1 LỜI GIỚI THIỆU Nguyễn Hải Hà , thường gọi Hải Hà , sinh ra từ Văn Quán - Quê cha , lớn lên ở Liễn Sơn - Quê mẹ , trưởng thành và định cư tại xã Vân Trục - một miền quê nghèo của Lập Thạch , Vĩnh Phúc. Tuổi thơ của Hải Hà gắn liền với những đồi cọ . Những cây cọ khẳng khiu, dãi dầu mưa nắng: “…Con về tìm lại ngày xưa, Nghiêng đồi cọ đứng, nắng mưa dãi dầu…” (Tình quê) Và người mẹ già yếu , lưng còng , nhưng rất đỗi thương con : “…Bện quang dây , chợ đời bươn trải, Lưng mẹ còng , xiêu vẹo nắng mưa…” (Không thể nào quên) Trên ba mươi năm công tác, kể từ năm 1964: “…Khi cây phượng ở góc trường thắp lửa Cũng là khi tụi lớp mười mỗi đứa một nơi , Đứa lên miền ngược, đứa miền xuôi , Thẳng hướng mặt trời , tôi ra biển…” (Về miền hoa lửa) Hải Hà đi liền một mạch , qua nhiều công việc, không dừng nghỉ: “…Từng đi muôn ngả lúc còn xanh, Nay lá vàng con tìm đường về cội…” (Đường về) Ở môi trường công tác nào , Hải Hà cũng sống hết mình với công việc, với mọi người và làm thơ đều đặn. Là người lính biển “Ăn song , ngủ khơi”- ( Nhắn biển), lăn qua “Đạn xới, bom xiên” - (Thăm bạn) , và: “…Một thời trước bảng đen cong Tay cầm viên phấn viết dòng trắng tinh…” (Một thời) Thơ Hải Hà đằm thắm tình yêu quê hương, dạt dào tình đồng đội. Những bài thơ: “Thăm Núi Sáng”, “Nước mát, dòng thơm hồ
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
LỜI GIỚI THIỆU
Nguyễn Hải Hà , thường gọi Hải Hà , sinh ra từ Văn Quán -
Quê cha , lớn lên ở Liễn Sơn - Quê mẹ , trưởng thành và định cư tại
xã Vân Trục - một miền quê nghèo của Lập Thạch , Vĩnh Phúc.
Tuổi thơ của Hải Hà gắn liền với những đồi cọ . Những cây
cọ khẳng khiu, dãi dầu mưa nắng:
“…Con về tìm lại ngày xưa,
Nghiêng đồi cọ đứng, nắng mưa dãi dầu…”
(Tình quê)
Và người mẹ già yếu , lưng còng , nhưng rất đỗi thương con :
“…Bện quang dây , chợ đời bươn trải,
Lưng mẹ còng , xiêu vẹo nắng mưa…”
(Không thể nào quên)
Trên ba mươi năm công tác, kể từ năm 1964:
“…Khi cây phượng ở góc trường thắp lửa
Cũng là khi tụi lớp mười mỗi đứa một nơi ,
Đứa lên miền ngược, đứa miền xuôi ,
Thẳng hướng mặt trời , tôi ra biển…”
(Về miền hoa lửa)
Hải Hà đi liền một mạch , qua nhiều công việc, không dừng nghỉ:
“…Từng đi muôn ngả lúc còn xanh,
Nay lá vàng con tìm đường về cội…”
(Đường về)
Ở môi trường công tác nào , Hải Hà cũng sống hết mình với
công việc, với mọi người và làm thơ đều đặn.
Là người lính biển “Ăn song , ngủ khơi”- ( Nhắn biển), lăn
qua “Đạn xới, bom xiên” - (Thăm bạn) , và:
“…Một thời trước bảng đen cong
Tay cầm viên phấn viết dòng trắng tinh…”
(Một thời)
Thơ Hải Hà đằm thắm tình yêu quê hương, dạt dào tình đồng
Khi diễn tả tâm trạng của người bố, ở cái tuổi gần “Tứ thập”
mới sinh con đầu lòng, bố muốn làm thơ để tặng con và cũng để tặng
chính mình, nhưng làm sao được thơ “giữa mịt mùng Biển Đông”,
tác giả dùng thơ ngũ ngôn:
“…Từ lúc chưa sinh con
Nỗi khát dâng trong lòng
Nay con vừa tròn tuổi
Thơ bố chưa làm xong…”
(Gởi con gái vần thơ)
Những bài thơ, viết bằng thể thơ lục bát trong “Đường về”
không nhiều, chỉ có: “Chợ quê”, “Tình quê”, “Nhắn biển”, “Hoa
hồng”, Trùng phùng”, nhưng cũng đạt được những thành công nhất
định. Để diễn tả cái nỗi “dùng dằng”, tính đa chiều trong tình cảm
liền anh liền chị trong mùa lễ hội vùng Kinh Bắc , tác giả dùng thể
thơ lục bát - tiếng hát dân ca đầm ấm của mọi miền quê :
“Lao xao sóng vỗ thuyền rồng ,
Quai thao, khăn xếp nức lòng hội chơi ,
Một miền QUAN HỌ “…Người ơi…”,
BẮC NINH “…Người ở…”,…Mây trôi…”,“…Đừng về…”.
