hành trong nghị quyết phải
tính tới sự phù hợp với môi trường thực hiện nghị quyết (môi trường tự nhiên,
môi trường văn hóa - xã hội, truyền thống tốt đẹp của đối tượng,...)
- Nghị quyết phải bảo đảm các yêu cầu của kỹ thuật lập quy
Hình thức của một dự thảo nghị quyết không chỉ đơn thuần là hình thức
trình bày dự thảo mà còn phải tập trung vào cách thức truyền tải nội dung của
nghị quyết như cấu trúc văn bản, văn phong ngôn ngữ,...52
Các yêu cầu về kỹ
thuật lập quy bao gồm các yêu cầu về cấu trúc, thể thức và yêu cầu về văn
phong, ngôn ngữ thể hiện trong nghị quyết.
52
Xem Ban Công tác đại biểu - Ủy ban thường vụ Quốc hội: Kiến thức và kỹ năng cơ bản dành cho đại biểu
HĐND. Hà Nội, 2021, trang 189-190.
94
Về cấu trúc của nghị quyết: Nghị quyết của HĐND phải có cấu trúc chặt
chẽ và có sự kết nối logic giữa các phần của văn bản. Vì vậy, để hiểu tổng thể
nội dung của văn bản khi đánh giá, cần xem xét cấu trúc tổng thể của nó, không
chỉ xem rời rạc từng đoạn văn bản. Về cơ bản, các mục nhỏ trong mục lớn phải
được xây dựng bao quát hết các nội dung của mục lớn.
Một vấn đề quan trọng khi xem xét cấu trúc của nghị quyết là mức độ phù
hợp, logic của nội dung so với tiêu đề. Không phù hợp giữa nội dung của mục
với tiêu đề của mục là một lỗi khá phổ biến khi trình bày các văn bản.
Yêu cầu về thể thức của nghị quyết định hiện nay được quy định tại Nghị
định số 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị
định số 154/2020/NĐ-CP) (đối với nghị quyết chứa đựng quy phạm pháp luật)
và Nghị định số 30/2020/NĐ-CP của Chính phủ (đối với nghị quyết cá biệt).
Về văn phong, ngôn ngữ được sử dụng trong nghị quyết cần đáp ứng các
yêu cầu của ngôn ngữ hành chính có những đặc tính riêng, phải bảo đảm rõ ràng,
ngắn gọn, không đa nghĩa,... Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), ngôn ngữ sử dụng trong
văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ
ràng, dễ hiểu.53
Trong hai nhóm yếu tố nêu trên, yếu tố hợp pháp giữ vị trí chủ đạo. Một
nghị quyết chỉ được xem xét tới tính hợp lý khi nghị quyết đó hợp pháp. Các yêu
cầu của tính hợp pháp quyết định khả năng tồn tại của nghị quyết, còn các yêu
cầu của tính hợp lý xác định tính khả thi của nghị quyết.
4. Tham gia lựa chọn phương án tối ưu cho dự thảo nghị quyết
Các tiêu chí để lựa chọn một phương án giải pháp mà nghị quyết HĐND
cấp tỉnh đưa ra (đối với các nghị quyết có quy phạm pháp luật) là những thước
đo cụ thể cho các mục tiêu chính sách tức là những giá trị được sử dụng để đo
lường các lựa chọn chính sách. Các tiêu chí này cũng thường được xem như
những minh chứng hay những lý do hợp lý cho các hành động của nhà nước.54
53
Xem Điều 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). 54
Craft, Michael E./Furlong, Scott R., trang 3.
95
Việc xác định các tiêu chí này giúp cho việc lựa chọn phương án chính
sách được khách quan. Những tiêu chí chủ yếu được sử dụng trong quá trình
đánh giá các phương án chính sách bao gồm: tính chính trị, tính hiệu quả, tính
công bằng, tính khả thi (về tài chính và quản lý, kỹ thuật). Bên cạnh đó còn có
thể đưa ra một số tiêu chí khác như tính công bằng hay khả năng được xã hội
chấp nhận.55
- Tiêu chí chính trị: Bản thân chính sách công với tư cách là công cụ để
định hướng, dẫn dắt xã hội của nhà nước, giải quyết các vấn đề phát sinh trong
xã hội phù hợp với mong muốn của nhà nước đã mang bản chất chính trị và phải
phù hợp với chủ trương, đường lối của đảng cầm quyền. Chính vì vậy, các
phương án chính sách phải phù hợp về chính trị tức là không mâu thuẫn với định
hướng của Đảng. Như vậy, một trong những căn cứ quan trọng nhất để hoạch
định phương án chính sách là định hướng đường lối của Đảng trong từng giai
đoạn cụ thể.
- Tính khả thi: một giải pháp chính sách chỉ tốt khi nó có thể thực hiện
được (khả thi). Muốn đánh giá một giải pháp chính sách có khả thi hay không
cần xem xét các yếu tố liên quan tới môi trường thực thi chính sách và xây dựng
các kịch bản một cách khoa học, phù hợp với các đặc điểm của môi trường đó.
- Đơn giản về mặt quản lý: một giải pháp chính sách chỉ mang lại hiệu quả
thực tế khi nó được mang ra áp dụng. Kết quả của việc áp dụng một phương án
chính sách không chỉ phụ thuộc vào tính đúng đắn về mục tiêu của giải pháp và
phương tiện (tài chính, con người,...) để thực hiện giải pháp mà còn phụ thuộc
vào khả năng quản lý việc thực thi giải pháp đó. Một phương án tốt nhưng thực
thi không tốt sẽ không mang lại được hiệu quả mong muốn. Vì vậy, khi lựa chọn
phương án chính sách cần lưu ý xác định mức độ phù hợp với khả năng quản lý
của các chủ thể thực hiện nghị quyết.
- Hiệu quả: tính hiệu quả của một phương án được xem xét trong mối
tương quan giữa kết quả đạt được so với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Tiêu chí này đòi hỏi, khi hai phương án chính sách cùng có thể đạt mục tiêu như
55
Craft, Michael E./Furlong, Scott R., trang 5.
96
nhau thì cần phân tích để lựa chọn ra được phương án dễ dàng thực hiện và chi
phí thực hiện thấp hơn.
- Công bằng: Một trong những chức năng chủ yếu của nhà nước là đảm bảo
sự công bằng tương đối trong xã hội. Chỉ khi nào mức độ công bằng xã hội được
đảm bảo thì xã hội mới có thể phát triển ổn định. Các giải pháp chính sách nếu
không giúp cho việc giảm nhẹ, tiến tới loại trừ bất bình đẳng trong xã hội thì ít
nhất cũng không được làm gia tăng khoảng cách bất bình đẳng đó.
- Hợp pháp: các giải pháp chính sách bên cạnh việc không được đi ngược
lại chủ trương, định hướng của đảng cầm quyền trong mỗi giai đoạn còn không
được trái với các quy định pháp luật hiện hành, nhất là không được mâu thuẫn
với Hiến pháp vì bản thân hoạt động của nhà nước không được vượt ra ngoài
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm bảo các giải pháp đưa ra trong dự thảo nghị quyết đáp ứng tốt nhất
các đòi hỏi nêu trên, phản ánh đúng nguyện vọng của người dân cũng như của
cơ quan đề xuất dự thảo, cần tạo điều kiện để các đại biểu HĐND tham gia vào
quá trình lựa chọn, đánh giá chính sách trong các giải pháp này.
Cơ quan đề nghị xây dựng nghị quyết có trách nhiệm lấy ý kiến đối tượng
chịu sự tác động trực tiếp của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết và
các cơ quan, tổ chức có liên quan; nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với
từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; đăng tải
toàn văn hồ sơ đề nghị xây dựng nghị quyết trên cổng thông tin điện tử của tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương trong thời hạn ít nhất là 30 ngày để các cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.
Ngoài việc đăng tải để lấy ý kiến theo quy định tại khoản này, việc lấy ý
kiến có thể bằng hình thức lấy ý kiến trực tiếp, gửi dự thảo đề nghị góp ý kiến,
tổ chức hội thảo hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng để các cơ quan,
tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.
Khi lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo nghị quyết
thì cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến và
bảo đảm ít nhất là 10 ngày kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được
97
lấy ý kiến góp ý kiến vào dự thảo nghị quyết. Trong trường hợp cần thiết, cơ
quan đề nghị xây dựng nghị quyết tổ chức đối thoại trực tiếp về chính sách với
các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo nghị quyết.
Theo quy định tại Điều 124 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh
phải được Ban của HĐND cùng cấp thẩm tra trước khi trình HĐND.
Chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp HĐND, cơ quan trình
dự thảo nghị quyết phải gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết đến Ban của HĐND được
phân công thẩm tra để thẩm tra. Hồ sơ gửi thẩm tra bao gồm:
- Tờ trình HĐND về dự thảo nghị quyết;
- Dự thảo nghị quyết;
- Báo cáo thẩm định và báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định đối với
dự thảo nghị quyết do UBND trình; ý kiến của UBND và báo cáo giải trình, tiếp
thu ý kiến của UBND đối với dự thảo do Ban của HĐND, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp tỉnh trình;
- Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá
nhân; bản chụp ý kiến góp ý;
- Tài liệu khác (nếu có).
5. Tham gia quyết nghị thông qua nghị quyết
Thông qua nghị quyết là giai đoạn cuối cùng của quy trình ban hành nghị
quyết của HĐND nhưng cũng là một giai đoạn quan trọng, quyết định việc nghị
quyết có được ban hành hay không. Sự tham gia của các đại biểu HĐND cấp
tỉnh ở giai đoạn này rất quan trọng, không chỉ khẳng định nhận thức của đại biểu
mà còn thể hiện bản lĩnh của người đại biểu.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
CQĐP, HĐND các cấp làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số
và tại Điều 6 quy định về đại biểu HĐND cũng xác định đại biểu HĐND bình
đẳng trong thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND. Như vậy, việc thông qua nghị quyết của HĐND phải được thực hiện
98
trên cuộc họp Hội đồng, với sự tham gia của các đại biểu. Trong cuộc họp này,
lá phiếu của các đại biểu Hội đồng sẽ quyết định tới việc nghị quyết của Hội
đồng có thể được thông qua hay không.
Để tham gia vào quá trình lựa chọn phương án cho dự thảo nghị quyết, đại
biểu HĐND phải nắm được các kỹ năng tư duy, phân tích dự thảo và kỹ năng
thảo luận tại nghị trường.
Để việc thảo luận của các đại biểu HĐND đạt hiệu quả cao, các đại biểu
cần quan tâm để nắm vững mục tiêu, nội dung vấn đề cần đưa ra thảo luận. Mục
tiêu đặt ra khi thảo luận là xem xét vấn đề thảo luận ở nhiều khía cạnh khác
nhau, đưa ra những ý kiến, những luận điểm khác nhau để cùng phân tích, đánh
giá những vấn đề và cách thức giải quyết vấn đề đối với những vấn đề dự kiến
đưa vào nghị quyết.
Để các nghị quyết của HĐND thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của
người dân, đại biểu HĐND trước khi quyết định ủng hộ nghị quyết hay không
phải cân nhắc kỹ những tác động của nghị quyết tới người dân trên địa bàn.
III. Kỹ năng thẩm tra báo cáo, đề án
1. Kỹ năng thẩm tra báo cáo
Theo quy định tại Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2019), Ban của HĐND là cơ quan của HĐND, có nhiệm
vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước khi trình HĐND, giám sát,
kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực mà Ban phụ trách; chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước HĐND. Chính vì vậy, việc thẩm tra báo cáo, đề án
thường là nhiệm vụ trực tiếp của các đại biểu HĐND làm việc trong các ban của
HĐND.
Các ban của HĐND thẩm tra các báo cáo theo sự phân công của HĐND,
Thường trực HĐND. Các báo cáo mà các ban của HĐND được phân công thẩm
tra thường về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, giao
thông, xây dựng, tài nguyên và môi trường, khoa học công nghệ, giáo dục, y tế,
văn hóa, dân tộc, xây dựng CQĐP,…
Nội dung thẩm tra báo cáo của Ban phải tập trung vào các vấn đề:
99
(i) Về hồ sơ: phải đầy đủ theo đúng quy định với từng loại báo cáo chẳng
hạn như tờ trình dự thảo, bản dự thảo báo cáo, các ý kiến tổng hợp, giải trình
những góp ý về dự thảo báo cáo, ý kiến thẩm định của cơ quan tư pháp, ...
(ii) Về thẩm tra nội dung báo cáo tập trung vào: Xem xét kỹ các nội dung
của báo cáo và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; xem xét sự phù hợp của
nội dung báo cáo với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước,
với các nghị quyết có liên quan của HĐND; xem xét sự phù hợp của nội dung
báo cáo với tình hình, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; xem
xét tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của báo cáo với hệ thống
pháp luật.
Quy trình thực hiện hoạt động thẩm tra báo cáo của các ban của HĐND,
trong đó thể hiện sự tham gia của các đại biểu HĐND làm việc trong các ban
này bao gồm:
- Xây dựng kế hoạch tổ chức thẩm tra và phân công thành viên trong Ban
nghiên cứu dự thảo báo cáo;
- Tiến hành giám sát, khảo sát hoặc tổ chức hội nghị chuyên đề để lấy ý
kiến tham gia của cử tri và đối tượng chịu tác động trực tiếp, nắm tình hình địa
phương, đơn vị về những nội dung cần thẩm tra trong báo cáo;
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá các thông tin thu được và so sánh với nội
dung của báo cáo.
- Viết báo cáo thẩm định.
Sau thẩm tra, các Ban HĐND cấp tỉnh cần tiến hành viết báo cáo thẩm
định, trong đó tổng hợp những vấn đề còn có sự khác nhau giữa báo cáo được
trình với tình hình thực tiễn hay những ý kiến đồng tình hay chưa đồng tình của
ban chịu trách nhiệm thẩm định với nội dung của báo cáo và chuyển tới Thường
trực HĐND cấp tỉnh xem xét trước khi trình ra kỳ họp của HĐND. Báo cáo
thẩm tra là cơ sở giúp đại biểu HĐND có thêm thông tin, thấy được những vấn
đề cần tập trung để thảo luận tại kỳ họp của HĐND và là căn cứ để đại biểu xem
xét quyết định những vấn đề đang được trình ra HĐND, do đó, cần gợi mở
những vấn đề cần thảo luận, làm rõ những vấn đề còn có ý kiến khác nhau để
100
cung cấp thông tin cho đại biểu HĐND xem xét, thảo luận và quan điểm của
Ban HĐND là cơ sở để HĐND quyết nghị. Trong nội dung của báo cáo thẩm tra
phải thể hiện rõ quan điểm của cơ quan thẩm tra về những vấn đề thuộc nội
dung thẩm tra và đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung, phương án xử lý
của cơ quan chủ trì thẩm tra đối với những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Xét về bản chất, thẩm tra báo cáo của đại biểu HĐND trong các ban của
HĐND là việc đại biểu HĐND đọc, nghiên cứu tài liệu và so sánh, đối chiếu nội
dung của báo cáo với các quy định pháp lý cũng như với thực tiễn đời sống kinh
tế - xã hội để xác định những nội dung đúng và chưa đúng, phù hợp hay chưa phù
hợp của báo cáo hay những thiếu sót, bất cập trong hoạt động của cơ quan trình
báo cáo. Chính vì vậy, để có thể thực hiện tốt chức năng này, đại biểu HĐND cần
nắm được các quy định pháp luật có liên quan tới nội dung báo cáo và các thông
tin thực tiễn về vấn đề mà báo cáo đề cập, do đó cần có kỹ năng thu thập và xử lý
thông tin. Bên cạnh đó, đại biểu HĐND nên nắm được các kỹ năng sau:
a. Kỹ năng đọc báo cáo
Khi đại biểu nhận được báo cáo do các cơ quan hay cá nhân trình báo cáo
chuyển đến, trước hết đại biểu cần đọc nhanh qua toàn bộ nội dung của báo cáo
để xác định phạm vi vấn đề mà báo cáo đề cập; nắm được cấu trúc của báo cáo
đó và những nội dung chủ yếu mà báo cáo đề cập tới; nhận biết độ dài của báo
cáo cũng như tính logic của kết cấu báo cáo.
Sau khi đã đọc sơ bộ, bắt đầu tiến hành đọc kỹ báo cáo, tập trung vào
những nội dung mà đại biểu cho rằng quan trọng trong báo cáo đó. Trong quá
trình đọc, cần lưu ý đối chiếu, so sánh những thông số được đưa ra trong báo cáo
với những thông tin mà đại biểu tự tìm hiểu và nắm được xem có sự sai lệch
không. Nếu nhận thấy có sự sai lệch thì cần đánh dấu lại để yêu cầu bên trình
báo cáo giải trình làm rõ. Những điểm cần lưu ý thì nên đánh dấu lại bằng bút
đánh dấu. Trong quá trình đọc, chú ý phải đặt các câu hỏi để ghi nhớ và tập
trung vào các nội dung chủ yếu.
b. Kỹ năng phân tích báo cáo
- Phân tích báo cáo về hình thức
101
Việc xem xét báo cáo về hình thức trước hết cần quan tâm tới thể thức của
báo cáo. Tùy theo loại văn bản mà hình thức thể hiện có sự khác nhau. Quy định
về thể thức văn bản quy phạm pháp luật hiện nay được quy định tại Nghị định
34/2016/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thực hiện một số điều của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị
định 154/2020/NĐ-CP) và văn bản hành chính được quy định tại Nghị định
30/2020/NĐ-CP về công tác văn thư.
Bên cạnh đó, việc thẩm tra, xem xét báo cáo còn phải chú ý tới cấu trúc của
văn bản và văn phong được sử dụng trong báo cáo.
- Phân tích báo cáo về nội dung
Mỗi báo cáo gửi tới đại biểu HĐND đều phản ánh những nội dung nhất
định thuộc thẩm quyền xem xét của HĐND. Các nội dung được tác giả trình bày
trong báo cáo phải chính xác với thực tế và tuân thủ các quy định của pháp luật
cũng như phải đúng với các kết quả đạt được. Những kiến nghị, đề xuất, giải
pháp phải phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, phù hợp với các nguồn lực hiện có và có tính khả thi cao.
Đại biểu cần xem xét tính nhất quán, thống nhất giữa các phần của văn bản
trong báo cáo; so sánh với các tài liệu cùng loại về thời gian, không gian,… qua
đó phát hiện những lỗi thiếu logic, mâu thuẫn trong lập luận của báo cáo.56
Trong quá trình thẩm tra báo cáo, đại biểu cần chú ý so sánh những thông
tin được sử dụng trong báo cáo với những thông tin mà đại biểu trực tiếp thu
thập được để xem báo cáo có phản ánh đúng thực tiễn hay không, phát hiện
những nội dung cần bổ sung hay phải sửa chữa, thông tin được đưa ra không
chính xác trong báo cáo.
2. Kỹ năng thẩm tra đề án
Đề án là một văn bản được trình bày một cách có hệ thống các giải pháp để
giải quyết một nhiệm vụ nhất định do một cá nhân hay tổ chức đệ trình lên cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt, ban hành. Một đề án phải nêu được tầm quan
56
Xem thêm: Ban Công tác đại biểu - Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Kiến thức và kỹ năng cơ bản dành cho đại
biểu HĐND, Hà Nội, 2021, trang 176-177.
102
trọng của nhiệm vụ phải giải quyết, chỉ ra các căn cứ để xây dựng đề án cũng
như xác định rõ mục tiêu, giải pháp, cách thức tổ chức thực hiện các giải pháp.
HĐND cấp tỉnh là cơ quan quyết định các vấn đề quan trọng của địa
phương và thực hiện quyền giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước
trên địa bàn địa phương, do đó thẩm tra đề án là một nhiệm vụ thường xuyên của
HĐND. Việc thẩm tra các đề án, giống như thẩm tra các báo cáo, là nhiệm vụ
của các ban của HĐND.
Trong quá trình xem xét đề án, đại biểu cần tập trung vào đánh giá về kết
cấu và nội dung của đề án, xem xét tới tính khả thi của đề án thông qua những
thông tin về dự kiến phân công nhiệm vụ triển khai, dự báo nguồn lực cần thiết
để thực hiện dự án cũng như thuận lợi và khó khăn mà tác giả đề án đưa ra. Nhìn
chung, việc xem xét một đề án tập trung vào các vấn đề trong bảng sau:57
Xem xét kết cấu đề án Xem xét nội dung từng phần
Sự cần thiết phải ban
hành đề án
Các câu hỏi phải trả lời trong phần này là: Đề án
giải quyết vấn đề gì trong xã hội? Có thực sự cần
thiết không? Đã có đề án nào liên quan tới vấn đề
này chưa? Nếu đã có thì vào thời điểm nào và sự
khác biệt giữa đề án này với đề án đã có là gì?...
Cơ sở của đề án Đề án cần chỉ ra được cơ sở khoa học/lý luận và cơ
sở thực tiễn, đặc biệt là phải làm rõ nhu cầu thực
tiễn cần phải có đề án tại địa phương. Trong đề án
phải đưa ra được các đánh giá về thực trạng vấn đề
mà đề án muốn giải quyết, làm rõ được các kết quả
cũng như các hạn chế, yếu kém và nguyên nhân dẫn
tới thực trạng này.
Nhận định rõ các yếu tố
tác động
Nội dung của đề án phải thể hiện rõ những yếu tố
chủ quan và khách quan có thể tác động tới việc
thực hiện đề án.
57
Xem Ban Công tác đại biểu - Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Kiến thức và kỹ năng cơ bản dành cho đại biểu
HĐND, Hà Nội, 2021, trang 182.
103
Đề xuất mục tiêu, nhiệm
vụ
Mục tiêu và nhiệm vụ nêu ra trong đề án phải phù
hợp với các quy định của pháp luật, phù hợp với các
nguồn lực và điều kiện thực tế của địa phương;
không có sự trùng lặp với mục tiêu của các đề án
khác đã được thông qua.
Các giải pháp thực hiện
đề án
Cần chú ý tới tính logic của các giải pháp: giải pháp
đưa ra phải khắc phục được những hạn chế, yếu
kém đã được trình bày trong phần trước của đề án,
giải quyết được nguyên nhân dẫn tới những hạn chế,
yếu kém này. Chú ý tới sự trùng lặp giữa giải pháp
mà đề án nêu ra với các giải pháp có trong các đề án
khác; đồng thời cần chú trọng tính khả thi của các
giải pháp.
Thời gian thực hiện đề án Phải xác định chính xác thời gian thực hiện cho cả
đề án (thời gian để thực hiện mục tiêu tổng thể);
đồng thời phải chia nhỏ mục tiêu tổng thể thành các
mục tiêu thành phần, cụ thể hơn và xác định được
thời gian thực hiện các mục tiêu cụ thể này trong cả
tiến trình thực hiện đề án.
Nguồn lực của đề án Phải dự kiến được nguồn lực để đảm bảo thực hiện
các nhiệm vụ, giải pháp nêu ra trong đề án. Cần chú
ý cân đối giữa nhu cầu nguồn lực cho đề án với khả
năng đáp ứng của địa phương cũng như khả năng
cân đối các nguồn lực dành cho đề án này với nguồn
lực dành cho các nhiệm vụ khác.
Cách thức tổ chức thực
hiện
Cần xác định được tất cả các bên tham gia vào đề án
và có sự phân công nhiệm vụ chi tiết giữa các cơ
quan, đơn vị này phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của chúng trong bộ máy nhà nước và trong xã hội.
104
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Các yêu cầu đặt ra đối với nghị quyết của HĐND cấp tỉnh? Cần làm gì
để các nghị quyết của HĐND cấp tỉnh được ban hành đáp ứng được các yêu cầu
này? Liên hệ thực tế ở tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi đại biểu
HĐND công tác).
2. Phân tích, đánh giá những khó khăn, thách thức trong việc HĐND
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi đại biểu HĐND công tác) quyết nghị
các vấn đề về phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.
3. Phân tích vai trò, trách nhiệm của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong xây
dựng, ban hành Nghị quyết của HĐND, thẩm tra báo cáo, đề án. Liên hệ thực tế
ở tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi đại biểu HĐND công tác).
4. Kinh nghiệm của cá nhân đại biểu HĐND trong việc tham gia thẩm tra
báo cáo, đề án trình HĐND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi đại biểu
HĐND công tác).
5. Giải pháp tăng cường chất lượng tham gia của đại biểu HĐND cấp tỉnh
vào việc ban hành nghị quyết của HĐND?
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO DÀNH CHO HỌC VIÊN
1. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2019).
2. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
3. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2020).
4. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ban Công tác đại biểu, Kiến thức và kỹ
năng cơ bản dành cho đại biểu Hội đồng nhân dân, Hà Nội, năm 2021.
5. Học viện Hành chính Quốc gia, Pháp luật về tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương, Nxb Bách khoa, Hà Nội, năm 2021.
6. Học viện Hành chính Quốc gia, Hoạch định và thực thi chính sách công,
Nxb Bách khoa, Hà Nội, năm 2021.
106
Chuyên đề 4
KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH, THẢO LUẬN, TRANH LUẬN
CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
I. Kỹ năng thuyết trình của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1. Mục đích, yêu cầu đối với thuyết trình của đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
a. Mục đích thuyết trình của đại biểu Hội đồng nhân dân
Hiểu một cách đơn giản, thuyết trình là trình bày ý kiến của mình nhằm
thuyết phục người khác ủng hộ, đồng thuận. Thuyết trình còn được hiểu là:
- Việc trình bày một vấn đề một cách bài bản, hệ thống trước một người,
nhóm người để nhằm cung cấp thông tin, tri thức cần thiết cho đối tượng nghe.
- Là quá trình truyền đạt thông tin tới một người hoặc một nhóm người nhằm
đạt được các mục tiêu cụ thể mà người truyền đạt xác định trước.
Qua các quan niệm trên, có thể rút ra kết luận về thuyết trình, đó là: (i) Hoạt
động cung cấp thông tin, tri thức; (ii) Có phương pháp và nội dung thông tin khoa
học, hệ thống; (iii) Tác động tới người nghe để đạt mục đích cụ thể
Trong giao tiếp hàng ngày, luôn luôn phải sử dụng hoạt động lời nói nhằm
mục đích trao đổi thông tin, thuyết phục ai đó, nhưng đó không phải là hoạt động
thuyết trình. Thuyết trình có sự phân vai rõ rệt hơn giữa người nói và người nghe
(người nghe cũng có thể nói để hỏi, trao đổi lại để làm rõ thông tin); giao tiếp có
sự cân bằng về vị trí của hai chủ thể.
Đại biểu HĐND thường sử dụng thuyết trình khi:
- Thảo luận tại kỳ họp HĐND, nhằm nêu quan điểm của mình và thuyết
phục đại biểu khác, cơ quan trình dự thảo nghị quyết về phương án, nội dung mà
mình phát biểu. Đồng thời thông qua phương tiện thông tin đại chúng (báo chí,
truyền hình, truyền thanh) để nhân dân biết tới hoạt động của đại biểu;
- Tiếp xúc cử tri, để đại biểu trình bày với cử tri các nội dung của buổi tiếp
xúc (trình bày về chương trình, nội dung kỳ họp HĐND; báo cáo với cử tri về
hoạt động của đại biểu HĐND);
107
- Tiếp công dân, để đại biểu giải thích chính sách, pháp luật và thuyết phục
công dân về kết quả nghiên cứu, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo.
b. Yêu cầu đối với thuyết trình của đại biểu Hội đồng nhân dân
Thuyết trình của đại biểu HĐND khác với các thuyết trình khác như của
giảng viên trước người học; thuyết trình đề án ở công ty, doanh nghiệp; quảng bá
sản phẩm trong hội thảo…
Vị thế của người đại biểu vừa mang tính đại diện cho cử tri, vừa mang tính
quyền lực nhà nước, nên thuyết trình của đại biểu HĐND phải đảm bảo các yêu
cầu:
- Ngôn từ chuẩn xác, sử dụng nhiều ngôn từ theo văn bản pháp luật. Trong
phát biểu của đại biểu phải có căn cứ pháp lý, căn cứ thực tiễn, do vậy ngôn từ
mang tính pháp lý, hạn chế sử dụng từ ngữ mang nhiều ý hiểu khác nhau;
- Hạn chế sử dụng quan điểm cá nhân bởi đại biểu đang đại diện cho cử tri
để phát biểu. Trong phát biểu của đại biểu phải đảm bảo sự cân bằng giữa quan
điểm cá nhân của đại biểu và quan điểm của đông đảo cử tri mà mình đại diện;
- Tuân thủ nội quy, quy định về thuyết trình (Tại kỳ họp HĐND phải tuân
thủ Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Nội quy kỳ họp; trong tiếp xúc cử tri
phải tuân thủ quy định về tiếp xúc cử tri và sự điều hành của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; tại nơi tiếp công dân phải tuân thủ Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Nội
quy phòng tiếp công dân…);
- Mỗi hoạt động của đại biểu sẽ có người nghe khác nhau (về trình độ, số
lượng, mục đích) nên thuyết trình cần phải thay đổi để phù hợp. Trong kỳ họp
đó là đại biểu HĐND; trong tiếp xúc cử tri là cử tri; trong tiếp công dân là một
hoặc nhóm công dân.
2. Các bước thực hiện thuyết trình của đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh
a. Chuẩn bị bài thuyết trình
(i) Thu thập, xử lý thông tin
Để đại biểu HĐND thuyết trình thuyết phục, tin cậy thì cần phải có thông
tin chính xác và đầy đủ. Quá trình thu thập thông tin cần lưu ý:
108
- Xác định độ tin cậy của thông tin: Thông tin từ báo cáo, văn bản, tài liệu
của cơ quan Đảng và nhà nước, tổ chức chính trị xã hội có độ tin cậy cao. Thông
tin từ báo chí, đề tài nghiên cứu khoa học, tổ chức quốc tế thường có giá trị tham
khảo…
- Xác định tính sẵn có của thông tin: Thông tin sẵn có trong văn bản, tài
liệu, báo chí dễ tiếp cận, tìm kiếm nhanh chóng, tiết kiệm chi phí nhưng chưa
chắc đảm bảo đáp ứng toàn bộ yêu cầu của đại biểu. Thông tin từ nguồn đại biểu
tự mình điều tra, khảo sát, hoặc nghe chuyên gia sẽ đáp ứng được yêu cầu của
đại biểu, tuy nhiên, chi phí tốn kém và mất nhiều thời gian để hoàn thành.
(ii) Xác định nội dung chính, phạm vi thông tin để việc đại biểu nhận quá
nhiều thông tin mà không có thời gian đánh giá, không đủ khả năng xử lý hết
thông tin, dễ bỏ qua thông tin có giá trị.
(iii) Xác định mục đích thuyết trình
Trong hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh, hoạt động thuyết trình
thường hướng đến các mục đích:
- Thuyết trình để trình bày, báo cáo về một nội dung cụ thể (thường trong
hoạt động tiếp xúc cử tri, đại biểu báo cáo về chương trình, nội dung họp HĐND
hoặc báo cáo về kết quả kỳ họp HĐND).
- Thuyết trình để thuyết phục người nghe (thường trong tham luận tại kỳ
họp HĐND khi thảo luận về dự thảo báo cáo, nghị quyết đề án).
- Thuyết trình trong đặt câu hỏi (thường trong hoạt động giám sát như chất
vấn, tham gia đoàn giám sát ở địa phương).
(iv) Xây dựng bài thuyết trình
Thuyết trình là hoạt động mang tính chất chủ động, đại biểu HĐND có đủ
thời gian để chuẩn bị, do vậy việc chuẩn bị bài thuyết trình là yếu tố cần thiết để
mang lại thành công.
