TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Tác giả: PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh LỜI NÓI ĐẦU Tâm lí học giới tính và Giáo dục giới tính là những ngành khoa học mới, đang được tập trung nghiên cứu ở nước ta trong khoảng vài chục năm gần đây. Mắc dù là một lĩnh vực mới nhưng do tầm quan trọng của nó, Tâm lí học giới tính và Giáo dục giới tính đã thu hút được sự quan tâm của xã hội. Hiện nay, các vấn đề giới tính đã được nghiên cứu và giảng dạy ở nhiều trường học, nhiều địa phương. Tuy nhiên, quan niệm về vấn đề này còn nhiều khác biệt giữa các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Đặc biệt, một số khái niệm như giới, giới tính, tính dục, tình dục, giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh sản… cũng chưa phải đã có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Tập sách này bước đầu mạnh dạn xác định cụ thể hơn một số khái niệm, một số vấn đề trong lĩnh vực giới tính. Những vấn đề lí luận, thực tiễn được trình bày theo hướng hệ thống hoá lí luận cơ bản của khoa học giới tính, và mối tương quan giữa chúng với những chuyên ngành khoa học có liên quan.
356
Embed
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHsaomaidata.org/library/90... · Web viewtÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh vÀ giÁo dỤc giỚi tÍnh. tÂm lÝ hỌc giỚi tÍnh
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNHTÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Tác giả: PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh
LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lí học giới tính và Giáo dục giới tính là những ngành khoa học mới,
đang được tập trung nghiên cứu ở nước ta trong khoảng vài chục năm gần
đây. Mắc dù là một lĩnh vực mới nhưng do tầm quan trọng của nó, Tâm lí học
giới tính và Giáo dục giới tính đã thu hút được sự quan tâm của xã hội. Hiện
nay, các vấn đề giới tính đã được nghiên cứu và giảng dạy ở nhiều trường
học, nhiều địa phương. Tuy nhiên, quan niệm về vấn đề này còn nhiều khác
biệt giữa các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Đặc biệt, một số khái niệm như
giới, giới tính, tính dục, tình dục, giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh
sản… cũng chưa phải đã có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu.
Tập sách này bước đầu mạnh dạn xác định cụ thể hơn một số khái
niệm, một số vấn đề trong lĩnh vực giới tính. Những vấn đề lí luận, thực tiễn
được trình bày theo hướng hệ thống hoá lí luận cơ bản của khoa học giới
tính, và mối tương quan giữa chúng với những chuyên ngành khoa học có
liên quan.
Do đặc điểm xã hội, các vấn đề giới tính ở Việt Nam chịu sự chi phối
bởi phong tục tập quán, đạo đức truyền thống của dân tộc. Có một số vấn đề
(tình yêu, tình dục, hôn nhân…) được hiểu, đánh giá không thống nhất với
quan điểm ở một số nước khác. Những vấn đề đó được chúng tôi trình bày
chủ yếu dựa trên những quan điểm đạo đức truyền thống của Việt Nam. Tuy
nhiên, về cơ bản, các khái niệm và lí luận vẫn đảm bảo tính khoa học, tuân
theo những quy định của Liên Hợp quốc và những hội nghị quốc tế liên quan
đã xác định.
Do tính phức tạp của các vấn đề, chắc chắn rằng, tập sách này còn
nhiều hạn chế. Chúng tôi rất mong được sự quan tâm, góp ý của bạn đọc và
các nhà chuyên môn để sách được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ
Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH
I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI1. Một số hiện tượng của đời sống giới tính
Trong đời sống tâm sinh lí của con người, ngoài những hiện tượng
thuộc về nhận thức, tình cảm, ý chí… còn có nhiều hiện tượng khác như sự
hình thành và phát triển sinh lí cơ thể, hiện tượng thụ thai, kinh nguyệt, sự
dậy thì và những biểu hiện đặc trưng của chúng, tình yêu, hôn nhân, đời sống
gia đình… Những hiện tượng này vừa liên quan mật thiết với tâm lí, lại vừa
mang những sắc thái riêng của người nam và của người nữ. Nhiều hiện
tượng chỉ có ở nam hoặc ở nữ, nhưng lại tạo nên sự liên hệ giữa nữ nam và
người nữ.
– Chúng ta có thể thấy một số hiện tướng điển hình như:
+ Sự sinh trưởng và phát triển về sinh lí cơ thể ở người nam và người
nữ.
+ Sự dậy thì và những biểu hiện đặc trưng của nó ở nam và ở nữ (sự
phát triển khác nhau về hình thể, kinh nguyệt, sự mộng tinh và hiện tượng thủ
dâm…).
+ Đời sống tình dục.
+ Những hiện tượng bệnh lí liên quan đến đời sống tình dục, trong đổ
có những bệnh như: bạo dâm, thị dâm, loạn trang, ái nhi…
+ Một số hiện tượng đặc biệt: ái nam ái nữ, pê đê hay đồng tính luyến
ái…
+ Các phẩm chất tâm lí giới tính, đạo đức giới tính, thấm mĩ giới tính.
+ Sự giao tiếp, cư xử giữa nam và nữ.
+ Những hiện tượng trong tình bạn khác giới; tình yêu nam nữ.
+ Những hiện tượng trong đời sống hôn nhân và gia đình.
– Những hiện tượng trên được gọi là những hiện tượng của đời sống
giới tính của con người.
2. Bản chất tâm lí của các hiện tượng giới tính
Các hiện tượng của đời sống giới tính có mối quan hệ với đời sống tâm
lí con người ở những mức độ khác nhau:
– Có mối quan hệ mật thiết hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm lí con
người, hay ngược lại, chịu sự chi phối, tác động của tâm lí con người.
– Có sự tham gia của tâm lí con người như là một thành phần, một bộ
phận.
Biểu hiện đời sống tâm lí con người.
Như vậy các hiện tượng của đời sống giới tính gắn bó mật thiết với đời
sống tâm lí con người. Nhiều khi chúng là một bộ phận, hoặc chính là các
hiện tượng tâm lí con người. Khi nghiên cứu về các hiện tượng của đời sống
giới tính cần phải nghiên cứu dưới góc độ của tâm lí con người. Việc tách
chúng với tâm lí con người sẽ là sự phiến diện, không đầy đủ, hoặc là đơn
giản hoá... sẽ không phản ánh được đúng bản chất của hiện tượng đổ.
Những hiện tượng của đời sống giới tính có bản chất là tâm lí con người hoặc
quan hệ mật thiết với tâm lí con người và đo đó chúng mang tính xã hội, lịch
sử như tâm lí con người.
3. Giới tính và nhân cách con người
Các hiện tượng của.đời sống giới tính có quan hệ mật thiết với nhân
cách con người.
– Các hiện tượng của đời sống giới tính có thể ảnh hưởng mạnh mẽ
đến những đặc điểm nhân cách, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách.
– Nhiều hiện tượng của đời sống giới tính, đồng thời cũng là những đặc
điểm nhân cách, đặc điểm cá tính, đặc điểm khí chất.
– Nhiều đặc điểm giới tính hoà nhập vào nhân cách con người, làm cho
nhân cách con người mang những sắc thái riêng.
– Khi nghiên cứu về giới tính cần phải xem xét chúng trong mối quan
hệ với nhân cách con người, ngược lại khi tiến hiểu và đánh giá nhân cách,
luôn luôn phải chú ý tới những hiện tượng về đời sống giới tính.
– Nhiều hiện tượng của đời sống giới tính ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự
hình thành, phát triển, suy đồi, sa ngã… của nhân cách.
Như vậy giới tính có mối quan hệ mật thiết với nhân cách, là một thành
phân của nhân cách, hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát
triển của nhân cách.
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNHNgay từ thời Cổ đại, giới tính đã được quan tâm tìm hiểu, tuy rằng rất
thô sơ và mang màu sắc cảm tính, mê tín. Từ thời kì xa xưa của văn minh
loài người, giới tính đã được đề cập đến bằng một hệ thống thần thoại cổ đại
và các khảo luận về tình yêu nhu kinh “Kama Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật
yêu” của Ovidius, “Chuỗi ngọc của người yêu” của Hazma, “Phaedr” và “Bữa
tiệc” của Platon… Trong đó các tác giả “không những đặt cơ sở các chuẩn
mực về đạo đức và tôn giáo cho tình yêu, mà còn cố gắng cung cấp những
kiến thức về sinh học và tâm lý học tình dục”.
Các thầy thuốc thời cổ đại như Hipocrates cũng hết sức chú ý tới
những vấn đề có liên quan đến chức năng tái tạo giống nòi và những rối loạn
của chức năng đó, đặc biệt là đời sống tình dục của con người.
Khi nhân loại bước vào thời kì “đêm trường trung cổ”, tôn giáo và nhà
nước phong kiến đã lợi dụng sự ngu tối thất học của nhân dân, khẳng định sự
không bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội và trong gia đình, cũng như
trong lĩnh vực quan hệ tình dục. Họ đã gieo rắc những quan niệm cho rằng
quan hệ nam nữ có tính chất tội lỗi nhằm tuyên truyền chủ nghĩa cấm dục, và
khép sự ham muốn tính dục vào loại đê tiện, tượng trưng cho một diều xấu xa
mà quỷ xa-tăng đã áp đặt cho loài người. Nhưng thực ra, việc tìm hiểu các
vấn đề về tính dục vẫn được quan tâm, được tiến hành, chỉ để phục vụ cho
sự ăn chơi sa đoạ của các tầng lớp vua quan phong kiến.
Công tác nghiên cứu khách quan các vấn đề về giới tính, tính dục chỉ
thật sự được tiến hành ở thời kì Phục hưng, khi bộ môn Giải phẫu và Sinh
học bắt đầu phát triển. Trong thời kì này, những khía cạnh của tính dục, nhất
là xét về phương diện đạo đức và giáo dục, được người ta nghiên cứu tới.
Vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, các đề tài nghiên cứu về giới tính
được mở rộng hơn… Cho đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các nhà khoa
học J. Bachocen (Thuy sĩ), J. Mặc Len nan (Anh), E. Westennach (Phần Lan),
Ch. Letoumeau và A. Espinas (Pháp), Lewis Herưy Morgan (M), X.M.
Kovalevxki (Nga)… không những đã gắn sự phát triển quan hệ tính đục với
các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với yếu tố khác của chế độ xã
hội và văn hoá.
Đặc biệt, F. Enggels đã đưa ra một quan điểm mới về phương pháp
phân tích các dạng liên kết những mối quan hệ tính dục với quan hệ kinh tế
và quan hệ xã hội. Trong cuốn “Nguồn gốc của gia đình, của quyền tư hữu là
của Nhà nước”, F. Enggels đã phân tích một cách có phê phán “các công
trình nghiên cứu về giới tính và đời sống gia đình theo những nguồn thư tịch
về thời cổ đại, qua những huyền thoại lịch sử và tôn giáo, qua những hiểu biết
về tập tục và truyền thống của các bộ lạc, dân tộc. Ông đã bổ sung thêm
nhiều dẫn liệu mới và đã ra những kiến thức rất xác thực và khác quát hoá
thành một hệ thống nhất quán”.
Cuối thế kỉ XIX, nhiều nhà khoa học: R. Kraft Ebing (Ao), M. Hirschfeld
và A.. Môn (Đức), H. Ellis (Anh), A. Forel (Thuy Sĩ… đã bắt đầu tiến hành
công tác nghiên cứu khách quan về tính đục của con người. Họ đã miêu tả
hàng loạt dạng bất thường trong tâm lí tính dục và tán thành việc xúc tiến
công tác giáo dục tính dục một cách khoa học.
Đầu thế kỉ XX, xuất hiện một số quan điểm sinh học về vấn đề giới tính,
và trong chừng mực nào đó, lại có sự tham gia thêm của các quan điểm tâm lí
học. Giai đoạn này chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuyết Sigmund Freud. S.
Freud đã tập trung chú ý vào mối quan hệ giữa các vấn đề tâm lí nhân cách
với các dạng tình dục khác nhau. Ông cho rằng, bất kì dạng tình dục bất
thuờng nào cũng đều là sự định hình những giai đoạn phát triển nhất định của
tâm lí tính dục của con người. Tuy nhiên ông quá đề cao yếu tố sinh học; yếu
tố tính dục trong đời sống con người.
Trong những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu tính dục phát
triển mạnh và gắn với phong trào gọi là “Phấn đấu vì những cải cách tính
dục”, đòi hỏi bình đẳng nam nữ, giải phóng hôn nhân khỏi quyền lực nhà thờ,
tự do li hôn và sử dụng các biện pháp phòng tránh thai, giáo dục tính dục trên
cơ sở khoa học… Tuy nhiên, những lí luận trong thời kì này còn nặng tính tư
biện, tách rời khỏi cơ sở xã hội và thực tiễn.
Năm 1926, T.Van de Velde (Hà Lan), đã cho ra đời cuốn “Hôn nhân
hiện đại”, cuốn sách khoa học hiện đại đầu tiên về sinh lí học và kĩ thuật trong
hôn nhân, trong đó người phụ nữ được coi là người bạn đời có vai trò và
chức năng tính đục tương đương với người chồng.
Các công trình nghiên cứu tiến hành tại những nước khác nhau đế
chứng minh rằng, việc định hướng tâm lí tính dục và hành vi của con người
phụ thuộc vào những đặc điểm về văn hoá và vai trò, địa vị xã hội của họ.
Năm 1921, tại Mĩ một Ủy ban liên ngành được thành lập để nghiên cứu
các vấn đề tình dục. Uỷ ban này đã hỗ trợ cho H. Kingsey cùng các cộng sự
của ông nghiên cứu một cách khá toàn diện và khoa học trên quy mông về
các định hướng tâm lí tính dục và hành vi của con người. “Bản phúc trình của
Kingsey” đã được biên soạn dựa trên những liệu phong phú của trên 10 ngàn
cuộc điều tra khoa học khoá nhau, đã được nhiều người biết đến.
Nối tiếp công trình của H. Kingsey là công tính của W. Masters và V
Johnson, vào năm 1954. Các tác giả này đã tập trung vào việc phát hiện các
chuẩn mực trong tính dục. Công trình này đã được công bố năm 1966 (sau
11 năm nghiên cứu), đã cung cấp những tham số sinh lí dáng tin cậy về đời
sống tính dục của con người.
Ở Nga, những công trình nghiên cứu từ năm 1903 đến 1904 của D.N.
Zabanov và V.I. Iakovenko mang tên “Cuộc điều tra tính dục” đã được tiến
hành trong sự cấm đoán của Nga Hoàng. Trên 6000 bản điều tra được phát
ra, nhưng đa số bị cảnh sát tịch thu, chỉ còn 324 bản và công trình nghiên cứu
được công bố năm 1922.
Nhiều nhà bác học lớn đã nghiên cứu các khía cạnh của đời sống tính
dục, góp phần xây dựng tính dục học thành một bộ phận khoa học độc lập
theo một quan điểm chủ đạo có hệ thống, trong đó liên kết nhiều phương
pháp và thủ pháp sinh lí, lâm sàng và tâm lí xã hội. Các vấn đề về giới tính đã
thu hút sự nghiên cứu của nhiều chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
như: sinh học, y học, xã hội học, tâm lí học…
Nhiều nhà lãnh đạo hoạt động xã hội, hoạt động chính trị nổi tiếng của
Liên Xô (V.I. Lê nin, Marxim Gorki, Maiacovxki, Secnưsevxki; đặc biệt là A.X.
Makarenko và V.A. Sukhomlinxki) đưa ra nhiều quan điểm khoa học về đời
sống giới tính, tình yêu hôn nhân gia đình… đã quan tâm đến việc giáo dục
giới tính cho con người và coi đó là một nội dung quan trọng cần phải giáo
dục cho học sinh.
Ngay từ những năm 20 của thế là XX, V.I. Lê nin đã nói: “Cùng với việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hôn nhân gia đình
cũng được coi là cấp bách”.
Các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học về y học giáo dục học,
tâm lí học, sinh lí học đã cố gắng xây dựng nền móng vững chắc cho nền
khoa học giới tính và giáo dục giới tính theo quan điểm Mác–xít. Họ đã đưa ra
nhiều phương hướng quan trọng trong việc giáo dục giới tính của Liên Xô.
A.X. Makarenko viết: “Đạo đức xã hội đặt ra những vấn đề về giáo dục giới
tính cho thanh thiếu niên. Sinh hoạt giới tính của con người liên quan mật
thiết với việc giáo dục về tình yêu, về đời sống gia đình tức là mối quan hệ gia
nam và nữ, mối quan hệ dẫn tới mục đích hạnh phúc của con người và việc
giáo dục con cái. Khi giáo dục một con người không thể quên giáo dục loại
tình cảm đặc biệt đó về giới tính”. Ông đã đưa ra nhiều ý kiến rất cụ thể về nội
dung phương pháp giáo dục giới tính. Ông nói: “Các nhà giáo dục học Xô viết
coi giáo dục giới tính và giáo dục về đời sống gia đình là một nội dung của
giáo dục đạo đức chuẩn bị cho con người bước vào đời sống gia đình”.
I.X. Kon khẳng định: “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc
sống gia đình đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo dục
giới tính” và “dù xác định mối tương quan giữa giáo dục giới tính là giáo
dưỡng giới tính như thế nào đi chăng nữa, thì cả hai thứ đều phải tuân theo
các mục đích chung của giáo dục”.
A.X. Makarenko cho rằng, thanh niên cần “phải học tập cách yêu
đương, phải học tập để hiểu biết tình yêu, phải học tập cách sống hạnh phúc,
và như thế có nghĩa là học tập để biết tự trọng, học tập để biết các vinh hạnh
được làm người”. Trong các bài giảng về giới tính, ông cho rằng: “Chúng ta
phải giáo dục con em chúng ta làm sao để các em có thái độ đối với tình yêu
như đối với một tình cảm nghiêm túc và sâu nặng, để các em sẽ được hưởng
khoái cảm của mình, tình yêu của mình, hạnh phúc của mình trong khuôn khổ
gia đình”.
Sukhomlinxki đã khuyên nhủ thanh niên: “Hãy sáng suốt và yêu cầu
cao trong tình yêu. Tình yêu là một loại tình cảm mãnh liệt, nhưng lí trí phải
điều khiển trái tim”. “Nữ tính chân chính là sự kết hợp tính dịu dàng và tính
nghiêm khắc, sự âu yếm với tính cứng rắn. Tình yêu và sự nhẹ dạ không đi
cùng nhau. Tình yêu có thể chính đáng về mặt đạo đức, khi những người yêu
nhau được kết hôn trong tình bạn vững bền”.
Ông cũng nhấn mạnh rằng: '“Yêu là thời kì khởi đầu của việc làm cha
làm mẹ. Yêu có nghĩa là cảm thấy một trách nhiệm lớn lao đối với người
khác, với người mình yêu và với người mình sẽ tạo ra”. “Trong cuộc đời có
một hạnh phúc lớn và một công việc lớn, đó là tình yêu. Tình yêu trai gái, vợ
chồng là một lĩnh vực thuộc chủ quyền đặc biệt về đạo đức”.
Từ năm 1968, hầu hết các địa phương của Liên Xô bắt đầu chú ý tổ
chức việc hướng dẫn và tổ chức giáo dục điều trị, hướng dẫn các vấn đề về
giới tính, nhất là đời sống tình dục và quan hệ hôn nhân. Việc nghiên cứu và
điều trị những bệnh về tính dục đã được tiến hành. Tầm quan trọng của việc
“cần phải phát triển và hoàn thiện nội dung phương pháp giáo dục giới tính
phù hợp với đạo lý” đã được thừa nhận tại kì họp liên tịch giữa Viện hàn lâm
khoa học y học và Viện hàn lâm khoa học giáo dục Liên Xô 1971, và tại cuộc
“Hội thảo quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa về kế hoạch hoá gia đình,
giáo dục giới tính, về vợ chồng và gia định tại Varsava” năm 1977.
Gần đây nhiều công trình lớn có tính khoa học về giới tính đã được
nghiên cứu hoặc đưa từ nước ngoài vết góp phần quan trọng vào việc giáo
dục giới tính thọ thanh niên, như các công lênh nghiên cứu của A.V.
Petrovxki, I.X. Kim, G.I. Gheraximovic, D.V. Kolexev, ru.I. Kusnứuk, V.A.
