THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNH Tập thể BS Khoa HSCC Lược dịch theo: Non-invasive ventilation in acute respiratory failure British Thoracic Society Standards of Care Committee. Thorax 2002;57:192–211 Thông tin cơ bản • Thông khí không xâm lấn đã cho thấy được hiệu quả điều trị đối với suy hô hấp tăng CO2 cấp tính, đặc biệt là trong bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Thiết bị cho NIV phải được chuẩn bị s ẵn sàng suốt 24 giờ mỗi ngày trong tất cả các bệnh viện có khả năng điều trị các bệnh nhân như vậy. [A] • NIV không được s ử dụng để thay thế cho đặt nội khí quản và thông khí xâm lấn khi việc đặt nội khí quản và thông khí xâm lấn thích hợp hơn. [B] Định nghĩa suy hô hấp Suy hô hấp được định nghĩa là sự suy giảm khả năng duy trì sự trao đổi khí đầy đủ và được đặc trưng bởi các bất thường của áp lực khí máu động mạch. Suy hô hấp type 1 được xác định bởi PaO2 <8 kPa, PaCO2 bình thường hoặc thấp. Suy hô hấp type 2 được xác định bởi PaO2 <8 kPa và PaCO2 > 6 kPa. Suy hô hấp có thể là cấp tính, cấp tính trên nền mãn tính hoặc mãn tính. Mặc dù không phải luôn phân biệt rõ ràng, sự phân loại này là rất quan trọng trong việc quy ết định các khu vực điều trị bệnh nhân và chon lựa chiến lược điều trị thích hợp nhất, đặc biệt là trong suy hô hấp type 2: • Suy hô hấp tăng CO2 cấp tính: bệnh nhân sẽ không có, hoặc ít bằng chứng của bệnh đường hô hấp tồn tại từ trước và áp lực khí máu động mạch sẽ cho thấy PaCO2 cao, pH thấp và bicarbonat bình thường. • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng chứng về bệnh đường hô hấp mãn tính, PaCO2 cao, pH bình thường, bicarbonate cao. Suy hô hấp tăng CO 2 huy ết cấp tính trên nền mãn tính: một sự suy giảm cấp tính ở một bệnh nhân có suy hô hấp tăng CO2 huyết tồn tại từ trước đáng kể , PaCO2 cao, pH thấp, bicarbonat cao.
21
Embed
THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG
SUY HÔ HẤP CẤP TÍNH
Tập thể BS Khoa HSCC
Lược dịch theo: Non-invasive ventilation in acute respiratory failure British Thoracic Society Standards of Care Committee. Thorax 2002;57:192–211
Thông tin cơ bản
• Thông khí không xâm lấn đã cho thấy được hiệu quả điều trị đối với suy hô hấp
tăng CO2 cấp tính, đặc biệt là trong bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Thiết bị cho
NIV phải được chuẩn bị sẵn sàng suốt 24 giờ mỗi ngày trong tất cả các bệnh viện
có khả năng điều trị các bệnh nhân như vậy. [A]
• NIV không được sử dụng để thay thế cho đặt nội khí quản và thông khí xâm lấn
khi việc đặt nội khí quản và thông khí xâm lấn thích hợp hơn. [B]
Định nghĩa suy hô hấp
Suy hô hấp được định nghĩa là sự suy giảm khả năng duy trì sự trao đổi khí đầy đủ
và được đặc trưng bởi các bất thường của áp lực khí máu động mạch. Suy hô hấp
type 1 được xác định bởi PaO2 <8 kPa, PaCO2 bình thường hoặc thấp. Suy hô hấp
type 2 được xác định bởi PaO2 <8 kPa và PaCO2 > 6 kPa. Suy hô hấp có thể là cấp
tính, cấp tính trên nền mãn tính hoặc mãn tính. Mặc dù không phải luôn phân biệt
rõ ràng, sự phân loại này là rất quan trọng trong việc quyết định các khu vực điều trị
bệnh nhân và chon lựa chiến lược điều trị thích hợp nhất, đặc biệt là trong suy hô
hấp type 2:
• Suy hô hấp tăng CO2 cấp tính: bệnh nhân sẽ không có, hoặc ít bằng chứng của
bệnh đường hô hấp tồn tại từ trước và áp lực khí máu động mạch sẽ cho thấy
PaCO2 cao, pH thấp và bicarbonat bình thường.
• Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng chứng về bệnh đường hô hấp mãn tính,
PaCO2 cao, pH bình thường, bicarbonate cao.
Suy hô hấp tăng CO2 huyết cấp tính trên nền mãn tính: một sự suy giảm cấp tính
ở một bệnh nhân có suy hô hấp tăng CO2 huyết tồn tại từ trước đáng kể , PaCO2
cao, pH thấp, bicarbonat cao.
Kiến thức về khí máu động mạch là điều cần thiết trước khi quyết định việc chỉ định
NIV. Bệnh nhân đầu tiên nên được xác định chế độ trị liệu oxy thích hợp và giải
thích về khí máu động mạch trên sự hiểu biết về FiO2. Một tỷ lệ bệnh nhân đáp
ứng tiêu chí khí máu động mạch cho NIV (xem bên dưới) ở thời điểm nhập viện
cho phép cải thiện nhanh chóng bằng điều trị nội khoa với FiO2 thích hợp.
Cần thiết đo lại khí máu động mạch để xem NIV vẫn còn cần thiết. Việc đo khí máu
động mạch nên được xem xét trên tất cả bệnh nhân có khó thở nghiêm trọng đủ để
phải nhập viện. Trong những nhóm bệnh nhân nhất định-ví dụ, bệnh nhân hen
không có các cơn hen trầm trọng – sự bão hòa oxy có thể được sử dụng như một sự
sàng lọc ban đầu, đến phân tích khí máu động mạch ở những người có SpO2 <92%.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là phương pháp đo oxy đơn độc có thể mang
đến đáp ứng giả ở những bệnh nhân thở oxy trong đó sự oxy hóa đượcduy trì tốt
trên bề mặt đối với chứng tăng CO2 huyết trầm trọng.
Cũng cần được đánh giá rằng có một phân nhóm những bệnh nhân bị suy hô hấp
cấp tính trên nền mãn tính có tăng CO2 huyết, có một vài triệu chứng mặc dù ít khí
bị rối loạn áp lực khí máu động mạch. Trên một số bệnh nhân, đặc biệt là những
bệnh nhân có biến dạng lồng ngực hay bệnh thần kinh cơ, khó thở không thể là một
triệu chứng nổi bật bởi vì gắng sức bị hạn chế bởi các yếu tố khác, cần có một
ngưỡng thấp để thực hiện đo khí máu động mạch. Suy hô hấp thỉnh thoảng có thể
gặp trong các trường hợp như lú lẫn, mê sảng, hoặc sa sút trí tuệ, và khí máu động
mạch máu luôn luôn được xem xét ở những bệnh nhân này.
Các tác dụng có lợi của NIV chủ yếu được thể hiện ở bệnh nhân có nhiễm toan hô
hấp(pH <7,35 (H +> 45 nmol / l)).
Kiến thức về áp lực khí máu động mạch thì quan trọng đối với những ứng dụng của
nó. Áp lực khí máu động mạch nên được đánh giá ở hầu hết bệnh nhân mắc chứng
khó thở cấp tính. [B]
• Áp lực khí máu động mạch được cải thiện nhanh chóng trên nhiều bệnh nhân suy
hô hấp cấp tính có tăng CO2 huyết khi họ đã nhận được sự chăm sóc y tế tối đa và
bổ sung oxy phù hợp. Một mẫu lặp lại thường được thực hiện sau một khoảng thời
gian ngắn để xem là NIV vẫn còn cần thiết. [B]
• Nên có một ngưỡng thấp để đo áp lực khí máu động mạch ở những bệnh nhân
bệnh thần kinh cơ, lồng ngực biến dạng, béo phì, hoặc tình trạng lú lẫn có thể gặp
trong suy hô hấp cấp mà không có khó thở đáng kể. [B]
Bảng 1
TÓM TẮT CÁC KHUYẾN CÁO
GIỚI THIỆU
- NIV cho thấy hiệu quả điều trị đối với SHH cấp tăng CO2 , đặc biệt
bệnh phổi tắc nghẽn mãn (COPD). Thuận tiện là NIV phải có sẵn 24 giờ,
cho tất cả các bn có bệnh như trên (A).