(Quan họ Bắc Ninh)
(Bài đạt giải trong cuộc thi thơ: “Đề thơ cho tranh khắc đá”
do Câu lạc bộ thơ Việt Nam tổ chức - 2010).
“ĐƯỜNG VỀ”- Một tâm hồn thơ, một trái tim yêu thương
luôn đồng hành cùng với đôi chân dẻo dai của tác giả trên cung
đường ấy. Xin mở lòng ra trên từng trang viết , trình với bạn đọc xa
gần, mong được bạn đọc đón nhận với tấm lòng độ lượng !
NGƯỜI BIÊN SOẠN
5
Tự cảm
Ra đi muôn ngả lúc còn xanh
Lá vàng thu, con tìm Đường về cội ...
Dù chỉ là chiếc lá nhỏ thôi,
Xin dành dụm để nuôi chồi xanh mới
6
Phi lao
Vút trời cao
Rì rào ca hát Những đêm sao bát ngát
Lặng gió im trời
Phi lao đứng đó
khi thỡ thầm, ngõn nga
Khi biển nổi phong ba
Khi gió gào, bão dập
Phi lao gồng mình
Bẻ gẫy cơn cường nộ.
Phi lao, phi lao
Rắn chắc , thanh tao
Dẻo mềm
Vút trời cao
Phi lao
Xanh ờm …
7
Ra đi muôn ngả lúc còn xanh
Lá vàng thu con tìm đường về cội,
Ơi Sáng Sơn, Chùa Mụ, Hình Nhân
Điểm tựa đời con mãi tới vô cùng.
Đây Phao Tràng, Tiên Định, Song Vân
Mé Phóc Đồng Khuân, duối vàng Cầu Khẩy
Cây trám khòng, hốc sáo chênh vênh
Nâng bước chân con lên thác xuống ghềnh.
Nằm Trường Sơn Đông, nhớ về Đồng Sớm
Tháng ba đất rang, nước tràn tháng bảy
Ăn rau Xắng Lào, nhớ rau lang Đồng Ngọc
Bưng bát canh chua nhớ dọc Dốc Dồn.
Ngủ Trường Sơn Tây, nhớ về Đồng Sọm
Quang dây nhựa vàng, mẹ bện đêm đêm
Quang đi chợ Trò, quang ra chợ Chục
Ăn hạt gắm chồn nhớ bát ngô bung.
Hỡi vầng mây ấm bên núi Thắm
Sinh ra từ đâu, nay cũng về nguồn?
Xin cùng ta về Miền Đá Dựng
Gửi tuổi thơ này mãi tới mênh mông.
8
Quê hương 2009
Trời Xuân
Nắng sớm làm duyên với gió đồng,
Long lanh ngọn cỏ ngắm hừng đông.
Đào phai nụ tím sương còn ngậm,
Liễu thắm cành xanh vạn ánh hồng.
Cần mẫn bầy ong tìm mật ngọt,
Hăng say đàn bướm lượm hương nồng.
Làng quê khói bếp giăng giăng lụa,
Ấm áp trời xuân má ửng hồng.
9
Thăng Long
Định đô triều Lý, dỏng rồng bay,
Kết tụ nghìn năm, vẫn thế bay
Hà Nội bao phen, dày khói lửa,
Thủ đô văn hiến, mãi rồng bay.
10
Xuân đến làng Hồ
Ô kìa! Vân Trục chập chờn mây,
Gió gọi Xuân về buổi sớm nay.
Thảm lúa thoả thuê làn nước chảy,
Đàn cò mờ mải rập rờn bay.
Hồ Vân* lúng liếng chào Tân Mão,
Núi Sáng tưng bừng đón Hổ quay.