Serbakov… với nhiều tác phẩm rất có giá trị: Bách khoa toàn thư Y học phổ
thông; Trò chuyện về giáo dục giới tính của Tiến sĩ y học D.V. Kolexev; Vệ
sinh tinh thần trong sinh hoạt tình dục của Tiến sĩ y học. I. Mielinxki… Ngay từ
những năm 70, việc giáo dục giới tính cho học sinh đã được đề xuất, giảng
dạy ở một số nơi. Năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã ra chỉ thị cho tất
cả các trường học trong cả nước thực hiện chương trình giáo dục vệ sinh và
giáo dục giới tính cho học sinh các trường phổ thông. Một chương trình giáo
dục giới tính được biên soạn rất tỉ mỉ và cụ thể cho học sinh từ cấp 1 đến cấp
3 (trung học phổ thông). Đặc biệt, trong chương trình giáo dục từ năm học
1983 – 1984 có thêm một môn học cho học sinh lớp 9 và lớp 10 (tương
đương lớp 11, 12 của nước ta) gọi tên là “Đạo đức học và tâm lí học đời sống
gia đình” với 34 tiết chính khoá.
Ở Đức hiện nay, có rất nhiều các nhà khoa học nổi tiếng với những
công trình nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính như: R. Neubert,
Aresin, Smolka, Hopman và Klemm, Linser, Polte, Dierl, Grassel… Một cuốn
bách khoa toàn thư về giới tính được biên soạn để giảng dạy và giáo dục giới
tính cho học sinh.
Ngay từ năm 1959 nhiều tài liệu về giáo dục giới tính đã được biên
soạn công phu, như công trình của R. Neubert: Sách nói về quan hệ vợ
chồng, của Z. Snabl: Điều khó nói trong tình yêu… Vấn đề giáo dục giới tính
được tiến hành rộng rãi từ những năm 60, đặc biệt từ những năm 70 của thế
kỉ XX trở đi. Các nhà khoa học Đức quan niệm rằng: “Những hiểu biết khoa
học về vấn đề giáo dục giới tính cần được trang bị ngay cho cả các cô mẫu
giáo, vườn trẻ ở đó cũng cần phải nói dền sự giáo dục về môn quan hệ đúng
đắn gì những người khác giới”. Từ năm 1974, một chương trình giáo dục giới
tính đã được xây dựng rất tỉ mỉ cụ thể, dạy cho học sinh phổ thông từ lớp 8,
với 15 chủ đề khác nhau và trên 20 sinh tham khảo được quy định.
Nhiều nước như: Tiệp Khắc, Hungary. Ba Lan… đều đã tiến hành giáo
dục giới tính cho học sinh phổ thông bằng những thương trình bắt buộc. Các
nước phương Tây như: Anh. Đan Mạch, Thuỷ Điển, Mi… đã tiến hành giáo
dục cho học sinh khá sớm (1966). Ở Pháp, thương tình giáo dục nội dung này
được thực hiện từ năm 1973. Đặc biệt là một số nước châu Á, châu Phi, Mĩ
Latin cũng đưa giáo dục giới tính vào trường phổ thông và đã đạt kết quả tốt.
Trung Quốc đã tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh từ năm 1974 và hiện
nay là một trong những nước có nhiều công trình nghiên cứu, có sự phát triển
cao trong nghiên cứu khoa học về giới tính.
Ngay các nước Đông Nam Á như: Thailand, Malaysia, Indonesia,
Singapore, Phihppines… cũng đã thực hiện nội dung giáo dục này. Ở
Philippines, giáo dục giới tính đã được đưa vào chương trình nội khoá của
trường phổ thông cơ sở và trường trung học phổ thông, và là một bộ phận
của giáo dục dân số và kế hoạch hoá gia đình. Nội dung giáo dục giới tính đã
được lồng ghép một cách hợp lí vào nhiều bộ môn văn hoá khác, chủ yếu là
môn kế hoạch hoá gia đình qua các giờ chính khoá và qua các hoạt động
ngoại khoá, theo mức độ khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau. Ở nước này,
việc nghiên cứu các tỉnh thức tổ chức dạy học, những phương pháp và
những phương tiện dạy học về giới tính rất được quan tâm và cuốn hút học
sinh, làm cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao. Việc giáo dục nội dung này
cũng đã được mở rộng ra ngoài nhà trường, đến các tầng lớp nhân dân khác
nhau qua rất nhiều hình thức giáo dục phong phú, qua các trung tâm tư vấn
và đã được xã hội ủng hộ.
Ở Việt Nam ta, trong thời gian gần đây, cùng với giáo dục dân số giáo
dục giới tính đã bắt dầu được quan tâm rộng rãi.
Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Phạm Văn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên giùm xây dựng
chương trình chính khoá và ngoại khoá nhằm bồi dương cho học sinh những
kiến thúc về khoa học giới tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái”. Bộ
Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về việc giáo dục dân số và giáo dục giới tính trong
toàn bộ hệ thống trường học các cấp và các ngành học của cả nước.
Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính,
về tình yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng
đe doạ “bùng nổ”, con cái ngơ ngác, sợ sệt… những cuộc cãi vã xô xát đã trở
nên phổ biến và mang tính quyết liệt, không khí gia đình căng thẳng, lạnh
lùng, xa lạ…
Ý muốn li dị thường xuất hiện nhưng có khi chưa thành sự thật vì một
lí do nào đó: con cái, gia tài, danh dự cá nhân, vợ chồng chấp nhận hi sinh vì
tương lai của con cái và gia đình… Ngoại tình có khi công khai, trắng trợn.
– Cuộc sống vợ chồng chỉ là những ngày tháng chịu đựng căng thẳng,
sự giáo dục, cảm hoá có thể vẫn còn hiệu quả nhưng rất thấp rất khó xây
dựng lại hạnh phúc như xưa.
e) Thời kì đau khổ – tan vỡ
Là thời kì tồi tệ nhất của cuộc sống vợ chồng: quan hệ vợ chồng rất
căng thẳng hai người giận nhau đến mức thù hận. Họ rất khó chịu khi ở bên
nhau, thường nhìn nhau bằng cặp mắt soi mói và ác ý Những kỉ niệm đẹp
xưa kia trở thành mỉa mai. Những yếu tố ràng buộc (danh dự, con cái bây giờ
không đủ hiệu lực, sự li dị là điều không thể tránh khỏi và là sự giải thoát cho
hai người. Cũng có thể hai người không li dị, nếu họ tính toán rằng việc li dị
có lợi cho “đối phương”.
“Xung đột gia đình” lúc này mang tính chất quyết liệt “cạn tình”, “cạn
nghĩa”, có thể rất căng thẳng, không còn một chút xót thương hoặc cũng có
thể theo dạng đặc biệt: lạnh lùng, thù hận, tuy không có trận chiến bùng nổ
nhưng “không khí nặng nề”, xa lạ.
f) Một vài lưu ý:
Trên đây là 5 thời kì có thể diễn ra trong sự biến đổi của cuộc sống vợ
chồng. Sự xác định các thời kì như trên chỉ là tương đối, vì thực chất không
có giới hạn phân định rõ rệt. Đây chỉ là một trình tự có thể có đối với một cặp
vợ chồng, nếu cặp vợ chồng này không quan tâm gì đến nhau, không chú ý
tìm hiểu nhau để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình…
Như vậy không phải mọi gia đình đều phải trải qua cả 5 thời kì. Những
gia đình hạnh phúc, hai vợ chồng yêu thương nhau đến trọn đời gia đình vẫn
ở thời kì 2. Trái lại, có những gia đình dù 5, 7 tháng sau khi cưới đã chuyển
sang thời kì “chịu đựng” hoặc “thời kì đau khổ tan vỡ”.
Sự li dị cũng không phải chỉ xảy ra ở thời kì 4 hay 5. Có những trường
hợp li dị đáng tiếc xảy ra ở thời kì 2 hoặc 3, do một hoặc hai bên có sự sốc
nổi, sự đam mê quá sức, hay do một thủ đoạn đáng sợ nào đó của người
ngoài. Vì thế, sau khi li dị, tình nghĩa vẫn còn, để đôi lúc trong mỗi người vẫn
trào dâng niềm hối hận, tiếc nuối…
– Sự ngoại tình cũng không nhất thiết sẽ xảy ra ở thời kì 3, 4 hay 5. Có
khả tuy không ngoại tình, gia đình vẫn không có hạnh phúc.
– Ở những cặp vợ chồng biến động phức tạp, sự biến đổi từ thời kì này
có thể không tuân theo một tự nhất định. Có thể từ thời kì 3 (có khi từ thời kì
4), quay trở lại thời kì 2 (hoặc 1), rồi lại biến động chập chờn như cũ. Tuy
nhiên, khi đã sang tới thời kì 4, nhất là thời kì 5, khó có thể quay lại thời kì 2.
Nguyên nhân của sự biến động phức tạp này, có thể có nhiều nhưng có
một nguyên nhân đáng chú ý: “sự đột biến” trong tình yêu vợ chồng. Có khi
sống chung với nhau lâu, quan hệ giữa hai vợ chồng đang “bình thường”,
nhạt nhẽo bỗng nhiên họ phát hiện được ở nhau “một cái gì đó” rất hấp dẫn,
đặc biệt, hoặc họ hiểu sâu sắc, tìm thấy cái tốt đẹp của nhau… do đó họ yêu
nhau thắm thiết hơn (có khi từ thời kì 3 quay trở lại thời kì 1, hoặc 2).
Vì thế, nếu hai vợ chồng quan tâm đến nhau, có ý chung sống, có đạo
đức tốt, nhất là biết cảm hoá giáo dục nhau, hi sinh vì nhau… có thể xây dựng
lại cuộc sống vợ chồng hạnh phúc.
Muốn gia đình hạnh phúc lâu dài (chú ở thời kì 2 cho đến già), cả hai
vợ chồng đều phải quan tâm lo lắng đến việc xây dựng hạnh phúc. Cuộc sống
vợ chồng cần đạt những điều kiện nhất định.
6. Điều kiện chủ yếu để tạo nên cuộc sống vợ chồng hạnh phúc lâu dài
a) Phải có động cơ hôn nhân đúng đắn: Hai người kết hôn phải tự
nguyện yêu nhau thắm thiết, có sự hiểu biết nhau cần thiết (cá tính, hoàn
cảnh gia định…) có sự cân nhắc, suy nghĩ chín chắn.
b) Hai người cần có những phẩm chất đạo đức nhất định, có trách
nhiệm, có văn hoá.
c) Nên kết hôn đúng độ tuổi đó là nam từ 25, 26 trở lên, nữ từ 21, 22
trở lên,
Có nghề nghiệp ổn định, chân chính,
Có sự chuẩn bị chu đáo cho hôn nhân tìm hiểu nhau kỹ chuẩn bị tốt cho
lễ cưới, cho cuộc sống chung lâu dài… Có ý muốn sống chung với nhau.
d) Kết hôn đúng lúc khi thời điểm đã “chín muồi”
e) Có ý thức ngăn chặn những nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia
đình, luôn cảnh giác, cảm hoá, giáo dục nhau kịp thời. Cần chú ý rằng, cuộc
sống vợ chồng là quá trình tìm hiểu liên tục, cảm hoá giáo dục nhau liên tục.
Đó cũng là quá trình chấp nhận, hi sinh vì nhau và tự giáo dục, tự cải tạo
mình cho phù hợp.
f) Hai người cùng nắm được những tri thức cần thiết về cuộc sống, hôn
nhân gia đình, nhất là phương hướng, biện pháp cụ thể để xây dựng cuộc
sống vợ chồng tươi trẻ, hạnh phúc.
7. Vấn đề giáo dục cuộc sống gia đình cho thanh niên ngày nay
Hiện nay, vấn đề giáo dục về cuộc sống gia đình cho thanh niên, cho
mọi người đang trở thành một vấn đề cần thiết. Việc giáo dục cuộc sống gia
đình chủ yếu bao gồm những nội dung sau đây:
a) Làm cho thanh niên hiểu được bản chất của cuộc sống gia đình
Khái niệm về gia đình và cấu trúc của gia đình, khái niệm về gia đình
hạt nhân và gia đình đa thế hệ, quy mô hợp lí trong sự phát triển gia đình,
những đặc điểm của đời sống gia đình, sự biến động của gia đình, các yếu tố
ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, nguyên nhân làm tan vỡ gia đình… để khi
đó họ có ý thức và phương hướng đúng đắn trong việc xây dựng gia đình
hạnh phúc.
b) Làm cho thanh niên hiểu được nội dung của cuộc sống gia đình và
một loạt những vấn đề phức tạp, đa dạng như:
– Các mối quan hệ trong gia đình, quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ
và con cái…
– Trách nhiệm, vai trò của mỗi thành viên trong gia đình đối với nhau và
đối với xã hội.
– Việc tìm hiểu lẫn nhau, cảm hoá, giáo dục lẫn nhau, tự cải biến mình
để tạo nên sự hoà hợp trong cuộc sống chung.
Cư xử với nhau, với mọi người, từ đó xây dựng những mối quan hệ
tốt đẹp trong gia đình và với xã hội.
– Vấn đề sinh hoạt vợ chồng.
– Vấn đề tổ chức gia đình, xây dựng nề nếp cuộc sống gia đình.
– Đảm bảo đời sống kinh tế gia đình.
– Sinh con, nuôi con, dạy con.
– Vấn đề phát triển nhân cảm của mỗi thành viên (đạo đức, tài năng, sự
nghiệp…).
Chức năng xã hội của gia đình.
– Xây dựng và phát triển gia đình theo hướng nâng cao chất lượng
cuộc sống và gia đình văn hoá mới.
– Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc gia đình.
c) Giáo dục cho thanh niên có ý thức trách nhiệm đối với gia đình, đối
với vợ (hoặc chồng), đối với con cái, đối với xã hội. Đặc biệt cần hiểu được
luật hôn nhân gia đình.
d) Giáo dục những tri thức và kĩ năng xây dựng gia đình hạnh phúc,
đặc biệt là cách thức xây dựng gia đình hạnh phúc.
VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚCViệc xây dựng gia đình hạnh phúc có ý nghĩa rất lớn đối với xã hội. Gia
đình là một đơn vị xã hội. Gia đình hạnh phúc và phát triển sẽ làm xã hội giàu
mạnh và phát triển. Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển còn là
ước mơ và nguyện vọng của tất cả mọi người. Tuy nhiên, xây dựng gia đình
hạnh phúc và phát triển lại là một việc rất khó khăn. Trong thực tế đã có nhiều
gia đình chưa hạnh phúc.
Để có thể xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển, cần hiểu rõ về
bản chất của gia đình, quy luật của đời sống gia đình để từ đó xác định được
những phương hướng đúng đắn xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển.
1. Gia đình là một đơn vị xã hội chứa đựng nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp
a) Gia đình là kết quả và là sự phát triển của hôn nhân:
Mỗi gia đình đều có nhiều mối quan hệ tâm lí, xã hội như: vợ chồng,
cha mẹ con cái, họ hàng, bà con lối xóm, luật pháp, xã hội, đời sống, sinh
hoạt… Những mối quan hệ này chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố: đặc điểm
tâm lí của mỗi thành viên, tình yêu, sự hoà hợp, thời gian chung sống, tuổi
tác, kinh tế, xã hội, đạo đức, năng lực, sức khoẻ của mỗi thành viên.
Trong các mối quan hệ của gia đình, quan hệ vợ chồng là quan hệ cơ
bản, có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của gia
đình.
Mối quan hệ vợ chồng có một số đặc điểm chính sau đây:
Hai người chung sống với nhau: cùng ăn chung, ở chung, sinh hoạt
chung, cùng gặp gỡ nhau hàng ngày, cùng xây dựng cuộc sống chung… Sự
chung sống này chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi tình yêu sự hoà hợp, bởi cách
cư xử, ý thức trách nhiệm, sự quan tâm đến nhau của mỗi người…
Hai người cùng bị ràng buộc với nhau, có trách nhiệm đối với nhau, và
cùng có trách nhiệm trước xã hội và cùng phải tuân theo luật pháp của xã hội.
Hai người cùng mất đi một phần tự do của mình.
Hai người cùng có nghĩa vụ xây dựng và phát triển gia đình, sinh con,
nuôi dạy con khôn lớn, phát triển gia đình về mọi mặt: kinh tế, văn hoá, xã
hội… nhất là về sự phát triển nhân cách của mỗi thành viên trong gia đình.
Mối quan hệ vợ chồng là niềm vui, là hạnh phúc của cả hai người,
nhưng cũng từ đó có thể nảy sinh ra nhiều vấn đề phức tạp như:
Sự chung đụng lâu dài có thể dẫn đến sự va chạm, sự xung đột (do
khác biệt cá tính, do phát hiện những nhược điểm của nhau), có thể làm nảy
sinh những mâu thuẫn mới trong quá trình sống chung…
– Sự gia tăng dần về tuổi tác làm cho sức khoẻ, độ trẻ trung, sắc đẹp bị
suy giảm dần.
– Do đặc điểm của cuộc sống chung, những rung cảm yêu đương,
thương nhớ cũng dễ giảm sút, có khi nảy sinh những va chạm và xung đột, có
thể dẫn đến hiện tượng “nhàm chán tâm lý, “nhàm chán sinh lí”, “thần tượng
đổ vỡ”…
– Nhiều vấn đề mới xuất hiện trong sự chung sống vợ chồng: việc sinh
nở và những vất vả trong việc nuôi dạy cơn, việc đảm bảo nhu cầu cuộc sống
về mặt vật chất, tinh thần hàng ngày, những mối quan hệ xã hội, họ hàng, bạn
bè… Những vấn đề đó có thể làm tăng áp lực về nhiều mặt đối với cuộc sống
của hai vợ chồng, có thể dẫn tới những xung đột, làm nảy sinh những khó
khăn, phức tạp cho cuộc sống chung.
Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp khác tác động đến
cuộc sống gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.
b) Nhiều yếu tố của xã hội như: pháp luật, đạo đức, khoa học, kĩ
thuật, kinh tế, chính trị… ảnh hưởng mạnh đến gia đình, đòi hỏi mỗi gia đình
phải đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao để phù hợp với sự phát
triển chung của xã hội. Mỗi gia đình phải gắn bó mật thiết với xã hội, chịu sự
chi phối, tác động của xã hội về nhiều mặt và phải thực hiện các nghĩa vụ đối
với xã hội. Vì vậy, mỗi gia đình đều phụ thuộc vào xã hội, phát triển theo sự
phát triển của xã hội. Các mối quan hệ xã hội phức tạp cũng thể hiện ở các
mối quan hệ trong gia đình và làm cho các mối quan hệ trong gia đình cũng
phức tạp theo.
c) Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố của xã hội như: luật pháp, phong tục tập quán, khoa học kỹ thuật, đạo đức xã hội, nếp
sống sinh hoạt, đặc biệt là yếu tố kinh tế và sự cạnh tranh làm cho các giá trị
xã hội có nhiều biến đổi, do đó, các giá trị trong gia đình cũng biến đổi theo
như: vai trò của đồng tiền, các giá trị đạo đức trong gia đình, tính chất của mối
quan hệ cha mẹ và con cái sự cư xử giữa các thành viên… Khoảng cách giữa
cha mẹ và con cái dự bị gia tăng. Vấn đề giáo dục trẻ em trong gia đình ngày
càng phức tạp hơn và khó khăn hơn do ảnh hưởng của yếu tố kinh tế, của
khoa học kĩ thuật và nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp khác.
d) Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, ăn chơi sa đoạ, xì ke ma
tuý… cũng ảnh hưởng mạnh đến gia đình, luôn cám dỗ, quyến rũ các thành
viên trong gia đình, nhất là người chồng và người con trai, làm cho họ dễ sa
ngã, dễ bị tha hoá nhân cách, có khi trở thành kẻ phá hoại hạnh phúc gia
đình, làm cho gia đình khó có thể phát triển tốt đẹp và thuận lợi.
e) Trong thực tế, có nhiều gia đình sống chưa hạnh phúc, tỉ lệ ly
hôn ngày càng cao. Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong gia đình, đặc biệt nạn
bạo hành trong gia đình có chiều hướng gia tăng. Hiện tượng cho hạnh phúc
trong gia đình thường có nhiều biểu hiện, nhiều mức độ khác nhằm tạo nên
nhiều loại gia đình chưa có hạnh phúc như:
Những gia đình đau khổ tan vỡ: Đó là những gia đình mà trong đó
quan hệ vợ chồng căng thẳng, thường xuyên xảy ra xung đột nặng nề, người
này đổ trách nhiệm cho người kia, hành hạ, đánh đập tàn nhẫn người kia…
– Những gia đình hạnh phúc giả tạo: Đó là những gia đình nhìn bề
ngoài có vẻ hạnh phúc: nhà cửa đầy đủ tiện nghi, vợ chồng có địa vị xã hội,
con cái được học hành, đời sống kinh tế đầy đủ… Mọi người tưởng lầm rằng
đó là một gia đình hạnh phúc. Nhưng thực sự bên trong là mối quan hệ căng
thẳng giữa hai vợ chồng, họ chịu đựng lẫn nhau, cố gắng che giấu những bất
hạnh, những bực bội không để người khác biết vì nhiều lí do: bảo vệ danh dự
gia đình, danh dự bản thân, hoặc để không bị ảnh hưởng đến công danh sự
nghiệp, công việc làm ăn hay vì nhiều lí do cá nhân khác. Thực tế cuộc sống
gia đình là cuộc sống căng thẳng, bực bội, là sự chịu đựng lẫn nhau.