Tùy thuộc vào nội dung và tính chất thuyết trình mà đại biểu HĐND có sự
chuẩn bị phù hợp theo hướng:
- Viết ra giấy đầy đủ, toàn bộ nội dung cần nói. Hiện nay với công nghệ hỗ
trợ, nhiều đại biểu sử dụng máy tính bảng để viết nhằm nhanh chóng cập nhật,
109
sửa đổi bài phát biểu. Ưu điểm của viết chi tiết là chuẩn bị được bài thuyết trình
hay, nhược điểm là dễ bị phụ thuộc vào bài chuẩn bị, khi trình bày thường chăm
chú tờ giấy để đọc nội dung.
- Viết ra giấy ý tưởng cần nói, tương tự như mô hình “Sơ đồ tư duy”, “cây
tư duy” với ý lớn, ý nhỏ. Các ý này cần ngắn gọn, xúc tích, thể hiện mỗi ý không
nên quá 5 từ. Trong thuyết trình, có thể nhớ nội dung mà không cần sử dụng đến
giấy, nhưng đó là “phao cứu sinh” phòng trường hợp quên ý tưởng hoặc tránh bỏ
sót ý tưởng. Phương pháp này thường được sử dụng với người có khả năng diễn
thuyết tốt.
- Không cần viết ý tưởng mà định hình sẵn kết cấu bài thuyết trình, tùy
hoàn cảnh cụ thể sẽ linh hoạt điều chỉnh nội dung. Trường hợp này đòi hỏi đại
biểu HĐND có khả năng nói tốt và nhớ, hiểu vấn đề trình bày một cách sâu sắc.
Tùy thuộc nội dung thuyết trình, đại biểu HĐND cần lưu ý tìm hiểu thông
tin để phục vụ hoạt động thuyết trình, những thông tin có nguồn dẫn chính xác,
có độ tin cậy sẽ thuyết phục người nghe.
- Cơ sở chính trị: Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, nghị quyết Ban Chấp
hành Trung ương, văn bản của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Nghị quyết Đại hội
Đảng ở địa phương… (trích rõ tên văn bản, số văn bản, này ban hành).
- Cơ sở pháp lý: Hiến pháp, luật, nghị quyết, nghị định, thông tư của các cơ
quan trung ương; nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND (trích rõ tên văn
bản, số văn bản, ngày ban hành, điều khoản trong văn bản).
- Cơ sở thực tiễn: Sự kiện trong thực tế thu thập được (ghi rõ nguồn như từ
báo chí, phản ánh cử tri, do đại biểu thu thập…).
Xác định thông điệp gửi tới người nghe: Không nhất thiết trong bài thuyết
trình phải có thông điệp cụ thể, nhưng nếu đưa ra được thông điệp sẽ giúp người
nghe ghi nhớ điều mà đại biểu muốn truyền tải một cách nhanh nhất. Thông điệp
là công cụ hữu hiệu để chạm tới cảm xúc của người nghe.
- Bài thuyết trình nên có đủ 3 phần: Mở đầu - thân bài (nội dung chính) -
phần kết. Dù phần mở đầu và phần kết có thể rất ngắn gọn nhưng cũng cần thiết.
110
Có lời mở đầu ấn tượng sẽ giúp người nghe tập trung ngay từ đầu vào bài
phát biểu, tạo tâm lý “muốn nghe” (nhiều trường hợp người nghe bị tâm lý “phải
nghe” do bắt buộc phải ngồi trong hội trường cho hết giờ).
Thân bài, nội dung chính cần chia thành các phần nhỏ, các ý rõ ràng; có bố
cục logic giữa các ý, các phần và nội dung trong từng ý, từng phần.
Phần kết là phần tóm tắt nội dung bài thuyết trình, cần nêu lại nội dung
chính, truyền tải thông điệp, lời kêu gọi.
(v) Chuẩn bị về tâm lý
Việc chuẩn bị về tâm lý là cần thiết, nhất là với đại biểu HĐND cấp tỉnh
lần đầu trúng cử và trong thời gian đầu của nhiệm kỳ. Có một tâm lý vững vàng
sẽ giúp thuyết trình đủ ý, không quên ý, tạo sự tin cậy của người nghe.
Để chuẩn bị tâm lý tốt, đại biểu HĐND lưu ý một số điểm sau:
- Chuẩn bị bài thuyết trình kỹ, đầy đủ;
- Luyện tập trước bài thuyết trình trước gương, trước người khác hoặc sử
dụng điện thoại quay phim để xem lại từ đó có điều chỉnh nội dung và cách thức
trình bày (nếu cần).
b. Tiến hành thuyết trình
Tiến hành thuyết trình là công đoạn quan trọng nhất, đại biểu HĐND cần
lưu ý các nội dung:
- Đảm bảo thời gian thuyết trình
Thời gian thuyết trình theo quy định (nếu có) hoặc cân đối chung giữa
những người cùng tham gia thuyết trình và khoảng thời gian chung của cả buổi
thuyết trình. Ví dụ, trong buổi tiếp xúc cử tri, đại biểu phân định tổng thời gian
(1 buổi sáng, cả ngày), thời gian khai mạc và bế mạc, thời gian cho đại biểu (bao
nhiêu đại biểu HĐND báo cáo), thời gian cho cử tri có ý kiến, để từ đó định
lượng được thời gian dành cho mình.
- Đánh giá phản ứng của người nghe
Thuyết trình nhằm tác động tới người nghe, thuyết phục người nghe, do vậy,
trong quá trình thuyết trình cần đánh giá phản ứng của người nghe để biết hiệu
quả bài thuyết trình. Phản ứng của người nghe như cười, chăm chú nghe, gật đầu
111
đồng tình, nói chuyện riêng, làm việc riêng, lơ đãng, thậm chí nhắm mắt ngủ. Từ
đó đánh giá mức độ phản ứng của người nghe với bài thuyết trình theo các cấp độ:
đồng tình - không có ý kiến - không quan tâm - quá chán - phản đối.
- Điều chỉnh bài thuyết trình
Trong quá trình thuyết trình cần đảm bảo logic vấn đề, nội dung vấn đề đã
được chuẩn bị sẵn, tuy nhiên, tùy điều kiện về thời gian và phản ứng của người
nghe, đại biểu có thể phải điều chỉnh bài thuyết trình cho phù hợp theo hướng: rút
ngắn bài thuyết trình, trình bày kỹ hơn các nội dung (sẽ kéo dài bài thuyết trình so
với dự kiến), thay đổi một vài quan điểm theo hướng tiếp cận linh hoạt hơn.
c. Kết thúc thuyết trình
Một bài thuyết trình có hiệu quả hay không hội tụ rất nhiều những yếu tố,
bao gồm cả khách quan và chủ quan. Nếu cách mở đầu, dẫn dắt vào bài thuyết
trình vô cùng quan trọng để gây ấn tượng ban đầu với người nghe thì phần kết
thúc một bài thuyết trình cũng đóng vai trò quan trọng không kém, nó được xem
như một điểm nhấn cho một bài thuyết trình thành công. Có nhiều cách để kết
thúc bài thuyết trình:
- Kết thúc bằng cách tóm lược những nôi dung chính của bài thuyết trình.
Tóm tắt những nội dung chính của bài thuyết trình sẽ giúp ích cho người nghe
hiểu được cấu trúc chung của bài phát biểu của đại biểu, nếu trước đây họ chưa
hiểu rõ. Ngoài ra, nếu họ nghi ngờ hoặc không hiểu đúng một phần, câu hỏi của
họ sẽ được giải đáp ngay lập tức. Cần chú ý là không nên trình bày lặp lại hoặc
hoặc quá chi tiết về một nội dung nào đó đã thuyết trình mà chỉ nên nói vắn tắt
những ý chính đại biểu đã truyền tải xuyên suốt thời gian thuyết trình.
- Kết thúc bằng cách nói lời cảm ơn. Nói lời cảm ơn vào cuối bài thuyết
trình cũng là một chỉ báo rõ ràng cho người nghe biết rằng đại biểu đã hoàn
thành bài thuyết trình.
- Kết thúc bằng một câu hỏi gợi mở. Đây là cách kết thúc nhằm thu hút sự
chú ý của mọi người. Những câu hỏi luôn khiến người nghe cần phải suy nghĩ
và tư duy.
112
3. Kỹ thuật thuyết trình
a. Kỹ thuật mở đầu bài thuyết trình
Mở đầu bài thuyết trình tốt sẽ quyết định tới thành công của bài thuyết trình
bởi khi người nghe thấy hứng thú ngay từ đầu họ mới có thể tập trung và kiên
nhẫn nghe những phần sau. Thời gian cho phần mở đầu cân đối với thời gian của
cả bài thuyết trình. Thông thường chiếm 10% dung lượng bài thuyết trình. Mở
bài thuyết trình tốt là phải đạt yêu cầu gây ấn tượng tốt. Một số điểm lưu ý về kỹ
thuật mở bài thuyết trình:
- Lựa chọn cách mở đầu vui vẻ, gây sốc, tò mò.
- Cách thức mở đầu bằng kể câu chuyện ngắn, đặt câu hỏi, đưa ra số liệu
thống kê, tạo sự tương phản, chia sẻ cảm nghĩ của bản thân, trích dẫn một câu
nói nổi tiếng. Có người sử dụng cách mở đầu bằng không nói gì, nghe có vẻ
không logic nhưng tạo khoảng thời gian im lặng, kết hợp với ngôn ngữ cơ thể
cũng là một cách để tạo sự tò mò đối với người nghe.
- Ngoài sử dụng ngôn ngữ để mở đầu bài thuyết trình, có thể kết hợp với
hình ảnh (hình ảnh slide, đưa ra một vật). Hình ảnh sẽ tác động tới người nghe
mạnh mẽ, nhanh hơn là lời nói.
b. Kỹ thuật sử dụng phi ngôn ngữ
Giao tiếp có thể chia làm hai loại: Ngôn ngữ (lời nói) và phi ngôn ngữ
(trong đó có ngôn ngữ cơ thể, hình ảnh). Thuyết trình chính là cách sử dụng cả
hai loại hình này, ngôn ngữ bằng lời nói và ngôn ngữ cơ thể, hình ảnh.
Theo nghiên cứu, tỷ lệ hình ảnh, ngôn từ,
giọng nói tác động tới người nghe. Trong đó,
phi ngôn ngữ chiếm tỷ lệ lớn ảnh hưởng tới
người nghe.
Các loại hình ngôn ngữ cơ thể thường
được sử dụng là: Biểu hiện trên khuôn mặt, cử
chỉ, tư thế cơ thể, ánh mắt, nụ cười,… biết sử dụng ngôn ngữ cơ thể sẽ giúp
người thuyết trình truyền tải được ý tưởng tới người nghe, tạo sự tin cậy của
người nghe. Một số lưu ý về ngôn ngữ cơ thể:
113
- Tư thế đứng/ngồi: Thẳng lưng, tránh vươn người về phía micro, đứng lom
khom khi micro để bàn cách xa miệng, đứng ưỡn người, ngồi ngả lưng ra ghế …
Tư thế thẳng lưng, mở rộng vai còn giúp hít thở tốt hơn từ đó giọng nói “vững
chãi”.
- Cử chỉ của tay: Động tác của tay phù hợp với nội dung thuyết trình, ví dụ
khi nói về sự hợp tác thì hai tay đan vào nhau, nói về sự phát triển thì tay đưa từ
dưới lên trên. Sử dụng hai bàn tay hợp lý sẽ tránh cử chỉ gượng gạo của bàn tay
thừa hay vung tay quá mạnh. Trường hợp chưa thạo sử dụng cử chỉ của tay,
người thuyết trình có thể cầm thêm tờ giấy viết nội dung thuyết trình, quyển sổ
nhỏ. Chuyển động của tay cần dứt khoát, có mục đích gắn với nội dung lời nói.
Một vài gợi ý về vị trí của tay trong quá trình thuyết trình:
- Ánh mắt: Đôi mắt được ví là cửa sổ tâm hồn của một con người, là nơi
thể hiện và bộc lộ cảm xúc chân thật nhất từ vui vẻ, hoan hỉ cho đến đau đớn,
buồn tủi. Chính vì thế khi nhìn vào đôi mắt của người đối diện sẽ cho đại biểu
biết họ có thực sự chân thành hay không. Và thông điệp truyền tải qua ngôn ngữ
của cơ thể sẽ biểu hiện rất rõ nét. Người thuyết trình biết sử dụng giao tiếp bằng
mắt sẽ giúp “nói” lên sự quan tâm và tôn trọng người nghe; sự tự tin của người
nói. Ánh mắt nhìn nên bao phủ toàn bộ người nghe, tránh nhìn vào một điểm
(một người) quá lâu (quá 3 giây trừ khi đặt câu hỏi, giao tiếp với người đó), quá
nhiều lần.
- Nụ cười: Người thuyết trình mỉm cười là cách tạo sự gần gũi, thân thiện
với người nghe, làm cho người nghe cảm thấy thoải mái. Cười còn là cách để
truyền đạt thông tin tới người nghe, làm giảm lo lắng và giúp người thuyết trình
bình tĩnh và tự tin hơn.
- Hình ảnh: Ngoài ngôn ngữ cơ thể, hình ảnh cũng tác động lớn tới người
nghe. Hình ảnh có thể là màn chiếu slide, ảnh, phim, đồ vật. Ví dụ: trường hợp
114
nói về ô nhiễm nguồn nước kèm theo một chai nước đen lấy từ hồ, ao, mương…
sẽ truyền tải nhiều thông điệp tới người nghe.
c. Kỹ thuật sử dụng giọng nói
Có thể nói cùng một từ nhưng biểu thị nhiều ý nghĩa khác nhau bằng cách
thay đổi giọng điệu. Do vậy, kỹ thuật giọng nói là rất quan trọng khi thuyết
trình.
- Nhấn giọng: Cùng một câu nói nhưng khi nhấn giọng ở những vị trí khác
nhau, sẽ tạo ra nhiều sắc thái ý nghĩa khác nhau. Những từ ngữ được nhấn mạnh,
sự chú ý của người nghe tăng lên so với từ ngữ bình thường và giúp người nghe
ghi nhớ.
- Tốc độ lời nói: Không nói quá nhanh hay quá chậm. Nói nhanh người
nghe không kịp ghi nhớ thông tin, nói chậm quá người nghe thấy chán. Tốc độ
nói vừa phải, rõ ràng. Chỉ nói nhanh khi không muốn người nghe có thời gian tư
duy, suy nghĩ và đánh giá xem người thuyết trình nói có đúng không, sai ở đâu.
- Nhịp điệu: Giống như lời bài hát. Giọng nói đều đều sẽ giúp người thuyết
trình thành công trong việc ru ngủ người nghe. Để người nghe có hứng khởi
trong suốt quá trình thì giọng nói cần có nhịp điệu, giai điệu.
- Âm lượng: Sẽ khó thuyết phục người khác nếu họ không nghe thấy đại
biểu nói gì. Có 2 yếu tố ảnh hưởng đến âm lượng giọng nói đó là bản thân người
nói (bình thường giọng đã nhỏ, run quá mà không nói to rõ ràng được) hoặc do
thiết bị âm thanh (miệng để xa micro, chỉnh âm nhỏ).
- Điểm dừng: Điểm dừng (im lặng trong 5 giây) là một thủ thuật thường để
thu hút sự chú ý tối đa của người nghe.
d. Kỹ thuật tác động tâm lý người nghe
Mỗi diễn giả phải là một nhà tâm lý, đó là tâm lý chung của con người và
tâm lý của từng nhóm người riêng biệt. Một số kỹ thuật tác động tâm lý là:
- Không ai muốn nghe lời chỉ trích, phê phán: Do vậy, trước khi đưa ra lời
chỉ trích, phê phán ai thì cần làm cho họ đồng cảm, họ tự nhận ra sai lầm. Nếu
nói thẳng lỗi lầm của họ, nhất là trước đám đông thì dù có nói đúng cũng khó
được người bị chỉ trích chấp nhận.
115
- Nói một cách quả quyết: Người nghe không thể tin những gì bạn nói nếu
ngay bản thân bạn cũng không tin vào điều đó.
- Nhắc lại nhiều lần: Điều gì muốn người nghe tin và ghi nhớ thì cần nhắc
lại vài lần trong bài diễn thuyết. Tất nhiên, tùy thời gian diễn thuyết mà nhắc lại
bao nhiều lần là phù hợp.
đ. Những lỗi dễ mắc trong thuyết trình
- Phụ thuộc vào bài sẵn có: Đây là lỗi căn bản mà nhiều người gặp phải
trong thuyết trình. Thuyết trình là là sử dụng lời nói để truyền tải thông tin rõ
ràng, dễ hiểu, thu hút và thuyết phục. Vì vậy, phụ thuộc quá nhiều vào bài chuẩn
bị sẵn hoặc cầm giấy đọc không những khiến người nghe có cảm giác khó chịu
mà còn không mang lại hiệu quả tốt cho bài thuyết trình.
- Mở đầu tẻ nhạt, thiếu hấp dẫn: Nên tránh bắt đầu bài thuyết trình một
cách xuề xòa, đơn giản. Thay vào đó, cần phải có một phần mở đầu lôi cuốn,
đồng thời cần phải cho người nghe thấy tại sao thông tin sắp nói quan trọng và
có ích với họ. Bởi nếu thông tin đó vô nghĩa, họ không hề quan tâm.
- Nói quá nhanh, không có điểm dừng: Trong quá trình nghe thuyết trình,
người nghe sẽ tập trung vào lời nói và sự dẫn dắt của người thuyết trình. Nói quá
nhanh và không có điểm dừng, ngắt quãng sẽ khiến cho người nghe không theo
kịp tốc độ của người thuyết trình. Đồng thời, người nghe sẽ có cảm giác căng
thẳng và không thể nắm bắt được hết các thông tin được truyền tải.
Các quãng dừng rất quan trọng trong bài thuyết trình. Khi nhắc đến một
vấn đề, cần dừng lại để người nghe có thời gian tiếp nhận và suy nghĩ, phân tích
nhanh. Đây cũng là cách để nhấn vào những điểm quan trọng, giúp bài thuyết
trình thu hút và có ý nghĩa.
- Nói quá lan man, dài dòng: Những bài thuyết trình ngắn gọn, súc tích
thường có sức ảnh hưởng lớn hơn những nội dung quá dài dòng, rườm rà. Nếu
mất quá nhiều thời gian để trình bày về vấn đề cần đưa ra sẽ làm mất đi sự chú ý
và tập trung của người nghe, đồng thời không tập trung được vào những nội
dung chính muốn truyền tải, không đạt được mục đích của thuyết trình.
116
- Thiếu sự tương tác với người nghe: Trong thuyết trình nếu chỉ tập trung
thể hiện vấn đề của mình mà không để ý tới phản ứng của người nghe sẽ khiến
cho người nghe có cảm giác thiếu thoải mái. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp,
người nghe có một số các thắc mắc về nội dung thuyết trình sẽ không được giải
đáp. Đây là điều khiến cho bài thuyết trình bị giảm chất lượng, kém hiệu quả.
e. Cách khắc phục lỗi trong thuyết trình
- Luôn có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước buổi thuyết trình: Cần phải có thời
gian để chuẩn bị cho mọi thứ chu đáo, buổi thuyết trình sẽ diễn ra thuận lợi hơn.
Đặc biệt cần phải chuẩn bị nội dung bài thuyết trình một cách có chọn lọc. Để
thuyết trình hiệu quả, cần phải biết chọn lọc thông tin. Việc cảm thấy thông tin
nào cũng quan trọng, cũng cần thiết phải đưa vào sẽ dẫn tới bài thuyết trình trở
nên loãng. Chính vì vậy, sắp xếp thông tin theo mức độ quan trọng với chủ đề
cần thuyết trình sẽ giúp dễ dàng loại bỏ được những thông tin ít quan trọng và
dành thời gian cho việc trình bày các thông tin đã được chọn lọc.
- Giữ cho tinh thần, tâm lý tốt: Khi tinh thần và tâm lý trong trạng thái thoải
mái sẽ giúp giữ được bình tĩnh và tự tin để thể hiện hết các nội dung truyền tải
một cách quả nhất.
- Luôn nở nụ cười: Khi cười, lượng endorphins trong cơ thể sẽ tăng, làm
giảm sự lo lắng, giúp tự tin hơn. Nụ cười của cũng sẽ khiến cho người nghe cảm
giác thân thiện, thoải mái hơn khi lắng nghe buổi thuyết trình.
- Thay đổi hướng nhìn và bao quát đến nhiều khu vực trong khán phòng:
Thay đổi hướng nhìn và bao quát đến nhiều khu vực trong khán phòng nhằm tạo
thiện cảm với các người nghe. Điều này cũng giúp đánh giá xem mọi người có
tập trung lắng nghe hay không, cũng có thể biết được khu vực nào chưa thực sự
tập trung để đưa ra những điều chỉnh kịp thời.
- Hít thở sâu và uống một chút nước: Hít thở sâu sẽ giúp máu của lưu thông
tốt hơn và cung cấp nhiều oxy lên não mang tới cảm giác thư giãn và dễ chịu
hơn. Hít thở sâu và uống một chút nước sẽ giúp người thuyết trình giảm bớt lo
lắng, giữ được bình tĩnh và thoải mái hơn trong khi thuyết trình.
117
- Sử dụng ngôn ngữ cơ thể một cách hiệu quả: Một cử chỉ, điệu bộ nhỏ liên
quan đến bài thuyết trình sẽ giúp thu hút sự chú ý cũng như giúp người nghe
hình dung rõ hơn về nội dung đang được trình bày. Vì vậy, muốn thuyết trình
hiệu quả cần biết sử dụng ngôn ngữ cơ thể một cách phù hợp để phát huy tác
dụng để giúp cho việc truyền tải nội dung thuyết trình được tốt hơn. Tuy nhiên
cũng cần tránh những cử chỉ phi ngôn ngữ không phù hợp như: khoanh tay, giấu
tay, đảo mắt liên tục, trỏ tay….
II. Kỹ năng thảo luận, tranh luận của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh
1. Mục đích, yêu cầu đối với thảo luận, tranh luận của đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh
a. Mục đích của thảo luận, tranh luận của đại biểu Hội đồng nhân dân
Đại biểu HĐND sử dụng hình thức thảo luận, tranh luận trong nhiều hoạt
động của HĐND, như: thảo luận dự thảo nghị quyết; công tác nhân sự thuộc
thẩm quyền của HĐND; các chương trình, nội dung giám sát của HĐND, Ban
của HĐND.
Thảo luận và tranh luận đều là việc đại biểu HĐND trình bày ý kiến của
mình một cách có lý lẽ, có cơ sở khoa học và thực tiễn trước HĐND (hoặc Tổ đại
biểu HĐND) nhằm làm sáng tỏ vấn đề từ đó thuyết phục các đại biểu đồng tình
với quan điểm của mình về các vấn đề mà HĐND đang xem xét, quyết định.
Thảo luận nhằm mục đích đưa ra quan điểm của đại biểu thì tranh luận
nhằm mục đích bảo vệ quan điểm của đại biểu.
Bảng 1. Đặc điểm thảo luận, tranh luận
Thảo luận Tranh luận
Có thời gian chuẩn bị kỹ Không có chuẩn bị trước
Xuất phát từ nghiên cứu của đại
biểu, tham khảo ý kiến các chuyên
gia…
Xuất phát từ thảo luận của đại biểu
khác, ý kiến cơ quan trình dự thảo nghị
quyết, đề án
Đưa ra ý kiến của đại biểu về vấn đề Đưa ra lập luận để đồng tình hoặc
118
HĐND đang thảo luận không đồng tình với đại biểu hoặc một
số đại biểu khác
Thời gian 5-10 phút tùy quy định của
HĐND
Thời gian ngắn hơn thảo luận
Tranh luận trong thảo luận khác tranh luận trong chất vấn về đối tượng tranh
luận. Trong thảo luận về dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo, đại biểu tranh luận ý
kiến với đại biểu khác hoặc với cơ quan trình dự thảo thì tranh luận trong chất
vấn, đại biểu không tranh luận với nhau mà tranh luận với người trả lời chất vấn.
b. Yêu cầu đối với thảo luận, tranh luận
Thảo luận và tranh luận của đại biểu HĐND cần đảm bảo tuân thủ các
nguyên tắc chung sau:
- Bảo đảm đúng đường lối của Đảng, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của
Nhà nước.
- Tuân thủ sự điều hành của Chủ tọa kỳ họp.
- Thực hiện văn hóa nghị trường: Văn hóa nghị trường đó là sự tôn trọng
người chủ tọa, tôn trọng đại biểu khác trong thảo luận, tranh luận; đó là đặt lợi
ích nhân dân lên trên hết, trên cả cái “tôi” của đại biểu. Trong thảo luận và tranh
luận cần tránh chỉ trích đại biểu HĐND khác; sử dụng ngôn từ hợp lý; tránh sử
dụng những từ mạnh như “sai hoàn toàn”, “kịch liệt phản đối”, “thiếu hiểu
biết”,… Tranh luận trên tinh thần lắng nghe và xây dựng. Mỗi đại biểu phát biểu
đều không chỉ mang tiếng nói cá nhân mà còn đại diện cho cử tri bầu ra mình.
- Tuân thủ nội quy kỳ họp HĐND. Nội quy kỳ họp HĐND do HĐND các
tỉnh, thành phố tự mình ban hành, một trong những quy định về thảo luận, tranh
luận đó là về thời gian. Ví dụ, Nội quy kỳ họp HĐND tỉnh Quảng Bình: Thời
gian phát biểu của đại biểu không quá 10 phút hoặc do Chủ tọa quy định58
. Việc
đảm bảo thời gian phát biểu chính là tôn trọng HĐND, tôn trọng đại biểu HĐND
khác.
- Tập trung vào nội dung đang thảo luận, phát biểu rõ ý đề xuất, đồng tình,
không đồng tình, lý do tại sao. Nội quy kỳ họp HĐND tỉnh Quảng Bình nêu rõ: 58
Ban hành kèm theo Nghị quyết số 12/NQ-HĐND ngày 21/7/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình.
119
Ý kiến phát biểu thảo luận phải ngắn gọn, rõ, đi vào trọng tâm của vấn đề, nếu
đã thống nhất với các báo cáo hoặc trùng với các ý kiến đã phát biểu trước thì
khẳng định ý kiến thống nhất mà không nêu lại vấn đề. Nội quy kỳ họp HĐND
tỉnh Hưng Yên nêu: Đại biểu HĐND tỉnh phát biểu tập trung vào nội dung của
phiên thảo luận.
- Tiếp tục theo dõi thảo luận của các đại biểu khác, ý kiến giải trình của cơ
quan trình dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo để lắng nghe ý kiến từ đó có nhận
định, đánh giá về vấn đề thảo luận, đồng thời tranh luận khi cần thiết. Đại biểu
đến dự họp chỉ chăm chăm phát biểu ý kiến của mình, coi ý kiến của mình là
đúng, không lắng nghe ý kiến của đại biểu khác là chưa làm tròn trách nhiệm
người đại biểu, thay mặt nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng ở địa
phương. Lắng nghe đại biểu khác phát biểu là tôn trọng nguyên tắc làm việc của
HĐND.
c. Một số lưu ý nên tránh trong thảo luận, tranh luận
- Đứng chống hai tay lên bàn (một số đại biểu HĐND có thói quen chống
hai tay lên bàn để tạo điểm tựa), khoanh tay trước ngực hay đút tay túi quần
(một số đại biểu HĐND cảm thấy thừa tay khi phát biểu và có thói quen này).
Đây là hình ảnh không đẹp, nhất là khi phóng viên chụp ảnh đại biểu đang phát
biểu để đăng trên các báo.
- Đọc văn bản chuẩn bị sẵn: Khi phụ thuộc vào văn bản và đọc văn bản sẽ
làm cho bài phát biểu thiếu sức thuyết phục, khó sử dụng ngôn ngữ cơ thể và
giọng nói để hấp dẫn người nghe.
- Quên kiểm soát thời gian: Do quá giờ nên Chủ tọa nhắc nhở hoặc đề nghị
dừng phát biểu, sẽ ảnh hưởng tới nội dung phát biểu, có nội dung đại biểu dự
định phát biểu nhưng không kịp nói do hết giờ.
- Để tranh luận được thì cần phải hiểu thật kỹ về nội dung: Những vấn đề
tranh luận đại biểu không có thời gian đề tìm hiểu trước như bài thảo luận, do
đó, hiểu về nội dung đó thì đại biểu mới nên tranh luận.
- Lựa chọn nội dung thảo luận: Trong một kỳ họp HĐND khoảng 2- 3 ngày
tùy từng địa phương, số lượng dự thảo nghị quyết, đề án thông qua nhiều, đại
120
biểu cần cân nhắc mình sẽ phát biểu thảo luận về nội dung nào bởi các lý do:
thời gian dành cho thảo luận trong kỳ họp không nhiều, do vậy, đại biểu không
có điều kiện đăng ký phát biểu về tất cả các nội dung của kỳ họp HĐND; đại
biểu nên lựa chọn 3-5 nội dung để tập trung nghiên cứu sâu, đáp ứng được khả
năng của đại biểu.
2. Các bước thực hiện thảo luận, tranh luận của đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh
a. Các bước thực hiện thảo luận
(i) Chuẩn bị thảo luận
- Thu thập thông tin, xử lý thông tin
Các loại thông tin chủ yếu đại biểu HĐND cần thu thập, xử lý trong quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ gồm:
+ Thông tin về đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng: Đây là loại
“thông tin” quan trọng mang tính định hướng. Nguồn dữ liệu ở cấp trung ương
là nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, nghị quyết các hội nghị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư. Nguồn dữ liệu ở cấp địa phương là nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp
tỉnh; nghị quyết các hội nghị của Ban Chấp hành đảng bộ cấp tỉnh; kết luận của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy. Ví dụ, HĐND tỉnh thông qua chủ trương về
tinh giản biên chế, các văn bản của Đảng cần tham khảo là: Báo cáo chính trị tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 39-NQ/TW
ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành trung ương, Nghị quyết 18-NQ/TW và Nghị
quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017, Kết luận của Bộ Chính trị (nếu có), nghị
quyết, kết luận của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh...
+ Thông tin về chính sách, pháp luật của Nhà nước: Đây là thông tin căn
bản, là cơ sở pháp lý quan trọng để HĐND lấy làm căn cứ ban hành nghị quyết.
Trong nội dung của Nghị quyết HĐND bao giờ cũng có phần “căn cứ pháp lý”.
Tiếp tục ví dụ về HĐND tỉnh thông qua chủ trương về tỉnh giản biên chế, thông
tin về chính sách, pháp luật của Nhà nước cần thu thập là: Luật Tổ chức chính
121
quyền địa phương59
, Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính
phủ (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 113/2018/NĐ-CP)... Đây là những
văn bản trực tiếp liên quan đến nội dung tinh giản biên chế, ngoài ra, còn cần
tìm hiểu các văn bản khác có liên quan như vấn đề ngân sách (nếu có phần hỗ
trợ từ NSNN): Luật Ngân sách nhà nước, nghị định và thông tư hướng dẫn thi
hành Luật…
+ Thông tin về nghị quyết của HĐND đã ban hành có liên quan để so sánh,
đánh giá hiệu quả thi hành, tìm hiểu các chính sách đã được ban hành. Ví dụ
HĐND tỉnh X trong năm 2021 dự kiến ban hành chính sách về tinh giản biên
chế, đại biểu cần tìm hiểu trước đây HĐND tỉnh X đã ban hành nghị quyết nào
có liên quan trực tiếp hay gián tiếp về nội dung này hay chưa hoặc so sánh với
tỉnh khác.