- NIV không được dùng thay thế cho nội khí quản và thông khí xâm
lấn khi mà nội khí quản và thông khí xâm lấn rõ ràng thích hợp hơn (B).
- Hiệu quả có lợi của NIV phần lớn được chứng minh ở bn toan hô
hấp (pH < 7.35, H+ > 45mmol/L). Vì vậy hiểu biết về khí máu động mạch
(KMĐM) quyết định cho việc áp dụng NIV. KMĐM nên được đo trong hầu
hết các bn khó thở cấp (B).
- KMĐM cải thiện nhanh ở nhiều bn suy hô hấp tăng CO2 khi họ được
điều trị nội khoa tích cực và cung cấp oxy thích hợp. Thử lại KMĐM thường
được thực hiện sau khoảng thời gian ngắn nếu NIV vẫn còn được chỉ định
(B).
MÁY THỞ:
- Nhiều loại máy thở có NIV khác nhau đã được sử dụng thành công
trong SHH tăng CO2. Nếu có thể một kiểu thở máy duy nhất nên được dùng
ở mỗi khu lâm sàng để việc huấn luyện dễ dàng và tạo sự hiểu biết về trang
thiết bị cho nhân viên (D).
- Máy thở hỗ trợ áp lực 2 mức độ sử dụng đơn giản hơn, rẻ tiền hơn
và linh hoạt hơn các loại máy thở khác hiện có. Nó được sử dụng chủ yếu
trong các thử nghiệm NIV ngẫu nhiên có kiểm soát(C).
- Các máy thở kiểm soát thể tích nên có sẵn trong các đơn vị để cho
NIV cấp (C).
GIAO DIỆN:
- Chọn lọc các kích thước khác nhau của mask mũi, mask mặt và
đệm mũi cho NIV.
- Cả mask mặt và mũi đã sử dụng thành công NIV cho SHH có tăng
CO2. trong case cấp tính, mask mặt nên sử dụng ban đầu, thay mask mũi
sau 24 giờ khi bn cải thiện.
CHỈ ĐỊNH:
NIV có thể đảm nhận như là một thử nghiệm điều trị. Quan niệm đặt
nội khí quản nếu NIV thất bại(D).
NIV nên được xem xét ở bn đợt cấp COPD có toan hô hấp (pH <
7.35, H+ > 45mmol/L) tồn tại mặc dù điều trị nội khoa tích cực và liệu pháp
oxy được kiểm soát (A).
Áp lực đường thở dương liên tục (CPAP) cho thấy hiệu quả ở bn phù
phổi cấp do tim. Vẫn còn giảm oxy mô mặc dù điều trị nội khoa tích cực.
NIV nên được dành riêng cho bn mà CPAP không thành công (B).
NIV được chỉ định cho SHH có tăng CO2 đợt cấp trên nền mãn do dị
dạng thành ngực hoặc bệnh thần kinh cơ.
Cả CPAP và NIV được sử dụng thành công ở bn ngưng thở khi ngủ
do tắc nghẽn mất bù. Mặc dù không so sánh trực tiếp NIV (trong kiểu thở hỗ
trợ áp lực 2 mức) nên được dùng cho bn này nếu có toan hô hấp (C).
CPAP nên được áp dụng cho bn chấn thương thành ngực vẫn giảm
oxy mô mặc dù gây tê tại chổ thích hợp và oxy lưu lượng cao (C). NIV
không được dùng thường qui (D).