– Những gia đình thiếu hạnh phúc: Đó là những gia đình mà vợ chồng
có thể vẫn thương yêu nhau nhưng lại thiếu hạnh phúc vì nhiều lí do như con
cái hư hỏng, học hành dốt nát, bỏ nhà đi bụi đời nhiễm xì ke ma tuý, bệnh
hoạn, ốm đau, vợ chồng không hoà hợp, thường xuyên cãi vã, hoặc kinh tế
gia đình quá khó khăn thiếu thốn…
Một vấn đề cần chú ý là trong những gia đình chưa hạnh phúc trên, nỗi
bất hạnh chủ yếu thường người phụ nữ phải gánh chịu. Nói cách khác, người
gây ra những nỗi bất hạnh đau khổ cho gia đình đa số là người đàn ông,
người chồng, người con trai. Đây là một thực tế cần quan tâm nghiên cứu
một cách đầy đủ hơn.
2. Những đặc điểm của một gia đình hạnh phúc và phát triển
Một gia đình được gọi là hạnh phúc và phát triển thường có những đặc
điểm sau:
– Cuộc sống vợ chồng hoà hợp, tràn đầy yêu thương, các thành viên
trong gia đình quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, biết tôn trọng nhau, cư
xử lễ độ đối với nhau…
– Kinh tế gia đình đầy đủ, đảm bảo cuộc sống thuận lợi cho mỗi thành
viên, đáp ứng được những nhu cầu phù hợp và chính đáng của mỗi thành
viên, làm cho các thành viên có điều kiện phát triển tốt đẹp về nhân cách, tài
năng, công danh, sự nghiệp…
Mỗi một thành viên đều có điều kiện phát triển hài hoà nhân cách của
mình, phát triển về trình độ văn hoá, đạo đức, tài năng… góp phần xứng đáng
xây dựng đất nước, rạng danh cho gia đình. Đặc biệt, con cái được học hành,
được phát triển một cách toàn diện, trở thành những người công dân tốt của
xã hội.
– Gia đình luôn luôn gắn bó với xã hội, hoà nhập với xã hội, thực hiện
tốt luật pháp và nghĩa vụ đối với xã hội, đóng góp tích cực vào việc xây dựng
xã hội phát triển.
Gia đình luôn luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống
vật chất, văn hoá, tinh thần và ngày càng phát triển hơn và đóng góp vào sự
phát triển chung của xã hội.
Những gia đình hạnh phúc và phát triển thường là kết quả của hôn
nhân tự nguyện, được xây dựng trên cơ sở của tình yêu sâu nặng, đằm thắm.
Ngược lại, những cuộc hôn nhân vì tiền tài, địa vị hoặc vì những mưu đồ tính
toán vị kỉ nào đó đều khó có thể trở thành một gia đình hạnh phúc.
Nếu vợ, chồng hoặc các thành viên khác trong gia đình là những người
có đạo đức tốt, có văn hoá, có hiểu biết, có thiện chí đối với nhau, thì việc xây
dựng gia đình hạnh phúc và phát triển càng có nhiều thuận lợi và càng đạt tới
mức độ phát triển cao.
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển là một vấn đề khó khăn,
phức tạp, không phải tự nhiên mà có. Mỗi người phải có kiến thức, có sự hiểu
biết, có trình độ và có ý thức trách nhiệm, có đạo đức tốt, nhất là kiến thức và
hiểu biết cuộc sống gia đình, tập trung và quyết tâm xây dựng cuộc sống gia
đình, mới có thể tạo nên một gia đình hạnh phúc và phát triển.
3. Những phương hướng xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển
Ngày nay việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển càng có nhiều
khó khăn, phức tạp. Cần phải quan tâm tới nhiều vấn đề:
a) Cần phải thay đổi những quan niệm xưa cũ, lạc hậu về gia đình như:
– Quan niệm “chồng chúa vợ tôi” và những quan niệm bất bình đẳng,
quan niệm lạc hậu về cuộc sống gia đình.
– Quan niệm về người phụ nữ như là người lệ thuộc vào chồng, coi
công việc nội trợ gia đình là việc của người đàn bà.
Quan niệm về cuộc sống gia đình tách biệt với cuộc sống xã hội.
– Quan niệm về cuộc sống gia đình là đơn giản, ai cũng biết, coi số
phận của gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của người đàn ông, chủ
gia đình…
b) Để có một gia đình hạnh phúc, cần phải có kiến thức dầy đủ, đúng
đắn về bản chất cuộc sống gia đình, cuộc sống vợ chồng, từ đó biết cách xây
dựng gia đình.
c) Ngăn chặn một cách nghiêm khắc và kịp thời những biểu hiện
xấu trong gia đình như: bạo lực, cư xử tàn nhẫn hoặc vô trách nhiệm đối với
người vợ, hành hạ đánh đập con cái…
d) Nâng cao nhận thức và trang bị cho mọi thành viên của gia đình
những tri thức khoa học về cuộc sống gia đình (khái niệm về gia đình hạt
nhân, về quy mô vừa phải và kế hoạch hoá gia đình, về nghệ thuật xây dựng
gia đình hạnh phúc…). Tăng cường những biện pháp nâng cao chất lượng
cuộc sống gia đình cả về vật chất lẫn tinh thần (nâng cao dần những tiện nghi
phục vụ cho cuộc sống, nâng cao trình độ hưởng thụ các giá trị văn hoá nghệ
thuật, đổi mới về tổ chức cuộc sống gia đình…), phấn đấu xây dựng “Gia đình
văn hoá mới”…
e) Chuẩn bị tốt cho thanh niên nam nữ khi bước vào cuộc sống hôn nhân gia đình
– Làm cho họ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về quan hệ vợ chồng
và cuộc sống gia đình.
Có sự trân trọng và suy nghĩ chín chắn khi quyết định các vấn đề tình
yêu hôn nhân.
– Phải đảm báo được những điều kiện nhất định và cần thiết khi kết
hôn như: đúng độ tuổi, nghề nghiệp ổn định, sự trưởng thành nhân cách, yêu
thương nồng thắm…
Những tiêu chuẩn cần thiết khi lựa chọn bạn đời.
– Biết chủ động chuẩn bị những yếu tố cần thiết cho cuộc sống hôn
nhân…
f) Tăng cường việc giáo dục gia đình cho thanh niên và cho mọi
người, với những nội dung phong phú, đa dạng về đời sống gia đình như:
– Những kiến thức về bản chất cuộc sống gia đình và quan hệ vợ
chồng, chức năng của gia đình, quy mô thích hợp của gia đình hiện nay (số
lượng con và phải), vai trò trách nhiệm người chồng, người vợ, của con cái,
nội dung của đời sống vợ chồng, các yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc gia
đình, các kiến thức về dân số, giáo dục dân số, kế hoạch hoá gia đình…
– Những kiến thức về văn hoá gia đình, về chất lượng cuộc sống gia
đình, về xây dựng cơ sở vật chất cho gia đình, trang trí nhà cửa.
Những kiến thức khoa học về sinh lí cơ thể người, về đời sống tình
dục vợ chồng, về chăm sóc sức khoẻ ban đầu, về cách giữ gìn vẻ đẹp độ trẻ
trung và các kiến thức cơ bản khác về y tế.
– Những kiến thức khoa học về sinh nở, nuôi dạy con…
– Những kiến thức về nghệ thuật xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia
đình, đặc biệt là:
+ Nghệ thuật cư xử và chung sống vợ chồng.
+ Nghệ thuật tổ chức cuộc sống gia đình.
+ Nghệ thuật sinh nở, nuôi con.
+ Nghệ thuật quan hệ với xã hội và bà con lối xóm.
+ Nghệ thuật bảo vệ hạnh phúc gia đình.
VII. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN1. Khái niệm sức khoẻ sinh sản
a) Quan niệm về sức khoẻ sinh sản
Trên thế giới, vấn đề sức khoẻ sinh sản (SKSS) được quan tâm nhiều
từ khoảng thập niên 90 của thế kỉ XX, do yêu cầu của việc giáo dục dân số,
sự phát triển của các khoa học nghiên cứu về giới tính, đặc biệt là do tình
hình phức tạp của đời sống xã hội về các tệ nạn xã hội, về sự bùng nổ dân
số, về sự phát triển của những lối sống không lành mạnh trong thanh thiếu
niên.
Việc nghiên cứu SKSS thường được tiến hành theo các hướng: Nghiên
cứu theo góc độ Dân số học và Giáo dục dân số: Các công trình nghiên cứu
thường đi vào những phương thức điều chỉnh sự phát triển dân số, hoạt động
kế hoạch hoá gia đình, căn cứ để xây dựng các chính sách dân số và Giáo
dục dân số, xây dựng chương trình, nội dung giáo dục dân số, giáo dục giới
tính và đời sống gia đình… Ở nhiều nước, việc nghiên cứu SKSS được gắn
với vấn đề Giáo dục dân số, được coi như là một bộ phận của Giáo dục giới
tính, của chính sách dân số.
+ Nghiên cứu theo góc độ Y học: Nghiên cứu những tri thức khoa học
về các vấn đề của SKSS, những vấn đề kĩ thuật của “kế hoạch hoá gia
đình”…
+ Nghiên cứu việc giáo dục SKSS cho thanh thiếu niên, cho người lớn,
đặc biệt cho trẻ vị thành niên, trẻ ngoài nhà trường.
Việc nghiên cứu trên ngày càng được phát triển hơn sau Hội nghị Quốc
tế về Dân số và Phát triển tại Công, Ai Cập tháng 9/1994 ở Việt Nam, vấn đề
giáo dục sức khoẻ sinh sản được đặc biệt quan tâm trong tình hình hiện nay,
đặc biệt là ở đối tượng thanh thiếu niên. Nhiều công trình nghiên cứu về
SKSS đã được thực hiện và công bố, trong đó, có những cõng anh đã kết
hợp giáo dục dân số, giáo dục giới tính với giáo dục SKSS, kết hợp Dân số
học, Y học, Xã hội học, Tâm lí học, Giáo dục học về các nội dung trên. Năm
2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo đưa các nội dung giáo dục Dân số –
SKSS vào chương đào tạo trong các trường sư phạm.
Trước đây, người ta cho rằng, “sức khoẻ sinh sản” chỉ là những vấn đề
về tình trạng sức khoẻ và khả năng sinh sản của người phụ nữ, về kế hoạch
hoá gia định với việc thực hiện các biện pháp tránh thai và một số vấn đề liên
quan tới việc thụ thai và sinh nở.
Tuy nhiên, ngày nay mọi người đều nhận thấy, nội dung của khái niệm
“sức khoẻ sinh sản” rộng hơn nhiều. Nó còn liên quan đến hoạt động tình dục,
những quan niệm về lối sống, về thái độ và cảm xúc yêu đương trong đời
sống tình dục của cả nam lẫn nữ, những vấn đề bệnh lí về mặt tình dục, hoạt
động của các cơ quan sinh dục, về quá trình thụ thai và mang thai, về tri thức
và nghệ thuật sinh nở, nuôi con để các cặp vợ chồng có những đứa trẻ khoẻ
mạnh và thông minh…
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa: “Sức khoẻ sinh sản là tình
trạng khoẻ mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội, của tất cả những gì liên
quan đến hoạt động và chức năng của bộ máy sinh sản chứ không phải chỉ là
không có bệnh tật hoặc là ốm yếu”.
Như vậy khi nói đến “sức khoẻ sinh sản”, cần phải chú ý đến toàn bộ
những vấn đề về cấu tạo, về chức năng, về tình trạng hoạt động của hệ cơ
quan sinh dục, về nhiều vấn đề tâm sinh lí nảy sinh trong đời sống sinh lí giới
tính và cả một số vấn đề về tâm lí xã hội giới tính, trong đó có đời sống tình
dục và nếp sống sinh hoạt liên quan đến vấn đề tình dục, thái độ và trách
nhiệm của người nam và người nữ trong đời sống giới tính, trong việc thụ
thai, khả năng sinh nở, kế hoạch hoá sinh nở và nuôi con, về mối quan hệ
giới tính giữa hai giới…
b) Những nội dung cơ bản của vấn đề sức khoẻ sinh sản
Từ những quan niệm trên, vấn đề sức khoẻ sinh sản bao gồm nhiều nội
dung phong phú và phức tạp, chủ yếu là:
– Tình trạng sức khoẻ của hệ cơ quan sinh dục nam và nữ, trong đó có
cấu trúc, chức năng hoạt động, khả năng hoạt động của các bộ phận của hệ
cơ quan sinh dục nam nữ, đặc biệt là hoạt động sản sinh các nội tiết tố giới
tính (các hoóc môn sinh dục), hoạt động sản sinh tinh trùng và sự xuất tinh,
hoạt động sinh lí dẫn tới hiện tượng kinh nguyệt, thụ thai, hệ thống sinh sữa…
Sự dậy thì và sự chín muồi giới tính, sự nảy sinh và xuất hiện những
nhu cầu của đời sống tình dục.
Những biểu hiện của đời sống tính dục và những chức năng khác
trong hoạt động của các cơ quan sinh dục như: hiện tượng kinh nguyệt, hiện
tượng mộng tinh, hiện tượng thủ dâm, xuất hiện trứng cá, sự biến đổi hình
thể ở nam và nữ, mọc râu… và những biểu hiện bất thường về các hiện
tượng trên.
– Đời sống tình dục trong đó có sức khoẻ tình dục, niềm hạnh phúc
trong đời sống yêu đương và cuộc sống vợ chồng, hoạt động tư vấn và chăm
sóc SKSS, phòng tránh các bệnh lây lan quan đường tình dục, xây dựng lối
sống lành mạnh, đề phòng và chống lại lối sống ăn chơi, trụy lạc, trác táng,
mại dâm, quan hệ tình dục bừa bãi và không an toàn.
– Sự thụ thai và vấn đề phòng tránh, chữa trị hiện tướng vô sinh, sự
phát triển của thai nhi, việc thăm sóc người mẹ khi mang thai, sự sinh con,
cho con bú, việc nuôi con và những kiến thức về nghệ thuật sinh nở, nuôi con
khoẻ mạnh thông minh, cao lớn…
– Vấn đề kế hoạch hoá gia đình, các biện pháp tránh thai, nạo phá thai
và hậu quả nguy hiểm của việc nạo phá thai, nhất là nạo phá thai ở lứa tuổi vị
thành niên.
Những kiến thức về bệnh lí liên quan đến đường tình dục như: sự
hiểu biết và phòng tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục, các bệnh viêm
nhiễm đường tình dục, các bệnh tâm thần tình dục…
– Ý thức trình nhiệm trong quan hệ yêu đương, quan hệ tình dục.
– Ý thức tôn trọng phụ nữ, tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ, nhận
thức được sự khó khăn của người phụ nữ trong đời sống sức khoẻ sinh sản,
trong đời sống xã hội; biết cách lo lắng, thăm sóc và bảo vệ cho sức khoẻ
sinh sản của người phụ nữ, thăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, chống bạo
lực tình dục, chống bạo hành trong gia đình.
Như vậy, nội dung của SKSS bao gồm nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực:
sức khoẻ của cơ thể và hệ cơ quan sinh đục, quan hệ tình dục an toàn và
hạnh phúc, các biện pháp tránh thai và kế hoạch hoá gia đình, kiến thức và
cảm phòng chống các bệnh lây lan qua đường tình dục, vấn đề nạo phá thai
và hậu quả, vấn đề tình yêu và hôn nhân gia đình…
Sức khoẻ sinh sản là bộ phận ăn trọng và điển hình của đời sống giới
tính, gắn bó ít thiết với những yếu tố khác của đời sống giới tính.
c) Tầm quan trọng của vấn đề sức khoẻ sinh sản
Sức khoẻ sinh sản là một bộ phận quan trọng của đời sống giới tính, có
ý nghĩa lớn đối với toàn bộ các biểu hiện khác của đời sống giới tính của con
người. Nó thể hiện rõ khả năng hoạt động của hệ cơ quan sinh dục và qua đó
khắc hoạ rõ nét, đặc trưng của đời sống giới tính.
Sức khoẻ sinh sản liên quan đến bản năng tình dục và những chức
năng quan trọng nhất của đời sống sinh lí cơ thể.
Sức khoẻ sinh sản ảnh hường mạnh đến sức khoẻ, đến sự phát triển
sinh lí cơ thể, đến đời sống tâm lí, và qua đó ảnh hưởng mạnh đến sự phát
triển toàn bộ của nhân cách con người.
d) Giáo dục sức khoẻ sinh sản
Giáo dục sức khoẻ sinh sản là hoạt động giáo dục trang bị cho con
người tri thức và những kĩ năng giữ gìn, bảo đảm cho sức khoẻ sinh sản ở
tình trạng tốt, giúp cho con người có sức khoẻ, có đời sống tình dục an toàn,
yêu đương lành mạnh, gia đình hạnh phúc, có tri thức đầy đủ về sức khoẻ
sinh sản, bảo đảm được sự sinh nở bình thường, nuôi con khoẻ mạnh, thông
minh và phát triển.
Giáo dục SKSS phải gắn liền với giáo dục dân số. Đó là hai vấn đề có
mối quan hệ rất đặc biệt, rất mật thiết. Giáo dục SKSS là một bộ phận của
giáo dục giới tính, có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục giới tính.
Việc giáo dục sức khoẻ sinh sản phải được tiến hành toàn diện và rộng
rãi trong toàn xã hội cho mọi đối tượng, đặc biệt là đối với trẻ vị thành niên.
Giáo dục sức khoẻ sinh sản phải được tiến hành ở nhiều hình thức
giáo dục phong phú và đa dạng, có thể thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, bằng các
phương tiện thông tin đại chúng (phát thanh, quyền hình, quảng cáo tuyên
truyền, các hình thúc hoạt động văn hoá nghệ thật…), đặc biệt là giáo dục
trực tiếp cho thanh niên, học sinh, trẻ vị thành niên trong nhà trường qua các
giờ chính khoá, ngoại khoá và các hoạt động vui chơi, giải trí.
Có thể xác định nội dung chương trình giáo dục SKSS bao gồm những
vấn đề cơ bản sau:
1. Cấu tạo và chức năng của hệ cơ quan sinh dục nam nữ.
2. Một số hiện tượng đặc biệt điển hình trong đời sống sinh lí tính dục.
3. Bản chất của hoạt động tình dục và biểu hiện của đời sống tình dục
ở thanh thiếu niên.
4. Các bệnh lây lan qua đường tình dục và cách phòng tránh.
5. Sự thụ thai và sự phát triển của thai nhi.
6. Các biện pháp tránh thai.
7. Kế hoạch hoá gia đình.
8. Vấn đề nạo phá thai ở tuổi vị thành niên và hậu quả.
9. Giới tính và vấn đề SKSS.
10. Tình yêu nam nữ.
11. Hôn nhân và đời sống gia đình.
12. Quan hệ vợ chồng và sự bình đẳng nam nữ.
13. Vấn đề chống bạo hành trong gia đình và sự xâm phạm tình dục trẻ
em.
14. Việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em.
15. Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển.
Trên đây là những nội dung cơ bản của chương trình nội dung giáo dục
SKSS. Tuỳ theo đặc điểm đối tượng (địa phương, trình độ, lứa tuổi, cấp học,
thanh thiếu niên ngoài nhà trường, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt…), sẽ xây
dựng chương trình giáo dục thích hợp riêng.
Để giáo dục sức khoẻ sinh sản có hiệu quả, cần phải có chương trình,
nội dung cụ thể, phù hợp cho từng đối tượng.
2. Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
a) Ý nghĩa của việc giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
Tuổi vị thành niên là một giai đoạn đặc biệt của đời sống con người.