+ Thông tin liên quan đến những vấn đề cử tri, nhân dân quan tâm: đại biểu
HĐND là người đại diện cho cử tri, do vậy, cần phải mang được tiếng nói,
nguyện vọng của cử tri vào nghị trường vào nghị quyết của HĐND. Ý kiến của
cử tri còn mang hơi thở cuộc sống, có giá trị thực tiễn cao, giúp đại biểu đánh
giá được dự thảo nghị quyết có hợp với thực tiễn không, có đáp ứng được yêu
cầu phát triển của địa phương không, có hợp lòng dân không60
.
+ Thông tin từ tài liệu kỳ họp HĐND: Đại biểu đọc tài liệu kỳ họp gửi
trước để lựa chọn nội dung cần phát biểu. Nhanh nhất và dễ dàng nhất là xem
trực tiếp vào những vấn đề trong tờ trình xin ý kiến, các phương án khác nhau
trong tờ trình; xem gợi ý thảo luận của Thường trực HĐND (tùy địa phương có
thể có văn bản này). Đại biểu cần nghiên cứu, phát hiện thêm những vấn đề
59
Quy định về thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực biên chế (Điều 19 nhiệm vụ, quyền
hạn của Hội đồng nhân dân tỉnh; Điều 40 nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc
trung ương). 60
Ví dụ ý kiến cử tri tỉnh Yên Bái: Cử tri và nhân dân đồng tình về chủ trương tinh giản biên chế và cơ cấu lại
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhưng cho rằng việc thực hiện cần phải được đẩy mạnh hơn nữa. Đề nghị
Chính phủ chỉ đạo quyết liệt việc tinh giản biên chế đi đôi với đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công, cải cách tiền
lương, cơ cấu lại tổ chức bộ máy đội ngũ cán bộ, công chức; đồng thời mong muốn việc tổ chức tuyển dụng và
thi tuyển cần thực sự khách quan, công khai, minh bạch nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức. Trên thực tế đội ngũ công chức không giảm đi mà ngày càng tăng lên đối với các
cấp(https://www.yenbai.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin
tuc.aspx?ItemID=17983&l=tintrongtinh&lv=11).
122
không nằm trong tờ trình của UBND (vấn đề mà UBND chủ động không đưa ra
hoặc vấn đề mới).
Một nội dung phát biểu tại kỳ họp không chỉ đơn thuần là chuẩn bị trước 1
ngày, 1 tuần hay 1 tháng mà đại biểu cần chuẩn bị ngay từ khi trở thành đại biểu
bằng cách ghi chép lại tất cả những vấn đề xảy ra ở địa phương, những vấn đề
mà đại biểu suy nghĩ trong một cuốn sổ nhỏ. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho
đại biểu để có phát biểu sâu về nội dung, có minh chứng thực tế.
- Lựa chọn vấn đề
HĐND mỗi kỳ họp xem xét, thảo luận, quyết định nhiều vấn đề, thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, xã hội. Do vậy, đại biểu HĐND khó có
thể nghiên cứu hết tất cả nội dung trong kỳ họp HĐND để có ý kiến phát biểu.
Thậm chí, đối với một dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo tại kỳ họp HĐND thì
đại biểu cũng chỉ chọn một vài vấn đề trong dự thảo để nghiên cứu có ý kiến
phát biểu.
1. Kỳ họp thứ 9 HĐND tỉnh Cà Mau (tháng 7/2014) đã thông qua 11 nghị
quyết quy phạm pháp luật về các lĩnh vực: mức chi đảm bảo cho công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở;
chế độ, chính sách đối với dân quân; mức phụ cấp hàng tháng đối với lực
lượng Bảo vệ dân phố; danh mục tiêu chuẩn, định mức trang bị cho Công an
xã; mức hỗ trợ đặc thù đối với công chức, viên chức, người lao động làm việc
tại các cơ sở nuôi dạy trẻ khuyết tật, bảo trợ xã hội công lập và Làng trẻ em
SOS; ban hành danh mục giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh trong các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh công lập; mức thu phí đào tạo trình độ cao đẳng, trung
cấp chuyên nghiệp, giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập năm học
2014-2015; Lệ phí cấp giấy phép xây dựng; Phí sử dụng cảng cá, phí vệ sinh,
phí qua cầu và 3 nghị quyết về công tác nhân sự.
123
2. Kỳ họp thứ 15 HĐND Thành phố Hồ Chí Minh (nhiệm kỳ 2016-2021) đã
thông qua 24 nghị quyết về nhiều lĩnh vực như lĩnh vực ngân sách (quyết
toán ngân sách, chế độ với người cai nghiện ma túy, chi quà tặng chúc thọ,
chi các hội thi, chi giám sát và phản biện xã hội) đến chủ trương đầu tư công
(đầu tư công nhóm B, kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2021), giá đất,
thu hồi đất, tới nghị quyết chuyên đề về giảm ngập nước, quy hoạch, dự án
giao thông, cải cách hành chính, chương trình giảm nghèo, …
3. Kỳ họp thứ 6 HĐND tỉnh Hải Dương (nhiệm kỳ 2016-2021) ban hành 14
nghị quyết trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chương trình phát triển nhà ở,
quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp, sử dụng tài sản công, phí và lệ
phí, hỗ trợ chi phí khuyến khích hỏa táng, công trình thu hồi đất, chuyển đổi
mục đích sử dụng đất, chế độ với học sinh và giáo viên trường chuyên, hỗ trợ
nhân rộng mô hình giảm nghèo, hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế, chỉ tiêu kế
hoạch giường bệnh, chương trình giám sát HĐND.
Điểm qua chương trình kỳ họp của HĐND ở ba địa phương trên để thấy số
lượng nghị quyết được HĐND thông qua không có sự chênh lệch nhiều, khá
tương đồng nhau. Kỳ họp HĐND thành phố Hồ Chí Minh dài hơn các địa
phương khác do HĐND xem xét, thông qua nhiều nghị quyết.
- Kinh nghiệm hoạt động của HĐND cho thấy nên lựa chọn nhiều vấn đề
phát biểu. Nếu dự kiến có 5 nội dung (5 dự thảo nghị quyết) phát biểu tại kỳ họp
HĐND thì đại biểu cần lựa chọn 8 nội dung phát biểu. Mỗi nội dung sẽ phát
biểu 3 ý thì cần lựa chọn 5 ý để chuẩn bị ý kiến. Việc lựa chọn nhiều nội dung,
nhiều ý trong mỗi nội dung để đề phòng nội dung/ý chuẩn bị phát biểu bị trùng
với nội dung/ý của đại biểu khác đã phát biểu trước mình.
- Đại biểu có thế mạnh trong một vài lĩnh vực do chuyên môn đào tạo, kinh
nghiệm trong lĩnh vực công tác, tự tìm hiểu, hỗ trợ từ một số chuyên gia … đem
lại. Đại biểu nên chọn những lĩnh vực thuộc thế mạnh của mình để nghiên cứu ý
124
kiến phát biểu, thảo luận. Đồng thời cần lựa chọn vấn đề đang có nhiều ý kiến
trong dư luận xã hội, vấn đề bức xúc của cử tri mà đại biểu tiếp thu được qua các
cuộc tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, bởi đại biểu phải mang được “hơi thở cuộc
sống” vào nghị trường. Vấn đề nào đại biểu thấy cần phát biểu mà mình chưa rõ
thì phải tìm hiểu từ chuyên gia, báo chí, từ thực tiễn cuộc sống, điều này sẽ giúp
nghị quyết khi được ban hành đi vào cuộc sống của dân.
- Linh hoạt thay đổi chủ đề phát biểu thảo luận. Tại kỳ họp HĐND, qua
lắng nghe ý kiến phát biểu của các vị đại biểu HĐND, đại biểu cần có đánh giá
về nội dung mình chuẩn bị (có đúng chưa, có trùng ý kiến không, có cần thay
đổi không), để từ đó có thể thay đổi chủ đề phát biểu hoặc thay đổi một vài nội
dung trong phát biểu đã chuẩn bị sẵn.
- Xác định đối tượng nghe
Đại biểu cần trả lời câu hỏi: Bài thảo luận của mình để cho ai nghe?
Có 3 đối tượng mà lời nói đại biểu hướng tới, tùy nội dung, mục đích mà
mục tiêu của đại biểu khác nhau. Đó là:
+ Đại biểu HĐND: Nhằm thuyết phục đại biểu đồng ý với mình. Ngoài
việc tham gia ý kiến vào dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo thì trong các phiên
thảo luận về kinh tế - xã hội, đại biểu cần quan tâm tới đối tượng này.
+ Cơ quan trình dự thảo (thường là UBND): Thuyết phục chỉnh sửa dự thảo
văn bản theo ý kiến của đại biểu (thường trong phiên thảo luận về dự thảo nghị
quyết, đề án, ngân sách).
+ Cử tri: Thể hiện năng lực, trình độ để tạo uy tín trong nhân dân. Cần đặc
biệt lưu ý trong các phiên truyền hình trực tiếp của HĐND.
- Xây dựng bài thảo luận
Về kết cấu bài thảo luận
Dung lượng bài thảo luận phụ thuộc vào thời gian phát biểu được quy định
tại nội quy kỳ họp HĐND. Với tốc độ đọc thông thường, 6 phút phát biểu (đại
biểu đọc toàn văn phát biểu) sẽ tương ứng với 2 trang A4 đánh máy cỡ chữ 14,
giãn dòng 18pt.
125
Một bài phát biểu cần đủ 3 nội dung: Mở
bài - thân bài - kết luận.
Mở bài ngắn gọn, đặc sắc, tác động mạnh
tới người nghe như mũi đinh.
Thân bài là phần chính, chiếm tỷ lệ lớn
trong bài thảo luận. Phần thân bài, đại biểu cần
xác định có bao nhiêu ý để phân định dung
lượng mỗi ý có độ dài khoảng bao nhiêu dòng.
Kết luận ngắn gọn, lắng đọng, mang tính tổng kết.
- Một số gợi ý về phần mở đầu
Hầu hết các đại biểu HĐND sẽ mở đầu bằng các câu quen thuộc, trùng
nhau và không kém phần nhàm chán:
1) Kính thưa chủ tọa, kính thưa Hội đồng nhân dân
Tôi có 3 ý kiến phát biểu như sau
2) Kính thưa chủ tọa, kính thưa Hội đồng nhân dân
Tôi hoàn toàn nhất trí với các ý kiến phát biểu trước tôi, tôi xin tham gia
góp ý như sau (lời mở đầu này thậm chí còn không nêu được mình định nói mấy
nội dung)
3) Kính thưa chủ tọa, kính thưa Hội đồng nhân dân
Tôi cơ bản thống nhất/nhất trí với Tờ trình của Ủy ban nhân dân/Báo cáo
của Ủy ban nhân dân về …. và báo cáo thẩm tra của Ban Pháp chế/Ban Kinh tế -
Ngân sách/Ban Văn hóa - Xã hội/... Tôi xin phát biểu nhấn mạnh 3 nội dung sau.
4) Kính thưa Hội đồng nhân dân
Tôi đánh giá cao sự điều hành của Ủy ban nhân dân trong phát triển kinh tế
- xã hội, tôi đề xuất một số nội dung sau
5) Kính thưa chủ tọa, kính thưa Hội đồng nhân dân
Tại phiên thảo luận này, tôi chỉ tập trung vào vấn đề lớn là…
Rõ ràng nếu một đại biểu phát biểu thì thấy bình thường, nhưng trong buổi
sáng, hơn 10 đại biểu phát biểu đều bắt đầu với những câu như trên thì người
nghe sẽ cảm thấy nhàm chán.
Mở bài
10-
15%
Thân bài
75-80%
Kết
luận
10%
126
Vậy phần mở đầu của bài thảo luận nên bắt đầu thế nào?
+ Mở đầu bằng cách đặt câu hỏi là tạo tính tò mò với người nghe để người
nghe phải suy nghĩ, kích thích trí tưởng tượng, khi đó người nghe đã bắt đầu tự tư
duy vấn đề mà đại biểu dự định nói. Ví dụ, khi HĐND thảo luận về dự thảo nghị
quyết tinh giản biên chế, đại biểu mở đầu thảo luận: “Liệu đã ai đặt ra câu hỏi:
bao nhiêu phần trăm ngân sách của tỉnh là dành để trả lương cho cán bộ, công
chức, viên chức?… (nghỉ)… một con số chắc chúng ta sẽ khó tưởng tượng nổi”.
+ Mở đầu hài hước nhưng rất ngắn và liên quan đến nội dung phát biểu, sẽ
làm không khí hội trường vui vẻ, đại biểu tập trung lắng nghe phát biểu. Sự hài
hước có thể gắn với nội dung thảo luận.
+ Mở đầu bằng cách đưa ra những con số thống kê. Những con số thống kê
thường nhàm chán, nhưng nếu đại biểu biết nêu đúng lúc, đúng thời điểm thì sẽ
gây tác động lớn tới người nghe vì tính thuyết phục của số liệu… Ví dụ, thảo
luận về kinh tế - xã hội tại kỳ họp giữa năm của HĐND, phần mở đầu của đại
biểu: Theo đánh giá của UBND và báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế - ngân
sách, với tiến độ giải ngân hiện nay để hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn đầu tư
công năm 2022 sẽ là thách thức rất lớn, mới chỉ giải ngân đạt 1.300 tỷ đồng
bằng 18,98% kế hoạch năm.
+ Mở đầu theo lối tương phản. Việc nhấn mạnh sự tương phản, mâu thuẫn
là cách thu hút sự chú ý của đại biểu. Ví dụ như khi thảo luận về kinh tế - xã hội
hay giám sát bồi thường khi thu hồi đất đai, đại biểu có thể tạo sự tương phản
giữa giá đền bù đất nông nghiệp và giá trị nhà đất sau khi được đầu tư, sự chênh
lệch lớn tạo tương phản rõ nét.
Ví dụ phần đầu đánh giá thành công của địa phương trong phòng chống
dịch COVID-19, phần sau đưa ra nhận định xấu: Tuy nhiên, do ảnh hưởng dịch
COVID-19 nên mức tăng trưởng GDP những tháng đầu năm chỉ đạt khoảng
3,8%, mức thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây; du lịch, các dịch vụ khác sa
sút nghiêm trọng; sản lượng công nghiệp giảm với tốc độ nhanh, nhiều doanh
nghiệp ngưng hoạt động hoặc chỉ cầm chừng; công nhân thất nghiệp; tín dụng
127
tăng chậm; nguy cơ nợ xấu gia tăng; thu ngân sách năm 2021 của tỉnh/thành phố
khó có khả năng đạt chỉ tiêu; bội chi NSNN dự báo tăng nhiều.
+ Cách mở đầu dẫn dắt. Cách mở đầu này không theo quy chuẩn tỷ lệ giữa
các phần mở đầu - thân bài - kết luận mà phần mở đầu có thể rất dài, chiếm 70%
bài thảo luận, dẫn dắt người nghe đi tới phần thân bài đồng thời là kết luận. Ví
dụ phần đầu kể câu chuyện cụ thể thương tâm, đưa ra những con số để tác động
tới tâm lý đại biểu HĐND, để phần cuối chốt lại thật ngắn gọn: Chính vì những
lý do nêu trên, tôi tha thiết đề nghị HĐND, UBND quan tâm bố trí thêm nguồn
vốn 200 tỷ động để tạo việc làm cho thanh niên nông thôn.
- Một số gợi ý về phần kết luận
Kết luận phải nhắc lại, tóm tắt được nội dung mà đại biểu đã phát biểu.
Nhiều đại biểu không quan tâm tới phần kết luận, cho rằng mình trình bày đầy
đủ ở phần thân bài là đã đạt mục đích. Do vậy, phần kết không tạo được dấu ấn,
lắng đọng. Một số kết của thảo luận mà đại biểu HĐND hay sử dụng là:
1) Tôi xin hết ý kiến. Xin trân trọng cảm ơn HĐND
2) Trên đây là một số nội dung liên quan đến thảo luận phát triển kinh tế -
xã hội những tháng đầu năm. Tôi xin hết ý kiến. Xin trân trọng cảm ơn HĐND.
Một số cách kết luận:
+ Kết luận từng phần: Với bài thảo luận có nhiều ý, các ý không liên quan
đến nhau, có thể kết ở từng ý. Ví dụ thảo luận về kinh tế - xã hội, đại biểu phát
biểu 3 ý về giá nông, lâm, thủy sản; đường giao thông nông thôn; dự án điện
gió/điện mặt trời ở địa phương. Với 3 nội dung này, đại biểu cần kết ở từng nội
dung một cách rõ ràng. Cuối bài thảo luận có thể không cần có phần kết luận.
Đại biểu cũng có thể đưa thêm phần kết chung cho cả 3 vấn đề: Tôi cho
rằng nếu giải quyết được 3 vấn đề về giá nông sản, hoàn thiện đường giao thông
nông thôn và giải quyết vướng mắc trong đầu tư dự án điện gió/điện mặt trời ở
địa phương sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, đặc biệt
trong năm 2022.
+ Kết luận chung: Với bài thảo luận chỉ về một nội dung thì bắt buộc phải
có phần kết, đó là đại biểu kiến nghị gì, đề xuất gì. Ví dụ như trong bài phát biểu
128
của đại biểu HĐND về việc sửa đường nội tỉnh chạy qua 3 huyện, sau khi đại
biểu phát biểu về nhu cầu cần thiết phải sửa, thực trạng tuyến đường, nguyện
vọng người dân… và đi đến phần kết: Tuy nhiên, đến nay việc khởi công nâng
cấp tuyến đường vẫn chưa được thực hiện. Qua đây tôi xin đề nghị Chủ tịch
UBND tỉnh cho chủ trương cơ chế để tháo gỡ nút thắt bố trí vốn để triển khai
thực hiện dự án sửa tuyến đường. Vừa qua, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài
chính, Sở Giao thông vận tải đã rất ủng hộ việc này, nhưng nay tôi chưa rõ vấn
đề này đang mắc ở đâu? Tôi đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh sớm chỉ đạo rõ việc
này. Xin trân trọng cảm ơn HĐND.
+ Kết luận có thể là một lời kêu gọi: Ví dụ, khi thảo luận về nghị quyết hỗ
trợ cho trẻ mầm non ở một tỉnh miền núi, nhiều đồng bào dân tộc thiểu số: Tôi tha
thiết đề nghị các vị đại biểu HĐND quan tâm đưa chính sách hỗ trợ trẻ mầm non
tới trường và hỗ trợ cô giáo dạy mầm non ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số
còn nhiều khó khăn. Trẻ em như búp trên cành, cần phải chăm lo cho các cháu.
- Chuẩn bị tâm lý
Phát biểu trước diễn đàn HĐND cấp tỉnh, một diễn đàn chính trị quan
trọng, có sự quan tâm của người dân ở địa phương, có sự tham dự của hầu hết
lãnh đạo tỉnh, các huyện, thị xã, thành phố để bàn về những vấn đề quan trọng
góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Do vậy, áp lực lên đại biểu
HĐND khi phát biểu tại diễn đàn này là không nhỏ, nhất là với đại biểu ít có cơ
hội phát biểu trong các diễn đàn lớn. Đại biểu cần phải chuẩn bị tâm lý thật tốt.
Tùy thuộc và năng lực của đại biểu mà có cách thức chuẩn bị tâm lý khác nhau,
một số gợi ý là:
+ Đại biểu viết thành bài thảo luận đầy
đủ và đọc trước vài lần. Một số cách luyện
đọc là: Đọc trước gương, đọc trước người
khác (bạn bè, người thân), đọc và tự quay
phim/clip bằng điện thoại… việc quay clip có
tác dụng để đại biểu xem lại và chỉnh sửa
những điểm mà mình thấy chưa được (động
129
tác tay chưa phù hợp, vấp câu khi phát biểu…).
+ Dự kiến các vấn đề mà đại biểu khác có thể nêu về dự thảo nghị quyết, đề
án, báo cáo mà mình dự định phát biểu ý kiến. Điều này giúp đại biểu tự tin khi
bước vào thảo luận tại kỳ họp HĐND, tự tin trong điều chỉnh nội dung phát biểu
khi thấy cần thiết, tự tin vì mọi tình huống mình đều dự đoán và thậm chí có giải
pháp ứng phó.
+ Luyện tập nói trước đám đông bất kỳ khi nào có cơ hội để quen với áp
lực và quen với môi trường có đông người. Có diễn giả nổi tiếng đã từng nắm
lấy cơ hội đứng trước bục phát biểu (chỉ vài giây để giúp diễn giả khác chuẩn bị
thuyết trình) nhằm mục đích cảm nhận được không gian rộng và đông người
nhìn vào người thuyết trình.
+ Trước khi đứng lên trình bày thảo luận, hãy hít thở sâu - buông lỏng cơ
thể - nhấp ngụm nước nhỏ - cử chỉ hành động phải dứt khoát - đứng thẳng người
- hai chân vững vàng trên mặt đất - nở một nụ cười
- đọc phần “kính thưa” đã chuẩn bị sẵn. Những điều
này sẽ giúp đại biểu tự tin để phát biểu.
+ Không quá lo lắng rằng liệu phát biểu của
mình có đúng hay không. Thảo luận trong HĐND là
đưa ra quan điểm của đại biểu, do vậy không có
đúng - sai. Và ý kiến của đại biểu không được cơ quan
soạn thảo đề án, nghị quyết tiếp thu, không được
HĐND biểu quyết ủng hộ cũng là rất bình thường. Quyết định của HĐND
không giống làm toán, mà dựa trên dữ kiện hiện có (mà dữ kiện có thể không
đầy đủ hoặc không chính xác) để quyết định chính sách mà HĐND thấy rằng
phù hợp với thực tiễn.
(ii) Tiến hành phát biểu thảo luận
- Đại biểu thể hiện thông điệp rõ ràng, mạnh mẽ, thuyết phục; trình bày
những thông tin, thông điệp phức tạp một cách thu hút.
- Linh hoạt trong phát biểu: HĐND khi thảo luận về một vấn đề cụ thể,
đương nhiên có nhiều đại biểu nghiên cứu đóng góp ý kiến, và ý kiến của không
Đừng quên cốc nước luôn có
sẵn trên bàn đại biểu
130
ít đại biểu trùng nhau về nội dung, cách thức giải quyết vấn đề…Vì vậy, đại biểu
khi phát biểu sau đại biểu khác cần linh hoạt xử lý bài tham luận đã chuẩn bị
sẵn, lược bỏ ý trùng nhau, có phương án dự phòng nội dung phát biểu, nhanh
chóng đưa ra phân tích thêm, sâu hơn vào nội dung HĐND đang bàn. Tránh việc
các đại biểu đã phát biểu nhiều về một nội dung, nhưng do đại biểu đã đăng ký
phát biểu từ trước nên vẫn đọc một bài chuẩn bị sẵn, trùng lặp, vừa làm mất thời
gian của HĐND, vừa không thể hiện được trí tuệ trong bài phát biểu.
- Kiểm soát dung lượng phát biểu: Mặc dù bài phát biểu đã được chuẩn bị
kỹ nhưng với đại biểu không đọc bài chuẩn bị sẵn mà dựa trên cơ sở bài để phát
biểu nên thường nói thêm, giải thích thêm làm cho bài phát biểu bị kéo dài thời
gian. Vì vậy, rất cần thiết kiểm soát dung lượng ở mức vừa đủ để không bị nói
quá thời gian cho phép, tránh lê thê, dài dòng. Một số gợi ý để kiểm soát thời
gian phát biểu là: nhờ đại biểu bên cạnh bấm giờ và nhắc trước khi hết giờ 1
phút; sử dụng chế độ bấm giờ trong điện thoại di động; căn giờ trên đồng hồ đeo
tay, đồng hồ treo tường ở Hội trường…
- Lấy ví dụ thực tế, hình ảnh minh họa nhấn mạnh luận điểm: Tùy thời
điểm, nội dung mà thực tiễn, hình ảnh có sức thuyết phục hơn rất nhiều lần luận
điểm mà đại biểu muốn chứng minh. Trăm nghe không bằng một thấy, hiệu quả
của hình ảnh tác động tới người nghe tức thời.
- Giọng nói: Cần thể hiện sự tự tin, nói rõ ràng, rành mạch, không nói quá
nhỏ/quá to, tránh nói nhanh, biết điểm nhấn, điểm dừng. Tránh phát biểu kiểu
“ru ngủ” đều đều, trong phát biểu cần thể hiện thái độ của đại biểu với vấn đề.
b. Các bước thực hiện tranh luận của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
(i) Chuẩn bị tranh luận
- Thu thập và xử lý thông tin
Xử lý thông tin trong tranh luận rất khác với xử lý thông tin trong phát biểu
thảo luận. Điểm khác biệt lớn nhất đó là THỜI GIAN.
Trong thảo luận, đại biểu có rất nhiều thời gian để thu thập thông tin, xử lý
thông tin bằng nhiều phương pháp khác nhau để xây dựng bài phát biểu thảo
luận. Ngược lại, trong tranh luận tại Hội trường, đại biểu HĐND không có nhiều
131
thời gian để xử lý thông tin (thường có 10-20 phút để quyết định việc tranh luận
hay không); khó sử dụng nhiều phương pháp thu thập thông tin (tra cứu trên
Internet, hỏi ý kiến chuyên gia, tra cứu văn bản pháp luật, tra cứu báo cáo của
UBND …).
Đại biểu HĐND tự mình phải thu thập và xử lý thông tin. Thông tin thu
thập đầu tiên là từ bài phát biểu của đại biểu HĐND khác, của đại diện UBND
mà mình muốn tranh luận. Có thể tra cứu rất nhanh từ tờ trình, báo cáo của
UBND, báo cáo thẩm tra, sử dụng Internet.
Nền tảng để đại biểu tranh luận phải là kiến thức sẵn có của đại biểu về nội
dung HĐND đang thảo luận. Đại biểu chỉ nên tranh luận khi nắm vững vấn đề,
tự tin vào kiến thức có sẵn và ý kiến của bản thân.
Sơ đồ tranh luận của đại biểu trong phiên thảo luận tại HĐND
Nghiên cứu và phân tích
Đại biểu cần nghiên cứu và phân tích ý kiến phát biểu, ý kiến tranh luận
của đại biểu khác để chuẩn bị ý kiến tranh luận của mình.
Đại biểu A
phát biểu
Các đại biểu
khác phát biểu
Cơ quan trình
NQ phát biểu
Đại biểu B tranh luận Đại biểu A tranh luận
Ý kiến tranh luận
Tranh luận lại
Điều hành của Chủ tọa phiên
họp
132
- Phát hiện điểm/ý chưa chính xác trong phát biểu: Về mặt kỹ thuật, có khi
chỉ cần chứng minh đại biểu khác phát biểu sai, dù chỉ là một điểm nhỏ, cũng sẽ
tạo ra sự nghi ngờ của HĐND đối với toàn bộ phát biểu của đại biểu đó.
Ví dụ, đại biểu HĐND trong phát biểu của mình có đưa ra ý “Tôi nhận
được rất nhiều tin nhắn điện thoại của người dân, họ nói chưa từng bao giờ thấy
niềm tin đối với nền hành chính của tỉnh nhà thấp như bây giờ”.
Trong phát biểu này, cần phân tích ý kiến của đại biểu đưa ra là “điện thoại
của người dân”, ý kiến này không có cơ sở vững chắc, chỉ vài ý kiến mà quy nạp
thành sự yếu kém của cả nền hành chính của tỉnh là chưa hợp lý.
Từ phân tích này, trong phát biểu tranh luận của đại biểu khác đã đặt câu
hỏi để tạo sự nghi ngờ về thông tin đưa ra: “Đại biểu có cho biết rằng nhận định
đó đại biểu nhận được qua ý kiến của một số cá nhân qua điện thoại. Tôi thấy
rằng bây giờ nên nhìn nhận như thế nào cho đúng? thông tin qua qua điện thoại
thì có được coi là có cơ sở hay không?”.
- Tìm ra điểm thiếu logic trong phát biểu: Phân tích nội dung phát biểu xem
có điểm nào không logic với nhau, luận điểm/dẫn chứng phần trên trái ngược
với luận điểm/dẫn chứng phần dưới; thiếu logic trong giải quyết vấn đề. Ví dụ
trong phát biểu của Giám đốc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn về giải
pháp khắc phục giá thịt lợn cao (do tình hình dịch bệnh lợn trong tỉnh tăng), đã
đưa ra giải pháp phát triển các loại thịt khác như cá, gà, vịt, bò, trâu… Đại biểu
tranh luận đã đưa ra lập luận đòi hỏi phải có giải pháp lâu dài và đưa ra ví dụ
minh họa: giá thịt lợn hiện nay cao do cung không đủ cầu thì có thể chuyển sang
những thực phẩm khác, đó là một giải pháp tôi cho rằng rất hay. Nhưng tới đây
nếu cung cầu lại ngược lại, giá thịt lợn lại giảm thì chúng ta giải quyết việc này
như thế nào? Như vậy thì quay lại ăn thịt lợn là chính thì lại ảnh hưởng đến giá
cả của các gia súc, gia cầm khác. Đại biểu muốn minh chứng giải pháp mà Giám
đốc sở đưa ra là giải pháp vòng quanh kiểu “con gà - quả trứng”.
- Tiếp cận vấn đề ở các góc độ khác nhau: Đại biểu đưa ra một góc nhìn khác
với góc nhìn của đại biểu khác, của cơ quan trình dự thảo nghị quyết để tranh luận
về vấn đề. Ví dụ, một đại biểu đặt ra vấn đề phải dẹp chợ cóc để đảm bảo văn
133
minh đô thị. Đại biểu tranh luận có thể đưa ra góc nhìn bảo đảm cuộc sống của
người dân nghèo vì hầu hết người buôn bán ở chợ cóc là người nghèo, không có
tiền vào thuê sạp hàng trong chợ. Vậy vấn đề là vừa đảm bảo văn minh đô thị -
vừa đảm bảo đời sống người dân nghèo đã vô cùng khó khăn.
- Xây dựng phương án tranh luận
+ Đặc điểm của tranh luận là thời gian ngắn hơn thời gian cho thảo luận. Thời
gian cho thảo luận thường 5-10 phút tùy quy định của HĐND từng địa phương thì
thời gian cho tranh luận khoảng 3 phút hoặc ngắn hơn. Do vậy, đại biểu đi trực
diện vào vấn đề tranh luận, “tiết kiệm thời gian”, đưa ra lập luận ngắn gọn, rõ ràng.
Không chỉ thời gian phát biểu ngắn mà thời gian chuẩn bị ý kiến tranh luận
cũng ngắn, đại biểu nên viết các ý định nói thật ngắn gọn, mỗi ý có lý lẽ bảo vệ,
thuyết phục gì. Việc chuẩn bị ý kiến tranh luận như vậy mới kịp thời gian. Đại
biểu không có thời gian chau chuốt dự thảo lời phát biểu tranh luận.
+ Căn cứ pháp lý minh chứng: Có hai căn cứ để bảo vệ luận điểm của đại
biểu, có tính thuyết phục cao, đó là căn cứ chính trị (từ nghị quyết, chính sách của
Đảng), căn cứ pháp lý (từ quy định của Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết, pháp
lệnh của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nghị định của Chính phủ, thông
tư của Bộ). Với viện dẫn văn bản quy phạm pháp luật trong đó có văn bản pháp lý
cao nhất là Hiến pháp sẽ là một bảo đảm cho sự thành công trong tranh luận của
đại biểu.