Uấn khúc dòng xanh ôm lúa hát,
Dọc ngang mương máng ngập tràn mây.
11
* Hồ Vân Trục
Ước
Nào đã quên đâu tuổi chín mười,
Ơi Người, nay đã Bảy mươi trôi.
Ước gì lùi được vài năm nhỉ,
Vá lại trên đường … những chỗ vơi.
12
Một thoáng sông Cầu
Thấp thoáng quai thao, hộ yếm đào,
Dùng dằng khăn xếp, lựa lời trao.
Trầu têm cánh phượng, môi ai thắm,
Mắt sắc dao cau, lúng liếng chào.
“Bèo dạt…”, Sông Cầu lòng ngóng đợi,
“Mây trôi…” Kinh Bắc dạ xôn xao.
“Người ơi…”, “Đến hẹn…” mùa sau hội,
13
“Cởi yếm…”, “Qua cầu…” – Gió vớt sao…?
Tiễn Đông
Năm cùng tháng tận, rét tan nhanh,
Đào, quất nụ thơm tắm nắng lành.
Chầm chậm mây trôi lời giã bạn,
Xuân về… nhu nhú những chồi xanh.
14
Thanh Long ruột đỏ
và mùa Xuân
(Mừng dự án trồng Thanh Long ruột đỏ được triển khai tại xã
Vân Trục)
Thanh Long ruột đỏ đón xuân sang,
Cảnh vật đổi thay thật ngỡ ngàng.
Mới đấy, vườn vẫn vườn… trống trải,
15
Mà nay, cột gióng cột… vươn hàng.
Mồ hôi thấm ướt nghiêng nghiêng dáng,
Nước xối, sương đầm xéo xéo ngang.
Vất vả hôm nay, mai quả ngọt,
Chung tay, nhúm lửa ấm thôn trang.
Thánh địa Mỹ Sơn có tháp Chàm
Rạng danh đất Quảng sáng trời Nam
Vô Nam, ra Bắc xin hãy nhớ
Dừng ngắm tranh Tiên giữa núi ngàn
16
Chớm Hạ
Chớm Hạ tơ trời tím tím phơi,
Quyên ca, nắng ửng, khúc giao mời.
Thinh không gió lặng, vuông trời mở,
Tịnh xuống mây im, ngọt giọng hời.
Nhạn vút lên cao, nghiêng cánh lượn,
17
Cò là mặt ruộng, dẻo thân bơi.
Hương cau thoáng ngát, bên hè đợi,
Đượm thắm tình quê biếc lộc trời.
Vân Trục 4/2010
Nước mát, Dòng
Thơm
Hồ Vân Trục
Mênh mang, sóng nhú, dạ xôn xao,
Núi đứng, hồ nghiêng, lúng liếng chào.
18
Nước mát xuôi bờ nơi bãi thấp,
Dòng thơm ngược máng chốn đồng cao.
Quanh năm tích thuỷ thơm dòng sữa,
Suốt tháng khơi thanh vị ngọt ngào.
Gió sớm đồng làng chao sóng lúa,
Hừng Đông én liệng vút trời cao.
Quê hương 8/2010
Vân Trục vào Thu
(Mời hoạ vần)
Trời chiều, nắng nhạt, lá lao xao,
Vân Trục vào thu, gió dạt dào.
19
Núi thẳm soi mình - đời náo nức,
Hồ xanh in bóng - dạ xôn xao.
Đàn cũ mỏi cánh tìm về tổ,
Thảm lúa mênh mông, sóng vẫn trào.
Bức hoạ đồng quê ai chấm phá?
Lòng say , nốt nhạc vút lên cao.
Vân Trục
8/2010
Khúc dạo vần (Hoạ thơ Minh Chín)
Có thể tơ duyên hợp lục trần *
Lênh đênh sóng dập giữa đời xuân.
Trời cao có thấu - thân côi cút !
Đất rộng nào hay - phận tảo tần !
20
Thổn thức đêm thanh, lần gối bạn,
Bồn chồn ngày vắng, trở giường thân.
Bâng khuâng mượn tứ lưu hồn bút,
Sở ước tình thơ chớ lạc vần.
* - Trần (dt): Phong trần, bụi - Trần (Đạo phật): Là do các vi bụi (bụi nhỏ bé) chứa nhóm cấu thành. Trong con người có 6 trần ( Lục trần): Săc, Thinh, Hương, Xúc, pháp, Vi trần.