Đây là giai đoạn dậy thì, chín muồi giới tính, những chức năng sinh sản của
hệ cơ quan sinh dục bắt đầu hoạt động và ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển
cơ thể và nhân cách. Đây cũng là lứa tuổi có nhiều biến động mạnh về tâm
sinh lí, bắt đầu có những biểu hiện quan trọng và điển hình của đời sống tính
dục, đã xuất hiện những rung cảm yêu đương, bắt đầu hình thành tình yêu…
đồng thời có những biến đổi đặc biệt về mặt tâm lí, nhất là những biểu hiện
tâm lí giới tính, tính xúc động mạnh của thời kì dậy thì, sự biến động mạnh và
thất thường trong đời sống tâm lí, thậm chí cớ sự khủng hoảng tâm lí trong
mối quan hệ với người lớn, với bạn bè khác giới…
Ở lứa tuổi này, các em quan tâm nhiều đến những vấn đề về tình dục,
vệ sinh nở, về kinh nguyệt, về tình yêu… nhưng lại rất ít hiểu biết về những
vấn đề này.
Các em dễ bị kích thích bởi những rung cảm về tình dục và những biểu
hiện sớm của đời sống tính dục (bắt đầu có kinh nguyệt, bắt đầu có hiện
tượng mộng tinh, có nhu cầu thủ dâm…), ngoài ra còn có nhiều những biến
đổi khác về tâm sinh lí. Những yếu tố trên ảnh hưởng mạnh đến lối sống, nếp
sinh hoạt, quan hệ xã hội và sự phát triển nhân cách. Đặc biệt, các em dự bị
lôi cuốn và bị sa ngã bởi văn hoá phẩm đồi trụy, bởi những nếp sinh hoạt
không lành mạnh, ăn chơi nghiện hút, ma tuý và thuốc lắc, dễ bị xâm hại tình
dục… Do đó, vấn đề giáo dục sức khoẻ sinh sản cho lứa tuổi vị thành niên có
ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
b) Một số vấn đề cần chú ý trong việc giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên cần chú ý đến những vấn đề
sau đây:
– Giáo dục những tri thức về sự dậy thì, về việc giữ gìn vệ sinh cho hệ
cơ quan sinh sản, đặc biệt là tri thức về cấu trúc và chức năng hoạt động của
hệ cơ quan sinh dục, hiện tượng kinh nguyệt, hiện tượng mộng tinh và di tinh,
hiện tượng thủ dâm, sự phát triển bất bình thường của hệ cơ quan sinh dục
(nam hoặc nữ), các bệnh lí liên quan đến cơ quan sinh dục…
– Giáo dục về hoạt động tình dục, tác hại của hoạt động tình dục sớm,
những bệnh lí tình dục, bệnh tâm thần tình dục, hiện tượng đồng tính luyến ái,
những dấu hiệu của hiện tượng lạm dụng tình dục và của các hành vi cưỡng
dâm.
Giáo dục kế hoạch hoá gia đình, trang bị các tri thức khoa học về các
biện pháp tránh thai, giúp cho các em nhận thức được hậu quả nguy hiểm
của việc có thai sớm, việc nạo phá thai…
– Giáo dục về nếp sống lành mạnh, văn hoá, văn minh. Giáo dục cho
các em thấy sự nguy hiểm của việc ăn chơi đua đòi, đọc các sách báo văn
hoá phẩm đồi trụy, tác hại của ma tuý, thuốc lắc, bia rượu… và những lối
sống ăn chơi sa đoạ khác.
– Giáo dục về tình bạn khác giới, về tình yêu trong sáng, về sự tôn
trọng đối với người khác giới, đặc biệt là tôn trọng phụ nữ. Giáo dục thái độ
tôn trọng và bảo vệ các bạn nữ, sự trân trọng đối với tình bạn khác giới, tình
yêu nam nữ… Giáo dục về đời sống gia đình, về quan hệ giữa con cái với
cha mẹ và ý thức trách nhiệm đối với việc xây dựng gia đình hạnh phúc và
phát triển.
Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
I. VỀ KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH1. Giáo dục giới tính
Giáo dục giới tính là một lĩnh vực phức tạp. Có nhiều quan niệm, nhiều
ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Có những ý kiến cho rằng chỉ nên tiến hành giáo dục giới tính khi các
em vào thời kì chín muồi giới tính. Nhưng A.V. Petrovxki đã khẳng định “Quan
niệm đó không động bởi vì một loạt vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính
phải được giải quyết ngay từ thời kì thơ ấu”.
Một số ý kiến nhầm lẫn giáo dục giới tính với giáo dục tính dục, hoặc
giáo dục tình dục, giáo dục tình yêu. Thực ra tính dục chỉ là một bộ phận của
giới tính. Sự thu hẹp phạm vi của giáo dục giới tính như vậy sẽ có thể đưa
đến tác dụng phản diện hoặc hạn chế hiệu quả của giáo dục giới tính.
Có một số người cho rằng, không nên giáo dục giới tính, vì như thế là
làm hoen ố tâm hồn thanh cao của các em, là thiếu tế nhị, không phù hợp với
môi trường sư phạm, là “vẽ đường cho hươu chạy”.
IU. I. Kusniruk và A.P. Serbakov đã nhận xét về quan niệm đó: “Trước
đây trong một thời gian dài có một số ý kiến cực kỳ sai lầm, cho rằng con
người có khả năng tự định hướng một cách tự nhiên và hầu như tự động
trước những van đề thuộc quan hệ thầm kín giữa nam và nữ; rằng việc thảo
luận rộng rãi và toàn diện đề tài này, việc tuyên truyền những kiến thức, dù
trên cơ sở khoa học chăng nữa, cũng đều là thiếu đạo đức, dung tục và có
khả năng đưa đến những quan tâm không lành mạnh về vấn đề quan hệ nam
nữ và đưa đến tình trạng suy đồi đạo đức”.
Trong khi đó “chính việc thiếu kiến thức về những vấn đề này, cũng
giống như mọi tình trạng dốt nát khác, lại là điều nguy hiểm và có phương hại
đến tâm lí và đạo đức con người”.
Gần đây, việc nghiên cứu về giáo dục giới tính đã được xã hội quan
tâm nhiều, và được tiến hành một cách hệ thống, khoa học. Dần dần, vấn đề
này đã ngày càng được đánh giá đầy đủ, đứng đắn hơn. Quan niệm về giáo
dục giới tính ngày càng hoàn thiện, cụ thể, rõ ràng.
Theo A.G. Khrivcova, D.V. Kolexev, “Giáo dục giới tính là một quá trình
hướng nào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng cũng
như khuynh hướng phát triển của nhân cách, xác định thái độ xã hội cần thiết
của con người đối với người khác”.
Theo A.V. Petrovxki, giáo dục giới tính là hệ thống các biện pháp y
khoa và sư phạm nhằm giáo dục cho thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên có
thái độ đúng đắn đối với các vấn đề giới tính.
Giáo sư Trần Trọng Thuỷ, Giáo sư Đặng Xuân Hoài cho rằng, giáo dục
giới tính có phạm vi rất rộng lớn, tác động toàn diện đến tâm lí, đạo đức con
người, “là hình thành tiêu chuẩn đạo đức của hành vi có liên quan đến lĩnh
vực thầm kín của đời sống con người, hình thành những quan niệm đạo đức
lành mạnh giữa em trai và em gái, thanh nam và thanh nữ, giáo dục những
sự “kiềm chế có đạo đức”, sự thuần khiết và tươi mát về đạo đức trong tình
cảm của các em”.
Giáo dục giới tính là một bộ phận hữu cơ của phức hợp các vấn đề
giáo dục nhân cách, giáo dục con người mới, con người phát triển toàn diện,
kết hợp một cách hữu cơ hài hoà sự phong phú về tinh thần, sự thuần khiết
về đạo đức và sự hoàn thiện về thể xác. Theo A.X. Makarenko, “khi giáo dục
cho đứa trẻ tính ngay thẳng, khả năng làm việc, tính chân thật, tôn trọng
người khác, tôn trọng những cảm xúc và hứng thú của họ là chúng ta đã đồng
thời giáo dục nó về quan hệ giới tính”.
Trong đời sống giới tính, tính dục có một vị trí rất quan trọng. Việc giáo
dục tính dục là một bộ phận không thể thiếu của giáo dục giới tính. Nó không
những đặt cơ sở các chuẩn mực về đạo đức cho tình yêu mà còn cung cấp
những kiến thức nhất định về sinh học và tâm lí học tính dục. Trong giáo dục
về tính dục, việc giáo dục sức khoẻ sinh sản là một vấn đề đang được quan
tâm đặc biệt hiện nay. Nó là một bộ phận quan trọng và có ý nghĩa rất lớn
trong giáo dục giới tính.
Đời sống giới tính liên quan mật thiết với mối quan hệ giữa hai giới, với
hôn nhân và đời sống gia đình. Giáo dục giới tính cũng là quá trình trang bị
cho các em biết bách quan hệ, xử sự đúng mực với người khác giới, biết
cách thể hiện mình cho phù hợp với giới tính, có những tư thế tác phong
đúng đắn.
Giáo dục giới tính còn cung cấp cho thanh thiếu niên những kiến thức
về mối quan hệ với những người khác giới, về tình bạn khác giới và tình yêu
nam nữ, đời sống hôn nhân và gia đình.
Giáo dục giới tính liên hệ mật thiết với giáo dục đời sống gia đình, giúp
cho các em những tri thức của đời sống vợ chồng, mối quan hệ với các thành
viên trong gia đình, biết cách xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc. Bản
thân cuộc sống gia đình, cuộc sống vợ chồng cũng liên quan mật thiết với đời
sống giới tính, tình dục, bởi vậy không nên và không thể tách rời giáo dục giới
tính với giáo dục đời sống gia đình.
Giới tính cũng gắn liền với nhân cách con người. Giáo dục giới tính
quan hệ mật thiết với giáo dục nói chung, với việc phát triển nhân cách toàn
diện. Nhiều nhà khoa học còn cho giáo dục giới tính gắn liền với giáo dục
nhân cách, đạo đức, là một bộ phận của giáo dục đạo đức, chuẩn bị cho con
người bước vào đời sống xã hội. Giáo dục giới tính làm cho con người sống
có văn hoá, biết làm chủ những hành vi và khát vọng của mình trong quan hệ
với người khác giới. Làm cho con người biết tôn trọng người khác, tôn trọng
bạn khác giới, tôn trọng phụ nữ và từ đó biết tôn trọng chính bản thân mình.
Giáo dục giới tính làm cho con người biết xử sự đúng mực với mọi người, có
hành vi, cử chỉ, tư thế tác phong phù hợp với giới tính của mình theo các
chuẩn mực đạo đức, văn hoá, xã hội.
Giáo dục giới tính là một bộ phận quan trọng của giáo dục nhân cách,
góp phần giúp cho con người phát triển cân đối và toàn diện. Giáo dục giới
tính nhằm hình thành cho thế hệ trẻ những phẩm chất của giới tính, giúp cho
các em biết cách cư xử đúng đắn, có thái độ có thói quen giao tiếp lịch sự
trong quan hệ với người khác giới, chuẩn bị kiến thức và kĩ năng cho các em
bước vào cuộc sống xã hội, cuộc sống vợ chồng và biết tổ thức cuộc sống gia
đình hạnh phúc trong tương lai.
Theo Giáo sư Phạm Hoàng Gia, giáo dục giới tính phải được xem xét
như là một bộ phận hợp thành của nền giáo dục xã hội. Nó có mối liên hệ mật
thiết với giáo dục dân số, kế hoạch hoá gia đình, hôn nhân – gia đình và với
các mặt giáo dục khác trong nhà trường phổ thông. Do vậy cần phải tiến hành
công tác giáo dục giới tính một cách đồng thời, đồng bộ trong mối quan hệ có
tính chất hệ thống với các mặt giáo dục khác.
Có thể nói rằng, giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức tư
tưởng và phải tiến hành trên cơ sở của giáo dục đạo đức tư tưởng. Giáo dục
giới tính cũng phải gắn bó mật thiết với các mặt giáo dục khác trong nền giáo
dục toàn diện.
Từ những quan niệm trán có thể đi tới kết luận: “Giáo dục giới tính là
quá trình giáo dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho họ có nhận
thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp
sống văn hoá giới tính, hướng hoạt đồng của họ vào việc rèn luyện để phát
triển nhân cách toàn diện, phù hợp với giới tính, giúp cho họ biết tổ chức tốt
nhất cuộc sống riêng cũng như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát
triển”.
2. Thời điểm giáo dục giới tính cho con người
Một vấn đề quan trọng đặt ra là nên giáo dục giới tính cho con người
vào thời điểm nào? Một số quan niệm cho rằng, chỉ nên giáo dục giới tính khi
các em đã trưởng thành. Một số khác lại đòi hỏi phải giáo dục giới tính cho
con người khi bước vào lứa tuổi dậy thì. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều nhà khoa
học đều thống nhất rằng, nên giáo dục giới tính cho con người càng sớm
càng tốt.
– Giới tính xuất hiện từ rất sớm ở con người, bởi vậy để con người
phát triển toàn diện và tốt đẹp, cũng cần giáo dục giới tính từ rất sớm. “Giáo
dục giới tính thì có thể và cần phải bắt đầu càng sớm càng tốt từ khi trẻ mới
rời nhà hộ sinh”. Giáo sư Trần Trọng Thuỷ cũng có quan điểm tương tự:
Cũng như mọi vực giáo dục khác, giáo dục giới tính phải được tiến hành ngay
từ những năm đầu tiên của cuộc đời con người (tất nhiên, ở mỗi lứa tuổi phải
có nội dung và hình thức thích hợp).
– Tuy nhiên, đối với tuổi dậy thì, giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Đây là lứa tuổi có nhiều biến động to lớn trong đời sống tâm lí cơ
thể, lứa tuổi diễn ra quá trình chín muồi tính dục. Giáo dục giới tính trong thời
kì này có tác dụng rất to lớn trong cuộc sống. Nó tác động đến sự hình thành
và phát triển nhân cách của trẻ em. Giáo dục giới tính cho tuổi thiếu niên và
tuổi thanh niên là rất quan trọng vì các em đã bước sang thời kì phát dục và ở
thời kì này, gia đình và nhà trường giúp đỡ các em được nhiều nhất.
Do hiện tượng “gia tốc” phát triển về lứa tuổi, do đời sống kinh tế ngày
càng được nâng cao và ổn định, sự phát triển về giới tính ở con người ngày
càng nhanh và càng sớm hơn. Ngày nay, thậm chí ngay từ 10, 12 tuổi, có khi
còn sớm hơn, nhiều em đã bắt đầu quan tâm đến một số vấn đề của đời sống
tinh dục, của quan hệ yêu đương thầm kín như người lớn. Đôi khi các em còn
bắt chước hoặc thể nghiệm những cảm xúc của chính mình. Vì thế, việc giáo
dục giới tính đối với các em là rất cần thiết.
Như vậy giáo dục giới tính phải được tiến hành càng sớm càng tốt ở
mỗi lứa tuổi nhất định, cần có những nội dung, chương rình, phương pháp
giáo dục thích hợp. Tuy nhiên, tuỳ theo diễu kiện của từng quốc gia, từng
vùng, từng thời kì… việc giáo dục giới tính có thể bắt đầu ở những lứa tuổi
khác nhau.
Trong tình hình và điều kiện hiện nay ở nước ta, giáo dục giới tính đặc
biệt có ý nghĩa quan trọng từ độ tuổi 13, 14 đến 18, 20 tuổi.
II. NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNHGiáo sư I.X. Kon cho rằng “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào
cuộc sống gia đình đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo
dục giới tính”. Nhưng giáo dục giới tính không phải là cấm đoán thanh niên
bước vào chuyện yêu đương, chuyện tình dục. Theo I X Kon, “Nhiệm vụ
không phải là giữ cho thanh niên nam nữ tránh chuyện tình dục – không thể
và không nên làm như vậy”, mà là làm thế nào để dạy cho các em biết được
một cách đúng đắn vấn đề quan trọng ấy trong cuộc sống của xã hội và cá
nhân. Điều đó có nghĩa là học sinh trung học phổ thông không những phải
biết sinh lí học giới tính, mà còn phải có hiểu biết rõ ràng về các mặt xã hội và
tâm lí của vấn đề. Giáo dục giới tính phải dẫn các em tới tính cảm trách
nhiệm về đạo đức và về xã hội của người lớn, kêu gọi các em cân nhắc thận
trọng, nghiêm túc trong tình cảm của mình (“yêu” hay “thích”), giúp các em
trưởng thành về mặt xã hội của bản thân, thấy được những khó khăn do có
con sớm, các phức tạp vật chất và các phức tạp khác do kết hôn sớm gây
ra”…
Theo G.I. Gheraximovic và D.V. Kolexev, giáo dục giới tính phải giúp
cho thế hệ trẻ em làm chủ được văn hoá đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ
qua lại giữa hai giới, và làm cho họ có được nhu cầu và nguyện vọng tuân
theo những tiêu chuẩn đạo đức trong các mối quan hệ ấy. Việc tuân theo
những tiêu chuẩn đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ giữa hai giới sẽ góp
phần quan trọng đối với xã hội, thể hiện ở:
Mức độ cao của sức khoẻ thể chất và tinh thần của mỗi công dân.
– Nếp sống văn hoá, văn minh lành mạnh, bình đẳng nam nữ, cư xử
lịch sự với người khác giới, và với mọi người trong xã hội.
– Con người có tình yêu hạnh phúc, gia đình bền vững và phát triển,
làm tròn nhiệm vụ sinh con và giáo dục chúng trở nên những thành viên xứng
đáng của xã hội.
Bầu không khí xã hội thuận lợi nhờ mọi công dân đều biết các đặc
điểm giới tính đặc thù của những người khác giới (đặc điểm về thể lực, tinh
thần, xúc cảm, cá tính…) và tôn trọng những đặc điểm đó trong quá trình hoạt
động chung.
Như vậy việc giáo dục giới tính vừa có lợi cho từng người, vừa có lợi
chung cho mọi người, cho xã hội.
Theo đó, giáo dục giới tính góp phần giáo dục sứ khoẻ, chống lại các
bệnh tật, nhất là dường tình dục, giáo dục về tính dục, giáo dục về tình yêu,
hôn nhân và gia đình, về sự sinh sản, giáo dục thái độ tôn trọng đối với những
người khác giới. “Các em thiếu nhi và thiếu niên, các chàng trai và các cô gái
ở mức độ phù hợp với những đặc điểm lứa tuổi của mình, cần phải biết và
tôn trọng những đặc điểm giới tính đặc thù của các bạn cùng tuổi khác giới
coi những đặc điểm ấy là hoàn toàn tự nhiên và thực tế có lợi cho xã hội đồng
thời phải hiểu đúng đắn bản có của nguyên tắc nam nữ bình quyền”.
Theo G.I. Gheraximovic và D.V. Kolexev, nhiệm vụ của giáo dục giới
tính là:
+ Giáo dục niềm tin trong lĩnh vực các quan hệ thân thiết với người
khác giới, con người không phải độc lập với xã hội, không thể hoàn toàn tách
biệt các quan hệ giữa hai giới thành các quan hệ xã hội. Đồng thời còn phải
giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội của con người (thiếu nhi, thiếu niên, thanh
niên) đối với từng hành động của mình.
+ Giáo dục niềm mong muốn có một gia đình bền vững, khoẻ mạnh
thân ái, nhu cầu có con hợp lí, có ý thức và khả năng giáo dục con cái.
+ Giáo dục ý thức tôn trọng đối với những người khác, với những
người nam giới và nữ giới, giáo dục khả năng chú ý và tôn trọng những đặc
thù và những mối quan tâm của cả hai giới.
+ Giáo dục khả năng và ý muốn đánh giá các hành động của mình đối
với những người khác, không phải chỉ với mọi người nói chung, mà còn đối
với những người thuộc giới nhất định. Có được khái niệm đâu là hành động
tốt, đâu là hành động xấu trong lĩnh vực các quan hệ ấy.
+ Giáo dục thái độ trách nhiệm đối với sức khỏe của mình và đối với
người khác, hình thành quan niệm về tác hại của các mối quan hệ tình dục
quá sớm và quan niệm không chấp nhận thái độ vô trách nhiệm và nhẹ dạ
trong lĩnh vực các quan hệ với những người khác giới.
