Trần-thế lợi danh giấc mộng tràng, Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian. Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo, Tầm đấng hiền từ cứu thế-gian. Khắp trong bá-tánh kề cảnh khổ, Đạo-đức hiền lành kiến Tiên-bang. * Thiên-địa u-minh dĩ đạo tràng, Thập bát chư hầu lụy há khan. Đạo-lý tầm sâu, sâu chẳng cạn, Đời cùng ly-loạn khắp chư bang. * Thương hải tang điền ắt chẳng yên, Thiên Địa diệt gian dĩ thiện riêng. Cơ thâm họa diệt từ đây có, Bộ máy thiên-cơ ắt đảo huyền. Tuất-Hợi nhị niên giai tiền định, Huờn lai Thượng-cổ mới bình yên. * Điên này vốn thiệt ở núi vàng, Thương đời nói rõ việc lầm than. Khuyên trong lê-thứ mau mau tỉnh, Yên trí nghĩ suy biết đá vàng. * Ý gì Tiên-Trưởng muốn khuyên đời, Mà đời lầm-lạc lắm đời ôi! Đạo-đức nhuốc-nhơ mà sao đặng, Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời. Bi-động từ tâm gọi mấy lời, Chúng-sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi. Kim-Sơn xem thấy lòng tha-thiết, Mà còn nhiều lắm, chúng-sanh ôi! Nam-Việt cúi lòn dài dặm-dặc, Nhưng ấy chẳng qua tại lẽ trời. Đạo-hạnh huyền-cơ khuyên đó kiếm, Chẳng vậy sau nầy khó thảnh-thơi. * Chư vị Bồ Tát dùng thuật ngữ nói mẹo, ví như cụm từ Thập Bát Chư Hầu, để ám chỉ Mười Tám tên giặc nổi loạn khiến lòng người si mê cuồng vọng hành động tàn ác vô cùng. Mười Tám tên giặc đó là: Lục Căn, Lục Thức và Lục Trần. Thắng giặc ngoài sa trường dễ, nhưng thắng được giặc trong lòng rất khó. Khi giặc lòng si mê nổi loạn, là mầm mống cho Thế Chiến Ba vũ khí nguyên tử hủy diệt loài người. Vậy mầm mống Thế Chiến Ba khởi từ lúc nào? Xin thưa là từ năm 1972 khi Tổng thống Mỹ Richard Nixon sang Bắc Kinh hội kiến Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông nhằm thắt chặt tình hữu nghị, đặt nền mống cho mối bang giao trao đổi mậu dịch, ngoại giao, chánh trị…Mỹ quá tin tưởng Tàu, vội vàng ào ạt đưa đồng đôla & công nghệ tân tiến qua giúp Tàu; sau 3 thập niên, nước Tàu giàu mạnh phát triển hạm đội, phản bội Mỹ, và thách thức Mỹ, muốn thay thế ngôi vị Mỹ quyền lãnh đạo thế giới. Vì vội vàng nông nổi không kềm chế được Mười Tám tên giặc ấy {Thập Bát Chư Hầu} khiến lòng người si mê nên mới đưa đến Thế Chiến Ba tan nát. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã cảnh báo bằng hai câu thơ ngụ ngôn thiên cơ: Mị Châu ơi hỡi Mị Châu, Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha! (Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Dậu 1945) Nhớ thuở ban đầu si mê ấy!
5
Embed
Thập bát chư hầu - WordPress.com...mới cấp cho ông Đình một lưỡi câu, một sợi dây, một lưỡi mun và hai cây lao, dặn hãy giữ gìn phòng khi trừ
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Trần-thế lợi danh giấc mộng tràng,
Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian.
Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo,
Tầm đấng hiền từ cứu thế-gian.
Khắp trong bá-tánh kề cảnh khổ,
Đạo-đức hiền lành kiến Tiên-bang.
* Thiên-địa u-minh dĩ đạo tràng,
Thập bát chư hầu lụy há khan.
Đạo-lý tầm sâu, sâu chẳng cạn,
Đời cùng ly-loạn khắp chư bang.
* Thương hải tang điền ắt chẳng yên,
Thiên Địa diệt gian dĩ thiện riêng.
Cơ thâm họa diệt từ đây có,
Bộ máy thiên-cơ ắt đảo huyền.
Tuất-Hợi nhị niên giai tiền định,
Huờn lai Thượng-cổ mới bình yên.
* Điên này vốn thiệt ở núi vàng,
Thương đời nói rõ việc lầm than.