Quan sát nguy cơ tràn khí màng phổi, các bn chấn thượng thành
ngực được điều trị CPAP hoặc NIV nên được theo dõi tại ICU.
Nhiều bn viêm phổi cấp hoặc giảm oxy huyết đề kháng với oxy lưu
lượng cao sẽ cần đặt nội khí quản. Trong tình huống này, thử dùng CPAP
hoặc NIV tại HDU hoặc ICU.
CPAP cải thiện sự oxy hóa cho bn viêm phổi lan tỏa mà vẫn giảm oxy
mô mặc dù điều trị nội khoa tích cực. NIV có thể sử dung thay thế cho nội
khí quản nếu bn trở nên tăng CO2 (C). Trong tình huống này, bn nên được
chọn đặt nội khí quản nếu NIV thất bại tại ICU (D).
NIV không nên dùng thường xuyên trong hen cấp tính (C).
Thử dùng NIV ở bn toan hô hấp (pH < 7.35, H+ > 45mmol/L) thứ phát
sau đợt cấp dãn phế quản nhưng tăng tiết quá mức có thể giới hạn hiệu quả
và không nên dùng thường qui trong dãn phế quản (C).
NIV được sử dụng trong nhiều bệnh lý khác (như hội chứng nguy cập
hô hấp cấp, SHH sau phẫu thuật và sau cấy ghép) làm giảm tỉ lệ đặt nội khí
quản, lưu tại ICU và tỉ lệ tử vong. Trong tình huống này, bn nên xem xét đặt
nội khí quản nếu NIV thất bại tại ICU (D).
NIV được sử dụng thành công cai máy bn thông khí xâm lấn và nên
được sử dụng khi chiến lược cai máy theo qui ước thất bại (B).
CHỐNG CHỈ ĐỊNH:
- NIV không được sử dụng cho bệnh nhân sau phẫu thuật mặt hoặc
đường hô hấp trên gần đây, biểu hiện các bất thường ở mặt như bỏng hoặc
chấn thương, tắc nghẽn đường hô hấp trên có sẵn hoặc bn đang nôn ói (D).
- Chống chỉ định NIV gồm phẫu thuật đường hô hấp trên, không có
khả năng bảo vệ đường thở, tăng tiết đường hô hấp như giảm oxy huyết
nặng đe dọa tính mạng, lú lẫn hoặc tắc ruột. NIV có thể được sử dụng trong
các chống chỉ định này với điều kiện là kế hoạch đặt nội khí quản được thực
hiện hoặc nếu quyết định được thực hiện không dẫn đến thông khí xâm lấn.
- Mặc dù NIV được sử dụng thành công trong tràn khí màng phổi,
trong hầu hết các bn tràn khí màng phổi nên dẫn lưu ở liên sườn trước khi
bắt đầu NIV.
THEO DÕI:
- Đánh giá lâm sàng bn bao gồm đánh giá sự khó chịu, mức độ ý
thức, cử động của thành ngực, sử dụng cơ hô hấp phụ, gắng sức hô hấp
với máy thở, tần số thở và nhịp thở. Bn NIV nên được quan sát thường
xuyên để đánh giá đáp ứng của điều trị và tối ưu việc cài đặt máy thở (D).
- Cần phân tích khí máu động mạch để kiểm soát tiến triển lâm sàng
của bn, nên được đo trong hầu hết bn sau 1 - 2 giờ NIV và sau 4 - 6 giờ nên
lấy mẫu sớm hơn cho thấy cải thiện ít. Nếu không cải thiện PaCO2 và pH
sau khoảng thời gian này mặc dù cài đặt máy thở tối ưu. NIV nên ngưng và
thông khí xâm lấn được xem xét (B).
- Độ bão hòa oxy nên được theo dõi liên tục ít nhất 24 giờ sau khi bắt
đầu NIV và oxy cung cấp được sử dụng để duy trì độ bão hòa giữa 85 -
90% (C).