+ Tạo thái độ phê phán đối với những nếp ăn chơi đàng điếm, những
sinh hoạt thiếu lành mạnh trong các quan hệ qua lại giữa nam và nữ, đối với
những định hướng sai lầm trong quan hệ với người khác giới, thói hưởng thụ,
thói tư hữu, tính ích kỉ…
+ Giáo dục quan niệm đúng đắn về sự trưởng thành cùng với nội dung
và các dấu hiệu đích thực của nó (nhất là quan niệm về sự cư xử ra đời sống
tính dục).
Theo tác giả Nguyễn Thị Đoan, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao
gồm:
a) Giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội trong quan hệ giới tính con
người.
b) Giáo dục khả năng hiểu biết những đặc điểm giới tính trong quá trình
cùng hoạt động chung với các bạn khác giới. Biết tôn trọng và giúp đỡ lẫn
nhau.
c) Bồi dưỡng những hiểu biết về hành vi tốt xấu, cái cho phép và cái
không thể vượt qua trong quan hệ với người khác giới. Biết tự đánh giá hành
vi của ninh trong quan hệ với người khác giới.
d) Bồi dưỡng những hiểu biết đúng đắn về sự trưởng thành sinh lí của
con người (bao gồm nội dung, những dấu hiệu thực sự thể hiện của nó).
e) Bồi dưỡng ý thức trách nhiệm đối với sức toẻ của bản thân và của
người khác, ý thức được tác hại của việc kết hôn sớm.
f) Bồi dưỡng tinh thần phê phán và thái độ không khoan nhượng đối với
những tàn tích và quan điểm đạo đức phong kiến tư sản trong phạm trù quan
hệ giới tính.
Như vậy nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm cả việc truyền thụ tri
thức về giới tính, về mối quan hệ nam nữ và các mối quan hệ khác (với người
lớn, với gia đình, xã hội bản thân…) và cả việc giáo dục những phẩm chất
đạo đức, những hành vi cư xử với mọi người, nhất là làm cho các em biết
được những hành vi tốt và xấu, đúng và sai trong quan hệ với người khác
giới, những tri thức và quan niệm đúng đắn về đời sống giới tính con người.
Về vấn đề này, tác giả Nguyễn Bích Ngọc đã đi sâu vào hai nhiệm vụ cơ bản.
Thứ nhất, giáo dục giới tính cần phải giúp con người biết phê phán, bác
bỏ những quan niệm, nhận thức sai về giới tính và giáo dục giới tính như:
– Phê phán, bác bỏ, những nhận thức đúng đắn về bản năng sinh dục,
về quan hệ tình dục, về khuynh hướng “giải phóng tình dục”, “cách mạng tình
dục” hoặc xu hướng tiêu cực, phó mặc mọi chuyện “cho nó đến đâu thì đến”,
dẫn đến sự tan vỡ của nhiều cuộc hôn nhân.
Phân tích, phê phán những tư tưởng và những hành vi không lành
mạnh: quan hệ tình gục bừa bãi, yêu nhau, lấy nhau, bỏ nhau quá dễ dàng,
thiếu ý thức trách nhiệm đối với việc xây dựng gia đình, xã hội giống nòi, chỉ
chạy theo khoái cảm…
– Giải quyết được những băn khoăn e ngại, cho rằng giáo dục giới tính
sẽ chỉ làm cho thanh thiếu niên bị kích thích không lành mạnh, chỉ làm cho
các em hư hỏng. Cần phải làm cho mọi người thấy rằng, bản năng tính dục
có sức thúc đấy mãnh liệt đến độ, nếu ta không giáo dục cho con người, thì
bản thân họ, đến một lúc nào đó, sẽ tự tôn hiểu, tự đi tới những vấn đề đó
qua nhiều nguồn thông tin không chính thức, và như vậy, sẽ có thể dẫn tới
những hậu quả không tốt.
Thứ hai, giáo dục giới tính phải giúp cho con người hình thành được
những tri thức, những quan niệm đúng đắn, khoa học, phù hợp, có tác dụng
tốt cho họ và xã hội. Bao gồm:
– Tri thức đúng đắn khoa học về sinh lí cơ thể, đời sống tính dục, cả về
cấu tạo chức năng, cả về các giai đoạn phát triển của nó… để họ có thể vận
dụng những tri thức này vào cuộc sống, vào việc bảo vệ sức khoẻ sắc đẹp và
đời sống hạnh phúc.
– Những tri thức đúng đắn khoa học về đời sống tâm lí, tâm lí tình dục,
tâm lí giới tính…
Những tri thức đúng đắn khoa học về tình yêu, hôn nhân, đời sống gia
đình, về đạo lí, tâm lí xã hội, về cách cư xử và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
với mọi người, với người khác giới, với người yêu, người vợ người chồng,
cha mẹ, con cái, việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái.
– Chính sách dân số của Nhà nước.
Có thể đi đến kết luận, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm:
– Hình thành và trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học, thái độ
và quan niệm đúng đắn về những hiện tượng của đời sống giới tính sinh lí
tính dục, về cấu trúc và chức năng của các hệ cơ quan của cơ thể, nhất là hệ
cơ quan sinh dục; về sự cư xử đúng đắn phù hợp trong các mối quan hệ với
mọi người, với người khác giới, về những vấn đề đạo đức giới tính, thẩm mĩ
giới tính, tinh yêu, hôn nhân và đời sống gia đình…
– Giúp cho các em có bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội,
biết bảo vệ, giữ gìn sức khoẻ cho người bạn và cho chính mình, có khả năng
chống chọi lại những cạm bẫy, quyến rũ của lối sống ăn chơi đồi trụy, biết phê
phán, bác bỏ những quan niệm không đúng về tình yêu, tình dục, quan hệ
tình dục quá sớm hoặc buông xuôi cả nể, dẫn tới quan hệ tình dục bừa bãi,
yêu nhau, bỏ nhau quá dễ dàng.
– Giúp cho các em biết trân trọng và bảo vệ những giá trị cao cả và
thiêng liêng của tình bạn thân thiết và gắn bó, của tình yêu sâu nặng và chung
thủy, biết được cái hay cái đẹp của nếp sống văn hoá văn minh.
– Chuẩn bị về tinh thần và khá năng thực tiễn cho thế hệ trẻ, giúp cho
họ phát triển nhân cách toàn diện, biết cách tổ chức và xây dựng cuộc sống
gia đình hạnh phúc, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và
thúc đẩy xã hội phát triển, giàu mạnh.
III. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH1. Khái niệm về nội dung giáo dục giới tính
Nội dung của giáo dục giới tính trước hết là phải giúp cho việc thực
hiện những nhiệm vụ của giáo dục giới tính. Nó “được quy định bởi các mục
đích và nhiệm vụ của giáo dục giới tính”. Nó cũng bị chi phối bởi những
nguyên tắc chung của hoạt động giáo dục của các hoạt động sư phạm. Theo
Giáo sư A.V. Petrovxki, Những nguyên tắc chung của công tác giáo dục đều
được áp dụng trong giáo dục giới tính. Ciáo dục giới tính phải là bộ phận hợp
thành ủa toàn bộ các biện pháp giáo dục được thực hiện ở gia đình, ở nhà
trường…”.
Nội dung của giáo dục giới tính và ngay cả việc xác định những nội
dung trong hệ thống giáo dục chung đều rất phức tạp. Nhiều tác giả đều đã
đưa ra những yêu cầu, những nguyên tắc nhất định khi lựa chọn những nội
dung giáo dục giới tính. Trong đó, đặc biệt phải chú ý đến mối quan hệ của
giáo dục giới tính với các mặt giáo dục khác nhất là giáo dục đạo đức, phải
chú ý đến mục đích giáo dục, đến đặc điểm của đối tượng, của phong tục tập
quán địa phương và nhiều yếu tố tâm lí xã hội, sinh lí khác.
Đặc biệt giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, phải phù
hợp với đối tượng. “Các vấn đề thực về giáo dục giới tính phải gắn chặt với
hệ thống chung của công tác giáo dục đạo đức”. “Cần phải phân loại một
cách chặt chẽ việc giáo dục giới tính tuỳ theo giới lứa tuổi, mức hiểu biệt của
trẻ, cũng như cần phải đảm bảo tính kế tục của giáo dục giới tính”.
Việc lựa chọn nội dung giáo dục giới tính phải phục vụ cho mục đích
giáo dục chung, phải có tác dụng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nhân
cách. Giáo sư I.X. Kon khẳng định rằng: “dù xác định mối tương quan giữa
giáo dục giới tính và giáo dưỡng giới tính như thế nào đó chăng nữa thì cả
hai thứ đều phải tuân theo mục đích chung của giáo dục”.
Do giới tính gắn bó mật thiết với đạo đức xã hội, với phong tục tập quán
địa phương, nội dung giáo dục giới tính còn phải phù hợp với những điều kiện
xã hội, đời sống đạo đức và phong tục tập quán xã hội. “Mỗi một thời đại lich
sử của sự phát triển loài người đều đề ra một kiểu quan hệ giới tính giữa nam
và nữ, bởi và những quan hệ này mang tính chất xã hội, được gắn liền với hệ
tư tưởng, đạo đức thẩm mĩ, tôn giáo…”. Có những nội dung có thể cần tiến
hành giáo dục ở nước này, vùng này, nhưng lại không nên hoặc không thể áp
dụng ở nước khác, vùng khác. Đây là một sự khác biệt quan trọng giữa giáo
dục giới tính với giáo dục các lĩnh vực khoa học khác. Do đó, việc xác định
những nội dung giáo dục giới tính phù hợp với từng thời kì, từng địa phương,
phong tục tập quán, hoặc làm cho những nội dung đó được chấp nhận ở địa
phương là rất quan trọng. Có nhiều vùng, nhiều nước trên thế giới (trong đó
có nước ta), việc giáo dục giới tính rộng rãi công khai là một việc khó khăn,
do thành kiến của xã hội, của nhiều người đối với vấn đề này. Nguyên nhân
chính là do họ có quan niệm sai lầm về giới tính và giáo dục giới tính trong xã
hội. Họ cho rằng, “việc bàn luận rộng rãi và toàn diện về vấn đề đó, cũng như
việc tuyên truyền các trí thức – ngay cả các trí thức khoa học về nó cũng đều
là vô đạo đức, là tục tĩu, và chỉ làm nảy sinh sự quan tâm không lành mạnh
đến vấn đề quan hệ qua lại giữa nam và nữ, làm cho đạo đức suy đồi mà
thôi”. Như vậy, đối với họ, việc giáo dục giới tính chỉ làm kích thích dục tính ở
trẻ em, sẽ làm “hoen ố tâm hồn trong trắng”, làm “các em trở thành hư hỏng”.
Tác giả Nguyên Bích Ngọc cũng khẳng định: “Ở những nước còn chịu nhiều
ảnh hưởng nặng nề của tôn giáo hoặc hệ tư tưởng phong kiến, trong một thời
gian dài vẫn còn một số quan niệm cực kì sai lầm cho rằng, việc giáo dục giới
tính là thiếu đạo đức, dung tục, có khả năng đưa đến những quan niệm không
lành mạnh trong quan hệ nam nữ và đưa đến tình trạng suy đồi về đạo đức.
Thậm chí, tất cả những gì dính líu tới quan hệ tình dục giữa nam và nữ đều bị
cấm kị, khinh miệt, tránh né, và che đậy”.
Tác giả Nguyễn Thị Đoan đã đưa ra một số nguyên tắc quan trọng của
giáo dục giới tính: phải được tiến hành trên nền tảng giáo dục đạo đức, giáo
dục thẩm mĩ, phải dựa trên “quy luật” của hoạt động tính dục, nhằm chủ động
hướng dẫn sự phát triển giới tính của thế hệ trẻ theo mục tiêu đào tạo con
người mới, phải phù hợp với đặc điểm đối tượng, với lứa tuổi nghề nghiệp,
địa phương, phong tục tập quán…
Vì thế việc lựa chọn nội dung giáo dục giới tính phải rất thận trọng, phù
hợp. Nó phải tuân theo những yêu cầu, những nguyên tắc chung được quy
định bởi mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giới tính và giáo dục toàn diện, lại
phải phù hợp với đặc điểm riêng của đối tượng, phong tục tập quán, điều kiện
sống, kinh tế, xã hội…
Ở đây chúng tôi tập tung trình bày nội dung chung của giáo dục giới
tính và một số vấn đề về nội dung giáo dục giới tính theo lứa tuổi.
2. Nội dung chung của giáo dục giới tính
Theo Giáo sư G.I. Gheraximovic, nội dung giáo dục giới tính có thể bao
gồm các vấn đề:
Các vấn đề liên quan đến thuộc tính về giới của trẻ, đến ý nghĩa của
thuộc tính này đối với cá nhân và đối với xã hội.
– Các vấn đề của gia đình và của các quan hệ trong gia đình, ý nghĩa
của các vấn đề đối với trẻ, cũng như đối với toàn xã hội.
Các vấn đề của việc trẻ ra đời và tính kế tục của các thế hệ.
– Các vấn đề thuộc đạo đức giới tính.
– Các vấn đề vệ sinh giới tính.
– Quan điểm trên của G.I. Gheraximovic cho thấy giáo dục giới tính gắn
liền với giáo dục đời sống gia đình. Thực tế cho thấy khó có thể và không nên
tỉnh binh hai quá trình giáo dục này, vì đời sống giới tính và đời sống gia đình
gắn bó mật thiết, hữu cơ với nhau. Nhiều vấn đề của đời sống gia đình là
những vấn đề của đời sống giới tính và ngược lại. Các nhà khoa học thường
kết hợp hai quá trình này với nhau, và ngày nay (cả ở nước ta) chúng thường
gọi thành một cái tên thống nhất: Giáo dục giới tính và Đời sống gia đình.
Giáo sư Trần Trọng Thuỷ cũng xác định nội dung của giáo dục giới tính
bao gồm những vấn đề về tính dục, trong đó bao gồm cả sự biến đổi về đặc
điểm tính dục trong các giai đoạn phát triển cơ thể kể cá những hiện tượng
kinh nguyệt, mộng tinh, chế độ vệ sinh kinh nguyệt, những rối loạn của đời
sống tính dục, vấn đề tình dục… những vấn đề về tình yêu, hôn nhân, đời
sống gia đình, những mối quan hệ giữa nam và nữ, sự cư xử đối với nhau
trong đời sống và trong gia đình, những tri thức khoa học cũng như thái độ
chung của con người về các vấn đề đó, nhất là cách thức xây dựng gia đình
hạnh phúc, quan hệ của đời sống tính dục nói chung, quan hệ vợ chồng nói
riêng, với đời sống tâm lí, xã hội, với tình cảm và nhân cách… “Chiều sâu vẻ
đẹp tâm hồn của tình cảm không chỉ phụ thuộc vào các đặc điểm giới tính của
người mình yêu mà còn phụ thuộc cả vào những đặc điểm nhân cách của họ,
vào những phẩm chất con người, và mức độ phát triển thế giới tinh thần của
họ. Một người mà không phát triển về tâm hồn, thì sự phát triển về tính dục
không tốt đẹp. Họ không thể có hạnh phúc trong cuộc sống riêng”.
Theo Giáo sư Phạm Hoàng Gia và tác giả Minh Đức, nội dung giáo dục
giới tính cho con người phải “tùy theo các đặc điểm lứa tuổi trình độ cấp
học… cũng như sự trưởng thành về cuộc sống gia đình”, nhưng cũng phải
bảo đảm những vấn đề chủ yếu như: vấn đề tình bạn khác giới và tình yêu,
quan hệ cư xử, tình dục trong tình yêu, những biểu hiện về tâm sinh lí giới
tính, những đặc điểm về tình dục, về vệ sinh giới tính, bệnh lí giới tính, những
vấn đề tính dục, hôn nhân, sinh đẻ, hạnh phúc gia đình, kế hoạch hoá gia
đình, giáo dục con cái, dân số học…
Theo Lê Năng An “Nội dung giáo dục giới tính khá rộng, đề cập tới các
vấn đề: Những đặc điểm của tuổi thơ, tuổi thanh niên, giới nam và giới nữ, để
chuẩn bị cho cuộc sống gia đình, mối quan hệ giữa trẻ em và người lớn, giữa
trẻ em với nhau, đặc điểm tâm lý của giới nam và giới nữ”.
Tóm lại, nội dung của giáo dục giới tính có thể bao gồm những vấn đề sau:
1. Đặc điểm tâm sinh tí con người có những đặc điểm về sinh lí tính
dục, với những hiện tượng điển hình như: sự phát triển sinh lí cơ thể chiều
cao, cân nặng, cấu trúc và chức năng của hệ cơ quan sinh dục, đời sống tình
dục, kinh nguyệt, sinh nở, cho con bú, những kiến thức về sức khoẻ, sinh đẻ
có kế hoạch, các bệnh thông thường và bệnh liên quan đến đường tình dục
(sức khoẻ sinh sản)…
2. Đặc điểm giới tính về đạo đức, xã hội, thẩm mỹ như: cách cư xử với
mọi người, với bạn khác giới, tác phong tư thế, phẩm chất đạo đức theo giới
tính, quan niệm về cái đẹp, sự rèn luyện để tạo nên cái đẹp chân tình và vững
bền, vấn đề chọn nghề, những vấn đề quan hệ xã hội, pháp luật liên quan đến
cuộc sống gia đình như luật hôn nhân gia đình, trách nhiệm của con người
trong gia đình và xã hội, phương hướng rèn luyện của con người về mặt giới
tính, những đặc điểm về đời sống tâm lí con người, tâm lí giới tính theo lứa
tuổi…
3. Những vấn đề về quan hệ bạn khác giới và tình yêu nam nữ như:
Bản chất của tình yêu, sự cư xử trong tình yêu, quy luật của tình yêu, xây
dựng tình bạn, tình yêu chân chính…
4. Những vấn đề về hôn nhân và đời sống gia đình như bản chất của
hôn nhân, điều kiện để có hôn nhân hạnh phúc, cuộc sống gia đình, sự chuẩn
bị cho cuộc sống gia đình, cách xây dựng một gia đình hạnh phúc…
Hiện nay, nhiều nhà giáo dục thường quan tâm nhấn mạnh đến việc
giáo dục sức khoẻ sinh sản, giáo dục tình dục, giáo dục tình yêu và hôn
nhân… Đó là những biểu hiện cơ bản của đời sống giới tính được kết hợp
hoặc tích hợp theo một định hướng, một trọng tâm cơ bản, một mục tiêu giáo
dục nào đó. Và đó cũng là những nội dung nhất định, điển hình của đời sống
giới tính.
Những nội dung trên cần được thực hiện theo hình thức tổ chức giáo dục thích hợp, cho những đối tượng thích hợp và theo từng điều kiện hoàn cảnh thích hợp.
3. Nội dung giáo dục giới tính cho từng đối tượng
Theo A.V. Petrovxki, I.X. Kon, G.I. Gheraximovic, Trần Trọng Thuỷ,
Phạm Hoàng Gia… khi tiến hành giáo dục giới tính, cần phải dựa vào đối
tượng giáo dục để lựa chọn nội dung thích hợp. Giáo sư Phạm Hoàng Gia và
tác giả Minh Đức cho rằng có thể “tạm xác định 3 loại đối tượng chính mà sự
khác nhau về nội dung giáo dục giới tính khá rõ rệt là: Học sinh phổ thông (từ
13 đến 18 tuổi); thanh niên ở độ tuổi đang yêu (sinh viên, học sinh các trường
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật…) và những người
đã xây dựng gia đình (từ 22, 23 đến 30, 35 tuổi)”. Tác giả Bùi Ngọc Oánh nêu
lên 4 loại đối tượng chính của giáo dục giới tính trong tình hình hiện nay ở
nước ta như sau:
Loại thứ nhất: lứa tuổi mới lớn, bao gồm thanh niên, học sinh từ trung
học cơ sở trở lên, nhất là học sinh trưng học phổ thông, sinh viên năm đầu
của đại học (từ khoảng 13, 14 tuổi đến 20, 22 tuổi); Loại thứ hai: tuổi trưởng
thành chuẩn bị lập gia đình, từ khoảng 18, 20 tuổi trở lên (đối với người
chuẩn bị lập gia đình) hoặc 20 – 22 trở lên (nếu là sinh viên, học sinh các
trường cao đẳng, trung học thuyên nghiệp); Loại thứ ba: thanh niên đã có gia
đình bao gồm tất cả những thanh niên đã kết hôn; Loạt thứ tư: giáo viên và
những người làm công tác giáo dục giới tính.
Đối với mỗi đối tượng như vậy, có những nội dung thích hợp riêng.