Khuyên trong lê-thứ mau mau tỉnh,
Yên trí nghĩ suy biết đá vàng.
* Ý gì Tiên-Trưởng muốn khuyên đời,
Mà đời lầm-lạc lắm đời ôi!
Đạo-đức nhuốc-nhơ mà sao đặng,
Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời.
Bi-động từ tâm gọi mấy lời,
Chúng-sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi.
Kim-Sơn xem thấy lòng tha-thiết,
Mà còn nhiều lắm, chúng-sanh ôi!
Nam-Việt cúi lòn dài dặm-dặc,
Nhưng ấy chẳng qua tại lẽ trời.
Đạo-hạnh huyền-cơ khuyên đó kiếm,
Chẳng vậy sau nầy khó thảnh-thơi.
*
Chư vị Bồ Tát dùng thuật ngữ nói mẹo, ví như cụm từ
Thập Bát Chư Hầu, để ám chỉ Mười Tám tên giặc nổi loạn khiến lòng người si mê cuồng vọng hành động tàn ác vô cùng. Mười Tám tên giặc đó là: Lục Căn, Lục Thức và Lục Trần. Thắng giặc ngoài sa trường dễ, nhưng thắng được giặc trong lòng rất khó. Khi giặc lòng si mê nổi loạn, là mầm mống cho Thế Chiến Ba vũ khí nguyên tử hủy diệt loài người. Vậy mầm mống Thế Chiến Ba khởi từ lúc nào? Xin thưa là từ năm 1972 khi Tổng thống Mỹ Richard Nixon sang Bắc Kinh hội kiến Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông nhằm thắt chặt tình hữu nghị, đặt nền mống cho mối bang giao trao đổi mậu dịch, ngoại giao, chánh trị…Mỹ quá tin tưởng Tàu, vội vàng ào ạt đưa đồng đôla & công nghệ tân tiến qua giúp Tàu; sau 3 thập niên, nước Tàu giàu mạnh phát triển hạm đội, phản bội Mỹ, và thách thức Mỹ, muốn thay thế ngôi vị Mỹ quyền lãnh đạo thế giới. Vì vội vàng nông nổi không kềm chế được Mười Tám tên giặc ấy {Thập Bát Chư Hầu} khiến lòng người si mê nên mới đưa đến Thế Chiến Ba tan nát. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã cảnh báo bằng hai câu thơ ngụ ngôn thiên cơ:
Mị Châu ơi hỡi Mị Châu,
Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha! (Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên
đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Dậu 1945)
Nhớ thuở ban đầu si mê ấy!
Cổ ngữ hằng ghi thậm khổ đa,
Tận diệt nhơn-gian trực tiên khoa.
Lão giả hậu quy nhơn ấu giả,
Ly-kỳ thiên định dĩ thiên-la.
*
Tây-Phương trở gót quá xa đàng,
Thương xót Nam-kỳ lại An-giang.
Đoái thấy xóm làng thêm bắt chán,
Yêu đời mê-muội luống bầm gan.
*
Thiên-Trước tòa sen có chỗ ngồi,
Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi.
Khắp trong Sáu-Tỉnh toàn giả dối,
Xá phướn tăng-sư tạo việc tồi.
Thiên-cơ thế-giới đà biến chuyển,
Từ rày trần-hạ lợi danh trôi.
Tu hành giả dối khuyên khá đổi,
Cúng kiếng trai đàn cũng nên thôi.
{Đức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão 1939.}
Sydney, 3-11-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/
Đức Thầy Bần Sĩ Vô Danh xướng.
Đố người có biết quỷ ma, Nó ở hang hố hay là ở đâu?
Đố người biết TA ở đâu, TA không chỉ chỗ tìm hầu mới hay.
Đố trong người mấy sợi dây? Mà để trói buộc thây gầy gớm ghê!
Có xem câu đố đừng chê, TA đố rẻ rề có mắc gì đâu!
Kỳ Vân Cư Sĩ họa.
Trong đời có lắm quỷ ma, Quỷ ma ở đáy lòng ta gây sầu! Phật Thầy giáng thế chớ đâu,
Tây phương chẳng ở, bể dâu dạn dày. Lục dục thất tình là dây,
Để mà trói buộc tâm gầy gớm ghê! Câu Thầy đố, nào ai chê,
Thầy đố thơ đề Phật pháp chớ đâu! (trích Suy Đời Luận Đạo tr. 38, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1998)