- Căn cứ thực tiễn, căn cứ khoa học minh chứng: Đại biểu có thể lấy các ví dụ
trong thực tiễn đã xảy ra để minh chứng cho tranh luận sẽ có tính thuyết phục cao
hơn những lập luận mang cảm tính (tôi cho rằng, nhiều cử tri nêu ý kiến rằng, trên
diễn đàn báo chi thời gian gần đây cho thấy…). Ví dụ tranh luận về lợi ích của
thủy điện nhỏ, đại biểu đưa ra lập luận về tác hại “Bình quân các nhà máy thủy
điện loại nhỏ cứ 1 MW sẽ tiêu tốn từ 1 - 10 ha rừng, cụ thể dự án thủy điện A công
suất 11MW, chiếm mất 10 ha rừng; dự án thủy điện B công suất 14 MW, chiếm
mất 170 ha rừng bảo tồn thiên nhiên của tỉnh”.
- Tôn trọng ý kiến trái chiều, đặt mình vào hoàn cảnh đại biểu khác: Đại biểu
HĐND trong tranh luận cần tôn trọng ý kiến trái với ý kiến của mình, đại biểu phát
134
biểu khác với ý kiến của mình không có nghĩa đại biểu đó “không thích mình,
không thiện cảm với mình” bởi đại biểu đứng trên quan điểm đại diện cho tiếng
nói của cử tri để phát biểu.
- Biết thừa nhận sai lầm (không giữ định kiến): Thảo luận, tranh luận để tìm
ra giải pháp tốt nhất, vì mục tiêu chung của địa phương, diễn đàn HĐND không
phải là nơi đại biểu chứng tỏ mình, thể hiện mình giỏi, hơn người khác, do vậy, đại
biểu phải biết thừa nhận sai lầm.
- Biết điểm dừng: Nhiều trường hợp đại biểu phát biểu tranh luận 1-2 lần
(Đại biểu A tranh luận với đại biểu B, đại biểu B tranh luận lại đại biểu A, đại biểu
A tiếp tục tranh luận với đại biểu B). Có những nội dung không có đúng sai như
toán học 1+1 = 2. Đưa ra chính sách của HĐND là một việc rất khác với toán học
bởi đây là quá trình xử lý dữ kiện đầu vào vừa mang tính khoa học vừa mang tính
chủ quan. Do vậy, đại biểu cần biết điểm dừng, để vừa tôn trọng đại biểu tranh
luận với mình, vừa tôn trọng tập thể HĐND. Việc quyết định ý kiến nào là phù
hợp sẽ thuộc quyền của HĐND.
- Giữ bình tĩnh: Tranh luận là đưa ra ý kiến trái chiều, thậm chí có phê bình
nhau giữa các đại biểu trước tập thể đông người - diễn đàn HĐND. Để có tranh
luận lại mang tính khoa học, thuyết phục thì đại biểu cần giữ bình tĩnh trước tranh
luận trái chiều của đại biểu khác.
- Cố gắng tìm ra một quan điểm chung với đại biểu mà mình tranh luận. Đây
là một kỹ năng nhỏ nhưng hiệu quả. Mục tiêu của nó là làm cho đại biểu thay đổi
quan điểm. Ví dụ, khi phát biểu tranh luận lại đại biểu khác, trong 3 ý mà đại biểu
khác nêu có 2 ý mình đồng tình, 1 ý không đồng tình và có ý kiến tranh luận, đại
biểu không nên bỏ qua 2 ý đồng tình để đi thẳng vào ý tranh luận, dễ tạo tâm lý
phản ứng của đại biểu. Đại biểu khi phát biểu tranh luận có thể nêu: Thưa đại biểu
Nguyễn Văn A, tôi xin phát biểu trao đổi lại với ý kiến của đại biểu để HĐND và
cử tri được rõ.
Tôi cũng đồng ý với đại biểu rằng (nêu 2 nội dung mà mình đồng tình với đại
biểu), (nếu cần có thể có lời khen).
135
Riêng ý kiến của đại biểu về vấn đề đầu tư cho các công trình thủy lợi thời
gian qua không hiệu quả, tôi cho rằng (nêu quan điểm, lý lẽ để bảo vệ quan điểm).
- Bản lĩnh tranh luận
Nếu như phát biểu thảo luận là đưa ra ý kiến của mình về nội dung trong dự
thảo nghị quyết, đề án, báo cáo để góp phần hoàn thiện dự thảo. Ý kiến của đại
biểu góp ý với cơ quan trình (UBND, Thường trực HĐND) mà không hướng tới
cá nhân cụ thể.
Ngược lại, trong tranh luận là đại biểu hướng phát biểu tới không đồng tình
với quan điểm, ý kiến của cá nhân cụ thể, có thể là đại biểu HĐND hoặc Chủ
tịch/Phó Chủ tịch UBND, Giám đốc Sở… Do vậy, khi tranh luận, đại biểu cần
có bản lĩnh để dám tranh luận, dám đưa ra ý kiến trái chiều mà mình cho rằng
đúng.
(ii) Phát biểu tranh luận
Phát biểu tranh luận khác tranh cãi/cãi nhau để thắng, phát biểu tranh luận
trên nghị trường HĐND lại càng khác biệt. Do vậy, đại biểu lưu ý một số điểm
sau:
- Tranh luận đảm bảo theo sự điều hành của Chủ tọa phiên họp;
- Tranh luận có văn hóa nghị trường;
- Không nên có lời nói, phát biểu gay gắt;
- Không công kích cá nhân đại biểu, người mà mình tranh luận;
- Tuân thủ nguyên tắc tranh luận:
Để hiểu được nguyên tắc tranh luận, cần bắt đầu từ 3 nguyên tắc cơ bản
được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương:
+ HĐND làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số, điều đó
có nghĩa là quyết định đúng - sai không phải là việc của một vài đại biểu, được
quyết định bởi một vài đại biểu, mà là quyết định của tập thể HĐND.
+ Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân
địa phương nên đại biểu phát biểu ngoài kiến thức cá nhân do đại biểu thu thập
được thì quan trọng nhất, phát biểu của đại biểu mang tính đại diện, ý kiến phát
136
biểu đại diện cho cử tri của tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương. Do vậy, tranh
luận giữa hai đại biểu không thuần túy là tranh luận của 2 cá nhân.
Mục đích phát biểu hướng tới lợi ích chung của cử tri trong tỉnh, thành phố,
giải pháp nào là tốt nhất với nhân dân, không phải tốt nhất với đại biểu.
+ Đại biểu HĐND bình đẳng trong thảo luận: Cá nhân dù có giữ chức vụ
nào thì khi tranh luận với tư cách đại biểu HĐND cũng bình đẳng với nhau, ý
kiến của đại biểu HĐND đồng thời là Giám đốc sở cũng bình đẳng với ý kiến
của đại biểu HĐND đồng thời là giáo viên dạy tiểu học.
3. Giải quyết vấn đề phát sinh trong quá trình thảo luận, tranh luận
a. Giải quyết vấn đề phát sinh trong thảo luận
- Trường hợp đại biểu đăng ký phát biểu ở đầu cuộc họp và chủ tọa mời các
đại biểu lần lượt phát biểu theo thứ tự đăng ký, nhưng qua các ý kiến phát biểu
trước thì nội dung đại biểu dự kiến phát biểu đã được các đại biểu khác nêu và
giải quyết, thậm chí Chủ tọa có kết luận.
Đại biểu có thể nhanh chóng thay đổi nội dung phát biểu. Trường hợp
không kịp chuẩn bị nội dung mới, khi Chủ tọa mời phát biểu, đại biểu xin không
phát biểu nữa vì các lý do: Nội dung đã được trao đổi, thảo luận, và để tiết kiệm
thời gian cho HĐND.
- Đại biểu trong quá trình phát biểu, bị Chủ tọa nhắc nhở vì nội dung không
phù hợp với chủ đề thảo luận.
Đại biểu bỏ qua ý phát biểu mà Chủ tọa nhắc nhở để chuyển sang ý phát
biểu tiếp theo. Trường hợp không có ý phát biểu tiếp theo trùng với nội dung,
chủ đề đang thảo luận thì đại biểu xin phép dừng phát biểu hoặc tranh luận với
Chủ tọa để minh chứng nội dung mình phát biểu gắn với chủ đề và xin tiếp tục
phát biểu.
- Đại biểu trong quá trình phát biểu, bị Chủ tọa nhắc nhở vì vượt quá thời
gian quy định.
Đại biểu xin phép Chủ tọa và HĐND được phát biểu thêm (thời gian phát
biểu thêm không nên quá 1 phút), đồng thời lược bớt nội dung để đi thẳng vào
phần kiến nghị.
137
- Trường hợp đang phát biểu thảo luận, bỗng dưng các đại biểu trong Hội
trường cười rộ lên, mặc dù bài phát biểu của đại biểu không có mục đích gây cười.
Đại biểu dừng phát biểu trong 10-15 giây, đợi hội trường lắng xuống tiếng
cười, đồng thời quan sát hội trường và hỏi đại biểu bên cạnh để tìm hiểu lý do
gây cười (lý do có thể từ bài phát biểu của đại biểu hoặc tình huống bên ngoài
mà đại biểu không quan sát được, ví dụ ai đó trong hội trường có hành động gây
cười). Sau khi tiếng cười lắng xuống, đại biểu lấy bình tĩnh và tự tin để tiếp tục
phát biểu.
b. Giải quyết vấn đề phát sinh trong tranh luận
- Trường hợp Chủ tọa nhắc đại biểu vì một trong các lý do: Vượt quá thời
gian tranh luận, nội dung tranh luận không theo chủ đề.
Đại biểu tiếp thu ý kiến Chủ tọa, nhanh chóng đi tới phần ý kiến chính
trong tranh luận.
- Trường hợp đại biểu bị đại biểu khác tranh luận và phê bình, chê trước HĐND
Đại biểu cần giữ bình tĩnh, tìm lý lẽ để tranh luận, trao đổi lại. Việc trao đổi
có thể thực hiện ngay tại phiên họp HĐND đó, trao đổi ngoài hành lang (nếu nội
dung liên quan tới hai cá nhân) hoặc đợi phiên thảo luận của HĐND tiếp theo để
phát biểu ý kiến.
138
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích yêu cầu đối với hoạt động thuyết trình của đại biểu HĐND;
những khó khăn mà đại biểu HĐND có thể gặp phải khi thuyết trình? Biện pháp
khắc phục? Liên hệ thực tế cá nhân đại biểu HĐND.
2. Phân tích những yêu cầu đối với hoạt động thảo luận, tranh luận của đại
biểu HĐND; những khó khăn mà đại biểu HĐND có thể gặp phải khi thảo luận,
tranh luận? Biện pháp khắc phục? Liên hệ thực tế cá nhân đại biểu HĐND.
3. Để chuẩn bị cho thảo luận, tranh luận về Nghị quyết chứa/không chứa
quy phạm pháp luật, đại biểu HĐND cấp tỉnh cần chuẩn bị những nội dung gì?
4. Kinh nghiệm của cá nhân đại biểu HĐND trong thuyết trình, thảo luận,
tranh luận?
139
TÀI LIỆU THAM KHẢO DÀNH CHO HỌC VIÊN
1. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
2. Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc
trung ương (nơi đại biểu HĐND công tác).
3. Lê Thị Bừng, (2014), Phương tiện giao tiếp trong hoạt động quản lý,
NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ban Công tác đại biểu - Trung tâm bồi
dưỡng đại biểu dân cử (2020), Đại biểu Hội đồng nhân dân, những điều cần biết.
5. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ban Công tác đại biểu, 2021, Kiến thức và
kỹ năng cơ bản dành cho đại biểu Hội đồng nhân dân, Hà Nội.
140
Chuyên đề 5
KỸ NĂNG TIẾP XÚC VÀ THAM VẤN Ý KIẾN CỬ TRI,
TIẾP CÔNG DÂN, TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CƠ QUAN BÁO CHÍ
CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
I. Kỹ năng tiếp xúc và tham vấn ý kiến cử tri
1. Khái quát về tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
a. Tiếp xúc cử tri - hoạt động quan trọng của đại biểu Hội đồng nhân dân
Trách nhiệm tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND được quy định cụ thể tại
Điều 94 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2019):
“Trách nhiệm tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND:
1. Đại biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri nơi mình thực hiện
nhiệm vụ đại biểu, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản
ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri và ít nhất mỗi năm một lần
báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND nơi mình là đại biểu, trả
lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
2. Sau mỗi kỳ họp HĐND, đại biểu HĐND có trách nhiệm báo cáo với cử
tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND, vận
động và cùng với Nhân dân thực hiện các nghị quyết đó”.
Như vậy, hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND được hiểu là việc
đại biểu HĐND thông qua các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tổ chức gặp gỡ
cử tri nơi bầu ra mình để thu thập ý kiến, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử
tri chuyển tải đến HĐND, đồng thời báo cáo với cử tri việc thực hiện nhiệm vụ
của người đại biểu.
Tiếp xúc cử tri là một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với người đại
biểu, là “cầu nối” giúp đại biểu gắn bó mật thiết với cử tri, kịp thời nắm bắt
những tâm tư, nguyện vọng chính đáng và các vấn đề bức xúc mà cử tri phản
ánh để chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết; đồng thời, giúp việc ban
141
hành các chủ trương, cơ chế, chính sách của địa phương sát thực tiễn, hợp lòng
dân. Làm tốt công tác tiếp xúc cử tri, giải quyết kịp thời các ý kiến, kiến nghị,
nguyện vọng chính đáng và những bức xúc của cử tri sẽ góp phần giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, đồng thời nâng cao vai trò,
vị trí của người đại biểu, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp
tỉnh.
b. Các hình thức tiếp xúc cử tri
Pháp luật hiện nay quy định đại biểu có thể tiếp xúc cử tri bằng nhiều hình
thức: Tiếp xúc cử tri thông qua các hội nghị tiếp xúc cử tri do Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam chủ trì tổ chức; tiếp xúc với cử tri nơi công tác, tiếp xúc với
cử tri nơi cư trú… Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc tiếp xúc cử tri của đại biểu
chủ yếu được thực hiện thông qua hội nghị tiếp xúc cử tri do Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam chủ trì tổ chức trước và sau kỳ họp HĐND.
Tiếp xúc cử tri sau kỳ họp là bắt buộc, được quy định trong Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Tuy nhiên, để
tham gia ý kiến đóng góp tại kỳ họp HĐND, đại biểu còn cần phải tiếp xúc cử tri
giữa hai kỳ họp và trước kỳ họp HĐND.
Trước và trong kỳ họp, đại biểu báo cáo với cử tri về tình hình kinh tế - xã
hội của địa phương, thông tin về nội dung, chương trình kỳ họp. Sau kỳ họp, đại
biểu phải báo cáo tóm tắt kết quả kỳ họp, thông báo và giải thích nghị quyết đã
được ban hành tại kỳ họp.
Việc tiếp xúc cử tri trước khi diễn ra kỳ họp để lắng nghe ý kiến của cử tri
cần được tổ chức linh hoạt theo các hình thức: tiếp xúc cử tri nơi đại biểu cư trú,
tiếp xúc cử tri nơi đại biểu làm việc, tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, xuất phát từ
những vấn đề đang được nhân dân quan tâm, những vấn đề địa phương đang gặp
nhiều khó khăn vướng mắc, những nội dung cần bàn sâu để có nghị quyết
chuyên đề tại kỳ họp (như những vấn đề về phân cấp ngân sách; cơ chế, chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp ngoài nhà nước; công tác cải cách tư pháp; công tác xã
hội hoá giáo dục...).
142
Tiếp xúc cử tri theo chuyên đề là hoạt động của đại biểu để tiếp thu ý kiến,
kiến nghị góp ý, thảo luận của cử tri đối với các nội dung nghị quyết HĐND cấp
cấp tỉnh sắp ban hành hoặc đã ban hành được chọn để tổ chức tham vấn ý kiến
nhân dân theo chương trình xây dựng nghị quyết hoặc chương trình hoạt động
giám sát của HĐND cấp tỉnh trong năm.
Tiếp xúc theo chuyên đề thì đối tượng cử tri là đồng nhất hơn (thường là
cùng công tác ở một lĩnh vực hoặc cùng làm ở một ngành nghề nhất định) và
nhu cầu của buổi tiếp xúc là để đại biểu tìm hiểu thông tin về một vấn đề cụ thể
(ví dụ: Tiếp xúc với đại biểu là công nhân ở khu công nghiệp nhằm tìm hiểu tâm
tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri về chính sách đối với người lao động). Hay
trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19, Thường trực HĐND cấp
tỉnh đã linh hoạt trong việc chỉ đạo tổ chức, thu thập ý kiến, kiến nghị cử tri,
theo đó, các Tổ đại biểu HĐND cấp tỉnh, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp tỉnh có thể lựa chọn hình thức tiếp xúc cử tri phù hợp nhằm
hạn chế tập trung đông người, đồng thời, tăng cường sử dụng các phương tiện
truyền thông để thông tin đến cử tri kết quả các kỳ họp và thu thập ý kiến cử tri.
Hình thức tiếp xúc cử tri này mang tính chuyên sâu hơn và có hiệu quả
trong việc xây dựng chính sách phù hợp với tình hình thực tiễn.
Như vậy, để hoạt động tiếp xúc cử tri đạt hiệu quả, đại biểu cần chủ động,
tích cực sử dụng nhiều hình thức tiếp xúc cử tri. Thay vì ngồi chờ cử tri tới bày
tỏ ý kiến của mình, việc chủ động tiếp xúc cử tri tạo điều kiện cho đại biểu lấy ý
kiến đóng góp của người dân nói chung hay của các nhóm cử tri cụ thể chịu tác
động của một vấn đề hay một dự thảo văn bản.
Từ góc độ tiếp nhận và truyền đạt thông tin, tiếp xúc cử tri là hoạt động
giao tiếp hai chiều giữa đại biểu và cử tri, diễn ra trong môi trường có tính tương
tác cao giữa người nói và người nghe, trong đó cả đại biểu và cử tri đều có cả
hai vai trò, vừa là người nói, vừa là người nghe.
Thứ nhất, nghe cử tri nói
Đại biểu HĐND có nhiều cách để tìm hiểu thực tiễn, thu thập thông tin về
sự vật, hiện tượng trong thực tiễn, như tự mình tìm hiểu, thông qua báo chí…
143
nhưng hình thức hiệu quả nhất là lắng nghe những ý kiến, kiến nghị phản ánh
của cử tri và tổng hợp, tiếp thu có chọn lọc những ý kiến đó. Thực tiễn này, giúp
đại biểu thực hiện được nhiệm vụ của mình trong hoạt động thông qua nghị
quyết của HĐND và hoạt động giám sát.
Thứ hai, nói cử tri nghe
Đại biểu là người có hiểu biết về pháp luật, nắm vững được nội dung
HĐND quyết định tại kỳ họp, là người mà cử tri tin tưởng bầu ra, do đó, đại biểu
có trách nhiệm tuyên truyền tới nhân dân chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà
nước và vận động nhân dân thực hiện.
Có nhiều cách thức để chủ động tiếp xúc cử tri như:
- Gặp gỡ định kỳ với các nhóm trong xã hội;
- Tham vấn riêng (các cuộc tiếp xúc với các cá nhân hoặc các nhóm chịu
tác động trực tiếp của một quyết định);
- Các cuộc tiếp xúc cá nhân (các cuộc tiếp xúc để thu thập thông tin và các
bình luận, thường là từ các cơ quan hữu quan, hoặc các chuyên gia khác để có
thể hiểu vấn đề rõ hơn);
- Tổ chức tiếp xúc các nhóm cử tri nhỏ tại địa điểm nơi họ sinh sống;
- Các cuộc tiếp xúc với cử tri ngay tại nơi họ làm việc.
2. Các bước tiếp xúc cử tri
a. Chuẩn bị cho buổi tiếp xúc cử tri
Trước khi tiếp xúc cử tri, đại biểu cần có sự chuẩn bị kỹ càng. Điều này
không chỉ tạo niềm tin và sự tôn trọng của cử tri đối với đại biểu mà còn là điều
kiện tiên quyết bảo đảm cho hiệu quả của hoạt động tiếp xúc cử tri, tạo tiền đề
để đại biểu hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, đại biểu cần đầu tư thời gian và công
sức để có sự chuẩn bị tốt trước khi diễn ra hoạt động tiếp xúc cử tri với các yêu
cầu sau:
- Chủ động, tích cực nghiên cứu các chủ trương, chính sách, pháp luật, cập
nhật kịp thời thông tin về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và
của đơn vị bầu cử.
144
- Tìm hiểu, thu thập thông tin đa chiều về những vấn đề bức xúc, nổi cộm
tại địa phương, những vấn đề mà đa số cử tri quan tâm. Nắm vững những nội
dung cử tri đã kiến nghị ở các kỳ họp trước để trả lời cho cử tri đúng trọng tâm,
trọng điểm;
- Chú trọng việc lựa chọn hình thức tiếp xúc, nội dung báo cáo, cách thức
phổ biến đối với cử tri sao cho phù hợp; làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền
hoạt động tiếp xúc cử tri để đảm bảo tính công khai, minh bạch và cũng để các
tổ chức, nhân dân, cử tri cùng theo dõi giám sát việc thực hiện.
- Nắm vững kế hoạch tiếp xúc cử tri về thời gian, địa điểm, đối tượng tiếp
xúc (trí thức, công dân, nông dân, cử tri khu dân cư …) để chuẩn bị nội dung
tiếp xúc hợp với nhu cầu của cử tri. Ví dụ như tiếp xúc cử tri là nông dân thì
mức độ quan tâm tới lĩnh vực thu hút nhân tài của địa phương không bằng lĩnh
vực giá nông sản, tiếp xúc cử tri khu dân cư thì đa dạng về đối tượng, đa dạng về
nội dung kiến nghị, nhưng thường xoay quanh các vấn đề của địa phương (xã,
phường, thị trấn, tổ dân phố, thôn, làng, ấp, bản, khiếu kiện cá nhân).
- Trên cơ sở các thông tin thu thập được về những vấn đề nổi cộm, bức xúc
tại địa bàn tiếp xúc cử tri, dự liệu những tình huống phức tạp có thể phát sinh và
dự kiến mời đại diện các cơ quan hữu quan có thẩm quyền giải quyết đến tham
dự tiếp xúc cử tri để hỗ trợ giải tỏa bức xúc của cử tri.
Đại biểu HĐND cấp tỉnh cần lưu ý tới tình hình của cấp huyện, cấp xã, nhất
là các vấn đề nóng, gây bức xúc trong dư luận. Ví dụ: Nếu như ở nơi tiếp xúc
đang tiến hành giải phóng mặt bằng để làm công trình công cộng thì đại biểu cần
quan tâm tìm hiểu các văn bản về đền bù, giải phóng mặt bằng, các văn bản quy
hoạch con đường qua địa phương, tình hình khiếu nại của công dân về đền bù,
giải tỏa…
- Thu thập tài liệu phục vụ cho tiếp xúc cử tri
Việc chuẩn bị tài liệu cần căn cứ vào mục đích của buổi tiếp xúc cử tri, đối
tượng cử tri và địa bàn tiếp xúc. Ví dụ như, nếu tiếp xúc cử tri trước kỳ họp, đại
biểu cần chuẩn bị về chương trình kỳ họp, các nội dung kỳ họp HĐND sẽ bàn
tới, thông qua; thông tin về tình hình kinh tế - xã hội…; nếu tiếp xúc cử tri sau
145
kỳ họp, đại biểu cần chuẩn bị báo cáo kết quả kỳ họp, nội dung các nghị quyết
đã được HĐND thông qua, nội dung chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp, kết
quả giải quyết các kiến nghị cử tri của các ngành…
- Xây dựng đề cương để báo cáo trước cử tri: sau khi xác định được những
thông tin cần thiết cho cuộc tiếp xúc cử tri, đại biểu phải xây dựng đề cương để
đưa thông tin đến cử tri. Việc chuẩn bị đề cương để đại biểu nói trúng, đúng vấn
đề cử tri cần nghe, tránh nói tràn lan, chung chung và kéo dài thời gian.
Đại biểu phải tự chuẩn bị để báo cáo ngắn gọn, mất ít thời gian - chuẩn bị
thông tin, đề cương, thông điệp chính.
- Liên hệ chặt chẽ với đại diện Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam - cơ quan chủ trì Hội nghị tiếp xúc cử tri và chính quyền, các đoàn thể tại
địa bàn tiếp xúc cử tri để có những thông tin hữu ích phục vụ cho tiếp xúc cử tri;
- Chuẩn bị các yếu tố cá nhân: trang phục phù hợp, phương tiện đi lại (đi
bằng thuyền, đi phương tiện cơ giới, đi bộ…) để bố trí thời gian đi phù hợp, sổ
sách ghi chép…
b. Thực hiện buổi tiếp xúc cử tri
Thông thường, buổi tiếp xúc cử tri chính thức do Mặt trận Tổ quốc tổ chức
gồm các bước sau:
- Đại diện Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức tiếp
xúc cử tri, nếu là hội nghị tiếp xúc cử tri ở cơ quan thì đại diện Ban Chấp hành
Công đoàn cơ quan chủ trì hội nghị, tuyên bố lý do, giới thiệu thành phần đại
biểu, chương trình, nội dung hội nghị và cử thư ký ghi biên bản hội nghị.
- Tùy vào hình thức tiếp xúc cử tri là trước hay sau kỳ họp, tiếp xúc cử tri
nơi cư trú, nơi công tác, tiếp xúc cử tri theo chuyên đề mà đại biểu HĐND lựa
chọn để báo cáo với cử tri những vấn đề sau đây: dự kiến chương trình, nội dung
kỳ họp (đối với hội nghị tiếp xúc cử tri trước kỳ họp); kết quả kỳ họp và kết quả
giải quyết kiến nghị của cử tri (đối với hội nghị tiếp xúc cử tri sau kỳ họp); việc
triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh ở địa phương; hoạt động của đại biểu và của HĐND đối với hội
nghị tiếp xúc cử tri sau kỳ họp cuối năm.
146
- Cử tri phát biểu ý kiến.
- Đại diện UBND, cơ quan, tổ chức hữu quan phát biểu, trả lời những vấn
đề cử tri nêu lên thuộc thẩm quyền giải quyết của mình.
- Đại biểu HĐND phát biểu, tiếp thu ý kiến, kiến nghị của cử tri.
- Đại diện Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát biểu
kết thúc hội nghị, nếu là hội nghị tiếp xúc cử tri ở cơ quan thì đại diện Ban chấp
hành Công đoàn cơ quan phát biểu ý kiến kết thúc hội nghị.
Rất ít trường hợp chỉ có một đại biểu tiếp xúc cử tri mà thường là một số
đại biểu tham gia tiếp xúc cử tri, vì vậy, cần có sự phân công trong các đại biểu
về việc ai sẽ báo cáo với cử tri, ai sẽ tiếp thu ý kiến cử tri. Đại biểu nào có chức
vụ, có kinh nghiệm thường được phân công tiếp thu ý kiến của cử tri, đại biểu
khác được phân công báo cáo vì việc báo cáo đã có chuẩn bị trước bằng văn bản.
Điều quan trọng nhất của đại biểu HĐND khi tiếp xúc cử tri là thể hiện chữ
tâm - tâm với công việc, tâm với cử tri. Cái tâm của đại biểu thể hiện ở sự sốt
sắng với công việc chung, sự quan tâm đến đời sống, tâm tư, nguyện vọng của
cử tri, coi khó khăn và lo lắng của cử tri như khó khăn và lo lắng của người thân
mình, của bản thân mình. Có tâm thì đại biểu mới tìm ra nhiều biện pháp để giúp
đỡ cử tri, để chuyển nguyện vọng chính đáng của cử tri thành chính sách.
c. Hoạt động sau khi tiếp xúc cử tri
Đại biểu HĐND cần tổng hợp hợp kiến nghị của cử tri. Ý kiến, kiến nghị
của cử tri ở địa phương phần lớn mang tính đơn lẻ, hoặc vụ việc, vì vậy, khi đại
biểu tiếp xúc ở nhiều điểm trên địa bàn, cần tổng hợp các ý kiến đơn lẻ để đi tới
cái tổng thể, khái quát. Tuy nhiên, cũng có thể có trường hợp chỉ có một ý kiến
đơn lẻ nhưng lại quan trọng thì đại biểu cần nắm bắt và phản ánh kịp thời tới cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết.
Nếu đại biểu chỉ dừng ở việc tiếp xúc với cử tri thì chưa thực sự hoàn thành
nhiệm vụ của người đại biểu, qua cuộc tiếp xúc cử tri, đại biểu phải đưa được
tiếng nói của cử tri tới diễn đàn HĐND, đưa được ý kiến cử tri vào trong nghị
quyết của HĐND. Đại biểu phải thực sự quan tâm tới đời sống nhân dân, tới
mong muốn của cử tri, phải trăn trở với đời sống của nhân dân, từ đó tìm ra biện
147
pháp, giải pháp giúp đỡ cử tri. Đại biểu cần phải theo đuổi kiến nghị của mình
đến cùng để các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết.
3. Một số lưu ý trong quá trình tiếp xúc cử tri
a. Một số lưu ý khi trình bày nội dung
Trình bày nội dung là nội dung chính khi đại biểu tiếp xúc cử tri. Trình bày
nội dung thể hiện qua tiếng nói, cách nói, truyền đạt, nêu ý kiến, trình bày nhận
thức, quan điểm... của đại biểu, có tác động rất mạnh đến cử tri. Do đó, khi tiếp
xúc cử tri cần chú ý:
Một là, chuẩn bị kỹ, tốt trước khi tiếp xúc. Chuẩn bị những nội dung chính,
quan trọng nhất mà mình trình bày thông qua một bản đề cương (để nói tóm tắt),
không nên đọc một bài đã chuẩn bị sẵn; đồng thời dự kiến những vấn đề khi cử
tri có thể hỏi để có ý kiến trao đổi. Nếu không chuẩn bị tốt, nhất là những người
mới hoặc ít tiếp xúc với công chúng dễ "mất điểm" trước cử tri.
Hai là, nội dung trình bày có trọng tâm, đi thẳng vào những vấn đề thiết
thực có liên quan đến địa phương, những vấn đề cử tri quan tâm để phổ biến sâu,
giải thích cho cử tri hiểu. Nên nói những vấn đề mà mình biết, hiểu sâu, có kiến
thức, kinh nghiệm. Trong tiếp xúc cử tri cần chú ý lắng nghe và trao đổi, giải
thích những điều cần thiết và nắm vững; không nên nói, trao đổi những vấn đề
mình còn mơ hồ, thiếu thông tin hoặc không thuộc lĩnh vực chuyên môn của
mình.
Ba là, có phương pháp trình bày khoa học, thuyết phục. Các vấn đề trình
bày cần rõ ràng, ngắn gọn, theo trình tự hợp lý; sử dụng ngôn ngữ phổ thông, dễ
hiểu, phù hợp với đối tượng tiếp xúc cử tri, với với nhận thức của người nghe,
với hoàn cảnh cụ thể của cuộc tiếp xúc và phù hợp với địa phương nơi tiếp xúc.