Riêng đối với đối tượng học sinh, sinh viên đang đi học, nội dung giáo
dục giới tính có khác so với thanh niên đã vào đời. Giáo sư Phạm Hoàng Gia
và tác giá Minh Đức đã xác định khá cụ thể những nội dung thích hợp cho các
đối tượng này.
Tác giả Bùi Ngọc Oánh cũng đã xây dựng một chương trình giáo dục
giới tính cụ thể cho học sinh phổ thông, bao gồm các vấn đề sau đây:
Đặc điểm sinh lí giới tính.
Đời sống tâm lí giới tính con người.
Thanh niên và đời sống đạo đức xã hội theo giới tính.
Vẻ đẹp và cách làm đẹp ở thanh niên.
Giao tiếp trong tình bạn và tình bạn khác giới.
Tình yêu và việc xây dựng tình yêu chân chính.
Hôn nhân và đời sống gia đình.
Sự bùng nổ dân số và kế hoạch hoá dân số.
Những tri thức quan trọng trong việc thực hiện “kế hoạch hoá gia
đình” (kiến thức về cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ, sự thụ thai,
các biện pháp tránh thai, hậu quả của việc có thai sớm…).
Những bệnh lây qua đường tình dục và cách phòng tránh.
Tuy nhiên, những vấn đề trên không phải được giảng dạy một cách
giống nhau cho tất cả mọi lứa tuổi, mọi cấp học. Đối với mỗi khối lớp khác
nhau, cũng cần có những nội dung khác nhau, căn cứ vào rình độ học sinh
(khối lớp nào), nội dung học tập, tình hình nhà trường, phong tục tập quán,
đời sống văn hoá địa phương… Trong việc giáo dục cho học sinh phổ thông,
việc lựa chọn nội dung cho từng khối lớp luôn luôn phải đáp ứng từng câu
hỏi: Dạy cho khối nào (lứa tuổi nào), dạy những nội dung nào? Dạy như thế
nào? (thành môn riêng hay lồng ghép vào các môn khác, dạy ngoại khoá hay
chính khóa…). Trong đó, cần phải đặc biệt thận trọng khi xác định chương
trình và nội dung giảng dạy những chủ đề có tính “nhạy cảm” như tình dục,
tình yêu… Ngoài ra còn phải tính đến dư luận phụ huynh, xã hội ở từng vùng,
từng địa phương, nông thôn, thành thị.
Các tác giả: Giáo sư G.I. Gheraximovic và Tiến sĩ D.V. Kolexev còn xây
dựng một thương tình rất cụ thể cho các đối tượng đang đi học ở và trường
phổ thông bao gồm: trẻ chưa đến tuổi đi học, học sinh tiểu học, học sinh trung
học cơ sở, học sinh trung học phổ thông… Ở nhiều nước, việc xây dựng
chương trình giới tính cho từng loại độ tượng, khối lớp cũng được tiến hành
rất tỉ mỉ, cụ thể luật ở Đức, ở Phillppines và nhiều nước khác.
Ngày nay việc giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông càng trở nên
cần thiết và quan trọng. Các bậc phụ huynh khó có điều kiện giáo dục tốt vấn
đề này cho con em của họ “Không thể hi vọng vào chỗ gia đình đảm nhiệm tốt
chức năng giáo dục giới tính… Nhiều bậc cha mẹ than phiền không biết kể
cho con nghe chuyện bí mật của giới tính như thế nào. Và thường người lớn
cũng không biết kể cái gì và khi nào. Kinh nghiệm bản thân thì không đủ, sách
vở khoa học về vấn đề này thì ít – Thậm chí dù có đủ tài liệu, các bậc cha mẹ
cũng phải khước từ đàm đạo (với con cái) về chuyện này”. Theo ông, phải có
người được đào tạo chuyên biệt, thầy cô giáo hay bác sĩ làm việc giáo dục
giới tính này mới có hiệu quả cao.
Có thể kết luận rằng, việc xác định thương trình nội dung giáo dục giới
tính phù hợp với phong tục tập quán, dư luận xã hội và nhất là phù hợp với
đối tượng học sinh phổ thông có ý nghĩa to lớn. Nó góp phần thực hiện tốt
hoạt động giáo dục này, cũng như thực hiện tốt mục đích giáo dục, đào tạo
con người phát triển toàn diện. Việc giáo dục giới tính cần phải được thực
hiện một cách khoa học, hợp lí, có phương pháp và hình thức giảng dạy trình
hợp. Hoạt động giáo dục này cũng phải được tiến hành bởi những người có
chuyên môn, có trình độ, được đào tạo một cách chu đáo và hệ thống, giống
như việc giáo dục, giảng dạy những bộ môn khoa học khác trong nhà trường.
4. Nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục phổ thông
Việc xây dựng nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục
phổ thông đã được sự quan tâm nhiều của các nhà khoa học. Nhiều công
trình nghiên cứu đều thống nhất rằng, cần có chương trình giáo dục giới tính
theo từng lứa tuổi, từng cấp học. Cụ thể, có thể theo các lứa tuổi sau:
– Nội dung Giáo dục giới tính cho trẻ em trước tuổi đi học.
– Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi học sinh tiểu học.
Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
– Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi học sinh trung học phổ
thông.
Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi thanh niên trưởng thành.
Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi người lớn.
Việc xây dựng những nội dung cụ thể chương trình giáo dục giới tính
cho từng lứa tuổi như trên đang được quan tâm và triển khai.
Năm 1990, Chương trình Quốc gia nghiên cứu về Giáo dục giới tính và
Đời sống gia đình đã xây dựng chương trình giáo dục giới tính cho học sinh
trung học cơ sở và trung học phổ thông, trước hết, tập trung vào lứa tuổi từ
lớp 9 đến lớp 12, theo nội dung cụ thể sau đây:
Chương trình lớp 9 bao gồm các chủ điểm:
Giới tính và sự khác biệt nam nữ.
Những biến đổi cơ thể ở tuổi dậy thì.
Những biến đổi tâm lí ở tuổi dậy thì.
Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nam.
Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nữ.
Hiện tượng kinh nguyệt.
Sự thụ thai và phát triển thai.
Gia đình.
Các mối quan hệ gia đình.
Chương trình lớp 10 bao gồm các chủ điểm sau:
Gia đình (khái niệm và chức năng).
Các giai đoạn phát triển của gia đình.
Các mối quan hệ gia đình.
Cách cư xử trong các mối quan hệ gia đình.
Bổn phận làm con.
Tình người.
Tình bạn.
Chương trình lớp 11 gồm các chủ điểm:
Tình yêu.
Hôn nhân.
Một số vấn đề trong luật Hôn nhân và Gia đình.
Quản lí gia đình.
Quản lí sử dụng của cải trong gia đình.
Trách nhiệm làm cha mẹ.
Chương trình lớp 12 gồm các chủ điểm:
Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nam, nữ.
Sự thụ thai và phát triển của thai.
Dấu hiệu thai nghén và sự sinh con.
Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai.
Các bệnh lây lan qua đường tình dục.
Có thai ở tuổi vị thành niên và các hậu quả.
Vấn đề của vợ chồng trẻ.
Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh
Việc xây dựng những chương trình trên đã được triển khai, giảng dạy
thí điểm tại các trường ở 17 tỉnh, thành phố trong cả nước. Sau đó đã biên
soạn thành sách giáo khoa cho học sinh từ các lớp 9 đến lớp 12 và sách
hướng dẫn giảng dạy các chủ điểm trên cho giáo viên.
Việc thực hiện giảng dạy các nội dung trên trong trường phổ thông
được tiến hành theo các hướng:
– Tích hợp (hoặc kết hợp, lồng ghép) với các bộ môn khoa học có liên
quan (Sinh học, Giáo dục công dân…).
Giảng dạy theo những tiết học riêng.
– Đưa vào nội dung giáo dục ngoài giờ lên lập.
– Kết hợp với các hình thức sinh hoạt ngoại khoá, đặc biệt kết hợp với
việc giáo dục bằng phim ảnh, dẫn kịch, và các loại hình hoạt động nghệ thuật.
– Tổ chức các hoạt động tư vấn học đường.
Vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông dã bắt đầu được sự
quan tâm của các nhà khoa học giáo dục. Tuy nhiên, còn một số tồn tại như:
+ Vẫn còn có những băn khoăn e ngại của một số giáo viên, học sinh
và phụ huynh khi tiếp cận với những bài thuộc về lĩnh vực nhạy cảm (tình
dục, tình yêu, cấu trúc hệ cơ quan sinh dục, kinh nguyệt…), đặc biệt là việc
dạy những gì, dạy như thế nào.
+ Hiện nay, vẫn còn nhiều người, nhiều sách báo, tài liệu để cập đến
những vấn đề này một cách lệch lạc, phiến diện, theo chiều hướng đi sâu vào
những khía cạnh, kiến thức có tính hấp dẫn, kích thích trí tò mò của học sinh
nhiều hơn là giáo dục ý thức và thái độ đúng đắn ở các em. Vì vậy, nếu
không thận trọng, việc giáo dục những tri thức này lại có thể gây ra tác dụng
phản diện nhiều hơn.
+ Các nội dung khác tuy không khó khăn, phức tạp như những kiến
thức trên nhưng vẫn chưa được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc trong một số
trường phổ thông. Thậm chí, một số trường, một số nhà quản lí giáo dục còn
bỏ qua hoặc không thực hiện đầy đủ các nội dung và thời lượng giảng dạy
các vấn đề giới tính theo quy định chung (nhất là những tri thức có tính nhạy
cảm) vì nhiều lí do như: dồn thời gian vào dạy những môn mà họ cho là trọng
tâm, quan trọng, nằm trong nội dung thi tốt nghiệp, coi nhẹ những nội dung tri
thức này, hoặc có quan niệm cho rằng những kiến thức này không cần thiết
không nên dạy trong trường phổ thông…
+ Chưa có sách giáo khoa chính thức về giáo dục giới tính, việc tích
hợp các kiến thức giới tính trong các môn có liên quan như Sinh học, Giáo
dục công dân… chưa được thực hiện một cách đầy đủ, toàn diện, chưa được
thể hiện rõ ràng trong các sách giáo khoa. Vì vậy giáo viên không có đủ tài
liệu giảng dạy cần thiết.
5. Vấn đề giáo dục giới tính cho thanh niên ngoài nhà trường và người lớn
Vấn đề giáo dục giới tính không những cần thiết phải tiến hành cho học
sinh, sinh viên trong nhà trường mà còn phải thực hiện cho những đối tượng
ở ngoài nhà trường như: thanh niên, cán bộ, công nhân, người đã trưởng
thành, các bậc phụ huynh… Trong thực tế, rất nhiều thanh niên, người lớn có
nhu cầu được tìm hiểu, được trang bị những tri thức về lĩnh vực này. Thậm
thí, nhiều bậc phụ huynh cũng rất muốn được tìm hiểu các tri thức này để
giáo dục con cái của mình.
Vì vậy việc xây dựng và xác định những nội dung giáo dục giới tính
trình hợp cho những loại đối tượng trên là rất cần thiết.
Có thể có nhiều hướng biên soạn và thực hiện những chương trình
giảng dạy cho các đối tượng khác ngoài nhà trường phổ thông như:
– Nội dung chương trình giáo dục giới tính cho thanh niên mới lớn và
thanh niên trưởng thành đã có gia đình.
– Nội dung chương trình giáo dục giới tính giảng dạy trong các câu lạc
bộ, nhà văn hoá, các cơ quan, xí nghiệp, các đơn vị của Hội Liên hiệp Phụ nữ
các tổ chức Công đoàn. Chương trình này được biên soạn và giảng dạy theo
2 hình thức:
+ Các chuyên đề đặc biệt thích hợp với các chủ đề giáo dục ở từng thời
kì, ở từng loại đối tượng.
+ Chương trình giáo dục giới tính theo một hệ thống phù hợp với từng
loại đối tượng.
IV. NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNHViệc giáo dục giới tính cho thanh niên học sinh là vấn đề quan trọng,
cần thiết, tuy nhiên cũng là một lĩnh vực phức tạp và tế nhị. Vì vậy ngoài việc
phải đảm bảo những nguyên tắc chung như: tính khoa học, tính giáo dục, tính
thực tiễn… như các môn học khác, cần phải chú ý thêm những vấn đề sau
đây:
– Giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, giáo dục nhân
cách, hình thành thế giới quan khoa học. Giáo dục giới tính phải gắn liền với
việc giáo dục và tính thành nếp sống sinh hoạt lành mạnh, lối sống văn hoá
văn minh. Cần phải xác định rằng, đó là một trong những mục tiêu cơ bản của
giáo dục giới tính.
– Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách toàn diện cả về sinh
lí giới tính, tâm lí giới tính, thẩm mĩ giới tính, xã hội giới tính Không nên chỉ
tập trung vào những vấn đề sinh lí tính dục mà coi nhẹ các vấn đề tâm lí xã
hội giới tính.
Phải kết hợp việc giảng dạy tri thức khoa học với việc hình thành thái
độ đúng đắn. Khi giảng dạy những “vấn đề nhạy cảm”, không nên chi tập
trung mô tả các sự kiện, hiện tượng một cách “trần trụi”, “sống sượng”, mà
cần chú ý kết hợp với việc tính thành ý thức đạo đức phê phán những biểu
hiện sai trái.
Phải kết hợp việc truyền thụ những tri thức lí luận với những kiến thức
thực tiễn nhất là những vấn đề thực tiễn trong đời sống sinh hoạt của thanh
niên, học sinh.
Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lí của lứa tuổi, của lớp học, của yêu cầu giáo dục đặc trưng
thích hợp với đối tượng, phải phù hợp với phong tục tập quán của từng vùng,
từng địa phương.
V. Ý NGHĨA CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH.1. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển toàn diện nhân cách
Mục đích giáo dục của chúng ta hiện nay là đào tạo con người mới phát
triển toàn diện. Đó chính là con người có nhân cách phát triển về mọi mặt:
đạo đức, tài năng, trí tuệ, có khả năng góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp, phát
triển. Nhưng chính những phẩm chất tốt đẹp của nhân cách, và sự đóng góp
hiệu quả của con người đối với xã hội lại phụ thuộc vào đời sống giới tính của
họ. Nhiều phẩm chất nhân cách quan hệ mật thiết với giới tính, hoặc cũng
chính là những đặc điểm của giới tính và ngược lại.
Chính việc thiếu hiểu biết kiến thức về giới tính, về đời sống tính dục,
về hôn nhân, gia đình, làm cho con người dễ mắc vào vòng tội lỗi, làm cuộc
sống gia đình của họ không hạnh phúc, và do đó hạn chế khả năng đóng góp
của họ vào việc xây dựng và phát triển xã hội.
Theo IU.I.Kusniruk và A.P.Serbakov “Chính việc thiếu kiến thức về
những vấn đề này (giới tính và đời sống gia đình) cũng giống như mọi tình
trạng dốt nát khác, lại là điều nguy hiểm và có phương hại đến tâm lí đạo đức
con người”. Nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh trở thành tội lỗi của con người
chỉ vì họ không hiểu biết gì về tính dục, về đời sống giới tính và đời sống vợ
chồng. Có khi sự không hiểu biết ấy “làm tăng thêm các dạng rối loạn tính dục
khác nhau, là hệ quả tiếp theo dẫn đến sự phá hoại về tâm lí, gây bệnh hoạn
cho hệ thần kinh. Đồng thời không phải chỉ có sức khoẻ con người bị tổn
thương, mà tư cách con người trong gia đình và xã hội cũng bị tổn thương”.
A.V.Petrovxki cũng cho rằng: “Bầu không khí thiếu lành mạnh trong gia
đình tạo nên tính bê tha và thói vô liêm sỉ”. Nhiều vấn đề của giới tính ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách. “Tình yêu thực sự là điều kiện
quan trọng nhất của sự nảy nở và phát triển nhân cách con người”. “Khi
không có những nguyên tắc đạo đức vững chắc về quan hệ nam nữ, thì trong
khối óc và con tim của thiếu niên sẽ xuất hiện những thái độ tiêu cực đối với
tình yêu, những hứng thú không lành mạnh, thái độ coi thường phụ nữ…”.
Giáo dục giới tính góp phần quan trọng làm nhân cách phát triển toàn
diện, làm con người có điều kiện xây dựng xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Vì thế,
giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc thực hiện mục đích giáo dục.
2. Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể của thanh thiếu niên
Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí
cơ thể, đặc biệt là sự phát triển về đời sống tính dục và sự trưởng thành nhân
cách của thanh thiếu niên trong xã hội.
Một số người cho rằng giáo dục giới tính cho học sinh làm cho các em
bị “kích thích dục vọng”, “làm hoen ố tâm hồn trong trắng”, hoặc “vẽ đường
cho hươu chạy”.
Đó là những quan niệm rất sai lầm.
Trong quy luật phát triển cơ thể con người, từ khoảng 12, 13 tuổi trở đi
sự dậy thì sẽ làm các em quan tâm đến các vấn đề giới tính và tính dục, nhất
là khi các em bước vào giai đoạn chín muồi giới tính (từ độ tuổi 14, 15 tuổi đối
với nữ và 16, 17 tuổi ở nam). Thực ra “trẻ em đã sớm quan tâm đến các vấn
đề giới tính, trước khi tính dục chín muồi. Lúc đầu sự quan tâm này không
gắn với các thể nghiệm tính dục, mà biểu hiện tính tò mò thường tình… Đến
tuổi quá độ (tuổi dậy thì) thì tình hình phức tạp hơn, mối quan tâm của thiếu
niên đến các vấn đề giới tính trở nên căng thẳng và riêng tư”.
Do đặc điểm phát triển sinh lí cơ thể, tự các em sẽ tìm đến những vấn
đề về giới tính. A.V.Petrovxki khẳng định rằng, “sự phát dục kích thích phát
triển sự quan tâm đến giới khác, làm xét hiện những cảm giác, tình cảm và
rung cảm mới”. Các nhà sinh lí học, y học, tâm lí học đều thừa nhận rằng
“hoạt động sinh lý tính dục là một hoạt động bình thường của một cơ thể khoẻ
mạnh. Nó phát triển theo quy luật tự nhiên”, đó là một nhu cầu cơ bản của
con người.
Mặt khác, chính bản thân những tác động của đời sống xã hội cũng ảnh
hưởng đến việc quan tâm đến các vấn đề tính dục, tình yêu hôn nhân của các
em. Trong cuộc sống xã hội, con người luôn phải giao tiếp xã hội, luôn tiếp
xúc với mọi người và tiếp xúc với các vấn đề xã hội. Chính sự tiếp xúc này
tạo nên những nhận thức nhất định, đầu tiên của con người về các vấn đề
của đời sống giới tính: giao tiếp với bạn khác giới, nhận thức về tình yêu và
những cử chỉ yêu đương…
Đến một độ tuổi nhất định, không phải do bản thân trẻ em, mà chính là
mọi người trong xã hội: bạn bè, người lớn, đặc biệt là những người thân trong
gia đình, cũng luôn nhắc nhở, gợi ý, thậm chí yêu cầu các em hướng đến
những vấn đề trong quan hệ giới tính như: xây dựng tình yêu, kết hôn…
Những hiểu biết, những ảnh hưởng mạnh mẽ của các sinh hoạt yêu
đương, của đời sống giới tính trong xã hội, lại kết hợp với những rung cảm
giới tính, những biến đổi giới tính trong cơ thể, trong tình cảm, dần dần hình
thành ở trẻ em một dạng kiến thức mới dù chưa được học tập trong nhà
trường hoặc gia đình. Đồng thời cũng dần dần hình thành ở các em một nhu
cầu mới: những quan hệ về giới tính, rung cảm giới tính… “Không phải bản
thân việc yêu đương chăm sóc, thư từ, gặp gỡ, cái hôn đầu tiên là quan
trọng, mà quan trọng vì đó là sự đáp ứng nhu cầu nội tại của bản thân học
sinh lớn, vì đó là những tượng trưng xã hội nhất định, những dấu hiệu trở
thành người lớn”.
Như vậy sự quan tâm đến các vấn đề giới tính, thậm chí việc nảy sinh
những hành vi giới tính, yêu đương là tất yếu, có tính quy luật. Nó nảy sinh do
chính đời sống sinh lí cơ thể và đời sống xã hội của các em.