- Gián đoạn NIV nên được thực hiện lúc uống thuốc, vật lý trị liệu, bữa
ăn. Bn cho thấy lợi ích của NIV trong vài giờ đầu nên được thông khí càng
nhiều càng tốt trong 24 giờ đầu hoặc không cải thiện (B).
- Tất cả bn AHRE được điều trị NIV nên được đo dung tích phổi và
phân tích khí máu động mạchtrong khi thở không khí trước khi xuất viện (C).
- Tất cả bn tổn thương tủy sống, bệnh thần kinh cơ, dị dạng thành
ngực, béo phì, bệnh lý biểu hiện AHRE nên được tham khảo đánh giá tại
trung tâm cung cấp thông khí dài hạn - tại nhà (C).
BỐ TRÍ DỊCH VỤ NIV KHẨN CẤP:
- Bố trí khu NIV khẩn cấp.
- Một BS cố vấn có kinh nghiệm sẽ huấn luyện và có trách nhiệm toàn
bộ về NIV. Thường là BS hô hấp cố vấn.
- NIV có thể được bố trí ở một số nơi gần ICU, HDU hoặc khu hô hấp.
Tuy nhiên, mỗi bn nên được bố trí ở khu vực đặc biệt với đội ngũ nhân viên
có kinh nghiệm dày dặn, cùng với việc bố trí để đảm bảo bn cần NIV được
chuyển vào khu vực này một cách nhanh chóng (C)
* Các phương thức thông khí không xâm lấn: Thông khí có kiểm soát, Thông khí
hỗ trợ / Kiểm soát, Thông khí hỗ trợ áp lực, Áp lực đường thở dương liên tục, Hỗ
trợ hai mức áp lực dương, Thông khí hỗ trợ cân đối
* Thở máy không xâm lấn: Thở máy hỗ trợ / kiểm soát thể tích, Thở máy hỗ trợ /
kiểm soát áp lực, Thở hỗ trợ áp lực.
. Nhiều kiểu thông khí khác nhau đã được sử dụng thành công NIV trong suy hô
hấp cấp; sự thành thạo ở mỗi nơi sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn kiểu thông
khí.Nếu có thể, một kiểu thông khí duy nhất nên được dùng trong mọi khu vực lâm
sàngđể dễ dàng cho việc huấn luyện nhân viên và làm quen với các thiết bị(D).
. Thông khí hỗ trợ hai mức áp lực dương đơn giản, dễ sử dụng, rẻ hơn và linh hoạt
hơn các kiểu thông khí khác. Được khuyến cáo khi cài đặt NIV trong cấp cứu (C).
. Thở máy kiểm soát thể tích nên có sẵn trong các đơn vị cấp cứu tổng hợp (C).-
Trigger:
* Trigger là tiêu chuẩn để quyết định sự thành công của NIV trong cả hai phương
thức thở hỗ trợ áp lực và hỗ trợ / kiểm soát. Nó bao gồm cả việc cảm nhận gắng sức
kỳ hít vào cũng như xác định cuối kỳ thở vào. Thông khí hỗ trợ / kiểm soát, hỗ trợ
kỳ thở vào được xác định tại một thời điểm, ví dụ như áp lực 20 cm H2O trong 1.2
giây. Độ nhạy và sự đáp ứng thông khí thường tốt với NIV, mặc dù một số máy thở
kiểm tra cho thấy trigger thấp và hỗ trợ lại kỳ thở vào nhỏ.
* Oxy:
Hầu hết các máy thở yêu cầu oxy cung cấp xung quanh hay vào ngay mặt nạ. FiO2
khoảng 35% có thể được chấp nhận, lưu lượng oxy phụ thuộc vào lưu lượng khí từ
máy để đạt áp lực cài đặt và đỉnh của chu kỳ.
* Dụng cụ làm ẩm:
Không cần thiết trong NIV.
* Báo động: Cài đặt báo động áp lực, lưu lượng, thể tích.
* Những chỉ dẫn nhỏ cho máy thở NIV.