Nếu là vùng dân tộc thiểu số mà hiểu, nói thông thạo tiếng địa phương thì nên
trình bày bằng tiếng nói của họ. Âm lượng vừa phải, rõ tiếng, diễn đạt truyền
cảm, thu hút; khắc phục nói ngọng, nói nhịu... Kết hợp được "ngôn ngữ cơ thể"
(ánh mắt, nhún vai, động tác tay phụ họa cho lời nói...) trong quá trình diễn đạt
càng thu hút người nghe. Trình bày ngắn gọn, ngôn ngữ sử dụng dễ hiểu, thái độ
nghiêm túc, tôn trọng cử tri.
148
b. Một số lưu ý khi tiếp thu, nghe cử tri nói
Tuỳ tính phức tạp của vấn đề, trình độ nhận thức, tâm trạng, khả năng và
thói quen diễn đạt của mỗi người mà cử tri có những cách phát biểu khác nhau,
không phải lúc nào cũng mạch lạc, súc tích, dễ hiểu. Đại biểu cần lắng nghe để
hiểu rõ vấn đề và đánh giá được tình cảm cử tri gửi gắm trong ý kiến của mình.
Không nên ngắt lời, chỉnh sửa hay tỏ ra khó chịu về cách nói của cử tri. Cũng
không nên nói dài hoặc độc thoại suốt buổi tiếp xúc. Khi cần, đại biểu nên hỏi
lại cử tri để hiểu rõ ý kiến của họ.
Đại biểu thể hiện sự tập trung vào cử tri khi cử tri phát biểu bằng ngôn ngữ,
bằng cử chỉ, hành động (gật đầu, ánh mắt chăm chú, ghi chép, tư thế ngồi …).
Việc thể hiện sự chú ý lắng nghe rất quan trọng vì tạo mối liên hệ thân thiết giữa
đại biểu và cử tri, khuyến khích được cử tri phát biểu, đồng thời không tạo ra
cảm giác cử tri bị coi thường dễ dẫn tới phản ứng tiêu cực của cử tri.
Đại biểu nên chú ý nghe, ghi chép đầy đủ, tổng hợp ý kiến của cử tri để
theo dõi, phân loại, xử lý. Nghe để hiểu ý của cử tri, nhất là khi cử tri diễn đạt
chưa đầy đủ, logic… Đại biểu có thể biểu cảm bằng cử chỉ phù hợp để khích lệ
cử tri trình bày vấn đề một cách thẳng thắn, chân thành nhưng đúng mực.
Đại biểu có thể khuyến khích, gợi mở, động viên cử tri bày tỏ ý kiến bằng
các kỹ thuật đặt câu hỏi như:
- Câu hỏi đóng: để định hướng cử tri đưa câu trả lời ngắn gọn, cụ thể, chi
tiết: Ở đâu? Khi nào? Vấn đề gì? ...
- Câu hỏi mở: Gợi ý để cử tri chia sẻ, cung cấp thông tin, bày tỏ quan điểm
hoặc giải thích rõ hơn vấn đề: "Đề nghị cho biết rõ hơn về….", "Xin hãy mô tả
về…", "Vụ việc đã diễn ra như thế nào?"… => cử tri cảm thấy được tôn trọng,
động viên.
Việc ghi chép cũng rất cần thiết, giúp đại biểu có tư liệu khi phát biểu tại
kỳ họp HĐND, trả lời ngay tại cuộc họp cử tri đầy đủ nội dung cử tri phản ánh;
tổng hợp ý kiến cử tri để phản ánh tới cơ quan, tổ chức hữu quan.
c. Một số lưu ý khi phân loại ý kiến, kiến nghị của cử tri
149
Trong các cuộc tiếp xúc cử tri, thông thường cử tri nêu 02 dạng ý kiến: (i)
Ý kiến đóng góp cho chương trình nghị sự của kỳ họp - những ý kiến này không
nhiều; (ii) Nêu ý kiến, kiến nghị và nguyện vọng liên quan trực tiếp thi hành
chính sách, pháp luật ở địa phương, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Đại biểu cần phân loại ý kiến, kiến nghị của cử tri để chuyển đến cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền giải quyết.
Đại biểu và Tổ đại biểu sau khi tổng hợp chung, phân loại ý kiến gửi đến
Thường trực HĐND tổng hợp và chuyển đến UBND xem xét, giải quyết. Sau
khi có ý kiến trả lời của UBND hoặc các cơ quan liên quan khác, Tổ đại biểu và
đại biểu cần theo dõi, tổng hợp kịp thời và gửi ý kiến phản hồi cho cử tri. Nếu
làm được như vậy ý kiến của cử tri sẽ được xem xét và trả lời trực tiếp hoặc
bằng văn bản.
d. Một số lưu ý khi trao đổi với cử tri tại buổi Tiếp xúc cử tri
- Đại biểu trao đổi với cử tri xung quanh những nội dung cử tri kiến nghị,
tiếp thu những ý kiến chính đáng, phù hợp, đồng thời giải thích cho cử tri những
chủ trương, những khó khăn, những điều kiện thực tế của địa phương trong việc
đáp ứng nguyện vọng của cử tri.
- Đại biểu cần có chính kiến, thái độ rõ ràng nhưng cần khéo léo xử lý xung
đột phát sinh (nếu có) giữa các cử tri hoặc giữa cử tri với đại diện UBND, đại
diện các Sở, ngành tham gia Hội nghị tiếp xúc cử tri. Trong thực tế tiếp xúc cử
tri, có những trường hợp cử tri không nêu ý kiến mà trực tiếp gửi đơn thư khiếu
nại, tố cáo đến đại biểu HĐND. Trong tình huống này, thời gian tiếp xúc cử tri
không nhiều nên đại biểu không thể giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo ngay tại
buổi tiếp xúc cử tri mà cần thiết phải có trách nhiệm giải thích cho cử tri hiểu,
tạo sự đồng thuận. Sau đó bố trí thời gian hợp lý tiếp công dân để lắng nghe
những kiến nghị, bức xúc của họ để giảm tải những vấn đề “nóng” về khiếu nại,
tố cáo tại điểm tiếp xúc cử tri.
đ. Một số lưu ý về giao tiếp, ứng xử với cử tri
150
Kỹ năng tiếp xúc cử tri thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân của đại biểu trên
nhiều phương diện: thái độ, phong cách, trình độ, năng lực sử dụng ngôn ngữ,
năng lực giao tiếp, ứng xử… Tính chất đặc biệt của hoạt động tiếp xúc cử tri thể
hiện ở chỗ đây là hoạt động giao tiếp giữa cử tri (người gửi gắm sự tín
nhiệm) với đại biểu (người được tín nhiệm). Do đó, người đại biểu phải có kỹ
năng để tạo ra môi trường giao tiếp cởi mở, gần gũi trên cơ sở ý thức gắn bó,
chia sẻ. Cử tri sẽ đánh giá về đại biểu từ những chi tiết nhỏ nhất như trang phục,
trang điểm, cách đi đứng, cách trình bày vấn đề cho đến những vấn đề lớn như
trình độ, năng lực đại diện. Do đó, sẽ là sai lầm nếu quan niệm hoạt động tiếp
xúc cử tri là hoạt động "đến hẹn lại lên", chỉ cần thực hiện theo kế hoạch, đại
biểu đến chỉ cần đọc báo cáo đã chuẩn bị sẵn và cầu thị ngồi nghe, ghi chép ý
kiến phát biểu của cử tri.
Khi thực hiện các hoạt động tiếp xúc cử tri, các đại biểu cần tuân thủ
nguyên tắc 4T, đó là: Tươm tất - Thân thiện - Thời gian - Trí tuệ.
Đại biểu cần chú ý tới trang phục nghiêm túc, lịch sự, đầu tóc gọn gàng,
không mặc cẩu thả hay quá cầu kỳ, phù hợp với các nhóm đối tượng cử tri, phù
hợp với mức sống và phong tục, tập quán địa bàn ứng cử để không nên tạo
khoảng cách giữa đại biểu và cử tri và thể hiện sự tôn trọng cử tri. Ví dụ: khi
tiếp xúc với cử tri là cán bộ ở các cơ quan, tổ chức hay khu vực đô thị, có thể sử
dụng trang phục công sở, nhưng khi tiếp xúc với cử tri là người lao động hay ở
khu vực nông thôn lại cần trang phục giản dị hơn. Với đại biểu nữ, trang phục
kín đáo nhưng vẫn thể hiện được vẻ đẹp người phụ nữ, không nên dùng son môi,
kẻ mắt quá đậm.
Đại biểu thân thiện, cởi mở với cử tri, từ chuẩn bị một gương mặt tươi vui,
mắt luôn nhìn thẳng, chân thành, thân thiện, quan tâm. Cách cư xử không quá hạ
thấp vai trò người đại biểu, đại diện cho dân nhưng cũng không quan cách, xa
rời dân.
Từ cách xưng hô đến cách trình bày ý kiến, giải thích vấn đề, đại biểu cần
thể hiện được sự trân trọng đối với cử tri. Gặp những vấn đề bức xúc, cử tri có
thể to tiếng, gay gắt. Đại biểu thông cảm với cử tri, luôn luôn giữ thái độ bình
151
tĩnh, đúng mực và tìm cách hạ nhiệt cho cử tri. Tránh áp đặt ý kiến hoặc tranh
cãi với cử tri.
Đại biểu cần thể hiện có một tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, gần gũi, cởi
mở, không quá suồng sã, cũng không quá lạnh nhạt. Những cái bắt tay, chào hỏi
cũng cần chú ý "tay bắt mặt mừng", không siết tay quá chặt cũng không quá
lỏng lẻo và chú ý dành cái nhìn thân thiện, vui mừng với người bắt tay, hỏi thăm
xã giao.
Tiếp xúc với cử tri, dù trong hội nghị hay trong cuộc gặp riêng, với người
dân bình thường hay với chuyên gia, đại biểu cũng cần khiêm tốn học hỏi. Nếu
có những vấn đề chưa biết, chưa hiểu, đại biểu hãy thành thực hỏi cử tri để hiểu
cho đúng, cho tường tận.
Đại biểu lưu ý tới một số hành động KHÔNG: mím môi, nhắm mắt, chỉ trỏ,
đút tay túi quần, khoanh tay trước ngực; điện thoại (nghe điện thoại, nhắn tin,
đọc báo, vào facebook trên điện thoại); nói đều đều dễ làm người nghe không
tập trung, nói quá nhanh hay quá chậm; chỉ nhìn giấy đọc; hướng ánh mắt tới
một cá nhân cụ thể, nhìn trần nhà.
Đại biểu cần đến dự tiếp xúc cử tri đúng giờ và tốt nhất là nên đến sớm hơn
để chuyện trò, trao đổi với cử tri để xây dựng mối quan hệ thân thiện, gần gũi
với cử tri, đồng thời hiểu thêm tình hình của địa phương, nhất là vấn đề nóng.
Trong quá trình tiếp xúc cần lưu ý đến thời gian, đại biểu tránh phát biểu dài làm
mất nhiều thời gian của buổi tiếp xúc, làm cho cử tri không còn thời gian phát
biểu. Việc kết thúc đúng giờ hay kéo dài hơn còn tùy thuộc vào buổi tiếp xúc cử
tri, nói chung là nên kết thúc đúng giờ đã quy định, trường hợp cử tri bức xúc
muốn trao đổi thêm thì đại biểu cần kéo dài thời gian hơn.
Trong một số cuộc tiếp xúc, cử tri nêu khó khăn ở địa phương mình, đề
nghị chính quyền đầu tư nhiều hơn, vì vậy, đại biểu cần lưu ý việc của cấp nào
thì đề nghị đại diện chính quyền cấp đó trả lời; tiếp thu, ghi nhận để kiến nghị
các cơ quan thực hiện, điều gì khó có thể đáp ứng thì cần trình bày để cử tri
hiểu; việc gì làm được thì mới hứa, cam kết; đã hứa thì phải cố gắng thực hiện.
Biết cách tránh trả lời trực diện những câu hỏi ít mang tính xây dựng. Có những
152
câu hỏi, nếu đại biểu trả lời trực diện dù cách này hay cách khác đều ít mang lại
hiệu quả, có tác dụng tiêu cực, do vậy, cần có cách trả lời thông minh sao cho
người nghe vẫn thấy hài lòng. Việc gì đại biểu biết thì trả lời, nếu không biết thì
ghi nhận và hẹn sẽ trả lời sau; việc gì của địa phương thì yêu cầu lãnh đạo địa
phương trình bày, trả lời cử tri.
4. Tham vấn ý kiến cử tri
a. Khái niệm, mục đích tham vấn ý kiến cử tri
Tham vấn ý kiến cử tri là hoạt động của đại biểu HĐND nhằm thông báo,
hỏi và lắng nghe, thảo luận với những người chịu ảnh hưởng bởi một quyết định,
một giải pháp nào đó hoặc những người có liên quan, có quan tâm đến chính
sách, giải pháp sắp được ban hành hoặc đã được ban hành. Thông qua đó, các
nhóm người trong xã hội có cơ hội để bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình, tạo
điều kiện để HĐND ra quyết định có cơ sở xem xét và cân nhắc trước khi quyết
định ban hành hoặc sửa đổi chính sách.
Tham vấn tập trung vào việc thu thập và cung cấp đầy đủ những thông tin
cần thiết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ ra quyết định về chính sách
và pháp luật có thể lựa chọn việc nên làm và việc không nên làm. Chính vì vậy,
tùy theo mục đích của tham vấn và đối tượng tham vấn, HĐND cần xác định rõ
nội dung tham vấn phù hợp... Điều cần hỏi người dân là chính sách sẽ hoặc đã
tác động ra sao đến lợi ích của họ. Do đó, cần phải lựa chọn các vấn đề thiết
thực, liên quan trực tiếp tới quyền lợi, nghĩa vụ của người dân hoặc của cơ quan,
tổ chức để tham vấn hoặc những vấn đề có tính chất chính sách, liên quan đến
những lợi ích điển hình của từng nhóm, từng giới hoặc lợi ích chung.
Tham vấn cử tri cần phải đạt tới các mục đích sau đây:
- Thu thập và lựa chọn các ý kiến hay, những đóng góp có tính chất hiến kế
của cử tri;
- Nghe ý kiến của cử tri phản hồi về tác động của chính sách và khả năng
chấp hành chính sách trong thực tế;
- Đánh giá mức độ đạt được mục đích của chính sách khi thi hành;
153
- Có thông tin phục vụ xây dựng chính sách phù hợp thực tiễn, bền vững,
đáp ứng được các quyền lợi, nhu cầu và mong muốn của người dân; đảm bảo
các ý kiến của cử tri đều được phản ánh trong pháp luật và chính sách;
- Tạo sự đồng thuận và chấp hành chính sách tốt hơn;
- Tạo sự chuyển biến về ý thức của cử tri trong việc tham gia quản lý nhà
nước và xã hội.
b. Vai trò của tham vấn ý kiến cử tri
Các hoạt động tham vấn công chúng nói chung và tham vấn ý kiến cử tri
nói riêng có ý nghĩa then chốt đối với việc ban hành chính sách và giám sát thực
hiện chính sách.
Một là, sự tham gia của cử tri góp phần rất lớn trong việc nhận ra các vấn
đề trong xã hội, mang lại nhiều phương án về chính sách hơn cho sự lựa chọn,
tạo cơ sở để xây dựng chính sách, pháp luật có tính thực tiễn, khả thi cao. Sự
tham gia này cũng chứng tỏ quyền của người dân được lắng nghe và quyền yêu
cầu các cơ quan nhà nước phải công khai và có trách nhiệm. Đồng thời, tham
vấn sẽ làm cho chính quyền quan tâm hơn đến nhu cầu, lợi ích của cử tri. Khi dự
thảo các chính sách, chính quyền sẽ phải chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, tính toán
tới quyền, lợi ích của người dân.
Hai là, tham vấn là nguồn thu thập thông tin kiểm chứng, bổ khuyết việc
thiết kế chính sách, giám sát việc thực thi chính sách ở các giai đoạn. Từ đó, các
cơ quan dân cử có thêm nhiều căn cứ, lý lẽ và thông tin hơn từ cử tri, từ xã hội
trước khi quyết định các chính sách và giám sát hoạt động của UBND. Tham
vấn giúp cho chính sách sát gần với thực tiễn hơn, đồng thời, nâng chính sách
lên tầm nhìn cao hơn, rộng hơn, bao quát hơn.
Ba là, tham vấn tạo điều kiện cho HĐND và UBND hợp tác sớm lúc xây
dựng chính sách. Trên thực tế đã thấy, họp HĐND sẽ bớt "nóng" vì đã có giải
pháp được tìm ra trong khi tham vấn; có đủ thời gian hiệu chỉnh dự thảo; UBND
được giải trình, HĐND nghe, chứng kiến, bàn và quyết.
Bốn là, tham vấn giúp cho việc lựa chọn chính sách, quyết định ban hành
chính sách được minh bạch hơn; tạo cho người dân và kể cả các cơ quan chính
154
quyền hiểu rõ hơn về chính sách sẽ được ban hành, tạo sự ủng hộ đối với chính
sách, pháp luật sau khi được ban hành, thúc đẩy dự tuân thủ trong việc thực thi
pháp luật.
c. Các hình thức tham vấn cử tri
Pháp luật đã có quy định về tham vấn nhân dân được thực hiện thông qua
tổ chức lấy ý kiến người dân đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các
quyết định, chương trình, đề án tác động trực tiếp đến nguời dân
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2020) quy định: Dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh do UBND
cùng cấp trình; UBND căn cứ vào tính chất và nội dung tổ chức lấy ý kiến của
cơ quan, tổ chức có liên quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản
nghị quyết. Hoạt động này thể hiện không chỉ là việc cơ quan nhà nước gửi văn
bản hay tổ chức các hoạt động thông tin mà cần cả cơ chế tiếp nhận, tiếp thu và
giải trình tiếp thu ý kiến.
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 quy định
những vấn đề phải được người dân cấp cơ sở bàn, tham gia khi chính quyền
quyết định. Bên cạnh đó, nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật, để có quy
trình, thủ tục chi tiết hơn, một số HĐND tỉnh/thành đã ban hành riêng Nghị
quyết của HĐND về hoạt động tham vấn, hoặc Quy chế phối hợp hoạt động giữa
HĐND với Đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh, UBND, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tổ chức tham vấn ý kiến cử tri có thể được thực hiện theo các hình thức
như:
- Hội nghị tham vấn tại địa bàn rộng;
- Thảo luận nhóm nhỏ theo trọng tâm;
- Họp các hộ dân một khu dân cư;
- Khảo sát thực địa, thị sát;
- Phỏng vấn sâu từng cá nhân.;
- Tiếp nhận ý kiến qua báo chí, Internet, các phương tiện liên lạc;
- Tọa đàm với các nhóm đối tượng hẹp;
- Điều tra dư luận xã hội; phát phiếu hỏi;
155
b. Quy trình tham vấn cử tri
Bước 1: Lựa chọn nội dung và các vấn đề trọng tâm cần tham vấn
Các nội dung chính sách, các vấn đề của cuộc sống cần đưa vào chương
trình nghị sự rất nhiều, trong khi đó các nguồn lực của HĐND có hạn. Chính vì
vậy, trước hết cần biết sắp xếp ưu tiên, lựa chọn chính sách và xác định các vấn
đề trọng tâm cần tham vấn. Nội dung được lựa chọn để tiến hành tham vấn
thường liên quan đến chính sách kinh tế - xã hội mà HĐND cần thẩm tra, giám
sát, quyết định theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Việc chọn nội dung đưa ra tham vấn thường dựa vào các căn cứ sau đây:
- Phù hợp với thẩm quyền quyết định của HĐND cấp tỉnh;
- Chương trình xây dựng nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; kế hoạch giám sát
của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban;
- Nội dung nằm trong kế hoạch phối hợp giữa HĐND với UBND;
- Nội dung tham vấn tác động trực tiếp đến lợi ích, đời sống của người dân;
- Phù hợp với khả năng tổ chức thực hiện;
- Nội dung gây bức xúc rộng rãi trong cộng đồng hoặc cản trở việc thực thi
pháp luật;
- Nội dung đặc thù của một số ngành và địa phương nhưng chưa được quan
tâm đúng mức khi quyết định chính sách;
- Những nội dung mới; chưa có thông lệ cần tham vấn ý kiến cử tri và
nghiên cứu kinh nghiệm nơi khác, kể cả nước ngoài.
Nội dung trọng tâm để tham vấn thường tập trung vào những tác động của
chính sách trên các lĩnh vực khác nhau:
- Về kinh tế: chính sách có tác động về kinh tế hay không, ví dụ có thể góp
phần vào tăng trưởng GDP; xuất nhập khẩu; thu NSNN không.
- Về văn hoá - xã hội: Chính sách đó có thể cải thiện đời sống nhân dân
không; giải quyết việc làm; đảm bảo công bằng; phúc lợi xã hội, giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc.
- Về môi trường, sinh thái: Chính sách đó có bảo vệ môi trường; hệ sinh
thái đặc thù; tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo chất lượng sống.
156
- Tính toán chi phí - lợi ích: Chi phí của bộ máy nhà nước để tổ chức thực
hiện chính sách; chi phí của doanh nghiệp và của dân cư để thực thi quyền lợi và
nghĩa vụ của mình v.v...
- Tác động đến các chính sách kinh tế - xã hội khác: Chính sách đó có ảnh
hưởng, tác động đến các chính sách liên quan như thế nào.
Sau khi HĐND đã chọn nội dung cần tham vấn (ví dụ, xóa đói giảm
nghèo), tiếp theo cần xác định đúng và trúng các vấn đề trọng tâm thuộc nội
dung đó (ví dụ, sự công bằng trong hỗ trợ các hộ nghèo). Chỉ khi xác định được
các vấn đề này, việc thu thập, xử lý thông tin sau đó mới chính xác, đầy đủ, việc
ban hành chính sách mới giải quyết được vấn đề đang tồn tại.
Bước 2: Lập kế hoạch tham vấn
Lập kế hoạch tham vấn là xây dựng kịch bản/phương án chung và chi tiết
cho các hoạt động tham vấn với những hình thức; nguồn lực; bước đi thích hợp.
Lập kế hoạch tham vấn bao gồm cả kế hoạch chung và kế hoạch chi tiết
cho từng hoạt động cụ thể. Kế hoạch chung là kế hoạch cho toàn bộ quá trình
tham vấn về nội dung chính sách đã lựa chọn. Từ kế hoạch chung, các kế hoạch
chi tiết được soạn thảo gồm kế hoạch tập huấn, kế hoạch truyền thông, kế hoạch
thực hiện từng công cụ tham vấn đã chọn, kế hoạch tổng kết quá trình tham vấn.
Nội dung của kế hoạch tham vấn bao gồm: Xác định chủ đề và mục đích
tham vấn; làm rõ danh sách các đối tượng cần tham vấn; xác định cơ quan/người
chủ trì thực hiện và lực lượng phối hợp; các hình thức tham vấn được lựa chọn;
các bước tiến hành; hoạt động truyền thông để triển khai kế hoạch tham vấn;
thời gian khởi đầu, kết thúc và các bước thực hiện; nguồn lực huy động phục vụ
tham vấn: nhân lực, phương tiện, kinh phí...; kết quả dự kiến đạt được.
Bước 3: Tiến hành tham vấn
Việc tiến hành tham vấn chủ yếu dựa trên kế hoạch đã được xây dựng và
phê duyệt, nhưng có sự điều chỉnh khi cần thiết. Trong khi tiến hành tham vấn,
cần chú ý một số vấn đề sau đây:
- Điều phối, phối hợp các hoạt động tham vấn
Việc điều phối, tổ chức sự phối hợp trong quá trình thực hiện kế hoạch tham
157
vấn được thể hiện qua việc lựa chọn mô hình tổ chức chỉ đạo, điều hành; bố trí lực
lượng đảm nhiệm các hoạt động tham vấn; xây dựng và thực hiện quy chế làm
việc trong phạm vi từng tổ chức và mối quan hệ với các lực lượng phối hợp.
- Điều hành hội nghị; ghi chép thông tin trong khi tham vấn
Điều hành hội nghị, cuộc họp của đại biểu là kỹ năng không thể thiếu của
đại biểu HĐND, từ kiểm tra công tác chuẩn bị; rà soát các thủ tục; phân công
điều hành và công tác phục vụ v.v... nhằm đảm bảo đạt mục đích, yêu cầu đề ra.
- Tiến hành truyền thông trong quá trình tham vấn
Kỹ năng truyền thông là kỹ năng phổ biến, truyền đạt thông tin, thiết lập
kênh thông tin hai chiều giữa cơ quan và đại biểu dân cử với các đối tượng tham
vấn và các bên liên quan trong quá trình triển khai các hoạt động tham vấn theo
kế hoạch đã định.
Bước 4: Thông tin và phản hồi
- Thu nhận thông tin
Sau khi tiến hành tham vấn, đại biểu HĐND thu nhận các thông tin khác
nhau liên quan đến nội dung cần tham vấn. Lúc này, đại biểu HĐND sẽ phải xử
lý, phân tích thông tin; chuyển tải thông tin thành báo cáo tham vấn; phản hồi
các bên liên quan về các nội dung chính sách.
Đại biểu HĐND cần thông tin kết hợp những yếu tố sau: những khía cạnh
cụ thể của chính sách (cần làm những gì?), những hệ quả của nó (ai sẽ được lợi,
ai sẽ chịu thiệt) và viễn cảnh thực hiện chính sách (những cơ hội nào? thách thức
nào?). Đối với những lĩnh vực không chuyên, các đại biểu cần đến loại thông tin
kết hợp được cả sự đánh giá tầm quan trọng của vấn đề, cả nội dung của nó,
phạm vi phổ biến và mối quan hệ với những vấn đề khác. Kiến thức tiết kiệm
thời gian, công sức cho đại biểu là loại kiến thức trả lời trực tiếp vào câu hỏi
“có” hay “không” khi biểu quyết.
- Tổng hợp thông tin
Sau các hoạt động tham vấn tại cơ sở, đại biểu, các nhóm công tác cần tổng
hợp, xử lý các thông tin và thực hiện báo cáo theo địa bàn và nội dung tham vấn.
Cách xử lý thông tin theo hướng: tất cả các thông tin được thu thập, tổng hợp đầy
158
đủ theo đối tượng, công cụ và nội dung tham vấn; sau đó xem xét đánh giá thông
tin khách quan, chủ quan; thông tin chủ yếu, mức độ quan trọng; làm rõ hơn
những thông tin về cơ sở pháp lý, về mức độ chuẩn xác… Thông tin được tổng
hợp từ một đơn vị phân tích nhỏ lên một đơn vị phân tích lớn hơn. Ví dụ, tập hợp
các phỏng vấn cá nhân để xây dựng nên một bức tranh tổng thể hoặc tập hợp các
thông tin của thôn bản để phân tích bức tranh của cả huyện; tổng hợp các dữ liệu
từ các Hội nghị, khảo sát, phiếu hỏi để có thông tin của cả quá trình tham vấn.
- Phân tích thông tin
Đối với các thông tin thu thập, tổng hợp được trong quá trình tham vấn, đại
biểu HĐND phải tiếp tục phân tích, sàng lọc được thông tin hữu ích, chuẩn xác
qua đó nắm được mấu chốt của vấn đề. Để phân tích thông tin, cần sàng lọc
những thông tin nhận được dựa trên tính chất của thông tin mà HĐND cần đến;
xác minh, kiểm chứng lại các dữ liệu, phân tích thông tin định tính và định lượng.
- Tham gia xây dựng báo cáo tham vấn
Sau khi thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin, khâu tiếp theo là xây dựng
báo cáo kết quả tham vấn.
Thông tin thu thập được từ quá trình tham vấn, sau khi đã được phân tích,
thể hiện trong các dạng báo cáo và các tài liệu kèm theo, được gửi đến HĐND
và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
- Phản hồi
HĐND cần phản hồi về kết quả tham vấn cho các nhóm người khác nhau, vì
đây là cuộc đối thoại hai chiều, dòng chảy thông tin diễn ra hai chiều. Các cơ quan
ban hành chính sách có quyền không làm theo ý kiến cử tri. Tuy nhiên, cần phải
giải thích rõ tại sao có, tại sao không tiếp thu các ý kiến đóng góp của nhân dân.
Thông qua sự phản hồi, HĐND thể hiện cho người dân thái độ trân trọng,
cho người dân thấy rằng, những vấn đề mà người dân nêu ra thực sự cần thiết
cho việc ra quyết sách; nếu không, người dân sẽ không còn hứng thú tham gia
lần sau. Thông qua sự phản hồi, HĐND cho thấy mình đã cam kết. Những việc
làm trên thực tế sau khi cuộc tham vấn diễn ra mới là yếu tố dẫn đến sự thành
công của tương tác. Người dân biết rõ hơn về những việc HĐND đã làm qua sự
159
phản hồi đó.
Nội dung cần phản hồi gồm: tóm tắt quá trình tham vấn (nội dung chính
sách đã được tham vấn, thời gian, các hoạt động chính, các nhóm đối tượng đã
tham vấn, các nhóm ý kiến đã thu nhận); nêu bật việc sử dụng thông tin từ tham
vấn phục vụ HĐND và các đại biểu HĐND quyết định hoặc giám sát thực thi
chính sách. Văn bản này cũng cần ghi nhận sự đóng góp quý báu của các nhóm
đối tượng đối với chu trình chính sách của HĐND, kêu gọi sự tham gia trong
những lần sau. Nếu có phản hồi cho cá nhân hoặc tổ chức riêng lẻ, tùy theo từng
trường hợp, cần giải thích về việc tiếp thu ý kiến đóng góp một cách rõ ràng, cụ
thể đã tiếp thu như thế nào, tại sao có, tại sao không, ghi nhận sự đóng góp và
kêu gọi sự tham gia lần sau.
Báo cáo tổng kết tham vấn của Thường trực HĐND là một trong những căn
cứ để chỉ đạo việc nghiên cứu tiếp thu và phản hồi ý kiến tới những người được
tham vấn và cử tri. Báo cáo này nên được gửi đến các cơ quan, đoàn thể, một số
cá nhân liên quan. Bên cạnh đó, Thường trực HĐND cần chỉ đạo Văn phòng
Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND soạn thông cáo báo chí khoảng 1 - 2 trang về
kết quả tham vấn, việc tiếp thu các ý kiến góp ý. Thường trực HĐND tỉnh/thành
phố quyết định nội dung phản hồi ý kiến qua tham vấn về những ý kiến đã được
nghiên cứu để tiếp thu, những ý kiến không được tiếp thu, lý do không tiếp thu.
II. Kỹ năng tiếp công dân
1. Khái quát về tiếp công dân của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
a. Khái niệm tiếp công dân của đại biểu Hội đồng nhân dân
Điều 2, Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định: “Tiếp công dân là việc cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân theo quy định của pháp luật tiếp công dân có
trách nhiệm tiếp công dân để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật”.
Điều 4, Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trách nhiệm tiếp công dân: Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và
tổ chức tương đương; cục; UBND các cấp; Cơ quan chuyên môn thuộc UBND
160
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ quan chuyên môn thuộc UBND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Các cơ quan của Quốc hội; HĐND
các cấp; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước; Đại
biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp. Đối với các cơ quan, tổ chức: Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan thuộc Chính phủ,
đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức việc tiếp công dân phù hợp với yêu cầu, quy
mô, tính chất hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình.
Tiếp công dân của đại biểu HĐND là việc đại biểu HĐND đón tiếp để lắng
nghe, thu thập ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của công dân; giải thích, tuyên
truyền chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho công dân; hướng dẫn,
giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và nhận đơn thư của công
dân để chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Hoạt động tiếp công dân của đại biểu HĐND và tiếp xúc cử tri có những
điểm giống và khác nhau.