Nếu không được hướng dẫn về những vấn đề này, các em sẽ gặp phải
những khó khăn, và chính xã hội và người lớn cũng thật ảnh hưởng bởi
những khó khăn đó. A.V. Petrovxki đã nêu rõ: “Các em thiếu niên không hiểu
biết gì về các lần đề giới tính thường tỏ ra sợ hãi trước những biến đổi sinh lí
diễn ra trong cơ thể mình và lấy làm xấu hổ về những biến đổi đó. Không
được các bậc cha mẹ ra các nhà sư phạm giải đáp đến nơi đến chốn những
vấn đề các em muốn biết, các em thường tìm đến các nguồn tình cờ, đôi khi
nhảm nhí và nhận được một khái niệm sai lệch về những vấn đề các em quan
tâm”. Ông cũng cho rằng, “Việc các em thiếu niên, thiếu hiểu biết về các vấn
đề giới tính thường dẫn đến những bi kịch đau lòng trong đời sống”. Ngược
lại, sự hiểu biết các kiến thức về giới tính sẽ giúp cho các em tự tin và vững
vàng hơn khi bước vào đời đặc biệt là khi gặp những tình huống “gay cấn”,
điều rất dễ xảy ra khi các em tiếp cận với cuộc sống xã hội.
Theo các tác giả, chính do những đặc điểm về sự phát triển sinh lí và
tâm lí, ở các em cũng nảy sinh những nhu cầu nhất định về đời sống giới tính
như: nhu cầu tìm hiểu về tính dục, tình dục, tình yêu, đời sống gia đình… Nhu
cầu này xuất hiện ngay từ khi còn nhỏ, càng lớn lên nó càng trở nên mạnh
mẽ, thúc đẩy các em tìm hiểu những vấn đề đó. Con người bình thường nào
cũng có những nhu cầu nhất định về đời sống giới tính, khi tới một độ tuổi
nào đó. Tuy nhiên, khác với con vật, ở con người những nhu cầu này thể hiện
ra qua các thái độ, hành vi vừa mang tính sinh học, vừa mang tính tâm lí xã
hội to lớn.
Ngay từ lúc còn rất nhỏ, trẻ đã bắt đầu quan tâm đến các vấn đề giới
tính, đó là kết quả của quá trình tự nhiên nhằm nhận thức thế giới xung
quanh. Sự quan tâm ấy thể hiện trong vô số các câu hỏi mà trẻ dặt ra cho bố
mẹ và thường làm cho bố mẹ phải bối rối khó xử đại loại như: “Con sinh ra
như thế nào?”, “Tại sao con lại ở trong bụng mẹ?”… Khi trẻ chưa đến tuổi đi
học, chúng đã muốn biết bí mật của sự ra đời các em bé. Đến tuổi dậy thì,
các em gái chú ý nhiều đến bề ngoài của mình, tăng cường quan tâm đến
những “bí mật tình yêu”, “còn các chàng trai bắt đầu để ý đến các cô gái…
Trong giai đoạn dậy thì, “thời kì mà người đàn ông hoặc đàn bà thức
dậy trong con người” việc quan tâm đến những vấn đề giới tính ấy lại càng
trở nên bức xúc và không thể tránh khỏi. Sự quan tâm đó ngày càng cao.
“Giai đoạn phát triển phức tạp tế nhị này nếu thiếu sự hướng dẫn, giúp đỡ
của những người có trách nhiệm và kinh nghiệm thì thật là một sai lầm đáng
tiếc”. Engebeta Ixakovic đã viết: “Bí mật của quan hệ sinh lí liên quan đến
những cảm xúc mạnh nhất của con người. Bản thân cảm xúc thầm kín ấy
không tốt cũng không xấu. Đơn giản là nó tồn tại. Con người lại hay mắc sai
lầm trong chuyện này. Đôi khi phải trả giá sai lầm ấy bằng cả cuộc đời”.
Chính sự dậy thì cùng với sự giao tiếp, gặp gỡ trong đời sống xã hội,
sự phát triển về tình cảm và trong đời sống tâm lí đã hình thành nên ở các em
những nhu cầu về các vấn đề giới tính. Những nhu cầu ấy ngày càng tăng và
ngày càng cấp thiết đối với con người. Giáo dục giới tính đáp ứng được
những nhu cầu này của các em, giúp cho các em có định hướng đúng đắn và
phù hợp đối với đời sống giới tính và đời sống xã hội.
Việc trang bị cho các em những tri thức này một cách phù hợp, khoa
học sẽ giúp các em phát triển nhân cách, thích ứng hơn với đời sống, chuẩn
bị cho các em vào đời một cách vững chắc và tự tin. Các em sẽ có bản lĩnh
vững vàng chống lại mọi cám dỗ, sa ngã và những trở ngại khác của cuộc
đời, mà nhiều khi những cám dỗ, sa ngã đó lại do chính sự phát dục ở bản
thân các em và do những phức tạp của xã hội gây nên.
V. G. Belinxki nhận xét rằng: “Sự trong sạch về đạo đức hoàn toàn
không phải là ở chỗ chẳng biết gì mà là ở chỗ giữ gìn được đức hạnh khi có
sự am hiểu đầy đủ”. Chính việc trang bị cho các em những tri thức về đời
sống giới tính sẽ góp phần giúp các em giải quyết tốt đẹp những vấn đề khúc
mắc trong cuộc sống, mà đối với các em “nhiều khi là bí ẩn, khó có thể tránh
khỏi”.
Trong khi ấy việc che giấu, né tránh của người lớn đối với những vấn
đề giới tính trước các em, nhiều khi chỉ gây nên tính tò mò, sự kích trình tìm
hiểu, và có thể gây nên những hậu quả bất lợi. Đặc biệt là các em lại dễ bị
ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực xã hội, của người lớn, nhất là những
người thiếu suy nghĩ và thiếu tri thức văn hoá về những vấn đề của đời sống
giới tính.
Hơn nữa, đời sống giới tính, yêu đương, quan hệ vợ chồng, gia đình
cũng là vấn đề tất yếu của con người. “Cuộc sống và tình yêu – đó là hai mặt
thống nhất trong một con người bình thường”, “tình yêu đòi hỏi phải xây dựng
gia đình, và chỉ có trong gia đình thì đôi lứa mới có cuộc sống hạnh phúc”.
Đời sống yêu đương và cuộc sống vợ chồng lại là những vấn đề rất phức tạp,
không phải ai cũng biết. Sự thiếu kiến thức gia đình và đời sống vợ chồng đã
làm cho rất nhiều gia đình đau khổ, tan vỡ, và nhiều hậu quả tai hại không thể
lường trước Việc giáo dục giới tính cho các em sẽ giúp các em biết cách xử
thế, biết cách giải quyết tốt đẹp khi “đối mặt” với những “vấn đề muôn thuở”
và tất yếu ấy của con người. Nó sẽ giúp các em có cuộc sống gia đình hạnh
phúc, nó sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân các em
và cho toàn xã hội.
3. Giáo dục giới tính có ý nghĩa lớn đối với giáo dục dân số và sự phát triển xã hội
Ngày nay tình trạng gia tăng dân số quá mức đang là mối quan tâm ẹ
ngại của nhiều nước. Nạn bùng nổ dân số này nhiều khi lại là do sự thiếu hiểu
biết nhiều vấn đề của giới tính (sự sinh sản, việc kết hôn sớm…) hoặc do
những quan niệm sai lầm về đời sống giới tính, đời sống gia đình (đẻ nhiều
con vì muốn có cả con trai con gái vì cho rằng đẻ càng nhiều càng tốt, lây vớ
sớm để có cháu cho bà bế
Việc trang bị những tri thức về giới tính sẽ giúp cho con người làm chủ
được “vấn đề sinh đẻ” biết cách hạn chế sinh đẻ, nhất là những nhận thức và
quan niệm chung về vấn đề dân số. Nhờ đó họ sẽ tự giác tham gia vào công
cuộc “chiến đấu, chống lại nạn bùng nổ dân số, họ sẽ tự giác góp phần vào
việc giảm bớt “sự phát triển đáng sợ” của dân số. Nhờ giáo dục giới tính,
công tác giáo dục dân số mới có thể đạt hiệu quả cao. Vì thế, giáo dục giới
tính gắn liền với giáo dục dân số, trở thành một bộ phận hữu cơ của giáo dục
dân số.
Giáo dục giới tính còn góp phần nâng cao chất lượng đời sống gia
đình, làm cho các gia đình hạnh phúc hơn, êm ấm hơn. Do đó, giáo dục giới
tính làm nâng cao đời sống văn hoá xã hội. Nó còn có tác động đến nhiều mặt
khác: đời sống kinh tế, trật tự an ninh, đạo đức xã hội, thuần phong mĩ tục…
Những lĩnh vực xã hội đó chịu ảnh hưởng nhiều của cuộc sống con người về
mặt giới tính. Chỉ khi có đời sống hạnh phúc, mỗi người và mỗi gia đình mới
có thể đóng góp tốt nhất cho xã hội.
Có thể nói, giáo dục giới tính góp phần quan trọng đối với việc xây
dựng một xã hội lành mạnh tốt đẹp.
4. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển tâm sinh lí trong tình hình hiện nay
Ngày nay, do nhiều nguyên nhân tâm lí và xã hội phức tạp, như sự đô
thị hoá, gia tốc sự phát triển của trẻ em, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật,
phức tạp hoá của quá trình giáo dục, tự do nhiều hơn so với trước đây của
thanh thiếu niên đối với cha mẹ, quyền bình đẳng của phụ nữ, và sự xuất hiện
của những phương tiện tránh thai hiệu quả… càng ngày càng có nhiều biểu
hiện phức tạp trong xã hội về giới tính:
– Theo các nhà khoa học, trong 50 năm vừa qua, cứ 10 năm, tuổi dậy
thì của các em gái lại sớm hơn 4 tháng. Hiện tượng này diễn ra ở hầu hết các
nước, trong đó có nước ta, theo số liệu Hằng số sinh lí Việt Nam: tuổi dậy thì
của các em gái năm 1967, ở thành phố là 15,8 +/- 1,4, ở nông thôn là 16,22
+/- 1,7; năm 1972 ở thành phố là 14,3 +/- 1,2, ở nông thôn là 15 +/- 3,4, và
theo số liệu của Phòng sinh lí lứa tuổi (Viện Tâm sinh học lứa tuổi tuổi dậy thì
của các em gái năm 1980 ở thành phố là 13,10 +/- 1,2, ở nông thôn là 14,5
+/- 1,3. Hiện nay, tuổi dậy thì của các em lại sớm hơn. Sự dậy thì sớm đã tạo
ra một khoảng cách khá lớn giữa sự chín muồi sinh dục và sự trưởng thành
về xã hội, từ lúc dậy thì (13, 14 tuổi) đến độ tuổi có khả năng độc lập về kinh
tế để có thể kết hôn (22, 23 tuổi) là từ 8 đến 10 năm. Khoảng thời gian dài ấy
đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các em trong quan hệ với người khác giới
và cũng đặt ra cho xã hội, cho các nhà giáo dục nhiều vấn đề phải quan tâm
giải quyết.
– Sự dậy thì sớm có thể dẫn tới quan hệ tình dục sớm, quan hệ yêu
đương sớm. Các công trình nghiên cứu hiện nay cho thấy, lứa tuổi các em có
quan hệ tình dục là khá sớm: nhiều em 16, 15, thậm chỉ 14, 13 tuổi đã có
quan hệ tình dục.
Đặc biệt, trẻ em có “quan hệ tình dục” lần đầu tiên ở lứa tuổi càng ngày
càng sớm hơn, với tỉ lệ cao hơn.
– Quan hệ tình dục sớm dẫn đến tình trạng có thai ngoài ý muốn, và
những hậu quả tai hại của nó là không tránh khỏi. Những hiện tượng nạo phá
thai, có thai tuổi vị thành niên; việc sinh con của các bà mẹ quá trẻ 13, 14,
15… tuổi, việc kết hôn sớm… xảy ta rất nhiều kéo theo rất nhiều tác hại lớn
khác cho bản thân các em và cho gia đình, cho xã hội như: tình trạng bệnh
tật, đẻ con dị dạng, sức khoẻ của người mẹ và đứa con yếu kém nghiêm
trọng, nhất là tốc độ lây lan các bệnh đường tình dục như bệnh lậu, bệnh
giang mai, nhiễm HIV… và gây nên những tác hại lớn về kinh tế xã hộp tâm
lí…
– Tình trạng tình yêu tan vỡ, nhiều gia đình thiếu hạnh phúc, đi đến li
hôn và nhiều hậu quả tai hại khác: con cái hư hỏng, trật tự an ninh xã hội bị
rối loạn bởi sự gây gổ, đánh lộn thậm chí có thể chém giết lẫn nhau, đạo đức,
phong tục lành mạnh bị huỷ hoại…
– Trong khi đó, ở Việt Nam ta còn có tình trạng yếu kém nhận thức về
văn hoá xã hội, về đời sống giới tính. Những kiểu ăn chơi đàng điếm, nếp
sống sinh hoạt thiếu lành mạnh, những biến tướng không tốt của các loại hình
sinh hoạt văn hoá như: karaoke, vũ trường, nhậu nhẹt… là tình trạng khá phổ
biến, gây nên nhiều hậu quả không tốt trong đời sống của thanh thiếu niên và
xã hội.
Trước tình hình đó, giáo dục giới tính trở thành vô cùng quan trọng và
cần thiết. Nó trở thành một vấn đề cấp bách mà xã hội và các nhà giáo dục
cần phải giải quyết. Đó là nhu cầu của các em và cũng chính là nhu cầu của
xã hội hiện đại.
5. Giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt trong tình hình phức tạp và gia tăng của các tệ nạn xã hội hiện nay
Ngày nay, các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển rất phức
tạp. Các tệ nạn mại dâm, ma tuý, sự biến tướng trong hoạt động của các vũ
trường, việc sử dụng thuốc lắc, nếp sống ăn chơi, trác táng, đồi trụy… của
một bộ phận thanh thiếu niên và cả ở người lớn đang là nỗi lo chung cho
nhiều người, cho xã hội. Các tệ nạn đó gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho
con người, đặc biệt cho thanh thiếu niên, làm cho các em dễ bị suy thoái về
đạo đức, bệnh hoạn trong lối sống, suy sụp vẻ sức khoẻ, sa sút về học tập…
có em bị nhiễm HIV, nghiện xì ke ma tuý, có em bị dụ dỗ vào con đường ăn
chơi trụy lạc, mại dâm…
Việc giáo dục giới tính sẽ trang bị cho các em những kiến thức, tạo ra
cho các em một bản lĩnh để chống lại các tệ nạn trên. Những hiểu biết cần
thiết về đời sống giới tính sẽ giúp cho các em tĩnh táo hơn, mạnh mẽ hơn, tự
mình biết cách tránh xa những tệ nạn xã hội. Mặt khác, những kiến thức đó
sẽ giúp các em tự tin hơn khi bước vào đời
Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Vấn đề 1TÌNH TRẠNG TRẺ EM HƯ VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Kỉ yếu Hội nghị Khoa học Đề án VIE/ 88/ P09 TPHCM
Vấn đề trẻ em hư không phải là một vấn đề mới lạ, riêng biệt ở một
nước nào đó, mà là một vấn đề đã được nhiều nước quan tâm nghiên cứu và
giải quyết. Có thể nói, hiện tượng trẻ em hư và trẻ em phạm pháp là một hiện
tượng khá phổ biến ở các nước trên thế giới.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, tình trạng trẻ em hư đã làm cho
nhiều nhà nghiên cứu xã hội, nhiều thầy cô giáo và những người có trách
nhiệm phải lo ngại.
Trong công trình nghiên cứu về trẻ em hư và trẻ em phạm pháp do
Viện Khoa học Giáo dục (các tỉnh phá Nam) và Uỷ ban Khoa học kĩ thuật
Thành phố Hồ Chí Minh hợp tác nghiên cứu, chúng ta thấy chỉ riêng ở Thành
phố Hồ Chí Minh từ 1977 đến 1978, con số trẻ em phạm pháp khá lớn. Năm
1977 là 1.511 em, năm 1987 là 2.326 em, năm 1979 là 3.442 em, năm 1980
là 2.807 em, năm 1981 là 2.265 em. Tính trung bình hàng năm có 2.550 em
phạm pháp bị phát hiện, bị bắt giữ và xử lí. Trong số các em phạm pháp, số
học sinh phổ thông chiếm 9.54% (1.217 em), riêng 6 tháng đầu năm 1982,
Thành phố có 2.673 trẻ em phạm pháp trong đó số học sinh phổ thông lên tới
301 em, chiếm 11,2%.
Tình hình trẻ em phạm pháp trong mấy năm trở lại đây, còn có chiều
hướng gia tăng. Chỉ tính những em mà Công an Thành phố thống kê được,
trong 6 tháng đầu năm 1987: có 8127 em hư và 2.978 em phạm pháp. Trong
đó có 270 em trai và 285 em gái dưới 14 tuổi, học sinh cấp I có 1583 em, học
sinh cấp II có 854 em, học sinh cấp III có 64 em. Trong số những học sinh
phạm pháp có 960 em còn đang đi học.
Tính riêng những trường hợp phạm pháp nghiêm trọng, chỉ trong 2 năm
1986 và 1987, số lượng các em phạm tội tăng 12%: Năm 1986 có 992 em
phạm pháp, chiếm tới 14,5% số tội phạm. Năm 1987 có 1.183 em phạm pháp
chiếm 62,5% số tội phạm. Điển hình là một số tội phạm:
Giết người:
+ Năm 1986 có 55 vụ, bắt 61 tên trong đó có 7 em (tỉ lệ 11,5%).
+ Năm 1987 có tới 63 vụ, bắt 84 tên trong đó có 12 em (tỉ lệ 14,3%).
Đánh người thành thương tật, năm 1986 có 58 em phạm tội và năm
1987 là 164 em.
– Trộm cắp tài sản riêng của công dân:
+ Năm 1986 có 616 em
+ Năm 1987 có tới 747 em.
Nếu chỉ trong những vụ án được toà án xét xử, năm 1988 có 61 em
dưới 18 tuổi phạm tội đánh người, giết người (trong tổng số 573 tội phạm,
chiến tỷ lệ 10,7%/ có 277 em phạm tội xâm phạm tài sản riêng của công dân,
12 em phạm tội hiếp dâm, 287 em phạm tội gây rối trị an…). Chúng ta cần
chú ý, đối vôi trẻ em chỉ khi phạm tội nghiêm trọng mới phải đưa ra toà xét xử.
Trên đây chỉ là trẻ em phạm pháp, tức là những trẻ em hư nghiêm
trọng. Còn các loại trẻ em hư khác đã được công an hoặc những cơ quan
khác có trách nhiệm theo dõi (những em này là thiếu niên hư hỏng nhưng chỉ
có hành vi tội phạm nghiêm trọng) thì số lượng lớn hơn rất nhiều. Theo cách
tính của nhóm cán bộ khoa học nghiên cứu trong dự án ngăn chặn trẻ em hư,
trung bình hàng năm Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 12.500 em thuộc
diện hư hỏng có hồ sơ theo dõi. Đây chỉ là con số tối thiểu, tổng hợp ở 148
phường của các quận nội thành và ven đô gồm: 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, và 4
quận ven đô là Phú Nhuận, Tân Bình, Gò Vấp và Bình Thạnh.
Các nhà nghiên cứu cho biết, con số thực tế là có thể lớn hơn nhiều.
Riêng thống kê của ngành Công an cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 1987 có
8.127 trẻ em hư. Ngoài ra, còn nhiều loại trẻ em hư khác không thể thống kê
được như: các em gây rối trật tự trị an ở địa phương, các em ăn cắp vặt, bỏ
nhà đi tụ tập chơi bời lêu lổng, thành lập băng đảng đánh nhau, nhậu nhẹt,
đánh bạc, tham gia những tệ nạn xã hội, hoặc các em hư hỗn với người lớn,
ngang tàng, thiếu tế nhị ý tứ vô tổ chức, vô kỉ luật, lười học…
Xét về những biểu hiện hư hỏng, phạm pháp, các nhà nghiên cứu và
ngành Công an, Tư pháp đều có nhận xét rằng, ngày nay trẻ em của chúng ta
đã phạm phải hầu hết những tội mà người lớn có thể phạm phải như: cướp
của, giết người, đâm, chém, đánh người thành thương tật, ăn cắp, cướp giật,
bắt cóc trẻ em… đặc biệt có tội mãi dâm và hiếp dâm. Một nhận xét khác:
trong tất cả các tội mà các em phạm phải, tội nào cũng có học sinh phổ thông
tham gia. Có trường hợp các em bỏ học rồi mới tham gia hành vi tội phạm,
hoặc khi tham gia rồi các em bỏ học luôn. Cũng có những trường hợp các em
phạm tội khi vẫn còn đang đi học.