Có sự lựa chọn máy thở cho chế độ NIV. Trong suy hô hấp cấp, một số BN có
COPD. Hầu hết nghiên cứu cho rằng COPD sử dụng NIV khi áp lực thở vào được
kiểm soát và thở hai mức áp lực được ưu tiên cho nhóm BN này.
Phương thức hỗ trợ/ kiểm soát thì cần thiết cho một số BN cĩ những bệnh khc m cần
hỗ trợ hơ hấp ít được thiết lập chế độ NIV. Điều này cần cung cấp 2 thiết bị khác
nhau hay kết hợp trong một máy.
* Mặt nạ:
Cả mặt nạ mũi và toàn cả mặt được dùng hiệu quả để thở NIV trong suy hô hấp cấp.
Trong cấp cứu, mặt nạ cả mặt nên sử dụng đầu tiên, sau 24 giờ chuyển sang mặt nạ
mũi khi tình trạng BN diễn tiến tốt hơn.
Chỉ định thở máy không xâm lấn:
Có 3 mức độ để sử dụng NIV:
+ Như là một điều trị an toàn để hỗ trợ thông khí cho bệnh nhân ở giai đoạn sớm mà
việc đặt NKQ còn được xem xét.
+ Như một thử nghiệm đặt NKQ nếu NIV thất bại.
+ Một phương pháp điều trị ở những BN chưa có chỉ định đặt NKQ.
Một quyết định đặt NKQ sớm nếu NIV thất bại ở mỗi BN được xem xét bệnh lý và
đánh giá mức độ ban đầu. Sự đồng ý của người bệnh và thân nhân cũng cần được
quan tâm. Quyết định này cần được kiểm tra bởi người có kinh nghiệm và ICU
trong giai đoạn sớm.
NIV có thể được thực hiện như thử nghiệm điều trị khi có hướng đặt NKQ nếu
phương pháp này thất bại, hay trong điều trị những BN chưa có chỉ định đặt NKQ.
Quyết định đặt NKQ cần được xem xét trước khi dùng NIV ở mỗi BN. Điều này
được thực hiện bởi người có kinh nghiệm và các ghi nhận trong tài liệu (D).
COPD
NIV
Một số nghiên cứu tiền cứu ngẫu nhiên có đối chứng về NIV ở BN đợt cấp COPD.
Các nghiên cứu cho rằng NIV khả thi và làm giảm tần suất đặt NKQ. Các nghiên
cứu cho thấy giảm tần suất đặt NKQ nhưng không làm giảm tỷ lệ tử vong. Tuy
nhiên các nghiên cứu cho rằng NIV nên được thực hiện thường qui hơn.
CPAP
Không có thử nghiệm kiểm soát ngẩu nhiên nào của CPAP trong điều trị suy hô hấp
trong COPD. Một số trường hợp đã báo cáo những tác dụng có lợi của CPAP, bao
gồm sự gia tăng PaO2 , giảm PaCO2, và giảm nhịp thở. Hai trong số các trường hợp
trên đã báo cáo là mặc dù CPAP nhưng tỷ lệ đặt nội khí quản là 10-30%. Các thử
nghiệm của NIV trong COPD cho thấy CPAP hiện nay có thể không thích hợp
trong điều trị những bệnh nhân COPD. Tuy nhiên, CPAP luôn có sẵn, giá thành rẻ,
và việc sử dụng CPAP tương đối dễ dàng. Có một số bằng chứng cho việc sử dụng
CPAP trong COPD và các thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh CPAP với NIV. Các
nghiên cứu về những lợi ích hoặc rủi ro của EPAP trong NIV cũng cần thiết.
• NIV cần được xem xét ở những bệnh nhân với một đợt cấp tính COPD trong đó
toan hô hấp (pH<7,35, H+ > 45 nmol / l) vẫn tiếp diễn mặc dù được điều trị y tế tối
đa về thở oxy có kiểm soát.