Tiếp xúc cử tri và tiếp công dân đều nhằm thu thập ý kiến, nguyện vọng,
kiến nghị của công dân, nhưng cách thức tổ chức khác nhau, mục đích khác
nhau. Nếu như tiếp xúc cử tri là đại biểu tìm đến dân (xuống đến tận địa bàn,
mời cử tri đến dự) thì tiếp công dân là người dân tìm đến đại biểu (đại biểu có
địa điểm tiếp công dân để những người dân có nhu cầu tìm gặp). Tiếp xúc cử tri
là thu thập ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri chủ yếu về nội dung,
chương trình sẽ thông qua tại kỳ họp HĐND (nhưng thực tế thì cử tri phát biểu
cả những vấn đề không liên quan đến kỳ họp, những vấn đề dân sinh ở địa
phương), tiếp công dân là lắng nghe mọi ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử
tri.
Mục đích chung của công tác tiếp công dân là:
- Tiếp nhận và xử lý kịp thời khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; giúp
các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền có thông tin phản hồi về những vấn
đề liên quan đến chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật và công tác quản
161
lý nhà nước để nghiên cứu, tiếp thu, xem xét, giải quyết theo quy định của pháp
luật.
- Hướng dẫn công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
theo quy định của pháp luật; tuyên truyền, giải thích để công dân thực hiện đúng
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật.
- Củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó, với mỗi hệ thống cơ quan khác nhau, với chức năng, nhiệm
vụ riêng có, mục đích tiếp công dân cũng có sự khác biệt. Đối với cơ quan
quyền lực nhà nước: Quốc hội, HĐND các cấp, tiếp công dân nhằm mục đích
tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan quyền lực đối với hoạt động của các
cơ quan, tổ chức, tăng cường mối quan hệ giữa cử tri với cơ quan dân cử. Hoạt
động tiếp công dân trong cơ quan quyền lực nhằm hiểu được tâm tư nguyện
vọng của nhân dân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước. Thông qua hoạt động tiếp công dân, các cơ quan quyền lực thu thập được
ý kiến đóng góp của nhân dân để ban hành chính sách, pháp luật cho phù hợp
yêu cầu thực tiễn.
b. Nội dung tiếp công dân
Nội dung tiếp công dân của đại biểu gồm:
- Thu thập ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị, phản ánh của công dân;
- Giải thích, tuyên truyền chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới
công dân;
- Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân;
- Hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Đại biểu
hướng dẫn công dân gửi đơn đến đúng cơ quan có quyền giải quyết, giải thích
cho công dân hiểu nội dung khiếu nại, tố cáo của họ xem có đúng không;
- Xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo. Đại biểu không có quyền giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo của công dân vì đại biểu không có trách nhiệm và quyền
hạn làm việc này, trừ một số đại biểu là lãnh đạo UBND nhận đơn, thư và giải
quyết không phải với vai trò đại biểu mà là vai trò lãnh đạo chính quyền. Đại
162
biểu chỉ có quyền xử lý đơn, thư bằng hình thức chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
c. Thời gian, địa điểm tiếp công dân
- Về thời gian, đại biểu HĐND cấp tỉnh thực hiện tiếp công dân định kỳ
hoặc đột xuất
Đại biểu HĐND cấp tỉnh thực hiện việc tiếp công dân theo lịch tiếp công
dân đã được công bố. Trường hợp không thể thực hiện được việc tiếp công dân
theo lịch tiếp công dân đã được công bố do có lý do chính đáng thì đại biểu
HĐND có trách nhiệm thông báo đến Thường trực HĐND cấp tỉnh để điều
chỉnh lịch; đồng thời dự kiến thời gian cụ thể thực hiện việc tiếp công dân.
Thường trực HĐND cấp tỉnh phân công các đại biểu HĐND luân phiên tiếp
công dân định kỳ theo thời gian nhất định.
Thành phần tiếp công dân định kỳ gồm: Đại diện Thường trực HĐND cấp
tỉnh, đại biểu HĐND cấp tỉnh, Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và HĐND
cấp tỉnh, Văn phòng UBND cấp tỉnh và các sở, ban, ngành liên quan.
- Về địa điểm tiếp công dân, theo quy định, đối với đại biểu HĐND cấp
tỉnh, việc tiếp công dân ở 2 địa điểm gồm: Trụ sở tiếp công dân cùng cấp; Tại
nơi tiếp công dân ở địa phương mà đại biểu ứng cử theo sự bố trí của Thường
trực HĐND cùng cấp.
Trường hợp đại biểu HĐND chuyển sinh hoạt đến địa phương khác trong
cùng đơn vị hành chính cấp đại biểu được bầu thì thực hiện việc tiếp công dân ở
nơi chuyển đến.
d. Quyền và trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khi tiếp
công dân
Luật Tiếp công dân năm 2013 đã dành một chương (chương 5) quy định cụ
thể hoạt động tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội,
của HĐND và đại biểu HĐND các cấp. Theo đó, Thường trực HĐND cấp tỉnh
có trách nhiệm tổ chức để đại biểu HĐND cấp tỉnh tiếp công dân; sắp xếp lịch
tiếp công dân của đại biểu HĐND; cử công chức tiếp công dân thường xuyên tại
Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh; tổ chức để đại biểu HĐND tiếp công dân tại nơi
163
tiếp công dân ở địa phương mà đại biểu ứng cử. Đại biểu HĐND thực hiện tiếp
công dân theo lịch đã được phân công. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh của công dân, đại biểu HĐND có trách nhiệm nghiên cứu, hướng
dẫn công dân gửi khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp cần thiết, đại biểu
HĐND trực tiếp hoặc thông qua Thường trực HĐND cùng cấp chuyển đơn đến
cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải
quyết.
Trong việc tổ chức để đại biểu HĐND cấp mình tiếp công dân, Thường
trực HĐND cấp tỉnh, có trách nhiệm sau đây:
- Sắp xếp lịch tiếp công dân cho đại biểu HĐND cùng cấp và thông báo cho
đại biểu biết. Lịch tiếp công dân phải được niêm yết công khai tại nơi tiếp công
dân, đồng thời công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương;
- Bố trí nơi tiếp công dân để đại biểu HĐND tiếp công dân;
- Đề nghị đại diện các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tại địa
phương cùng tham dự tiếp công dân để tiếp nhận, xử lý những vấn đề liên quan
khi cần thiết.
2. Các bước tiếp công dân
a. Chuẩn bị cho buổi tiếp
Để buổi tiếp công dân được diễn ra thuận lợi thì công tác chuẩn bị cần phải
được thực hiện chu đáo. Công tác này bao gồm việc chuẩn bị phòng tiếp dân và
bố trí các trang thiết bị phù hợp tại phòng tiếp dân.
Đại biểu HĐND cấp tỉnh phối hợp với Ban tiếp công dân cấp tỉnh để nắm
bắt tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân, những trường hợp khiếu nại, tố cáo
nhiều lần; đề nghị Ban tiếp công dân hỗ trợ trong hoạt động của đại biểu, nắm rõ
trước về tình hình cử tri đến khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị.
b. Thực hiện tiếp công dân
Khi thực hiện tiếp công dân, đại biểu HĐND cấp tỉnh cần đảm bảo các yêu
cầu sau:
164
- Đảo đảm trang phục chỉnh tề, có đeo thẻ đại biểu HĐND hoặc phù hiệu
theo quy định.
- Yêu cầu người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nêu rõ họ tên,
địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có); có đơn hoặc
trình bày rõ ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; cung cấp thông
tin, tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận, thụ lý vụ việc.
- Có thái độ đúng mực, tôn trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà
người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trình bày.
- Giải thích, hướng dẫn cho người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, kết luận, quyết định
giải quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; hướng dẫn người
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm
quyền giải quyết.
- Trực tiếp xử lý hoặc phân loại, chuyển đơn, trình người có thẩm quyền xử
lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
Thường trực HĐND cấp tỉnh, đại biểu HĐND cấp tỉnh thực hiện việc tiếp
nhận, xử lý, thông báo về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
theo quy định tại Điều 25, Điều 26 và Điều 28 của Luật Tiếp công dân năm 2013.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đại biểu HĐND cấp tỉnh có
trách nhiệm tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; tổ chức nghiên
cứu; chuyển đơn đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền giải quyết;
theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết theo quy định của pháp luật.
Việc tiếp nhận, xử lý bước đầu, phân loại, chuyển nội dung khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền thụ
lý, giải quyết của các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, HĐND và đại biểu
HĐND các cấp được thực hiện theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Luật
Tiếp công dân năm 2013.
165
Khi thực hiện tiếp công dân, người tiếp công dân được từ chối tiếp người
đến nơi tiếp công dân trong các trường hợp theo quy định tại Điều 9 Luật Tiếp
công dân năm 2013, cụ thể:
- Người trong tình trạng say do dùng chất kích thích, người mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình;
- Người có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp
công dân, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy nơi tiếp
công dân;
- Người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp
luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng
văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố
cáo kéo dài;
- Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
c. Hoạt động sau khi tiếp công dân
- Thông báo về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
Đại biểu HĐND cấp tỉnh thông báo việc tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh do cơ quan, đại biểu quy định tại khoản này chuyển đến trong
thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được.
- Thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến người
đã khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
- Đại biểu HĐND cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân và giám sát theo quy
định của pháp luật
- Trường hợp không đồng ý với kết quả giải quyết của cấp trên, của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền thì đại biểu HĐND báo cáo
với HĐND cùng cấp để thực hiện việc giám sát theo quy định của pháp luật.
3. Một số lưu ý trong quá trình tiếp công dân
166
Trong quá trình tiếp công dân, đại biểu HĐND cấp tỉnh nên chú ý những
vấn đề sau:
- Đại biểu tiếp công dân đón tiếp, xác định nhân thân của người đến khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; xác định tính hợp pháp của người đại diện,
người được ủy quyền theo quy định của pháp luật; người tiếp công dân tiếp nhận
thông tin, tài liệu do công dân trình bày, cung cấp.
- Đại biểu HĐND cấp tỉnh là người chủ trì buổi tiếp công dân, do vậy nên
định hướng và điều khiển cuộc tiếp công dân. Đại biểu chủ yếu là lắng nghe
công dân trình bày nhưng có sự định hướng để công dân trình bày đúng thực tế
nhưng đầy đủ thông tin dưới góc độ pháp lý.
Đọc nhanh nắm thông tin. Đối với công dân đã chuẩn bị sẵn đơn, đại biểu
dành vài phút, xin phép công dân để đại biểu đọc nhanh, đọc lướt nắm bắt nội
dung mà công dân muốn khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị.
- Trong tiếp công dân, đại biểu nên vận dụng nguyên tắc "4N" để thể hiện
sự tôn trọng công dân thông qua 4 hành vi Nói - Nghe - Nhìn - Nhận. Nói khi
nào, nói những gì để động viên và khuyến khích công dân nói, cách nói ra sao,
âm lượng vừa phải, không nói to cũng không nói nhỏ quá, ngôn từ lịch sự, thể
hiện rõ vị thế của đại biểu được pháp luật quy định, cử tri bầu ra. Nghe, thể hiện
với công dân là đại biểu đang chú ý lắng nghe thông qua các biểu hiện trên
khuôn mặt, gật đầu (biểu lộ sự đồng tình với ý kiến nào đó của công dân), tư thế
ngồi nghiêm chỉnh, hơi cúi về phía người nói. Nhìn, ánh mắt thể hiện được rất
nhiều điều, vừa thể hiện sự chú ý lắng nghe của đại biểu (không lơ đãng, nhìn
xung quanh; tập trung ánh mắt vào người nói), vừa thể hiện uy quyền khi công
dân có thái độ thiếu tôn trọng đại biểu. Nhận, đại biểu thể hiện với người dân là
mình đang nhận những gì người dân nói thông qua hành vi ghi chép, dù có thể là
những ghi chép không cần thiết nhưng nếu trong quá trình tiếp xúc cử tri đại
biểu không ghi chép sẽ làm cho cử tri thấy đại biểu không quan tâm.
- Tránh tâm lý đối đầu mà cần chuyển sang đối thoại. Về khiếu nại, tố cáo,
phản ánh của công dân thường là công dân bức xúc với cơ quan công quyền,
công dân hoàn toàn không có mâu thuẫn, bức xúc với đại biểu, công dân muốn
167
dựa vào đại biểu để đạt được mong muốn, mục đích của mình, vì thế, khi gặp
gỡ, giữa công dân và đại biểu không có sự đối đầu mà là hợp tác. Nếu tạo ra tâm
lý đối đầu giữa đại biểu và công dân thì buổi tiếp công dân không đạt yêu cầu.
- Có khả năng làm giảm bức xúc của cử tri, hạ nhiệt cử tri.
Cử tri có sẵn trong người nỗi niềm, bức xúc và họ mang tới gặp đại biểu, vì
vậy, đại biểu cần có kỹ năng cần thiết khi tiếp công dân. Nguyên tắc xử lý tình
huống là chân thật, cởi mở. Đại biểu thể hiện sự chân thật, chân thành và cởi mở
với người dân, cùng trao đổi, nói chân thành những nội dung thông tin mình
nắm bắt chắc chắn; động viên, khích lệ, có thể nêu lên các biện pháp, kế hoạch
hành động cụ thể để người dân lựa chọn. Cảm thông với công dân, đại biểu nên
cảm thông, đặt vị trí của mình về phía người dân để cảm thông với họ, có như
vậy người dân mới tin tưởng vào đại biểu.
Một số kinh nghiệm để "hạ nhiệt" tức thời: khi công dân nói to, sự việc
căng thẳng, đại biểu tỏ thái độ nhẹ nhàng, mềm mỏng, mời công dân uống nước
(để ngắt mạch của cử tri). Chuyển hướng câu chuyện, lái câu chuyện khỏi vấn đề
bức xúc mà công dân đang trình bày. Nếu đại biểu ngắt lời cử tri sẽ gây tâm lý
đối đầu giữa 2 bên, việc mời cử tri uống nước cũng là để cử tri dừng lời tạo cơ
hội để đại biểu được nói một cách hợp lý và chuyển hướng câu chuyện. Trong
quá trình lắng nghe, đại biểu cần hỏi thêm để làm rõ vấn đề, khi hỏi, đại biểu
khéo léo hỏi dẫn dắt cử tri sang câu chuyện khác. Chẳng hạn, khi cử tri trình bày
về gia cảnh khó khăn do bị giải phóng mặt bằng, đại biểu nên hỏi cử tri về gia
đình, về con cái mấy tuổi, về những cuộc sống thường nhật mà cử tri đang sống
và làm việc, thể hiện sự quan tâm và cũng là để hiểu rõ hơn người dân, từ đó có
sự cảm thông, chia sẻ với họ.
- Trong tiếp công dân, đại biểu cần nghe và tìm hiểu xem họ là đối tượng
nào: là người khiếu nại hay tố cáo - khiếu nại lần đầu hay nhiều lần - là người có
quyền và lợi ích trực tiếp bị xâm hại hay chỉ là người đại diện đến gửi đơn... để
có cách tiếp cận nội dung, vấn đề khiếu nại, tố cáo phù hợp.
- Cử tri khi trình bày thường có xu hướng kể lể dài dòng, nhiều thông tin
không phù hợp, thông tin không có trọng tâm, trọng điểm vào vấn đề mà cử tri
168
đang bức xúc. Đại biểu cần nắm bắt được thông tin chính mà cử tri trình bày, từ
đó tìm hiểu, hỏi thêm những thông tin liên quan, hỏi để định hướng cử tri trình
bày đúng vào trọng tâm vấn đề, tránh nói dài mà không có nội dung, nội dung
thông tin không có tính thuyết phục. Đại biểu cần có khả năng phân tích, tổng
hợp thông tin ngay trong quá trình nghe để nắm nội dung vấn đề mà cử tri muốn
trình bày. Sử dụng khả năng phán đoán để xác định tính trung thực trong sự việc
trình bày, của người trình bày. Trong quá trình lắng nghe, đại biểu cũng cần sử
dụng kỹ năng đọc lướt để biết được họ tên người khiếu nại, tố cáo; các dữ liệu
về người khiếu nại, tố cáo; nội dung đơn về vấn đề gì. Công dân có nhu cầu
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh mang theo các giấy tờ nhân thân và hồ sơ
liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh (nếu có) đến nơi tiếp
công dân.
III. Kỹ năng trả lời phỏng vấn cơ quan báo chí
1. Khái quát về quan hệ với truyền thông của đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
a. Khái niệm và mục đích quan hệ với truyền thông của đại biểu Hội đồng
nhân dân
Truyền thông (communication) theo nghĩa chung nhất là quá trình chia sẻ,
trao đổi thông tin từ người gửi đến người nhận thông qua các phương tiện truyền
thông. Quan hệ với truyền thông gắn với cung cấp, phản hồi thông tin tới đông
đảo người dân thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (media) như
báo chí (báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử); sách, tạp chí; internet, mạng xã
hội và truyền thông đa phương tiện (Multimedia). Với tính chất lan toả thông tin
hướng tới đại chúng và tốc độ truyền tải thông tin rất nhanh chóng hiện nay,
truyền thông, báo chí có tác động, ảnh hưởng rất lớn trong đời sống chính trị xã
hội, đặc biệt tới nhận thức của công chúng.
Đối với đại biểu HĐND cấp tỉnh, mục đích quan hệ với truyền thông nhằm
hướng đến:
- Thiết lập, củng cố và duy trì mối quan hệ giữa tổ chức với truyền thông.
169
- Cung cấp thông tin, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động
của HĐND và đại biểu HĐND.
- Định hướng dư luận xã hội hiểu đúng về hoạt động của HĐND và đại
biểu HĐND.
- Tạo dựng uy tín, hình ảnh của người đại biểu của nhân dân.
Quan hệ với truyền thông bao gồm:
- Quan hệ với cơ quan báo chí mà đại diện là nhà báo và tổ chức, cá nhân
tham gia hoạt động báo chí.
Báo giới cũng được xem là một nhóm cử tri, đồng thời cũng là những
người cung cấp thông tin cho đại biểu HĐND và đóng vai trò cầu nối giữa đại
biểu HĐND với cử tri.
- Quan hệ với cơ quan, tổ chức khác tham gia hoạt động truyền thông
(Trang thông tin, Cổng thông tin điện tử của các cơ quan thuộc hệ thống chính
trị).
- Thiết lập quan hệ, truyền thông trên môi trường mạng.
Ngoài việc tiếp xúc trực tiếp, đại biểu HĐND có thể tiếp xúc cử tri thông
qua các phương tiện như điện thoại, thư từ, email…
- Về thông tin: Báo chí, truyền thông thường quan tâm những thông tin
mang một số thuộc tính sau:
Thứ nhất, những thông tin mang tính bất ngờ. Càng bất ngờ càng tốt. Báo
chí sẽ coi đó như một tiêu chí nổi bật cho một thông tin ưu tiên.
Thứ hai, những thông tin mang tính thời sự nóng hổi, những sự kiện đang
diễn ra hoặc sẽ xảy ra trong một tương lai gần. Tính thời sự cũng có thể là về các
nội dung trong lịch làm việc thực tế trong ngày. Bởi công chúng thường quan
tâm tới những vấn đề mới mẻ.
Thứ ba, tính thiết thực của thông tin, thông tin này có ý nghĩa như thế nào?
Ý nghĩa với ai? Tầm ảnh hưởng của thông tin này đến đâu? Mức độ ảnh hưởng
của thông tin càng lớn, đối tượng bị ảnh hưởng bởi ý nghĩa của thông tin càng
rộng thì mức quan tâm của báo giới càng sâu.
170
Thứ tư, tính xung đột - mâu thuẫn, xung đột về quyền lợi luôn là những đặc
điểm dành được quyền ưu tiên cao đối với mọi phương tiện truyền thông.
Những nội dung khái quát trên giúp đại biểu HĐND cấp tỉnh xác định vai
trò, mục đích và đặc trưng của quan hệ với truyền thông để có ý thức coi trọng,
chủ động cung cấp thông tin và thiết lập quan hệ với truyền thông nói chung.
Tuy nhiên, phạm vi của chuyên đề này tập trung vào các nội dung liên quan đến
phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí và một số lưu ý của đại biểu HĐND
khi trả lời phỏng vấn báo chí.
b. Quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin trên báo chí
Đối với đại biểu HĐND cấp tỉnh giữ chức vụ trong cơ cấu là người đứng
đầu UBND, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh theo sự
phân công có trách nhiệm cung cấp thông tin báo chí. Trong trường hợp này,
thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước còn được quy định
tại Nghị định số 09/2017/NĐ-CP của Chính phủ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 41 Luật Báo chí năm 2016 về họp báo:
“Người phát ngôn hoặc người chịu trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ chức
chính trị, Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước; các cơ quan của tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và cấp tỉnh; các bộ, cơ quan ngang bộ;
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo chức năng, nhiệm vụ của
mình có trách nhiệm họp báo định kỳ và đột xuất để cung cấp thông tin cho cơ
quan báo chí”.
Đại biểu HĐND khi được phân công cung cấp thông tin cho cơ quan báo
chí có trách nhiệm cung cấp thông tin theo quy định, thể hiện quan điểm chính
thức của HĐND về các vấn đề mà cơ quan báo chí quan tâm.
2. Các bước thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho cơ quan
báo chí61
Đại biểu HĐND theo phân công, theo vị trí công tác có thể thực hiện phát
ngôn và cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí thông qua các hình thức: Tổ
61
Nội dung này có tính chất tham khảo đối với đại biểu HĐND giữ chức vụ trong các cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, đại biểu HĐND khi được phân công phát ngôn, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí.
171
chức họp báo; đăng tải nội dung phát ngôn và cung cấp thông tin trên cổng
thông tin điện tử, trang tin điện tử hoặc trang mạng xã hội chính thức của
HĐND cấp tỉnh; phát ngôn trực tiếp hoặc trả lời phỏng vấn của nhà báo, phóng
viên; gửi thông cáo báo chí, nội dung trả lời cho cơ quan báo chí, nhà báo,
phóng viên bằng văn bản hoặc qua thư điện tử; cung cấp thông tin trực tiếp tại
các cuộc giao ban báo chí do địa phương tổ chức; ban hành hoặc đề nghị cơ
quan có thẩm quyền văn bản đề nghị cơ quan báo chí đăng, phát phản hồi, cải
chính, xin lỗi nội dung thông tin trên báo chí.
Việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí thường bao gồm
các bước cơ bản:
- Tiếp nhận thông tin ban đầu:
Thông tin ban đầu có thể từ các nguồn khác nhau như từ công văn, phản
hồi, câu hỏi của cơ quan báo chí, đề nghị làm việc trực tiếp từ cơ quan báo chí.
Theo sự phân công về việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, đại biểu
HĐND cấp tỉnh cần chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan đề xuất với
Thường trực HĐND cấp tỉnh và các cấp có thẩm quyền về phương án xử lý và
phát ngôn.
- Chuẩn bị phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí:
Đại biểu được phân công, đại biểu HĐND ở vị trí có trách nhiệm phát
ngôn và cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí cần thống nhất với các cơ quan
liên quan và cấp có thẩm quyền về nội dung phát ngôn và cung cấp thông tin cho
báo chí.
- Thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí:
Việc phát ngôn và cung cấp thông tin báo chí được thực hiện theo các đúng
hình thức căn cứ vào quy định của pháp luật. Các nội dung phát ngôn và thông
tin cung cấp cho cơ quan báo chí là nội dung chính thống, thể hiện quan điểm
của cơ quan, đơn vị.
- Phản hồi thông tin sau phát ngôn và cung cấp thông tin cho cơ quan báo
chí: Đối với các thông tin đã được phát ngôn và cung cấp nhưng chưa được phản
ánh đúng, đầy đủ, đại biểu HĐND được phân công nhiệm vụ phát ngôn, cung
172
cấp thông tin báo chí đề nghị HĐND cấp tỉnh cần có văn bản đề nghị cơ quan
báo chí có thông tin cải chính, đảm bảo tính chính xác của thông điệp trên báo
chí.
a. Tiếp nhận thông tin ban đầu
Đại biểu HĐND cấp tỉnh có thể trực tiếp hoặc phân công bộ phận tiếp nhận
thông tin ban đầu tiếp nhà báo, phóng viên.
Khi có người giới thiệu là nhà báo, phóng viên đến đăng ký làm việc, cần
kiểm tra giấy tờ theo quy định:
- Đề nghị xuất trình Thẻ Nhà báo còn thời hạn do Bộ Thông tin và Truyền
thông cấp. Không chấp nhận Thẻ Phóng viên, Thẻ Công tác hoặc Thẻ Tác
nghiệp của cơ quan báo chí thay cho Thẻ Nhà báo.
- Trường hợp phóng viên chưa có Thẻ Nhà báo: Đề nghị xuất trình Giấy
giới thiệu của cơ quan báo chí cử đến làm việc do lãnh đạo cơ quan báo chí ký,
kèm theo Chứng minh thư nhân dân/Thẻ căn cước công dân để xác minh.
Giấy giới thiệu hợp lệ phải ghi rõ: Họ và tên phóng viên; làm việc với cơ
quan, tổ chức nào; nội dung, thời gian làm việc cụ thể. Giấy giới thiệu phải đang
trong thời gian còn hiệu lực.
- Trường hợp không xuất trình được một trong hai loại giấy tờ trên, các cơ
quan, đơn vị được phép từ chối làm việc và cung cấp thông tin. Đối với giấy
Giới thiệu không đúng tôn chỉ, mục đích được phép từ chối làm việc và cung
cấp thông tin.
b. Đăng ký, sắp xếp lịch làm việc
- Trường hợp nhà báo, phóng viên đã đăng ký lịch làm việc từ trước (qua
điện thoại, qua thư, fax...): Đại biểu cần thông báo cho bộ phận tiếp nhận thông
tin ban đầu để đón tiếp nhà báo, phóng viên.
- Trường hợp nhà báo, phóng viên chưa có lịch hẹn trước: Bộ phận tiếp
nhận thông tin ban đầu sau khi kiểm tra Thẻ Nhà báo hoặc Giấy giới thiệu, đề
nghị nhà báo, phóng viên đăng ký lịch làm việc, nội dung làm việc. Khi đã có
đầy đủ thông tin, kịp thời xin ý kiến Thường trực HĐND về lịch tiếp nhà báo,
phóng viên. Bộ phận tiếp nhận thông tin ban đầu phải thông báo rõ thời gian, địa
173
điểm tiếp nhà báo, phóng viên để làm việc trực tiếp hoặc cung cấp thông tin theo
hình thức quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Báo chí năm 2016.
- Đại biểu HĐND cấp tỉnh cùng các bộ phận liên quan chuẩn bị nội dung trả
lời phỏng vấn, thống nhất thời gian trả lời phỏng vấn của nhà báo, phóng viên.
Trường hợp nhà báo, phóng viên không đăng ký lịch làm việc hoặc không thông
báo cụ thể nội dung làm việc, cơ quan, đơn vị có thể từ chối trả lời phỏng vấn.
c. Làm việc với nhà báo, phóng viên
- Trường hợp nhà báo, phóng viên đến đề nghị cung cấp thông tin phục vụ
hoạt động tác nghiệp báo chí, khoản 1 Điều 38 Luật Báo chí năm 2016 quy định:
Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các cơ quan, tổ chức, người có
trách nhiệm có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin đã cung cấp. Việc cung cấp thông
tin cho báo chí có thể bằng văn bản, trên trang thông tin điện tử tổng hợp, họp
báo, trả lời phỏng vấn và các hình thức khác. Cơ quan báo chí phải sử dụng
chuẩn xác nội dung thông tin được cung cấp và phải nêu rõ xuất xứ nguồn tin.
- Trường hợp nhà báo, phóng viên đến để phỏng vấn, việc trả lời phỏng vấn
trên báo chí thực hiện theo Điều 40, Luật Báo chí năm 2016, cụ thể:
+ Người phỏng vấn phải thông báo trước cho người được phỏng vấn biết
mục đích, yêu cầu và câu hỏi phỏng vấn; trường hợp cần phỏng vấn trực tiếp,
không có sự thông báo trước thì phải được người trả lời phỏng vấn đồng ý.
+ Sau khi phỏng vấn, trên cơ sở thông tin, tài liệu của người trả lời cung cấp,
người phỏng vấn có quyền thể hiện bằng các hình thức phù hợp. Người phỏng
vấn phải thể hiện chính xác, trung thực nội dung trả lời của người được phỏng
vấn. Người được phỏng vấn có quyền yêu cầu xem lại nội dung trả lời trước khi
đăng, phát. Cơ quan báo chí và người phỏng vấn phải thực hiện yêu cầu đó.
+ Nhà báo không được dùng những ý kiến phát biểu tại hội nghị, hội thảo,
các cuộc gặp gỡ, trao đổi, nói chuyện có nhà báo tham dự để chuyển thành bài
phỏng vấn nếu không được sự đồng ý của người phát biểu.
+ Cơ quan báo chí, người phỏng vấn và người trả lời phỏng vấn phải chịu
trách nhiệm về nội dung thông tin đăng, phát trên báo chí.
174
- Đại biểu HĐND cấp tỉnh nên và cần hạn chế tối đa việc trả lời phỏng vấn
qua điện thoại khi chưa biết rõ người gọi đến để đề phòng các trường hợp giả
danh nhà báo, phóng viên. Trường hợp khẩn cấp, nếu cần phải trả lời ngay qua
điện thoại các câu hỏi của cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên thì cần đề nghị
nhà báo, phóng viên xưng danh, tên cơ quan báo chí để biết và kiểm soát thông
tin. Trong quá trình trả lời phỏng vấn, cung cấp thông tin cho nhà báo, phóng
viên qua điện thoại, cơ quan, đơn vị cần ghi âm toàn bộ nội dung cuộc điện
thoại, quá trình cung cấp thông tin để đối chiếu với bài viết của nhà báo, phóng
viên, bảo đảm nội dung thông tin đăng trên báo chí đúng với nội dung được
cung cấp.
d. Phản hồi thông tin
Điều 39 Luật Báo chí năm 2016 quy định về việc trả lời trên báo chí:
- Người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí. Trong thời
hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người đứng đầu cơ quan báo chí,
cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trả lời trên báo chí.
- Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được ý kiến, kiến nghị, phê bình,
khiếu nại của tổ chức, công dân và tố cáo của công dân do cơ quan báo chí
chuyển đến, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thông báo cho cơ
quan báo chí biết biện pháp giải quyết… Cùng với đó, Luật Tiếp cận thông tin
cũng quy định rất rõ về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân;
trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin của công dân.
- Theo Điều 43 Luật Báo chí năm 2016 quy định: Khi cơ quan, tổ chức, cá
nhân có căn cứ cho rằng cơ quan báo chí thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của mình hoặc gây hiểu lầm làm
ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của mình thì có quyền nêu ý kiến
phản hồi bằng văn bản đến cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại Tòa án.