Có một loại hiện tượng nữa cũng rất đáng ngại ở trẻ em đó chính là
tình trạng các em tự tử. Hiện nay các nhà nghiên cứu chưa hoàn toàn thống
nhất kết luận, có nên gọi đó là hiện tượng trẻ em hư hay không. Vì rất nhiều
nguyên nhân phức tạp gây ra hiện tượng này. Ở đây chúng tôi chỉ nêu về mặt
số lượng để cùng tham khảo. Theo một công rình nghiền cứu đã thống kê
được, số lượng người tự tử trong những năm gần đây như sau:
1983: 4.295 người;
1984: 4.291 người;
1985: 3.761 người;
1986: 3.070 người;
1987: 3.205 người.
Trong số đó, số lượng trẻ em tự tử rất cao, số trẻ em tự tử dưới 15 tuổi
chiếm 44,9% (nữ 22%, tổng số người tự tử. Số các em từ 16 đến 25 tuổi
chiếm 22,47%, trong đó nữ chiếm 1215% tổng số người tự tử. Như thế, số trẻ
em tự tử chiếm tới hơn một nữ số ngời tụ tử; trong đói có những em đang học
trong các trường phổ thông).
Có thể kết luận chung rằng, những biểu hiện hư hỏng của trẻ em có thể
có rất nhiều, rất đa dạng. Các em có thể phạm hầu hết những thứ tội lỗi của
người lớn có thể phạm phải. Ở đây, chúng tôi xin nhấn mạnh đến một số
hành động tội phạm và một số hiện tượng xấu có liên quan đến đời sống giới
tính của các em.
– Trong những công trình nghiên cứu, hoặc báo cáo của các nhà khoa
học xã hội, hay ngành Công an, chúng ta đấu thấy có đề cập đến hiện tượng
trẻ em phạm tội mãi dâm và hiếp dâm. Có năm, toà án đã xử 10 trẻ em dưới
18 tuổi đã phạm tội hiếp dâm, trong đó có 5 vụ mà thủ phạm là những em
dưới 16 tuổi; thậm chí có em 15 tuổi đã hiếp dâm 11 lần (theo chính em khai).
Theo báo cáo của một cơ quan Công an tỉnh, có 4,7% tội phạm trẻ em dưới
17 tuổi phạm tội hiếp dâm, 18,2% phạm tội mãi dâm. Trong một đêm Noel có
3 vụ loạn dâm có nhiều em dưới 18 tuổi tham gia, trong đó có một vụ do một
em dưới 16 tuổi cầm đầu.
– Trong số những trẻ em tự tử có nhiều trường hợp các em tự tự vì tình
yêu tan vỡ. Có em gái 14 tuổi, đã có thai 5 tháng uống thuốc độc tự tử. Đặc
biệt có những em học sinh lớp 10, 11 đang đi học cũng tự tư do bị người yêu
phản bội. Có em nữ sinh lớp 10 tự tử chỉ vì cha mẹ la mắng, xấu hổ với bạn
bè.
Trong những vụ án giết người năm 1989 có 2 vụ các em giết nhau vì
ghen tương. Thậm chí, có trường hợp, một em cưỡng hiếp chị dâu không
được đã dùng dao giết chết chị dâu mình.
– Tình hình nạo phá thai và yêu đương ở các em tuổi vị thành niên
đang là một vấn đề đáng ngại. Theo số liệu của Trung tâm Dân số và Kế
hoạch hoá gia đình Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1986 có 6.191 ca nạo phá
thai cho các em dưới 20 tuổi, năm 1987 có 9.874 ca, năm 1988 có 11.801 ca.
Trong số đó có những em 16, 15, 14 tuổi, thậm chí có em dưới 14 tuổi. Trong
số những em nạo thai, có những em đang là học sinh trung học phổ thông,
hoặc trung học cơ sở. Tại Trường Trung học cơ sở Lý Nhân tỉnh Hà Nam,
trong một năm có tới 4 em học sinh có thai phải nghỉ học. Tại một trường
trung học phổ thông khác cũng có 4 em có thai (1 em tự tử còn 3 em bỏ học).
Trong báo cáo của phòng giáo dục của một huyện có nêu: trong hai năm học
(1988 – 1989) và (1989 – 1990) có 8 trường hợp học sinh lớp 8, 9 nghỉ học đi
lấy chồng và một trường hợp hai em học sinh lớp 9 lấy nhau, một trường hợp
nữ sinh lớp 9 lấy thông học lớp 12, một trường hợp nữ sinh lớp 10 lấy chồng
là giáo viên dạy mình ở trường trưng học cơ sở trước đây, một nữ sinh tự tử
do người yêu đi lấy vợ… trong năm 1989 ở huyện có 10 ca nạo thai cho các
em dưới 18 tuổi, trong đó có 2 nữ sinh. Những hiện tượngg phức tạp trên
không phải là hiếm.
Nhiều giáo viên đều có chung nhận xét rằng, tình trạng học sinh yêu
nhau ở trường trung học phổ thông (thậm chí có ở học sinh trung học cơ sở)
là tình trạng khá phổ biến. Trong một công trình nghiên cứu ở hai lớp 11 và
bốn lớp 12 ờ trường trung học phổ thông, có 9% học sinh nam và 8% học
sinh nữ ở lớp 11, 15% học sinh nam và 13% học sinh nữ ở lớp 12 đã có
người yêu. Nhưng trong một công tính khác nghiên cứu ở cả ba khối 10, 11
và 12, tỉ lệ học sinh có biểu hiện yêu đương còn cao hơn thế. Báo cáo của cơ
quan của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng có nhận định: ở các em gái có
hiện tượng yêu đương sớm, ngay cả khi các em còn đang học trường phổ
thông. Hiện tượng khá phổ biến, nhất là đối tượng học sinh trung học phổ
thông. Khi tiến hành điều tra ở một trường trung học phổ thông, có tới 43/97
em có quan điểm “nên yêu sớm” chiếm tỉ lệ 49,4%. Hiện tượng yêu đương
sớm trong học sinh cũng đã dẫn tới những hậu quả khá nghiêm trọng: ghen
tuông, đánh nhau, bỏ học đi lấy chồng, nạo phá thai, tự tử vì tình…
Qua nhiều công trình nghiên cứu và thực nghiệm, chúng tôi cũng thấy
rằng, ở trẻ em, và ngay ở học sinh trung học phổ thông đã có những biểu
hiện yêu đương sớm và cũng đã gặp phải những hậu quả tai hại do yêu
đương sớm gây ra. Hơn nữa, những hành vi yêu đương sớm và những nếp
sinh hoạt không lành mạnh đó không phải chỉ đơn giản do các em bị lường
gạt, dụ dỗ, không phải chỉ là những hành vi thụ động, mà còn là những hành
động xuất phát từ một nhận thức, một quan điểm sai lầm hoặc bệnh hoạn về
lối sống, lẽ sống, quan niệm sống.
Một biểu hiện hư hỏng rất cần phải chú ý nữa đó là tình hình đọc sách
báo và văn hoá phẩm có nội dung bạo lực, yêu đương lãng mạn, đồi trụy…
của trẻ em. Trong bài viết một đối tượng của văn học cần được báo động: trẻ
em” đăng trong Tạp chí Văn nghệ số 36, năm 1989, tác giả đã viết: “Trong
nhà trường thì đạo đức học sinh đang làm toàn xã hội phải e ngại. Kiểm tra
đột xuất một trường phổ thông cơ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh thấy trong
cấp các em có dao găm lớn nhỏ đủ loại, cả súng lục, tiểu thuyết không lành
mạnh in và chép tay rất nhiều, tranh ảnh khoả thân thì không thiếu”.
Trong một công trình nghiên cứu của chúng tôi ở các trường trung học
phổ thông, có tới 84,6% em học sinh lưu giữ sách báo về tình yêu lãng mạn,
sách đồi trụy khiêu dâm. Trong đó, 28,3% cho rằng số học sinh trung học phổ
thông đọc ở mức “khá nhiều” và “nhiều”; 97,5% số học sinh thừa nhận rằng
có xem “video đen”, 25,9% cho rằng học sinh xem “video đen” ở mức độ khá
nhiều. Bằng nhiều thực nghiệm và các phương pháp điều tra, chúng tôi có thể
kết luận rằng, các em xem đủ loại văn hoá phẩm, sách báo đồi trụy chép tay
(như những cuốn “Cô giáo Thảo”, “Chú Kim”…), sách về tình yêu, sách,
truyện tranh ma quái, khiêu dâm… chuyện yêu đương lãng mạn cũ (các tiểu
thuyết của Quỳnh Dao và tiểu thuyết in trước 1975), các tiểu thuyết lãng mạn
mới, các sinh vụ án viết lại với những tình tiết khiêu dâm hoặc mô tả cảnh làm
tình sống sượng…), các phim ảnh đồi trụy, các bài hát nhạc vàng ướt át, rên
rỉ về tình yêu tự do và thơ mộng. Đặc biệt trong học sinh trung học phổ thông
còn lưu hành những bản chép tay dạy cách bói toán, nhất là nói về tình yêu.
Chúng tôi đã sưu tầm được nhiều kiểu bói toán trong các em: bói theo nhảy
mũi, bói theo ngày kinh, bói theo sao… chủ yếu là tìm kiếm, mong đợi một
tình yêu lí tưởng, hoặc mong tìm cách phát hiện, tránh né những đau khổ,
trục trặc trong tình yêu.
Một biểu hiện hư khác có trong trẻ em, trong học sinh mới lớn là hiện
tượng gán ghép nhau thành từng cặp, hiện tượng quan hệ với bạn khác giới
thiếu lành mạnh, xô bồ, lợi dụng nhau, cặp kè với nhau từng đôi quá mức
thân thiết của tình bạn nhưng lại chưa phải là tình yêu. Đặc biệt là hiện tượng
nói năng thô tục, cử chỉ thiếu tế nhị hoặc không phù hợp với giới tính. Có một
số em còn học đòi ăn nhậu uống cà phê, hút thuốc lá theo kiểu chơi bời điệu
nghệ, hay đến nhà hàng, vũ trường, khiêu vũ, ăn chơi…
Như vậy đứng trên góc độ về đời sống giới tính và đời sống gia đình,
trẻ em của chúng ta cũng đã có thể có đủ những biểu hiện yêu đương và ăn
chơi” như người lớn. Nguyên nhân của tình trạng trên rất phức tạp. Các nhà
nghiên cứa đến thống nhất rằng, cần phải xét đến những nguyên nhân về cả
3 mặt: xã hội, gia đình và nhà trường. Trong một dịp khác, chúng tôi sẽ mãi
bày đầy đủ 3 loại nguyên nhân này. Ở đây, chúng tôi xin thì nêu một nguyên
nhân quan trọng trong nhà trường. Đó là việc thiếu quan tâm giáo dục những
tri thức về giới tính và đời sống gia đình cho học sinh.
Từ nhiều năm nay, chúng ta không quan tâm đến những tri thức này,
nhất là kiến thức về tình bạn khác giới, tình yêu, quan hệ cư xử với người
khác giới, tác phong, tư thế của người con trai, con gái, vẻ đẹp và việc làm
đẹp… mà đó lại là những vấn đề được các em quan tâm, trở thành nhu cầu
trong giao tiếp, trong cuộc sống đời thường của các em. Đó là những vấn đề
nảy sinh trong các em có tính quy luật bởi đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, bởi
sự phát triển tâm lí, bởi những điều kiện phức tạp của đời sống xã hội hiện
đại. Thế nhưng các em lại không ý thức được những điều đó, không hiểu biết
về thông và không có đủ khả năng làm chủ được bản thân. Vì thế, các em dễ
bị sa ngã, bị lôi kéo vào tội lỗi và rất dễ sai lầm trong hành vi.
Để khắc phục tình trạng trẻ em hư hiện nay, ngoài việc khắc phục, giải
quyết những nguyên nhân phức tạp về mặt xã hội, gia đình và nhà trường, có
một việc không thể thiếu: đó là trang bị cho các em những tri thức khoa học
về giới tính, và đời sống gia đình. Chỉ như thế, chúng ta mới giúp cho các em
có một bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội, vừa chống lại những
cám dỗ xấu xa có thể có do cuộc sống xã hội phức tạp tạo ra, vừa chống lại
những đòi hỏi, những dục vọng có tính bản năng có thể xuất hiện trong các
em do đặc điểm tâm sinh lí của chính lứa tuổi các em tạo nên.
Vấn đề 2MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG, TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về Giáo dục dân số Gia đình và giới tính
1991
Vấn đề giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh là một vấn
đề mới ở nước ta. Trong quá trình tiến hành thực nghiệm cũng như trong quá
trình nghiên cứu và xây dựng chương trình giáo dục này, có nhiều vấn đề
đang được các nhà nghiên cứu quan tâm: Nên dạy những gì cho học sinh và
sẽ dạy chương trình này cho học sinh như thế nào. Từ đó có một loạt vấn đề
được đặt ra:
– Trong nhiều vấn đề phong phú của nội dung giáo dục đời sống gia
đình và giới tính mà các nước đang áp dụng, chúng tạ lựa chọn những vấn
đề nào để dạy cho học sinh phổ thông Việt Nam? Nên dạy cho học sinh từ
lớp nào?
Nên dạy lồng vào trong các môn học có liên quan hay dạy thành môn
riêng.
Ban chỉ đạo đề án VIE/88/P09 Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố
Hồ Chí Minh đã tiến hành một cuộc điều tra thăm dò ý kiến của giáo viên và
học sinh về những vấn đề trên, để thực hiện có hiệu quả hơn những nhiệm vụ
của đề án do Ban Chủ nhiệm đề án Trung ương trao cho Ban Chỉ đạo đề án
Cụm các tỉnh phía Nam.
Cuộc điều tra này tiến hành trong cán bộ ngành giáo dục và giáo viên ở
các tỉnh phía Nam theo 3 đợt: Đợt 1 (192 giáo viên) và đợt 2 (169 giáo viên)
điều tra trong giáo viên chưa được huấn luyện, đợt 3 điều tra trong 137 cán
bộ quản lí giáo dục và giáo viên đã được dự các lớp huấn luyện về chương
trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính do Ban Chỉ đạo cụm và Ban Chỉ
đạo các tỉnh tổ chức. Đây là các giáo viên sẽ trực tiếp tham gia chỉ đạo và dạy
chương trình này ở trường phổ thông.
Các tài liệu thu được chúng tôi xử lí bằng toán thống kê, chủ yếu là
dùng Test T–Student đối với các nhóm độc lập để so sánh sự khác biệt.
Sau đây là một số kết quả điều tra.
I. NÊN DẠY CHO HỌC SINH NHỮNG NỘI DUNG NÀO TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH
Đây là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm. Để giải
quyết vấn đề này, chúng tôi đưa ra một hệ thống bài dự kiến sẽ dạy trong
chương rình Giáo dục đời sống gia đình để mọi người lựa chọn bài nào nên
dạy cho học sinh trong trường phổ thông.
1. Từ các phiếu của giáo viên, chúng tôi thu được kết quả như sau:
– Có những bài được đa số ý kiến của giáo viên và cán bộ giáo dục tán
thành (lựa chọn) trong cả 2 đợt điều tra 1989 và 1990 (trên 65%) đó là:
+ Gia đình và đời sống gia đình.
+ Trách nhiệm làm cha mẹ.
+ Trình nhiệm làm con.
+ Quản lí gia đình.
+ Luật hôn nhân và gia đình.
+ Giới tính và sự khác biệt nam nữ.
+ Tình người.
+ Tình bạn.
+ Hôn nhân.
+ Biến đổi tâm lí và sinh lí ở tuổi dậy thì.
+ Hiện tượng kinh nguyệt.
+ Tác hại của việc có thai ở tuổi vị thành niên.
Có những bài số ý kiến lựa chọn còn ít. Chúng tôi chỉ xin phân tích về
những bài này. Số liệu cụ thể được tính trong Bảng 1:
Bảng 1
Nội dung vấn đề Đợt 1 Đợt 2 Ý nghĩa
của sự Số
người % Số
người %
đồng ý đồng ýkhác biệt
Những vấn đề của vợ chồng
trẻ.28
14,5
817 10,06
Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh.27
14,0
611 6,5 +
Tình yêu. 48 25 28 16,57
Cơ quan sinh dục nam nữ.45
23,4
438 22,49
Sự thụ thai và phát triển của
thai.58
30,2
143 24,44
Những biện pháp phòng tránh
thai.62
32,2
956 33,14
Các bệnh lây lan qua đường
tình dục.38
19,7
927 15,98
Nhận xét:
– Kết quả nghiên cứu ở 2 đợt không có sự khác biệt có ý nghĩa ở hầu
hết các bài, tức là quan điểm của mọi người ở cả 2 đợt nghiên cứu giống
nhau. Chỉ riêng bài “Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh” ở đợt 2 thấp hơn đợt 1.
Điều này cho thấy dư luận của các giáo viên ở đây cho rằng bài này chưa cần
lắm đối với học sinh.
– Những bài “Các bệnh lây lan qua đường tình dục”, “Những vấn đề
của vợ chồng trẻ”, có tỉ lệ tán thành thấp hơn cả (từ 10,06 đến 19,79%). Còn
tất cả các bài khác có tỉ lệ cao hơn, nhưng tối đa chỉ từ 32,29% đến 33,14%,
điều này cho thấy:
+ Giáo viên còn e ngại khi dạy những bài này cho học sinh
+ Khi dạy các bài này, chúng ta phải thận trọng hơn.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng có thể do giáo viên chưa nắm hết nội
dung cụ thể của vấn đề nên có nhiều e ngại.
2. Để tìm hiểu kĩ hơn chúng tôi tiến hành điều tra trong học sinh:
a) Chúng tôi cũng để ta một loạt bài cho học sinh lựa chọn (chỉ đưa
những bài có nhiều ý kiến không thống nhất). Sau đây là kết quả thu được:
Bảng 2: Sự lựa chọn của học sinh về các bài
TT Tên bài
Đợt 1 Đợt 2 Ý nghĩa
của sự khác biệt
Số người đồng ý
%Số
người đồng ý
%
1 Cấu tạo cơ quan sinh dục
nam nữ32 15,38 71 19,20
2 Giới tính 78 37,5 132 35,77
3 Tình dục 11 5,2 18 4,8
4 Tâm sinh lí tuổi dậy thì 57 27,4 98 26,6
5 Hiện tượng kinh nguyệt 38 18,26 51 13,8
6 Sự thụ thai 16 7,6 35 9,4
7 Các biện pháp tránh thai 18 8,65 38 10,29
8 Tình bạn khác giới 99 47,59 213 57,72 +
9 Tình yêu 71 34,13 183 49,6 +
10 Hôn nhân và đời sống gia
đình90 43,26 132 35,77
11 Vần đề vợ chồng trẻ 22 10,57 42 11,38
12 Các bệnh lây lan qua đường
tình dục34 16,3 64 17,34
13 Vẻ đẹp và cách làm đẹp 98 47,11 151 51,8
14 Sự cư xử trong mối quan hệ
nam nữ118 56,73 194 52,57
15 Tình yêu trong tuổi học trò 91 43,75 173 46,88
Nhận xét:
– Nhìn chung kết quả trong hai đợt điều tra, đa số cho thấy sự lựa chọn
không có sự khác biệt cố ý nghĩa, tức là kết quá tương đương. Chỉ có 2 bài:
“Tình bạn khác giới” và “Tình yêu” ở đợt điều tra 1990 có sự khác biệt rõ rệt
so với đợt I, nhưng đó là tỉ lệ lựa chọn cao hơn.
– Một số bài có tỉ lệ lựa chọn khá cao (từ 26,6% trở lên) như bài: “Giới
tính”, “Tâm sinh lí tuổi dậy thì, “Tình bạn khác giới”, “Tình yêu”, “Hôn nhân và
đời sống gia đình”, “Vẻ đẹp và cách làm đẹp”, “Cách cư xử trong mối quan hệ
nam nữ, “Tình yêu trong tuổi học trò”. Đó là những bài được các em quan tâm
và chấp nhận.
Tuy nhiên, có một số bài, tỉ lệ lựa chọn thấp như: “Cấu tạo cơ quan sinh
dục nam nữ” (15,38 – 19,2%), “Hiện tượng kinh nguyệt” (13,8 – 18,26%),
“Vấn đề vợ chồng trẻ” (10,57 – 11,38%), “Các bệnh đường tình dục” (16,3 –