Phù phổi do tim
CPAP
Ba thử nghiệm đã so sánh CPAP với phương pháp điều trị đơn thuần. loại trừ những
bệnh nhân không đáp ứng với lời nói hoặc những người không tự thở. Một số bệnh
nhân tăng CO2 huyết được đưa vào nghiên cứu . Tổng cộng có 180 bệnh nhân
được đưa vào ba nghiên cứu và điểm kết thúc ban đầu là cần thiết phải đặt nội khí
quản và tử vong ở bệnh viện . Hai trong số các nghiên cứu đã áp dụng CPAP với áp
lực cố định 10 H2O cm trong khi ở nghiên cứu thứ ba CPAP chuẩn với áp lực từ 2,5
đến 12,5 cm H2O. Tất cả ba nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện với CPAP độ tin
cậy 95%. Cả ba cho thấy sự giảm tỉ lệ đặt nội khí quản trong thở CPAP. Tổng hợp
các dữ liệu cho thấy nhu cầu đặt nội khí quản trong CPAP giảm (rủi ro khác nhau -
26%, 95% CI -13 đến -38) và có xu hướng giảm tỷ lệ tử vong tại bệnh viện (nguy
cơ khác biệt -6,6%, 95% CI 3 đến -16).
NIV
Một số báo cáo đã mô tả việc sử dụng NIV trong phù phổi. Tỷ lệ tử vong trong
trường hợp này dao động từ 0% đến 22% và tỷ lệ đặt nội khí quản từ 0% đến 44%.
Hai thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát gần đây đã cho kết quả trái ngược nhau.
Masip et ,cs cho thấy NIV trong phù phổi cấp do tim có sự cải thiện lâm sàng
nhanh hơn so với các liệu pháp oxy, tỉ lệ đặt nội khí quản giảm xuống, nhưng
không khác biệt trong tỷ lệ tử vong, trong khi Sharon và cộng sự tìm ra một kết quả
tệ hơn so với tiêm truyền tĩnh mạch nitrat.
CPAP so với NIV
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát ở 27 bệnh nhân đã so sánh CPAP với
NIV. Các nghiên cứu đã sớm chấm dứt do tỷ lệ nhồi máu cơ tim gia tăng ở nhóm
NIV. Các phân tích tạm thời không tìm thấy sự khác biệt trong tỷ lệ tử vong bệnh
viện (Một ca tử vong ở nhóm NIV, hai ca tử vong ở nhóm CPAP) hoặc cần thiết
phải đặt nội khí quản (một trong mỗi nhóm). So sánh hai nhóm trong thử nghiệm
này cho thấy nhiều bệnh nhân đau ngực được đưa vào NIV, gia tăng sự chênh lệch
giữa 2 nhóm, như là một lời giải thích cho số lượng cao nhồi máu cơ tim ở nhóm
được điều trị NIV.
• CPAP đã được chứng minh là có hiệu quả ở bệnh nhân phù phổi do tim có thiếu
oxy mặc dù đã được điều trị tối đa bằng thuốc. NIV nên được dành riêng cho các
bệnh nhân mà CPAP không thành công. [B]
Biến dạng lồng ngực / bệnh thần kinh cơ
NIV đã thành công trong điều trị suy hô hấp mãn tính, NIV nên được coi là lựa
chọn điều trị suy hô hấp bù do biến dạng thành ngực và bệnh thần kinh cơ. Không
có một thử nghiệm ngẫu nhiên nào và rất ít các trường hợp báo cáo của NIV trong
các nhóm bệnh nhân này, và bây giờ dường như không có một thử nghiệm ngẫu
nhiên có kiểm soát được thực hiện. Có bằng chứng hữu hiệu về lợi ích lâu dài với
thông khí tại nhà, với 5 năm tồn tại khoảng 80% . Tuy nhiên việc quyết định sử
dụng NIV phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của suy hô hấp, dù có hoặc không
có liên quan đến hành tủy và các phương pháp điều trị có hiệu quả khác, ví dụ,
trong nhược cơ nặng (myasthenia gravis) và hội chứng Guillain-Barré.
• NIV được chỉ định trong suy hô hấp có tăng CO2 cấp tính hoặc mãn tính do biến