175
3. Một số lưu ý khi phát ngôn và trả lời phỏng vấn cơ quan báo chí
Phát ngôn và trả lời phỏng vấn là một trong những hình thức tiếp xúc báo
chí mà nhiều người còn e ngại. Nhiều người cho rằng, phóng viên là những
người luôn đi “soi” người khác; nhiều người trả lời với ý tứ và lời lẽ vừa phải
nhưng ngay ngày hôm sau báo giật tít “nóng” làm ảnh hưởng đến cá nhân; có
người sợ trả lời “hớ”…
Những kỹ năng sau đây sẽ giúp đại biểu có được sự tự tin khi đứng trước
micro của phóng viên báo chí.
a. Một số lưu ý khi chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn
Thông thường trước một cuộc phỏng vấn, bao giờ phóng viên cũng liên hệ
trước với cá nhân được phỏng vấn để lên lịch hẹn. Rất ít những trường hợp
phỏng vấn đột xuất, bất ngờ. Khi phóng viên gọi điện liên hệ cần hỏi rõ thông
tin về phóng viên, mục đích và vấn đề phóng viên quan tâm. Khi xác định vấn
đề thuộc trong phạm vi, chức năng, quyền hạn của mình thì tùy theo công việc
cụ thể để sắp xếp cuộc hẹn với phóng viên. Lưu ý, trước mỗi cuộc hẹn kiểu này,
đại biểu nên có sự chuẩn bị.
Trước tiên, đại biểu cần hệ thống lại thông tin liên quan đến vấn đề để
chuẩn bị tốt nhất cho cuộc phỏng vấn. Phần thông tin nào còn thiếu nên tìm để
bổ sung.
Thứ hai, cũng nên dự liệu trước những câu hỏi mà phóng viên có thể hỏi.
Tất nhiên cuộc phỏng vấn sẽ không giống hoàn toàn với những gì mà người trả
lời phỏng vấn đã dự liệu. Ngoài ra cũng nên chuẩn bị sẵn một số câu hỏi khó,
hóc búa và chuẩn bị sẵn sàng trả lời cho những tình huống đó.
Thứ ba, đại biểu nên xem lại những quy định về chức năng, nhiệm vụ của
mình đang nắm giữ để chủ động điều tiết phạm vi các vấn đề được phỏng vấn;
cần xác định khi trả lời phỏng vấn nghĩa là đại biểu đang trả lời với tư cách của
vị trí chức danh đang nắm giữ.
Thứ tư, nắm bắt quy chế phỏng vấn: Đối với những đại biểu đã quen với
những việc trả lời phỏng vấn thì có lẽ điều này không còn quá quan trọng.
Nhưng đối với những đại biểu chưa hoặc ít trả lời phỏng vấn thì việc tìm hiểu
176
nắm bắt những quy định về việc phỏng vấn và trả lời phỏng vấn là một việc làm
cần thiết. Bởi khi hiểu được những quy định này, đại biểu biết được những điều
gì được phép - không được phép trong phỏng vấn và đưa tin phỏng vấn62
.
Cuối cùng, trong công việc chuẩn bị cho một cuộc phỏng vấn là vấn đề
ngoại hình, ăn mặc (đặc biệt đối với truyền hình): Đại biểu nên để ý đầu tóc gọn
gàng, quần áo lịch sự. Đối với phụ nữ, nếu trang điểm hãy trang điểm đậm hơn
thường ngày để lên hình không bị nhợt nhạt nhưng cũng không nên quá đậm.
- Đối với trường hợp trả lời phỏng vấn đột xuất. Ví dụ: trong giờ giải lao tại
một Hội nghị, Hội thảo hay phiên họp, sự sẵn sàng về thông tin, về tâm thế sẽ
giúp đại biểu chủ động, tự tin hơn. Chẳng hạn, nếu đại biểu có chuyên môn về
lĩnh vực chính sách an sinh xã hội, đã phát biểu tại Hội thảo về chính sách an
sinh xã hội, và Hội thảo đang thảo luận về chính sách an sinh xã hội, thì hãy
chuẩn bị sẵn sàng đón nhận sự “theo đuổi” của phóng viên trong giờ giải lao.
Những nội dung gợi ý về mối quan tâm của báo chí đã nêu ở trên sẽ giúp đại
biểu trong những trường hợp như vậy.
b. Một số lưu ý khi trả lời phỏng vấn
- Khi phóng viên đặt câu hỏi đóng, đó là câu hỏi đặc trưng như “… phải
không, hay không?”. Ví dụ: “Ông/Bà là người có định kiến giới phải không?”
Hay “Có phải ông/bà là không quan tâm đến vấn đề này không?” Những câu hỏi
này đại biểu có thể chỉ cần trả lời có hoặc không.
- Trường hợp phóng viên đưa ra hai câu hỏi, đại biểu có quyền lựa chọn
một vấn đề để trả lời. Ví dụ: “Ông/Bà có quan hệ thế nào với Giám đốc doanh
nghiệp A và theo ông/bà, ông ta có làm sai không?”. Đại biểu nên chọn lấy một
câu nào mà mình chắc chắn nhất để trả lời.
62
Đại biểu có thể tìm hiểu quy tắc này trong các văn bản pháp luật như: Luật Báo chí năm 2016; Nghị định số
43/2011/NĐ-CP quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc
cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Nghị định số 09/2017/NĐ-CP quy định chi tiết việc phát ngôn và
cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước; Nghị định số 119/2020/NĐ- CP quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản, trong đó quy định mức phạt đối với vi
phạm quy định về cung cấp thông tin cho báo chí và sử dụng thông tin của cơ quan báo chí.
177
- Trong buổi phỏng vấn nếu phóng viên im lặng sau khi người trả lời đã kết
thúc, điều đó có nghĩa họ chờ đợi xem người trả lời có nói gì thêm không. Nếu
tiếp tục trả lời nghĩa là đã rơi vào chiến thuật của họ. Như vậy, nếu thấy không
nhất thiết phải nói thêm người trả lời hoàn toàn có thể im lặng, phóng viên sẽ
phải là người khỏa lấp khoảng im lặng đó.
- Sau mỗi cuộc phỏng vấn, người trả lời nên yêu cầu xem lại bài hoặc
phóng sự trước khi phát hành.
c. Một số lưu ý về ứng xử trong phỏng vấn
- Thái độ khi trả lời phỏng vấn: Có thể nói, phỏng vấn là cuộc trò chuyện
giữa đại biểu và phóng viên nhằm trao đổi về vấn đề phóng viên quan tâm. Đại
biểu nên xem phóng viên như một người bạn, người cộng sự của mình. Có thái
độ cởi mở, thân thiện với phóng viên; nồng nhiệt, tâm huyết với nội dung cuộc
phỏng vấn. Hãy thể hiện cho phóng viên biết mình là người có lập trường, có sự
đam mê với vấn đề.
- Phong cách trả lời: hãy tỏ ra tự tin, thoải mái, không ngại ngần tiếp xúc
với phóng viên báo chí. Hãy nghĩ rằng phỏng vấn, đưa tin là công việc thường
ngày của họ, việc của mình là chia sẻ “công việc” với phóng viên. Nếu phỏng
vấn trên truyền hình, đại biểu lưu ý cần ngồi thẳng hoặc đứng thẳng với tư thế
thoải mái, không gò ép. Sử dụng cử chỉ tay tự nhiên, không đưa tay quá màn
hình máy quay. Không nhìn chằm chằm vào camera, chỉ nên nhìn vào máy quay
với một thời gian nhỏ để như đang giao lưu với khán giả. Nếu nhìn chằm chằm
vào máy quay sẽ giống như đang tuyên bố một điều gì đó chứ không phải đang
trò chuyện cùng phóng viên và khán giả. Chú ý đến âm lượng của giọng nói, tốc
độ nói, ngữ điệu và cách dùng từ…
- Kỹ thuật trả lời phỏng vấn: Trong cuộc phỏng vấn, nên trả lời một cách
ngắn gọn, có trọng tâm, đi thẳng vào vấn đề, không nói vòng vo. Những câu trả
lời phải có thông điệp chuẩn, tức là đưa ra được thông tin cốt lõi về vấn đề đang
đề cập. Sử dụng từ ngữ đơn giản, tránh dùng những ngôn từ hoa mỹ, bởi lẽ khi
trả lời báo chí chính là trả lời người dân, phóng viên chỉ là người trung gian.
Người trả lời phỏng vấn có thể sử dụng hình ảnh để diễn tả những khái niệm
178
khó, trừu tượng; sử dụng những câu chuyện đời thường liên quan để minh họa
cho câu trả lời, phản ứng linh hoạt vào thực tế cuộc đối thoại không phụ thuộc
vào kịch bản đã chuẩn bị trước.
Quan trọng nhất trong việc trả lời phỏng vẫn đó chính là tính trung thực,
thành thật. Hãy trung thực thể hiện mình, trung thực chia sẻ chính kiến bao gồm
cả những mặt tốt và mặt chưa tốt. Không nên cố tỏ ra là một người khác. Thể
hiện trung thực chính kiến của mình là cách thiết lập niềm tin cho người phỏng
vấn. Khi không trả lời được, cho dù bất cứ lý do nào, do không thuộc lĩnh vực
chuyên môn, do không đủ dữ liệu..., không bao giờ được đoán câu trả lời mà hãy
thành thật nói rằng ta không thể trả lời được câu hỏi đó.
Trong một số trường hợp, khi trả lời phỏng vấn, phóng viên muốn “thử
thách” thường đưa ra những câu hỏi khó, hoặc với thái độ “gai góc”. Lúc ngày,
người trả lời phỏng vấn cần phải bình tĩnh, để giữ vững thái độ thân thiện. Hãy
vui vẻ trả lời câu hỏi gai góc này một cách hài hước nhất có thể.
- Lắng nghe: Đây cũng là một trong những phần tạo dựng hình ảnh tốt đẹp
của người trả lời phỏng vấn với phóng viên, nói khác đi là với công chúng.
Trong nhiều trường hợp, người trả lời nghe không rõ hay không hiểu câu hỏi nên
trả lời không liên quan gì đến câu hỏi. Điều này không nên xảy ra vì nó cho thấy
người trả lời quá hời hợt, không tập trung vào cuộc phỏng vấn. Người phỏng vấn
sẽ cho rằng mình và cuộc phỏng vấn không được xem trọng, đại biểu có thể hỏi
lại câu hỏi nếu nghe không rõ.
Có một số phóng viên có thói quen “nói thay” người khác hoặc cố tình
chuyển ý câu trả lời phỏng vấn sang một nghĩa khác. Ví dụ như: “Ý của ông
là…”; “Hay nói cách khác….” Tất nhiên, không phải ai hỏi như thế đều có ý tốt.
Có những người hỏi chỉ để chắc chắn về câu trả lời. Trong trường hợp như thế,
nếu câu hỏi của phóng viên nói không hết hoặc không đúng cần đính chính lại
ngay.
d. Một số điều cần lưu ý và cần tránh khi tiếp xúc với báo chí
- Có thái độ coi thường hoặc e ngại tiếp xúc với báo chí, sợ báo chí.
- Tiếp xúc với báo chí mà không có sự chuẩn bị chu đáo.
179
- Muốn lợi dụng báo chí để đề cao cá nhân hoặc muốn tác động dư luận
theo chính kiến của mình.
- Cần tránh sử dụng biệt ngữ hoặc những từ ngữ quá chuyên môn, thay vào
đó hãy nói bằng ngôn ngữ thông thường dễ hiểu.
- Nếu đại biểu chưa có câu trả lời ngay thì không nên nói mà hãy hẹn lại và
phản hồi sớm nhất có thể.
- Không nên đưa ra lời bình luận “đây là tiết lộ riêng" một khi đại biểu đã
nói ra điều đó.
- Chịu sự tác động từ bên ngoài hoặc từ các cơ quan báo chí để vội vàng
bày tỏ chính kiến về những vấn đề phức tạp; tính chính xác của thông tin chưa
được thẩm định. Không vội vàng đưa tin cho đến khi đã có trong tay những
thông tin đầy đủ.
180
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích đặc điểm, vai trò của tiếp xúc cử tri, tham vấn ý kiến cử tri, tiếp
công dân; những thuận lợi, khó khăn trong tiếp xúc cử tri, tham vấn cử tri, tiếp
công dân ở tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi đại biểu HĐND công tác)?
2. Phân tích những yếu tố tác động đến hiệu quả của tiếp xúc cử tri, tham vấn
ý kiến cử tri, tiếp công dân của đại biểu HĐND;
3. Kinh nghiệm của cá nhân đại biểu HĐND trong việc tiếp xúc cử tri, tham
vấn ý kiến cử tri, tiếp công dân?
4. Kinh nghiệm của cá nhân đại biểu HĐND trong việc trả lời phỏng vấn cơ
quan báo chí?
181
TÀI LIỆU THAM KHẢO DÀNH CHO HỌC VIÊN
1. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
2. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
3. Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc
trung ương (nơi đại biểu HĐND công tác).
4. Luật Khiếu nại năm 2011.
5. Luật Tiếp công dân năm 2013.
6. Luật Báo chí năm 2016.
7. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
8. Luật Tố cáo năm 2018.
9. Ban Dân nguyện, “Cẩm nang về công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân”, Hà Nội, 2015.
10. Văn phòng Quốc hội, Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Hướng
dẫn tham vấn công chúng của Hội đồng nhân dân, Hà Nội, năm 2012.
182
Chuyên đề 6
KỸ NĂNG GIÁM SÁT
CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
I. Giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1. Khái niệm, mục đích giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
a. Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân năm 2015: Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Khoản 2 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân năm 2015 quy định: Chủ thể giám sát bao gồm Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc
hội, đại biểu Quốc hội và HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ
đại biểu HĐND, đại biểu HĐND.
Giám sát của HĐND cấp tỉnh là việc HĐND, Thường trực HĐND, các Ban
của HĐND, Tổ Đại biểu HĐND và đại biểu HĐND cấp tỉnh theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Giám sát của HĐND bao gồm giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của
Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và các đại biểu
HĐND.
Hoạt động giám sát của HĐND có: (i) Giám sát tại kỳ họp (như giám sát
các báo cáo, đề án, chương trình, nghị quyết của HĐND, thông qua các hình
thức như: Thẩm tra của các Ban HĐND, thảo luận, xem xét của các đại biểu
HĐND, chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ họp, bỏ phiếu tín nhiệm…); (ii)
Giám sát giữa hai kỳ họp (là việc giám sát chấp hành Hiến pháp, pháp luật, nghị
183
quyết của HĐND của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân, thông qua các hình
thức như: giám sát chuyên đề, giám sát vụ việc, giải trình hoặc chất vấn giữa hai
kỳ họp…).
Nội dung giám sát của HĐND được thực hiện theo đề nghị của Thường
trực HĐND trình trên cơ sở các kiến nghị của Ban của HĐND, Tổ Đại biểu
HĐND, Đại biểu HĐND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và ý
kiến, kiến nghị của cử tri63
.
HĐND cấp tỉnh thực hiện quyền giám sát thông qua các hoạt động sau64
:
- Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và các báo
cáo khác theo quy định.
- Xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch UBND, thành viên khác của
UBND, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ
trưởng cơ quan thuộc UBND cùng cấp; trong phạm vi nhiệm vụ của mình giám
sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của công dân ở địa phương.
- Xem xét quyết định của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới
trực tiếp có dấu hiệu trái với Hiến pháp và pháp luật, văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp.
- Giám sát chuyên đề.
- Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND bầu.
Căn cứ vào kết quả giám sát, HĐND có các quyền sau65
:
- Yêu cầu UBND, Chủ tịch UBND ban hành văn bản để thi hành Hiến
pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND.
- Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản của UBND, Chủ tịch UBND trái
với Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và
nghị quyết của HĐND.
63
Khoản 2, Điều 87, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). 64
Điều 57, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015. 65
Khoản 4, Điều 87, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
184
- Ra nghị quyết về trả lời chất vấn và trách nhiệm của người trả lời chất vấn
khi xét thấy cần thiết.
- Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng
ban, Phó Trưởng ban của HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và Ủy
viên UBND.
b. Giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Giám sát của đại biểu HĐND cấp tỉnh là việc đại biểu HĐND cấp tỉnh theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền xử lý thông qua các hoạt động66
:
- Chất vấn Chủ tịch UBND, thành viên khác của UBND, Chánh án Tòa án
nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc
UBND cùng cấp.
- Giám sát quyết định của UBND cùng cấp và nghị quyết của HĐND cấp
dưới trực tiếp.
- Giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương.
- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.
c. Mục đích giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Mục đích chung của giám sát là để đảm bảo rằng các hoạt động của các đối
tượng chịu sự giám sát tuân thủ đúng các nguyên tắc, thủ tục do pháp luật quy
định, đảm bảo được những lợi ích chung của quốc gia, của xã hội, quyền và lợi
ích chính đáng của tổ chức, của công dân.
Giám sát của đại biểu HĐND là hoạt động có mục đích: (i) Giúp HĐND,
đại biểu HĐND nằm bắt được tình tình thực tiễn của địa phương, thông qua đó,
có thêm những căn cứ để HĐND thực hiện chức năng quyết định những vấn đề
thuộc thẩm quyền; (ii) Kịp thời phát hiện những gương tốt, điển hình tiên tiến
hoặc những vấn đề mới hoặc sai lệch (nếu có) để có những biện pháp xử lý phù
66
Khoản 1 Điều 83, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
185
hợp, đảm bảo cho những quy định của pháp luật được thực hiện đúng và có hiệu
quả.
2. Yêu cầu đối với hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh
Hoạt động giám sát của đại biểu HĐND phải đảm bảo các yêu cầu sau67
:
Một là, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
Yêu cầu này đòi hỏi đại biểu HĐND thực hiện thẩm quyền, nội dung giám
sát chỉ trong phạm vi được pháp luật cho phép để tránh hiện tượng lạm quyền, đi
chệch mục đích của giám sát.
Để thực hiện tốt yêu cầu này, đại biểu HĐND cần phải nghiên cứu kỹ các
quy định của pháp luật về thẩm quyền, nội dung giám sát của HĐND nói chung
và của đại biểu HĐND nói riêng và tuân thủ nghiêm các quy định này trong hoạt
động của mình.
Hai là, đảm bảo khách quan, công khai, minh bạch, hiệu quả
Việc giám sát nhằm xác định những hạn chế, tồn tại trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước để từ đó có những đề xuất, kiến nghị nhằm khắc phục
những hạn chế này. Do đó, muốn phát hiện, xác định được đúng những hạn chế,
tồn tại thì các đại biểu HĐND phải khách quan trong nhìn nhận, đánh giá thực
tiễn.
Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của đại biểu HĐND cần phải được công
khai, minh bạch để mọi chủ thể liên quan và người dân đều được biết. Đảm bảo
yêu cầu này là tạo ra một cơ chế kiểm soát từ phía các chủ thể trong xã hội đối
với chính hoạt động giám sát của đại biểu HĐND nhằm bảo đảm cho việc thực
hiện hoạt động giám sát tuân thủ đúng quy định của pháp luật và tăng tính trách
nhiệm của chính đại biểu HĐND.
Yêu cầu về tính hiệu quả trong hoạt động giám sát đòi hỏi quá trình thực
hiện hoạt động này luôn phải được đặt trong mối quan hệ so sánh giữa kết quả
và chi phí cho hoạt động, điều này có nghĩa là các đại biểu HĐND phải cân nhắc
về cách thức và phương pháp thực hiện hoạt đông giám sát trong phạm vi nhiệm
67
Điều 3, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
186
vụ, thẩm quyền của mình sao cho đạt được mục tiêu với chi phí thấp nhất có thể
và phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương trong từng thời kỳ.
Ba là, không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát
Từ mục đích giám sát của đại biểu HĐND có thể thấy rằng đây chính là
hoạt động có vai trò hỗ trợ, củng cố hoạt động của các cơ quan, đơn vị chịu sự
giám sát chứ không phải gây khó khăn cho hoạt động của các cơ quan, đơn vị.
Yêu cầu này đòi hỏi đại biểu HĐND chỉ thực hiện những nội dung, thẩm quyền
giám sát theo quy định và quá trình thực hiện giám sát phải diễn ra theo các
bước luật định. Đồng thời, trong quá trình thực hiện, đại biểu HĐND nhận thấy
có những quy định của pháp luật còn chưa hoàn thiện, gây cản trở tới hoạt động
của cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát thì cũng có trách nhiệm kiến nghị cơ quan
có thẩm quyền sửa đổi.
3. Đối tượng, nội dung, hình thức giám sát của đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
a. Đối tượng, nội dung giám sát
Đối tượng, nội dung giám sát là trả lời câu hỏi: Giám sát ai? Giám sát về
cái gì? Đối tượng và nội dung giám sát của đại biểu HĐND cấp tỉnh như sau:
- Tiến hành chất vấn đối với Chủ tịch UBND, ủy viên của UBND (là người
đứng đầu cơ quan thuộc UBND), Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp bằng cách gửi văn bản chất vấn đến các đối tượng
này.
- Giám sát quyết định của UBND cùng cấp và nghị quyết của HĐND
huyện. Trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên,
nghị quyết của HĐND cùng cấp thì đại biểu HĐND có quyền yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành bãi bỏ
một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật.
- Giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương (tỉnh/thành phố trực thuộc
trung ương).
187
- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Khi
nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, đại biểu HĐND có trách
nhiệm nghiên cứu và chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để
xem xét, giải quyết; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết, đồng thời thông báo cho
người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết. Trong thời hạn do pháp luật quy định, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và thông báo
bằng văn bản cho đại biểu HĐND biết kết quả giải quyết; trường hợp không
đồng ý với việc giải quyết, đại biểu HĐND có quyền gặp người có thẩm quyền
giải quyết hoặc người đứng đầu cơ quan tổ chức cấp trên trực tiếp của người có
thẩm quyền giải quyết để yêu cầu giải quyết hoặc báo cáo cơ quan có thẩm
quyền xem xét, xử lý theo thẩm quyền.
b. Hình thức giám sát
Đại biểu HĐND tự mình thực hiện hoạt động giám sát hoặc tham gia hoạt
động giám sát do HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tổ Đại biểu
HĐND tổ chức.
Đại biểu HĐND cấp tỉnh tham gia các hoạt động giám sát:
- Tham gia các đoàn giám sát chuyên đề của HĐND, Thường trực HĐND,
Ban của HĐND. Các cơ quan này sẽ ra quyết định thành lập đoàn giám sát,
trong đó có danh sách đại biểu là thành viên đoàn giám sát. Căn cứ quyết định
giám sát, đại biểu là thành viên đoàn giám sát sẽ tham gia giám sát. Đại biểu
không phải là thành viên đoàn giám sát có thể đề nghị với cơ quan thành lập
đoàn giám sát bổ sung hoặc mời mình tham gia đoàn giám sát.
- Tham gia phiên chất vấn, phiên giải trình do Thường trực HĐND tổ chức.
Tham gia hoạt động giám sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc giải quyết kiến
nghị của cử tri khi được Thường trực HĐND mời.
- Đại biểu HĐND là thành viên Ban của HĐND có trách hiệm tham gia
hoạt động thẩm tra báo cáo, phiên họp của Ban giám sát quyết định của UBND
cùng cấp và nghị quyết của HĐND cấp dưới; phiên họp của Ban giám sát việc
giải quyết tố cáo, kiến nghị của công dân; phiên họp của Ban xem xét báo cáo
188
của đoàn giám sát do Ban thành lập. Đại biểu không phải là thành viên của Ban
có thể đề nghị với Trưởng ban được tham gia các hoạt động giám sát của Ban.
- Đại biểu HĐND tham gia các hoạt động giám sát của Tổ Đại biểu HĐND
mà mình là thành viên. Tổ Đại biểu HĐND tổ chức để đại biểu HĐND giám sát
việc thi hành pháp luật trên địa bàn nơi Đại biểu ứng cử.
Bảng 1: Các hình thức giám sát
STT Hình thức giám sát Đại biểu/
cơ quan tổ chức
giám sát
Thời điểm
1 Xem xét báo cáo công tác của
Thường trực HĐND, UBND , Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân, cơ quan thi hành án dân sự
cùng cấp và các báo cáo khác
HĐND Kỳ họp HĐND
2 Xem xét việc trả lời chất vấn HĐND, Thường
trực HĐND
Kỳ họp HĐND,
phiên họp
Thường trực
HĐND
3 Xem xét quyết định của UBND
cùng cấp, nghị quyết của HĐND
cấp dưới trực tiếp
Đại biểu, HĐND,
Thường trực, Ban
của HĐND, Tổ
Đại biểu
Trong kỳ họp
HĐND, giữa
hai kỳ họp
4 Giám sát chuyên đề Đoàn giám sát
của HĐND,
Thường trực,
Ban, HĐND
Giữa hai kỳ
họp HĐND
5 Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND bầu
HĐND Kỳ họp HĐND
6 Tổ chức hoạt động giải trình Thường trực
HĐND
Phiên họp
Thường trực
HĐND
189
7 Giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân
Đại biểu, Đoàn
giám sát, Thường
trực, Ban của
HĐND
Giữa hai kỳ
họp, phiên họp
Thường trực,
Ban của HĐND
8 Giám sát việc giải quyết kiến nghị
của cử tri
Đại biểu, Đoàn
giám sát, Thường
trực, Ban của
HĐND
Giữa hai kỳ
họp, phiên họp
Thường trực,
Ban của HĐND
9 Thẩm tra các báo cáo Ban của HĐND Phiên họp Ban
của HĐND
10 Giám sát việc thi hành pháp luật ở
địa phương
Đại biểu Giữa hai kỳ
họp
II. Một số kỹ năng trong thực hiện nhiệm vụ giám sát của đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh
1. Kỹ năng chất vấn
a. Khái niệm chất vấn
Chất vấn là một trong những hoạt động giám sát quan trọng, thể hiện vai
trò của cá nhân đại biểu HĐND.
Chất vấn là việc đại biểu HĐND nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ
tịch UBND, thành viên khác của UBND, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cùng cấp và
yêu cầu những người này trả lời về trách nhiệm của mình đối với vấn đề được
nêu.
Về mặt hình thức, chất vấn là việc đại biểu đặt câu hỏi, nhưng câu hỏi chất
vấn khác với câu hỏi thông thường, câu hỏi để biết thông tin. Câu hỏi chất vấn
cũng có thể hỏi để biết thông tin, nhưng mở rộng hơn là để từ đó làm rõ trách
nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý của người bị trả lời chất vấn.
Hoạt động chất vấn có thể được thực hiện thông qua một trong hai hình
thức: văn bản hoặc chất vấn trực tiếp tại phiên họp HĐND.
190
Chất vấn bằng văn bản là việc đại biểu HĐND viết phiếu chất vấn và gửi
trước tới Thường trực HĐND để gửi tới người bị chất vấn. Thời điểm gửi là
giữa hai kỳ họp hoặc ngay trước kỳ họp. Nếu gửi ngay trước kỳ họp thì câu hỏi
phải phù hợp với nội dung của kỳ họp.
Chất vấn trực tiếp tại phiên họp HĐND là việc đại biểu HĐND đặt câu hỏi
trực tiếp cho người bị chất vấn trong phiên họp. Trong thực hiện hình thức này,
cần tránh trường hợp lấy câu hỏi bằng văn bản gửi trước để làm câu hỏi chất vấn
trực tiếp vì như vậy sẽ là tạo điều kiện để người bị chất vấn được chuẩn bị trước.
Thường câu hỏi chất vấn chứa các nội dung sau68
:
- Nêu vấn đề cần hỏi, yêu cầu người bị chất vấn làm rõ;
- Nêu thực trạng, vụ việc xảy ra, yêu cầu người bị chất vấn cho biết có biết
việc đó hay không, trách nhiệm của người bị chất vấn để việc đó xảy ra;
- Yêu cầu người bị chất vấn đưa ra hướng xử lý vấn đề; tự mình hoặc yêu
cầu người bị chất vấn xác định chế độ trách nhiệm;
- Yêu cầu người bị chất vấn giải trình về trách nhiệm của mình đối với vấn
đề được nêu ra.
Hoạt động chất vấn có những mục đích sau:
- Để làm rõ trách nhiệm của người bị chất vấn trong việc điều hành, thực
hiện nhiệm vụ chưa tốt, còn có sai sót, hiệu quả chưa cao.
- Kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động và trách nhiệm của người bị chất
vấn trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Uy tín của người bị chất vấn nhanh
chóng được đánh giá qua việc trả lời chất vấn.
- Sự khuyến nghị của HĐND giúp người bị chất vấn có cơ hội tự rà soát lại
việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Đại biểu biết khéo léo sử dụng chất vấn còn thúc đẩy cơ quan nhà nước
trong giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền, nhất là những vấn đề cụ thể.
b. Các bước của quá trình chất vấn
68
Ban Công tác đại biểu - Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử (2013), HĐND trong tổ chức bộ máy nhà nước,
NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
191
Để thực hiện tốt hoạt động chất vấn, đại biểu HĐND cấp tỉnh nên thực hiện
theo các bước sau69
:
Bước 1: Chuẩn bị chất vấn
Trong bước này, đại biểu HĐND cấp tỉnh phải chuẩn bị kỹ cho câu hỏi chất
vấn. Muốn vậy, đại biểu cần thực hiện những nội dung sau đây:
- Lựa chọn vấn đề chất vấn
Đại biểu HĐND cấp tỉnh nên lựa chọn vấn đề chất vấn trên cơ sở: sự hiểu
biết sâu của đại biểu về nội dung chất vấn, vấn đề có tính thời sự được nhiều
người quan tâm, vấn đề đang gây bức xúc trong xã hội mà trách nhiệm từ cơ
quan nhà nước; ý kiến của cử tri, cử tri nêu việc cụ thể. Đại biểu cần có sự nhạy
cảm, hiểu biết để tìm hiểu, khái quát lên thành vấn đề có tính thường xuyên, lặp
lại, trên diện rộng.
- Hiểu sâu về nội dung chất vấn
Để có thể hiểu sâu về nội dung chất vấn, đại biểu cần phải có số liệu, tư
liệu đầy đủ từ nguồn đáng tin cậy để tìm hiểu về bản chất vấn đề, từ đó giúp cho
đặt câu hỏi chính xác, quy đúng trách nhiệm; đồng thời đại biểu có khả năng
truy vấn khi người chất vấn trả lời.
Thông tin đại biểu HĐND cấp tỉnh cần thu thập từ rất nhiều nguồn nhưng
những nguồn đó phải là nguồn thông tin chính thức như: báo cáo của UBND
cùng cấp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, báo cáo thẩm tra, báo cáo
giám sát của HĐND, báo cáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,... Bên cạnh đó,
các thông tin đại biểu HĐND cấp tỉnh có thể thu thập từ các phương tiện thông
tin đại chúng, từ tiếp xúc cử tri, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Tuy
nhiên, cần phải lưu ý là thông tin từ tiếp xúc cử tri, đơn thư khiếu nại, tố cáo của
công dân cần phải được kiểm tra kỹ. Các thông tin mà đại biểu đã thu thập cần
được xử lý chuyên sâu hơn bằng cách tham vấn ý kiến của các chuyên gia.
- Xác định người bị chất vấn và trách nhiệm người bị chất vấn
Trên thực tế, có những nội dung rõ người bị chất vấn nhưng cũng có những
nội dung rất khó xác định người bị chất vấn, do vậy, chất vấn cần phải đúng đối
69
Nguyễn Hải Long (2021), 8 chìa khóa thành công dành cho đại biểu HĐND, NXB Lao động, Hà Nội.
192
tượng. Muốn vậy, đại biểu HĐND cấp tỉnh cần tìm hiểu trách nhiệm của từng cá
nhân bị chất vấn được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), nghị định của Chính phủ về cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh70
và các các quy định về phân quyền, phân
cấp, ủy quyền, giữa các cấp hành chính, các cơ quan nhà nước, thẩm quyền của
từng vị trí dự kiến bị chất vấn.
- Chuẩn bị câu hỏi chất vấn
Thời gian dành cho câu hỏi chất vấn ngắn (khoảng 03 phút), vì vậy, đại
biểu phải quyết định đặt bao nhiêu câu hỏi (không nên quá 03 câu - dung lượng
khoảng 01 trang giấy A4 đánh máy), sắp xếp câu hỏi mạch lạc về ý, đầy đủ về
nội dung, không nên diễn giải quá nhiều để tập trung vào câu hỏi rõ ràng. Đối
với cấp tỉnh, câu hỏi cần có tính khái quát, không nên hỏi vấn đề quá cụ thể. Câu
hỏi chất vấn cần đảm bảo các yêu cầu (Hình 1):
CÂU HỎI
CHẤT VẤN,
GIẢI TRÌNH
Hình 1: Yêu cầu đối với câu hỏi chất vấn
Nguồn: Nguyễn Hải Long (2021), 8 chìa khóa thành công dành cho
đại biểu HĐND, NXB Lao động, Hà Nội, trang 179
70
Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, Nghị định số 107/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-
CP.
Rõ ràng
Có
căn cứ
Có liên
quan
Cụ thể
193
+ Cụ thể: Bằng chứng cụ thể, ví dụ cụ thể;
+ Rõ ràng: Người bị chất vấn hiểu được câu hỏi, mong muốn của đại biểu;
+ Có căn cứ: Thông tin chính xác, đáng tin cậy;
+ Có liên quan: Liên quan tới trách nhiệm của người bị chất vấn.
Đại biểu có thể chuẩn bị trước 05 câu hỏi và đánh số theo thứ tự ưu tiên để
trong trường hợp câu hỏi đã chuẩn bị trùng với câu hỏi của các đại biểu đã đặt
câu hỏi trước đó thì vẫn còn số lượng câu hỏi cần thiết để nêu ra đối với đối
tượng bị chất vấn.
- Dự báo câu trả lời của người bị chất vấn.
Đại biểu cần dự báo câu trả lời của người bị chất vấn để từ đó tìm thêm
thông tin nhằm có thể truy vấn thêm.
Bước 2: Trình bày chất vấn tại phiên họp
Khi thực hiện trình bày chất vấn tại phiên họp, đại biểu HĐND cần chú ý
một số điểm sau:
- Đặt câu hỏi chất vấn phù hợp với nội dung chất vấn mà HĐND đã quyết
định.
- Đảm bảo thời gian đặt câu hỏi chất vấn đã được quy định. Đại biểu nên
đặt câu hỏi ngắn gọn, tránh giải thích dài dòng. Theo vấn đề đến cùng, tiếp tục
truy vấn nếu câu trả lời chưa làm đại biểu thỏa mãn. Đại biểu có thể tiếp tục truy
vấn theo câu hỏi của mình đã đặt ra hoặc câu hỏi của đại biểu khác đặt ra.
- Thể hiện thái độ: đại biểu cần thể hiện thái độ của mình với nội dung chất
vấn không chỉ qua nội dung câu từ mà còn thông qua sử dụng các kỹ năng về
ngôn từ, âm điệu, điệu bộ, cử chỉ như trong kỹ năng thuyết trình. Việc tỏ thái độ
là rất có ý nghĩa, để người bị chất vấn biết rằng đây là vấn đề đại biểu rất quan
tâm, có tầm quan trọng. Tuy nhiên, cần tránh có thái độ gay gắt, bực tức.
- Dùng phép so sánh, tương phản để làm nổi bật vấn đề chất vấn. Ví dụ, đại
biểu có thể mở đầu bài tham luận bằng phương pháp tương phản giữa giá đền bù
đất nông nghiệp và đất xây dựng trên cùng một mảnh đất để chất vấn việc đền
bù đất, mở khu công nghiệp, xây nhà trên đất nông nghiệp.
194
Chất vấn được đưa tin rộng rãi, nhân dân quan tâm, việc trả lời chất vấn
ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín người trả lời. Do đó, đại biểu cần biết sử dụng sức
mạnh của công luận để đạt được mục tiêu của mình.
- Lựa chọn cách thức đưa ra chất vấn phù hợp. Đại biểu lựa chọn một trong
hai hình thức chất vấn: Bằng giấy hoặc chất vấn trực tiếp tại phiên họp. Hình
thức chất vấn trực tiếp tại phiên họp thường đem lại hiệu quả cao hơn, do đại
biểu được nghe đầy đủ thông tin từ người hỏi và trả lời; cách thức trả lời - hỏi
bằng lời nói tác động tới người nghe hơn; cử tri thường chỉ tiếp cận với câu hỏi
trực tiếp thông qua truyền hình trực tiếp hoặc phản ánh của báo chí. Vì vậy, đại
biểu cần lựa chọn hình thức chất vấn phù hợp với câu hỏi. Với vấn đề chi tiết, cụ
thể thì cần hỏi bằng giấy, khi đó thông tin mới chính xác và đầy đủ.
Chú ý lắng nghe câu trả lời, nhanh chóng phân tích, đánh giá câu trả lời có
đáp ứng câu hỏi không, cần làm rõ thêm ý nào, người trả lời đã làm rõ nguyên
nhân, giải pháp, trách nhiệm hay chưa... để tiếp tục có câu hỏi truy vấn.
Bước 3: Hoạt động sau phiên chất vấn
Chất vấn tại Hội trường mới chỉ đem lại tác động bước đầu tới người có
trách nhiệm, người trả lời chất vấn có thể hứa, nhưng từ lời hứa đến hành động
là cả quãng đường dài. Ngôn ngữ Việt rất phong phú và đa dạng, khó phân biệt
thế nào là lời hứa với các từ ngữ thể hiện tư tưởng là lời hứa nhưng nếu căn cứ
vào câu chữ thì lại không phải là lời hứa như: “Sẽ xem xét giải quyết”, “Ghi
nhận và nghiên cứu trong thời gian tới”,… Để người trả lời chất vấn thực hiện
lời hứa trước HĐND, đại biểu cần sử dụng nhiều biện pháp một cách linh hoạt
như quyền của đại biểu đã được pháp luật ghi nhận (gặp gỡ trực tiếp, yêu cầu trả
lời, tiếp tục chất vấn ở kỳ họp sau, đề nghị Thường trực HĐND có ý kiến,
HĐND thảo luận tại kỳ họp …); sử dụng phương tiện báo chí như một kênh gây
sức ép.
2. Kỹ năng giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân cùng cấp và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp
a. Khái niệm
195
Giám sát quyết định của UBND cùng cấp và nghị quyết của HĐND cấp
dưới trực tiếp (ở đây là cấp huyện) là việc xem xét các văn bản này khi phát hiện
có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp.
Trong thẩm quyền của mình, phạm vi giám sát văn bản quy phạm pháp luật
của đại biểu HĐND cấp tỉnh gồm giám sát quyết định của UBND cấp tỉnh và
nghị quyết của HĐND cấp huyện71
.
b. Mục đích của giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Hoạt động giám sát quyết định của UBND cấp tỉnh và nghị quyết của
HĐND cấp huyện (gọi chung là văn bản thuộc thẩm quyền giám sát của HĐND
cấp tỉnh) có những mục đích sau:
- Qua giám sát để kịp thời pháp hiện những nội dung sai trái của văn bản
thuộc thẩm quyền giám sát của HĐND cấp tỉnh để yêu cầu xử lý và kiến nghị về
trách nhiệm đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật có vi phạm.
- Giám sát để phát hiện những nội dung của văn bản thuộc thẩm quyền
giám sát của HĐND cấp tỉnh không còn phù hợp, phát hiện những điểm trùng
lặp, chồng chéo để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc bãi
bỏ, hủy bỏ.
- Giám sát để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ
thống pháp luật, qua đó đánh giá hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cấp tỉnh và
cấp huyện trong quản lý, điều hành.
c. Nội dung giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện
- Sự phù hợp của văn bản với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
71
Điều 83, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
196
Đại biểu HĐND nghiên cứu, xem xét và đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp,
tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền giám sát
theo luật định với các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
- Sự phù hợp của hình thức văn bản với nội dung văn bản đó, đảm bảo
đúng quy trình soạn thảo văn bản.
- Sự phù hợp của nội dung văn bản với thẩm quyền của cơ quan ban hành
văn bản.
- Sự phù hợp tình hình thực tế địa phương và tính khả thi thi của văn bản,
chính sách ban hành.
Trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật được giám sát có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên thì
đại biểu HĐND có quyền kiến nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ
sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm
pháp luật đó.
d. Trình tự thực hiện giám sát quyết định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Quy trình chung thực hiện giám sát quyết định UBND cấp tỉnh và nghị
quyết của HĐND cấp huyện gồm 2 bước cơ bản:
Bước 1: Chuẩn bị
Đây là bước chuẩn bị nội dung, kế hoạch và thủ tục cho hoạt động giám sát
văn bản quy phạm pháp luật với các nội dung:
- Thu thập thông tin, nội dung, xác định địa bàn cần giám sát;
- Xây dựng kế hoạch giám sát;
- Quyết định thành lập Đoàn giám sát;
- Phổ biến kế hoạch giám sát.
Bước 2: Triển khai các hoạt động giám sát
Bước này bao gồm các nội dung:
- Xem xét, đánh giá báo cáo;
- Yêu cầu đối tượng giám sát giải trình;
- Đi thực tế tại cơ sở;
197
Theo luật định, các bước trên được cụ thể hóa đối với việc xem xét văn bản
thuộc thẩm quyền giám sát của HĐND cấp tỉnh và thực hiện theo trình tự sau72
:
- Đại diện Thường trực HĐND trình bày tờ trình;
- HĐND thảo luận;
- Người đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật trình
bày bổ sung những vấn đề có liên quan;
- HĐND ra nghị quyết về việc xem xét văn bản.
đ. Một số kỹ năng phục vụ cho giám sát quyết định Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện của đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
Việc thực hành kỹ năng giám sát quyết định UBND cấp tỉnh và nghị quyết
của HĐND cấp huyện của đại biểu HĐND thể hiện mức độ am hiểu pháp luật,
khả năng so sánh giữa quy định của pháp luật với việc thực thi pháp luật, khả
năng phát hiện những sai phạm trong văn bản quy phạm pháp luật, khả năng đề
xuất khắc phục những sai phạm của văn bản quy phạm pháp luật và yêu cầu
khắc phục sai phạm của đại biểu HĐND.
- Kỹ năng thu thập và xử lý thông tin
Các thông tin cần thu thập bao gồm thông tin chính thức và thông tin bổ
sung về văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với quy định của pháp luật.
- Phân tích chính sách, giải pháp
Phân tích chính sách, giải pháp với lập luận logic, có căn cứ, phân tích về
tác động của văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật đối với đời sống xã hội,
đối với sự điều hành, quản lý của Nhà nước,…
- Chọn lựa phương pháp, hình thức giám sát phù hợp
- Biết sử dụng các công cụ hỗ trợ trong hoạt động giám sát văn bản quy
phạm pháp luật như hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng.
3. Kỹ năng giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương
a. Khái niệm
72
Khoản 2, Điều 61, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
198
Giám sát việc thi hành pháp luật là việc xem xét, đánh giá thực trạng thi
hành pháp luật nhằm kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật ở địa phương.
Hoạt động giám sát thi hành pháp luật đã và đang là một yêu cầu cấp bách và
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, mang tính chiến lược trước yêu cầu hội
nhập kinh tế - quốc tế, đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Kết luận số 01-KL/TW của
Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải gắn với tổ chức
thi hành pháp luật củng cố các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật vừa
là công cụ quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám sát việc thi
hành pháp luật”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam định hướng: "Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng
bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”73
.
Ở nước ta, pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức chủ yếu là
tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật, chấp hành pháp luật và áp dụng pháp luật,
trong đó:
- Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật mà chủ thể quan hệ
pháp luật kiềm chế, giữ mình không làm những gì mà pháp luật cấm.
- Sử dụng pháp luật là hình thức mà chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện
quyền được pháp luật quy định.
- Chấp hành pháp luật là hình thức mà chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý
theo quy định của pháp luật.
73
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam,
NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tập 1, trang 175.
199
- Áp dụng pháp luật là hình thức mà chủ thể là các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các quy phạm pháp luật vào trường hợp cụ thể đối với cá
nhân, tổ chức để giải quyết quyền, nghĩa vụ cho họ hoặc xác định trách nhiệm
pháp lý đối với họ.
Thi hành pháp luật là tổng thể các biện pháp, phương thức mà các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền sử dụng để các chủ thể thực hiện pháp luật đưa các quy
định của pháp luật vào cuộc sống. Các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật gồm:
- Biện pháp pháp lý: Là các biện pháp từ việc tạo ra cơ sở pháp lý cụ thể
(ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản cá biệt) để thi hành
pháp luật đến các biện pháp cưỡng chế (hành chính hoặc tư pháp);
- Biện pháp kinh tế - xã hội (ổn định và phát triển cơ sở vật chất, đời sống,
điều kiện phương thức kỹ thuật…);
- Biện pháp hành chính điều hành bảo đảm để các chủ thể quan hệ pháp
luật thực hiện các hành vi hợp pháp.
Ở địa phương, CQĐP và các cơ quan nhà nước khác thực hiện pháp luật
với trách nhiệm như sau:
- CQĐP có trách nhiệm: Quyết định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm
thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và công dân; áp dụng các biện pháp phòng ngừa,
ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật.
- Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân địa phương: Là những cơ
quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương.
b. Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong
giám sát thi hành pháp luật ở địa phương
Đại biểu HĐND cấp tỉnh có trách nhiệm thường xuyên theo dõi, xem xét
việc thi hành pháp luật tại địa phương (tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương).
Trong việc thực hiện hoạt động giám sát thi hành pháp luật ở địa phương,
đại biểu HĐND cần nắm vững những nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định74
:
74
Xem thêm: khoản 4 Điều 86, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
200
- Thực hiện đúng nội dung, kế hoạch giám sát.
- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì đại biểu HĐND có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp cần thiết để kịp
thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và khôi phục lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân bị vi phạm; trường hợp cơ quan, tổ chức không thực hiện hoặc đại
biểu HĐND không đồng ý với việc giải quyết thì đại biểu HĐND có quyền yêu
cầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết.
- Chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày kết thúc hoạt động giám sát, đại biểu
HĐND báo cáo kết quả giám sát với Thường trực HĐND cùng cấp.
4. Kỹ năng giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân
a. Một số khái niệm liên quan tới giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị của công dân
Trước khi tìm hiểu khái niệm giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị của công dân thì đại biểu HĐND nên nắm được một số khái niệm liên
quan bao gồm: Khiếu nại, giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tố cáo, kiến
nghị, giải quyết kiến nghị.
(i) Khái niệm khiếu nại, giải quyết khiếu nại
- Khiếu nại
Khiếu nại theo nghĩa chung nhất là việc cá nhân, tổ chức yêu cầu hay đề
nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền sửa chữa một việc làm mà họ cho là
không đúng gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ và đòi bồi thường
thiệt hại do việc làm không đúng gây ra75
.
- Giải quyết khiếu nại "là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải
quyết của người giải quyết khiếu nại” (khoản 11, Điều 2, Luật Khiếu nại năm
2011).
75
Khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 quy định: "Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán
bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình".
201
(ii) Tố cáo, giải quyết tố cáo
- Tố cáo là việc công dân thực hiện việc trình báo cho cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân công dân, cơ quan, tổ chức theo thủ tục
luật định. Việc tố cáo bao gồm: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong thực
hiện nhiệm vụ, công vụ; tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước
trong các lĩnh vực76
.
- Giải quyết tố cáo là việc "thụ lý, xác minh, kết luận nội dung tố cáo và xử
lý kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo". (khoản 7, Điều 2, Luật
Tố cáo năm 2018).
(iii) Kiến nghị, giải quyết kiến nghị
- Kiến nghị là việc công dân cung cấp thông tin, trình bày ý kiến, nguyện
vọng, đề xuất giải pháp với các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền
về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật, công tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống xã hội thuộc trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đó77
.
- Giải quyết kiến nghị là việc các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách
nhiệm thực hiện việc tiếp nhận các kiến nghị của công dân, xem xét và xử lý các
vấn đề nêu trong nội dung kiến nghị theo đúng quy định của pháp luật và đảm
bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
76
Khoản 1, 2, 3 Điều 2, Luật Tố cáo năm 2018, Điều 2 quy định: "1. Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm: a) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; b) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. 2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là tố cáo về hành vi vi phạm pháp
luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của các đối tượng sau đây: a) Cán bộ, công chức, viên chức; người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; b) Người không còn là cán bộ, công chức, viên chức nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời
gian là cán bộ, công chức, viên chức; người không còn được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; c) Cơ quan, tổ chức. 3. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là tố cáo về hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào về việc chấp hành quy
định của pháp luật, trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ". 77
Khoản 2, Điều 2, Luật Tiếp công dân năm 2013.
202
(iv) Khái niệm giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
Giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo kiến nghị của công dân là theo dõi,
xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm
trong ban hành văn bản quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo; trong tiếp công
dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị; trong kiểm tra, xác minh, kết
luận nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo thẩm quyền.
Đối tượng của giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
có thể phân chia thành 2 nhóm: Nhóm các hoạt động quản lý nhà nước về giải
quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; nhóm các hoạt động giải quyết
các vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị cụ thể.
Mục đích của việc giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công
dân là để nhận xét, đánh giá hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về
giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, từ đó đưa ra đề xuất để tiếp
tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đề
xuất giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém, hạn chế trong quá trình tổ chức
thực hiện nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.
Hoạt động giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân có
vai trò như là một phương thức kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp trong
lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần thúc đẩy việc bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tăng cường tiếng nói, sự tham
gia của công dân trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của
tập thể và của Nhà nước. Thêm vào đó, việc giám sát giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của công dân cũng là một phương thức bảo đảm tính pháp quyền,
dân chủ trong đời sống xã hội.
b. Nội dung giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
(i) Giám sát việc tuân thủ thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
Đại biểu HĐND cấp tỉnh cần nắm rõ quy định về thời hạn giải quyết khiếu
nại được quy định trong Luật Khiếu nại năm 2011, thời hạn giải quyết tố cáo
được quy định trong Luật Tố cáo năm 2018:
203
- Đối với khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với
vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45
ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải
quyết khiếu nại không quá 45 ngày kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp
thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày
thụ lý. (Điều 28, Luật Khiếu nại năm 2011)
- Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ
lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn
nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý.
Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không
quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết
khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 ngày, kể từ ngày thụ lý. (Điều
37, Luật Khiếu nại năm 2011).
- Thời hạn giải quyết tố cáo là không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý tố cáo.
Đối với vụ việc phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo một lần nhưng không
quá 30 ngày. Đối với vụ việc đặc biệt phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo
hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Người giải quyết tố cáo quyết định bằng văn
bản việc gia hạn giải quyết tố cáo và thông báo đến người tố cáo, người bị tố cáo,
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. (Điều 30 Luật Tố cáo năm 2018).
- Đối với kiến nghị78
, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận
nội dung kiến nghị, người tiếp công dân có trách nhiệm trả lời trực tiếp hoặc
thông báo bằng văn bản đến người đã đến kiến nghị về việc kiến nghị đã được
thụ lý để giải quyết hoặc nội dung kiến nghị đã được chuyển đến cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền giải quyết79
.
(ii) Giám sát việc thực hiện thẩm quyền giải quyết khiếu nại
78
Xem thêm: Nghị định số 20/2008/NĐ-CP của Chính phủ về tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân,
tổ chức về quy định hành chính (được sửa đổi, bổ sung bởi: Nghị định số 48/2013/NĐ-CP của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính; Nghị định số
150/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng
Chính phủ; Nghị định số 92/2017/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên
quan đến kiểm soát thủ tục hành chính). 79
Xem thêm: Điều 28, Khoản 1, Luật Tiếp công dân năm 2013.
204
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của các cá nhân thuộc phạm vi giám sát
giải quyết khiếu nại, tố cáo của đại biểu HĐND như sau80
:
- Chủ tịch UBND cấp xã, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp.
- Thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện:
+ Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của mình.
+ Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Chủ tịch UBND cấp xã, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện
đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn
nhưng chưa được giải quyết.
- Thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương
Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình,
của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp.
- Thẩm quyền của Giám đốc sở và cấp tương đương:
+ Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp.
+ Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương đã giải quyết lần
đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa
được giải quyết.
- Thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp tỉnh:
+ Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của mình.
+ Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Chủ tịch UBND cấp huyện, Giám đốc sở và cấp tương đương đã giải
80
Xêm thêm: Điều 17- 21, Luật Khiếu nại năm 2011.
205
quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng
chưa được giải quyết.
+ Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết khiếu nại giữa các cơ
quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của mình.
(iii) Giám sát việc thực hiện thẩm quyền giải quyết tố cáo
Tùy thuộc vào lĩnh vực của nội dung tố cáo mà xem xét thẩm quyền giải
quyết, trong phạm vi hoạt động của đại biểu HĐND, các thẩm quyền giải quyết
được xem xét theo các phạm vi sau:
Một là, xem xét về thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước
Để có cơ sở xem xét về thẩm quyền giải quyết tố cáo, đại biểu HĐND cần
nắm rõ thẩm quyền giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan hành chính
các cấp, cụ thể như sau81
:
- Chủ tịch UBND cấp xã có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm
pháp luật trong việc thực hiện công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp.
- Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền sau đây:
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã, cán bộ, công chức, viên
chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do UBND cấp huyện quản lý trực tiếp.
- Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có thẩm
quyền sau đây:
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
trực thuộc cơ quan mình, công chức, viên chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý
trực tiếp.
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp.
81
Điều 13, Luật Tố cáo năm 2018.
206
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thẩm quyền sau đây:
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp huyện, người đứng đầu, cấp
phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, công chức,
viên chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do UBND cấp tỉnh quản lý trực tiếp.
Hai là, xem xét thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong Tòa án nhân dân.
Thẩm quyền này được quy định cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện
và Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh như sau82
:
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của công chức do mình
quản lý trực tiếp.
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền sau đây:
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ
của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, công chức khác do
mình quản lý trực tiếp.
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ
của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Ba là, xem xét thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong Viện kiểm sát nhân dân
Thẩm quyền này được quy định cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện và cấp tỉnh như sau83
:
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết
tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của công chức do
mình quản lý trực tiếp.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền sau đây:
82
Điều 14, Luật Tố cáo năm 2018. 83
Điều 15, Luật Tố cáo năm 2018.
207
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ
của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, công chức
khác do mình quản lý trực tiếp.
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
Bốn là, xem xét thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Thẩm quyền giải quyết tổ cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực
hiện nhiệm vụ, công vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập được pháp luật quy định
như sau84
:
- Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền sau đây:
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu tổ chức, đơn vị trực thuộc,
công chức, viên chức do mình tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ của tổ chức, đơn vị do mình quản lý trực tiếp.
- Người đứng đầu cơ quan nhà nước quản lý đơn vị sự nghiệp công lập có
thẩm quyền sau đây:
+ Giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện
nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đơn vị sự
nghiệp công lập, công chức, viên chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ của đơn vị sự nghiệp công lập do mình quản lý trực tiếp.
(iv) Giám việc thực hiện thẩm quyền giải quyết kiến nghị của công dân
Thẩm quyền giải quyết kiến nghị phụ thuộc vào nội dung của kiến nghị.
Căn cứ vào nội dung kiến nghị để xác định cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách
nhiệm giải quyết85
.
84
Điều 18, Luật Tố cáo năm 2018. 85
Xem thêm: Luật Tiếp công dân năm 2013; Nghị định số 20/2008/NĐ-CP của Chính phủ về tiếp nhận, xử lý
phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính (được sửa đổi, bổ sung bởi: Nghị định số
48/2013/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục
hành chính; Nghị định số 150/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
208
(v) Giám sát việc thực hiện trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công
dân
- Về trách nhiệm giải quyết khiếu nại và phối hợp giải quyết khiếu nại86
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu
nại, xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn
chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết khiếu nại được
thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định
của mình.
+ Cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại; cung cấp thông tin, tài liệu
có liên quan đến việc khiếu nại theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra, xem xét lại quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật của mình; nếu trái pháp
luật phải kịp thời sửa chữa, khắc phục, tránh phát sinh khiếu nại.
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tiếp
nhận và giải quyết tố cáo như sau87
:
+ Tổ chức việc tiếp nhận và giải quyết tố cáo theo đúng quy định của pháp
luật; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo
đảm an toàn cho người tố cáo; xử lý nghiêm minh người có hành vi vi phạm
pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
+ Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo khi chưa có kết
luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo.
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tiếp
nhận và giải quyết kiến nghị như sau:
tổ chức của Văn phòng Chính phủ; Nghị định số 92/2017/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của các nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính). 86
Điều 5, Luật Khiếu nại năm 2011. 87
Điều 5, Luật Tố cáo năm 2018.
209
+ Bố trí cán bộ, công chức hoặc bộ phận thực hiện tiếp nhận phản ánh, kiến
nghị; Lắp đặt số điện thoại chuyên dùng, xây dựng chức năng tiếp nhận phản
ánh, kiến nghị trên Cổng Thông tin điện tử của các Bộ, ngành, địa phương; công
bố công khai địa chỉ cơ quan, địa chỉ thư tín, số điện thoại chuyên dùng, địa chỉ
email, địa chỉ Cổng thông tin điện tử, địa chỉ Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý
phản ánh, kiến nghị theo quy định tại Điều 13 Nghị định này; Tổ chức thực hiện
việc tiếp nhận các phản ánh, kiến nghị theo đúng quy trình quy định.
+ Giải quyết kiến nghị theo đúng quy định của pháp luật; áp dụng biện
pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; chịu trách nhiệm trước
pháp luật về quyết định của mình; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên liên quan đến kiến nghị.
(vi) Giám sát việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giải quyết khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị
Đại biểu HĐND giám sát người giải quyết khiếu nại, tố cáo có thực hiện
đúng các quyền, nghĩa vụ mà của họ được quy định trong Luật Khiếu nại năm
2011, Luật Tố cáo năm 2018, Luật Tiếp công dân năm 2013 và các quy định
khác của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.
(vii) Giám sát việc bảo đảm các nguyên tắc giải quyết khiếu nại, tố cáo
Để có thể giám sát được việc đảm bảo các nguyên tắc giải quyết khiếu nại,
tố cáo, đại biểu HĐND cần phải nắm được các nguyên tắc này theo luật định.
Giải quyết khiếu nại phải đảm bảo nguyên tắc sau: "Việc khiếu nại và giải
quyết khiếu nại phải được thực hiện theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách
quan, công khai, dân chủ và kịp thời"88
.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc giải quyết tố cáo phải đảm bảo
các nguyên tắc sau89
:
- Việc giải quyết tố cáo phải kịp thời, chính xác, khách quan, đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định của pháp luật.
88
Điều 4, Luật Khiếu nại năm 2011. 89
Điều 4, Luật Tố cáo năm 2018.
210
- Việc giải quyết tố cáo phải đảm bảo an toàn cho người tố cáo; đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo.
c. Một số hoạt động cần chú ý trong giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân
- Tiếp nhận và phân loại đơn, thư: Để thuận tiện cho việc xử lý đơn, thư,
khi tiếp nhận xong, đại biểu cần phân loại đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
thành các loại: Đơn khiếu nại hay đơn tố cáo, đơn, thư trùng lắp, đơn, thư khiếu
nại tập thể, nội dung tố cáo (về đất đai, về hành chính, về hình sự...), đối tượng
khiếu nại, tố cáo..., nội dung kiến nghị... Từ việc phân loại này, đại biểu lựa
chọn phương án xử lý đơn, thư sao cho phù hợp, hiệu quả.
- Xử lý đơn, thư: Trên cơ sở đơn, thư đã phân loại, đại biểu tiến hành xử lý
đơn theo nguyên tắc: Nắm rõ chức năng, nhiệm vụ của đại biểu được pháp luật
quy định (chuyển đơn, đôn đốc và theo dõi việc xử lý, gặp người đứng đầu cơ
quan để tìm hiểu và yêu cầu xem xét lại, yêu cầu cấp trên của cơ quan, đơn vị đó
giải quyết); nắm rõ trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của từng cơ quan
(được quy định trong Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018, quy
định trong chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan); xác định các yếu tố pháp lý
liên quan tới nội dung đơn (nội dung vụ việc, bằng chứng, căn cứ pháp lý, cần
tìm hiểu hay xác minh thêm nội dung gì,...); tập hợp tài liệu, các văn bản có liên
quan, phục vụ cho việc giám sát giải quyết vụ việc (pháp luật, các văn bản
hướng dẫn...). Đại biểu có thể phải tìm hiểu, xác minh thực tế. Đại biểu HĐND
gửi yêu cầu theo mẫu chuyển đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị đến cơ quan
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị hoặc thông qua Thường
trực HĐND cấp tỉnh để chuyển đơn. Đại biểu không chuyển khiếu nại, tố cáo
trong những trường hợp sau: Khiếu nại, tố cáo nhiều lần đã được hướng dẫn giải
quyết hoặc chuyển đơn; nội dung không rõ ràng; không rõ tên, địa chỉ của người
gửi (với đơn, thư nhận qua đường bưu điện); khiếu nại đã có quyết định giải
quyết cuối cùng của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền mà đại biểu xét thấy việc
giải quyết đó là đúng pháp luật.
- Đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
211
Để làm hết trách nhiệm của mình, đại biểu không chỉ dừng ở việc chuyển
đơn mà còn phải theo dõi việc cơ quan, tổ chức, cá nhân xử lý đơn thư như thế
nào. Đại biểu nên lập sổ theo dõi đơn, thư đã được gửi đến cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào, gửi ngày nào. Trên cơ sở quy định của pháp luật về thời hạn trả lời
đơn thư, đại biểu đôn đốc người có trách nhiệm giải quyết thông qua hình thức
gặp gỡ trực tiếp hoặc tiếp tục gửi công văn, thư để nhắc về thời hạn giải quyết.
Trong trường hợp đơn, thư được giải quyết nhưng đại biểu xét thấy việc giải
quyết không thỏa đáng, đại biểu gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức để tìm
hiểu, yêu cầu xem xét lại; khi cần thiết, đại biểu yêu cầu cơ quan, tổ chức cấp
trên của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó giải quyết.
212
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi cá nhân đại biểu
HĐND công tác) và đề xuất những giải pháp để khắc phục những khó khăn,
vướng mắc.
2. Thực tế hiện nay của tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi cá nhân
đại biểu HĐND công tác) đòi hỏi cần tập trung giám sát những lĩnh vực nào?
Đại biểu HĐND cấp tỉnh cần làm gì giám sát có hiệu quả những nội dung này?
3. Nêu những hạn chế trong thực hiện hoạt động chất vấn của đại biểu
HĐND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (nơi cá nhân đại biểu HĐND công
tác) đề xuất giải pháp để khắc phục.
4. Kinh nghiệm của cá nhân đại biểu HĐND trong thực hiện giám sát?
5. Kinh nghiệm của cá nhân đại biểu HĐND trong giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân?
213
TÀI LIỆU THAM KHẢO DÀNH CHO HỌC VIÊN
1. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2019).
2. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
3. Luật Khiếu nại năm 2011.
4. Luật Tiếp công dân năm 2013.
5. Luật Tố cáo năm 2018.
6. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
7. Chương trình hoạt động giám sát toàn khóa/năm của HĐND tỉnh/thành
phố trực thuộc trung ương (nơi đại biểu HĐND công tác).